Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Thanhdc cho ví dụ về trường hợp này.Cảm ơn nhiều.
  2. Công thức trên tính nạp âm Lạc Thư Hoa giáp thì sp biết rồi. Tại bận nên muốn Thanhdc cho vài ví dụ thôi. Nhưng sp cũng kiểm chứng lại rồi. Ok. Như vậy, sp sẽ biên tập lại một lần nữa và ghi rõ: Tác giả là anh Votruoc - Trần Quang, hiệu chỉnh bổ sung là Thanhdc. Sau đó đưa ra trang chủ của web. Thanhdc gửi PM cho sp biết tên thật để ghi nhận trên bài viết.
  3. Cảm ơn Thanhdc rút gọn phép tính. Anh Vô Trước thân mến. Vì bài viết của anh trình bày với hình lớn quá nên xem rất khó - cứ phải kéo thanh trượt để xem từng dòng. Vậy đề nghị anh chép lại phần minh chứng bảng Lạc Thư hoa giáp bằng phương pháp khác vào đây - chúng ta cùng tham khảo. Nếu phương pháp của anh hợp lý thì anh chính là chứng nhân của tôi trong trường hợp này. Cảm ơn sự quan tâm của anh.
  4. Sinh năm Kỷ Sửu - 2009 hoặc Canh Dần 2010 đều được.Tôi nick là Thiên Sứ chứ không phải Thiên Lý
  5. Thanhdc viết; Thanhdc thử cho một vài thí dụ cho phương pháp của mình.Xin cảm ơn.
  6. Kính thưa quý vị quan tâm. Tôi lại sưu tầm được bài này ở Vietime. Bài viết này có một bài thơ cổ - đã giới thiệu trong bài trước- nhưng lần này tôi chợt nhận ra bài thơ này khẳng định đây là mộ của Ngài Hoàng Hoa Thám. Xin quí vị và anh chị em xem hết bài viết này trên Vietime trước khi Thiên Sứ tôi giải mã bài thơ này. Bí mật về cái chết và ngôi mộ của Hùm thiêng Yên Thế Thứ năm - 7/8/2008, 07:00 GMT+7 Theo tư liệu của Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam thì cái chết của người anh hùng cầm đầu cuộc khởi nghĩa Yên Thế được ghi lại như sau: “Cuối tháng 12/1912, Lương Tam Kỳ, một tên trùm thổ phỉ đã đầu hàng Pháp, cùng bọn chỉ điểm người Hoa đến trá hàng Đề Thám. Chúng hứa với Đề Thám sẽ bày cho nghĩa quân cách chế tạo... bom tấn. Tại một ngôi lều chạy loạn ở khu vực Hố Nấy, họ chuốc rượu say rồi giết Đề Thám cùng hai thuộc hạ thân tín của Cụ. Đó là ngày 10 tháng 2 năm 1913. Năm đó, Đề Thám 55 tuổi. Cả gia đình Cụ Đề Thám bị giặc Pháp bắt và giết. Người con cuối cùng của ông là bà Hoàng Thị Thế, bị bắt về Pháp từ khi mới 6 - 7 tuổi, cuối đời bà đã về nước và đã qua đời." Liệu sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế tan rã vào cuối năm 1909, người anh hùng Đề Thám – con hùm thiêng Yên Thế thoát khỏi sự truy bức của thực dân Pháp và chính quyền tay sai, với giải thưởng treo đầu ông cực lớn có chịu chết một cách dễ dàng như vậy không? Đó vẫn là một nghi vấn. Bởi toàn gia của ông bị bắt và giết hại, chỉ sót lại mỗi một người con gái út. Nhưng tại sao trong tất cả những tư liệu đã được công khai hiện nay không có bất cứ một bức ảnh nào về cái chết của ông? Bài viết sau vừa giải đáp một phần nghi vấn về cái chết đó, vừa nêu lên những thắc mắc cần đến các chuyên gia bổ cứu... Ngôi mộ bí ẩn trên đồi thông Cẩm Trang... Ngôi mộ không bia của người ăn mày gần một trăm năm tuổi - Ảnh: Nhật Hạ Ngôi mộ vẫn được coi là "của một người ăn mày vô danh" chôn trên đồi thông cổ (nay chỉ còn lại dấu tích) của xóm Tân Lập, thôn Cẩm Trang, xã Mai Trung (huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang) đến nay đã được gần một trăm năm. Năm 2002, vào một buổi trưa, hai đứa con nhà chị Điền, anh Đường (những người chủ đất hiện tại) đang chơi ở ngoài vườn trong khi bố mẹ chúng đi vắng. Giống như mọi nhà hàng xóm khác, hai vợ chồng Điền – Đường thường hay đào đất làm gạch xây nhà., làm cho nền đất sụt dần xuống. Mấy hôm lại mưa nhiều nên chỗ đất ở chân ngôi mộ lở ra, lộ thiên hai cái xương gióng chân rất to. Hai đứa trẻ năm đó, một đứa 10 tuổi, một đứa 6 tuổi đang chơi đùa, nhìn thấy sợ quá nên báo cho người lớn. Theo lời anh Đường kể lại thì hai cái xương gióng chân trong mộ cứ lộ thiên như thế trong suốt hai tuần, sau đó anh mới dám lấp đất đi. Trong thời gian ấy, có rất nhiều người dân vì tò mò mà đến xem, có nhiều người còn lật đất lên để nhìn cho rõ... Chị Ngô Thị Thúy, một trong những người đến khu trại thông đầu tiên kể rằng, mỗi gia đình khi ra đây lập nghiệp chỉ có hai gian nhà tranh, cả khu nhà ở đây giống như khu “nhà chị Dậu”. Lúc ấy, ngôi mộ này đã có ở đấy, nhưng chưa được chú ý nhiều. Sau này, do những lời đồn thổi, đã có vài người có đi xem bói, có người xì xào, đây là ngôi mộ của một ông quan to... Vợ chồng anh Đường cũng đã đi xem bói nhiều nơi, thì thầy bảo rằng, đây là "khu mộ của người làm cách mạng, cần phải thờ cúng cẩn thận”. Thế nên hai vợ chồng, từ ngày cưới nhau về ở khu đồi thông, trong bữa cơm hàng ngày, khi dọn mâm, vẫn để thêm một chiếc bát và đôi đũa dành cho người chết vô danh đang cư ngụ... ngay trước cổng nhà. Không lâu sau đó, ở ngôi mộ này, người ta phát hiện ra một cái "lon" bằng gốm sứ (giống như cái hũ, cái liễn nhỏ). Bên trong cái lon này chứa đầy đất vôi, lật ngược cái lon cổ thì thấy có đĩa cổ in hình 4 con cá, lật cái đĩa cổ ấy ra thì thấy 1 cái đĩa nữa giống như thế ở phía dưới, dưới đĩa này là 1 cuộn giấy viết chữ Nho, sau lớp giấy này cũng lại 1 cái đĩa cổ nữa để tránh ẩm, nước mưa ngấm vào trong. Cuộn giấy này lập tức được mang tới các cụ biết đôi chút chữ Hán trong làng dịch, trong đó có cụ Kiểu, năm nay 96 tuổi (những dòng thơ này còn được Viện Hán - Nôm, Bảo tàng Bắc Giang dịch). Có nhiều bản dịch khác nhau, nhưng dịch nôm na nó ra thế này: “Cờ nghĩa bao năm đành lỡ vận. Hậu thế nghìn năm nào ai hay. Yên ngựa gửi thân nơi hồn đất. Thế sự Hoàng Hoa ai biết chăng?”. Và bí ẩn về ngôi mộ cổ này dần dần được hé mở với những tiết lộ của một người làm nhiệm vụ bí mật giữ mộ trong làng... Chuyện của chắt nội của người giữ mộ! Ông Nguyễn Văn Sử, cháu nội đời thứ 5 của cụ Lý Loan - Ảnh: Nhật Hạ Theo ông Nguyễn Văn Sử (59 tuổi), nhà ở xóm trong làng Cẩm Trang, cháu nội đời thứ năm của cụ Lý Loan (cụ Lý Loan sống cùng thời với vị anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám) thì ngôi mộ vô danh đó chính là mộ của vị anh hùng Đề Thám. Chính ông Sử là người đào được chiếc "lon" cổ (ảnh) này khi định trồng cây ở cạnh ngôi mộ, trước miếu thờ Hoàng Hoa Thám (dựng năm 2004). Theo ông Sử kể lại thì nhiều đời nay trong gia tộc nhà ông vẫn kể truyền miệng câu chuyện về ngôi mộ này, nhưng tuyệt đối giữ bí mật và câu chuyện chỉ được kể cho người con trưởng (ông Sử là út nhưng từ bé đã ngồi nghe lỏm chuyện của bố kể cho anh cả nghe về nghĩa quân Đề Thám). Cách đây tám năm, khi anh cả ông Sử mất, có dặn lại em út rằng: Ngôi mộ của người ăn mày vô danh trên đồi thông Cẩm Trang (xóm Tân Lập mới) chính là mộ của cụ Hoàng Hoa Thám, chỉ huy nghĩa quân Yên Thế năm xưa, mà dòng họ nhà ông có nhiệm vụ kế nhau gìn giữ và thắp hương cúng giỗ. Cụ Lý Loan, tên thật là Nguyễn Văn Uyển, từng là "cơ sở cách mạng" của cụ Đề Thám, thân làm đến chức lý trưởng trong làng. Con trai đầu cụ Uyển tên là Loan, nên cả làng quen gọi cụ Uyển là cụ Lý Loan. Khi ấy, nhà cụ ở xóm Nội Dinh (làng Cẩm Trang), cách nhà ông Sử bây giờ khoảng năm-sáu trăm mét. Ngôi nhà cổ rất đẹp, làm toàn bằng gỗ mít, nhưng năm 1954 thì đã được bán đi... Câu chuyện được lưu truyền trong dòng họ của ông Sử như sau: Sau khi vụ Hà Thành đầu độc (8/7/1908) của Đề Thám và nhóm nội ứng thất bại, mưu toan chiếm thành Hà Nội không thành. Ngày 29/1/1909, thực dân Pháp quyết định mở một đợt tấn công quy mô lớn vào khu căn cứ Nhã Nam – Yên Thế nhằm tiêu diệt căn cứ nghĩa quân làm chúng nhức nhối này. Toàn quyền Đông Dương P. Doumer và tướng Geil, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ trực tiếp chuẩn bị kế hoạch . Chiến dịch được thực dân Pháp chia làm 3 giai đoạn: từ 29-1-1909 đến 28-2-1910. Quân Pháp đã huy động 15.000 quân chính quy và khố xanh, 400 lính dõng, đây là một lực lượng lớn nhất từ trước tới nay chúng sử dụng tấn công nghĩa quân Yên Thế. Lực lượng này do đại tá Batay và quan đại thần Lê Hoan chỉ huy. Khi đó nghĩa quân Yên Thế chỉ có khoảng 200 tay súng thiện chiến (loại súng 1874 và 1886), còn lại là giáo, mác… Bộ chỉ huy, ngoài Đề Thám còn có một số tướng giỏi như Cả Rinh, Cả Trọng, Cả Huỳnh và bà Ba. Đề Thám chỉ huy nghĩa quân chiến đấu, cầm cự với địch suốt 13 tháng trời, gây cho quân địch nhiều tổn thất nặng nề. Tuy nhiên, so sánh lực lượng quá chênh lệch, để bảo tồn lực lượng, Đề Thám vừa tổ chức đánh trả, vừa phải rút lui khỏi Yên Thế, đến Thái Nguyên, Tam Đảo. Trong lúc đó con cả của Cụ là Cả Trọng bị tử thương và con gái út là Hoàng Thị Thế và nhiều người trong gia quyến bị bắt, bị giết. Lực lượng nghĩa quân giảm sút dần và tới cuối năm 1909, bị tan rã. Đề Thám phải sống ẩn náu trong núi rừng Yên Thế cùng hai thủ hạ tâm phúc. Các nhóm nghĩa quân sống sót thoát khỏi việc truy bắt của thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã tản mát đổi tên họ và trốn đi khắp mọi miền. Anh hùng Đề thám - Ảnh tư liệu Năm 1911, để tránh sự truy quét của giặc Pháp, Đề Thám cùng với hai người lính cận vệ, trong đó, một người tên là Nguyễn Văn Sự và một người khác tên Tài (là cụ ngoại của ông Nguyễn Văn Sử) và hai người con gái nuôi của cụ Đề Thám về ẩn náu ở thôn Cẩm Trang. Cụ Lý Loan che chắn, bí mật đưa cụ Đề đến ở "nhà cầu Thầy Mai" là một chái nhà như điếm canh đồng (cánh đồng sau được đổi tên là cánh đồng Yên Thế). Một thời gian sau, bà Ba - vợ ba của cụ Đề cũng được đón về ở cùng. Ngày ngày, ông Tài - là lính hầu - lo việc cơm nước cho cụ Đề Thám (hiện mộ hai người lính này vẫn ở thôn Cẩm Trang). Hai năm sau, ngày 9/5/1913, cụ Đề Thám ốm rồi mất. Sau khi cụ mất, để tránh sự chú ý của người dân cũng như tai mắt của bọn giặc, thi hài cụ được bí mật quấn chiếu rồi đem chôn bên cạnh một gốc thông trên đồi thông của thôn Cẩm Trang bởi nơi này địa thế cao, vắng vẻ, ít người qua lại. Hôm sau, mối đã xông kín phủ đầy ngôi mộ. Và, người dân trong xóm cũng chỉ phong thanh biết đấy là ngôi mộ của người ăn mày. Vì thế, ngày 9/5 ÂL được gia đình cụ Lý Loan lấy làm ngày giỗ cho cụ Đề thám thay vì ngày 5/1/1913 ÂL như một số cuốn sử vẫn chép (có nơi lấy ngày 4/1 làm ngày giỗ cụ Đề Thám). Còn theo tư liệu của Bảo tàng Quân sự, thì cụ Đề Thám bị sát hại ngày 10/2/1913 ở Hố Nấy. Theo những người cao tuổi trong làng, đồi thông này trước kia xanh tốt, có đến cả ngàn cây thông nếp. Nhưng những năm 80 của thế kỷ 20, khi xóm Tân Lập giãn dân, những cặp vợ chồng trẻ tuổi trong xóm Nội Cả, Nội Dinh cần có khu đất mới để sinh sống, làm ăn đã di chuyển đến khu đồi thông và lập nên một trại mới (gọi là đội 10) với khoảng 14 hộ gia đình, hình thành nên “khu ngoài” (Khi ấy, xã cấp cho mỗi hộ 1 sào đất, tương đương 360m2, để lập nghiệp). Dần dần, do nhu cầu đất ở, cả ngàn gốc thông đã... biến mất, thay vào đó là nhà cửa, vườn tược, người ta cũng thi nhau “khoanh thêm” những khoảng đất trống quanh nhà để tăng gia sản xuất. Khi đất đai ngày càng trở nên có giá, thì khu đồi thông càng “gọn gàng” hơn, bởi người người xây tường bao giữ đất. Vì thế, cho đến hôm nay, khu đồi thông xanh mướt ngày xưa, đã chẳng còn lấy một cái gốc cây. Đồi thông cổ giờ chỉ còn trong ký ức những người già ngoài 70 tuổi của làng, hay trong trí nhớ những người như ông Sử, bởi nó gắn với câu chuyện của cả họ tộc nhà Lý Loan. Vợ chồng anh Đường , chị Điền cùng thuộc đội 10 của trại thông, khoảnh vườn của nhà anh chị ôm trọn khu mộ. Ngôi mộ gần cả trăm năm tuổi, nhưng vẫn mang “dáng vẻ ngày xưa”, nghĩa là không bia, đất đắp mộ thấp lè tè, gần áp mặt đất. Chỉ khác xưa là, giờ ngôi mộ được quây lại bằng hàng gạch xây vuông vức những cũng đã mốc rêu xanh thẫm do ngày tháng. Trước, lối đi vào nhà anh Đường, cổng chính là cửa đền thờ cụ Đề Thám bây giờ. Nay, do khoảnh đất ấy dành để xây đền, nên lối vào cổng nhà anh Đường dịch xuống khoảng 10 mét, ngôi mộ nằm sát lối ra vào cổng, phía ngoài được rào bằng hàng rào tre gai để tránh có người vào đào trộm. Ông Sử kể, không phải cho đến bây giờ, gia đình ông mới nghĩ đến việc làm rõ thực hư câu chuyện của gần 1 thế kỷ trước. Trước đây, do vấn đề phải giữ gìn bí mật, bởi việc che giấu cho cụ Đề Thám liên quan đến cả an toàn tính mạng cho cả dòng họ. Nhưng, từ cách đây 20 năm, anh cả của ông Sử đã bắt đầu kể lại công khai câu chuyện này, và bây giờ, khi anh cả mất, ông là người kế tiếp. Căn nhà của ông Sử đang ở rất đơn sơ, giản dị, tường gạch bao quanh, sân gạch, nhà mái ngói. Con cái ông Sử cũng đã lập gia đình gần hết, chỉ còn anh con trai 27 tuổi ở lại nhà. Trên bàn thờ có di ảnh cụ Đề Thám và vợ ba của cụ Đề Thám. Ngày giỗ, nhà ông Sử vẫn làm mâm cơm, thắp nén nhang tưởng nhớ người thủ lĩnh nghĩa quân năm xưa, coi như việc “của gia đình” làm hàng năm từ đời kỵ, cụ, ông nội của ông Sử. Đâu là sự thật? Đền thờ cụ Hoàng Hoa Thám, bên cạnh ngôi mộ - Ảnh: Nhật Hạ Hiện nay, dấu vết của căn nhà được gọi là "nhà cầu thày Mai" nằm giữa cánh đồng Yên Thế (được cho rằng do cụ Lý Loan đổi tên sau khi cụ Đề Thám mất). Các nhà ngoại cảm đã từng về đây còn xác định được một cái giếng lớn ở giữa đồng (lòng và đáy giếng có lát gạch, dân hiện nay gọi là cái chuôm, bởi vết tích bờ giếng đã mất) được kể là trước đây cụ Đề Thám thường ra đó tắm Nhiều nhà ngoại cảm, nhiều đoàn cán bộ văn hóa cũng từng về đây, ra thăm ngôi mộ. Những hiện vật trong chiếc lon cổ do ông Sử đào được đã được chuyển về Bảo tàng tỉnh Bắc Giang. Để xác thực câu chuyện, chúng tôi đã có liên hệ với ông Trần Văn Lạng, hiện là Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Giang. Ông Lạng cho biết những hiện vật như lon, đĩa đều có giá trị về mặt niên đại thời Lê và thời Nguyễn. Tờ giấy có chữ viết để trong cái liễn sành, ông Lạng xác định rằng đó là một tờ giấy dó bản to, cỡ lớn hơn khổ A4, trên có viết chữ Hán lẫn Nôm. Chữ viết rõ ràng, ngoài bài thơ kể trên còn có một dòng lạc khoản nhỏ đề: "Ngày mùng chín tháng năm – Loan". Nhưng ông Lạng cũng không có ý kiến gì thêm trước câu hỏi của chúng tôi: Rằng có phải ngôi mộ ở Cẩm Trang đó có phải chính là ngôi mộ của thủ lĩnh nghĩa quân Yên Thế, người anh hùng Hoàng Hoa Thám? Để tìm hiểu thêm câu chuyện thực hư về ngôi mộ, chúng tôi đã cất công liên hệ với nhà điêu khắc Anh Vũ (nhà ở huyện Lạng Giang). Nhà điêu khắc Anh Vũ là tác giả pho tượng Đề Thám tại nhà tưởng niệm ở cạnh đồn Phồn Xương, ông từng nghiên cứu lâu năm, có nhiều tư liệu về vị anh hùng Yên Thế này. Về cái chết của cụ Đề Thám, ông cho rằng "nhiều chuyện mênh mông lắm". Dân gian thì cho rằng cái đầu mà chính quyền bêu để thị uy năm 1913 là cái đầu của một "ông sư chùa Lèo" rất giống Hoàng Hoa Thám. Bởi người dân tưởng nhớ vị anh hùng nên không thể chấp nhận một cái chết như vậy. Nhưng ông Anh Vũ cũng đồng ý một điểm là cái chết được chính quyền tay sai thực dân công bố chưa chắc đã là một cái chết có thực. Bởi người Pháp là người rất trọng tư liệu, nếu như bắt và giết được Đề Thám thực, thì không lẽ nào lại không có ảnh để lại. Trong khi các nghĩa quân Yên Thế và gia đình Đề Thám được chụp ảnh rất kỹ... Ông Nguyễn Văn Bình, xóm trưởng xóm Tân Lập thì kể rằng, khi đào được chiếc lon cổ, thì ông Sử không mời ai đến chứng kiến mà đem về nhà. Sau đó ông mới đem trở lại nơi đào... Nghe được tin này, con cháu bà Hoàng Thị Thế (con út của cụ Đề Thám) cũng đã tìm về Hiệp Hòa, nhận mộ, và thắp hương thờ cúng. Họ cũng tìm đến nhà ông Sử, cảm tạ và tháng sáu vừa qua, gia đình còn cung tiến bức tượng đồng cụ Hoàng Hoa Thám để đặt tại đền thờ cụ ngay cạnh ngôi mộ không có bia. Dự tính, cuối năm nay, những người có liên quan sẽ tổ chức khai quật ngôi mộ phần đơn sơ này. Chắc hẳn, sau khi khai quật ngôi mộ, sẽ có nhiều điều được làm sáng tỏ. Có điều khu đất "nhà cầu thày Mai" và khu đất có ngôi mộ (nằm cách nhau khoảng 50m) cũng tăng giá hẳn lên sau khi có câu chuyện chưa xác định được hư thực về ngôi mộ của Hùm thiêng Yên Thế... Nhật Hạ (Vietimes) Kính thưa quí vị quan tâm Chúng ta hãy xem lại bài thơ sau đây: Cờ nghĩa bao năm đành lỡ vận. Hậu thế nghìn năm nào ai hay. Yên ngựa gửi thân nơi hồn đất. Thế sự Hoàng Hoa ai biết chăng?”. Thiên Sứ tôi cho rằng: Bức thư này là một mật ngữ cho biết đây là nợi yên nghỉ cuối cùng của Ngài Hoàng Hoa Thám. Bây giờ chúng ta ghép 4 chữ đầu của 4 câu thơ, sẽ là: Kỳ (Cờ) - hậu - Yên - Thế. Có nghĩa là đây là nơi cuối cùng của người Yên Thế. Hai chữ "hoàng hoa" ở câu cuối cùng còn là họ của Ngài Đề Thám; Họ của Ngài là Hoàng Hoa. Câu "Ai biết chăng?" là một gợi ý liên tưởng - muốn biết thì phải "Thám". Đây chính là tên ngài. Theo cái nhìn chủ quan của tôi thì bài thơ này chuyển tải một nội dung bí ẩn là: Đây là nơi yên nghỉ cuối cùng của người Yên Thế là Hoàng Hoa Thám.
  7. Hi! Công Minh. Nguyễn Bính Hôm qua em đi tỉnh về Đợi em ở mãi con đê đầu làng Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi! Còn đây là Chân quê 9 do Thiên Sứ mần. Hôm qua em đi tỉnh về. Nhìn em anh tỉnh cơn mê, ngỡ ngàng. Đầu hai lai, áo hở hang. Quần Jin trễ rốn , em làm khổ tôi.
  8. Thanhtrang nhận ra vấn đề từ hình tượng rất hay, phân tích cũng giỏi, nhưng lại lúng túng trong kết luận. Tôi gợi ý để anh chị em quán xét: Hai dẫy núi chắn đám mây bồng bềnh. Ánh sáng có tươi hồng phái cuối chân trời, nhưng nguồn gốc của ánh sáng là mặt trời thì không thấy đâu cả. Anh chị em tập cảm ứng hình tượng, nên xem Tam Quốc Chí , đoạn nói về Dương Tu phân tích các hình tượng để đoán sự việc. Tôi sẽ còn đưa vài bài tập nữa và sẽ có bài lý thuyết hướng dẫn sau khi tổng kết các cáchbb phân tích của anh chị em. Hy vong anh chị em tham gia.
  9. Nhìn hình ảnh đất Việt thấy toát lên một vẻ nhân hậu thanh bình với những con người đang căm cụi kiếm sống. Chỉ có cái hình cuối cùng thấy hơi hướm của sự giàn dựng với một cô đầu tóc "hai lai" mượt mà với dầu gội "ba trong một" giả dạng thường dân, đóng vai bần cố nông thật lạc lõng trong xứ sở thanh bình này :D .Đã dàn dựng thì thay thùng sơn "Lippong sơn mông" cũng đẹp bằng cái gầu bằng tre đan quét sơn ta đi cho nó đồng bộ.
  10. Thiên Sứ tôi xin đóng góp 1 triệu tiếp theo giúp chi Nga chữa bệnh. Thiên Sứ tôi cũng tha thiết kêu gọi lòng hảo tâm của quí vị giúp đỡ chị Nga qua cơn bệnh hiểm nghèo. Tôi nghĩ đây là việc làm thiết thực và cụ thể nhất. Hy vọng được quí vị ủng hộ.
  11. Đúng là phở không phải món ăn của dân nghèo ngày xưa. Phải là dân trung lưu trở lên.
  12. Hì! Anh Trần Phương thân mến ơi! Sau này chính người phát hiện ra những "di hài " này đã thừa nhận đây chỉ là trò đùa dai của ông ấy.
  13. Hôm nay tôi mới có dịp vào xem bài viết của anh. Cảm ơn anh Nguyên Kha có lời khen ngợi. Nhưng sự giải mã những giá trị văn hóa phi vật thể truyền thống ấy tôi không bao giờ coi là bằng chứng khoa học trong luận điểm của tôi. Nhưng tôi phải giải mã, để nếu tôi không hoàn thành sứ mệnh của mình thì hy vọng sẽ có thế hệ sau tiếp tục tìm tòi, khám phá những bí ẩn huyền vĩ của nền văn hiến Việt qua những di sản tổ tiên để lại. Còn bây giờ, trước mặt tôi, sau lưng, ở trên, ở dưới và xung quanh tôi vẫn đầy rẫy những sự nhạo báng, chê bai chỉ trích, cản trở. Tôi không phải người can đảm, nhưng tôi tôn trọng chân lý. Tôi tin rằng chân lý sẽ phải sáng tỏ và nền văn hiến huyền vĩ Việt trải gần 5000 văn hiến sẽ phải được tôn vinh. Vì nó không chỉ đơn giản giới hạn trong lịch sử của một dân tộc, mà nó còn ẩn chứa trong lịch sử văn hiến ấy một chân lý vĩ đại hơn nhiều: Đó chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm để tiếp tục phát triển trong tương lai. Chân lý sẽ phải được sáng tỏ. Tôi tin điều này. Một lần nữa chân thành cảm ơn anh.
  14. Phá thai có tạo nghiệp chướng không? Mattroihong hãy lên Pleiku tìm nghĩa địa Đồng Nhi sẽ có câu trả lời. Đức Phật nói: Ác nghiệp như chén muối. Phước nghiệp như nước trong. Muối nhiều, nước ít thì mặn. Nước thật nhiều, muối thật ít thì nhạt. Mattroihong hãy tự suy ngẫm.
  15. Bây giờ chúng ta so sánh hình Âm Dương trên lá cờ của Hàn Quốc với hình Âm Dương trên các di vật còn lại của nền văn hóa Việt. Chúng giống nhau hoàn toàn và không có hai cái chấm mà các triết gia cổ Hán gọi là Thiếu Âm và Thiếu Dương. Điểm khác nhau giữa đồ hình Âm Dương Hàn - Việt này là chiều thuận nghịch kim đồng hồ. Chúng ta không thể nói rằng các triết gia lý học Đông Phương Hàn Quốc bắt chước đồ hình Âm Dương Việt, Tất nhiên càng không thể nói đồ hình Âm Dương Việt trên các di sản văn hóa còn lại bắt chước Hàn Quốc. Tuy nhiên chúng ta chưa thể kết luận gì về biểu tượng Âm Dương duy nhất ở Hàn Quốc qua lá cờ này. Nhưng đây là một hiện tượng đáng lưu ý. Hy vọng các bạn sinh viên và các nhà nghiên cứu văn Hóa Việt tại Hàn Quốc cung cấp thêm những tư liệu liên quan đến đồ hình Âm Dương còn lưu truyền ở Hàn Quốc. Có thể chúng ta phát hiện ra nhiều điều thú vị liên quan.
  16. Như Thông - Nhất trí là tháng 10 -11 mới hoàn tất. Nhưng không có vấn đề gì nghiêm trong.
  17. Nửa hồn thương đau Cảm tác qua tiếng hát của Thái Thanh Lang thang cõi nhớ một mình. Bâng khuâng chiều tím ru tình trong tôi. Hương xưa chợt thoáng lên ngôi. Cho hồn chết lặng trên môi xưa mềm? Mơ màng mắt nhắm trong đêm. Giữa miền kỷ niệm tìm em chốn nào? Ngang mi, ngấn lệ nghẹn ngào. Kiếp sau hẹn gặp người trao hương tình....
  18. Trong Luận tuổi Lạc Việt vẫn có những cách đối xứng đặc biệt. Đây là một trong những cách ấy. Tại chú lu bu quá sức. Chú có những hình minh họa về những vấn đề này. Khi rảnh chú sẽ tìm lại.
  19. Chú bận quá. Hơn nữa xem Tử Vi cũng không giỏi. Nhờ anh Tuetvnb giúp đỡ. Xin cảm ơn sự nhiệt tình của anh.
  20. Sao máy chú vẫn nhìn thấy mà? Có khi tại mạng của Khôi Quyền bị chậm nên ảnh không hiện lên đấy.
  21. Nhà này nằm trong cách đặc biệt của luận tuổi Lạc Việt:Tứ Phúc = Thìn Tuất Sửu Mùi. Tứ sinh = Dần Thân Tỵ Hợi. Tứ Vượng = Tý Ngọ Mão dậu.
  22. Anh chị em nhìn hình này và cảm ứng đoán tình trạng kinh tế thế giới năm sau. Có thể phối hợp quẻ. Cảm ơn anh chị em. Thiên Sứ
  23. Minh Châu và Thanhtrang đoán hay nhất. Mặc dù chưa phải là đạt.
  24. Thương Lưu Niên : Đúng là có thêm ba người làm rách việc.
  25. Bài viết dưới đây cho thấy ảnh hưởng của từ trường trái đất với súc vật. Vậy nó ảnh hưởng như thế nào với hành vi của con nngườii? Khoa học hiện đại có thể kết luận chung chung rằng : Nhất định là có ảnh hưởng! Nhưng nền lý học Đông Phương đã nhận thấy sử ảnh hưởng này rất sâu sắc đến từng nhóm người được phân loại và ảnh hưởng không chỉ từ trường ở trục Bắc Nam và còn ở các hướng khác và ứng dụng trong Phong thủy. Thêm một bằng chứng nữa cho thấy sự huyền vĩ của nền lý học Đông phươngv thuộc về văn minh Lạc Việt. Thiên Sứ TRÂU BÒ LUÔN QUAY ĐẦU VỀ MỘT HƯỚNG Nếu chẳng may bị lạc ở vùng nông thôn mà không có la bàn, bạn chớ vội hoảng. Theo các nhà khoa học Đức, bạn có thể xác định phương hướng bằng cách quan sát các đàn gia súc. Có bao giờ bạn để ý rằng những đàn gia súc luôn quay đầu về một hướng. Những hình ảnh từ Google Earth cho thấy trâu, bò có xu hướng đứng theo trục bắc-nam, trong đó đầu của chúng hướng về phía bắc. Những đàn hươu hoang dã cũng có hành vi tương tự, nhưng các thợ săn đã không chú ý tới hiện tượng này trong suốt hàng nghìn năm. Nhiều nhà khoa học nhận định rằng từ trường của Trái đất có thể tác động tới hành vi của những con vật. Gia súc quay đầu về phía bắc trong lúc ăn cỏ và nghỉ ngơi. Ảnh: Dailymail.co.uk. Trên thực tế, Trái đất là một cục nam châm khổng lồ, với cực bắc và cực nam nằm sát hai địa cực. Nhiều động vật - trong đó có chim và cá hồi - sử dụng từ trường Trái đất để định hướng trong quá trình di cư. Một số nghiên cứu cũng chứng minh rằng dơi, một động vật có vú, cũng có khả năng định hướng nhờ từ trường. Tiến sĩ Sabine Begall và cộng sự thuộc Đại học Duisburg-Essen (Đức) tiến hành nghiên cứu gia súc để tìm hiểu xem chúng có khả năng định hướng dựa vào từ trường Trái đất hay không. Họ thu thập ảnh của 8.510 con trâu, bò tại 308 đồng cỏ trên khắp hành tinh thông qua Google Earth. Các con vật được chụp ở nhiều tư thế: gặm cỏ, nằm nghỉ, đứng trong đàn, cho con bú. Do toàn bộ ảnh được chụp từ vệ tinh nên rất khó tìm được những ảnh có độ phân giải cao. Các chuyên gia không thể phân biệt được đầu và đuôi các con vật, nhưng họ nhận thấy chúng có xu hướng đứng theo trục bắc-nam. Những con hươu luôn đứng theo hướng bắc-nam. Ảnh: BBC. "Ở châu Phi và Nam Mỹ, hướng đứng của gia súc có một khác biệt nhỏ. Thay vì đứng theo hướng nam - bắc, chúng thường quay mặt về phía đông bắc hoặc tây nam. Chúng ta đều biết rằng từ trường ở châu Phi và Nam Mỹ yếu hơn rất nhiều so với những khu vực khác", Sabine phát biểu. Kết quả nghiên cứu loại trừ giả thiết cho rằng vị trí của mặt trời và hướng gió ảnh hưởng tới tư thế đứng của động vật. Nhóm nghiên cứu cũng ghi lại tư thế của 2.974 con hươu hoang dã tại 277 địa điểm thuộc nước Cộng hòa Czech. Họ nhận thấy khoảng hai phần ba số chúng luôn quay đầu về hướng bắc khi ăn và ngủ, số còn lại quay đầu về phía nam. Theo Sabine, đó có thể là một hành vi giúp hươu đối phó với động vật ăn thịt. "Chúng tôi kết luận rằng từ trường của Trái đất là tác nhân chính khiến gia súc có xu hướng quay mặt về phía bắc. Điều đó giải thích tại sao tổ tiên của chúng có thể thực hiện những chuyến di cư dài hàng nghìn km từ châu Phi tới châu Á và châu Âu", Sabine nói. Việt Linh (theo BBC, Daily Mail)