Trần Phương
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
449 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Trần Phương
-
Điều đáng nói là Nguyễn (Phúc) Ánh đã dựng nên một triều đại được xây bằng xương máu của chính đồng bào mình, kể cả những đòn trả thù tàn độc mà ngày nay khi nghĩ lại cũng thấy rùng mình và ngao ngán cho nhân tình thế thái. Giờ đây, thật đỏ mắt cũng khó mà tìm thấy được chứng tích còn nguyên vẹn của thành Hoàng Đế (nhà Tây Sơn) ở Bình Định, cá nhân tôi đã có dịp được nghe một số giai thoại và tận mắt chứng kiến (chứng tích) về thành Hoàng Đế, hiện nay người ta đã xác định được khoảng chu vi vòng thành, nhưng thật xót xa, những chứng tích ấy bị vùi lấp sâu trong đất đá mà ngày nay mọc ở trên nó là những bụi tre, những con đường làng ... Thật đúng là "Bình Định" (tên gọi Bình Định được có từ đó) Trong dân gian cũng ví von về cái sự "chạy" của Nguyễn Ánh trong lúc bị Tây Sơn truy đuổi, có người còn so sánh cái sự "chạy" đó với cuộc Vạn Lý Trường Chinh ở Trung Quốc nhưng "ngoạn mục" hơn nhiều, từ Phú Xuân xuống Gia Định, rồi tiếp là An Giang, rồi tít xuống Phú Quốc, rồi sang tận Xiêm nhờ che chở và cầu viện, rồi lênh đênh ở Côn Đảo, rồi gởi cả hoàng tử Cảnh làm con tin ("Gió đưa cây cải về trời - Rau răm ở lại chịu đời đắng cay" - Miếu bà Phi Yến ở Côn Đảo) ... :( Ngày nay, những ai đó "thanh minh" rằng việc "cõng rắn cắn gà nhà" của Nguyễn Ánh ngày xưa là "một việc bình thường" của thời cuộc, chỉ là "kêu gọi sự trợ giúp", ... thì quả thật là ngây thơ. Chẳng lẽ họ không biết là có một thỏa thuận về việc cắt vùng đất Hà Tiên giao cho vua Xiêm thời điểm đó à ? Chẳng ai giúp một việc gì không công cả, nhất là ngoại bang.
-
KHỔ THÂN TIẾNG VIỆT 29/11/2008 2:37 "Xin chúc mừng thí sinh X đã hoàn thành xong phần thi của mình...". Đó là câu nói khán giả đã phải nghe đi nghe lại rất nhiều lần trong mỗi đêm thi Ngôi sao tiếng hát truyền hình 2008, cũng như trong Cuộc thi người dẫn chương trình truyền hình 2008... Cụm từ "hoàn thành xong" nếu phải nghe trong cuộc sống thường ngày đã thấy rất nghịch tai. Nó giống như người ta đang cố tình nói sai tiếng Việt một cách bỡn cợt. Bởi vì hoàn thành là một từ Hán Việt có nghĩa là đã xong. Nếu đã hoàn thành thì tất nhiên không còn chuyện xong hoặc chưa xong. Trong đời thường, người ta dùng từ "xong" thuần Việt, nhưng trong các sinh hoạt văn hóa, từ hoàn thành được sử dụng để thêm phần trang trọng. Cụm từ hoàn thành xong rất vô nghĩa và cực kỳ chướng tai: nó sẽ được diễn dịch là "thí sinh X đã xong xong phần thi của mình". Có ai là người Việt lại nói tiếng Việt theo kiểu ấy không ? Ngay người dẫn chương trình trong cuộc thi tuyển MC đã nói sai như thế, thì những thanh niên nam nữ đang mơ ước nối gót nghề MC tất sẽ "học tập" và bắt chước nói sai theo. Liệu có thể trách ai bây giờ ? Nhiều phụ huynh đã rất khó chịu khi cứ phải nghe đi nghe lại câu nói sai này, bởi trong hàng triệu người xem tivi, có rất nhiều khán giả nhí. Người lớn sẽ không bị ảnh hưởng, bởi họ đã được học nói tiếng Việt một cách tử tế, nhưng các em bé, mới bắt đầu làm quen với ngôn ngữ Việt, lại thường hâm mộ những "gương mặt truyền hình", nghe như thế hẳn các em sẽ nhập tâm và sẽ bắt chước nói sai. Mà đâu chỉ các em bé. Chính các MC cũng đang "nhân rộng điển hình nói sai" này. Trong chương trình Đường lên đỉnh Olympia của Đài truyền hình Việt Nam, một chương trình được đông đảo học sinh và phụ huynh ưa thích, bệnh nói sai tiếng Việt này cũng đã tìm đến. MC nam của chương trình này cũng đã bắt đầu "thí sinh Y đã hoàn thành xong phần thi của mình". Còn ở Đài truyền hình TP.HCM, ngay trong chương trình Khám phá chữ Việt, một chương trình đề cao cái đẹp của tiếng Việt, MC nam cũng đã kịp "update" cụm từ "hoàn thành xong" này. Xin hãy chấm dứt kiểu nói sai vô lý này để gìn giữ được sự trong sáng của tiếng Việt! Camera Theo báo Thanh Niên : http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/200...1129023720.aspx --------------------------------------------------------------------------------------------- Trần Phương : Ôi trời, chỉ có một cụm từ "hoàn thành xong" như trên thì có gì mà bắt bẻ dữ vậy, tôi không nói là tác giả bài báo viết sai, nhưng thực ra còn có nhiều sự tinh tế trong tiếng Việt nữa mà chúng ta chưa thấy hết đó thôi. :( Đọc bài này mà Trần Phương tôi nhớ lại những tranh luận đã từng xảy ra một thời, cũng là đề tài giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, chẳng hạn như các biển báo ở các trạm điện : "CẤM không được lại gần", hay như ở công viên : "CẤM không được đi lên cỏ" (chữ "CẤM" viết lớn, có thể thấy từ xa, đến gần thì thấy chữ "không được", như vậy, đã "CẤM" sao lại còn "không" ?), ... Thú thực, đã là người Việt khi đọc những đoạn này thì ai mà chẳng hiểu nghĩa chứ, tuy trong cùng một câu nhưng có thể ngầm tách làm 2 vế để hiểu cùng 1 nghĩa chứ không phải là 2 vế của nó loại trừ nhau, cái tinh tế của tiếng Việt nằm ở chỗ đấy. Cũng như người ta hay nói "hai vợ chồng" là hiểu là 2 người rồi chứ chẳng lẽ lại hiểu là 4 người à ? Lại nữa, có ai nói 4 người là "vợ chồng vợ chồng" đâu, như cụm từ "hoàn thành xong" mà tác giả bài báo trên cho là "chướng tai" hay "bỡn cợt" : "thí sinh X đã xong xong phần thi của mình" Nếu theo ý của bài báo trên - những cụm từ như vậy là sai, là "bỡn cợt" - thì còn nhiều những câu thành ngữ nữa như "cao chạy xa bay" chẳng hạn (vì phải là "cao bay xa chạy" mới đúng chứ, hì ..), thực ra nó nằm trong sự tinh tế, ý nhị của tiếng Việt mà nhiều học giả khi phân tích chỉ một câu thành ngữ như vậy cũng hết hơn 5 trang giấy ... :D Tôi cũng xin dẫn một ví dụ : "thương thương quá" Nếu là "thương thương", thì chỉ "thương" chút chút, thương ít, ... nhưng "thương quá" thì lại là "thương" nồng nàn, say đắm, tức thương nhiều, rõ ràng là 2 vế loại bỏ nhau, làm sao để chung trong một cụm từ để hiểu một nghĩa là "thương nhiều" được, ... :( Cuối cùng, xin kết thúc bài mạn đàm hôm nay của tôi với trích đoạn trong bài thơ "Quê hương" của Giang Nam : QUÊ HƯƠNG Giang Nam Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ: "Ai bảo chăn trâu là khổ ?" Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao Nhớ những ngày trốn học Đuổi bướm cầu ao Mẹ bắt được... Chưa đánh roi nào đã khóc Có cô bé nhà bên Nhìn tôi cười khúc khích... Cách mạng bùng lên Rồi kháng chiến trường kỳ Quê tôi đầy bóng giặc Từ biệt mẹ tôi đi Cô bé nhà bên (có ai ngờ)! Cũng vào du kích Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi) ................................................ :P :lol:
-
Kính anh Hạt gạo làng, Ý của anh cũng trùng với ý của tôi đấy, thực sự thì bản thân cụm từ "hoàn thành xong" (thậm chí nói "Em đã hoàn thành đủ rồi ạ !") chẳng có gì là sai trái hay dư thừa về mặt ngữ nghĩa cả, cũng như khi ta nói "hai vợ chồng" chẳng lẽ lại bị bắt bẻ là 4 người chứ không phải 2 người à ? Còn nếu ai cố tình "không chịu hiểu" (là 2 người) thì tôi coi như người đó không phải là người Việt :( Và bạn Thiên Huy thân mến, Th mạn phép nói về dấu câu của câu: "Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi)" Sách in sai hay tác giả sai? Chúng ta phải hỏi ngay chính tác giả việc chấm phẩy. Theo Th nghĩ: Mắt đen tròn! Thương! Thương quá đi thôi! Không phải như vậy, Thực sự (theo tôi biết) thì cụm từ "thương thương quá" trong câu thơ trên là không có dấu, cái hay của câu thơ nằm ở chỗ ấy, sự tinh tế trong tiếng Việt cũng là ở chỗ ấy. Về hiểu nghĩa thì đúng như bạn đã tách vế như trên, nhưng về đọc thì vẫn liền liền một mạch, không ngắt quãng ... Có ai dám nói là không hiểu ý tác giả muốn nói gì không ? TH nhớ lúc mới vào năm đầu ĐH được học môn Tiếng Việt. Thoạt đầu TH nghĩ : Thật ngớ ngẩn! Sinh viên ngồi học môn tiếng Việt nhưng sau khi học xong môn này, TH biết chúng ta cần chuẩn hóa, định dạng trở lại cho sinh viên sau nhiều năm bị tạp nhiễm. Đáng tiếc nhiều trường đại học lại bỏ qua môn này!. Đúng là tiếng Việt cần chuẩn hóa, rõ ràng, xúc tích và gãy gọn, nhưng đó chỉ để thể hiện trong các văn bản hành chính hay trong các văn bản chính luận. Còn trong văn nói hay thơ ca, ... thì cứ hãy để tiếng Việt rung lên theo từng nhịp đập của mỗi trái tim - tâm hồn người Việt. Vài lời mạn đàm,
-
VĂN HÓA MẶC của đàn ông Việt cổ truyền Sẽ không hợp lý và cả hợp tình nữa, nếu không đề cập đến cách ăn mặc của người đàn ông Việt cổ truyền ở vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, một vùng văn hóa gốc và là cái nôi sinh thành dân tộc Việt. Cách ăn mặc của cư dân đàn ông trồng lúa ở đây, trước hết cũng vẫn là một ứng xử văn hóa trong việc thích ứng với thiên nhiên vùng châu thổ Bắc Bộ, vốn là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc, bao gồm lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã. Chẳng phải ngẫu nhiên mà ở đây có cả bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, với nhịp đi "hải hà", như câu thơ hay của một nhà thơ tiêu biểu trong trường phái thơ Xuân Thu Nhã Tập, có vẻ như muốn nói về sự luân chuyển của trời đất bốn mùa: Đây đĩa mùa đi nhịp hải hà. Tuy nhiên, hai mùa nổi bật nhất ở Bắc Bộ vẫn là mùa đông và mùa hạ, thể hiện nét đặc thù khí hậu thất thường của vùng này: gió mùa Hè nóng ẩm, hầm hập. Gió mùa Đông giá buốt, làm rét run cầm cập, cắt ruột cắt gan. Vì vậy, cả đàn ông đàn bà đều ưa màu sẫm, nhất là màu nâu đất, với các loại biến tấu, từ nâu non đến nâu già... Đàn bà đi làm bận váy thâm, áo nâu yếm nâu đã đành, đàn ông đi làm, trong lúc ứng phó với cái nắng nóng ghê gớm của châu thổ Bắc Bộ vào mùa hạ, khi lao động "hai sương một nắng" trên cánh đồng, thường để lưng trần cho "lộ thiên" hoàn toàn phần trên còn phía thân người dưới, thì đóng khố. Ngày nay, vào thời giao lưu với phương Tây, dân gian có câu giễu cợt thời bao cấp phân phối vải thật là hạn chế, đến mức "một yêu anh có may ô" vẫn cứ là... quá sang trọng, so với thời xửa thời xưa, đàn ông Việt thì "cởi trần đóng khố", còn đàn bà Việt thì "váy vận yếm nang", là những đồ mặc phổ biến nhất trong mùa nóng bức, khi cả đàn ông, đàn bà phải làm lụng "chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa". Thế nhưng, sau đó, cách mặc này lại được nâng cấp lên thành cái đẹp trong văn hóa mặc của người Việt cổ truyền. Đàn ông đóng khố đuôi lươn được coi là đẹp nhất trong cách mặc :) , ngang với đàn bà yếm thắm hở lườn... và nhất định như thế... mới xinh. Sau này, nam giới ít để lưng trần hơn, họ cũng mặc áo ngắn có hai túi phía dưới, lúc xẻ tà, lúc bít tà, với cách gọi của châu thổ sông Hồng là áo cánh, còn ở châu thổ sông Cửu Long, người Nam Bộ kêu là áo bà ba. Tuy nhiên đồ mặc phía dưới của nam giới với ban đầu là chiếc khố và đóng khố, sau đã phát triển thành chiếc quần (một phần cơ bản là do cuối thế kỷ XVII, để tạo nên sự đối lập với Đàng Ngoài, chúa Nguyễn đã lệnh cho trai gái Đàng Trong "dùng quần áo Bắc Quốc" (Trung Hoa) để tỏ sự biến đổi. Còn xa hơn nữa, ngay từ thời Bắc thuộc, phong kiến Trung Hoa đã muốn thay thế hoàn toàn đồ mặc phía dưới của người Việt bằng chiếc quần, cho cả nam lẫn nữ). Theo sách Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm thì nam giới người Việt là bộ phận dương tính tiếp thu chiếc quần vào văn hóa mặc sớm nhất và cũng nhờ thế mà chiếc quần thâm nhập ngày càng mạnh vào văn hóa mặc truyền thống của Việt Nam. Dĩ nhiên, người Việt vốn là một dân tộc thiết thực trong cách mặc, họ (nam giới) không bê nguyên bằng cách "sao y bản chính" chiếc quần "ngoại lai" mà họ đã "nội hóa", đúng hơn là đã "Việt hóa" nó thành chiếc quần lá tọa. Cũng theo mô tả của sách Cơ sở văn hóa Việt Nam ở trên, quần lá tọa của nam giới người Việt là một thứ quần ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần (lưng quần) to bản. Khi mặc, người đàn ông buộc dây thắt lưng ra ngoài, rồi thả phần cạp thừa phía trên rũ xuống lòe xòe ra ngoài thắt lưng (vì thế, gọi là lá tọa). Quần lá tọa, do đó tuyệt đối thích hợp với khí hậu nắng nôi nóng bức của Việt Nam, bởi ống rộng nên đàn ông mặc nó mát mẻ không kém gì đàn bà Việt mặc váy. Sáng kiến này còn làm cho đàn ông Việt khi mặc loại quần thoáng mát này, đã "đa dạng hóa" được loại hình lao động, bởi nhờ có cái quần đũng sâu mà các ông có thể điều chỉnh dễ dàng cho ống quần cao thấp bằng cách kéo cạp quần lên cao hoặc tiện thoải mái trên các loại ruộng cạn, đồng sâu, ruộng khô, ruộng nước... Xem ra nếu quần lá tọa đã tuyệt nhiên thích hợp với nam giới trên cánh đồng thì trong khi đi trảy hội, hoặc tham dự lễ lạt, người đàn ông Việt đã phải chế ra một loại quần khác. Đó là quần ống sớ: màu trắng, ống hẹp, đũng cao gọn ghẽ hơn, mà cũng dễ coi hơn là quần lá tọa. Cũng phải vậy thôi, vì nam giới người Việt cũng thực thi những nguyên tắc cổ truyền của dân tộc trong cái khéo ăn khéo mặc: khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Đó còn là cái cốt lõi của văn hóa ứng xử với đồ mặc, của người Việt trong sự ứng phó linh hoạt với môi trường tự nhiên. Và trong sự phát triển về văn hóa mặc của đàn ông Việt cổ truyền, về sau này, đàn ông Việt vào dịp hội hè đình đám, đã tiến tới mặc áo dài, thường là áo the thâm. Nam giới ở tầng lớp thượng lưu còn mặc cả áo dài trong sinh hoạt hàng ngày nữa... (Thể thao- Văn hóa 6/7/1999) Theo : http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/vanhoa/0002/9999/mac.htm
-
Cuộc thi Mister International 2008 Ở trần mặc khố là... trang phục truyền thống!? (Thứ sáu , 21/11/2008, 10:46) Tiến Đoàn trong bộ “trang phục dân tộc” Hùng ca chim Lạc (ĐSCT) Cuộc thi Nam hậu Quốc tế (Mister International) 2008 đang diễn ra tại Đài Loan (từ ngày 15 đến 25-11-2008) với gần 50 thí sinh đến từ khắp thế giới để giành danh hiệu Nam hậu của cả hành tinh. Siêu mẫu Ngô Tiến Đoàn - Nam hậu Việt Nam 2006, người có hình thể đẹp nhất Manhunt International 2007 (Hàn Quốc) - đã đại diện Việt Nam dự cuộc thi này và anh gặp ngay một vài sự cố nho nhỏ như bị “cầm nhầm” hành lý, bị lạc đường... Trước lúc lên đường, Tiến Đoàn cũng chuẩn bị sẵn một tiết mục múa, nghiêm túc học ngoại ngữ để giới thiệu văn hóa và thời trang Việt đến bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, xuất hiện tại buổi đón tiếp thí sinh Mr International 2008 của Ban tổ chức ở Đài Loan vào ngày 17-11, Tiến Đoàn đã thực sự gây “sốc” cho mọi người khi nam siêu mẫu này mặc bộ “trang phục truyền thống” do tự tay anh thiết kế và đặt tên rất kêu là Hùng ca chim Lạc. Trong khi yêu cầu của Ban tổ chức trong buổi trình diễn trên là các thí sinh mặc trang phục truyền thống nhằm mục đích giới thiệu về dân tộc mình thì với Hùng ca chim Lạc, Tiến Đoàn lại xuất hiện trong “bộ cánh” cởi trần, đóng khố! Chỉ duy nhất một mình anh cởi trần khoe hình thể giữa gần 50 thí sinh mặc những bộ trang phục dân tộc của họ rất trang trọng. Theo chàng người mẫu này thì bộ “trang phục dân tộc” Hùng ca chim Lạc lấy ý tưởng từ người Việt Nam là hậu duệ các vua Hùng nên Hùng ca chim Lạc thể hiện tinh hoa, tinh thần tự hào dân tộc! Bộ trang phục “truyền thống” này gồm... chiếc khố thêu hoa văn, mũ có hình chim Lạc và áo choàng có hình ảnh trống đồng cùng một số “phụ kiện” kèm theo! Trong đêm các thí sinh Nam hậu Quốc tế 2008 ra mắt, Tiến Đoàn thật sự “nổi bật” vì anh là người duy nhất cởi trần đóng khố nhờ đó khoe được vẻ đẹp hình thể! Tiến Đoàn, Nam hậu Việt Nam 2006, người có thể hình đẹp nhất Manhunt International 2007 Đáng nói ở đây là đã có sự nhầm lẫn về khái niệm “trang phục truyền thống” với trang phục cổ xưa. Hầu hết các dân tộc cổ xưa trên thế giới đều trải qua thời kỳ sơ khai mặc khố, ở trần, vì vậy không thể cho rằng chiếc khố là “trang phục truyền thống” của người Việt Nam. Khi nói “trang phục dân tộc, truyền thống” người Việt Nam ai cũng nghĩ đến áo dài, áo tứ thân, áo bà ba... Chẳng ai nghĩ đến chiếc khố bao giờ! Sẽ ra sao nếu chiếc khố xuất hiện ở những nơi trang nghiêm, trong các cuộc hội họp quan trọng buộc mọi người mặc trang phục dân tộc? Có thể định nghĩa trang phục truyền thống là thời trang mang tính văn hoá của một quốc gia, nó khẳng định sự thịnh vượng của đất nước, mang bản sắc dân tộc... Như khi nói đến Nhật Bản là nghĩ ngay đến kimono, nói đến nước Campuchia là nghĩ ngay đến xà-rông, nói đến Việt Nam là tất nhiên nhớ đến chiếc áo dài... Bên cạnh việc “khoe hình thể” trong bộ Hùng ca chim Lạc khá “thoáng”, Tiến Đoàn dường như “chữa cháy” bằng cách chọn môn thi tài năng là vẽ tranh. Anh tiết lộ rằng sẽ vẽ một miền Tây Nam Bộ với ruộng lúa bạt ngàn, hàng dừa cao vút, đàn cò bay trên dòng sông Tiền, sông Hậu hiền như... đất. ANH HỒ http://www.congan.com.vn/van_hoa_nghe_thua...081120.98677.ca
-
Phải chăng để đáp ứng sự trông chờ đó mà có Hội thảo khoa học về “chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn” ngày 18 và 19 tháng 10 năm 2008 tại Thanh Hóa - nơi phát tích của nhà Nguyễn - nhân kỷ niệm 450 năm Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa và sau đó là Quảng Nam, mở đầu một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của dân tộc. Đúng như Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam nhấn mạnh: “việc nhìn nhận, đánh giá lại chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn ngày càng trở thành một nhu cầu, đòi hỏi bức thiết, đầu tiên là của giới sử học, sau đó là của tất cả những nhà khoa học xã hội, và trở thành đòi hỏi của xã hội ”. Vì rằng, mặc dầu “triều Nguyễn đã để lại một di sản khổng lồ, vĩ đại mà không triều đại nào trong lịch sử có thể sánh được” nhưng ngót một thế kỷ qua, sự thật lịch sử đó đã bị vùi lấp. Đó là một bi kịch lịch sử lớn. Muộn rồi, hơi thừa, chuyện này dân ta đã công nhận từ lâu. Nguyên nhân của bi kịch ấy có nhiều, song đúng như phân tích của Gs. Phan Huy Lê “về sử học thuần túy, đó là thời kỳ mà nền sử học Macxít đang hình thành, nên sự ấu trĩ, giáo điều, công thức buổi đầu là không tránh khỏi”. Cùng với vấn đề phương pháp luận sử học của các nhà nghiên cứu, cần phải nói thêm là việc tồn tại thói độc quyền tư tưởng, áp đặt tư duy, tùy tiện quy kết của một số người có quyền, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa đã là nguyên nhân trực tiếp và kéo dài khiến cho nhiều sự thật lịch sử đã không được trình bày một cách khách quan, trung thực. Theo cách nói của Phạm Văn Đồng thì đó là “lấy lòng mong muốn thay cho thực tế. Trong cách nghĩ và cách làm sai lầm này, điều nguy hiểm nhất là bất chấp quy luật của lịch sử”. Với sự nghiệp Đổi mới, từ sự đổi mới tư duy về kinh tế mà đổi mới về tư duy nói chung để thấy ra sự phi lý của những quan điểm chính thống “quay lưng lại với bao sự thật hàng ngày diễn ra trước mắt mình để lao vào những sai lầm với những giá đắt phải trả. Rõ ràng đây là một sự thiếu sáng suốt trong nhận thức và hành động, trong lý luận và thực tiễn”. Những quan điểm gọi là chính thống ấy khi áp đặt vào việc biên soạn sách giáo khoa sử học cũng như từng áp đặt cho các công trình nghiên cứu lịch sử thì “những giá đắt phải trả” là khó mà có thể đo đếm được. Khi một cái giả biến thành cái thật, được đem rao giảng cho thế hệ trẻ thì khác nào chất axít gậm nhấm tâm hồn lớp trẻ, làm sao đo đếm được cái chất axít gậm nhấm tâm hồn ấy? Sự thật lịch sử bị vùi lấp, tệ hơn, bị xuyên tạc do nhiều động cơ và nguyên nhân khác nhau, nhưng cho dù bởi bất kỳ lý do gì, thì cũng làm giảm sút hay làm nao núng lòng tin của lớp trẻ vào những trang lịch sử hào hùng của dân tộc, hun đúc nên lòng tự hào dân tộc, chất ximăng kết dính những tâm hồn Việt Nam, tạo nên sức mạnh Việt Nam để phấn đấu bứt lên thoát khỏi nổi nhục nghèo nàn và lạc hậu để sánh vai cùng thế giới Chẳng có sự thật lịch sử nào bị vùi lấp cả, vẫn còn đó những anh hùng dân tộc : vua Hàm Nghi - Thành Thái - Duy Tân, các tướng lĩnh Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, ... Còn về vua Tự Đức, ông đã sống những ngày cuối đời với bao u uất ở Khiêm Lăng, những u uất của một vị vua mang tội bất hiếu vì đã không có con, trong khi chính ông là một vị vua có lòng hiếu đễ nhất trong lịch sử VN. Về vận nước, trên tấm bia đá ở Khiêm Lăng do chính ông giải trình về con người và cuộc đời của một vị vua, công - tội của ông cứ hãy để người đời sau trà dư tửu hậu, còn sự mất nước hoàn toàn vào tay thực dân Pháp năm 1884 thì bản thân ông cũng đã trần tình và xin hậu thế hãy tha thứ. Về trường hợp cụ Phan Thanh Giản, sự tuẫn tiết của cụ đã trả lời tất cả, minh triết và tâm hồn Việt cũng đã tha thứ tất cả. Dòng chảy lịch sử của dân tộc vẫn tiếp nối. Nhưng, xin quý vị ở đây hãy cho ý kiến, rằng nếu đây đó vẫn có nhận xét rằng : cái chết của cụ là một sự trốn tránh trách nhiệm, thì có phải là xuyên tạc lịch sử không ? Dù thế nào chăng nữa, sự khách quan và trung thực của lịch sử thời nhà Nguyễn chưa bao giờ bị phủ nhận hay vùi lấp cả.
-
=============================================== Theo các nhà nghiên cứu, ai vào xem Topic này mà là nữ giới thì người đó đang nhận được một lời chúc tốt lành nhất từ Trần Phương nhân dịp Ngày phụ nữ Việt Nam 20/10, hi .. :unsure: Người Trung Quốc ngày xưa gọi người đứng đầu quốc gia mình, tức vua, là Thiên Tử, có nghĩa là "con trời", ghê thật, ... nhưng người Việt mình thì lại có câu : "Nhất vợ nhì trời", hi ...
-
.
-
ĐỊA NGỤC CÓ HAY KHÔNG ? Bangkok Thailand, ngày 23/11/2001 Khi con ngủ và đang trải qua cơn ác mộng Con có đau đớn hay không? Khi con đau đến mức không chịu nổi Thì Phật của con cho con một ân-huệ Đó là sự thức tỉnh và con biết rằng mình mơ Những điều con nghĩ ác và làm ác Con kheo che dấu không ai biết Nhưng nó sẽ hiện ra trong giấc mơ thành cơn ác mộng Con thấy rất đau khổ về các cách thức bị trừng phạt Giống hệt như lúc bình thường chưa ngủ Cũng vậy Sống trong đời Nếu con nghĩ, nói và làm những điều ác Tự nhiên địa ngục hình thành Và chắc chắn con phải rơi vào ấy! Địa-ngục vốn không có Nhưng chính con đã tạo ra Con phải trả giá khổ đau trong địa ngục ấy Không ai có thể cứu con được Dù cho con có hối lộ hàng ngàn tăng bằng hình thức cúng trai tăng Và nếu con cứ tiếp tục nghĩ , nói và làm ác Thì địa ngục tự nhiên biến thành nhiều tầng Con khó mà thoát ra lắm! Con phải làm việc từ thiện để diệt lòng tham Con phải kiên-nhẫn chịu đựng trước chướng ngại để diệt sự nóng giận Con phải phát tâm giải thoát cho chúng sanh khỏi khổ đau Con phải làm ba việc ấy thường xuyên Là con thực hiện đời sống có giơí luật, có thiền định và có trí-huệ. Bằng con đường ấy Con biến địa ngục thành thiên-đường! Duy-Tuệ
-
Những câu dịch tiếng Việt 'kinh dị' của Google Translate Nếu người học ngoại ngữ vẫn nói đùa "vô tư đi" là "no four go" hay "thích thì chiều" là "like is afternoon" thì công cụ chuyển ngữ của Google cũng đang trêu ngươi người sử dụng bằng kiểu dịch tương tự. Dịch thế này thì ... bó tay. Miễn bàn. Google Translate chọn từ rất "đắt". Đời rất... tí. Với Google, ngoại tình là "tư tưởng ngoại". Google không hiểu "tình" là gì? Enjoy the afternoon cũng giống như cách dịch "like is afternoon". Google không dịch từ "ruồi", còn "mật" tương đương với "chính sách". ... Tôi too khờ!!! "Bỏ mặc vui buồn, bỏ mặc ai" nghĩa là "cởi quần áo của ai đó". Lê Nguyên (Theo Vnexpress) :) :P :lol: :lol: :lol: :lol: :lol: :lol:
-
XIN GIỚI HIỆU BÀI NGHIÊN CỨU CỦA TS PHAN QUỐC ANH - PGĐ SỞ VĂN HÓA THÔNG TIN TỈNH NINH THUẬN : Những nghi lễ vòng đời người Để tiếp xúc và cầu khẩn thế giới thần linh, từ thời nguyên thủy, con người đã từng bước tạo nên những nghi lễ và phát triển thành hệ thống. E.B. Tylor trong công trình Văn hóa nguyên thuỷ đã dành một chương lớn viết về nghi lễ và lễ nghi. Theo ông, nghi lễ là: “Phương tiện giao tiếp với những thực thể linh hồn” [1] và: “Tốt nhất có lẽ nên đặt niềm tin vào các thực thể tinh thần (Spirituels) như một định nghĩa tối thiểu về tôn giáo” [2]. Thông qua nghi lễ, những người đang sống ở cõi trần cầu cúng thần linh ở thế giới siêu nhiên những khát vọng cho cuộc đời của mỗi con người. Còn A.A. Radugin - một nhà văn hóa học Nga đã nói về nghi lễ như sau: “Nghi lễ xuất hiện trong thần thoại học nhằm thể hiện mối quan hệ hữu hiệu giữa cuộc sống thường ngày với siêu nhiên (linh hồn tổ tiên, thần thánh, ma quỷ, số phận v.v…). Nghi lễ được truyền lại không chỉ trong tôn giáo mà đi vào cả cuộc sống thường ngày, đặc biệt là trong nền văn hóa dân gian truyền thống. Tại đây, nghi lễ là di tích còn sót lại của thần thoại” [3]. Theo nhu cầu của đời sống tâm linh, ứng với tâm lý vừa sợ sệt, vừa mong muốn sự ban ơn của thần linh, con người đã hình thành nên hệ thống tín ngưỡng và kèm theo đó là hệ thống nghi lễ. Các nhà nghiên cứu văn hóa đã chia ra nhiều loại hình nghi lễ khác nhau: Hệ thống nghi lễ nông nghiệp cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; hệ thống nghi lễ trong tín ngưỡng ngư nghiệp; hệ thống nghi lễ theo tín ngưỡng tổ nghề, nghi lễ thờ tổ tiên, nghi lễ cộng đồng tôn giáo và hệ thống nghi lễ vòng đời. Nghi lễ vòng đời người theo GS.TS. Ngô Đức Thịnh là “những nghi lễ liên quan đến cá nhân, từ khi sinh ra đến khi chết” [4]. Nghi lễ vòng đời là cách ứng xử của cộng đồng người đối với một cá nhân, cũng là sự ứng xử đối với toàn bộ xã hội và toàn bộ thế giới tự nhiên bao quanh con người. Nghi lễ vòng đời người là nghi lễ mà gia đình, tộc họ, cộng đồng tôn giáo thực hiện cho mỗi con người. Vì vậy, nghi lễ vòng đời không chỉ liên quan đến một con người, mà liên quan đến cả cộng đồng. Nghi lễ vòng đời người thể hiện sự lo lắng, chăm sóc lẫn nhau để bảo toàn giống nòi và bảo toàn xã hội loài người. Nếu như những lễ nghi nông nghiệp là sự ứng xử của con người với cái tự nhiên ngoài ta (ngoài con người) thì những nghi lễ vòng đời là sự ứng xử với cái tự nhiên trong ta (trong con người). A.V. Gennep, tác giả cuốn Nghi lễ của sự chuyển tiếp [5], một cuốn sách kinh điển về nghi lễ tuân thủ theo chu kỳ đời người, phân tích khá sâu sắc những nghi lễ liên quan đến những thời kỳ chuyển tiếp, có tính quyết định đời sống xã hội của một con người. Ông đã khái quát một cách đầy đủ và khoa học về nghi lễ vòng đời người, trong đó ông phân biệt tầm quan trọng của 3 giai đoạn: sinh, trưởng thành và tử. Các nhà khoa học đánh giá cao về cơ sở lý thuyết mang tính khái quát của A.V. Gennep, bởi vì nó phù hợp với quan niệm và mục đích ý nghĩa của các nghi thức chuyển trong một đời người của các dân tộc, các tôn giáo. Trong mỗi giai đoạn lớn, A.V. Gennep lại chia ra 3 giai đoạn nhỏ khác nhau: Mỗi giai đoạn có 3 thời kỳ, tách biệt với thời kỳ trước, bước đầu hội nhập và hội nhập vào thời kỳ tiếp sau. 1. Sinh: chửa, đẻ và tuổi sơ sinh, tuổi thiếu niên; 2. Trưởng thành: tuổi thiếu niên, lễ thành đinh và hôn nhân, tuổi con người cộng đồng; 3. Tử: lên lão, sự chết đi đối với tang ma và cuộc sống ở thế giới bên kia. Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo có các nghi thức chuyển tiếp khác nhau. Người Chăm Ahiêr, do ảnh hưởng của tôn giáo Bàlamôn trộn lẫn với văn hóa bản địa nên các nghi thức chuyển tiếp có sắc thái riêng, nhưng khi khái quát cũng có thể theo cơ sở lý thuyết của A.V. Gennep: 1. Giai đoạn sinh có những kiêng kỵ trước và trong thời kỳ mang thai, các lễ thức trước, trong, sau khi sinh và các lễ thức khác nhau cho đến trước tuổi trưởng thành; 2. Giai đoạn trưởng thành cũng có các lễ thức đánh dấu thời kỳ trưởng thành và các nghi lễ cưới; 3. Giai đoạn tử có các lễ thức dành cho người chết, các nghi lễ tang ma và sau tang ma. Vì vậy, chúng tôi chỉ vận dụng cách chia các giai đoạn về các nghi thức chuyển tiếp trong vòng đời người của A.V. Gennep vào các nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr. Còn đối với các nghi lễ cụ thể tác giả xin phân tích trên cơ sở các nghi thức riêng có của người Chăm Ahiêr, để từ đó tìm ra sắc thái văn hóa Chăm. Các nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr [6], từ thời gian, không gian, chủ lễ, động tác hành lễ, các lễ thức, lễ vật vừa phong phú, phức tạp và khó hiểu nhưng lại biểu hiện một cách nhất quán những quan niệm. Để đi sâu nghiên cứu, giải mã những sự vật, hiện tượng, biểu tượng trong các nghi lễ, chúng tôi tìm hiểu và trình bày những nhận định của mình về quan niệm về vũ trụ, về thế giới sống, về linh hồn, vía, hồn ma, về thế giới chết, quan niệm vòng luân hồi và sự giải thoát. Đây cũng chính là những tư tưởng triết lý về không gian, thời gian tâm linh đã gắn chặt vào máu thịt, tâm hồn, tình cảm của người Chăm Ahiêr, làm cơ sở cho sự nhất quán trong nội dung cũng như hình thức thực hiện các nghi lễ vòng đời người. I. QUAN NIỆM VỀ VÒNG ĐỜI CỦA NGƯỜI CHĂM AHIÊR 1. Vài nét về vũ trụ luận - Về đấng tạo hóa: Người Chăm với chế độ mẫu hệ luôn coi mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar là đấng tạo hóa ra vũ trụ và sự sống của muôn loài (khác với kinh Vê đa, một tôn giáo phụ quyền, Brahma là thần sáng tạo tối cao). Và, với quan niệm lưỡng hợp âm - dương (yin - yang), bên cạnh thần mẹ xứ sở (âm) có thần Yang Pô, Yang Amư (thần trời, thần cha - dương) cũng được coi là đấng tạo hóa, còn Pô Păn là thần cai quản các thần, trông coi công việc thiên giới. Trong hầu hết các nghi lễ Chăm, ba vị thần trên luôn được thỉnh mời đầu tiên. Những đấng tạo hóa này sinh ra ba tầng vũ trụ: thiên - địa - nhân. Quan niệm về ba tầng vũ trụ của người Chăm rất rõ ràng, thể hiện ở trong bùa chú, trong các nghi lễ dân gian, nghi lễ tôn giáo và cả trong những lễ vật dâng cúng mà chúng tôi sẽ trình bày ở chương sau. - Quan niệm âm - dương lưỡng hợp: thể hiện rõ trong đời sống tín ngưỡng người Chăm, thể hiện từ màu sắc sáng tối cho đến hình dạng của từng vật thể nhỏ nhất. Một số cặp âm - dương theo quan niệm của người Chăm Ngoài biểu tượng phồn thực linga - yoni mang tính đặc trưng về quan niệm âm dương của người Chăm theo Shiva giáo, tư duy xưa nay của người Chăm Ahiêr thể hiện nhất quán quan niệm âm - dương lưỡng hợp. Nếu có ngọn tháp tượng trưng cho núi (dương) thì phải có một hào rãnh hay một cái gì tượng trưng cho biển (âm). Tháp là biểu tượng linga, rãnh là yoni và hàng loạt các cặp âm - dương như: Ngày (harei - dương) - đêm (mưlơm - âm); mặt trời (aditiak - dương) - mặt trăng (channưk - âm); chẵn (yơw - âm) - lẻ (cauh - dương); phải (dương) - trái (âm); chỉ riêng trong cộng đồng người Chăm Ahiêr, nếu như lễ Katê (lễ cúng cha - dương), phải vào tháng 7 “nam thất” thì lễ Chabur (lễ cúng mẹ - âm), phải vào tháng 9 “nữ cửu”; thượng tuần trăng (dương) - hạ tuần trăng (âm) v.v… Thậm chí hai tôn giáo chính của người Chăm cũng được quan niệm là “lưỡng thể nhất hợp”: tôn giáo Bàlamôn (ahier) được coi là biểu tượng dương, tôn giáo Bàni (awal) được coi là biểu tượng âm. Lịch của người Chăm awal được tính theo chu kỳ của mặt trăng là lịch âm (Sakawi awal), lịch của người Chăm ahiêr tính theo chu kỳ vận động của mặt trời là dương (Sakawi ahier). Lịch Chăm có 8 can được chia làm hai: 4 can thuộc về dương và 4 can thuộc về âm. Lễ hội Katê của người Chăm Ahiêr được coi là lễ hội thuộc dương, phải vào tháng 7 (tháng 7 thuộc dương theo quan niệm “nam thất nữ cửu”), còn lễ Ramưvan của người Bàni lại được coi là thuộc âm, phải vào tháng 9 theo Chăm lịch; có lễ Palao pasah (cầu đảo tại cửa sông - âm), lại có lễ Pakâp halâu kraung (lễ chặn đầu nguồn sông - dương); có lễ cúng tạ thần lửa ở trên tháp (dương) lại có lễ cúng biển (cầu đảo) ở cửa biển (âm). Ngay trong tôn giáo Bàlamôn, lễ hội Katê là lễ cúng cha (dương) nên phải cúng vào buổi sáng (dương của ngày) và cúng món chay, lễ Chabul là lễ cúng mụ, phải vào buổi chiều (âm) và cúng món mặn. Lễ cưới thuộc âm (mẫu hệ) nên đón rể và lễ cưới phải vào buổi chiều, phải vào giờ âm trong ngày và phải vào hạ tuần trăng (âm của tháng). Các chức sắc Bàni là đàn bà (không được để râu), nhưng trong trang phục lại đeo biểu tượng dương, ngược lại, chức sắc Bàlamôn (để râu) là đàn ông nhưng lại đeo biểu tượng âm vật. Ông thầy Bàlamôn khi làm lễ khấn vái thần linh phải chụm hai ngón tay cái và hai ngón tay trỏ vào với nhau để tạo hình tam giác, khi bịt đầu, ông thầy phải cuốn khăn hình tam giác. Ngược lại, ông thầy Char (chức sắc Bàni) lại đội một cái mũ rộng (plah) là biểu tượng bầu trời (dương). Người Chăm quan niệm rằng ông thầy thuộc dương thì phải làm lễ cho âm, ông thầy thuộc âm thì phải làm lễ cho dương. Theo quan niệm ấy, âm và dương là hai yếu tố hài hòa tạo nên tự nhiên và sự sống. - Về phương hướng: Người Chăm rất chú trọng về phương hướng và cũng tuân thủ quan niệm âm - dương. Người Chăm quan niệm hướng đông là hướng mặt trời mọc, là hướng của sự sống (dương). Vì vậy, gần như tất cả các tháp Chăm cũng như khuôn viên nhà cổ truyền đều có cổng hướng về phía đông. Ngược lại, hướng tây là hướng “chết” (âm) nên trong nhà lễ tang, hai cây chà gặt phân ranh giới đông - tây. Điều này phù hợp với quan niệm của hầu hết các dân tộc khác trên thế giới, cho rằng hướng “sống” là phía mặt trời mọc. Hướng chết là hướng mặt trời lặn “khuất núi”. Linh hồn người chết bao giờ cũng đi theo hướng mặt trời lặn. Về hướng bắc - nam trong quan niệm của người Chăm khá phức tạp. Tư liệu điền dã của tác giả cho thấy, trong nghi lễ sinh đẻ, khi người mẹ sinh con phải ngồi quay đầu về hướng bắc, để cho đầu thai nhi lọt ra về hướng nam (hướng “sống” - dương). Trong nghi lễ tang ma, người chết cũng được đặt đầu quay về hướng nam nên nhiều bài viết cho rằng người Chăm quan niệm hướng nam là hướng “chết”. Theo suy luận của chúng tôi, quan niệm về phương hướng trong nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn tuy phức tạp nhưng nhất quán, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tuân thủ theo vòng luân hồi. Khi sinh đẻ, thai nhi quay đầu hướng nam (hướng sự sống cho người sống) và đến khi chết, người chết lại được đặt quay đầu về hướng nam (hướng chết đối với người chết, nhưng cũng là hướng sống vì tang lễ là lễ “tái sinh”). Đứa trẻ khi sinh ra quay đầu hướng nam để rồi đến khi chết cũng vẫn quay đầu hướng nam tiếp tục vòng luân hồi. Vì vậy hướng nam vừa là hướng “sống” (cho người sống) vừa là hướng “chết” (cho người chết) và với quan niệm tái sinh thì đó lại là hướng “sống” (đầu thai sang thế giới bên kia). Điều này phù hợp với quan niệm âm dương chung: hướng nam là hướng dương. Những đặc điểm vũ trụ luận của người Chăm Bàlamôn chi phối sâu sắc quan niệm về tín ngưỡng vòng đời. 2. Quan niệm về cuộc sống Người Chăm từ xa xưa đã coi cuộc sống trên trần gian là một nơi cư ngụ tạm bợ. Họ quan niệm mọi người từ thế giới bên kia đến cõi trần như “một chuyến đi buôn” rồi lại về thế giới bên kia, thế giới vĩnh hằng. Trong văn hóa dân gian Chăm, có một Ariya (tráng ca) nổi tiếng là Ariya Nau Ikak (cuộc đời như một chuyến đi buôn) [7]. Tráng ca này mượn hình ảnh cây đàn kanhi dùng trong nghi lễ tang ma Chăm để miêu tả vòng đời người Chăm từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Hình tượng của tác phẩm nói về cuộc đời như “một chuyến đi buôn” ngắn ngủi của con người, miêu tả đứa bé lúc lọt lòng, lớn lên lấy vợ lấy chồng, tả con người khi già yếu bệnh hoạn và nghi lễ tang ma bằng tiếng nhạc của cây đàn kanhi ai oán trong lễ hỏa táng của người Chăm Bàlamôn [8]. Người Chăm xưa còn có một câu đố, đồng thời cũng là một câu thành ngữ đặc sắc miêu tả động tác đi của con người ở các giai đoạn của vòng đời người: Page nau pak, pađiak klak nau dwa, bia harei nau klơw (Sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, chiều lại đi ba chân) [9]. Có lẽ vì quan niệm cõi sống là cõi tạm, cõi chết và sự giải thoát mới là đích con người hướng tới nên trong nghi lễ vòng đời người Chăm, những nghi lễ khi con người còn sống (trừ nghi lễ cưới xin) không được coi trọng: nghi lễ sinh đẻ không còn dấu ấn của giáo lý Bàlamôn mà chủ yếu là tín ngưỡng bản địa. Khác với Bàlamôn giáo, người Chăm Bàlamôn coi nhẹ lễ thức trưởng thành, không có lễ thượng thọ trong khi lại rất coi trọng nghi lễ tang ma. Người Chăm rất coi trọng con số, đặc biệt là những con số 3 - 5 - 7 - 9. Những con số này thường xuyên xuất hiện trong các nghi lễ nhưng với những nguyên tắc chặt chẽ và nhất quán, thể hiện ở số lượng, chất liệu, tính chất lễ vật, đồ cúng tế, công cụ làm lễ, số lần khấn vái và các động tác hành lễ, thậm chí thể hiện ở cả số lượng cột, số lượng bếp, số lượng ông táo… Những con số khác nhau tùy theo những lễ thức khác nhau và đều mang những ý nghĩa linh thiêng nhất định. Trong các nghi lễ Chăm Bàlamôn rất hay sử dụng con số 3: 3 trái trứng, 3 miếng trầu têm, 3 chén rượu, 3 vạch vôi, hình tam giác 3 cạnh, 3 bếp, khấn vái, nằm lạy 3 lần, tang lễ 3 ngày{a} v.v… các thầy cả sư giải thích con số 3 tượng trưng cho 3 cõi thiên - địa - nhân trong vũ trụ. Con số 5 cũng xuất hiện thường xuyên trong các nghi lễ Chăm (ngoại trừ nghi lễ tang ma). Các nghi lễ thường làm 5 mâm cúng, trên các khay trầu cau trong lễ cưới cũng như các nghi lễ cho người đang sống bao giờ cũng để 5 miếng trầu têm, tăng lữ Bàlamôn có 5 cấp, khi người chết nằm trong nhà lễ tang phải thắp 5 ngọn nến. Người Chăm quan niệm con số 5 là tượng trưng cho 5 vị thần linh trong cơ thể con người: 1 đầu, 2 vai và 2 chân. Có nhiều ý kiến cho rằng con số 5 của người Chăm có thể chịu ảnh hưởng quan niệm “ngũ hành, ngũ phương” của Trung Quốc. Phó cả sư Hán Đô cho biết, con số 5 là con số biểu trưng của người Chăm Bàlamôn nên các nghi lễ của Bàlamôn bao giờ cũng thể hiện con số 5, con số 3 là biểu trưng của người Chăm Bàni nên trong các nghi lễ của người Chăm Bàni bao giờ cũng phải thể hiện con số 3: 3 miếng trầu cau, 3 mâm lễ. Chúng tôi cho rằng, quan niệm về con số 5, được người Chăm Ninh Thuận coi là con số của người Chăm Bàlamôn ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng Bàlamôn? Trong “Tha áo nghĩa thư” có viết về Brahma: “Người là Phạn thiên, Nhân đà la, sinh chủ và tất thảy các thần, người là Địa - Thủy - Phong - Hỏa - Không - Ngũ đại; người là mọi nguyên tố hỗn hợp…” [10]. Số 7 cũng thường xuyên xuất hiện, ngoài ý nghĩa là một số phiếm chỉ, người Chăm còn quan niệm nam có 7 vía, nữ có 9 vía (nam thất, nữ cửu) khá cụ thể, nên khi làm lễ cho đàn ông người ta dùng con số 7, cho nữ dùng con số 9. Trong nghi lễ tang ma, ở ngày thứ ba còn quan niệm bào thai đã được 7 tháng nên làm 7 mủng cơm. Đặc biệt, trong nghi lễ tang ma, người Chăm sử dụng rất nhiều con số 9, ngoài ý nghĩa “tái sinh”, người mẹ phải mang thai 9 tháng 10 ngày, con số 9 còn là một con số thiêng, số lớn nhất trong dãy số nguyên. Con số 7 và số 9 thường được coi là số phiếm chỉ (chỉ số rất nhiều), nhưng trong nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn, con số 9 là con số vừa mang tính biểu trưng vừa cụ thể, dùng để chỉ 9 tháng 10 ngày mang thai “tái sinh” cho người chết (xin xem phần lễ hỏa táng). a. Quan niệm về hôn nhân Mặc dù bị chi phối bởi một tôn giáo phụ quyền, nhưng quan niệm về hôn nhân của người Chăm Bàlamôn lại chịu sự chi phối của tàn dư chế độ mẫu hệ. Người Chăm coi huyết thống là theo dòng họ mẹ nên không được kết hôn giữa những người cùng thờ chung một kút theo dòng họ mẹ (cùng thờ chung một chiet atơw). Từ xa xưa, người Chăm đã có luật tục về hôn nhân, nhưng không còn luật tục thành văn bản, có thể những văn bản ấy đã bị thất truyền. Đến năm 1950, ông Dương Tấn Phát, một trí thức người Chăm, nguyên là tri huyện huyện An Phước, tỉnh Ninh Thuận mới soạn thảo “Hộ luật Chàm”. Tuy hộ luật này chưa được các cấp có thẩm quyền thông qua nhưng rất có giá trị vì nó được hình thành từ luật tục bất thành văn, được rút ra từ phong tục tập quán vùng đồng bào Chăm và đã được thông qua, sửa đổi bởi một Hội đồng chức sắc hai tôn giáo Bàlamôn, Bàni và nhân sỹ trí thức Chàm lúc bấy giờ{b}. Đến nay, hôn nhân của người Chăm vẫn bị chi phối bởi chế độ mẫu hệ, duy trì chế độ hôn nhân đồng tôn giáo và hôn nhân đồng dân tộc. Người Chăm Ahier chỉ được kết hôn với người Chăm Ahiêr, nếu không tuân thủ thì khi chết, sẽ không được làm lễ tang dành cho người chết “trọn vẹn”, không được “giải thoát” và không được làm lễ nhập kút về với tổ tiên. b. Quan niệm về hồn, vía và hồn ma Người Chăm quan niệm ở con người đang sống có hồn (Sswan) và vía (Thơp hay sak, người Chăm còn có thuật ngữ Binguk yawa - có nghĩa là bóng vía). Khi có người chết, nếu ông thầy không yểm bùa để bắt giữ hồn lại thì sẽ trở thành vong hồn (Sswanthơp). Nếu người chết không bình thường và không được thực hiện các lễ thức cúng vái thì vong hồn biến thành hồn ma (phat) quay lại quấy phá. Người Chăm rất sợ hồn ma (phat) hay vong hồn chết trẻ (prauk patra). Và, để giải thoát cho những vong hồn này, người Chăm phải tiến hành làm các nghi lễ như “lễ trả nợ lâu đời” (chwai) trong lễ “múa lớn” (Rija praung). Trước khi người chết tắt thở, gia đình phải đặt người chết nằm dưới đất vì người Chăm quan niệm con người sinh ra từ đất mẹ, nếu không, hồn người chết sẽ bị bắt đi. Vì vậy, nếu chết ở trên giường, phải mời thầy pháp (gru tiap bhut) đến làm lễ gọi hồn (Ew angan Sswan). Tuỳ theo từng “loại chết” mà có những quy định làm lễ tang phù hợp. Nếu làm không đúng mọi quy trình nghi lễ, người chết không những không tái sinh được mà còn thành hồn ma về gây mọi tai họa cho gia đình và dòng tộc. 3. Quan niệm về cõi chết Cái chết luôn là sự bí hiểm. Sự bí hiểm đó hấp dẫn mọi cá thể người, mọi dân tộc, mọi thời đại, mọi tầng lớp xã hội, bởi chưa ai “trông thấy” cái chết, chưa ai “biết” chết là như thế nào và có “thế giới bên kia” hay không như hầu hết các tôn giáo quan niệm? Vì vậy, con người đã tưởng tượng ra thế giới linh hồn, thế giới hồn ma, siêu hình sau khi chết. Hầu hết các dân tộc trên thế giới quan niệm rằng, chết là sang một thế giới khác. Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo lại có những quan niệm về “thế giới bên kia” khác nhau. Chết là sự đầu thai trở lại cõi trần hoặc hóa thần linh về ở “thế giới bên kia”. Các tộc người còn hình dung ra con đường để đi đến thế giới siêu hình ấy. PGS. Nguyễn Từ Chi có viết: “Người Mường cho rằng vũ trụ ba tầng, bốn thế giới, trong đó có “mường pưa tín” dành cho người chết ở trong lòng đất. Giữa “mường pưa tín” (mường ma) và “mường pưa” (mường con người đang sống) có mối liên hệ với nhau và nối với nhau bằng một đường ống” [11]. Đã có mặt trên cõi sống, bản năng của mọi sinh linh là luôn sợ chết. Các tôn giáo lớn trên thế giới đều có nguồn gốc triết lý về sự sống, cái chết và đều quan niệm “chết chưa phải là hết”. Quan niệm ấy tạo cho tín đồ một tâm lý không sợ chết, đồng thời răn dạy con người sống có nhân đức để được đền đáp ở thế giới bên kia. Người Chăm Ahiêr hiện nay quan niệm thế giới bên kia có ba cõi ứng với ba tầng thiên - địa - nhân (xem hình vẽ 1). Cõi thứ nhất là cõi patichih yang Atachah, là cõi thiên đàng ở trên trời, dành cho linh hồn những người “chết tốt”, những người khi sống ở trần gian không có tội lỗi. Cõi thứ hai là cõi lulah, là cõi trần, khi chết được đầu thai trở lại làm người hay súc vật nào đó, tuỳ theo mức độ công lao, đạo đức hay tội lỗi khi sống ở trần gian theo thuyết luân hồi. Cõi thứ ba là cõi sussah hoặc nưrak, là cõi địa ngục, dành cho linh hồn những người khi sống ở trần gian có nhiều tội lỗi [12]. Trong ba cõi trên, cõi thiên đường trên trời cao có nhiều tầng được phân bố theo vùng của thần mặt trăng, thần mặt trời, vùng sáng là dải Ngân hà, vùng tối vũ trụ là tầng cao nhất. Người Chăm có câu thành ngữ: Tachuh tan tanưh riya, tajuh tơh akarah. Có nghĩa là: “Bảy tầng địa ngục, bảy cõi thiên đàng”. Theo chúng tôi, những con số trong câu thành ngữ trên chỉ là số phiếm chỉ, chỉ số rất nhiều. Khi phỏng vấn phó cả sư Hán Đô, người làng Vụ Bổn, tôi được ông cho biết rằng trên trời có 5 tầng và giải thích rằng con số 5 thuộc dương (trời thuộc dương), dưới đất có 2 tầng (con số 2 thuộc âm, đất thuộc âm). Tầng trên cùng (tầng 5 trên trời) là tầng chỉ dành cho các vị cả sư và phó cả sư. Tầng 4 chỉ dành cho bà bóng dòng tộc. Tầng 3 dành cho những người chết bình thường nhưng phải chết từ 70 tuổi trở lên. Tầng 1 và tầng 2 dành cho những người chết không bình thường (chết xấu - mưtai bhaw). Còn những người không được làm lễ hỏa táng thì phải xuống 2 tầng ở dưới đất. Những người chết tốt thuộc dòng “Chăm chôn” (Cham Jap brah) hoặc khi chết dưới 15 tuổi thuộc dòng “Chăm thiêu” (Cham chuh) thì được xuống tầng 1, còn những người chết xấu thuộc dòng “Chăm chôn” thì phải xuống tầng 2 (tầng tối tăm, địa ngục). Cõi địa ngục theo quan niệm của người Chăm Ahiêr có 2 tầng, chỉ dành cho những người thuộc những dòng họ đẳng cấp thấp, khi chết không được làm lễ hỏa táng mà chỉ được làm lễ tang chôn. Linh hồn người chết xuống tầng địa ngục nào là xét công, tội khi còn ở cõi trần. Ngoài cõi thiên đàng và địa ngục, còn có cõi chết trên mặt đất để cho linh hồn sau khi chết tái sinh làm người hay súc vật. Trong lễ tang, người ta kiêng ăn những con vật đẻ ra con, chỉ ăn những con vật đẻ trứng. Chúng tôi đã phỏng vấn chi tiết này và được cả sư Hán Bằng (cả sư phụ trách khu vực tháp Pô Rômê) cho biết, sở dĩ không được ăn con vật đẻ con là do quan niệm có người chết đầu thai trở lại cõi trần để làm người hoặc súc vật nên nếu ăn con vật đẻ con có thể ăn phải con cháu hoặc cha mẹ mình (con người thuộc loài đẻ ra con). 4. Quan niệm về vòng đời, sự tái sinh và giải thoát (xem hình 2 ) Một quan niệm mang tính phổ biến trong văn hóa nguyên thủy mà sau này phát triển thành tín ngưỡng của các dân tộc, các tôn giáo là sự “tái sinh” sau khi chết. Quan niệm “chết là sự tái sinh” thể hiện rất rõ trong nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn và nhất quán từ nội dung tâm linh cho đến hình thức hành lễ. Có thể thấy nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn như là sự vận hành của một cuộc tái sinh linh thiêng để đưa linh hồn người chết nhập về miền thường trụ. Về hình thức, trong nghi lễ tang ma phải làm sao thể hiện được sự đầu thai “9 tháng 10 ngày”. Quan niệm “tái sinh”, giải thoát, vòng luân hồi của người Chăm còn được thể hiện trong quan niệm về phương hướng được quy định trong các nghi lễ vòng đời. Khi sinh, người mẹ đẻ ngồi, quay mặt về hướng nam để cho đầu thai nhi lọt ra về hướng nam. Đến khi chết, người chết khi đưa lên giàn hỏa táng cũng được đặt đầu quay hướng nam để đầu thai “tái sinh” hay như ở hiện tượng quay đầu người chết (quay đầu thai nhi để sinh nở) khi khiêng ra nơi hỏa táng. Những quan niệm vũ trụ luận, cõi sống, cõi chết của người Chăm được thể hiện khá nhất quán, mang tính biểu tượng cao trong những nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr, là cơ sở để bước đầu giải mã, tìm hiểu nguyên nhân của thời gian, không gian hành lễ, của những biểu tượng thể hiện trong hàng loạt những động tác, lời cúng, của lễ vật và công cụ làm lễ. Những nghi lễ vòng đời người được trình bày dưới đây, chủ yếu tác giả lấy tư liệu điền dã thực tế nhiều lần, ở nhiều nghi lễ khác nhau tại vùng đồng bào Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận, tập trung chủ yếu ở các làng Chăm Hữu Đức, Mỹ Nghiệp, Bầu Trúc, Chắt Thường, Hiếu Lễ, Như Bình thuộc huyện Ninh Phước, làng Bĩnh Nghĩa thuộc huyện Ninh Hải. Bên cạnh sự miêu thuật theo lát cắt đồng đại, chúng tôi có sử dụng tư liệu hồi cố, có những tư liệu của các đồng nghiệp đã nghiên cứu trước đó và có cả những tư liệu cổ, phỏng vấn sâu các vị cả sư Bàlamôn, những người Chăm lớn tuổi [13]. Về trình tự, tác giả công trình xin được trình bày theo 3 giai đoạn chuyển tiếp theo cách phân chia của A.V. Gennep. Đó là các giai đoạn: Sinh, trưởng thành và tử. Trong đó, giai đoạn sinh được tính từ khi thụ thai đến trước giai đoạn trưởng thành. ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Quý vị quan tâm đến văn hóa Chăm có thể tiếp tục xem theo link : http://www.vanhoahoc.edu.vn/site/index.php...mp;limitstart=1
-
Dưới đây là nội dung câu chuyện truyền thuyết về nữ thần Thiên Y A Na (người Chăm gọi là Ponagar - Mẹ xứ sở) được khắc trên tấm bia đá ở tháp bà Ponagar (TP Nha Trang) từ năm 1858 dưới thời nhà Nguyễn. Truyền thuyết này đã được Việt hóa và theo tôi thấy không phản ánh đúng cội nguồn văn hóa Chăm : http://www.baophuyen.com.vn/Trangch%E1%BB%...74/Default.aspx Theo Đại Nam Nhất thống chí, tục truyền Thiên Y A Na là một nàng tiên, nguyên sơ giáng xuống núi Đại Điền (một ngọn của núi Chúa, nằm ở phía tây nam huyện Đông Hoà, núi Chúa cao 1010m so với mặt nước biển). Thuở ấy có hai vợ chồng già ở trên núi, trồng dưa để sinh sống. Khi dưa chín thì thường bị ai đó đến hái, vợ chồng ông lão lấy làm lạ nên để ý rình xem. Đêm nọ, ông thấy một cô gái độ mười ba, mười bốn tuổi theo những bóng cây lần lần đi đến, cầm những quả dưa vần chơi ở dưới bóng trăng. Ông đón lại gạn hỏi, thì ra chính cô đã hái trộm dưa. Ông thấy cô bé còn nhỏ, yếu ớt bèn đem về nuôi. Cô bé có vẻ thông minh khác người, hai ông bà nghĩ là người trời sinh nên rất thương yêu. Một hôm bỗng dưng có trận lụt tràn đến, cô bé sực nhớ đến cảnh bồng lai cũ, liền kiếm mấy nhành hoa, chất mấy mảnh đá đắp thành núi giả để chơi. Ông lão thấy thế nổi giận la rầy. Trong lúc đó, thấy trước mặt có cây trầm hương già trôi theo nước lụt, cô bé bèn biến hình nhập vào thân cây ấy, rồi cây trầm hương này trôi theo nước lụt tấp vào bờ biển ở phương Bắc (trên bia đá có ghi rõ là Trung Hoa). Người dân ở đây thấy cây trầm hương thơm lạ, rủ nhau khuân vác về nhà, nhưng cây nặng quá nhấc lên không nổi. Lúc bấy giờ, thái tử trong cung nghe nói, bèn đến bờ biển xem, rồi xuống vớt đem về để ở nơi điện các. Thái tử khi ấy vừa đôi mươi, chưa có vợ, ngày ngày thường đến vỗ về thân cây, trong lòng bồi hồi như bị ai đó thu hút. Có những khi chợt thấy một vầng trăng lờ mờ, dưới vầng trăng ấy thấp thoáng một bóng người. Thái tử lấy làm lạ. Đêm nọ, sau khi mọi người đều yên giấc, thái tử trở lại chỗ để cây trầm hương rình xem và cũng thấy như mấy lần trước. Thái tử vội rượt theo thì thấy một cô gái rất xinh đẹp. Nàng hoảng hốt muốn chạy trốn nhưng bị thái tử giữ lại gạn hỏi. Cô đành phải bày tỏ tông tích của mình. Thái tử gặp được người đẹp nhưng trong bụng thì nửa mừng nửa lo, nên đã tâu lên vua cha. Vua cha triệu tập các quan trong triều lại và xin được quẻ tốt nên đồng ý cho làm đám cưới. Vợ chồng ăn ở với nhau, sinh được một trai đặt tên là Tri và một gái đặt tên là Quí. Một hôm, bà nhớ cảnh cũ người xưa, bèn dắt hai con nhập vào thân cây già nam hương vượt biển về phương Nam, rồi tìm đến chốn cũ tại triền núi Đại Điền. Khi ấy hai ông bà lão trồng dưa năm xưa đã mất rồi, bà lập đền để phụng tự… Thấy người dân ở vùng này khờ dại, thật thà, bà đã dạy cho những phép tắc và bày cách làm ăn sinh sống. Rồi bỗng một ngày, bà thăng lên trời, biến mất. (Ở đoạn này thiếu một chi tiết là Thái tử cùng quan quân kéo đến truy bắt và tàn phá, bà hiển linh thành sóng lớn nhận chìm toàn bộ thuyền của Thái tử và quân sĩ - Bia đá) Từ đấy về sau, bà càng hiển linh hơn. Dân địa phương ngưỡng vọng và tôn bà là thần, có cầu khẩn việc gì thường được ứng nghiệm. Chính vì vậy mà nhân dân đã xây tháp để thờ phụng. Tháp được xây dựng ở dưới chân dãy núi Đại Lãnh, cặp bên đường thiên lý, ngay trong thung lũng núi Đá Bia. Tháp phía tả thờ thần Thiên Y A Na, tháp phía hữu thờ thái tử, phía sau tháp dựng đền nhỏ thờ hai con của bà, phía tả của tháp lại xây một đền nhỏ nữa để thờ hai ông bà lão trồng dưa, phía trước tháp có bia đá khắc chữ trùng văn, lối chữ như hình con sâu nước, không ai hiểu được nghĩa (đây là chữ Chăm-pa cổ). ----------------------------------------- Nếu theo truyền thuyết trên thì rõ ràng văn hóa người Chăm phải mang dấu ấn Trung Hoa (!) nhưng tuyệt nhiên chúng ta không hề thấy dấu ấn Trung Hoa nào trong các di sản của người Chăm, từ tín ngưỡng mẫu hệ cùng các công trình văn hóa vật thể đến chữ viết của người Chăm. Ngược lại, văn hóa Chăm mang đậm nét nhân bản của văn minh lúa nước các dân tộc phương nam : các thể chế chính trị trong lịch sử không có thời kỳ chiếm hữu nô lệ, không có các công trình đồ sộ thấm đẫm máu và nước mắt, ... mà các công trình kiến trúc vẫn đẹp mê hồn và đầy bí ẩn, ... Ở đoạn trích trên tôi có nhấn mạnh đến đoạn cuối (in đậm) nói đến chữ viết của người Chăm. Người Chăm ngày nay vẫn gìn giữ và giáo dục các thế hệ con cháu của mình về chữ viết riêng của mình. Dưới đây là bảng hệ thống chữ viết của người Chăm : Và đây là sự bố trí trên bàn phím chữ Chăm Việt Nam :
-
Xin nói thêm về đoạn này : 2. Xã hội Lạc Việt (cổ) là một tập hợp rộng lớn (có thể chưa thành một đế chế) sống giữa 2 đế chế mạnh: Bắc là Trung Hoa, Nam là đế chế Champa cổ, tương ứng với vùng đất từ miền trung Vn trở lên tới Nam sông Dương Tử. Việc đánh chiếm đất Hùng Vương của Thủy Tinh, chỉ có thể nói lên sự xâm chiếm của một lực lượng thuộc đế chế Champa cổ hoặc 1 tộc nào đó ở phía Nam đi lên theo miền biển sau khi Liên minh Âu - Lạc đã hình thành (do cuộc đấu tranh với đế chế Trung Hoa (cổ) phía bắc và di chuyển tới Bắc bộ hiện nay). Điều này thể hiện rất rõ: thời (tôi thống nhất không dùng chữ đời) Hùng Vương Thứ 6, Lạc Viêt đã có trận đánh với kẻ thù phía Bắc, mãi đến tận thời Hùng Vương thứ 18 mới có chuyện đánh nhau (nếu có) với kẻ thù được cho là ở phía Nam. Lịch sử lập quốc của người Chăm, nước Lâm Ấp - Chiêm Thành, được xác định vào cuối thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Đáng tiếc là người Chăm hiện nay bị mất mát lịch sử quá nhiều, có rất nhiều khoảng trống trong cổ sử mà hiện vẫn chưa sáng tỏ được. Cụ thể, trước khi lập quốc, vùng đất này như thế nào ? Dưới đây là theo sưu tầm của tôi : Lâm Ấp là vùng đất phía Nam của quận Nhật Nam thời Bắc thuộc (bao gồm khu vực miền Trung ngày nay). Phía nam của Lâm Ấp là vương quốc Phù nam (tôi sẽ nói rõ hơn về vương quốc Phù Nam sau). Sau này khu vực Lâm Ấp thuộc về Chiêm thành. Lịch sử khu vực này còn nhiều khoảng trống. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Trang 158 :" Năm 137 người man ở huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam là bọn Khu Liên đánh phá quận huyện giết trưởng lại, năm 138 Thị Ngự sử Giả Xương cùng quân các châu huyện hợp lại đánh Khu Liên không được, bị Khu Liên vây đánh hơn một năm..... " Như vậy, Khu Liên được xem như vị vua đầu tiên của Lâm Ấp hay còn gọi là Vương quốc Champa sau này. Trang 173:" Năm 399 vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt đánh lấy Nhật Nam và Cửu Chân rồi vào cướp Giao Châu" (Kinh đô của Lâm Ấp bấy giờ là Trà Kiệu) Vậy Khu Liên là ai, Phạm Hồ Đạt là ai ? Theo gia phả họ Phạm Công tộc tại Mộ Đức - Quảng Ngãi có ghi như sau: Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân - Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) - tức là Nam Trung bộ ngày nay. Sau khi Triệu Đà lập nên nước Nam Việt, sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm Ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Liên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay) .......................................................... Cùng với bao biến thiên, thăng trầm của lịch sử mà hiện nay lịch sử của người Chăm vẫn chưa được sáng tỏ ngọn nguồn. Theo tìm hiểu của tôi, người Chăm cũng có 2 trường phái : người Chăm phương Bắc theo đạo Bà La Môn, và người Chăm phương Nam theo đạo Hồi. Một điều đặc biệt là trong suốt thời kỳ hưng quốc, người Chăm không hề chịu ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa, người Chăm theo chế độ Mẫu hệ và từ xa xưa đã thờ nữ thần Mẹ Xứ Sở (thần Ponagar, đáng tiếc là vào thời nhà Nguyễn đã được Việt hóa bằng câu chuyện nữ thần Thiên Y A Na, nữ thần này lưu lạc đến Trung Hoa và đem văn minh Trung Hoa về khai sáng cho người dân, câu chuyện này được khắc trên bia đá bằng chữ Hán từ thời nhà Nguyễn, hiện đã được dịch bằng chữ quốc ngữ song song với bia đá chữ Hán ở tháp bà Ponagar, Nha Trang, theo tôi câu chuyện này không thể hiện đúng cội nguồn văn hóa của người Chăm). Cùng với những nghiên cứu về nhân chủng (thuộc chủng Nam Á) và những di chỉ khảo cổ thuộc văn hóa Sa Huỳnh, tôi không cho rằng người Chăm (cũng như một số dân tộc ở Tây Nguyên) là do người từ các hải đảo ở Nam Dương đến và định cư mà đúng hơn phải là ngược lại. Có thể đã có những cuộc di dân rất phức tạp trong cổ sử nên mới có những nét khác biệt của văn hóa Chăm phương Nam và phương Bắc. Vì vậy, không loại trừ giả thiết (dù chỉ mới là nghi vấn) người Chăm chính là những người anh em Bách Việt của chúng ta. Tôi đang tiếp tục tìm hiểu về người Chăm nên những lời chia sẻ còn nông cạn, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý vị. Xin cám ơn !
-
Thật tréo ngoe là với một đất nước sùng bái đạo Phật như Thái Lan lại là một quốc gia có một - tôi tạm gọi là - "công nghệ sex tour" nổi tiếng nhất thế giới. Trong các tour du lịch đến Thái Lan đều có chương trình, dù ít nhiều không công khai, tham quan các khu vực có vũ sexy hay "khu đèn đỏ". Du khách ở trong các khách sạn ở Thái Lan có thể cầm remote để xem "kênh đen" (dĩ nhiên phải trả thêm phí) thoải mái, rồi còn có các dịch vụ khác trong KS như : massage body, ... Dù gần đây đã có rất nhiều cố gắng của chính quyền sở tại nhằm thay đổi dần hình ảnh đất nước con người Thái Lan, nhưng đây đó vẫn cho rằng nếu không có các "dịch vụ" đó thì chắc hẳn Thái Lan sẽ không còn là một trong những điểm du lịch nổi tiếng và thu hút du khách nhiều nhất thế giới như hiện nay. Thực ra, ngược dòng lịch sử một chút, nơi đầu tiên cho sự bùng nổ "sex tour" nổi tiếng ở Thái Lan chính là Pathaya. Vào khoảng thập niên 60 của thế kỷ trước, Pathaya là nơi phục vụ "giải trí" cho quân đội Mỹ trong cuộc chiến VN, về sau được phát triển rộng rãi, thậm chí theo tôi được biết, do nhu cầu cuộc sống ban đầu khá khó khăn ở các miền quê Thái Lan vào thời điểm đó mà những người phụ nữ lên thành phố phục vụ lính Mỹ dễ kiếm tiền hơn nam giới nên bắt đầu có manh nha chuyển đổi giới tính (hầu hết là từ nam thành nữ) để dễ dàng hơn trong cuộc mưu sinh. Đó chính là một trong những chuỗi lịch sử hình thành của các Tiffany's show (show diễn của những người chuyển đổi giới tính) nổi tiếng ở Pathaya ngày nay mà hầu hết du khách với Pathaya đều không thể bỏ qua chương trình hoành tráng này. Mặc dù giờ đây người Thái đã nhận ra vấn đề và cố gắng đưa hình ảnh du lịch Thái Lan mang một màu sắc mới (phát triển du lịch văn hóa, cấm người mang quốc tịch Thái đến "khu đèn đỏ", ...), nhưng không thể chối bỏ được rằng : một phần của xã hội Thái đang phải trả giá cho những hoạt động "sex tour" kéo dài trong quá khứ như vậy. Đó cũng chính là một bài học cho những quốc gia đang bắt đầu tiến hành phát triển ngành "công nghiệp không khói" như một trong những mũi nhọn để thu hút ngoại tệ, trong đó có Việt Nam.
-
VIỆT NAM CÓ TRÀ ĐẠO KHÔNG ? PGS Đỗ Ngọc Quỹ Đây là một câu hỏi hay mà một số bạn uống trà đã thảo luận sôi nổi trên báo chí và tập san ở hai miền Bắc Nam, của một anh bạn hội viên CLB Trà Việt vô danh đã ghi trong blog comment (Mục 10 chương và 9 điều trong “Trà Kinh” của Lục Vũ). Bạn đúng là một người tiêu dùng thông thái không chỉ đơn giản bằng lòng với hương vị và màu nước của một chén trà phương Đông. Bạn còn có nhu cầu tìm hiểu sâu bản chất và ý nghĩa của nghệ thuật uống trà. Lời đáp quả thật không đơn giản, vì phải giải đáp được các câu hỏi sau đây: 1. Trà Đạo Nhật Bản - xuất xứ và nội dung ? 2. Trung Quốc có Trà đạo không ? 3. Việt Nam có Trà đạo không ? 4. Những tư liệu nào cần tham khảo để có thông tin bổ sung ? Dưới đây là một số tìm hiểu ban đầu chắc chắn còn hạn chế. Vì Văn hoá trà Việt Nam là một lĩnh vực mới mẻ và mênh mông, chỉ mới có một vài ý kiến phát biểu lẻ tẻ vài năm gần đây. Trong khi đó ở Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc đã có nhiều Hội thảo quốc gia và quốc tế về văn hoá trà. Nhưng cũng không cầu toàn, nên xin mạnh dạn đóng góp một vài gợi ý ban đầu để chia sẻ với các bạn hôi viên cùng nghiên cứu. Không phải là những chỉ giáo, vì đến nay chưa có hội thảo chuyên sâu về Văn hóa trà của các nhà khoa học, lịch sử và văn hóa trà ở Việt Nam. 1. Trà Đạo Nhật Bản - xuất xứ và nội dung ? Trà đạo – CHADO, hay SADO, hay CHA-NO-YU – là một lễ nghi cao thượng ở Nhật Bản, có nguồn gốc Thiền (Zen) của Đạo Phật, nhằm tôn vinh cái đẹp trong cuộc sống đời thường. Đây là một biểu diễn nghệ thuật của khách đến thăm chủ nhà, trong đó mọi động tác đều được quy định theo một quy trình chặt chẽ. Trà đạo được giảng dạy tại các Trường chuyên. Tuy có những khác biệt giữa nhiều trường phái, nhưng tất cả đều có một tinh thần nguyên tắc thống nhất. Trà Đạo Nhật Bản ra mắt tại chùa Kinh sơn tự; và đề xuất 4 nguyên tắc “ Hoà - Kính – Thanh - Tịnh ” để bồi dưỡng đạo đức và nếp sống xử thế văn minh trong xã hội con người. Trà Đạo là một triết lý về cái đẹp trong cuộc sống đời thường con người. Trà Đạo Nhật Bản gợi lên cho người thưởng thức trà một cảm xúc trong sáng, hài hoà, huyền bí và lãng mạn của trật tự xã hội. Đây là một yêu cầu về tinh khiết, vì nó đòi hỏi thanh tịnh; một đạo đức tiết kiệm, vì nó chứng minh cho chúng ta, hạnh phúc cuộc đời chủ yếu là sự đơn giản hơn là sự phức tạp phiền toái và chi tiêu hoang phí; một thước đo tinh thần nhằm xác định vị trí của con người chúng ta trong vũ trụ. Triết lý của Trà Đạo không chỉ đơn giản tôn vinh cái đẹp theo nghĩa thông thường của từ ngữ, mà kết hợp với mỹ học và tôn giáo, còn giúp cho việc thể hiện khái niệm tổng hợp của con người về Thiên - Địa - Nhân. Trà Đạo chính là Đạo Lão ngụy trang (Okakura Kazuko, 1906). 2. Trung Quốc có Trà đạo không ? Kết quả hội thảo văn hóa trà của các học giả Trung quốc đã đề ra hai khái niệm : Trà đạo và Trà đức. Trịnh Khởi Khôn, Viện trưởng Viện nghiên cứu chè Trung Quốc tại Hàng Châu, Chiết Giang (1999) trong một công trình nghiên cứu “Tiến triển về nghiên cứu một số vấn đề văn hóa trà Trung Hoa” đã tổng kết ý kiến của các hội thảo chuyên đề như sau. Văn hoá trà Trung Hoa có nội dung phong phú, tiếp cận với khoa học, đạo đức, thẩm mỹ và lễ nghi v ...v... Tinh thần của nó bao hàm bốn mặt sau đây “dưỡng sinh, tu tính, sảng tình, tuân lễ". Thông qua sự truyền bá của văn hoá trà, đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan của con người, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Ngô Tuệ Nông, trong cuốn Trà kinh thuật bình đã nhận thức rằng : “Trà đạo coi trà như một thứ nước uống quý giá tưạ ngọc ngà cao thượng. Uống trà là một sự hưởng thụ tinh thần, một loại hình nghệ thuật, hay một cách tu thân dưỡng tính“ Trang Vãn Phương : “Trà đạo là một loại nghi thức để tiến hành giáo dục lễ pháp, tu thân dưỡng đức đối với con người, thông qua phương thức uống trà" Thắng Quân : "Trà đạo là kết tinh của văn hoá Nhật Bản. Trà đạo được coi là triết học hoá và nghệ thuật hoá ứng dụng vào lĩnh vực đời sống. Trà đạo là một bộ môn lấy uống trà làm nội dung của văn hoá nghệ năng, là một cách kết hợp hoàn mỹ của văn hoá truyền thống với trà sự, đó là một phương pháp xã giao lễ nghi, tu thân dưỡng tính và giáo dục đạo đức" Trần văn Hoài : "Tinh thần cuả trà nghệ và trà đạo là hạt nhân của văn hoá trà Trung Quốc, chữ nghệ nói ở đây là chỉ cái thuật của trà nghệ trong chế biến, pha uống và cách thưởng thức trà; chữ đạo nói ở đây là chỉ cái tinh thần quán triệt trong suốt cả quá trình trà nghệ. Nói một cách giản đơn Trà đạo chính là tinh thần, đạo đức, quy luật, cội nguồn và bản chất; thường thường thì nó nhìn không thấy, sờ không thấy, nhưng nó lại hoàn toàn có thể lĩnh hội được thông qua tâm linh." Trần Hương Bạch nhận thức rằng : ”Hạt nhân của trà đạo là hoà ; ý nghĩa của trà đạo gồm có 7 điểm : tức là trà nghệ, trà đức, trà lễ, trà tình, trà học thuyết và trà đạo, được định hình từ thời Đường đang thịnh vượng." Trình Khởi Khôn (1990) trong “Trung Quốc trà đức” đề xuất Trà đức Trung Quốc là “Lý, Kính, Thanh, Xúc". Vương Linh (1995), trong “Tinh thần trà đạo truyền thống của Trà đạo Trung Quốc và hướng đi tới của văn hoá trà thời đại mới", nhận thức rằng Trà đạo Trung Quốc là sự hợp nhất của đạo nhà, đạo trời và đạo người, là tư tưởng tam hoà của thiên thời, địa lợi và nhân hoà cùng sánh vai với nhau; lấy tư tưởng chỉ đạo là nho gia và lấy tinh thần nhà Phật phổ độ chúng sinh làm tôn chỉ, tức là sự tập hợp tư tưởng ưu tú của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Lưu Khâu Văn, Lưu Tổ Sinh và Trương Đằng Hằng (1994) viết: Trà đức là một thể hiện của một loại văn hoá tinh thần, một khám phá tìm tòi tương đối thâm thuý của một số người yêu thích uống trà, trải qua nhiều thời đại lịch sử. Trà đạo là một số hình thức biểu hiện hay một số quy phạm hay phép tắc của loại văn hoá tinh thần đó. Trà đạo Trung Quốc không có một hình thức nhất định, mà khi thì hưng thịnh khi thì suy thoái. Từ cuốn sách Trà Kinh và Trà đạo đại hành của Lục Vũ cho đến ngày nay, ý nghĩa và cả nội dung của Trà đạo đều đã phát triển và biến hoá. Nhưng sau khi Trà đạo Trung quốc truyền bá sang Nhật Bản, kinh qua các tăng lữ, võ sỹ đạo và tướng tá, kết hợp với tính sáng tạo đổi mới của Nhật Bản, lưu truyền từ đời này đến đời khác, thì nội dung và hình thức, đều mang đặc sắc dân tộc mới mẻ của Nhật Bản. Nghệ thuật uống trà xưa và nay định nghĩa theo nghĩa hẹp là kỹ thuật phân tích đánh giá những điểm tốt xấu của trà. Theo nghĩa rộng là một phương thức sinh hoạt lấy nội dung chủ yếu là phẩm trà (phân tích đánh giá chất lượng trà tốt xấu). 3. Việt Nam có Trà đạo không ? Theo "Từ điển tiếng Việt" của Viện Ngôn Ngữ Học, do Hoàng Phê chủ biên (1998) trang 280, chữ đạo có ba nghĩa sau đây : 1. Đường lối, nguyên tắc mà con người phải giữ gìn và tuân theo trong cuộc sống xã hội như đạo làm người, đạo vợ chồng, ăn ở cho phải đạo ... 2. Nội dung học thuật của một học thuyết được tôn sùng ngày xưa, như tầm sư học đạo, mến đạo thánh hiền ... 3. Một tổ chức tôn giáo, như đạo Thiên chúa, đạo Phật, đạo Hồi, đi đạo ... Hiểu theo ý nghĩa thứ ba “một tổ chức tôn giáo” như Trà Đạo Nhật Bản có ba tiêu chí giáo lý, giáo chủ và thánh đường, thì Việt Nam không có Trà đạo. Còn hiểu theo nghĩa thứ nhất “đường lối, nguyên tắc mà con người phải giữ gìn tuân theo trong cuộc sống xã hội”, thì Việt Nam có Trà đạo. Đó là phong tục tập quán uống trà hay nghệ thuật uống trà, với nội dung bao gồm cách thưởng thức phẩm chất của trà và giá trị phi vật thể biểu hiện trong nghi thức giao tiếp ứng xử, như đạo đức niềm tin của con người đối với bản thân, xã hội và đất nước. Như vậy Trà chỉ là một vật phẩm xúc tác dùng trong hoạt động giao tiếp, lễ nghi và tôn giáo mà thôi, chứ không có nghĩa huyền bí khó hiểu như khái niệm “Trà là hiện thân của Đạo, theo công thức Trà = Đạo = Phật (Ngô Linh Ngọc)“. 4. Có những tác giả và tư liệu nào cần tham khảo thêm ? Về Trà đạo Nhật Bản : * Okakura Kazuko, (1906), Yasunosuke Fukukita (1935), và cuốn Bách khoa từ điển - Encyclopedia Japonica, Tokyo (1983), Anh văn. Về Trà đạo, Trà đức Trung Hoa : * Trịnh Khởi Khôn “Tiến triển về nghiên cứu một số vấn đề văn hóa trà Trung Hoa” (1999), Hiệp hội chè Chiết Giang, Trung Quốc. Trung văn. * Lưu Khâu Văn, Lưu Tổ Sinh và Trương Đằng Hằng “Trà, trà khoa học, trà văn hóa” NXB Liêu Ninh, Trung Quốc (1994) Trung văn. Về Trà đạo Việt Nam : * Ngô Linh Ngọc, Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng, Vương Hồng Sển. * Đỗ Ngọc Quỹ - Đỗ Thị Ngọc Oanh. “Tìm hiểu về khoa học văn hóa trà thế giới và Việt Nam”, do NXB Nông nghiệp sẽ xuất bản tháng 6/2008. Ngày 19 tháng 3 năm 2008 PGS Đỗ Ngọc Quỹ
-
Dưới đây là trích đoạn trong tài liệu tôi sưu tầm, được nói bằng tất cả tình cảm dạt dào của tác giả đối với sự bí ẩn diệu kỳ của gạch Chăm :D : http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu...giot-thap-cham/ Một niềm tin sâu xa vào chất liệu đất : Tháp Chăm là nói đến sự độc đáo của chất liệu xây nên chúng : đó là gạch Chăm. Gạch Chăm cũng làm từ đất sét như mọi loại gạch khác, nhưng nó bí ẩn đến mức chúng ta không biết người nghệ sĩ Chăm xưa đã khắc tạc trực tiếp lên gạch sống hay gạch chín ? Vì những nhát khắc quá ngọt ngào trên chất liệu, vì cái cảm giác đất nung quá ấm áp và gần gũi mỗi khi ta chạm tay vào cơ-thể-gạch của ngọn Tháp đã truyền cho ta cái niềm tin qua hàng nghìn năm về sự bền bỉ của một chất liệu không trường cửu là gạch nhưng vĩnh cửu là đất. Với người nông dân và người nghệ sĩ Chăm xưa, đất đã là tôn giáo của họ, đã là chất liệu chính để họ hình dung ra nghệ thuật và cái Đẹp. Tôi nghĩ, nếu những ngọn Tháp Chăm này được xây bằng đá, nó có thể khiến ta kính nể, khiến ta an tâm về độ bền vững, nhưng sẽ không làm ta cảm thấy chúng gần gũi thân thiết đến thế ! Và không cho ta sự kinh ngạc đến thế, rằng vì sao trải qua hàng nghìn năm với bao biến thiên bao tai họa mà những ngọn Tháp-đất-nung này vẫn tồn tại ? Lại thêm một lý do nữa để tôi yêu những ngọn Tháp Chăm Bình Định. :lol: :( :rolleyes: Có thế mới thấy rằng, nếu cứ theo quan niệm "lối mòn" như trước đây cho là văn minh nhân loại trong quá khứ không thể bằng văn minh khoa học hiện đại là sai lầm biết dường nào. Rất mong tiếp tục nhận được những chia sẻ của quý vị về những thông tin này.
-
Cỗ máy "tạo" Big Bang gặp sự cố 21/09/2008 23:11 Một sự cố kỹ thuật đã buộc các nhà khoa học tạm ngưng việc vận hành cỗ máy khổng lồ Large Hadron Collider (LHC), được chế tạo nhằm xây dựng lại các điều kiện vật lý sau sự kiện Big Bang, ít nhất trong 2 tháng tới. Hãng tin Reuters dẫn tuyên bố của Tổ chức Nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) cho hay một vụ rò rỉ khí helium lớn (khoảng 1 tấn) đã xảy ra bên trong đường ống đặt LHC, vốn nằm dưới lòng đất tại biên giới Thụy Sĩ và Pháp. CERN cho rằng vụ rò rỉ xảy ra sau khi mối nối điện tử giữa 2 nam châm từ bị nóng chảy do dòng điện quá cao. Dự kiến, các nhà khoa học phải hâm nóng LHC, vốn hoạt động ở nhiệt độ rất thấp (-271,3 độ C), lên thêm khoảng 100 độ C để sửa chữa rồi sau đó làm lạnh cỗ máy lại xuống nhiệt độ như trước. Khi LHC bắt đầu hoạt động đủ công suất, nó có thể thiết kế 600 triệu vụ va chạm mỗi giây giữa các proton được bắn đi với tốc độ bằng 99,9% tốc độ ánh sáng bên trong đường ống dài 27 km. T.M (Thanh Niên)
-
Sự tương đồng về văn hóa các dân tộc Đông Nam Á theo phân tích của bài viết trên web Người Lao Động ở trên là hoàn toàn xác đáng. Theo tôi được biết, đến nay những nghiên cứu về ngôn ngữ của các dân tộc (ở nước ta) cũng như những bí ẩn về những vật liệu sản xuất cho thấy có thế đã có một nền văn minh phát triển cao trong quá khứ nhưng đến nay đã bị thất truyền. Xin dẫn chứng một ví dụ : người Chăm. Theo các nhà nghiên cứu, ngôn ngữ của người Chăm thuộc nhóm Mã Lai đa đảo, cùng tồn tại trên nước ta là những nhóm ngôn ngữ khác như Môn Khmer, ..., người Kinh của chúng ta thuộc nhóm Việt - Mường - Thổ - Chứt. Tôi nhận thấy một điều rằng, những dân tộc có cùng nhóm ngôn ngữ thì khi giao tiếp sẽ dễ dàng hiểu nhau hơn, mặc dù họ khác dân tộc, chẳng hạn như người Chăm có thể giao tiếp được với người Ê-đê ở Tây Nguyên hoặc các dân tộc xung quanh các hải đảo ở Đông Nam Á, còn người Kinh có thể hiểu được những ngôn ngữ cổ (Thổ) ở Nghệ An, hay như người Rục (Chứt, một dân tộc thiểu số lạc hậu chỉ còn vài trăm người hiện đang được bảo tồn và giúp đỡ, hiện sinh sống ở Quảng Bình). Điều này chứng tỏ rằng, rất có thể các dân tộc có cùng nhóm ngôn ngữ có cùng một nguồn gốc trong quá khứ xa xưa, cùng với những hiện vật khảo cổ thuộc văn hóa Sa Huỳnh có niên đại gần 5000 năm, như vậy, rõ ràng VN là một trong những cái nôi của văn minh phương Đông chứ không phải là các dân tộc từ các hải đảo di cư đến và định cư trên nước ta. Về các vật liệu trong lao động sản xuất của người Chăm, xin chia sẻ một số thông tin, chẳng hạn như : gạch xây của người Chăm. Có lẽ chúng ta đều đã ít nhất một lần được biết đến tháp Chàm, một di sản văn hóa của người Chăm mà đến nay nó vẫn để lại nhiều bí ẩn làm đau đầu nhiều nhà khoa học. Khác với những dân tộc trong thời cổ đại, người Chăm không dùng đá trong xây tháp mà lại dùng gạch, những viên gạch đó xây dựng nên những công trình tồn tại hàng thiên niên kỷ mà vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt" thật là một điều kỳ lạ, đáng tiếc là do chiến tranh mà nhiều di tích không còn nguyên vẹn (như thánh địa Mỹ Sơn). Theo tìm hiểu của tôi, gần đây người đã dùng những phương tiện hiện đại nhất để thử phục hồi "một viên gạch" của người Chăm nhưng chưa lần nào thành công, chẳng hạn như : trong cùng kích cỡ thì trọng lượng gạch Chăm nhẹ hơn, cùng những chất liệu gạch đó thì gạch người Chăm ráo nước nhanh hơn, ... Đó là chưa nói đến chất liệu gì để kết dính các viên gạch đó ... Ngay lúc tôi đang gõ những dòng chữ này, cách đây vài giờ, tôi đang ở bên các tháp Chăm và trò chuyện cùng những người bạn Chăm : tháp Posanư, một công trình đã tồn tại cách nay hơn 1000 năm. Do đang bận công tác nên không thể có nhiều thời gian tham gia diễn đàn, tôi xin hẹn sẽ tiếp tục chia sẻ thêm về các tháp Chăm cũng như rất mong nhận được những kiến thức đóng góp của quý vị về những công trình này, rất quan tâm. Xin cám ơn ! Tháp Chàm Posanư
-
Hồn gốm Chu Ðậu Sau 500 năm thất truyền, một dòng gốm hồi sinh. Dòng gốm ấy thấm đẫm hồn Việt, mang vẻ đẹp kiêu sa - dòng Chu Ðậu. Có mấy dấu mốc đáng chú ý để chúng ta tìm lại được dòng gốm quý ấy. Dấu mốc thứ nhất: Tháng 6-1980, ông Ngô Duy Ðông, Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng (cũ) nhận được một lá thư gửi đến từ xứ sở hoa anh đào xa xôi - thư của ông Makoto Anabuki, làm việc tại Bộ Ngoại giao Nhật Bản. Thư có đoạn: "Tôi mới được biết Viện bảo tàng Thổ Nhĩ Kỳ vẫn bảo tồn một lọ Hoa lam Việt Nam, đã được xuất cảng Việt Nam hồi thế kỷ 15, thế kỷ 16. Lọ ấy có mang chữ Hán như sau: Ðại hòa bát niên Nam Sách Châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút. Nghĩa là, năm 1450, một người thợ tên là bà (cô) Bùi Thị Hý ở Nam Sách đã vẽ (hoa văn trên lọ)." Dấu mốc thứ hai: Năm 1998, hải quân ta và các ngư dân đã phát hiện năm con tàu đắm ở Cù Lao Chàm, vùng biển Hội An. Khi trục vớt các con tàu ấy, đã thu được khoảng 400 nghìn cổ vật. Các hãng tin trên thế giới bình luận ồn ào về một dòng gốm kỳ ảo của Việt Nam. Không lâu sau đó, 46 bảo tàng danh tiếng trên thế giới đã sưu tầm và trưng bày gốm cổ Chu Ðậu. Trong phiên đấu giá đầu tiên tại Mỹ, chiếc bình gốm Tỳ bà cổ Chu Ðậu (cao 24 cm) đã được bán với giá 512 nghìn USD. Còn chiếc bình Hoa lam Chu Ðậu hiện lưu giữ tại Bảo tàng Tokapi Saray Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ được mua bảo hiểm hàng triệu USD. Dấu mốc thứ ba, còn khá mới mẻ: Năm 2000, anh Nguyễn Hữu Thắng, Tổng Giám đốc Tổng công ty Thương mại Hà Nội (HAPRO) sau khi đọc các bài báo viết về sự kiện trục vớt các con tàu đắm ở Cù Lao Chàm, đã bay ngay vào TP Hồ Chí Minh. Anh Thắng bàn với anh Nguyễn Văn Lưu, lúc đó là Trưởng phòng xuất nhập khẩu của HAPRO, đây là thời cơ vàng, phải nghiên cứu, làm dự án khôi phục nghề gốm Chu Ðậu. Thế rồi một năm sau đó, tháng 10-2001, Xí nghiệp gốm Chu Ðậu ra đời. Nguyễn Văn Lưu "bay" từ phương nam ra và "đậu" trên đất Nam Sách, Hải Dương, gây dựng cơ ngơi tự thuở ban đầu. Giám đốc Nguyễn Văn Lưu, 51 tuổi, lai lịch hầu như chẳng dính dáng gì đến nghề gốm. Anh tốt nghiệp "trường Cầu Rào" (Ðại học hàng hải), rồi đi làm thuyền trưởng hải quân. Rồi rẽ ngoặt sang ngành an ninh, đeo lon Ðại úy. Và còn nhiều lần "rồi" nữa, trước khi về làm gốm. Con tàu ấy giờ neo vững ở bến này. Nguyễn Văn Lưu nói về dòng gốm Chu Ðậu, về văn hóa xứ Ðông tường tận, tỉ mỉ, như một nhà nghiên cứu, một chuyên gia thực thụ: - Các anh, chị biết không, gốm Chu Ðậu được coi là gốm đạo, gốm bác học. Nó in đậm dấu ấn những giá trị nhân văn của Phật giáo, Nho giáo. Nhờ những hoa văn trang trí rất độc đáo, khiến cho gốm Chu Ðậu không thể lẫn với các loại gốm khác. Có hai sản phẩm tiêu biểu nhất là bình Hoa lam và bình Tỳ bà. Hai chiếc bình ấy, như đã nói ở phần trên, có giá hàng chục tỷ đồng. Hoa lam là bình cha, Tỳ bà là bình mẹ, tượng trưng cho tín ngưỡng phồn thực âm dương - trời đất - vợ chồng. Theo thư của ông M.Anabuki, thì từ thế kỷ 15, bà Bùi Thị Hý, người Nam Sách, đã vẽ nên những hoa văn tuyệt vời này. Trên bình Hoa lam, hoa văn được trang trí bằng hoa cúc đại đóa, thể hiện cho người chính nhân quân tử. Các sản phẩm gốm cổ Chu Ðậu đều được vẽ dưới men, nung trong lửa lò, sau lấy ra phủ men tam thái lên trên, lại đem nung nhẹ lửa để giữ mầu. Ðủ thấy những nghệ nhân Chu Ðậu xưa rất chú trọng về kỹ thuật và công phu chế tác. May thay, sau hơn năm thế kỷ, nghề gốm lại hồi sinh trên đất lành, đất thiêng. Những cháu, chắt, chút, chít của các dòng họ Ðặng, Vương, Vũ... mà tiêu biểu là nghệ nhân Ðặng Thị Hý, lại tạo tác những sản phẩm quý trên nền tảng một dòng gốm thuần Việt. Ba loại sản phẩm chủ yếu hiện nay là: đồ gốm phục cổ, đồ gốm đương đại, đồ gốm với đất gan gà. Chu Ðậu nay thuộc xã Thái Tân, huyện Nam Sách, cách TP Hải Dương chưa đầy 10 km. Nơi đây giáp ranh Chí Linh, một dải đất có nhiều đất sét trắng. Theo tính toán của các nhà khoa học, khoảng 500 ha có đất sét trắng, đến nay mới khai thác, sử dụng khoảng một nửa. Ðất sét trắng là nguồn nguyên liệu quý để làm gốm, sứ. Nghề làm gốm có câu nói cửa miệng: "Nhất liệu, nhì nung". Khách thăm đứng lặng hồi lâu ngắm nhìn những cô gái đồng chiêm óng ả lưng thon, miệt mài tạo dáng gốm. Phương pháp tạo dáng cổ truyền làm bằng tay trên bàn xoay. Bằng những động tác thuần thục, chính xác, các cô "vuốt tay, be chạch" trên bàn xoay. Thợ ngồi trên một chiếc ghế cao hơn mặt bàn, khéo léo dùng chân quay bàn xoay, bàn tay thoăn thoắt vuốt đất, tạo nên dáng những bình, những lọ, những chậu... Nguyên liệu trước khi đưa vào bàn xoay được vò nhuyễn, cuốn thành thoi rồi ném (bắt nẩy) để thu ngắn dần. Rồi thỏi đất được đặt giữa bàn xoay, vỗ mạnh cho dính chặt, lại nén và kéo cho tới khi nhuyễn dẻo mới "đánh cử" đất và "ra hương". Từ xa xưa, những cô gái Chu Ðậu hiền thục, khéo tay dùng bàn xoay xoay vuốt vuốt, tạo dáng ban đầu sản phẩm, đó là nét rất riêng của nghề gốm Việt Nam, không giống với cách làm gốm của phương Tây. Ngày nay, việc tạo hình gốm sản phẩm chủ yếu bằng khuôn in - khuôn bằng thạch cao, hoặc gỗ. Người thợ đặt khuôn giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuôn, rồi ném mạnh đất in sản phẩm cho bám chắc chân giữa lòng khuôn, vét đất lên lợi vành, quay bàn xoay và kéo cán tới mức cần thiết để tạo sản phẩm ưng ý. Nung gốm đòi hỏi kỹ thuật cao, bảo đảm thời gian và nhiệt độ thích hợp để gốm không bị già hoặc non lửa. Anh Nguyễn Quốc Việt, một thợ đốt lò lâu năm giảng giải: - Có cả thảy ba giai đoạn để thành một sản phẩm gốm hoàn chỉnh. Thứ nhất, phải sấy từ 30 phút đến một giờ. Thứ hai, khâu chủ yếu là đốt, ngắn nhất từ bảy đến tám giờ, dài nhất từ 10 đến 15 giờ. Thứ ba, bảo ôn, tức là giữ nhiệt "đứng im" trong lò chừng một giờ trong khoảng 1.200 độ C. - Khi nào thì gốm hỏng, hoặc kém chất lượng? Tôi hỏi. - Hỏng! Chả tránh được, nhưng ít. Lâu lắm mới bị một lò hỏng trăm phần trăm. Là do ga sống. Các sản phẩm ra lò bị méo, bị nhòe mực và mầu không chuẩn. Nước ấy thì chả cách gì cứu được, chỉ có đập vỡ mà... đổ ra đường. Lại nói về mầu hoa văn trên gốm. Họa sĩ Ðỗ Ngọc Hân bảo: "Có người tưởng đơn giản, cứ mang mấy thỏi mực tàu ra mài rồi vẽ. Mực trang trí đồ gốm phải làm công phu lắm. Chả biết thời trước cụ Bùi thị Hý pha mầu thế nào. Chứ bây giờ thì chúng em dùng mực kim loại, pha ô-xít sắt với ô-xít cô ban theo đúng tỷ lệ. Mực này khi nung, nhiệt độ cao hơn 1.000 độ C mới chịu được, không bị cháy, bị nhòe". Các họa tiết trên bình cổ thường là cây cỏ, hoa lá, chim muông, được cách điệu. Cũng có bình vẽ các nhân vật thần thoại, như Thánh Gióng, Thạch Sanh... Có chiếc bình lớn họa sĩ hì hục vẽ suốt một tuần. Trước mặt là ba bốn đĩa mực, chung quanh đủ các loại bút. Nào là bút tỉa, bút đi nét, nào là bút mảng to, mảng nhỏ. Họa sĩ Hạ Bá Ðịnh năm nay gần 70 tuổi. Ông về hưu, sống ở TP Hải Dương nhưng vẫn lên Chu Ðậu truyền nghề. Giọng trầm ấm, ông kể: Nghề này học ở trường chưa đủ. Học từ thầy và học từ đất, từ trong dân gian mới nên trò nên trống. Thợ vẽ gốm cao tay, hoa văn, họa tiết luôn hài hòa với dáng gốm. Các nghệ nhân Chu Ðậu dùng các họa tiết truyền thống như: ngỗng ấp, hoa cúc dây, hoa đào... nhưng nét thì mỗi người mỗi vẻ. Chú hỏi nét vẽ đẹp là thế nào ư? Là ngay trong một nét vẽ đã có sắc độ, có đậm, có nhạt. Kể cả nét bệt bút và công bút đều phải có sắc độ. Rồi là nét phải hoạt. Thủ pháp giỏi là ở độ rung bút. Khi dầm bút, nét hơi rung thì nét có hồn. Nghệ nhân giỏi mỗi nét chỉ phẩy bút một lần, tô lại, chữa lại là vứt. Ông Hạ Bá Ðịnh học nghề làm gốm từ người cha là cụ Hạ Bá Loan. Năm 13 tuổi tiếp tục theo học cụ Bùi Tường Viên, kỹ sư si-li-cát từ thời Pháp thuộc. Gần 60 năm theo nghề, tay bút, tay thước đi khắp thiên hạ, bảy năm nay mới được về quê làm gốm Chu Ðậu. Men quê rung trong lòng. Lửa lò gốm sáng trong lòng. Lần nào cầm bút trước bình gốm lòng ông cũng xao xuyến, bồi hồi. Ông bảo, sự rung động của mỗi người thợ, từ người tạo dáng, người vẽ, người phủ men, đốt lò nó truyền vào sự rung động của gốm. Nghề này, không yêu, không say mê, chẳng tạo ra hồn gốm, nói rộng ra chẳng mang hồn đất Việt. Hơn 500 năm trước, gốm cổ Chu Ðậu lên tàu vượt đại dương. Bấy giờ những người làm gốm cũng đồng thời là những nhà thương mại. Có thể, con tàu làm bằng gỗ tếch trên đường tới Tây Ban Nha, đã gặp nạn chìm dưới đáy biển. Ai ngờ, có một ngày những con tàu viễn dương lại vượt sóng, mang theo dòng gốm truyền thống đến với bè bạn năm châu. Thật ngẫu nhiên, chuyến hàng xuất khẩu đầu tiên là sang Tây Ban Nha. Nay gốm Chu Ðậu đã xuất khẩu sang 15 nước, trong đó có Nga, Ðức, Tây Ban Nha, Italia, Mỹ, Nhật... Sản phẩm gốm có hàng nghìn mẫu mã. Bạn bè, đối tác khâm phục nhất vẫn là hai chiếc bình phục cổ Hoa lam và Tỳ bà. Có chuyên gia nước ngoài gọi tên gốm Chu Ðậu là gốm Hoa lam. Có lẽ là do cái mầu gốm rất độc đáo, mầu lam ngọc. Ông Tăng Bá Hoành, Giám đốc Bảo tàng Hải Dương trong một tài liệu nghiên cứu về gốm Chu Ðậu, có trích một câu trong gia phả nhà họ Vương. Nguyên văn: "Nam Sách phủ, Thanh Lâm huyện, Ðặng Xá xã, dĩ đào bát vi nghiệp, hậu nhất chi di cư Gia Lâm huyện, Bát Tràng xã. Cụ Vương Quốc Doanh hương công dĩ đào bát vi nghiệp". Dịch nghĩa: Họ Vương ở xã Ðào Xá, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách làm nghề đồ gốm, sau một chi di cư về xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, và cụ Vương Quốc Doanh làm hưng thịnh nghề đồ gốm ở đấy. Ngày nay cùng với Chu Ðậu, Bát Tràng, nước ta có nhiều làng gốm, trải dài từ bắc chí nam. Gốm Phù Lãng là loại gốm không men (đất nung). Gốm Bát Tràng men trắng, hoa xanh, họa tiết có sự giao thoa của các nền văn hóa Ðông - Tây. Gốm Chu Ðậu là gốm đạo, men trắng, hoa lam, hoa văn, họa tiết thuần khiết Việt Nam. Dòng gốm ấy phát triển rực rỡ trong suốt mấy thế kỷ, từ thời Lý đến thời Trần, thời Lê. Say sưa, Nguyễn Văn Lưu, anh thuyền trưởng hải quân năm nào, lãng mạn: - Con tàu gốm của chúng ta đang ra biển lớn. Mỗi "công" (container) gốm xuống tàu là một mùa hái quả. Mừng lắm các anh, chị ạ, quả chín tới đâu, bán hết đến đấy. Hợp đồng đặt hàng trong vài năm tới, xong cả rồi. Theo tay anh Lưu chỉ, tôi hình dung một làng gốm cổ được tôn tạo, bảo vệ trở thành di sản văn hóa. Rồi một làng gốm, một làng sứ, một khu du lịch, vui chơi giải trí đang hình thành. Xứ Ðông thêm một điểm du lịch văn hóa - lịch sử nổi tiếng. Ðiểm văn hóa ấy có tên Gốm Chu Ðậu. HẢI ĐƯỜNG (theo Nhân Dân)
-
Mấy ai biết rằng những đồ gốm sứ Bát Tràng nổi tiếng lâu nay có nguồn gốc lung linh tinh xảo từ quá khứ xa xưa của văn minh Đại Việt : làng gốm Chu Đậu. Việc trục vớt được nhiều cổ vật cùng với sự hiện diện ở nhiều nhà bảo tàng trên thế giới của gốm sứ Chu Đậu chứng tỏ một điều rằng : đã có một nền công thương phát triển rực rỡ trong lịch sử văn minh Đại Việt. Thế mà ngày nay một số nhà sử học lại cho rằng "trước khi người Pháp sang, VN chưa hề có xe bánh xếp ngang". Vậy không rõ ngày xưa những hàng gốm sứ tinh xảo này được vận chuyển trên bộ thế nào nhỉ ? B)
-
Gốm Chu Đậu Gốm Chu Đậu phát triển rực rỡ từ cuối thời Trần đến hết triều Mạc (ảnh dưới: bình gốm làm năm 1450, nay thuộc bảo tàng Topkapi Sarayi, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Sau hơn ba thế kỷ thất truyền, gốm Chu Đậu giờ lại hồi sinh.Đi tìm lai lịch dòng gốm cổ. Theo quốc lộ 5, qua TP Hải Dương, rẽ theo quốc lộ 183, chúng tôi đến thôn Chu Đậu, một vùng quê yên bình bên tả ngạn sông Thái Bình, thuộc huyện Nam Sách. Chu Đậu theo tiếng Hán có nghĩa là bến thuyền đỗ. Những năm trước kia, cư dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông nên địa danh Chu Đậu ít được mọi người biết đến. Lai lịch làng gốm cổ Chu Đậu được phát hiện một cách tình cờ như sau. Bình Chu Đậu, bảo tàng Topkapi Sarayi Năm 1980, ông Makato Anabuki, nguyên là Bí thư đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, trong một chuyến đi công tác tại Thổ Nhĩ Kỳ đã trông thấy một chiếc bình gốm hoa lam cao 54cm được trưng bày tại Viện Bảo tàng Tokapi Sarayi (Istanbul). Trên bình có ghi dòng chữ Hán: "Thái Hòa bát niên Nam Sách châu, tượng nhân Bùi thị Hý bút", tạm dịch là "Năm Thái Hòa thứ tám (1450) thợ gốm họ Bùi, người châu Nam Sách vẽ chơi". Và ông Makatô Anabuki đã viết thư nhờ đồng chí Ngô Duy Đông, Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương thời bấy giờ xác minh giúp ông xem chiếc bình gốm quý giá đó có xuất xứ từ làng gốm nào.Những thông tin quý báu này giúp các cơ quan chức năng thúc đẩy việc điền dã, sưu tầm những dấu vết về làng gốm cổ. Tháng 4-1986, Sở Văn hóa-Thông tin Hải Dương tiến hành khai quật di tích Chu Đậu. Kết quả thật bất ngờ, các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều di vật của một trung tâm gốm mỹ nghệ cao cấp chưa từng được phát hiện. Từ đó đến nay, qua tám lần khai quật ở tầng sâu 2m trên diện tích 70 nghìn m2 tại xã Thái Tân và xã Minh Tân, các nhà khảo cổ phát hiện được rất nhiều hiện vật gốm cổ cùng hơn 100 đáy lò gốm dưới lòng đất. Kết quả những cuộc khai quật không chỉ làm giới chuyên môn kinh ngạc, mà còn giúp người dân địa phương khám phá quá khứ lẫy lừng của tổ tiên mình. Trước đây, khi đào ao, xây nhà, họ thường hay bắt gặp những chiếc mâm bồng, con kê vành khăn (những công cụ chống dính của lò gốm), nhưng không ai biết những thứ đó dùng để làm gì, nên thường cho trẻ nhỏ chơi. Bình chim phượng, TK15, Metropolitan Museum of Art, New York Sau những kết quả của các cuộc khai quật, sản phẩm gốm Chu Đậu còn được tìm thấy ở những hai con tàu bị đắm ở vùng biển Pandanan (Philippines) và Cù Lao Chàm (Việt Nam) vào năm 1993 và 1997. Hơn 340 nghìn hiện vật gốm Chu Đậu, trong đó có khoảng 240nghìn hiện vật còn lành đã được trục vớt, chứng tỏ gốm Chu Đậu đã được xuất cảng rộng rãi thời bấy giờ.Giới chuyên môn đánh giá cao gốm Chu Đậu, đó là một loại gốm "mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông". Từ dáng vẻ, chất men, họa tiết, hoa văn trang trí... tất cả đều đẹp hoàn hảo. Gốm Chu Đậu được thể hiện dưới nhiều hình thức như vẽ, khắc, họa, đắp nổi đều phóng khoáng, trữ tình, hài hòa, tinh xảo. Những họa tiết, hoa văn trên gốm thể hiện đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Đó là khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống của cư dân đồng bằng châu thổ sông Hồng như cảnh mục đồng chăn trâu, chim đậu trên cành hoa, đàn cá bơi dưới nước, mái nhà tranh ven sông... Phương pháp chế tạo đạt trình độ cao, đó là chuốt, tạo dáng trên bàn xoay, ngắt sản phẩm thành nhiều công đoạn rồi lắp ghép lại và gia công. Các sản phẩm được thể hiện trên chất liệu men trắng hoa lam, men ngọc, hay men màu tam thái. Đĩa hoa mẫu đơn, TK 15, Metropolitan Museum of Art, New York Hiện nay, 46 bảo tàng trên thế giới đang trưng bày các hiện vật gốm Chu Đậu. Trong những cuộc bán đấu giá, chiếc bình gốm hoa lam cao 54cm tại bảo tàng Topakisaray đã được trả giá tới một triệu USD. Hàng trăm nghìn cổ vật gốm thu thập được qua các cuộc khai quật đã xác định được Chu Đậu là trung tâm chuyên sản xuất gốm cao cấp từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17. Đồng thời, hàng nghìn đồ gốm Chu đậu có trong nhiều bảo tàng ở Việt Nam và nước ngoài đã xác nhận Chu Đậu là nơi làm gốm hàng đầu với chất lượng cao, loại hình và kiểu dáng đa dạng. Theo các nhà khoa học, khi chiến tranh Trịnh-Mạc xảy ra, vùng Nam Sách trong đó có làng gốm Chu Đậu đã bị tàn phá. Các nghệ nhân làng gốm đã phiêu bạt đến các vùng khác, lập nên các làng nghề gốm mới.Gốm cổ Chu Đậu hồi sinh và trở lại thương trường Sống trên mảnh đất đã sản sinh ra dòng gốm quý nhưng chẳng mấy người dân Chu Đậu ngày nay thạo nghề này. Họ chỉ quẩn quanh với đồng ruộng và nghề dệt chiếu nên cuộc sống khá khó khăn. Đầu năm 2000, anh Nguyễn Hữu Thắng, Giám đốc Công ty sản xuất, dịch vụ và xuất nhập khẩu nam Hà Nội (Hapro) một người con của quê hương Nam Sách đã về Chu Đậu để thực hiện một dự án đầu tư sản xuất mặt hàng gốm xuất khẩu, nhằm khôi phục thương hiệu gốm nổi tiếng, kết hợp với hoạt động du lịch làng nghề. Được sự ủng hộ của chính quyền và nhân dân địa phương, tháng 10-2001, Xí nghiệp gốm Chu Đậu ra đời và đi vào hoạt động. Cơ sở mới rộng 33.250m2 được xây dựng trên dòng sông cổ chảy qua làng, với tổng vốn đầu tư giai đoạn 1 là 24 tỷ đồng. 20 nghệ nhân từ Hà Nội, Bình Dương, Biên Hòa, Hải Dương... đã nhận lời hợp tác với đơn vị, vừa nghiên cứu những nét đặc sắc của gốm Chu Đậu, vừa thiết kế những mẫu sản phẩm mới để đưa ra thị trường. 178 công nhân, chủ yếu là người địa phương được xí nghiệp tuyển chọn. Qua thời gian đào tạo, đến nay những người thợ trẻ đã khá thành thục với các thao tác làm gốm. Thăm xưởng gốm rộng gần 3000m2, chúng tôi có cảm giác làng gốm Chu Đậu đang sống dậy bởi bàn tay những người thợ trẻ. Nghệ nhân Hạ Bá Định đang hướng dẫn hai thợ trẻ là Đặng Thị Huyền và Nguyễn Thị Nhung vẽ hoa văn trên bình gốm hoa lam. Cạnh đó, nghệ nhân Vũ Thế Cữu, 72 tuổi, đang hoàn thiện bình lồng cuốn. Anh thợ trẻ Nguyễn Hữu Trãi bên cạnh nghệ nhân cặm cụi tô điểm nét sắc sảo cho rồng đắp nổi trên lư hương bằng gốm. Hoạ sĩ-nghệ nhân gốm Vũ Nhân, Chủ tịch Hiệp hội Câu lạc bộ gốm Việt Nam giới thiệu với chúng tôi chiếc bình tỳ bà phỏng chế theo kiểu bình gốm hoa lam ở Bảo tàng Tokapi Sarayi. Theo ông, chiếc bình mới dù chưa mỏng bằng bình cổ nhưng đã tìm lại được phần nào hồn gốm Chu Đậu xưa. Tháng 5-2003, xí nghiệp gốm Chu Đậu đã xuất khẩu lô hàng đầu tiên sang thị trường Tây Ban Nha. Từ đó đến nay, xí nghiệp đã có nhiều lô hàng xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới. Giám đốc xí nghiệp Nguyễn Văn Lưu cho biết: "Không chỉ phục vụ xuất khẩu, gần đây, đơn vị nhận được nhiều đơn đặt hàng của các khách hàng trong nước, gốm Chu Đậu đã hồi sinh và được đón nhận. Hơn 200 cán bộ, công nhân của xí nghiệp luôn có việc làm". Nậm rượu hình rồng Không chỉ dừng lại ở việc phát triển thương mại, UBND tỉnh Hải Dương còn đầu tư để thôn có cơ hội phát triển du lịch làng nghề. Đường từ quốc lộ 5 vào làng được nâng cấp rộng rãi. Đền thờ Đặng Huyền Thông - ông tổ nghề gốm Chu Đậu được tu sửa khang trang. Các di tích lò gốm cổ, bảo tàng gốm thôn Chu Đậu - nơi lưu giữ nhiều hiện vật gốm cổ được tìm thấy qua các lần khai quật được sửa sang, mở cửa đón khách. Cuộc sống người dân Chu Đậu đã từng bước được cải thiện nhờ vào sản phẩm gốm.Để có thể giới thiệu rộng rãi các sản phẩm gốm Chu Đậu mới đến khách hàng trong và ngoài nước, mới đây, Xí nghiệp đã hoàn thành việc xây dựng nhà trưng bày và giới thiệu sản phẩm gốm Chu Đậu rộng 1000 m2. Ngày mở cửa phòng trưng bày cũng là ngày những người dân Chu Đậu và các xã lân cận vui sướng, hồ hởi bởi Chu Đậu được Tổng cục Du Lịch Việt Nam chọn là địa điểm để tiến hành kỷ niệm ngày du lịch thế giới, đồng thời khai trương tour du lịch mới hấp dẫn tại làng gốm Chu Đậu. Khánh Hưng Theo Eastern Culture
-
Chu Đậu là vùng đất nằm ở tả ngạn sông Thái Bình – xưa là Trần triều hải khẩu (cảng nhà Trần). Theo ngữ nghĩa thì Chu là thuyền, Đậu là bến (bến thuyền), nơi đây thuyền bè ra vào tấp nập, thuộc tổng Thượng Triệt, huyện Thanh Lâm, Nam Sách Châu, nay là huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương “Chu Đậu” đi bằng đường sông Thái Bình, ngược lên Lục Đầu Giang (đền Kiếp Bạc, Phả Lại) khoảng 6 km, theo sông Kinh Thầy ra Vân Đồn - thương cảng lớn giao lưu quốc tế xưa và nay, hoặc xuôi về thành phố Hải Dương cũng chừng 6 km rồi qua sông Luộc, về Phố Hiến và Hà Nội. Chu Đậu cách đường 183 cao tốc 5 km, nếu đi bằng đường bộ thì rẽ phải ra quốc lộ 5 đi Hà Nội hoặc Hải Phòng hoặc rẽ trái để qua đường 18, đi Hạ Long, Cửa Ông (ra cảng Vân Đồn), Móng Cái. Sáu mươi năm trước, tôi đã nghe đến “Gốm Chu Đậu”. Rồi đất nước có chiến tranh, phải đi xa! Nay trở về, tôi tìm đến nơi này và đã có mặt ở đây hàng tháng trời. Gốm Chu Đậu đã cuốn hút tôi vào việc, có khi quên trưa, quên ăn. Ôi! Bấy nay người ta chỉ biết đến gốm Bát Tràng, Quảng Ninh, Thổ Hà... kể cả những nhà nghiên cứu và giảng dạy về gốm sứ. Bởi lẽ họ chưa thấy có một trung tâm gốm nào thời Lê, nên khi thấy sản phẩm gốm hoa lam, gốm tam thái (3 màu - thực là 5 màu) thì nghĩ ngay là của Bát Tràng. Sự thật không phải. Bởi đến nay, Bát Tràng vẫn chưa đưa ra được sưu tập gốm hoa lam thế kỷ 14 – 15. Trong khi đó gốm hoa lam, gốm tam thái là mặt mạnh của Chu Đậu từ thế kỷ 14, cực thịnh ở thế kỷ 15 – 16, bị lụi tàn đi ở thế kỷ 17. Điều này do nhiều nguyên nhân: Nội chiến Lê Mạc kéo dài từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 17 rất khốc liệt. Nhà Mạc thất thủ phải lên ngàn. Nơi đây là vùng chiêm trũng của huyện Nam Sách. Mãi những năm cuối thập niên 20 thế kỷ trước Nam Sách mới có đê. Có nghĩa trước đó nước sông vào ra tự nhiên, tránh sao khỏi hư hại đến lò nung, sản xuất gặp nhiều khó khăn. Giặc Minh xâm lược nước ta, bắt đi nhiều nghệ nhân giỏi. Một số khác tìm đường đi làm ăn ở Nhật, Nam, Bắc Triều Tiên. Nghệ nhân Vương Quốc Doanh đem thợ đến Bát Tràng, góp một phần làm cho gốm sứ Bát Tràng hưng thịnh như ngày nay. Di tích văn hoá gốm cổ Chu Đậu được phát hiện, khôi phục, công này trước nhất do ngài Makato Anabuki – nguyên Bí thư Đại sứ quán Nhật tại Hà Nội. Năm 1980, ông đi công tác Thổ Nhĩ Kỳ. Khi đến thăm bảo tàng Topkapi Saray ở thủ đô Istabul, ông thấy trưng bày chiếc bình gốm hoa lam men trắng, hình củ tỏi, nghệ thuật vô cùng độc đáo, hoa văn trang trí là hoa sen và dây leo. Người tạo ra là Bùi Thị Hý bút Thái Hoà bát niên (năm 1450) - người Chu Đậu, Thanh Lâm, châu Nam Sách. Ông viết thư về Việt Nam để nhờ các nhà khảo cổ tìm nơi sản xuất. Qua năm lần khai quật, các nhà khảo cổ hàng đầu Việt Nam cùng ông bà Kerry Nguyễn Long (Đại học Tổng hợp Tasmania, Úc), giáo sư tiến sĩ Peter Burns (Đại học Tổng hợp Adelaide Úc), giám đốc trung tâm gốm sứ Đông Nam Á, các nhà khảo cổ học Đức, Ý, Pháp... đã có những cuộc hợp tác nghiên cứu, khai quật nhiều ở Đông Nam Á. Gần đây nhất, việc trục vớt 5 con tàu cổ đắm ở vùng biển Pandanan (Philippine), vùng biển Cù Lao Chàm (Hội An, Đà Nẵng) cho thấy nhiều hiện vật gốm đều là gốm Chu Đậu, điều đó chứng tỏ gốm Chu Đậu đã xuất khẩu với số lượng lớn cách đây 7, 8 thế kỷ. Các nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận: “gốm Chu Đậu là kế thừa gốm Vạn Yên (Hưng Đạo Kiếp Bạc) thế kỷ 13, kế thừa xuất sắc gốm Lý -Trần về men ngọc và hoa văn nổi chìm, kiểu dáng thanh thoát. Chất lượng gốm hoa lam, chưa một di tích gốm nào vượt được Chu Đậu”. Thời ấy, Chu Đậu đã đạt được 4 tiêu chuẩn ở đỉnh điểm mà văn hoá gốm đòi hỏi: mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông. Điểm mạnh nữa của gốm Chu Đậu là thể hiện được tâm hồn Việt và rất Việt qua hoa văn của một dân tộc gắn bó với thiên nhiên, yêu tự do và cuộc sống thanh bình. Trên sản phẩm ta thường thấy cỏ cây, hoa lá, chim muông, cầm thú và côn trùng như cành đào và chú chim bé nhỏ ngơ ngác mỗi khi xuân về, từng đôi hoặc từng đàn chim bay, cá cờ lượn lờ trong nước, trăng lên, những vầng mây đẹp nhẹ nhàng trôi, con cò, con vạc lặng lẽ đi ăn đêm. Ta còn bắt gặp cả hình ảnh cuộc sống và người dân Việt Nam như người đội nón, cô gái mặc áo tứ thân tóc đuôi sam, em bé chăn trâu, mái nhà tranh và hàng tre bên bến sông, cô lái đò. Chính cái nét văn hoá rất riêng này mà gốm Chu Đậu được trưng bày, lưu giữ ở hơn 40 bảo tàng lớn trên thế giới và rất được thế giới săn tìm. Chiếc bình rồng, biểu tượng cho văn hoá Việt Nam tại trụ sở Liên Hợp Quốc là gốm Chu Đậu. Chiếc bình tỳ bà men hoa lam trang trí cúc đại đoá, khi đem đấu giá, người Anh mua được với giá 521 ngàn USD (hai chiếc bình này đều là sản phẩm trục vớt trong số 28 vạn sản phẩm ở 2 con tàu đưa lên trước). Nơi đây còn là chiến khu xưa của nhà Mạc, có đền, tượng thờ vua Lê Lợi (ông cho nghỉ quân ở đây). Trong đền còn có tượng thờ các bà Vương Thị Ngọc Viên, Vương Thị Ngọc Chất và Vương Thị Ngọc Đĩnh (nuôi con cho vua). Bà Viên, bà Chất là vợ vua Lê Dụ Tông. Bà Vương là đệ nhất cung tần, được phong Chiêu Nghi Gia Kính Phi, bà Chất là nội thị cung tần. Ở đây còn có đền thờ 2 danh tướng Phạm Mại, Phạm Ngộ - tham tán quân vụ của Đức Hưng Đạo Vương và có đền thờ Đặng Huyền Thông, nhà nho, người thầy có công lớn với nghề gốm Chu Đậu. Nói đến gốm là nói đến văn hoá gốm, trình độ thẩm mỹ và văn minh của dân tộc ấy. Kiểu dáng đẹp, sang trọng của gốm Chu Đậu đã làm mê mẩn các quý bà quý ông và nhiều vương triều trong và ngoài nước. Giờ đây, Xí nghiệp gốm Chu Đậu ra đời để khôi phục giữ gìn bằng được “thần thái phong cách gốm cổ Chu Đậu”. Sau một năm sản xuất, xí nghiệp đã có lô hàng đầu tiên 8490 sản phẩm xuất khẩu trị giá 20.000 USD. Thế là sau 400 năm Chu Đậu lại có hàng xuất cho Tây Ban Nha – nơi chuyến cuối cùng được xuất sang ở thế kỷ thứ 17. Ngọc Trần (nguồn SGGP) Theo : http://www.sucsongviet.vn/langnghe/2008/6/55529.ssv
-
Anh Thiên Sứ hỏi : Anh Trần Phương có thể cho biết tác giả hai bài viết trên là ai không? Tên tác giả ở đây : Nguồn : Lương Ninh 2000, Chương II – Thời kỳ dựng nước Văn Lang – Âu Lạc, Lịch sử Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Chính trị Quốc gia, Tr.54-61. Tôi nhớ đã từng biết qua tên tác giả này trong một tài liệu lịch sử được đọc đã lâu rồi, trong thư viện ĐH Tổng Hợp (cũ), nếu tôi nhớ không lầm thì tài liệu đó là : "LỊCH SỬ VIỆT NAM", của các đồng tác giả : Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn - Lương Ninh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1991.
-
Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử VN Dương Trung Quốc : Phim về Lý Công Uẩn là thiếu tính khả thi Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử VN Dương Trung Quốc thận trọng khi nói về việc làm bộ phim kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, nhưng cuối cùng ông cũng quyết định bày tỏ suy nghĩ của mình với tư cách một nhà báo và một tổng thư ký hội: "Tôi chưa nói phản đối, nhưng tôi rất lo ngại". Hai điều lo ngại lớn nhất của nhà sử học * Sao cứ phải là phim về Lý Công Uẩn ? - Tôi thấy phải đặt lại vấn đề từ gốc: chúng ta cần một bộ phim để kỷ niệm 1.000 năm dời đô về Thăng Long hay một bộ phim về Thăng Long 1.000 năm tuổi? Rõ ràng đáp án mang tính xã hội rộng hơn chính là một bộ phim về Thăng Long ngàn năm. Như vậy chủ đề đã được mở rộng ra rất nhiều. Chúng ta đâu cứ nhất thiết phải làm phim về Lý Công Uẩn - dù ngài thật vĩ đại. Vì chọn đề tài này có nghĩa là chúng ta chọn làm một phim mang tính chất lịch sử về một thời kỳ mà giới sử học VN chúng tôi chưa có điều kiện để hiểu biết nhiều. Chúng ta chỉ có một câu chuyện lịch sử, mà chưa có một khung cảnh, thiếu hẳn tất cả các yếu tố trực quan: trang phục, nội ngoại thất… Không ai bắt phim phải y như thật, nhưng nó phải cho ra cái chất VN. Mà thế nào là VN, tôi quan niệm đơn giản nhất: không Tây, không Tàu thì là VN, nhưng mới chỉ có tượng cụ dựng ở vườn hoa mà nhiều người đã bảo trang phục trông giống Tào Tháo bên Trung Quốc, anatomie (giải phẫu học) thì dung mạo cụ như Tây. Cụ đứng im trong vườn hoa đã vậy, cụ lên phim còn phức tạp thế nào. Tôi nghĩ chúng ta chưa đủ sức làm phim về thời kỳ này đâu. Nên bắt đầu bằng một thời kỳ lịch sử khác, gần gũi hơn, nhiều sử liệu hơn, nhiều di tích vật thể còn lại hơn. * Làm phim đầu tiên phải xét đến tính khả thi - Tôi thấy trong khi chọn đề tài để làm phim, chúng ta đã bỏ qua yếu tố quan trọng nhất: tính khả thi. Chưa nói đến vấn đề tiền bạc - tôi vẫn cho rằng nếu bộ phim thật sự rất hay thì 200 tỉ đồng không phải là khoản đầu tư quá lớn. Chúng ta đang không biết xoay xở theo hướng nào. Tôi cũng có được mời tham gia ban cố vấn nhưng tôi buộc phải từ chối dù rất khâm phục nhiệt tình và quyết tâm của các nghệ sĩ. Có vẻ như các nhà làm phim đã và đang tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía Trung Quốc. Tìm kiếm với tâm thế không muốn thua kém họ. Lịch sử Trung Hoa và VN có thể có nhiều nét tương đồng, nhưng chúng ta đang làm phim về một ông vua đã khai sáng ra triều đại độc lập đầu tiên, tức là một ông vua đầu tiên khẳng định nền tự chủ không chỉ bằng võ công mà còn bằng nền văn hiến Việt Nam. Chúng ta làm phim về vua VN mà lại tìm kiếm bên Trung Quốc từ phim trường đến xe ngựa (!). Liệu các nhà làm phim có biết rằng trước khi người Pháp sang, VN chưa hề có xe bánh xếp ngang, cha ông chúng ta chủ yếu di chuyển bằng thuyền, đường cái quan chỉ là đường mòn cho người đi bộ? Các nhà làm phim có hiểu được người Trung Quốc sang xâm lược bao nhiêu lần thất bại chỉ vì chiến xa của họ không thể đi trên đường mòn VN, họ buộc phải hành quân bằng thuyền, và bao nhiêu lần thuyền chiến là bấy nhiêu lần họ thua, ba lần chiến thắng lừng lẫy nhất của chúng ta đều trên sông Bạch Đằng? Chúng ta cần cố vấn về chiến xa để làm gì? Cố vấn võ thuật cũng vậy. Võ học Trung Hoa rất kỳ bí và lẫy lừng. Nhưng chúng ta đều đã thắng họ. Vậy cha ông chúng ta ắt phải có một nền võ học riêng. Tôi không nói là giới sử học biết nó rõ như thế nào, nhưng chắc chắn nó từng tồn tại mà không một cố vấn võ thuật nào dù tài giỏi nhất của Trung Quốc có thể truyền tải lại cho các nhà làm phim VN được. Bởi vậy tôi mới nói là dù rất đánh giá cao những nỗ lực của các nghệ sĩ điện ảnh VN nhưng nếu bộ phim làm về Lý Công Uẩn mà thành công được thì thật… ngoài sức tưởng tượng. Nên bắt đầu bằng qui mô khiêm tốn * Nhưng thưa ông, cũng lại sẽ có ý kiến cho rằng nếu không bắt đầu đi thì bao giờ mới có thành quả, và chưa làm đã bàn lùi thì sức ép trên vai người làm phim sẽ rất lớn ? - Đúng là phải bắt đầu, nhưng "biết mình sức yếu" sao không bắt đầu từ những cái nhỏ để đi dần đến cái lớn. Chỉ nên làm những bộ phim qui mô khiêm tốn, về những nhân vật lịch sử đã có dày dặn tư liệu, và phải đặc trưng cho cốt cách, tâm hồn Hà Nội. Ví như có thể làm về Nguyễn Trãi thời kỳ ở Đông Quan, về Hà Nội năm 1946, đấy là những thời điểm lịch sử đặc biệt mà tinh thần dân tộc và tính cách Hà Nội nổi bật nhất. Đó cũng là những đề tài mà tính khả thi cao vì thu hút được sự quan tâm của công chúng, nhân vật có số phận, tính cách đặc biệt, nổi bật. * Vậy điều đó có mâu thuẫn gì với một phát biểu cũng của ông, là nhà sử học không nên can thiệp quá sâu vào chuyên môn của người làm phim? - Hoàn toàn không có gì mâu thuẫn, người làm phim phải nắm bắt được tinh thần của nhân vật và thời đại lịch sử mình sẽ làm. Còn trong phim, anh ta có toàn quyền sáng tạo. Tôi đã trao đổi với các nhà làm phim Hàn Quốc, họ nói kịch bản và phim trường Dae Jang Geum hoàn toàn không phụ thuộc vào sách sử cũng như hiện trạng cố cung, họ đã làm cho lịch sử và chân dung tiền nhân đẹp hơn, nhưng đó là vì họ đã nắm rất rõ tinh thần lịch sử và cốt cách Hàn. Còn ở ta thì ngược lại, vì quá thiếu sử liệu và đang hoang mang, nên các nhà làm phim phải cần đến một cố vấn lịch sử kè kè để chỉnh sửa các tiểu tiết. Các nhà làm phim đã quên mất là giới trẻ hôm nay xem phim không phải là để biết Lý Công Uẩn mặc gì, cưỡi ngựa gì, mà để hiểu vì sao ngài được ca ngợi đến thế. Mà điều đó thì tôi không chắc sẽ thấy khi xem phim. Theo Việt Hoài (Tuổi Trẻ)
-
Ông Dương Trung Quốc : Tôi đã trao đổi với các nhà làm phim Hàn Quốc, họ nói kịch bản và phim trường Dae Jang Geum hoàn toàn không phụ thuộc vào sách sử cũng như hiện trạng cố cung, họ đã làm cho lịch sử và chân dung tiền nhân đẹp hơn, nhưng đó là vì họ đã nắm rất rõ tinh thần lịch sử và cốt cách Hàn. Còn ở ta thì ngược lại,... Đây là một nhận xét hoàn toàn chủ quan và có phần tự ti, tôi tin rằng nếu việc xây dựng bộ phim về Lý Công Uẩn được xã hội hóa trên cơ sở tiếp nhận ý kiến rộng rãi thì chắc chắn rằng các kiến thức về lịch sử nước nhà không thể chỉ quanh quẩn chật hẹp ở các nhà sử học các ông. Cứ như phát biểu trên của ông thì có lẽ đến năm 3010 cũng chưa có đủ tri thức để làm một bộ phim tử tế về người khai sáng Thăng Long. Tôi sẽ viết tiếp về sự bàn ra của ông Dương Trung Quốc sau, hôm nay tôi chỉ muốn đến ý này của anh Thiên Sứ : Chính những nhà làm phim mới là người chịu trách nhiệm của họ về giá trị bộ phim. cũng như trách nhiệm của họ về sự đóng góp của nền điện ảnh Việt trong sự kiện lịch sử kỳ niệm giai đoạn khởi đầu huy hoàng của thời hưng quốc Việt, chứ không phải những người bàn ra kia. Vấn đề là chính các nhà làm phim có đủ quyết tâm, can đảm và tâm huyết hay không? Nếu quí vị có đủ, Thiên Sứ tôi sẵn sàng tư vấn miễn phí cho các nhà làm phim từ tri thức lịch sử đến phong cách thể hiện. Rất tin tưởng và hoàn toàn ủng hộ, tôi nghĩ anh nên có bài viết gởi về nguyện vọng của mình đến các ngành chức năng có trách nhiệm, vì thời gian không còn nhiều nữa.