nhatnguyen52
Hội viên-
Số nội dung
150 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by nhatnguyen52
-
Dịch học bài 40 21. Cặp Quẻ Bớt - thêm hay tổn – ích Cặp Quẻ này trùng tên trong Dịch học họ Hùng và Dịch của Tàu, vì chữ tổn và ích bản thân nó đã là từ Việt thường dùng. Tổn và ích nghĩa là một bên bớt đi để tăng thêm cho bên kia. Muốn phát triển thì phải tiết kiệm để đầu tư, tiết kiệm là tổn, phát triển là ích. Chính sách thuế khóa và an sinh xã hội cũng là tượng của cặp quẻ tổn – ích. Người thu nhập cao phải chịu thuế nặng đấy là tổn, chính phủ lấy tiền ấy để thực hiện sự nâng đỡ giúp đỡ tầng lớp nghèo đấy là ích. Nhà vua trích kho lẫm, cứu tế dân nghèo nhưng kỳ thực là làm ích cho chính mình, tổn một ít của cải, được ích vô cùng lớn hết cả thần dân tôn xưng là vì vua hiền minh như vậy có phải là đổ móng cho thêm chắc ngai vàng không ? A- Quẻ bớt hay tổn = Sơn/ Trạch Về hình tượng thì sơn cao lên, hồ trũng xuống, lấy bề cao đổ xuống để giảm độ trũng sâu, như thế vì bề cao giảm đi nên gọi là tổn hay giảm bớt. a) Lời Quẻ: Tổn, hữu phu nguyên cát vô cữu khả trinh, lợi hữu du vãng, hạt chi dụng nhị qủy khả dụng hưởng. Vua giảm bớt xa hoa (để bù cho dưới bằng các công trình phúc lợi chung) có lòng chí thành vô cùng tốt đẹp làm gì còn có lỗi, sự nghiệp bền vững vì biết tiết kiệm để phát triển đất nước, lòng mình như thế chỉ cần dâng cúng thần linh bằng 2 bình hương (hay 2 bát thóc) cũng đủ được chứng giám rồi. B) Lời tượng: Sơn hạ hữu trạch: tổn, quân tử dĩ thí lộc cập hạ, nếu lấy bớt chiều cao của sơn bù vào bề sâu của hồ thì hồ bớt sâu, xem tượng ấy quân tử phải ban phát lợi lộc cho người kém hơn mình, còn chỉ nói chuyện đạo đức suông, thì không tránh khỏi sự khinh ghét của bên dưới. Cư đức tắc kỵ là chỉ biết giữ cái bề ngoài đạo đức nơi mình còn một ly cũng không rời thì chắc chẳng ai ưa. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Dĩ sự, thuyên vãng, vô cữu, chước tổn chi. Cần kíp mau lẹ cho kịp thời, không lỗi.. Bớt đi (số lượng) một ít cũng không sao. Gặp việc cần kíp thì quý nhất là kịp thời, thí dụ việc cứu đói thì ít đi một chút cũng được nhưng đáp ứng ngay lúc đó, còn đã chết rồi thì đem đến nhiều cũng ích chi, nên nếu vì cần kíp mà phải bớt đi cũng không tội gì. c.2) Hào nhị: Lợi trinh, chinh hung, phất tổn ích chi. Vị trí hào nhị là đắc Trung hạ thể, ý nói sự tính toán khoa học hợp lý, cứ duy trì điều ấy có lợi, gây chiến là điều nguy hiểm, giữ được như thế tức không tổn mình mà ích người hoặc không hao tổn gì (do chiến tranh) mà vẫn được ích vậy (phát triển được) c.3) Hào Tam Tam nhân hành tắc tổn nhất nhân, nhất nhân hành tắc đắc kỳ hữu. Ba người cùng đi, tất phải bớt một người, một người đi tất sẽ được bạn. Nguyên lý số một của Dịch học là sự cân bằng lưỡng lập, nhất âm – nhất dương hợp thành một đơn vị Dịch lý. Ý Hào tam là có 2 nhóm người: nhóm này có 3 người ; nhóm khác chỉ 1 người, tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng “tổn – ích”, bớt một đàng thêm cho một đàng để cả 2 đạt thăng bằng. Cụ thể: 2 người một nam một nữ sẽ lập thành một gia đình, còn người thứ 3 là thừa…. Trong khi đó nhóm bên kia chỉ có một người lẻ loi , tình cảnh đó tất dẫn đến sự trao đổi các phần tử để đạt thăng bằng cho cả 2 nhóm. Hào Tam đưa ra một điển hình của tổn và ích. c.4) Hào Tứ: Tổn kỳ tật, sử thuyên, hữu kỳ vô cữu. Giảm bớt thói hư tật xấu nhanh chóng có nhiều bạn, có việc vui không lỗi gì. Tay bợm sáng xỉn chiều say bớt hẳn việc ăn nhậu thực là điều vui mừng cho gia đình và cả cho bà con chòm xóm nữa. Dĩ nhiên đấy là chuyện vui cho mọi người. c.5) Hào ngũ: Hoặc ích chi thập bằng chi quy phất khắc vi, nguyên cát. Hào từ hào ngũ chắc là nhắc đến sự tích “Việt Thường cống rùa” cho Nghiêu đế. Vào đời vua Nghiêu (đế Nghi) , nước Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ cống nhà vua con rùa lớn trên lưng có khắc lịch sử Trung Hoa từ thời mở nước bằng chữ Khoa đẩu. Vì vậy mới nói con rùa quý có giá trị bằng 10 bằng hay 20 bối (có sách nói là 10 bằng = 100 bối), bằng, bối là 2 đơn vị đo lường thời cổ, ta chỉ hiểu ý là có giá trị lớn lắm… Việc dâng và nhận rùa này cực kỳ tốt. Đặc biệt hào tứ này không hiểu là có sự lẫn lộn hay không ; trong Quẻ tổn lại có một hào ích chen vào? c.6) Hào thượng Phất tổn ích chi, vô cữu, trinh cát, lợi hữu du vãng, đắc thần vô gia. Có tổn thiệt gì đâu, chỉ được ích thôi, không lỗi gì, lâu dài thì tốt lắm, dùng cải hóa cuộc đời mình, đắc đạo thần tiên chu du khắp nơi (thần vô gia). Cực cấp của tổn là đánh mất luôn bản năng –dục vọng trong thân xác mình, không còn tham – sân – si, chữ lợi hữu du vãng nghĩa đen là tiến đi thì có lợi, ở đây dùng với nghĩa bóng rất đặc biệt: dùng cải hóa đời mình tức đi tu tiên, đắc đạo sẽ trở thành “thần vô gia” hay bậc thần chu du khắp nơi. B/ Quẻ Thêm = Phong/ Lôi Sấm gió nương theo nhau, tức 2 hiện tượng đó hỗ tương thúc đẩy phát triển để đi đến kết quả là cơn mưa sẽ tới. Đó là hiện tượng trong tự nhiên còn trong Dịch học quẻ ích có ý nghĩa rất đặc biệt, phong là chế độ chính trị, lôi là công cụ sản xuất. Ta thấy: chế độ chính trị dựa trên cơ sở vật chất là trình độ khoa học kỹ thuật hay cụ thể hơn là công cụ sản xuất, 2 mặt này tác động qua lại thúc đẩy nhau phát triển nên Dịch gọi là ích tức làm ích cho nhau nghĩa là thúc đẩy nhau phát triển . Cũng có thể hiểu ích là làm lợi cho nhau. a) Lời Quẻ Ích, lợi hữu du vãng, lợi thiệp đại xuyên . Làm lợi cho nhau: tiến đi thì lợi, lợi vượt sông lớn. Quẻ ích thúc đẩy nhau tiến lên, từng bước thăng tiến xã hội loài người ngày càng văn minh hơn. B) Lời tượng: Ích: quân tử dĩ lạo dân, khuyến tướng. Trời xám xịt, gió thồi ào ào, sấm chớp vang rền là lúc trời đất chuyển mình, thấy vậy dân có phần lo sợ, bậc trưởng nhân biết trước việc chuyển mình hung dữ ấy lại là điềm lành báo hiệu cơn mưa sắp đến, chuẩn bị cho mùa màng tốt tươi nên trưởng nhân phải an ủi vỗ về dân trong cơn lo sợ đồng thời khuyến khích dân hăng hái chuẩn bị cho vụ mùa, rộng hơn là khuyến khích dân cải tiến kỹ thuật, chế tạo công cụ sản xuất để nâng cao năng suất tạo dựng cuộc sống ngày một ấm no, văn minh hơn lên (ý nghĩa quẻ lôi). c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Lợi dụng vi đại tác, nguyên cát – vô cữu Dùng sự tương tác này mà phát triển xã hội tiến đến văn minh (đại tác) không gì tốt hơn còn gì lỗi nữa. Tương tác ở đây là sự thúc đẩy qua lại của phong: chế độ chính trị và lôi là công cụ kỹ thuật. Dịch học có những câu mà tới nay gần 3000 năm sau vẫn khó hiểu trong đó có: - Xuất hồ chấn - Tề hồ tốn Xuất tức là khởi động tiến trình phát triển, xuất từ quẻ chấn nghĩa là đầu tiên phải cải tiến công cụ kỹ thuật, để nâng cao năng suất lao động, cải tiến công cụ lao động có nghĩa là thay đổi về cơ bản mối tương quan giữa con người và thế giới tự nhiên, sự thay đổi này tất yếu dẫn đến sự thay đổi trong tương quan – người – người biểu hiện ở 2 mặt là chế độ kinh tế và chế độ chính trị (tề hồ tốn), tới lượt chế độ kinh tế và chính trị sau khi cải cách sẽ giải phóng tiềm lực vô cùng lớn lao trong nhân dân, và nguồn lực ấy lại được tái huy động vào guồng máy sản xuất phát triển, cứ như vậy mà xã hội con người tiến lên. c.2) Hào nhị Hoặc ích chi thập bằng chi qui, phất khắc vi, vĩnh trinh, cát, vương dụng hưởng vu đế cát. Ở hào ngũ quẻ tổn ta đã đặt dấu hỏi thì tới hào này mới hiểu 2 hào giống hệt nhau về sự việc và ý nghĩa (xin xem lại) Có người tặng hay cống con rùa vô cùng quí giá, không thể từ chối, bền vững mãi mãi, tốt lắm, vương làm lễ tế cáo TiênVương rất tốt. Rõ ràng đây là điển tích Việt Thường cống rùa cho đế Nghi .. c.3) Hào Tam Ích chi dụng hung sự, vô cữu, hữu phu, trung hành, cáo công dụng khuê . Làm ích cho người bằng cách bắt vượt qua gian lao nguy hiểm, không lỗi, có lòng thành tín đi đường ngay nẻo chính, những điều này được báo với vị Công đang chủ trì việc tế tự. Thay vua (ý chỉ Chu công nhiếp quyền); bắt vượt hiểm nguy là cho cơ hội thử thách, nếu thể hiện được tài đức sẽ cất nhắc lên, như vậy rõ ràng ý muốn làm ích cho. c.4) Hào tứ Trung hành, cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc. Tận trung, ngay thẳng trình với vị công tước nhiếp quyền, được chấp nhận, dùng việc thiên đô làm ích cho quốc dân. Đây là tích nói về việc xây dựng thêm Đô Thành phía đông, tức Lạc Ấp vì Hạo Kinh quá thiên về phía Tây, việc liên lạc xử lý công việc thuộc phía đông đất nước thường chậm trễ không kịp thời từ đấy nhà Chu có 2 kinh đô Đông và Tây. ( Tây đô là Côn minh Đông đô là Hà nội ? ) . c.5) Hào ngũ Hữu phu, huệ tâm vật vấn, nguyên cát, hữu phu, huệ ngã đức. Thành thực, lòng dạ trong sáng còn nghi ngờ gì nữa, hết sức tốt đẹp người người tin tưởng vào sự ngời sáng nơi đức độ của ta. Quí tộc cũ nhà Ân Thương chống đối nhà Chu, bị Chu công bắt đem về định cư ở Lạc Ấp, do chính ông trực tiếp cai quản, việc làm vừa ân vừa uy của ông đã cảm hóa được họ, sau Lạc Ấp hay Loa Thành trở thành kinh đô nhà Đông chu, Chu Công được người Việt rất kính trọng gọi là tướng quân Cao Lỗ, người đã xây Đại La Thành hay thành Cổ Loa và trực tiếp trấn nhậm ở đấy đến hết đời. Ông là bậc đại trí, đại đức, một trong những người đã sáng tác Chu Dịch lưu truyền đến tận ngày nay. c.6) Hào Thượng Mạc ích chi, hoặc kích chi, lập tâm vật hằng hung Lòng tham không đáy mong được ích hoài, bị công kích mãi không bằng lòng lúc nào cũng nhấp nhổm, nguy tai. Ơn ích đến với mình có thời có lượng thôi, mong cầu mãi là tham lam như thùng không đáy, đã được lại cứ muốn được thêm, tính cách như thế dĩ nhiên sẽ bị chỉ trích, người như thế không lúc nào trong lòng thanh thản an định, bằng lòng với hiện tại. Như thế sẽ rất nguy hiểm, thế nào rồi họa cũng đến nơi.
-
Dịch học bài 34 15/ Cặp Quẻ: Khổng – lồ (Khảm – ly) 2 phần của tinh thần con người là lý trí và tình cảm, khổng lồ là biến âm của Khảm Ly dùng trong tiếng Việt chỉ sự to lớn vô cùng, vì lý trí và tình cảm là 2 đầu mối của mọi sinh hoạt tinh thần, hoạt động cân đối tốt đẹp người Việt bảo là có lý có tình, đây là một cặp lưỡng lập hoàn toàn không có tính đối kháng như người ta hay nghĩ sai. Sở dĩ vậy là xuất phát từ ý nghĩa công lý và tư tình, lý là phổ quát đúng ở mọi nơi mọi chỗ còn tình là cái rất riêng không ai giống ai. A- Quẻ Khảm hay khổng : khảm/ Khảm Dịch gọi là Tập Khảm vì cả trên và dưới đều là Khảm. Khảm trong Dịch học có nhiều nghĩa, khảm trước hết là tình cảm, khảm là “cảm nhận” khác với “nhìn thấy” hay trông thấy. Khảm là nước, là mây. Tùy lúc, tùy nơi khi xét trong mối tương quan của một cái chung lớn hơn mà nó mang một ý nghĩa. a) Lời Quẻ Tập Khảm, Hữu phu, duy tâm, hanh, hành hữu thượng. Tình cảm yêu thương trước hết là lòng tin, xuất phát từ con tim, như vậy tiến triển tốt đẹp, có sự chân thành ấy mọi việc đều đi lên bản thân được trọng vọng. Tập khảm có thể dịch là yêu thương vô bờ hay tình cảm dồi dào. Duy tâm ở đây nghĩa là phát từ đáy lòng mình tức chân thật hết mức, tình yêu mà tin tưởng hoàn toàn, chân thật hết mực thì còn gì bằng. b) Lời tượng Thủy tấn chí, tập khảm, quân tử dĩ thường đức hạnh, tập giáo sư Thủy tấn chí là nước chảy không ngừng. Tập khảm là 2 quẻ khảm đơn chồng lên thành quẻ khảm trùng. Bậc trưởng nhân phải thường xuyên trau dồi nết đẹp (đức hạnh) nơi mình; và tập cách truyền đạt cho cả xã hội để phong hóa càng ngày càng tốt đẹp lên. Cảm tiếng Việt còn đọc là cám (cám dỗ) tức lôi kéo người khác Quân tử phải một mặt lo cho mình để trở thành tấm gương cho thiên hạ, mặt khác phải làm sao cho người khác trở nên giống mình đấy là nhiệm vụ của quân tử trong xã hội, đó là ý nghĩa 2 lần khảm hay tập khảm. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Tập khảm, nhập vu khảm đạm, hung Tình lai láng tới mức si mê , xấu. Tình chồng lên tình quá mức như si cuồng, lấn át cả lý trí, làm sao biết tốt xấu phải trái, như vậy là trở nên hôn ám vì tình, xấu là phải. c.2) Hào nhị : Khảm hữu hiểm, cầu tiểu đắc Mắc vào bẫy tình thực hiểm nghèo, cầu mong một chút may mắn Lòng người hiểm độc, mình không tỉnh táo sáng suốt là ôm hận cả đời, bẫy tình như lưới nhện, dính vào là chết chắc làm sao còn dám mơ tới chuyện lớn lao gì nữa. c.3) Hào Tam Lai chi khảm khảm, hiểm thả chẩm, nhập vu khảm đạm, vật dụng Sa lầy trong tình yêu, trong vùng soáy sâu hiểm của cuồng si, chẳng làm nổi việc gì. Sa lầy là trạng thái không lối thoát, sâu và hiểm là không thể nào thoát ra được , si mê cuồng loạn là tâm thần không còn bình thường . Thực là vô phương cứu chữa. Thông thường hào tam chỉ thời duy lợi , yêu tới độ say đắm si cuồng ở đây chỉ lòng nhà tư sản yêu tiền bạc của cải còn hơn cả thân mình ... c.4) Hào Tứ Tôn tửu quỹ nhị dụng phẫu, nạp ước tự chủ, chung vô cữu. Dâng lên (tổ tiên) cơm và rượu đựng trong 2 chén sành, kết ước bên song cửa sổ, không lỗi gì. Cùng nhau kết ước bên song cửa sổ rất có thể là một tập tục, một phần trong nghi thức hôn nhân cổ xưa (nói có thể vì không xác quyết được) Đây là cuối đoạn đường của tình yêu lứa đôi, kết ước rồi chuyển sang nghĩa vợ chồng, không còn sự say đắm nhưng khởi đầu sự an lạc. c.5) Hào ngũ: Khảm bất doanh, kỳ lý bình vô cữu. Tình chưa trọn vẹn nhưng thấy bằng lòng không lỗi gì. Tình cảm, sự liên đới giữa người và người trong xã hội, chưa tràn trề nhưng được như vậy cũng yên lòng yên trí lắm rồi, còn lỗi gì nữa. Tình cảm tràn đầy chỉ có trong tiểu thuyết, thực tế chỉ cần con người có chút thương cảm với nhau đã là đáng quý rồi. c.6) Hào thượng : Hệ dụng huy mặc, chí vu tùng cức. Tam tuế bất đắc, hung Bị trói bằng dây thừng, nhốt giữa tường bằng cây gai, 3 năm mà không toại chí thỏa lòng (hoặc 3 năm rồi trong cảnh bất đắc chí) xấu. Tình cảm sâu đậm như buộc chặt vào nhau vậy, thực đoạn trường, như bị vây bởi hàng rào cây gai vậy, 3 năm trôi qua rồi mà chưa lấy được nhau, xấu lắm. Tình cảnh cực kỳ thương tâm, tình trường sao lắm nỗi nghiệt oan, kết thúc của chữ tình sao khổ sở quá vậy. B/ Quẻ Lồ hay Lửa = Ly / Ly Lửa chồng lên lửa, sáng suốt tiếp nối sáng suốt còn gì tốt hơn nữa. a) Lời Quẻ Ly, Lợi, Hanh, súc tẫn ngưu – cát Quẻ ly chỉ sự sáng suốt, Ly : thiết thực làm lợi cho cuộc sống, Ly: sáng suốt tức hành động hợp lẽ tự nhiên. Súc tẫn ngưu là nuôi trâu cái. Trâu đã là loài tốn thuận, trâu cái là tốn thuận cực kỳ, tốn thuận nghe theo sự điều khiển của con người, ý chỉ sự sáng suốt hay hiểu biết phải phù hợp với đạo đức, khoa học phải được sự dẫn dắt của Minh Triết. b) Lời tượng: Minh lưỡng tác ly, đại nhân dĩ kế minh chiếu tứ phương Sáng rực rỡ là tượng quẻ Ly, bậc đại nhân tiếp nối những hiểu biết đã có và làm cho sáng hơn nữa để soi rọi khắp gầm trời. Ý lời tượng là tiếp thu những hiểu biết tức học tập đạt trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải miệt mài nghiên cứu nâng cao sự hiểu biết hơn nữa đồng thời truyền bá khoa học kỹ thuật ra khắp thiên hạ để xã hội trở nên xã hội văn minh. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Lý thác nhiên, kính chi, cô cữu Lý thác nhiên Chu Dịch bản lụa chép là: lễ tích nhiên, thực ra câu này là ký âm của : ‘lẽ tất nhiên’ trong tiếng Việt ; chỉ sự đương nhiên như thế khỏi phải bàn, con người buộc phải tôn trọng mọi định luật khoa học vì đó là quy luật tự nhiên , làm như thế không lo lỗi lầm gì nữa . c.2) Hào nhị Hoàng ly – nguyên cát _ Hoàng ly tiếng Việt viết là : đúng lý hay hợp lẽ – thực tốt đẹp từ gốc . Trong kết cấu Quẻ trùng, khi nhìn theo chiều trên và dưới thì Phần dưới chỉ những gì phụ thuộc tự nhiên, bên trên là những gì sáng tạo. Hào nhị đắc trung phần dưới, nên lời hào là Hoàng Ly, Hoàng là đắc trung, Ly là lý lẽ, trung là trúng hay đúng. c.3) Hào Tam Nhật trắc chi ly, bất cổ phẫu nhi ca, tắt đại diệt chi ta, hung Tà tà bóng ngả về Tây, không có tiếng nhạc lời ca, phải chăng thảm họa đang rình rập, xấu lắm. Ở hào này chữ Ly, lửa chỉ ánh nắng hay ánh mặt trời c.4) Hào tứ Đột như kỳ lai như, phần như, tử như, khí như. Thảm họa đột nhiên đến, đốt sạch, giết sạch chỉ còn lại cảnh hoang tàn. Ở Hào Tứ chữ ly là lửa, khói lửa chỉ chiến tranh hay chiến trận. Hào từ hào tam là điềm báo, báo trước sự không yên bình, sang hào tứ thì thảm họa thực sự đến. Cả 2 hào Tam và tứ là kể lại tình cảnh đất phía Tây của nhà Chu bất ngờ bị quân hùng tướng mạnh của Trụ Vương tấn công đánh phá, đốt sạch khiến trở nên hoang tàn. Lời 2 hào này phần nào biện minh cho hành động của Vũ Vương nhà Chu diệt Trụ Vương của nhà Thương. c.5) Hào ngũ Xuất thế đà nhược, thích ta nhược cát. Quân thù rút đi để lại sự hoang tàn, lòng người sầu thảm bi ai tới khôn cùng. Nhưng tai họa đã qua có thể làm lại từ đầu, âu cũng là điều tốt. c.6) Hào thượng: Vương dụng xuất chinh, hữu gia chiết thủ, hoạch phỉ kỳ xú vô cữu. Vua xuất chinh, thắng trận, chặt đầu tướng giặc, không bắt tội kẻ theo đuôi – không lỗi. Hào thượng tiếp ý có hào trước, quân thù tàn ác như thế chỉ sự bạo tàn của đám ác quân của Trụ vương, ở đây không có chữ lý nào nhưng ngầm hiểu những gì đã xảy ra đủ biện minh cho hành động của Vũ vương nhà Chu , giết tên hôn quân không phải là giết vua mà là xử tên gian ác trả thù cho trăm họ. Nhà Chu lên ngôi là do mệnh trời muốn phục hưng Trung Hoa, đem lại yên ổn hạnh phúc cho muôn dân chứ không phải Chu vũ vương bất trung phản nghịch. Quẻ Ly hết sực đặc biệt Hòa sơ, hào nhị: Ly là lý lẽ Hào tam, Ly là ánh nắng Hào tứ, hào ngũ: Ly là lửa khói Hào thượng Ly là lý (do) Ly âm gốc là lửa, tiếng Việt chỉ ánh sáng, mặt trời, lý lẽ.
-
Dịch học bài 38 19. Cặp Quẻ: chống – chọi hay đánh Dịch học của Tàu gọi là Khuê – Sư Dịch học họ Hùng và Dịch Tàu khác nhau ở Quẻ Sư – đánh phong hỏa – đánh hay sư (quân) Dịch học Tàu là : Địa Thủy Sư. Phong hỏa hay phong hoả đài là công cụ chiến tranh của Trung Hoa. Tức là cái đài cao đốt củi cho khói lên tức 1 hình thức truyền thông tin trong quân sự , báo quân tình hoặc làm hiệu lệnh hành quân, thánh nhân dùng tượng này đặt tên quẻ sư – tức việc quân, hay hành quân, tiếng Việt gọi là đi đánh. Dịch học Tàu : Địa Thủy Sư là: nước ở trong đất là:… không hiểu. A- Quẻ chống hay Khuê = Hỏa/ Trạch Trạch là cái Hồ, Hồ thì chứa nước là hợp lẽ tự nhiên, ở đây hồ chứa lửa là ngược ngạo, chống lại lẽ tự nhiên nên đặt tên là chống hay khuê có nghĩa là ngược ngạo, hay trái nghịch. Cũng có thể dùng thoáng hơn là quân hay lũ nghịch tặc vô đạo Có nhiều người ngày nay đang nói đến cái gọi là tư tưởng Trung Hoa, thực ra đích danh phải gọi là tư tưởng Hãn hay Tàu mới đúng…. khía cạnh đặc trưng của tư tưởng ấy là : cứ khom lưng làm trâu ngựa cho họ cỡi thì không sao, còn khác đi là : thời xưa thì lập tức biến thành quân nghịch tặc vô đạo… hỏi đạo gì? Còn ngày nay thì thành…. Phản động… hỏi động gì? Động chiều nào mà phản. Mà đã chống là phải đánh hay đả…hết văn đả tới võ ̣đả ....kết quả là nhà tan cửa nát, ôi nay sao mà còn giống xưa đến thế. a) Lời quẻ Khuê, tiểu sự – cát Trái nghịch, có thể vận dụng vào việc nhỏ, như chế tạo công cụ lao động để kiếm sống – tốt lắm. Thí dụ về việc vận dụng khuê là chế tạo cái cung, 2 cánh cung vận động trái chiều tạo thành lực phóng tên đi . Cung và tên là loại công cụ đánh dấu một bước tiến trong quá trình phát triển đi đến văn minh của loài người, đây chính là tiểu sự – cát. B) Lời tượng: Thượng hỏa hạ trạch Khuê, quân tử dĩ đồng nhi dị. Thiên hạ ai cũng bằng ai, tức cào bằng tất cả đấy là ‘Đồng nhi đồng’ còn ‘đồng nhi dị’ là mỗi người tận dụng hết khả năng thiên phú của mình và ngược lại cũng thu nhập tùy theo sự đóng góp, nói theo từ ngày nay là làm nhiều, hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, và lẽ dĩ nhiên chữ làm phải hiểu theo cả chất và lượng. Một giờ đóng góp của nhà bác học không thể nào bằng với một giờ của anh thợ sửa xe đạp lề đường. Đấy là ý nghĩa của Đồng nhi dị. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Hối vong – táng mã – vật trục tự phục, kiến ác nhân vô cữu Không phải ân hận gì, mất ngựa chẳng phải tìm, tự nó tìm về vì ngựa là loài trung thành với chủ, tục ngữ Việt có câu giữ người ở lại chứ làm sao giữ được người (bỏ) đi. Đã có lòng thủy chung thì dù phải tạm chia ly, chắc chắn cũng có ngày đoàn tụ, còn người đã muốn rời bỏ ta không quay về thì có tìm thấy cũng vô ích, kẻ bất trung bất tín như thế rồi ra sẽ trở thành ác nhân, mình không lỗi gì cả về việc này. c.2) Hào nhị Ngộ chủ vu hạng, vô cữu Gặp chủ ở đường hẹp, không lỗi. Đường hẹp hay ngõ hẹp là trái nghịch với đường thênh thang, đường thênh thang chỉ lúc vận hội hanh thông, làm ăn thuận lợi phát tài phát lộc, công danh sự nghiệp đang vẻ vang .. nhận chủ - tớ lúc đó là bình thường đi theo phò tá để kiếm chác chút đỉnh. Còn kết giao bằng hữu hay nhận chủ tớ lúc còn hàn vi, công danh sự nghiệp chưa đến thì đó là lòng thành tín thực sự – còn lỗi gì nữa. c.3) Hào Tam: Kiến dư duệ, kỳ ngưu xiết, kỳ nhân thiên thả ti, vô sở hữu, chung. Sự phát triển xã hội trở nên ì ạch, vì con trâu kéo xe bị cản, nghĩa là động lực thúc đẩy sự hăng say làm việc là lợi nhuận không có, chống đối cách mạng lũ phản động đang bị trừng trị thích đáng, xâm mặt cắt mũ , đây là cuộc cách mạng vô sở hữu – Tất cả là của chung. Hào tam chủ lợi , giờ cách mạng rồi không còn lợi nhuận riêng tư bỏ túi nữa nên tất cả trở nên ì ạch, cỗ xe phát triển được trâu kéo nghĩa là chính lợi ích vật chất thu được thúc đẩy người ta tăng năng suất thậm chí lao động quên mình , có như thế cỗ xe kinh tế mới đi tới được, bọn tù nhân bị xâm mặt cắt mũi chính là bọn phản động chống đối chính sách., Chống lại cách mạng vô sở hữu Không còn là của riêng ai tất cả là của chung . c.4) Hào Tứ Khuê cô, ngộ nguyên phu, giao phu lệ, vô cữu. Đơn độc chống đối, gặp đồng chí cũ, thành tín kết giao, nguy hiểm, không lỗi. Ngộ nguyên phu nghĩa đen là gặp người trước đây đã tin tưởng, dịch thoáng là: gặp lại bạn đồng chí cũ , giao phu nghĩa là thề ước sinh tử có nhau, nguy hiểm vì không còn là cá nhân chống đối nữa mà thành một lực lượng chống đối tức chống đối có tổ chức như thế tội sẽ nặng hơn nhiều ... c.5) Hào ngũ Hối vong, quyết tông phệ phu, vãng hà cữu Hối thẹn tiêu tan, thề sống chết cùng đồng đảng, tiến đi, đâu có gì sai. Lực lượng chống đối đã thành một đảng của những người đồng chí hướng sống chết với nhau quyết thực hiện cho được mục đích đã đề ra, quyết đi tới cùng con đường đã chọn. c.6) Hào thượng Khuê, cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa , tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ, phỉ khấu hôn cấu vãng ngộ vũ tắc cát. Hào ngũ là đã có minh chúa, vậy mà mình cứ một mực chống phá tới cùng, không nghĩ gì đến cảnh dân chúng điêu linh, sẽ không còn ai ủng hộ nữa lúc ấy đội quân nổi dậy rất dễ biến thành lũ trộm cướp. Đến hào ngũ là đã đắc vương đạo, đã có minh chúa tôi hiền mà còn tiếp tục chống lại là không còn chính nghĩa, lộ nguyên hình là kẻ mưu đồ xấu xa tư cách đê tiện và đồng đảng là lũ quỹ hung ác (heo và quỷ). Bậc trưởng nhân định tiêu diệt chúng không thương tiếc, nhưng sau mở đức hiếu sinh (dương cung rồi hạ cung) “chiêu hồi” chúng, cho chúng cơ hội hoàn lương (trời mưa sẽ rửa sạch bùn), rửa sạch tội lỗi xấu xa, kết cục thực “có hậu”. B- Quẻ đánh hay sư = Phong/ Hỏa Quẻ phong trong quẻ trùng này, nghĩa là khói chứ không phải gió, phong hỏa đài có nghĩa là dùng hệ thống đài đốt lửa để thông tin quân sự, điều binh mã từ nơi xa, nên đặt là quẻ đánh hay hành binh. a) Lời Quẻ: Sư – Trinh – Trượng nhân cát – vô cữu . hành brinh, phải nhất quán về hiệu lệnh (trinh), bậc trượng nhân đức cao trọng vọng cầm quân mới tốt, không lỗi gì. B) Lời tượng Phong tự hỏa xuất, sư, quân tử dĩ ngôn hữu vật, nhi hạnh hữu hằng. Lửa đẻ ra – khói, lửa khói được dùng làm tín hiệu điều binh, xem tượng ấy bậc trưởng nhân nói phải đi đôi với làm, thường xuyên giữ gìn đức hạnh, để quần chúng trông vào mà tin tưởng. Tục ngữ Việt nói không có lửa sao có khói, như vậy khói là tín hiệu để nhận ra lửa, việc nói năng trung thực, gìn giữ phẩm hạnh là tín hiệu để người khác nhận biết bậc quân tử hay chỉ là ngụy quân tử. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Sư xuất dĩ luật, phủ tàng hung Xuất quân với kỷ luật nghiêm minh không như vậy sẽ nguy hiểm. Kỷ luật còn có nghĩa là chấp hành hiệu lệnh, hiệu lệnh phải nhất quán trong toàn quân, ngày xưa thường dùng cờ và tiếng trống, làm sao cả đạo quân nhận lệnh và thực hiện lệnh phối hợp một cách nhịp nhàng như những cơ phận trong thân thể con người như thế mới có thể thắng trận. Phủ tàng là còn ngược lại sẽ nguy hiểm, hung c.2) Hào nhị Tại sư trung cát, vô cữu, vương tam tích mệnh Cầm quân phải thực sự công minh, rất tốt, không mắc lầm lỗi, vua nhiều lần ban thưởng. Đạo cầm quân là phải trên dưới như một, muôn người như một, muốn được như vậy vị chỉ huy phải thực sự công minh, chính trực, công minh là rõ ràng và công bình, đấy là đức hạnh bên cạnh tài ba của bậc tướng soái, có người cầm quân như thế đạo quân ấy chắc chắn trở thành đạo quân bách chiến bách thắng ( Vương tam đích mệnh) c.3) Hào Tam Sư hoặc dư thi, hung Không có tư lệnh chiến trường, thực nguy hiểm Nghĩa đen là việc quân mà giao cho nhiều đầu mối, hung Chiến trường phải được chỉ huy thống nhất như con người chỉ có một cái đầu, mệnh lệnh phát ra từ đó phối hợp các bộ phận cơ thể cùng quy về một mục đích nhất định như tư lệnh phát mệnh lệnh điều động phối hợp các cánh quân các binh chủng hợp đồng tác chiến, có nhịp nhàng thống nhất như một cơ thể thì mới hòng thắng trận. c.4) Hào Tứ Sư tả thứ vô cữu Tạm lui quân, không lỗi Nghệ thuật cầm quân không phải chỉ biết có tiến, mà tùy lúc tùy tình thế phải biết tiến thối đúng theo kế hoạch, rút cũng là một cách tiến công vậy, từ quân sự gọi là rút lui chiến thuật… nghĩa rút cũng là một cách đánh mà thôi nên đâu lỗi gì. Một nghĩa khác có thể hiểu: Sư tả thứ vô cữu là quá lạm vũ lực rồi, có những việc không thể chỉ một mực đối phó cứng rắn là xong nhiều khi phải dụ dỗ vỗ về giảng việc nhân nghĩa… để tránh đổ máu phí phạn mà kết quả lại rất căn cơ đấy gọi là “tâm công” ngày nay thường gọi là : tâm lý chiến, hay chiến tranh chính trị. Như vậy tạm lui quân sao có lỗi được. c.5) Hào ngũ Điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu trưởng tử sáng (xuất) sư, đệ tử dư thi , trinh hung. Ruộng bị chim ăn lúa, phá phách, xuất quân trừ diệt là chính đáng, phải dùng vị tướng tài đức vẹn toàn, tướng kém tài đức sẽ tổn thất nhiều. Kéo dài việc này mãi, xấu. Điền hữu cầm thực ra là hình ảnh đã danh chính ngôn thuận để xuất binh, vì đây là giặc trong nước chứ không phải ngoại xâm nên vị tướng cầm quân phải tài đức vẹn toàn để thực hiện việc vừa ân, vừa uy không phải chỉ một mực muốn tiêu diệt, trinh hung là nếu cứ phải hành binh mãi thì xấu, để sa lầy trong cuộc chiến thì xấu lắm. Ý nói cuộc chiến phải nhanh chóng chấm dứt, nhanh chừng nào tốt chừng ấy. c.6) Hào thượng: Đại quân hữu mệnh, khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng. Việc chiến chinh là bắt buộc để bậc đế vương thụ mệnh trời vì bá tính lập nên một triều đại mới , tuyệt đối không giao binh quyền cho kẻ xấu tranh bá đồ vương . Câu này cũng có thể hiểu là : tiểu nhân tuyệt đối không được đụng đến việc quân binh.
-
Dịch học họ HÙNG . bài 37 18/ Cặp Quẻ Mọc – Lặn Chu dịch : Tấn – minh di Chủ tâm của mình muốn bon chen giành giật địa vị – thì làm cho đức sáng nơi mình bị thương tổn. Ở đời 2 thứ người ta hay giành sống giành chết với nhau là: Quyền và lợi – hoặc lợi và danh. Thi ân bất cần báo là đạo đức chân thực, còn thi ân để chờ người khác báo lại thì đấy không phải là làm việc nghĩa mà là ...kinh doanh. Tương tự như vậy khi hy sinh xả thân cứu quốc cứu người thì đấy là việc nghĩa, còn chưa tham gia cách mạng đã tính chia ghế, chia phần thì đó cũng chỉ là phường đi buôn. Nếu xả thân vì đại nghĩa thì hào quang tự nhiên phát sáng, người người kính trọng còn phường buôn thì như ánh sáng bị che đi mất rồi, có ai thấy đâu. Về hình tượng cặp Quẻ này dùng cảnh mặt trời mọc và lặn để biểu thị , dân gian gọi là Mập – mờ . Mọc = tấn , mờ = minh di biến âm thành mập - mờ. Minh di là ánh sáng bị che đi, tức mờ, nguyên văn là sức sáng bị thương tổn. A- Quẻ Mọc = Hỏa / Địa Hoa ngữ là tiến lên Hỏa địa tấn là tượng phương đông lúc mặt trời mọc, hỏa là mặt trời nhô lên trên , mặt đất là quẻ địa. a) Lời Quẻ: Tấn, khang hầu dụng tích mã phồn thứ, trú nhật tam tiếp Rất nhiều học giả giải nghĩa là tiến lên, hầu tước có tài trị quốc an dân, được vua thưởng cho ngựa quý, trọn ngày được vua 3 lần tiếp kiến. Câu trên nói lên: - Công trạng : được gọi là khang hầu tức người mang tước hầu có tài trị quốc an dân. - Phần thưởng : thưởng nhiều ngựa xe, trong lễ chế nhà Chu phân biệt rất nghiêm, tước vị gì thì được bao nhiêu ngựa, bao nhiêu xe, nói vua ban thưởng nhiều ngựa xe có nghĩa là được thăng chức, tức là sự nghiệp đang tiến lên vậy. - Ngày vua tiếp kiến 3 lần biểu thị thái độ đặc biệt quý mến của vua với bậc hiền tài kiệt xuất Riêng với Dịch học họ Hùng lời Quẻ có nghĩa là: Khang hầu, là chữ viết sai, chính xác là cang hầu, hay khăng hầu (khăng khăng là không đổi) cứng - không đổi là tượng của Dịch lý chỉ phương Tây, Khang hầu ở đây chính là Tây Bá hầu tức ông Cơ Xương. Lời Quẻ là: Tây Bá hầu lập đại công được vua ban thưởng trọng hậu, một ngày mời tiếp kiến bàn việc nước tới 3 lần, ba trong tiếng Việt chỉ có nghĩa là nhiều mà thôi. b) Lời tượng: Minh xuất địa thượng, tấn, quân tử dĩ tự chiêu minh đức. Mặt trời nhô lên ở đường chân trời, là tượng cho sự tiến lên, bậc trưởng nhân xem đó làm cho rực rỡ thêm ánh sáng đạo đức nơi mình. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Tấn như, tồi như, trinh cát, hối vong – phu dụ, vô cữu. Tiến lên bị chặn lại, bền chí thì gặp tốt, tan biến sự hối thẹn, chung quanh chưa tin tưởng, cứ đủng đỉnh chờ thời, không lỗi gì . Thời khởi đầu hay nguyên thủy của loài người chưa có tri thức khoa học, lần mò mà tiến lên, có bước thành công nhưng cũng có bước thất bại, cứ bền chí tiếp tục tiến bước vì mới chỉ là sự trải nghiệm ban đầu nên đâu dễ cho mọi người tin cả, cứ từ tốn khoan thai mà làm việc rồi thế nào thời cơ cũng đến. c.2) Hào nhị Tấn như, sầu như, trinh cát, thụ tư giới phúc, vu kỳ vương mẫu Tiến lên, không được như ý – bền lòng sẽ tốt, được hưởng phúc lớn từ bà cố nội ban xuống. Dù chỉ mới là bước đầu, tiến lên dưới ánh sáng tri thức, vừa tiến hành vừa rút kinh nghiệm nếu có bước thành công nhưng cũng có bước bị trở ngại khiến phải rầu rĩ, nhưng cứ bền lòng rồi sẽ tốt – sẽ được hưởng một cách sâu rộng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật (tổ mẫu) c.3) Hào Tam Chúng doãn – Hối vong Bây giờ mọi người đã tin tưởng , không còn hối thẹn điều gì . Ở hào sơ là mò mẫm vừa làm vừa rút kinh nghiệm, đến hào nhị bước đầu có tri thức, hệ thống hóa các mối liên quan của sự vật bằng ký hiệu công thức đơn giản, tới hào tam là thực sự có ánh sáng khoa học soi đường nên hào từ nói được mọi người tin tưởng. c.4) Hào Tứ Tiến như thạch thử, trinh lệ Tiến theo kiểu của loài chuột đồng cứ như thế mãi thì nguy hiểm. Chỉ một chữ thạch thử mà có vị dịch là chuột đồng, người khác lại dịch là chuột lớn, chuột năm nghề ? (ngũ kỹ thử), có vị lại dịch là con dế mèn… nay xin góp thêm một ý … thạch thử, chữ thạch là chữ ký âm bằng Hán ngữ từ “thọt” của Việt ngữ, con chuột thọt chân tức chân què… đã què thì bơi bơi lết lết làm sao mà tiến lên được … ý hào tứ là lòng ham muốn tiến đi như mọi người nhưng lực bất tòng tâm, không đủ khả năng để tiến, chỉ lết lết chút ít mà thôi. c.5) Hào ngũ: Hối vong, thất đắc vật tuất, vãng cát, vô bất lợi. Bạch thư chu dịch chép là: thủ đắc vật thuyết. Không có gì phải hối tiếc, không tính toán thiệt hơn, tiến lên rất tốt, không gì là không lợi. Hào ngũ là địa vị thủ lãnh- quân vương phải lo cho xã hội phát triển tiến lên, đừng tính toán lời lỗ của riêng mình, được như thế thì không thẹn với lòng và không gì là không lợi tức lợi mọi đường. c.6) Hào thượng Tấn kỳ giác, duy dụng phạt ấp lệ, cát, vô cữu trinh lận Tiến lên bằng sức mạnh của cặp sừng ( chỉ biết húc mở đường) dù chỉ dùng đàn áp trong ấp cũng nguy, phải có lý do chính đáng lắm mới không lỗi, kéo dài việc ấy thì đáng xấu hổ. Dùng sức mạnh của cặp sừng húc càn mà tiến lên ý chỉ việc chiếm đoạt ngôi vị bằng bạo lực, ngày nay gọi là đảo chính quân sự, dùng sự bạo tàn đàn áp nhân dân là điều vô cùng nguy hại, như thế chỉ khiến người ta cùng đường, căm phẫn buộc phải nổi dậy chống đối. Phải có lý do chính đáng lắm việc hành xử như vậy mới không lỗi. Thí dụ người dân nhẹ dạ bị kích động, biểu tình đập phá tràn lan thì nhất thời phải dùng cảnh sát, vòi rồng mà trấn áp giải tán. Nhưng nếu vòi rồng dùi cui trở thành chính sách cai trị thì thật là điều đáng hổ thẹn. B- Quẻ Lặn = Địa/ Thiên Minh di Tiếng Việt là ánh sáng bị che khuất tức mờ tối , thiên chìm xuống dưới địa là tượng mặt trời lặn. Bậc quân tử thực thì đốc thực huy quang, còn ngụy quân tử bon chen dành giật quyền cao chức trọng là tự đánh mất mình như là ánh sáng bị che lấp đi hay nói khác là chỉ thấy ...đen thui đấy chính là ý nghĩa của cặp quẻ tấn – minh di. a) Lời Quẻ Minh di, lợi, gian trinh Khuất sáng hay mờ tối, vững lòng trong cảnh gian nan sẽ có lợi. Nhiều nhà nghiên cứu bàn rất hợp lý… đoạn trên nói về ông Cơ Xương , minh di là lúc bị vua Trụ nhốt trong ngục Diũ Lý, trong cảnh lao tù, dù gian nan tới đâu vẫn một lòng theo đường công chính, giữ vững khí tiết người quân tử, sở dĩ ông bị tù là vì nổi tiếng là người nhân đức, nghĩa là đức sáng nơi ông đã chiếu tỏa, Trụ Vương hôn ám, sợ ảnh hưởng của ông nên đã ra tay để “minh di” , bỏ tù ông tức vây kín lại không cho ánh sáng chiếu ra. b) Lời tượng Minh nhập địa trung, minh di, quân tử dĩ lợi chúng, dụng hối nhi minh. Mặt trời lặn vào trong đất đây là cách nói của người xưa chỉ mặt trời lặn, còn nghĩa bóng là: bậc trí giả hay trưởng nhân đến với quần chúng, Muốn làm lợi cho họ thì phải biết rõ trình độ của họ, nghe và nói ở trình độ đó, giáo huấn khuyến dụ cũng phải căn cứ trên mặt bằng dân trí không thể nói những điều quá cao xa không ích gì vì người nghe đâu có hiểu không tiếp thu được gì, đó là ý của câu : dụng hối nhi minh, thầy dạy học trò thì phải truyền đạt ở trình độ của trò thì mới có thể tiếp thu được. C – Lời Hào c.1) Hào Sơ Minh di vu phi, thùy kỳ dực Quân tử vu hành, tam nhật bất thực, hữu du vãng, chủ nhân hữu ngôn. Che lấy sự sáng (nơi mình) bằng cách cao chạy xa bay, cố gắng tới mệt rũ cả cánh, bậc trưởng nhân bước đi vội vả tới 3 ngày không dám ngừng lại ăn, phải trốn xa như vậy để còn có thể giữ được sự công chính , có dư luận không tốt. Rõ ràng lời Quẻ diễn tả cuộc trốn chạy vội vã, cam go của một đấng quân tử trước cuộc truy sát của lũ hôn quân bạo chúa . c.2) Hào nhị. Minh di, di vu tả cổ, dụng chửng mã tráng – cát Sức sáng bị thương tổn, bị thương nơi đùi trái, ý nói sự tiến đi bị cản trở nhưng không nghiêm trọng lắm. Minh di ở đây có nghĩa là bậc hiền tài bị hãm hại, nhưng chỉ có thể làm chậm lại chứ không ngăn được đường tiến. Dựng chửng mã tráng rất khó dịch, nhiều học giả dịch mã tráng là ngựa khỏe… thấy không ổn, ngựa khỏe phải là tráng mã, còn mã tráng là cấu trúc Việt ngữ . Còn dịch là con ngựa bị thương nghe cũng không ổn (tráng là bị thương) Ở đây có một kiến giả khác thường: Cũng như trường hợp “Thạch thử” vừa dịch vừa ký âm chữ Hán của ‘chuột thọt chân’ , ‘chửng mã’ là ngựa chứng trong tiếng Việt , ý hào từ chỉ sự hãm hại gây khó khăn cho sự tiến đi ( bị thương ở đùi trái ). Nghĩa câu ‘Dụng chửng mã’ là: vị hiền tài khuất phục được con ngựa chứng ý nói thu phục được một người dũng mãnh nhưng ngang tàng (chửng mã), việc này khiến ông ta càng thêm uy lực rất tốt. c.3) Hào Tam Minh di vu nam thú, đắc kỳ đại thủ, bất khả tật, trinh. Đất của Tây Bá hầu tức ông Cơ Xương ở phía Tây Bắc Trung Hoa theo Dịch lý tức Tây Nam Trung Hoa hiện nay gồm phần đất nay là Quí Châu, Vân Nam, Quảng Tây và Bắc Việt Nam,còn đất kinh đô triều ca của Trụ vương nơi bờ Hoàng Hà, Hà Nam ngày nay, tức phía Nam của Dịch lý (phương hướng ngày nay đã đảo ngược Bắc Nam).minh di nam thú ở đây chỉ việc : ông Cơ phát nối nghiệp cha là “Bậc hiền tại bị hãm lại (minh di)” làm Tây Bá hầu cầm đầu chư hầu nổi lên đánh Trụ vương, tiến quân về kinh đô nhà Ân (ở phương nam), nhưng ông Cơ Phát đã cho dừng binh không tiến nữa vì nhận định chưa chắc thắng đó chính là “bất khả tật” trinh tức phải kiên trì chờ đợi thời cơ không manh động . Ở Quẻ này: minh di được dùng như là danh hiệu của Tây bá hầu, người hiền tài bị hãm hại. c.4) Hào Tứ Nhập vu tả phúc, hoạch minh di chi tâm, vu xuất môn đình. Nhận ra mặt trái của bụng dạ người (Trụ Vương) lòng lang dạ thú đang trù hoạch việc hãm hại bậc hiền tài, lập tức phải cao chạy xa bay. Ở đây nói đến tình cảnh của một đại công thần một đời trung nghĩa phò tá vua, nay nhìn ra bụng dạ hẹp hòi xảo trá của hôn quân đang muốn hãm hại mình, phải lập tức trốn chạy, có lẽ hào nói về ông Cơ Tử, đại công thần triều Ân Thương phải giả điên rồi trốn chạy thoát chết khỏi tay Trụ vương (ông tỉ can liều gan can ngăn bị Trụ Vương mổ bụng moi gan) c.5) Hào ngũ: Cơ tử chi minh di, lợi trinh Ông Cơ Tử, bậc hiền tài thời Trụ vương kiên trì chờ thời bằng cách giả điên để thoát chết khỏi tay Trụ vương sau được Vũ vương nhà Chu rất trọng vọng . Bậc hiền tài một lòng trung trinh với nước với dân, xử vào hoàn cảnh nghiệt ngã thời Trụ vương bạo ngược có 2 cách xử sự: Ông Tỉ can liều mình can ngăn bị Trụ Vương mổ bụng moi gan đấy là ông đã: trí mệnh tọai chí, liều thân mình để giữ được chí cả còn ông Cơ Tử đã giả điên để thoát chết, giả điên tức “Minh di”, che dấu sự sáng suốt nơi mình để thoát nạn. c.6) Hào thượng Bất minh hối, sơ đăng vu thiên, hậu nhập vu địa. Vầng hào quang đã tắt chỉ còn sự hổ thẹn như mặt trời mọc rồi đi đến thiên đỉnh, sau ngả về Tây và ánh sáng lụi tàn dần. Nghĩa bóng là: do sự quang minh lỗi lạc, thăng tiến đến tột đỉnh vinh quang nhưng từ đó biến thành hôn ám, lòng lang dạ thú, ánh sáng cứ tắt dần cho đến khi mất hẳn để lại sau lưng sự nguyền rủa ngàn đời (Trụ Vương) Trong lịch sử có rất nhiều vì vua như vậy, về già trở nên hôn ám giết hại các khai quốc công thần để độc bá quyền hành và danh vị
-
Dịch học bài 36 17. Cặp Quẻ: Ranh – mãnh ( rành – mạnh) Ngôn ngữ Dịch học là : Quán – đại tráng Vĩ đại và thông thái là cặp quẻ nói lên phẩm chất và năng lực siêu phàm nơi con người. Đại tráng là vô cùng mạnh mẽ chỉ người có một ý chí mãnh liệt không gì lay chuyển nổi, điểm đặc biệt cặp quẻ này muốn nói: song hành với chữ đại tráng không thể thiếu chữ Quán hay thông thái nghĩa là thông hiểu rộng rãi, theo từ ngữ thường dùng ngày nay: Quán nghĩa là thấu triệt, biết một cách tường tận. Dịch học cho ta một cặp: phẩm chất và năng lực siêu phàm, đại biểu cho tâm và trí, bất khả ly; nhiều học giả cho thấy chủ trương nhấn mạnh chữ trí của Khổng Tử, điều đó làm ta ngạc nhiên vì tư tưởng này đã chứa ngay trong cặp quẻ đại tráng – quán ; trí là khả năng xét đoán từ ngày nay trong tin học gọi là khả năng xử lý thông tin, không thể nào có được một anh hùng đạo đức nhưng kém trí cả, nhưng lại rất nhiều bậc đại trí – vô lương tâm hay hữu tài mà vô đức. Không thông suốt, không phân định được đúng sai, phải trái thì làm sao xác quyết con đường phải đi để quyết chí bước trên nó, đạo đức luôn dựa trên nền tảng trí tuệ đấy là quy luật Dịch học đã vạch ra không thể khác được, nhưng điều ta không được lầm lẫn là bằng cấp cao chưa chắc đã là trí thức, bằng cấp chỉ là danh còn trí thức là thực. Danh và thực có thể đồng nhất nhưng cũng có thể không. Chúng ta cũng không thể lầm lẫn giữa đạo đức và các định kiến xã hội ở một thời kỳ lịch sử nhất định, thí dụ tư tưởng: tôn quân trọng đạo hay tam cương ngũ thường chỉ là sản phẩm của thời quân chủ, phong kiến theo phụ hệ đấy hoàn toàn không phải là đạo đức… thậm chí còn có thể là phản đạo đức… Đặc biệt Dịch học họ Hùng và Dịch học của Tàu hiện hành khác hẳn nhau về cặp Quẻ này, nói rõ ra là Dịch học của Tàu không có cặp Quẻ Đại Tráng – Quán này. A- Quẻ: Rành ( đọc trại đi là Ranh) Lôi /Thiên Rành rọt nghĩa là thông suốt hay biết rõ Hoa ngữ là Quán. Lôi trên thiên, sấm nổ ở trên trời, âm vang của nó lan toả xuống khắp mặt đất vì thế đặt là quẻ quán, tự như ở trên cao nhìn xuống thì có gì mà không thấy, thấy hết là biết rõ, rành rọt. Nên Trong Hoa ngữ Quán còn có nghĩa là cái tháp, hiểu trọn vẹn theo tiếng Việt phải là cái tháp canh: tức ở trên cao nhìn xuống thì thấy hết, ở quẻ này sấm nổ ở trên trời là cực cao nên còn chỗ nào mà không thấy (canh là trông chừng). a) Lời Quẻ Quán, Tiểu lợi, Trinh Rành rọt, biết rõ dùng để lo cho đời sống vật chất (Tiểu – lợi) Cái biết là cái trường tồn Quán thông là biết rõ những quy luật vận động của tự nhiên, nó chi phối mọi biến chuyển trong vũ trụ và đời sống vật chất của loài người. Tiểu là nhỏ không phải ý là nhỏ bé về kích thước, trong Dịch học nhỏ chỉ lãnh vực đời sống vật chất, còn lớn là những gì thuộc về tinh thần. B) Lời tượng: Quán, Tiên vương, dĩ tỉnh phương, quan dân thiết giáo. Quẻ Quán (rành rọt), đấng tiên vương đi đến các nước chư hầu, xem xét dân tình, tùy theo đó mà đặt ra lễ giáo, để giáo hóa dân. Chế độ phong kiến do nhà Chu tạo nên, có chính quốc và chư hầu, chính quốc hay chư hầu đều là đất của vua, con dân nước nào cũng là con dân nhà Chu, vua Chu. Để điều hành đất nước hằng năm vua phải đi đến các nước chư hầu nghe tấu trình người tốt việc tốt để biểu dương kịp thời, xem xét dân tình, nết ăn nết ở ra sao rồi tùy theo đó mà đặt ra luật lệ để giáo hóa dân sao phong hóa ngày càng đẹp, hoàn thiện hơn. Từ Quán ở đây nếu dùng Tiếng Việt ngày nay phải dịch là “đi xem” nghĩa là đi tới tận nơi để quan sát không chỉ ở nhà nghe báo cáo . c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận Nhìn như trẻ con, người thường thì không lỗi, bậc trưởng nhân mà nhìn như thế thì thật xấu hổ. Nhìn như trẻ con là chỉ ghi nhận hình ảnh không xét đoán chi cả, hình ảnh đi vào rồi đi ra… một cách hời hợt vô thưởng vô phạt người bình thường nhìn như vậy thì còn chấp nhận được, bậc trưởng nhân mà không biết ghi nhận và phán đoán thì không chấp nhận được, ý nói nhìn sự việc diễn ra một cách bàng quan mặc kệ chẳng ăn nhầm gì tới mình. Quân tử cứ “mũ ni che tai” thì thực là đáng xấu hổ, cũng như vậy nếu nhìn để mà nhìn không phân tích phán đoán phải trái đúng sai tốt xấu. c.2) Hào nhị Khuy quan, lợi nữ trinh Nông nổi, nhìn không có bề sâu, hay tầm nhìn hẹp hòi, đấy là cái nhìn của đàn bà. Bậc trưởng nhân mà có cái nhìn như thế thì thiên hạ đi ăn mày. Quán một cách đầy đủ là nhìn trong không gian 3 chiều và trong động trạng. Khuy quan chỉ có nghĩa là cái nhìn còn khiếm khuyết, chưa toàn diện, chỉ thấy bề nổi chưa thấy bề sâu. đúng trong tiếng Việt là cái nhìn nông nổi, đấy là năng lực bẩm sinh nên là đàn bà thì không có lỗi (định kiến lạ lùng thời phụ hệ xa xưa). c.3) Hào Tam Quan ngã sinh, tiến thoái. Xem xét cách sống của chính mình hiện tại tức là tự kiểm điểm bản thân để điều chỉnh, sửa đổi cho xứng bậc trưởng nhân – quân tử. Quan ngã sinh là tự kiểm Tiến thoái là tự phê xem mình tiến bộ hay thoái hóa. c.4) Hào Tứ Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương Hiền tài là sự sáng của quốc gia, đến nhà vua cũng phải tôn trọng. Lời hào này rất hợp với một câu nói bất hủ chép trên bia đá ở văn miếu Hà Nội: ‘Hiền tài là nguyên khí quốc gia’, nguyên khí quốc gia chính là “Quốc chi quang” ở hào này. Mang lại sự thịnh trị cho quốc gia không phải chỉ do vua hiền tôi trung, mà còn có các bậc hiền tài, các vị có cả tâm và trí nhiều khi không làm quan nhưng chính đời sống của họ lại là cái gương cho mọi người noi theo, lời nói của họ là ánh sáng soi đường cho quốc gia dân tộc bước đi, họ thực sự không có địa vị nhưng lại ở trên tất cả, đến bậc quân vương cũng phải tôn trọng. c.5) Hào ngũ Quan ngã sinh, quân tử vô cữu Bậc trưởng nhân phải thường xuyên tự kiểm điểm, tự phê bình có như thế mới giữ được mình. Làm được như vậy thì không mắc lỗi. Lời hào ngũ ý nghĩa tương tự hào tam, khác ở chỗ hào tam nói về ý nghĩa việc quan ngã sinh, còn hào ngũ nhấn mạnh phải thường xuyên quan ngã sinh. c.6) Hào thượng Quan kỳ sinh, quân tử vô cữu Quan sát sinh hoạt xã hội để phán xét mình, vì sinh hoạt xã hội chính là sản phẩm do cách sống của mình sản sinh ra, thiên hạ noi theo quân tử, nếu phong hóa suy đồi thì chính là do quân tử thoái hóa – nếu làm được như thế thì không có lỗi. B) Quẻ Mãnh hay mạnh = Thiên/ Sơn Núi sừng sững giữa trời là hình ảnh của sự mạnh mẽ vô song. Dịch học người Tàu lại cho là: Thiên sơn độn… núi sừng sững giữa trời mà lại tượng trưng cho sự ẩn trốn thì không hợp lý tí nào. Trong ngôn ngữ Dịch học chữ mãnh hay mạnh đồng nghĩa với từ đại tráng. a) Lời Quẻ: Đại tráng, lợi trinh. ( Ngờ rằng người Tàu đã ký âm sai chữ Lẽ thành chữ Lợi ) Vô cùng mạnh mẽ, hợp lẽ và vững bền. Ý chí mạnh mẽ bao giờ cũng phải dựa trên lý lẽ tự nhiên, đúng quy luật, một chủ quan một khách quan hợp tác với nhau gọi là Đại Tráng. B) Lời tượng Đại tráng ,quân tử dĩ phi lễ phất lý. hết sức mạnh mẽ, bậc trưởng nhân nếu thấy điều không hợp lẽ thì dứt khoát không làm. Đại tráng không phải là sức khỏe của cơ bắp, ở đây ý chỉ thắng được lòng mình hay rõ hơn là thắng sự ham muốn vật dục nơi con người mình tức là đại tráng hay “siêu mạnh”. Thí dụ: ai mà chẳng thèm muốn chức quyền và tiền bạc, nhưng người quân tử chỉ ham tiền của mình chứ không tham của người, chỉ dám ngồi lên ghế khi thấy mình làm được việc chứ không cố bon chen ngồi lên ghế cho bằng được… hòng kiếm chác… mọi người chỉ cần giữ được chữ công chính là đã xứng đáng với “đại tráng” rồi. B- Lời Hào c.1) Hào Sơ: Tráng vu chỉ, chinh hung, hữu phu. Hào Sơ thấp nhất cũng tương đương vị trí ngón chân trong cơ thể khi đứng. Mạnh ở cấp thấp nhất là chỉ không sợ chết tức như ta hay nói hữu dũng vô mưu, chỉ có sức mạnh cơ bắp không có cái đầu thì đánh ai được, nếu đánh thì thua chắc (chinh hung)…vì vậy phải hữu phu: có lòng tin… vào bậc trưởng nhân chỉ dẫn khi hành động . c.2) Hào nhị Trinh cát Kiên trì với ước muốn trở nên đại tráng, tốt lắm, dù chỉ mới lập chí cũng là điều đáng quý rồi, Hào nhị ở vị trí còn thấp, đoạn đường phấn đấu để trở nên đại tráng còn dài lắm, chỉ cần đừng ngã lòng là đủ được chữ cát . c.3) Hào Tam Tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng, trinh lệ, đê dương xúc phiên, lụy kỳ giác. Tiểu nhân dùng sức mạnh, quân tử dùng sự mềm mỏng, cứ khăng khăng chỉ biết sức mạnh sẽ như con dê húc vào hàng rào rồi mắc sừng vào đấy không sao rút ra được. Bọn Tiểu nhân thiên về bạo lực, trừng trị và trả thù, bậc trưởng nhân thiên về sự giáo hóa, trị bệnh cứu người là chính, bọn tiểu nhân cứ khăng khăng con đường ấy có ngày gặp nạn như con dê chỉ biết húc… nên kẹt luôn sừng vào hàng rào không sao rút ra được. Võng là từ Việt ngược với căng, đồng nghĩa với chùng , không căng thẳng. c.4) Hào Tứ Trinh cát hối vong, phiên quyết bất doanh, tráng vu đại dư chi phúc Bền lòng nuôi dưỡng ý chí cách mạng sẽ được đền đáp (mọi hối tiếc sẽ tan biến = hối vong), sẽ có ngày sức mạnh của bạo lực cách mạng đủ để đạp đổ bức tường bảo vệ chế độ thối nát, cỗ xe cách mạng tiến đi mạnh mẽ, nhờ cái vành bánh xe vững chắc ( ý chỉ dịch học ). Liên kết với hào từ của hào tam ta mới hiểu được hào tứ. Hào tam ý chí cách mạng có thừa nhưng thiếu khoa học lý luận cách mạng nên húc đầu vào đá, tức chưa đủ lực đã manh động tiến hành cách mạng nên thất bại vì tường rào không đổ, song hào tứ vẫn kiên trì ý chí cách mạng đến khi đủ lực ; nhận định thời cơ chọn thời điểm, đánh giá đúng sức mạnh nên cách mạng thành công. Bức tường đổ, tường đổ rồi thì không còn vật gì cản trở cỗ xe cách mạng tiến lên mạnh mẽ, sở dĩ được vậy là biết dựa trên hay vận dụng lý luận cách mạng, hay khoa học về tiến hóa xã hội. Một cách sáng suốt đúng đắn (chính là Dịch học). c.5) Hào ngũ: Táng dương – vu dị – vô hối Làm cho bầy dê mất tính hung hăng không lỗi. Cách mạng thành công rồi , thời đập phá đã kết thúc bắt đầu thời xây dựng, tính hung hăng hay húc của bầy dê đâu có dùng được nữa, tính chất này có khi lại trở thành mối nguy cho chế độ mới, bằng mọi cách phải diệt hay chấm dứt nó ngay. c.6) Hào thượng Đê dương xúc phiên, bất năng thoái bất năng toại, vô du lợi, gian tắc cát. Con dê đực húc vào hàng rào tới cũng không được, lui cũng không xong không có gì là lợi cả, gian nan vất vả sau được tốt – lành. Nói năng vung vít, một tấc bốc tới trời, bây giờ thực tế không như vậy, không thể tới vì càng tới càng xa rời thực tế “lún” sâu vào hoang tưởng, không thể lùi vì không lẽ nhận mình ...sai như vậy biết bao công sức, thậm chí bao sinh mệnh phải trả giá cho cái sai này à? Tình hình như thế còn gì là lợi nữa, nếu thực tâm thì sau khi gian nan sửa chữa sai lầm, đổi mới thành công thì rất tốt đẹp .
-
Dịch học họ HÙNG . bài 35 16 – Cặp: Hợp – Hằng (biến âm họp hành) Trên một đường thẳng 2 vật di chuyển cùng chiều, cùng vận tốc thì khoảng cách giữa 2 vật không thay đổi. Đấy là ý nghĩa cặp quẻ hợp hằng. Hợp là vừa khớp với nhau, hằng là không đổi. Trong vũ trụ mọi vật đều thay đổi không có sự đứng yên tuyệt đối nhưng có sự đứng yên tương đối khi so sánh giữa 2 vật như đã dẫn ở trên, vật này di chuyển vật kia cũng di chuyển theo vừa bằng vận tốc của nhau như thế là hợp, và khoảng cách giữa 2 vật không đổi là hằng. Hàm, hạp, nghĩa là sự bổ sung, bù đắp lẫn cho nhau. Hạp còn có ý nghĩa là hợp thời, đúng lúc. A-Quẻ Hạp = Trạch/ Sơn; (Hợp Thời) hay đúng lúc Sơn là núi nằm dưới trạch là hồ ý muốn nói: lấy núi lấp hồ thì thành mặt bằng, đó là sự bù trừ vừa khớp đúng. Dịch của Tàu gọi là: hàm. a) Lời Quẻ: Hàm, Hanh, lợi, trinh, thú nữ cát. Quẻ Hàm: hợp lý, thiết thực, lâu bền, gả con gái tốt lắm. Gái theo chồng, là ý quẻ hạp, khoa học kỹ thuật ngày một tiến bộ, xã hội ngày một phát triển và chế độ chính trị kinh tế cũng phải thay đổi cho đồng nhịp đấy là sự vừa khớp. Là ý nghĩa của việc gả con gái theo chồng vừa khớp có nghĩa là đúng lúc, hợp thời đúng thời cơ. b) Lời tượng: Hàm: Quân tử dĩ biều đa ích quả xứng vật bình thí. Quẻ hạp: bậc trưởng nhân phải bớt chỗ nhiều bù chỗ ít khiến cho sự vật được cân bằng. Lấy chỗ nhiều bù chỗ ít là chính sách xã hội, nâng đỡ các thành phần có thu nhập thấp, làm sao thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, đừng lầm lời tượng này với sự cào bằng, c) Lời Hào c.1) Hào Sơ : Hàm ký mẫu Người đứng thì ngón chân ở dưới cùng, hàm kỳ mẫu là sự phối hợp bổ sung cho nhau vừa mới khởi đầu chưa có gì đáng bàn. c.2) Hào nhị : Hàm kỳ phì, hung, cư cát Tiến trình hòa hợp bổ sung đã sâu thêm, phì là cái bắp chân, hào sơ từ ngón chân hào nhị là tiến lên đã tới bắp chân. Khi bước đi thì bắp chân đi trước, lúc ấy còn sớm quá tình thế chưa chín mùi cho sự hòa hợp đồng nhất nên thánh nhân khuyên ở yên chưa thể tiến hành cải cách được. c.3) Hào Tam Hàm kỳ cổ, chấp kỳ tùy, vãng lẫn. Cổ là cái bắp đùi , khi động nó động sau bắp chân, nhưng vẫn trước thân mình, ý là còn hơi sớm, tiến hành chuyển đổi không hợp lắm, nếu tiến thêm nữa thì không tốt. c.4) Hào Tứ Trinh cát, hối vong, đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư. Hào tứ là đã qua cái đùi lên đến thân mình, tức đã đúng thời cơ, đúng lúc thay đổi. Vững lòng, tốt, mọi hổ thẹn biến mất, người tới kẻ lui chẳng qua là sự tính toán hơn thiệt. Đã đúng thời cơ hành động rồi, cứ giữ vững quyết định, không thẹn vì mình cố chấp, người đi hoặc đến với mình thật đông, đi hay đến là do tính toán thiệt hay hơn của họ. c.5) Hào ngũ Hàm kỳ muội, vô hối. Rơi vào vị trí ở phía thịt lưng, hơi trễ một chút, không phải hổ thẹn gì. Đằng trước ngực và sau lưng là sát điểm trung, nếu lấy con tim là tâm, hổ thẹn là vì chậm chân dù chỉ một chút thôi. c.6) Hào thượng Hàm kỳ phụ, giáp, thiệt. Hòa hợp bằng cái miệng ý nói là mồm mép không thực lòng, hay chỉ lý thuyết suông, nói thì hay lắm nhưng làm chẳng ra gì. Gặp những kẻ ấy phải đề phòng vì tâm địa nó không thực. B) Quẻ Hằng = Lôi/ phong Sấm và gió luôn quấn quýt bên nhau, đến cùng đến đi cùng đi không có khoảng cách nên lấy tượng ấy đặt tên là hằng tức là không đổi. a) Lời Quẻ: Hằng, Hanh, vô cữu, lợi, trinh, lợi hữu du vãng. Không đổi dù đang chuyển động, không có lỗi, thiết thực và bền vững, thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Âm dương gắn kết là đạo trời còn lỗi gì nữa, vợ chồng ăn ở lâu dài cùng nhau xây dựng sự nghiệp chắc chắn ngày càng tiến xa hơn nữa. b) Lời tượng: Lôi phong Hằng, quân tử lập bất dịch phương. Sấm gió liền chặt, bậc trưởng nhân xem tượng đó mà lập chí, và không bao giờ sờn lòng đổi hướng đi. Chí đã quyết theo chính đạo thì mãi mãi không đổi đó là sự tốt đẹp của đạo Hằng . c) Lời tượng: c.1) Hào Sơ Tuấn Hằng, Trinh Huy, vô du lợi. Nóng vội tìm sự bền chặt, cứ như thế là xấu, không việc gì lợi cả. Hào sơ là lúc mới bắt đầu, chưa rõ bụng dạ tâm tính người ta ra sao đã vội thề hứa ăn đời ở kiếp như thế là xấu, không có lợi. c.2) Hào nhị Hối vong Hào nhị – đắc trung của hạ quái. Có sự nhìn nhận sáng suốt như thế kết ước lâu dài là đúng không lo gì phải hối hận về sau . c.3) Hào Tam: Bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu – trinh lận. Không luôn giữ phẩm chất đạo đức, sẽ gặp điều sỉ nhục, cứ như thế thì sẽ hối tiếc. Hào tam chủ lợi , hào từ chỉ bọn tham tiền bỏ ngãi -nghĩa Đạo đức mà sớm nắng chiều mưa thì vinh dự gì nữa mà không nhục, đấy đích thị là bọn ngụy quân tử hay ngày nay gọi là thoái hóa biến chất. c.4) Hào Tứ : Điền vô cầm Điền ở đây không phải nghĩa là ruộng mà là đi săn. Điền vô cầm là đi săn mà về tay không chẳng được gì, ý nói không đạt điều mong ước. Vị trí hào tứ biểu thị sự thái quá, đắc trung thì mới hằng được, thái quá hay bất cập đều không được như thế. c.5) Hào ngũ : Hằng kỳ đức, trinh, phụ nhân cát phu tử hung Một lòng giữ đức kiên trinh, đàn bà thì tốt vì đàn bạ thuận tòng một lòng một dạ theo chồng, còn đàn ông, bậc trượng phu phải mở đường khai lối không thể cứ mãi theo một lối mòn nên thánh nhân nói trinh thì không được tốt. c.6) Hào thượng : Chấn hằng – Hung Cổ vũ sự bền vững không thay đổi, xấu. Tại sao vậy? Hào thượng là hào trên cùng của quẻ, đã đến lúc phải biến, mặt trời đứng bóng rồi sẽ phải ngả về Tây, trăng tròn rồi bắt đầu khuyết, đã đến lúc phải thay đổi rồi mà còn cổ vũ sự “hằng” là không phù hợp, như thế là xấu.
-
Dịch học họ HÙNG . bài 29 10. Cặp quẻ Độn – Đáo (đôn – đáo) Độn và đáo nghĩa là (một đàng) lánh đi, (một đàng) đến, thành ngữ Việt có câu: chạy tới chạy lui tức chạy đôn chạy đáo, đôn là từ biến âm của chữ độn, đáo là tới, đôn (độn) là lui tức tránh đi hay lánh đi. Ý nghĩa cặp quẻ này là muốn tiếp thu ý kiến của người khác thì trong lòng mình phải trống rỗng trước đã, tức cái tôi hay định kiến của ta phải tạm lánh mặt đi thì ý kiến của người khác mới có chỗ để lọt vào , khi nghe người ta nói mà trong đầu đã lèn chặt, chứa đầy ý của mình thì làm gì còn chỗ cho ý khác chen chân vào, như thế nghe mà như không nghe, tiếp kiến trao đổi có ơn ích gì đâu. Về cặp quẻ đôn đáo thì Dịch học họ Hùng và Dịch học của Tàu khác nhau nhiều lắm Dịch học họ Hùng: địa trạch độn. Dịch học Tàu: Địa trạch lâm. Dịch học họ Hùng: phong địa lâm. Dịch Tàu: phong địa quán. Lời tượng các quẻ cũng khác hẳn nhau. A. Quẻ Độn = Địa/ Trạch Hán dịch là Thiên sơn – độn Núi sừng sững giữa trời sao lại là độn? Địa trạch độn ý nghĩa là mạch nước ngầm, hay sông ngầm, bản thân vẫn là con sông nhưng lại ngầm ở dưới đất nên tượng trưng cho sự độn hay lui đi, trốn lánh đi. a. Lời Quẻ Độn hanh, tiểu lợi trinh Trốn đi hay lánh mặt đi là để qua cơn bỉ cực, chỉ có thể làm những việc nhỏ như tìm lợi ích vật chất mà thôi, hãy bền chí. Lúc đang độn thì không thể nói chuyện quốc gia đại sự được chẳng ai nghe theo kẻ thất sở thân sơ. b. Lời tượng Độn : Quân tử dĩ thư thu nhân phải làm cho đầu óc mình trống rỗng trước đã rồi mới có thể tiếp thu ý kiến của người khác. c. Lời Hào c.1 Hào Sơ Độn vĩ, lệ, vật dụng hữu du vãng. Rút chạy mà chậm chân đi đàng đuôi (phía sau hết) thì thật là nguy, không thể làm gì được. Hào sơ chỉ kẻ kém trí không nhận định được thời cuộc, người khôn đã nhanh tay lẹ chân trốn cả rồi mình mới giật mình chạy bám theo đuôi. Liệu có thoát không, sợ khó đấy, ý nói đành phó mặc cho số phận rủi may vì mình đã hết đường đành tó tay. c.2 Hào nhị: Chấp chi dụng, hoàng ngưu chi cách mạc chi thắng thoát. Bậc trung liệt biết ở lại sẽ nguy nhưng không thể trốn đi, vì nếu mình cũng trốn thì lấy ai hãm bớt những điều tệ hại, như ông Vi Tử thời Trụ Vương giả điên để thoát thân còn Tỉ Can không làm thế được liều mình can Trụ Vương để đến nỗi bị moi gan. c.3 Hào tam Hệ độn, hữu tật lệ, súc thần thiếp, cát Tiếc của không thể trốn đi, tật tham tiền thật nguy hiểm, hạng người ấy cùng lắm cũng chỉ lo nổi cho vợ bé, lòng tham không đáy, ý chí bạc nhược, vinh cũng được nhục cũng được miễn có tiền, hạng người ấy thì Quốc gia xã hội còn trông mong gì. c.4 Hào tứ Hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân phủ Cáo quan về ở ẩn đối với bậc trưởng nhân thực là điều sung sướng, nợ tang bồng đã trả xong lui về hưởng nhàn vui cùng trăng thanh gió mát, còn với bọn tiểu nhân khi mất chức thì sầu não như đám ma ...vì quyền uy bổng lộc nay đâu còn nữa, không còn vênh vang được với người đời thì thực là buồn khổ biết bao nhiêu. c.5 Hào ngũ: Gia độn trinh cát Thoái lui đúng lúc, tiếng thơm còn mãi – tốt lắm. Tham quyền cố vị coi chừng vừa mang tiếng vừa thiệt thân Phạm Lãi sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn hoàn thành đại nghiệp, lẳng lặng bỏ đi bảo toàn được danh thơm và tính mạng. Đại công thần của triều Lưu Bang không biết chữ độn nên đã thảm tử về tay Lữ Hậu như Hàn Tín. c.6 Hào thượng Phì độn – vô bất lợi. Lên đỉnh núi cao làm bạn với hươu nai, là phì độn, ra đi tìm nơi thanh thoát cho tâm hồn, sống như thần như tiên không vướng chút bụi trần… còn gì tốt đẹp hơn? Có học giả Trung Hoa cho chữ phì thực ra là “phi” nghĩa là bay xa và giảng phi độn là cao chạy xa bay. B. Quẻ Đáo hay Lâm = Phong/ Địa Gió đi trên mặt đất Tượng là đang đi tới Chữ lâm trong quẻ lâm có 2 nghĩa: lâm là đến tới, đôn đáo là kẻ đi kẻ đến, kẻ tới người lui nghĩa thứ 2: lâm là lớn lắm hay vô cùng to lớn, nếu con người đánh mất được cái tôi, đi thì trở nên vĩ đại, chính cái tôi đó khiến ta trở nên vị kỷ và bài tha, mất chữ tôi đi thì lòng nhân ái lên tới tột đỉnh, không còn phân biệt ta – người. A . Lời quẻ: Lâm, nguyên hanh lợi tirnh, chí vu bát nguyệt – hung Lời quẻ tán dương chữ lâm: to lớn, to lớn thay nguyên hạnh lợi trinh tức 4 nguyên chuẩn của nền minh triết và khoa học: nhân bản, hợp lý, thiết thực và bền vững. Sở dĩ được như vậy vì chế độ xã hội vừa mới biến chuyển để phù hợp hoàn toàn với nền tảng vật chất kỹ thuật, lâm là đến với nhau, khoảng cách cứ ngắn dần đến lúc bằng không tức là phù hợp tuyệt đối. Sự đến gần hay tiếp cận này chính là “lâm”. Nhưng sự vật đâu có đứng yên, lấy một năm tiêu biểu cho một chu kỳ tháng 8 là 2/3 đoạn đường, sự không phù hợp hay độ lịch giữa chế độ xã hội và nền tảng vật chất kỹ thuật đã khoét to lắm rồi nên nói hung để báo trước sự bùng nổ cách mạng, xác lập chế độ mới phù hợp hơn. b. Lời tượng Lâm; Quân tử dĩ kiến thiện tắc thiên, hữu quá tắc cải . lâm ở đây hiểu nghĩa là sự tìm đến. Thấy điều thiện, người quân tử phải tìm đến, hay ngả về… nếu thấy gì quá mức thì phải tìm đến số không tức lùi lại cho vừa khớp, lâm là tiếp cận nhau để khoảng cách bằng không. c. Lời Hào c.1 Hào Sơ: Hàm lâm, trinh cát Nguyên lý tự nhiên đồng cực thì đẩy khác cực thì hút; sức hút của nam châm cũng thế và điện lực cũng thế, đến với nhau do sức hút tự nhiên là nguyên lý vĩnh cữu, tốt. Chữ hàm trong hào nghĩa là sự cảm ứng. c.2 Hào nhị Hàm lâm, cát, vô bất lợi. Ôn hòa, nhẹ nhàng mà nhích lại với nhau, tốt, không gì là không lợi. Hàm lâm là sự diễn biến hòa bình, dần dần thấu nhập vào nhau, không có đối kháng để bên này nuốt bên kia. Như thế thực tốt đẹp, mọi phía đều có lợi. c.3 Hào tam Cam lâm, vô du lợi, ký ưu chi vô cữu. Bị dụ mà đến, không có gì thuận lợi, biết lo trước thì không lỗi. Cô gái bị lừa vì lời nói ngon nói ngọt, người mua bị dụ về mồm mép bọn tiếp thị quảng cáo sản phẩm… tất cả là cam lâm, Việt Nam có câu: mật ngọt chết ruồi cũng vì lẽ này… đời là thế nên tốt nhất là cẩn trọng. Cam ở đây là ngọt ngào. c.4 Hào Tứ Chí lâm – vô cữu Dùng ý chí mà tiếp cận , không lỗi, ở đây chỉ trường hợp thái quá, các điều kiện để xích lại gần nhau chưa đủ, nhưng với ý chí mạnh mẽ quyết đi đến cho bằng được ,thường trường hợp duy ý chí như thế này là không tốt, không hiểu sao hào từ lại nói vô vữu. c.5 Hào ngũ Trí lâm, đại quân chi nghi, cát Tiếp cận bằng tri thức khoa học, đi đúng quy luật phát triển, đấy là phong cách của bậc vua lớn, thực tốt đẹp. Với mỗi trình độ khoa học kỹ thuật có một chế độ phù hợp, trí lâm là làm sao cho có sự ăn khớp hoàn toàn, tức phải biết vận dụng các quy luật phát triển của xã hội làm sao cho khoảng cách càng ngày càng thu hẹp cho đến khi phù hợp như vậy gọi là đắc trung, được như thế chỉ có bậc đại trí, đại đức nên hào tứ gọi là đại quân. c.6 Hào thượng Đôn lâm, cát Xích lại hoài, tốt Thượng tầng kiến trúc xây trên hạ tầng cơ sở, nay phù hợp đắc trung, mai khoa học kỹ thuật có tiến bộ, hai đằng lại có khoảng cách , lần nữa lại phải cải cách thượng tầng cho phù hợp ăn khớp. Cứ liên tục tái diễn như thế nên hào từ gọi là đôn lâm, tốt.
-
Dịch học họ HÙNG . bài 33 14 – Cặp Quẻ: Đông – đủ Đối chiếu với cặp Quẻ Trung phu tiểu quá ta mới hiểu đầy đủ trọn nghĩa về 2 cộng quẻ: Trung phu tiểu quá: nghĩa là với sự tin tưởng trong lòng thôi thì chỉ một số ít vượt qua được, từ phần trước ở cuốn sách này ta đã biết một chế độ xã hội phải có một cơ sở hạ tầng kỹ thuật phù hợp, với sự tin tưởng trong lòng không thôi thì chỉ một số ít người chấp nhận được sự chuyển đổi xã hội sang chế độ cao hơn, lý tưởng hơn khi tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa cho phép. Với cặp quẻ Đông – Đủ hay xếp ngược lại là Đủ – Đông hàm ý khi đã hội đủ điều kiện vật chất kỹ thuật thì sự chuyển đổi mới có thể được số đông chấp nhận. Đại quá nghĩa là đại đa số chấp nhận sự chuyển đổi xã hội. Thí dụ: không thể công hữu hóa tài sản để đại sản xuất khi chưa tự động hóa mọi thiết bị hoạt động trong nền kinh tế. Trong trường hợp này chỉ có một số ít là “cán bộ” … chịu chấp nhận mà thôi... còn với số đông tức đại đa số dân chúng thì phải đợi khi hội đủ điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật thì mới có thể tiến hành công hữu hóa được . Người lãnh đạo buộc thấu triệt cả hai vế : Trung phu - Tiểu quá và Di – Đại quá nếu không sẽ là đại họa ... A – Quẻ Đủ = Trac̣h / Phong (đầy) Quẻ đủ về ý nghĩa giống như quẻ Di trong Dịch Trung Hoa. Di là nuôi… nghĩa là chưa đủ điều kiện phải vỗ nuôi cho lớn thêm lên. Nhưng cấu tạo 2 quẻ khác hẳn dịch học người Tàu là: Sơn lơi di, còn Trạch phong lại là: Quẻ tiểu quá. Trạch là cái hồ để chứa nước, còn phong về vật chất là gió là cái cây nhưng về hành động Quẻ Phong lại chỉ sự giao lưu, truyền thông. Trạch trên phong tượng là cái hồ thông với sông, nhiệm vụ của nó là trữ nước lấy từ sông để điều hòa dòng chảy, thánh nhân lấy tượng tích nước cho đầy hồ mà làm ra quẻ đủ, hay đầy. a) Lời Quẻ: Di – Trinh cát – Quan di – tự cầu khẩn thực Vỗ nuôi, bồi bổ – là chuyện cả đời, tốt thôi vì đấy là lẽ tự nhiên. Nhìn cách nuôi dưỡng có thể xác định được kẻ tốt, người xấu, tiểu nhân hay quân tử. Bậc trưởng nhân phải tự nuôi lấy mình, hay tự kiếm sống không sống nhờ vả ai cả. Không phải chỉ là chuyện cá nhân ngay cả quốc gia cũng vậy, muốn được người trọng thì phải tự lực cánh sinh , cứ anh cả chị cả… mãi thì chẳng ai coi mình ra gì. :lol: Lời tượng Di Quân Tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực. Vì chưa tới mức nên còn phải nuôi, vỗ nuôi cho lớn thêm nữa mới được. Tình thế chưa chín mùi, tức thời cơ chưa tới đâu đừng nói quá lời đao to búa lớn để mang tiếng ‘nổ’hay nói khoác, phải tiết ẩm thực là vẫn còn phải dành dụm chắt bóp để đầu tư phát triển chưa tới lúc hưởng thụ đâu mà sáng say chiều xỉn. c) Lời Hào: c.1) Hào Sơ Xả nhĩ linh quy, quan ngã đóa đi hung. Đánh mất tư cách của mình, nhìn chằm chằm vào miệng người ta ăn xấu. Đói cho sạch rách cho thơm có đói chết cũng phải giữ tư cách của mình, nhìn chằm chằm vào miệng người ta ăn, ở đây không phải chỉ nói chuyện ăn đâu, ở đời trâu buộc ghét trâu ăn thấy ai hơn mình thì lồng lộn lên, tư cách như thế hung là phải. c.2) Hào nhị: Điên di phất kinh vu khân, chinh hung dã Lối kiếm ăn ngược đời, chỉ biết xin viện trợ của nước giàu, nếu có chiến tranh chết đói là cái chắc. Viện trợ chỉ có thể cứu đói, làm sao có thể tích lũy xây dựng cơ sở vật chất bằng đường đi xin… ở đời đâu có ai cho không? dại dột đi đổi chủ quyền quốc gia lấy một đống đồ ve chai đồng nát…, không những không có tư cách mà còn là sự ngu đần, kém trí không biết tính toán. c.3) Hào Tam: Phất di, Trinh hung, thập niên vật chất, vô di lợi. Làm ăn gian dối, cứ như thế mãi sẽ gặp nạn, nguy hiểm. Cả thời gian dài cũng không ngóc đầu lên được, chẳng có gì là lợi nữa. Trên thương trường uy tín là điều tối cần thiết, làm ăn gian dối chỉ được một thời gian thế nào cũng bể, đã mất uy tín rồi thì coi như tàn đời không dễ khôi phục lại được đâu. Chẳng còn làm ăn gì được nữa. c.4) Hào Tứ: Điên di, cát, Hồ thị Đam đam, kỳ dục trục trục, vô cửu. Tích lũy bằng sức lao động của người dân, tốt (không phải đi xin viện trợ) luôn tìm cơ hội với khát vọng vươn lên cháy bỏng, không lỗi gì. Ít khi nào có nghịch lý: trái lẽ thường mà lại tốt như hào từ này. Tự lực, tự cường cũng là chuyện hiếm trong một thế giới chỉ ngửa tay chờ viện trợ. c.5) Hào Ngũ: Phất kinh cư trinh cát, bất khả thiệp đại xuyên Mất chí tiến thủ, bằng lòng với cái hiện có như thế thì tốt thực nhưng không thể nên đại sự. Hào ngũ là ngôi tôn, ngôi tôn phải biết lấy sơn hà xã tắc làm trọng, còn cái ngai của mình có đáng gì, quốc gia đã phú cường chưa, nhân dân đã sung sướng chưa? Mà đã thỏa mãn, chỉ cốt bo bo giữ ghế thôi à ? Chí như thế đâu có xứng với ngôi. c.6) Hào Thượng: Do di, lệ, cát – lợi thiệp đại xuyên Muôn dân trông chờ vào mình, coi thường hiểm nguy, rồi sẽ tốt đẹp trách nhiệm và ý chí như thế chắc làm nên chuyện lừng lẫy năm châu bốn bể. B/ Quẻ Đông = Sơn/ Lôi Quẻ này tương cận với Quẻ Đại Quá, tức số đông nhưng cấu tạo thì khác. Trạch phong đại quá Sơn Lôi Đông (số) So sánh với Quẻ ít hay Tiểu quá ta mới hiểu: Lôi Sơn = Tiểu Quá Sơn Lôi = Đại Quá Động trên Đỉnh núi chỉ một số ít người vượt qua được (Lôi – Sơn) Động ở dưới chân núi, thì số Đông qua được. Trạch phong đại quá như Dịch học của Tàu thì … không hiểu. a) Lời Quẻ: Đại Quá, đống mạo, lợi hữu du vãng, hanh. Quẻ đại quá hay số đông, áp lực buộc phải chuyển đổi đã quá lớn đến cây cột chống muốn cong lại, phải thay đổi thôi mọi việc trôi chảy. Trình độ kỹ thuật máy móc đã tiến quá xa mà chế độ xã hội không cải cách theo, nên áp lực buộc thay đổi đã trở nên lớn tới mức muốn bùng nổ. (đống nạo) :lol: Lời tượng Đại quá , quân tử dĩ độc lập bất cụ, độn thế vô muôn Đại quá hay Quẻ số đông. Bậc trưởng nhân đứng một mình không sợ, ẩn cư không buồn. Lời tượng : Đại quá là sự hùa theo nhau của đám đông, tình thế đã bắt phải thay đổi lúc đó mới chuyển động, như vậy là luôn luôn chậm hay bất cập, làm phí hẳn một qũang thời gian, bậc trưởng nhân suy nghĩ độc lập không hùa theo số đông, nếu bọn chúng tẩy chay mình vì ý kiến trái ngược khiến mình phải ẩn cư trốn đời cũng chẳng phiền muộn gì. Xã hội nào cũng luôn luôn có một số đông phàm tục và một số ít cao trọng. Thường là những lời trái tai sẽ bị số đông bài bác nhưng bậc trưởng nhân không hề thay đổi lập trường, cùng lắm là ẩn thân vui với thiên nhiên để chờ thời, tức chờ khi đám đông tỉnh ngộ khẩn cầu mới ra tay cứu vớt. c) Lời Hào c.1) Hào sơ : Tạ dung bạch mao vô cữu Lót đệm mà dùng cỏ trắng, không lỗi. Sự bùng nổ cách mạng của quần chúng rất dễ trở nên quá khích, quá trớn lúc ấy thực vô cùng tai hại, đập hết đốt hết tổn hại không sao kể xiết, để tránh việc này xảy ra những người có trách nhiệm phải hết sức khôn khéo, mềm dẻo, tránh sự chọc tức, khiêu khích đám đông. c.2) Hào nhị Khô dương sinh đề, hảo phu đắc kỳ nữ thê, vô bất lợi. Đời sống tinh thần đạo đức và đời sống kinh tế vật chất thường bước song đôi nhịp nhàng, trường hợp hào nhị này đời sống đạo đức tinh thần tiến lên trước (hảo phu), sau đó khá xa đời sống vật chất mới được nâng lên (kỳ nữ thê) làm được như thế thì không gì là không lợi. c.3) Hào Tam Đống nạo – Hung Đã đến thời điểm phải chuyển đổi nhưng chưa khởi động nên áp lực đè nặng ghê gớm, cột nhà tượng trưng cây cột chống đỡ cho chế độ đã chịu không nổi nữa rồi, thay đổi ắt phải tới thôi. c.4) Hào Tứ Đống long, cát, hữu tha, lận Cột nhà dựng đứng, tốt lắm, ý nói cán bộ cấp cao cấp trung và cấp thấp đều tốt, sức chống đỡ của cái cột rất khỏe nên tốt lắm.., còn với bên ngoài nhà mình đành chịu thẹn không làm sao giúp được cả thiên hạ. c.5) Hào ngũ Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sĩ phu, vô cữu, vô dự .. Cây khô bỗng sinh hoa, bà lão được chồng trai trẻ, không lỗi, không vinh dự gì. Tâm bất cập trí, khoa học kỹ thuật đã bước xa lắm, đạo đức lương tâm mới chuyển biến theo (bà lão lấy chồng trẻ) thực không vinh dự gì, vì đã không nhận ra sự bất cập này cho tới khi đã bị dồn tới chân tường mới phản ứng mà thôi. c.6) Hào thượng Quá thiệp, diệt đỉnh, hung vô cữu. Vượt sông lội ngập đầu, nguy hiểm nhưng không có lỗi. Làm cách mạng mà không thông hiểu và nắm vững tình hình, không rõ thời cơ và tương quan đôi bên để đến độ rơi vào cảnh nguy nan (ngập đầu) xấu vô cùng nhưng không lỗi vì tâm tốt chỉ tại trí chưa đủ mà thôi.
-
Dịch học bài 32 13. Cặp quẻ: Tụ – Thăng hay Tới - tấp Cặp quẻ này nói lên sự phát triển tất yếu theo thời gian. Phát triển về lượng là quẻ tụ Phát triển về chất là quẻ thăng Đoàn thể ngày càng đông đúc hơn lên, lãnh thổ mở rộng ra, khi không mở rộng được nữa thì tụ là sự liên kết hay thống nhất nhiều cái nhỏ để thành một cái lớn, lớn hơn thì có được ưu thế về qui mô, cạnh tranh với sức mạnh lớn hơn, tiếng nói mình có trọng lượng hơn, tóm lại phát triển về lượng là quy luật tự nhiên. Con người bằng nỗ lực của mình có được sự hiểu biết ngày càng rộng hơn và sâu hơn, từ sự hiểu biết này biến thành lực để tác động vào thế giới tự nhiên đưa lại những thành tựu về kinh tế , của cải ngày một dồi dào hơn, đời sống ngày càng nâng cao đấy là ý nghĩa quẻ Thăng. 2 quẻ tụ và thăng của Dịch học họ Hùng chỉ trùng tên còn nội dung khác hẳn Dịch học của Tàu, cặp quẻ nay lý giải việc tại sao Việt Nam phải gia nhập Asian. A- Quẻ Tụ = Thiên/ Lôi (Tựu) Trong tập quán sinh hoạt của người Việt, tiếng trống có một vị trí khác đặc biệt. Tiếng trống báo giờ học. Tiếng trống vang lên để báo hiệu một việc gì đó, trống dùng trong các buổi tế lễ trời đất và đặc biệt tiếng trống để tụ họp dân làng. Các sách cổ của người Tàu có ghi chép việc tụ tập dân làng bằng tiếng trống đồng, đấy là một hiệu lệnh, tùy theo cách đánh mà tập trung một thành phần nào đó trong cộng đồng, trống để tập trung họp hành bàn bạc việc chung, cũng có thể là tập trung trai tráng để chống thiên tai hay giặc cướp. Thiên lôi là tượng tiếng trống vang lên dưới gầm trời công dụng là để tập hợp nên thánh nhân đặt tên quẻ này là tụ hay tập trung. Trong Dịch học của người Tàu thì thiên lôi hợp thành quẻ vô vọng hợp lý hay không miễn bàn. a. Lời quẻ: Tụ nguyên hanh lợi trinh, kỳ phỉ chính, hữu sảnh, bất lợi hữu du vãng. Muốn Tụ tập phải hội đủ 4 nguyên chuẩn: nguyên – hanh – lợi – trinh, không được như thế là có tai họa, bất lợi không thể tiến được. Tụ tập tức hình thành một cộng đồng người, việc kết liên con người buộc phải theo đủ 4 tiêu chuẩn, nhân bản, hợp lẽ, thiết thực và bền vững không được như vậy mà tập hợp lại là tai họa, hoàn toàn bất lợi không thể tiến lên được. Hình thành một cộng đồng người là việc hết sức lớn và hết sức khó rất phức tạp, có muôn ngàn việc phải giải quyết, nếu nắm vững 4 nguyên chuẩn, hành động theo chuẩn mực đó sẽ được quốc thái dân an, ngược lại thì có thể là một hiểm họa. b. Lời tượng Tụ, quân tử dĩ trù binh khí giới bất ngu. Số đông người tụ tập lại bậc trưởng nhân phải chuẩn bị khí giới phòng những bất trắc phát sinh. Hình ảnh cụ thể rất quen mắt với chúng ta ngày nay là các cuộc meeting, biểu tình, nếu không tổ chức tốt, với đám đông như thế khi bị kích động dễ phát sinh cuồng loạn. c. Lời Hào c.1 Hào Sơ Hữu phu, bất chung, nãi loạn nãi tụy, nhược hào, nhất ác vi tiếu vật tuất vãng vô cữu. Không thể ăn bánh vẽ mãi được, tập họp biểu tình để bày tỏ thái độ, hành động ôn hòa đừng ngại cứ làm đi không lỗi gì. Ngày nay meeting biểu tình là chuyện bình thường thời quân chủ đó coi như là tội nổi loạn, đứt đầu như chơi, Dịch học dám chỉ bảo… ôn hòa cứ làm đi thật là đi trước thời đại bước qúa xa . c.2 Hào nhị Dẫn cát vô cữu, phu nãi lợi dụng thược Dẫn giắt, lôi kéo nhau theo đường công chính, không lỗi, tâm thành lễ mọn vẫn được tốt lành. Vật tế lễ chỉ tượng trưng cho tấm lòng thành kính cuả mình nên lễ mọn cũng được, còn có ý tà gian thì vật tế có trọng hậu tới đầu, thần thánh cũng không dám chứng. c.3 Hào Tam Tụ như – ta như – vô du lội, vãng vô cữu tiểu lận. Hợp tác làm ăn than trời như bọng chẳng ơn ích gì, bỏ đi chẳng lỗi, chỉ thẹn chút ít. Hào tam chủ lợi, tụ tập chủ lợi, chỉ có là hợp tác làm ăn, tỵ nạnh láu cá vặt dẫn đến chẳng ra làm sao cả, rời bỏ tập thể ra làm ăn một mình chẳng lỗi gì, chỉ hơi thẹn vì đã tính sai nước cờ phí thời gian. c.4 Hào Tứ: Đại cát – vô cữu Hào tứ là hào của duy lý, duy lý luôn dẫn đến hành động thái quá hay quá lố. Tụ ở thời duy lý là tượng tổng hợp lý luận, duy lý thì tốt nhất cũng đạt được sự không lỗi mà thôi, tức chẳng nên cơm cháo gì, bệnh thái quá hay bệnh mắt to hơn người đã là đại họa của nhân loại; bắt thực tế phải khom mình theo lý luận là sự hành hạ con người một cách kinh khủng, ai thần kinh yếu thì chỉ có nước vào nhà thương điên. c.5 Hào ngũ Tụ hữu vị, vô cữu, phỉ phu nguyên vĩnh trinh, hối vong. Cấp trên ra lệnh tập hợp, đâu có lỗi gì, có kẻ không tâm phục- khẩu phục chẳng sao cả cứ giữ nguyên lệnh như thế, chẳng có gì phải hối hận. Hào ngũ chỉ ngôi Tôn, ra lệnh tập hợp cấp dưới quyền, mệnh lệnh thì phải thi hành, nhưng có người trong bụng cũng có phần không phục, mặc xác nó, lệnh là lệnh không phải suy nghĩ đắn đo gì cả. c.6 Hào thượng Tế tư thế di vô cữu. Cuối cùng của quẻ theo luật tuần hoàn … là “rã đám”, than thở sụt sùi chắc vì mất ghế… không được làm lãnh tụ vĩ đại cao cả nữa, buồn thật. Nhưng không lỗi gì vì đấy là luật tự nhiên hợp tan, tan hợp. B- Quẻ Sơn Thiên = Thăng Đây là một trong những quẻ khó “thông” nhất, núi ở trên trời ở dưới tạo thành quẻ thăng hay lên cao. Suy mãi mới ra; sơn ở trên, thiên ở dưới thì chỉ có nơi đỉnh núi…mà thôi . Đây là cảnh tu tiên trên non cao thoát trần, thoát tục sống tràn đầy với nội tâm. a. Lời Quẻ Thăng nguyên hanh, dụng kiến đại nhân, vật tuất, nam chinh cát. Thăng tiến đi lên, nhân bản và hợp lý dùng để rèn đúc cho con người trở thành trưởng nhân, không phải lo lắng gì hành quân đánh bọn man rợ, tốt. Đi lên đỉnh núi tức tu luyện hầu trở thành đại nhân (đối nghịch với tiểu nhân) Nam chinh không có nghĩa là hành quân đánh phương Nam đâu, Dịch học cho phương Nam là phương tối tăm, mông muội, nam chinh là đánh lũ man mọi hay mông muội (man = mãn chân, mông = mông cổ). b. Lời tượng Địa Trung sinh mộc thăng, quân tử dĩ thuận đức, tích tiểu dĩ cao đại. Cây mọc lên từ đất, “phong” còn được dùng để chỉ cái cây, là tượng quẻ thăng ở đây là nghĩa là mọc lên, xem tượng ấy bậc trưởng nhân phải theo chiều đạo đức, tích lũy nhỏ nhặt những việc nhân đức để dần dần trở nên cao to như cây cổ thụ vậy. c. Lời Hào c.1 Hào Sơ: Doãn, thăng, đại cát Quyết tiến (lên) vô cùng tốt. Tiến lên là phát triển về chất, đã là tất yếu ( thời cơ ) cộng với ý chí tiến công của con người thì còn gì tốt bằng. c.2 Hào nhị: Phu nãi lợi dụng thược, vô cữu . có lòng thành kính chẳng cần lễ vật, không lỗi gì đâu, nghĩa quá rõ khỏi bàn. c.3 Hào tam Thăng hư ấp, tiến lên dễ dàng như vào chỗ không người. Đời là một cuộc bon chen dành giật nhau để đi lên, mọi mánh khóe thủ đoạn được tung ra chỉ nhằm cản đường, triệt hạ kẻ khác hầu mình ngóc đầu lên, ở hào tam việc đi lên dễ dàng quá không có ai cản trở tranh giành với mình cả. c.4 Hào Tứ Vương dụng hanh vu kỳ sơn cát vô cữu. Nhà vua dâng lễ tế tại kỳ sơn tốt; theo một số nhà nghiên cứu Trung Hoa lời Hào tứ này mô tả việc ông Cổ Công Đản Phụ bị lũ rợ bức bách chạy đến chân núi Kỳ Sơn, một năm xây thành, 2 năm xây kinh đô, 3 năm quy mô quốc gia tăng gấp 5 lần ban đầu. Diễn tả sự thăng tiến nhanh chóng của đất nước Thục ở Qúy châu . c.5 Hào ngũ Trinh cát – thăng giai. Kiên trì từng bước tiến lên. Sự phát triển luôn luôn là một quá trình, theo thời gian tạo thành các nấc như nấc thang, trinh tức bền vững lâu dài, hào nói phải tuần tự mới tiến lên được, bước trước làm bệ phóng cho bước sau, cứ tiếp nối như thế mãi từ nguyên thủy tới văn minh. c.6 Hào thượng Minh thăng, lợi vu bất tức chi trinh – mò mẫm tiến lên, bền bỉ tự lập kiên cường rồi sẽ thắng lợi. Đi con đường chưa ai đi, thì phải mò mẫm vậy, mình là người tiên phong thì dựa vào ai được, chỉ còn cách bền bỉ, tự lập rồi đây thế nào cũng tới đích.
-
Dịch học họ HÙNG . bài 31 Cặp quẻ :Bái-phục Biến âm của (Bá – Phụt) Bá phụt là định luật đúng cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội Bá là tựa, là tì. Phụt là phóng đi Đơn giản nhất như sự nhảy lên, không có điểm tì vào thì làm sao nhảy lên được…. Cặp quẻ bái – phục của Dịch học họ Hùng và cặp Quẻ bác phục của dịch học người Tàu âm tựa tựa như nhau nhưng nghĩa thì khác hoàn toàn. Núi tựa vào mặt đất mà đứng, như vậy là bá hay tì hay tựa. Địa lôi phụt là hình tượng sự rung động trong lòng đất và dung nham phụt lên… ta thường gọi là sự phun trào của núi lửa. Quẻ phụt kết hợp 2 hiện tượng địa chấn và núi lửa (địa lôi) trong thiên nhiên thường xảy ra đúng như thế. Phục theo Hoa ngữ là trở lại, ở đây miễn bàn. A- Quẻ Bá = Sơn/ Địa Bá là từ Việt có cận âm là bấu, đều có nghĩa là tựa vào bám víu vào. Núi tựa trên đất là hình tượng của việc chính quyền dựa trên dân. Thượng tầng kiến trúc “bá” trên hạ tầng cơ sở. a. Lời Quẻ Bá – bất lợi – hữu du vãng. Phụ thuộc vào cái khác, (người vật) nên bất lợi, nếu tiến hành công việc. Phải dựa trên cái gì đó nên không thể độc lập tiến hành công việc. Về phương diện quốc gia nếu chưa đủ sức tự lực, tự cường mà lúc nào cũng dựa vào anh cả, chị cả thử hỏi có dễ dàng thành đạt các mục tiêu quốc gia hay không? b. Lời tượng: Sơn phụ ư địa: Bá, thượng dĩ hậu hạ, an trạch. Núi dựa vào đất là tượng quẻ Bá, nhìn tượng đó bậc trên, tức bậc quân vương phải biết làm cho vững chắc điểm tựa của mình, tức lo cho dân được no ấm, an ổn nơi ăn chốn ở. Bậc trí giả hoặc đấng minh quân đều biết địa vị của mình có vững hay không là nhờ cái chân đế ở dưới, muốn vững trên thì trước phải lo cho vững dưới, nhà nhà ấm no hạnh phúc thì chế độ vững như bàn thạch, chẳng có “kẻ thù” nào lật đổ nổi. c. Lời Hào c.1 Hào Sơ: Bá sàng dĩ túc, miệt trinh hung. Chân ở đây là tay chân tay bộ hạ, thần thiêng tại bộ hạ, triệt hết tay chân thì triều đình, quân vương dựa vào đâu, dĩ nhiên là hung nếu kéo dài không chấn chỉnh. Ý Hào là vô hiệu hóa dần từ cơ sơ,̉ hệ thống cơ sở chống đỡ chế độ cũng như 4 chân giường đỡ cả cái giường vậy, giường gãy chân thì vua và triều đình ngủ…đất ? c.2 Hào nhị Bá sàng dĩ biện, miệt, trinh hung Thang giường là chỗ đỡ mặt giường, thang giường gãy thì mặt giường tựa vào đâu, ý hào là đã hỏng tới lớp cận thần rồi. Tình thế này, vua việc xa không biết việc gần cũng không hay, vua biết hỏi ai để nắm dân tình, mang tiếng là quân vương nhưng thực ra bị che mắt bịt tai chẳng khác gì bù nhìn. c.3 Hào Tam Bá chi – vô cữu Dựa vào cái gì ? Biết dựa vào đâu? Không có hệ thống cán bộ, hay quan lại từ cấp cao xuống cấp thấp; lấy gì liên lạc với dân nên hào tứ hỏi hay than van. Biết dựa vào đâu? c.4 Hào tứ Bá sàng dĩ phục, hung Giường không còn mặt thì nằm vào chỗ nào, nói cho văn hóa có thứ tự có logic từ dưới lên trên đều không thể tin cậy , gọn lại là: làm gì còn giường mà nằm nghĩa hoàn toàn không còn chỗ dựa, đến thái giám cung phi cũng không tin được nữa thì còn ai nữa đấy là tình cảnh cuối đường của một triều đại . c.5 Hào ngũ: Quán ngư dĩ cung nhân sủng vô bất lợi. Quây đám tiểu nhân lại cách ly chúng với triều đình và dân chúng để khống chế ảnh hưởng của chúng. Vì nhiều lý do dây mơ rễ má khiến chưa diệt chúng ngay được, tạm coi chúng như bọn người hầu kẻ hạ trong nhà mà thôi, cao lắm thì đối xử như đám cung phi để mua vui, không cho chen vào việc nước được. Làm được như vậy là coi như tình thế đã xoay chuyển, mọi việc đều tốt. c.6 Hào thượng Thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư. Còn một ghế cao lắm chưa có người ngồi (thạc quẻ bất thực), nếu quân tử nhận chức ấy muôn người được nhờ (đắc dư = được cái xe lớn) còn tiểu nhân ngồi vào đấy thì mọi người còn biết trông mong nhờ cậy vào đâu (bác lư), ghế này không phải ngai vàng của quân vương thì cũng là ghế tể tướng . B- Quẻ Phụt = Địa/ Lôi Phụt được ký âm Hán Tự là phục Quẻ địa trên quẻ lôi rõ ràng là tượng địa chấn hay rung động trong lòng đất, sự rung động này chẳng bao lâu sau dung nham sẽ phụt lên trời. Lại nữa 5 vạch đứt ở trên là cứng là hình ảnh lớp vỏ trái đất, vạch dưới cùng là vạch liền là mềm lỏng chỉ dung nham. Dung nham sẽ phun trào theo khe nứt ở giữa 5 vạch đứt – tức khe hở trong lòng núi lửa như hình ảnh qủe Phục . Dịch học của Tàu gọi là quẻ phục nghĩa là trở lại. a. Lời Quẻ: (Phục) phụt – hanh – xuất nhập vô tật bằng lai, vô cữu, phản phục kỳ đạo, thất nhật lai phụt lợi hữu du vãng. Bắn ra hay phóng lên – ra vào không sao cả, mà có trở lại cũng không lỗi gì, trở lại đường ngay nẻo chính, 7 ngày sau thăng hoa kết quả, lợi cho sự phát triển. Phụt lên là sự chuyển động, dung nham phun trào là hiện tượng tự nhiên, nếu lập lại (bằng lai) cũng là chuyện bình thường. Sau khi phóng ra đạt được sự cân bằng (phản phục kỳ đạo) giữa sức nén và lực bung ra, chu kỳ sau lại tiếp tục, lợi cho sự phát triển. Hiện tượng núi lửa là chu trình cân bằng, phá vỡ cân bằng của một bên là lực nén của vỏ quả đất, một bên là lực bung ra của dung nham cháy bỏng, lực tích tụ trong lòng đất cứ gia tăng dần tức độ nén ngày càng lớn, đến lúc độ lệch quá lớn sẽ bùng nổ sự phun trào. Dòng dung nham bắn ra áp lực giảm đi, sự cân bằng được lặp lại, rồi lại khởi đầu một chu kỳ mới. b. Lời tượng (phục) Phụt, quân tử dĩ chấn dân, dục đức Bậc trưởng nhân phải giúp dân nuôi đức hay tích đức để mỗi ngày mỗi cao dần lên. Phụt cũng có nghĩa là tiến lên, sự thăng tiến cao nhất cũng là lâu nhất và khó nhất là thăng tiến đạo đức, không thể ngày một và ngày hai mà có được, giống như của cải thì ta có thể bỏ tiền trao đổi là xong, đức độ phải tích lủy lâu ngày dài tháng, mỗi ngày mỗi chút cứ như vậy suốt cả đời mình mới có thể đạt được đến mức đức cao trọng vọng. c. Lời Hào c.1 Hào Sơ Bất viễn phụt (phục) vô chi hối, nguyên cát Chưa đi xa ý nói không lâu mà đã thăng tiến được, còn gì phải hối nữa, tốt từ căn bản. Tu đức đòi hỏi công phu và thời gian ở Hào sơ… chưa xa đồng nghĩa là thời gian chưa lâu mà đã tiến bộ rõ rệt, có lẽ là nhờ cốt cách phi thường, tốt từ trong trứng tốt ra. c.2 Hào nhị Hưu phụt (phục) cát Thăng tiến ngoạn mục, rất tốt. Cái lõi của đạo đức nằm ở chữ nhân, nên Việt Nam hay nói tu nhân tích đức, rộng lòng nhân ái thì tiến đức rất nhanh không ai bằng nên hào từ nói hưu phụt cát. c.3 Hào tam tần phụt (phục) lệ, vô cữu. Liên tục thăng tiến, còn lỗi gì nữa. Mọi sự việc trên đời đều luôn chuyển động, đứng lại tức thụt lùi, con người phải thăng tiến một cách liên tục, đều đặn thì mới mong đạt được sự văn minh toàn diện cả văn minh vật chất lẫn văn minh tinh thần. c.4 Hào tứ Trung hành – độc phụt (phục) Chỉ có mình tiến lên được do đi đúng đường. Hào tứ là địa vị của sự duy lý, thiên hạ đều mắc bệnh thái quá, riêng ta biết đạo trung dung nên đi đúng đường và dĩ nhiên vượt lên trên tất cả. c.5 Hào ngũ Đôn phụt (phục) vô hối Một lòng một dạ tiến lên còn ăn năn gì nữa. Hào ngũ là vị trí của chúa tể đắc đạo trung tức không thái quá không bất cập, nếu đã rắp tâm tiến lên thì còn ai bằng nữa. c.6 Hào thượng Mê phụt (phục) hung, hữu tai sảnh Dụng hành sư chung hữu đại bại, dĩ kỳ quốc quân hung – chí vu thập niên bất khắc chinh. Tiến bừa thì tai họa chắc đến, dùng hành quân chắc chắn đại bại, vua gặp nguy hiểm 10 năm chẳng tiến lên được. Làm càn thì chắc là hỏng việc, quân mà tiến càn thì chắc là đại bại , thất bại hết việc này đến việc khác đến địa vị của vua cũng lung lay , làm càn như thế thất bại hao tổn quốc lực lớn lao cần thời gian lâu lắm mới lại có thể tiến lên được .
-
Dịch học bài 30 11. Cặp Quẻ Cưỡng – bức (Bế – Bí) Dịch học bản thông hành của Tàu gọi là: phệ hạp – bí Đây là cặp quẻ rất khó giải thích ý nghĩa Bí = bịt, bít không ra được ; phê hạp = cắn ( bằng 2 hàm răng) Đóng cửa để cưỡng chế hay bắt buộc vì nếu trong và ngoài thông với nhau thì không thể cưỡng chế hay bắt buộc ở bên trong được. Bí là phải cách ly đối tượng. Phê hạp là đưa vào khuôn phép tức cải tạo đối tượng. Tóm lại cặp quẻ này nói đến nhà tù và ý nghĩa nhân văn của nó là sự cải tà qui chánh cho tù nhân. A. Quẻ cưỡng hay phệ hạp = hỏa/ lôi Hỏa lôi là tượng của sự nghiêm chỉnh, hỏa là minh, lôi là nghiêm. Sự nghiêm minh của pháp luật là : phạm tội thì phải đền tội. Đi tù không phải là đi đày, đi đến nơi bị hành hạ để trả thù, mà là cách ly để cưỡng bức bắt phải vào khuôn phép, sống có kỷ cương có luật lệ. a. Lời Quẻ Phệ hạp hanh, lợi dụng ngục. cắn mà hạp lại ý nói cái lợi của việc dùng nhà ngục (tù) là dùng sức mạnh để bắt đối tượng phải trở về với đường ngay nẻo chính, hòa hợp với cộng đồng. cưỡng chế mà lại hợp với lý lẽ là nói cái lợi của nhà tù dùng sự cách ly đ̣ể cải tạo. Đối với loài người văn minh hoàn toàn không có sự trả thù nơi nhà tù. Cải tạo là cải tà qui chánh cho một con người tức là làm cho họ người hơn để đáng sống và được sống trong cộng đồng. a. Lời tượng Phệ hạp: tiên vương dĩ minh phạt sắc pháp Quẻ phệ hạp đấng tiên vương phải ban bố pháp luật và công khai việc xét xử, luận tội. Đặc tính của luật pháp là phổ biến, ai ai cũng biết vì không biết thì làm sao mà thi hành. Minh phạt là công khai việc xử phạt hay xét xử và hình phạt. Tóm lại ý quẻ là mọi chuyện liên quan tới pháp luật, hình ngục đều phải công khai rõ ràng. b. Lời Hào c.1 Hào Sơ Lũ giảo diệt chỉ – vô cữu. Xiềng xích – đứt ngón chân – không lỗi. Hào sơ tượng trưng cho sự non dại mới phạm tội lần đầu. Bị bắ : lũ giảo là tra chân vào cùm, chịu hình phạt chặt ngón chân, tức hình phạt không nặng lắm, như thế không có lỗi (người phạt). Đau đớn sẽ khiến hắn tỉnh ngộ và nhớ đời để không phạm tội lần nữa. c.2 Hào nhị: Phệ phu – diệt tỵ, vô cữu. Hào sơ là phạm tội lần đầu, hào nhị là đã có phần ngoan cố không cải tà qui chánh, mà tiếp tục phạm tội lần nữa, phải trừng phạt mạnh tay hơn nữa. Buộc thụ hình cắt mũi cũng chưa phải là quá tay, mới chỉ cắn sâu hơn vào da mà thôi. c.3 Hào Tam Phệ tích nhục, ngộ độc, tiểu lận vô cữu. Cắn tới thịt, ngộ độc, sai phạm nhỏ, không lỗi. Hào nhị cắn tới da, tới hào tam cắn tới thịt (phệ tích nhục) coi chừng trừng phạt nặng quá sẽ phản tác dụng (ngộ độc), sự hơi quá đó chỉ là sai nhỏ, không phải bận tâm. c.4 Hào tứ Phệ can chỉ, đắc kim thỉ, lợi, gian trinh cát. Cắn sâu hơn nữa, tìm được nguyên nhân phát sinh tội lỗi (chết là vì đầu mũi tên) dù gian nan cũng không sờn lòng . tốt. c.5 Hào ngũ: Phệ can nhục, đắc hoàng kim, trinh, lệ – vô cữu. Cắn thịt khô, được vàng, cứ giữ nguyên thì có điều lo, nhưng không lỗi. Hào ngũ là bậc chí tôn. Phệ can nhục là cắn miếng thịt cứng ý hào là: cắn thật mạnh, hay lực cưỡng chế thực mạnh để có kết quả tốt đẹp (đắc hoàng kim) tức đạt được mục đích thiết lập kỷ cương hay giáo hóa thành công một phạm nhân khiến nó cải tà qui chánh, có điều lo là khi đã phải dùng sức mạnh để cưỡng chế tức phong hóa đạo đức xã hội chưa tốt nên còn nhiều gian nan, sau nữa mới có sự tốt đẹp. c.6 Hào Thượng Hạ hiệu, diệt nhĩ, hung Đội xiềng xích, đứt tai, hung Đối với hạng người vô phương cứu chữa thì buộc phải dùng hình phạt nặng nề và cách ly với xã hội tức nhốt nó trong tù không cho tiếp xúc với bên ngoài nữa, cắt tai là vì nó không muốn nghe lời giáo hóa nữa. Nghe tai này, chạy qua tai khác… vô ích, ý hào là không thể giáo hóa được nữa, đấy là sự khốn nạn (hung) B . Quẻ Bức (biến âm là bít ) = Sơn/ Hỏa Dung nham trong lòng đất lúc nào cũng sôi sục muốn trào ra nhưng bị núi chắn mất đường ; về hình tượng quẻ bít là ngọn núi lửa đã tắt hay không hoạt động. a. Lời Quẻ: Bít – Bức – Hanh – tiểu, lợi, - hữu du vãng ;chữ hanh thừa và không hợp thời. Tiểu lợi: đóng cửa chỉ vì lợi ích nhỏ nhen của riêng mình thay vì có thể tiến xa hơn nữa (nếu mở cửa) đấy là tượng bế quan tỏa cảng, giao thương tiếp xúc với bên ngoài sợ dân trí sẽ khai mở do đó có thể mất ghế, đóng cửa là bỏ cái lợi lớn của xã tắc để giữ cái lợi nhỏ cho riêng mình. b. Lời tượng: Bít: tiên vương dĩ chí nhật bế quan, hậu bất tỉnh phương – thương lữ bất hành. Đóng cửa – lãnh đạo không đi xem xét công việc và dân tình ở các nơi, đã đóng cửa làm sao có thể giao thương được ; đây là cảnh quan liêu xa dân cực kỳ, còn với dân thì ngăn sông cấm chợ.. các nơi ráng tự cấp tự túc… thực là hình ảnh bi đát : trong ngoài không thông ,các nơi không thông, trên dưới không thông… thân thể rã rời ...nên chết chắc. c. Lời Hào c.1 Hào sơ Bí kỳ chỉ, xả xa nhi đồ. Cơ sở hạ tầng (chỉ ) tắc nghẽn, đành phải bỏ xe đi bộ, bí kỳ chỉ ở xã hội hiện đại gọi là kẹt xe… c.2 Hào nhị : Bí kỳ tu Sự ngăn cấm lên tới miệng rồi, phải ngậm câm như hến mở miệng là coi chừng...đi tù, ý nói không có tự do ngôn luận, chỉ nói những cái được phép thì thà câm còn hơn, mở miệng ra là phải ca tụng đại ơn đại đức của những kẻ đè đầu cởi cổ moi gan móc ruột mình còn gì khổ sở hơn. c.3 Hào Tam Bít như, nhu như, vĩnh trinh cát Người nhà đóng cửa bảo nhau thấm nhuần cho nhau, bền vững lâu dài tốt (mưa dầm thấm lâu) c.4 Hào tứ Bí như, ba như, bạch mã hàn như, phỉ khấu hôn cấu. Trong nhà đóng cửa bảo nhau, thông suốt với nhau (ba → sắc trắng trong) Có bóng bạch mã đang trên đường, không phải giặc cướp mà là người muốn kết thân. Đóng cửa để chấn chỉnh nội bộ, thống nhất được nhân tâm, lúc đó mới có thể để nhìn ra bên ngoài, thế giới là thế giới tùy thuộc vào nhau, ngựa sắc trắng ý nói sự chân chính thẳng thắn hay thực lòng tìm đến tạo mối liên kết để cả hai đều có lợi không phải hễ người ngoài đến là cướp nước phá nhà. c.5 Hào ngũ: Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên, lận –chung cát. Biệt lập nơi sơn trang (nơi ở của ẩn sĩ) phải hạ mình xuống mang bó lụa trắng tới mời (ra giúp sức cho mình) có gì đâu mà xấu hổ, không sai lỗi gì. Bậc chí sĩ cao minh khi thời thế nhiễu nhương bèn trốn đời tự cô lập mình làm bạn với hươu nai, sống thanh bần lạc đạo, nay muốn các vị hạ sơn giúp đời trước hết phải tỏ lòng trân trọng và trong sáng tượng trưng bằng bó lụa mỏng, phải tự hạ mình xuống để chứng tỏ lòng thành như Lưu Bị mời Khổng Minh vậy, không phải chỉ một lần có khi tới 5, 7 lần mới xong. Hào ngũ là địa vị của vương công nên hào từ mới nói đến việc cầu hiền, tìm đến các chí sĩ ẩn cư. c.6 Hào thượng Bạch bí vô cữu Cách biệt để giữ cho tinh tuyền, không có lỗi. Trần gian vật dục làm hoen ố tinh thần, muốn nguyên toàn tinh khiết phải tìm sự thanh tịnh nơi đỉnh núi chót vót, đấy chính là hình ảnh của việc tu tiên.
-
Dịch học bài 24 5. Cặp quẻ : Lý – Nhí (nhỏ) hay Ly – Ty Cặp Quẻ này nói lên điều gì? Khi còn phải dùng lý lẽ để phân phải trái đúng sai với người tức sự bao dung của bản thân còn bé nhỏ , lòng nhân từ còn hạn hẹp nên còn phân biệt Ta – Người . Ý khác , xã hội hay cộng đồng luôn song song 2 dòng tiến hóa. Dòng sinh và dòng khắc. Ở dòng khắc Dịch học dạy bậc trưởng nhân phải “vô vọng để đại súc” tức sự bao dung vô bờ, vô vọng - đại súc là một cặp Quẻ đem đối chiếu với cặp Quẻ Lý – Tiểu Súc ( tên gọi theo Hán ngữ của cặp Quẻ Lý – nhí ) ta mới hiểu trọn ý của Dịch học, vô vọng-đại súc là chủ trương ở dòng khắc , lý – nhí là chủ trương ở dòng sinh, khi ta không còn mong cầu điều gì thì lòng khoan dung ̣độ lượng hầu như vô biên đó là đại súc ,một đàng là lý tưởng ở trong tâm một đàng là cách cư sử trong đời thường , cả 2 song hành tạo nên sự tiến hóa xã hội ;sự lầm lẫn trong với ngoài là một đại họa . Cặp qủe lý- nhí cấu tạo ngược hẳn với cặp lý - tiểu súc của dịch học thông hành . A – Quẻ Lý = lẽ = phong/thiên Lý, lẽ tự nhiên chi phối mọi biến chuyển trong vũ trụ, lý ở khắp mọi nơi nhưng mắt ta không nhìn thấy, không thể nào nắm bắt được chỉ có thể cảm nhận được như là gió ở trên trời cao vậy. a) Lời Quẻ: Lý: Hổ vĩ, bất diệt (dị bản : điệt =cắn ?) nhân, hanh. Hổ là con hổ, hổ cũng là sự sáng suốt văn minh tượng của quẻ Ly, đi theo Hổ tức là theo khoa học không đi càn hay làm việc gì cũng phải có lý lẽ để tránh thất bại thảm hại (bất diệt nhân), hợp quy luật dĩ nhiên là hanh thông b) Lời Tượng: Lý, Quân tử dĩ biện Thượng hạ định dân chí. Lý lẽ để phân biệt đúng sai, phải trái, điều quí trọng điều hèn hạ. Ở đây ta hiểu lý là đức sáng suốt, hiểu thấu được lẽ của tự nhiên, cái nên hay không nên làm trong cuộc sống điều tốt cái đẹp là “thượng”, xấu xa là “hạ” đã biện biệt được ắt chí của con người sẽ hướng thượng, hướng đến chân thiện mỹ, như vậy Dịch học gọi là định dân chí. Cặp quẻ Lý và Tiểu súc trong Dịch học họ Hùng và Dịch học của người Tàu khác nhau nhiều lắm, từ kết cấu tạo quẻ đến lời Quẻ, lời hào đều đảo lộn, ý nghĩa tên Quẻ cũng hiểu khác nhau, như Lý thì Dịch học họ Hùng hiểu là sự thông hiểu, sáng suốt như ánh sáng phát ra từ ngọn lửa, tức Quẻ Ly-Lửa; còn Dịch học Tàu lại hiểu: Lý là dẵm lên… nên phát tán ý nghĩa Lý Hổ vĩ là Dẵm lên đuôi cọp…,bất điệt nhân : mà hổ không cắn người ?....đành chịu không hiểu nổi dịch học của người Tàu . c) Lời Hào c.1) Hào Sơ: Tố Lý – vãng cát, chân chất thật thà cứ thế mà sống, trời sẽ cho thằng dại ăn củ từ. c.2) Hào Nhị: Lý đạo thản thản, u nhân trinh cát Lẽ tự nhiên là con đường bằng phẳng, chân chất giản dị, bình thản mà đi thì không lầm lỗi , đầu óc giản đơn chẳng cần suy nghĩ phức tạp, không mưu sâu kế hiểm, ngay thẳng mà đi mãi cũng chẳng sợ lầm lỗi gì. Thực là tốt. c.3) Hào Tam: diếu năng thị, Bả năng lý, Lý Hổ vĩ diệt nhân, Hung, vũ nhân vi vu Đại Quân. Đi sau con Hổ, cắn người ý nói dùng sự hiểu biết khoa học để hại người. Chột mà đòi nhìn rõ, què mà đòi đi nhanh, kẻ võ biền mà đòi làm vua. Xấu lắm. Hào từ hào này tương tự câu: sức yếu mà đòi gánh gánh nặng, đức mỏng mà ở ngôi cao. Tất cả đều mắc nạn… Quá cỡ hay vượt quá sức mình. Đòi hỏi quá cao so với khả năng thực sự chắc chắn sẽ thất bại. c.4) Hào Tứ Lý: Hổ Vỹ – Sách sách – chung cát. Theo sự dẫn dắt của lý luận khoa học, nhưng phải luôn cẩn trọng, cảnh giác coi chừng mắc bệnh “duy lý” được như thế tốt mãi về sau. Khi lý luận xa rời thực tế nếu không biết kiểm chứng để chỉnh lý đích thực là đã rơi vào sự duy lý, một câu ngắn gọn không phải nói chơi đâu mà trả giá bằng hàng triệu sinh mạng đấy. Cả tỉ con người đã bị cầm tù bởi chính mình, đang vùng vẫy thoát khỏi sự vong thân đánh mất chính mình này . c.5) Hào ngũ: Quyết lý – trinh lệ. Quyết đoán, kiên định nhưng phải luôn cảnh giác với chính mình, coi chừng trở thành độc đoán, độc tài. Hào ngũ là ngôi vị của thủ lãnh, của vua chúa không còn ai cao hơn mình để mình dè chừng… Xe không thắng mà phóng hết tốc độ thì khó tránh khỏi tai nạn thảm thương. Quyết đoán là phẩm chất người lãnh đạo, đã quyết rồi thì kiên định lập trường không nay ngả mai nghiêng. Nhưng chính mình phải luôn răn mình … biết lắng nghe, đi tìm sự phản biện để kịp thời chỉnh lý nếu không coi chừng trở thành tội nhân thiên cổ. c.6) Hào Thượng Thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát. Tổng kết thực tiễn thành lý luận , là sự Hoàn toàn từ gốc còn gì tốt bằng. Thực tiễn giúp ta xác định các mối tương quan, tổng kết chúng thành định luật, tổng các định luật tạo thành hệ thống lý luận, lý luận trở thành cơ sở giúp hoàn bị mọi việc từ lúc khởi đầu, như thế còn gì tốt hơn. Cụ thể như tổng kết, thực tiễn cách mạng thành lý luận cách mạng, lý luận cách mạng lại chỉ đường cho hành động cách mạng tiếp theo, đó chính là kỹ toàn nguyên cát. B – Quẻ : nhí (nhỏ) = Thiên/ Trạch Có sự đảo lộn giữa Dịch học họ Hùng và Dịch học của người Tàu, Dịch học họ Hùng tạo quẻ trùng bằng 2 quẻ đơn như sau: Thiên / trạch = tiểu súc, phong / thiên = lý, Còn dịch Học của Tàu là Thiên / trạch = Lý, phong / thiên =tiểu súc, Ao hồ nào cũng có 1 sức chứa nhất định , sự hạn hữu này Hoa ngữ gọi là Tiểu súc, ngôn ngữ bình dân Việt Nam là nhí - nhi, vừa là đồng nghĩa vừa là biến âm của từ ‘nhỏ’. a) Lời Quẻ: Tiểu Súc: Hanh, Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao. Tích chứa chờ thời cơ hành động , Ở phía Tây Trung Nguyên mây đã dồn tụ nhưng chưa mưa xuống. Câu “Tự ngã Tây giao” là một trong những đoạn cá biệt nguyên văn Tiếng Việt còn sót lại trong Chu dịch , chính xác là : ở ( tại = tự ) phía ( ngã= ngả ) tây trung nguyên ( Giao= giữa ). Đất của Văn vương ở phía tây Trung Nguyên, mật vân bất vũ nghĩa là tình thế đã chính mùi rồi, thời cơ đã đến nhưng chưa phát động cách mạng để lật đổ bạo chúa là Trụ vương . b) Lời tượng: tiểu súc, quân tử dĩ ý văn đức Thời cơ chưa đến, trưởng nhân hãy lo làm cho đức độ rạng ngời thêm nữa bằng kinh văn, tức ý chỉ Văn vương soạn Kinh dịch. Vua Trụ tàn bạo lòng người hướng về Tây bá hầu , nhưng ông Cơ Xương tự xét thấy thánh đức nơi mình chưa đủ sáng sự bao dung còn hạn hẹp nên phải tiếp tục tài bồi thêm nữa bằng cách suy nghĩ nghiền ngẫm nhằm thấu đạt lẽ chuyển biến tự nhiên của trời đất và viết thành Kinh dịch ., đấy là nghĩa lời tượng : quân tử dĩ ý văn đức .. c) Hào từ Trong 64 Quẻ dịch, đặc biệt dành quẻ tiểu sức để diễn tả nỗi lòng của ông Cơ Xương tức Văn Vương sau này, nó phản ảnh tư tưởng chính trị rất mới, đi trước thời đại quá xa. Lòng vẫn mong mỏi sửa chữa một chế độ, cứu vớt một triều đại nhưng đến khi thấy đã quá mức khiếm khuyết thì mạnh dạn thay đổi hay cách mạng, không mãi trung thành một cách mù quáng với hôn quân bạo chúa. Quẻ Tiểu súc diễn tả tâm tình, tư tưởng và cả chương trình cách mạng của Văn Vương, đánh đổ nhà Thương kiến tạo đế nghiệp cho nhà Chu. c.1) Hào Sơ: phục Tự đạo Hà kỳ cữu Trụ Vương đã sa vào sự đen tối, ăn chơi sa đọa… nhưng mới ở bước đầu, nỗi lòng ông Cơ Xương là mong vua tỉnh ngộ trở lại chánh đạo làm một vị minh quân, được như thế thì không kể gì đến tội lỗi cũ nữa. c.2) Hào nhị: khiên phục – cát. Cả vua và lũ nịnh thần đã dấn sâu thêm vào tội lỗi, giết hại công thần đàn áp dân lành … lòng của ông Cơ xương vẫn trông mong : Hãy dắt nhau trở lại với đạo công chính, còn kịp chưa muộn đâu… tức ý Văn Vương vẫn muốn sửa chữa phục hồi triều Ân như thế đỡ gian lao và không tốn máu xương hơn là lật đổ nó để xây dựng một vương triều mới… Tới mức này ông Cơ Xương vẫn mong nhà Ân Thương phục Hưng. c.3) Hào Tam Dư thoát phúc, phu thê phản mục Cái trục của bánh xe có nhiệm vụ nâng cái xe lên và giúp nó chuyển động. Dư thoát phúc tức các công thần, danh tướng không còn ai nữa hoặc bị giết hại hoặc đã trốn lánh , ý hào nói đến ông Vi Tử và ông Cơ Tử 2 đại công thần nhà Ân chính là cái trục nâng đỡ cỗ xe “vương triều” Thương, một người đã bị Trụ Vương tống ngục, một người giả điên để thoát nạn, tới nỗi này thì vua và tôi tức Trụ Vương và ông Cơ Xương đã mỗi người một chí hướng, Văn Vương đã dứt khoát lập trường: đánh đổ chứ không cứu vãn nhà Thương. c.4) Hào Tứ: Hữu phu, huyết khử dịch xuất – vô cữu Lòng đã quyết dù cho máu đổ đầu rơi cũng không sợ hãi sờn lòng, như thế còn lỗi gì nữa. Hào Từ diễn tả chí của ông Cơ Xương, dù hy sinh gian khổ tới đâu cũng quyết chí thành đạt mục tiêu đánh đổ hôn quân, cứu giúp dân lành, hào từ nói lên một ý chí sắt đá, không gì thay đổi được. c.5) Hào ngũ: Hữu phu, loan như phú dĩ kỳ lân Với lòng chí thành đứng ra tập hợp chư hầu, hình thành liên minh phạt Trụ, có phúc cùng hưởng có họa cùng chia . Thiên hạ cả trăm nước lớn nhỏ tức những vùng tự trị hay lãnh thổ tự trị trong một liên bang gọi là thiên hạ, đất của ông Cơ Xương ở phía Tây Trung Nguyên, với chức Tây Bá, ông cai trị không những Tây quốc của mình mà còn nắm giữ cả mảng phía Tây của “thiên hạ”. Theo sử thì khi ông mất, lãnh thổ dưới sự cai trị của ông đã là trọn châu thổ sông “Châu”. Ngày nay Châu Giang còn gọi là Tây Giang hay Sông Tứ , tức đã bao trùm cả miền Tây Nam Trung Hoa ngày nay[1]. c.6) Hào thượng: Ký vũ, ký xử, thượng đức tải, phụ trinh lệ, nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung. Đã mưa đã tạnh, ân trên đã đổ xuống, cứ khư khư kiên trinh như đàn bà mà trung với bạo chúa hôn quân thì mắc lỗi. Trăng đã tròn, trưởng nhân tiến thêm nữa sẽ nguy hiểm. Hào Từ này liên thông ý nghĩa với lời Quẻ (Quái từ), lời quẻ nói mật vân bất vũ ở đất của Tây bá, giờ đã mưa xuống rồi, mệnh trời đã đến với Tây Bá Xương – nên cứ khư khư một lòng trung với Trụ Vương bạo ngược là trái mệnh trời, tức có tội nhưng tự ông Tây Bá thấy thánh đức nơi mình đã đến tột đỉnh như trăng đêm rằm, nếu dấn thêm bước nữa tiến đánh tận diệt nhà Ân Thương sẽ mang tiếng xấu để đời, mọi điều kiện đã được ông chuẩn bị để sau này con ông là Tây Bá Phát, sử Việt gọi là Thục Phán làm nốt công việc của ông, thiên hạ vẫn về tay nhà Chu mà ông tránh được tiếng thí chúa. ________________________________________ [1] Kiến giải riêng của người viết.
-
Dịch học bài 28 9. Cặp Quẻ = Tùy theo, cải – sửa Hán Dịch chép là: Tùy – Cổ Tùy trong Tiếng Việt là tùy theo tức phụ thuộc vào hay dựa trên một cái gì đó mà xử lý tình huống tùy cũng nghĩa là đi theo như tùy tùng. Theo đổi (đuổi là âm đọc lệch đi) ý chỉ: sự thay đổi luôn luôn có điều kiện, muốn cải cách xã hội thì phải xem các điều kiện, đặc biệt là cơ sở vật chất có đủ để thay đổi hay chưa. Thí dụ: muốn làm cách mạng tư sản lật đổ chế độ quân chủ thì phải dựa trên cơ sở là cuộc cách mạng cơ khí hóa, điện khí hóa, vẫn cái cày đi trước con trâu thì… tốt nhất là để nguyên chế độ vua chúa, nếu chưa hội đủ các điều kiện vật chất mà vẫn tiến hành thì chắc chắn chỉ là cách mạng hình thức mà thôi, được một thời gian rồi đâu vào đấy chỉ thay áo chứ thực chất không thay đổi gì. A. Quẻ Tùy theo = trạch/ lôi Trạch là tri thức hay sự hiểu biết, lôi là hành động, hành động dựa trên tri thức khoa học tức là “theo” đúng qui luật vận động. a. Lời Quẻ Tùy nguyên hanh lợi trinh vô cữu . tùy theo cái gì? Ý quẻ là khi hành động đều phải xem xét dựa trên 4 nguyên chuẩn dịch học đã chỉ ra : nhân bản ,hợp lý, thiết thực và bền vững. Nếu không có gì vi phạm thì không lỗi nguyên hanh lợi trinh là 4 tiêu chuẩn hướng dẫn hành động bậc trưởng nhân luôn phải suy xét mỗi khi phát động công cuộc cải cách thay cũ đổi mới. b. Lời tượng Tùy, Quân tử dĩ hướng hối nhập yến tức Hình ảnh mẫu mực nhưng lại hết sức đơn giản của đạo tùy : Khi trời tối là lúc bậc trưởng nhân nghỉ ngơi. Ban ngày là thời gian hoạt động và khi đêm về là lúc phải nghỉ ngơi để lấy lại sức khỏe, giữ đúng như thế thì mới có thể làm việc lâu dài. c. Lời Hào c.1 Hào Sơ Quan hữu du, trinh cát, xuất môn giao hữu công. Cái nhìn có khác đi (quan niệm) nhưng tấm lòng thì bền chặt, tốt lắm đi một quãng đàng học một sàng khôn. Tức là tùy lúc, tùy thời thế mà cái nhìn hay sự nhận thức có biến đổi nhưng tấm lòng quân tử thì mãi như thế vẫn một đạo công chính mà thôi. c.2 Hào nhị Hệ tiểu tử, thất trượng phu Nguyên văn Việt Ngữ: vì trẻ con làm mất lòng người lớn. Trẻ con chưa phân biệt rõ phải - trái, nhận thức chưa chín chắn, nếu nghe theo chúng là mình cũng sai lầm, tức không đồng thuận với nhận định của bậc cao niên từng trải là những người nhiều kinh nghiệm nên nhận xét đúng đắn hơn. c.3 Hào Tam: Hệ trượng phu, thất tiểu tử, tùy hữu cầu, đắc lợi, cư trinh. Nghe lời người lớn tuổi từng trải không nghe trẻ con hay người kém trí. Tùy như thế sẽ đắc sở nguyện, được lợi và sống yên ổn. Sở dĩ được như vậy là đi đúng đường, làm đúng cách do biết nghe theo lời bậc trượng nhân. c.4 Hào Tứ Tùy hữu hoạch, trinh hung, hữu phu tại đạo, dĩ minh, hà cửu. Một mực Theo đường đã vạch ra (hoạch định) từ trước không biết linh hoạt biến báo sẽ nguy hiểm, hoàn toàn tin tưởng vào đường công chính, đầu óc sẽ sáng suốt còn lỗi gì nữa. Tùy hữu hoạch,nghĩa là theo chương trình đã vạch ra nhưng phải biết tùy thời thế, hoàn cảnh cụ thể mà ứng biến, cứ khăng khăng một đường đi tới sẽ hỏng, đi đường công chính không tự tư tự lợi thì đầu óc sẽ sáng suốt. c.5 Hào ngũ Phu vu gia cát Một lòng một dạ là điều tốt lành, lòng bậc quân vương luôn hướng đến sự chí chân, chí thiện, chí mỹ… nhân đức trọn vẹn như thế thì chắc chắn quốc thái dân an. c.6 Hào thượng Câu hệ chi, nãi tòng duy chi, vương dụng hanh vu Tây Sơn Gắn kết theo nhau như cột buộc vậy, vua làm lễ tế trời tại Tây Sơn. Ông Bá Ích, thủ lãnh hay chúa của họ lửa hay hữu hổ thị (hỏa), sử Trung Hoa gọi là ông Cổ Công Đản Phụ dẫn dân rời bỏ quê cha đất tổ đến sinh cơ lập nghiệp tại đất Kỳ hay núi Kỳ, sau này là “Tây Quốc” của nhà Chu, nơi mà ông Cơ Xương được Vua trụ phong làm Tây Bá. Đây là cả một khúc bi tráng xảy ra khi vua Đại Vũ mất đi, con vua là Khải đã hưng binh tiếm quyền người được chỉ định kế vị là ông Bá Ích, khiến ông phải lánh đi ở Kỳ Sơn hay Tây Sơn, người “Lê” già trẻ lớn bé ở Mân ấp bồng bế nhau rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn đến sinh tụ ở Kỳ Sơn hay Tây Sơn, đến đời Ông Cơ xương tức Văn Vương đã lập nước Văn Lang hay Âu Lạc ở đấy. B – Quẻ Cải – Sửa = Sơn/ Phong Dịch học của Tàu chép là cổ thực ra đó là sự ký âm sai của chữ Cải tức sửa đổi, Sơn phong cải: gió đi bị núi cản phải đổi hướng tức cải. a. Lời quẻ Cổ (cải) nguyên hanh, lợi thiệp đại xuyên, tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật. Sửa đổi phải căn cơ và hợp lý, (nguyên, hanh) cải cách chế độ xã hội phải nghiên cứu kỹ lưỡng thời kỳ trước và sau ngày phát động. Tức việc sửa đổi phải dựa trên thành tựu khoa học, hết sức căn cơ, khi chế độ xã hội đã lạc hậu so với nền tảng vật chất kỹ thuật việc cần thiết là phải sửa đổi nhưng phải hết sức thận trọng nghiên cứu kỹ cả một quá trình phát triển để quyết định thời điểm chuyển đổi (tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật) b. Lời tượng Cải đổi, quân tử dĩ vĩnh chung tri tệ. Cải đổi, trưởng nhân muốn dài lâu phải tính trước những điều hư hỏng sẽ xảy ra. Cải đổi rồi, chế độ xã hội và nền tảng vật chất kỹ thuật đã phù hợp với nhau, nhưng mọi sự không đứng yên, khoa học kỹ thuật lại tiến thêm bước nữa… sự lệch lạc hay không phù hợp, không khớp lại bắt đầu xảy ra và độ lệch ngày càng lớn hơn lên. Người lãnh đạo phải ý thức rõ điều đó và cũng liên tục sửa đổi tránh nổ ra cuộc cách mạng mới. Lời tượng quẻ cổ của Dịch học Trung Hoa hiện nay là: Cổ: Quân tử dĩ chẩn dân dục đức… có người dịch là: Quân tử hãy phát chẩn (cứu tế) cho dân và nuôi đức.....thực không hiểu nổi . c. Lời Hào c.1 Hào sơ : Cán phụ chi cổ, hữu tử, khảo vô cữu, lệ chung cát. Đời sau, hoàn chỉnh sự nghiệp cải đổi của đời trước, thì có lỗi gì? Có chút lo lắng nhưng sau cùng tốt đẹp lắm. Sự nghiệp của cha ý chỉ đạo Kiền tức văn hóa, đạo đức là các hoạt động của tinh thần vận hành theo chiều khắc mà chúng ta đã nói đến ở phần trước, cải đổi việc của cha ý nói sự khai hóa tinh thần buổi đầu (Hào Sơ). c.2 Hào nhị: Cán mẫu chi cổ, bất khả trinh Hoàn chỉnh việc cải đổi kinh tế đời sống, không thể giữ mãi những cái đã lỗi thời; cải đổi việc của mẹ ý nói đến lãnh vực đời sống, kinh tế, cơm áo gạo tiền hằng ngày, chế độ kinh tế cũng phải thay đổi theo tiến độ khoa học kỹ thuật, không thể giữ mãi một loại hình tổ chức sản xuất và lưu thông phân phối, nếu không chuyển đổi bản thân nền kinh tế tạo ra một sức ỳ với năng suất thấp kém . c.3 Hào Tam Cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối vô đại cữu. Hoàn thành cuộc cách mạng văn hóa phát động từ thế hệ trước, có thể có sai phạm nhỏ nhưng hoàn toàn không có lỗi lầm lớn. Hào tam là đã ở vào thời tư bản chủ nghĩa, dựa trên nền tảng cơ khí hóa, điện khí hóa, chế độ quân chủ không thể tồn tại được nữa nên tư tưởng tôn quân đã trở nên lỗi thời, tư tưởng dân chủ, nhân quyền bắt đầu khơi mở, còn chút lỗi nhỏ vì bước đầu chế độ dân chủ tư sản cũng không thể nào hoàn chỉnh ngay được, dần dần sẽ được khắc phục trong quá trình vận hành, sự chuyển đổi là tất yếu, là mệnh trời thì làm gì có lỗi lớn. c.4 Hào tứ Dụ phu chi cổ, vãng kiến, lận Đẩy mạnh cuộc cách mạng văn hóa đi quá xa là một sự lầm lẫn Hào tứ này là sự chỉ dẫn, hình dung một cách ấn tượng nhất với đại cách mạng văn hóa của ông Mao Trạch Đông thực hiện ở Trung Hoa lục địa… Sử dụng lũ tiểu tử hồng vệ binh để diệt trượng phu (hệ tiểu tử – thất trượng phu) c.5 Hào ngũ Cán phụ chi cổ, dụng dự Hoàn thành tâm nguyện cải cách văn hóa của đời trước, đắc đạo trung dung không thái quá như hào tứ, biết dừng lại đúng điểm cần dừng, tạo sự hài hòa trong nếp sống tinh thần và vật chất, được ca tụng mãi. c.6 Hào thượng Bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự. Cáng đáng việc cải cách xã hội không phải mong được hưởng chức tước bổng lộc, chỉ cốt thỏa tâm nguyện của bậc trưởng nhân (quân tử) cũng có thể dịch là: Thời thế đã thay đổi không phải chỉ biết khom lưng phục tùng vua chúa, phải tiến đến một bước cao hơn của việc cải đổi là thực hành dân chủ. Chữ cổ trong Dịch học của người Tàu hiện này nghĩa là sự đổ nát, hiểu như thế đúng hay sai xin miễn bàn, xin độc giả tự hiểu.
-
Dịch học họ HÙNG . bài 27 8. Cặp Quẻ: Khiêm nhường – Dự phần Gọi tắt là Khiêm và Dự, ngôn ngữ bình dân gọi là Khom-Dã Sự sáng suốt nơi con người mách bảo vạn vật và xã hội phát triển theo những quy luật, các quy luật thì trường tồn và bất biến, con người không thể thay đổi một cách chủ quan, tùy tiện. Vậy công thức về sự chủ động phát triển là? Khiêm nhường – dự phần. Muốn dự phần cùng trời và đất trong việc biến đổi vũ trụ con người phải biết tôn trọng và vận dụng các quy luật tự nhiên. Một thành tựu đạt được luôn là sự hợp tác con người – tự nhiên. Con người không thể thay đổi quy luật nhưng có thể tác động ở đầu vào để nhận được kết quả ở đầu ra. Như thế gọi là khiêm và dự, dự chính là dự phần vào việc tái tạo vũ trụ. cặp quẻ này có xuất phát từ hình ảnh dân dã : khom lưng-dã gạo , chữ 'dã' liên quan chặt chẽ với đạo chày - cối tức trai-gái , âm-dương của dịch học họ HÙNG A. Quẻ Khiêm hay khiêm nhường, nhún nhường = Địa/Sơn a. Quái từ hay lời Quẻ: Khiêm – hanh, quân tử hữu chung . tôn trọng quy luật để vận dụng nó bậc trưởng nhân cuối đời rất tốt đẹp. Nghĩ đúng làm đúng dĩ nhiên là có thành qủa , để lại tiếng thơm muôn đời. b . Lời tượng: Địa trung hữu Sơn quân tử giáo tư vô cùng, dung bảo dân vô cương. Noi theo tượng quẻ Khiêm quân tử ra sức dưỡng dục dân không cùng. Tuân theo qui luật để vận dụng quy luật làm lợi cho con người, tạo ra ngày càng nhiều của cải để làm cho dân ngày một sung sướng hơn, dạy dân lễ nghĩa để phong hóa xã hội ngày một tốt đẹp hơn. c. Lời Hào c.1 Hào Sơ: Khiêm khiêm quân tử dụng thiệp đại xuyên cát. Xã hội cũng phát triển theo qui luật, bậc trưởng nhân phải tuân theo và vận dụng quy luật để cải cách như vậy mới có thể thành công tốt đẹp. C.2 Hào nhị Minh khiêm, trinh cát Khiêm nhường trong sự sáng suốt, giữ mãi như vậy tốt lắm. Khiêm để tôn trọng các quy luật, minh để vận dụng các quy luật đó. c.3 Hào tam: Lao khiêm – quân tử cát. Tôn trọng quy luật, vận dụng quy luật, nỗ lực làm việc không kể sự lao nhọc, bậc trưởng nhân sau cùng cũng gặt hái những thành quả tốt đẹp. c.4 Hào tứ Vô bất lợi, huy khiêm Khiêm cung tới mức nổi tiếng thì có gì là không lợi. c.5) Hào ngũ Bất phú dĩ kỳ lân, lợi dụng xâm phạt vô bất lợi. Khiêm ở ngôi tôn (hào ngũ) là bậc đức cao trọng vọng được mọi người tín nhiệm nể nang chỉ có quân vô đạo là không phục, để tỏ sự uy nghiêm bậc trưởng nhân phải đánh dẹp, không gì là không lợi. c.6) Hào thượng Minh khiêm, lợi dụng hành sư chinh ấp quốc Hiểu rõ các quy luật biến chuyển dùng sự sáng suốt đó mà hành quân thu phục giang sơn về một mối , một quốc gia không thể có năm bè bảy mối. B. Quẻ Dự hay dự phần = Lôi / Địa Dự Nghĩa là tham gia vào là cùng trời cùng đất tạo thành bộ mặt vũ trụ, tài nhân ngang hàng tài thiên, tài địa trong thế tam tài. a. Lời Quẻ Dự: Lợi kiến hầu , lợi thành sư. Quẻ dự tạo thành bằng quẻ lôi trên quẻ địa, sấm nổ trên đất đấy là tượng của cái trống đồng. Lợi kiến hầu nghĩa là dùng vào việc phong tước hầu. Hiện nay có những nhà nghiên cứu lịch sử cho trống đồng là một biểu tượng vua ban khi phong tước cho các công hầu, nó tựa như một loại ấn tín vậy, đặc biệt trong lễ nghi đạo hiếu của Việt Nam thì các bậc vương hầu dùng trống đồng thay mặt người dân của mình để tế tổ tiên của cộng đồng. Chữ lợi ở đây có nghĩa là: dùng để Lợi kiến hầu: dùng trong việc phong tước hầu .ngờ rằng sau chữ LỢI còn chữ DỤNG nhưng đã bị bỏ mất Lợi hành sư: dùng để hành quân, quân theo tiếng trống mà tiến hoặc lùi hoặc sang phải, sang trái… công hoặc thủ v.v… trống trở thành một công cụ dùng trong quân sự. b. Lời tượng: Lôi xuất địa phấn dự, tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức, ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo. Sấm vang trên mặt đất là tượng quẻ dự, các bậc tiên vương làm ra nhạc đề cao đạo đức, long trọng dâng lên thượng đế cùng với anh linh tiên tổ. Trống đồng còn gọi là trống sấm khi đánh để úp xuống đất nên lời tượng bảo: lôi xuất địa phấn, tiên vương tức tiên đế nhà Chu là Văn Vương, Vũ Vương, Chu Công v.v… Với chữ Tác nhạc cho thấy rõ ràng trống đồng là một nhạc cụ dùng trong các buổi lễ tế, nó chính là tổ tiên của văn hóa cồng chiêng ngày nay. Nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn đang đặt câu hỏi: trống đồng dùng để làm gì hay công dụng của nó ra sao, lời quẻ và lời tượng quẻ dự đã chỉ rõ ngay 3 công dụng: 1. Trống đồng dùng như một lệnh bài sắc phong tước vị. 2. Dùng làm hiệu lệnh điều quân. 3. Dùng trong âm nhạc ở các buổi tế lễ long trọng. Chỉ với những khám phá trên đủ khẳng định dịch học không phải là của Hán tộc, một dân tộc sống ở lưu vực Hoàng Hà không hề biết trống đồng là gì. c. Lời Hào c.1 Hào Sơ: Minh dự – hung Có biết gì đâu mà cũng tham gia thực nguy hiểm, minh dự gần tương đương nghĩa với chữ làm liều. Không nắm được quy luật diễn biến cũng hành động bừa bãi rồi cầu phước chủ may thày (minh là tối mò) qủa là phiêu lưu . c.2 Hào nhị Giới vụ thạch, bất chung nhật trinh cát. Nghiêm cẩn không trọn một ngày, vững lòng thì tốt. Chữ bất chung nhật ý là khẩn trương, đừng lần chần phí thời gian nữa ý hào là khi đã làm việc gì hay tham dự vào công việc gì thì phải nghiêm cẩn tức thái độ hết sức nghiêm túc cẩn thận, đấy là thái độ của nhà khoa học, thứ đến phải khẩn trương cố gắng chạy nước rút hết sức mình vì thời cơ không đợi chờ ai cả, thời gian trôi là mọi thứ khác cũng trôi đi không tranh thủ thời gian coi chừng công trở thành công cốc vì đã lỗi thời. Sau cùng khi đã tham gia vào công việc gì thì phải kiên trinh bền lòng, đừng sớm ngả chiều nghiêng kết quả sẽ không ra gì. c.3 Hào Tam Hu dự hối trì hữu hối. Cầu xin để được dự vào không mau ăn năn sẽ phải hối hận. Tài mọn mà tham dự vào việc lớn, sức yếu mà nhận gánh thật nặng, nếu được chấp thuận cho như thế… chắc chắn rồi sẽ mang nhục vào thân vì vượt quá khả năng của mình thì làm sao hoàn thành. c.4 Hào Tứ Do dự đại hữu đắc, vật nghi bằng hạp trâm. Do sự phân công và hợp tác đạt hiệu quả, không nghi ngờ gì nữa đó là kết quả của hiệu ứng tương hỗ tổng hợp. Do cùng dự vào, đạt được cái lớn lắm không nghi ngờ gì nữa được như vậy là nhờ sự đồng tâm hiệp lực có thể hiểu thoáng hơn với ý nghĩa : bởi cùng nhau tham dự vào công việc nên đạt thành công mỹ mãn, không nghi ngờ gì nữa đó là thành tựu của sự hợp tác , không riêng một cá nhân nào mà có thể thành công như thế. c.5 Hào ngũ: Trinh tật hằng bất tử Chứng nào tật ấy, chết cũng không chừa đấy là trinh tật hằng Không hiểu ý hào trong khung cảnh chung của quẻ dự, có người dịch bệnh nan y, mãi mà không chết hoặc Bệnh tật dai dẳng không chết đi được. Xin chép vào để tham khảo hào từ này rất tối nghĩa, thỏa đáng nhất có thể hiểu là: tham quyền cố vị là căn bệnh của mọi kẻ đang nắm quyền hành, ông nào cũng muốn làm vua mãi mãi, muốn trở thành trường sinh bất tử, tình nguyện được “hy sinh” mãi để dự vào việc cứu nhân độ thế… sợ nếu mình không tham gia vào thì ... nhân loại sẽ lầm than khổ sở… c.6 Hào thượng Minh dự, thành hữu du, vô cữu. Sáng suốt mà hợp tác (phối hợp) việc đã thành rồi dù có biến đổi gì chăng nữa cũng không có lỗi. Ẩm minh trong Hán ngữ có 2 nghĩa tối và sáng. Khi dịch sang Hán ngữ, Hào sơ là lúc khởi đầu nên còn non nớt, mù mờ cũng là minh đến hào thượng là đã đi đến tột cùng. Cũng dùng chữ minh nhưng ở đây lại là đã sáng tỏ, tức việc đã ra đâu vào đấy.
-
Dịch học bài 26 7. Cặp Quẻ: cộng-đồng Hay : Đồng nhân – Đại hữu Ý nghĩa là: nếu lòng mình đã hòa đồng với người thì tất cả của cải đều là của mình. Khi không còn phân biệt ta – người thì làm gì còn của riêng, tất cả đều là của chung hay cộng sản. Đây là điều kiện ắt có và đủ thể hiện lý tưởng, sự tuyệt đỉnh của nhân sinh và xã hội … đặt vế ngược lại ta hiểu: muốn có “của chung” thì trước hết con người phải “hòa đồng” hoàn toàn tức không còn phân biệt ta – người, nếu tất cả là ta thì ta có tất cả. A/ Quẻ Cùng = Thiên/ Hỏa Chu dịch gọi là Đồng nhân, tức hòa cùng với người Dưới gầm trời ánh sáng chiếu rực rỡ là tượng: thiên hạ văn minh ; đạo đức tức quẻ kiền ở trên ,. Hiểu biết hay khoa học tức quẻ Ly ở dưới ,cả đạo đức và hiểu biết đã đến mức tối cao tức là: văn minh tuyệt đỉnh ; làm sao đạt đến tính nhân văn cao cả yêu người như yêu mình? Đấy cũng là đích đến của chuỗi phản ứng tương khắc ngũ hành. Song song với đích đến của chuỗi tương sinh là đại hữu tất cả là của chung . a. Lời Quẻ: Đồng nhân, nguyên hanh Quẻ đồng nhân thể hiện tính nhân bản của quẻ Kiền, Hanh là tượng quẻ Ly, Kiền trên Ly là tượng thiên hạ văn minh. Quái từ và tượng từ của quẻ đồng nhân – đại hữu trong Dịch học họ Hùng đảo ngược với Dịch học của người Tàu. b. Lời tượng: Đồng nhân: quân tử dĩ át ác dương thiện, thuận thiên hưu mệnh. Xã hội có 2 loại người: thiện nhân và ác nhân, chủ trương chung là hòa đồng cùng người nhưng tiến hành cụ thể thì phân biệt rõ: với cái ác thì phải “đè” (át) xuống không cho nó có cơ hội phát tán ngược lại nâng cái thiện lên để mọi người thấy rõ và noi theo. Làm như thế là thuận theo “lòng” trời. Ý thánh nhân là: diệt cái ác trong lòng người chứ không diệt người ác tức không giết hết kẻ ác mà là làm cho chúng trở thành người thiện hay ít nhất không còn là người ác nữa . Lời tượng rất rõ “át ác” chứ không phải “diệt ác nhân”. c) Lời Hào c.1 Hào Sơ: Đồng nhân vu muôn vô cữu Nhà là chốn riêng tư bất khả xâm phạm, ra khỏi cửa tức đã thuộc về nơi công cộng, hòa đồng với người nơi công cộng là tôn trọng các nguyên tắc ứng xử… “cùng chung”, có ta và cũng có người, không phải như chốn riêng tư trong nhà mình, muốn ăn to nói lớn cũng phải biết là đang có mặt nhiều người, muốn xả rác hút thuốc cũng phải nhìn người chung quanh. Đấy chính là sự văn minh nơi công cộng – được như thế thì còn lỗi gì. c.2 Hào nhị: Đồng nhân vu tông, lận Chỉ đồng với dòng tộc, đảng phái mình, đáng xấu hổ. Ở đây thực sự không phải là đồng nhân nữa mà là đồng quyền đồng lợi , hễ cùng phe cùng đảng với mình thì hòa đồng ngoài ra là “địch” hết, thực chưa thấy cái “dại” nào lớn hơn thế, tự mình cô lập mình, tự biến mình thành địch thủ của cả thiên hạ… Đồng nhân như vậy nhắm tồn tại được bao lâu? c.3 Hào Tam Phục nhung vu mãng, thăng kỳ cao lăng, tam tuế bất hưng Làm gì có chuyện “đồng nhân” bằng bạo lực? Đấy chỉ là xâm lăng chiếm đoạt và nô dịch. Hào Tam theo qui luật Dịch học chỉ sự duy lợi hay xã hội tư bản, xã hội này làm sao có sự đồng nhân? Chỉ có âm mưu nuốt chửng người khác mà thôi nên dịch nói, chuẩn bị lực lượng sẵn, ém quân chờ ngày “thủ ác” nhưng 3 năm tức lâu lắm rồi mà vẫn chưa thể ngóc đầu nổi lên được. c.4 Hào Tứ Thừa kỳ dung, phất khắc công, cát…. Cỡi lên bức tường thành rồi mà không đánh –cát. Tường thành là để phân chia ta và địch, bên trong và bên ngoài, cưỡi lên tường rồi là đã thò một chân vào nhà người ta. Nhưng biết lùi lại vì nhận ra tình thế chưa chín mùi để có thể thực hiện việc đại đồng… không phải có ý chí muốn đổi ... là được mà còn nhiều yếu tố khách quan như cơ sở vật chất kỹ thuật, mức độ của cải sản xuất ra được ….phải hội đủ điều kiện vật chất cộng với tinh thần đồng nhân thì mới khả dĩ thành công. Hào từ trong quẻ dịch là chỉ lý thuyết hay lý luận.. chính vì vậy mà thực tế không đánh nữa, lùi lại đợi sự chín mùi của tình thế, nên mới có trường hợp đặc biệt, thoái lui mà được cát. c.5 Hào ngũ Đồng nhân tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ. Chữ đồng nhân ở đây có thể dịch là đồng nhất hay hợp nhất lại phải dùng đến bạo lực tức binh quyền, phá tan guồng máy cai trị giải phóng nhân dân khỏi sự kềm kẹp như thế mới có thể hợp nhất được, khi phá vỡ hàng rào hay bức tường biên cương phân chia các nước để thống nhất là cả một tiến trình đầy máu và nước mắt, chinh chiến, xung đột về văn hóa, mâu thuẫn về kinh tế… nên Hào Tứ nói: Tiên hào đào. Nhưng khi vượt qua được giai đoạn ấy rồi thì với quy mô một nước lớn chắc chắn chỗ đứng trên mặt đất sẽ vững vàng hơn, tiềm lực quốc gia cũng tăng vọt khiến công cuộc phát triển dễ dàng, thuận lợi hơn đấy là …. Nhi hậu tiếu. c.6 Hào Thượng Đồng nhân vụ giao, vô hối Vươn lòng mình tới nơi xa rộng hơn nữa, để năm châu bốn bể đều là anh em thì còn gì phải ăn năn hối hận. Đây là chí hướng muốn kiến lập thế giới đại đồng, một ý tưởng tuyệt đẹp chắc chắn sẽ thành hình trong tương lai nhân loại, đây là sự hợp nhất tất yếu, ý định chủ quan không thể cưỡng lại được… nhưng cũng không phải chuyện ngày một ngày hai, năm nay hay năm tới mà là chuyện của vài trăm năm nữa. B. Quẻ chung hay Đại hữu = Hỏa/ Thiên Hỏa trên thiên dưới là hình tượng mặt trời ở trên cao. Mặt trời đúng là của chung mọi người, ánh sáng rọi xuống trần gian nuôi sống mọi người, đâu có phân biệt già trẻ lớn bé, vua hay dân, thiện hay ác… mặt trời chính là “của chung” quí giá và tiêu biểu nhất của loài người. Vì lẽ này mà thánh nhân dùng hình ảnh mặt trời tượng trưng cho thời Đại hữu . a. Lời Quẻ Đại hữu vu dã, hanh, lợi thiệp đại xuyên, lợi quân tử trinh. Công hữu hóa ruộng đất để phát triển sản xuất, trưởng nhân kiên trì với chủ trương này sẽ hưởng lợi về lâu, về dài. Hồi xa xưa tư liệu sản xuất chủ yếu chỉ có ruộng đất mà thôi, phát triển tự phát sẽ dẫn đến hoặc là phân tán manh múm, mỗi gia đình một mảnh đất nhỏ, mỗi người canh tác trên một miếng ruộng nhỏ không có sự hợp lý trong phần công lao động. Khiến năng suất không đạt mức tối ưu. Còn hướng khác là sự tích tụ ruộng đất vào tay một số ít người, đại đa số trở thành nông nô hay tá điền như vậy khía cạnh kinh tế gây luận quả xấu trở thành vấn đề nhức nhối trong khía cạnh xã hội… với những quốc gia đất chật người đông không còn con đường nào khác có thể giải quyết cả 2 mặt kinh tế và xã hội ngoài con đường tập thể hóa sản xuất, đấy chính là đại hữu vu dã.. b. Lời tượng: Đại hữu, quân tử dĩ loại tộc biện vật. Đại hữu không phải là cào bằng theo chủ nghĩa bình quân, mà là sắp xếp cho ai cũng được làm việc đúng khả năng của mình và hưởng theo sự đóng góp của mình vào, việc chung, tương tự như lý thuyết ngày nay làm theo năng lực hưởng theo lao động (thành quả), thời đại hữu tuyệt đối không phải là ai cũng bằng ai mà là hưởng tương xứng với sự đóng góp, những kẻ chây lười, bất lương thì chỉ đáng bỏ đói mà thôi, biện vật là chia theo ngành nghề, công nông thương v.v… mỗi ngành nghề lại có mức thu nhập khác nhau chứ không phải ai cũng bằng ai ; biện vật ở đây có nghĩa là sự phân công để tối ưu hóa năng suất trên bình diện xã hội, quốc gia. c) Lời Hào c.1 Hào Sơ Vô giao hại, phỉ cửu, gian tắc vô cữu Không dính dáng gì đến những điều có thể gây hại thì không lỗi. Luôn ý thức về những khó khăn gian nan thì không mắc sai lầm. Chủ trương đại hữu chỉ có thể thực hiện bởi đội ngũ cán bộ chí công vô tư, thực sự sống có lý tưởng, đại hữu hóa là một việc vô cùng khó khăn đòi hỏi thời trung chuyển vô cùng gian nan vất vả. c.2 Hào nhị: Đại xa dĩ tải, hữu du vãng vô cữu. Cần phải có một siêu nhân (đại xa) toàn đức toàn tài thì cuộc cách mạng “đại hữu hóa” mới có cơ thành công. Tức tiến hành mà không mắc sai lầm. Chữ tải ở đây nghĩa tiếng Việt là gánh vác, chống đỡ. Cuộc cách mạng “đại hữu hóa” là cuộc cách mạng triệt để, thay đổi từ cách suy nghĩ đến lối sống, đụng chạm tới mọi ngóc ngách xã hội , trong cơn rung chuyển biến động đó nếu không có đại xa hay cây cột lớn thì căn nhà không thể đứng được. c.3 Hào Tam Công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc. Cống phẩm của các miền dâng lên thiên tử có ý nghĩa tượng trưng sâu xa về sự thiên hạ thống nhất chứ không phải một kiểu biếu xén đút lót, bọn tiểu nhân đừng tưởng bở mà bắt chước. c.4 Hào Tứ: Phỉ kỳ bánh, cô cữu Không giàu có hơn người, không lỗi. Thời đại hữu mà anh sung túc giàu có hơn hẳn lên là bị để ý ngay, đã bị để ý thì khó thoát tội. c.5 Hào ngũ Quyết phu, giao như uy nhu, cát Tuyệt đối tin tưởng khi giao tiếp. Thần thái uy nghi, rất tốt. Bậc quân vương tỏ rõ tín nhiệm người nào khiến người đó hết lòng hết sức để không phụ lòng tin. Thần thái uy nghi khiến kẻ không tốt cũng không dám manh tâm nghĩ đến việc xấu xa. c.6 Hào thượng Tự thiên hựu chi, cát vô bất lợi, được trời phù hộ, tốt việc gì cũng thuận lợi. Nếu vì cả thiên hạ thì trời giúp cho, đại hữu chính vì sự sung túc giàu có của toàn dân chứ không phải vì ý đồ riêng của vua chúa, trời giúp thì có gì mà không thành.
-
Dịch học họ HÙNG . bài 25 6. Cặp quẻ : suôi – ngược Dịch học người Tàu là Thái – Bỉ Cặp Quẻ này là 2 tình huống trái ngược nhau. Nếu phù hợp thì được thuận lợi, phù hợp là đặt đúng vị trí, cả không gian lẫn thời gian. Thông thường gọi là đúng nơi đúng lúc Cái gì phù hợp: trong Quẻ dịch này ta có 2 cặp tương đối: Âm và dương Trong và ngoài Âm và dương ta đã bàn nhiều rồi, xin nói một chút về trong và ngoài. Trong qui tắc Dịch học, phía dưới là bên trong, phía trên là bên ngoài, trong ở đây là trong lòng hay nội tâm con người, còn ngoài là hiện thực xã hội. Trong là văn hóa đạo đức, ngoài là cơm áo gạo tiền, như thế là phù hợp hay thông suốt tức Thái âm vạch liền ở dưới tức bên trong còn thái dương vạch đứt ở bên ngoài là tượng Quẻ Thái hay phù hợp. (ngược với Dịch học người Tàu) Ngược lại là Bỉ hay trái ngược, ý khác nữa bên trong là nỗ lực hành động chủ quan của con người, bên ngoài là xu thế vận động khách quan của tự nhiên hay xã hội, nếu gặp nhau gọi là “giao”, ta có cảnh Thái, ngược lại là “nghịch cảnh” hay Bỉ. A- Quẻ phù hợp hay Suôi : địa / thiên a. Lời Quẻ: Thái, Tiểu vãng, đại lai cát hanh. Quẻ đơn Kiền ở trong, Khôn ở ngoài, như vậy là phù hợp tức Thái bên trong theo quy luật vận động vòng khắc, bên ngoài theo quy luật vòng sinh, bên trong và bên ngoài thúc đẩy nhau tiến lên đấy là “giao” là cảnh tượng quẻ Thái – Thuận . Bên trong theo đến sự tột cùng của lý tưởng, bên ngoài chừng mực theo sự qui định của điều kiện vật chất. Bên trong theo sự dẫn dắt của minh triết, bên ngoài chịu sự quản lý của khoa học, với dân chúng trưởng nhân bên trong lo việc giáo bên ngoài lo việc dưỡng, những trường hợp kể trên gọi là phù hợp, ngược lại là trái ngược hay Bỉ. c. Lời tượng: Thiên địa giao Thái hậu dĩ Tài thành thiên đại chi đạo, phụ tướng thiên địa chi nghi, dĩ tả hữu dân. Sự vận động phát triển bên trong và bên ngoài hỗ tương cho nhau là Thái, thuận hợp. Quy luật tự nhiên của âm dương trong ngoài sẵn có, hậu hay người lãnh đạo chỉ việc giữ đứng làm cho xã hội phát triển, nhân dân sung túc. Bên trong vận động theo ngũ hành tương khắc: Cam → Thủy → Hỏa → Thạch →Mộc→Cam. Con người từ đáy lòng luôn hướng đến sự chí cực, chân thiện mỹ bất chấp sự ràng buộc do thuộc tính hữu hạn của vật chất. Bên ngoài vận động theo ngũ hành tương sinh: Cam → Thạch → Thủy → Mộc → Hỏa→Cam Thế giới hiện thực biến chuyển theo quy luật, phải có điều kiện cần và đủ thì phản ứng dây chuyền mới xảy ra. Bên trong có thể nói đến sự yêu thương và chia xẻ nhưng bên ngoài chỉ buộc phải theo lẽ công bằng không thể buộc người ta “phải” chia xẻ, lẫn lộn trong ngoài là đại họa cho nhân loại. C – Lời Hào c.1) Hào Sơ: Bạt mao nhự dĩ kỳ vị chinh cát Thời Thái kế tiếp thời Bỉ, thời Bỉ là thời đen tối của Hôn Quân bạo chúa, đã đánh đổ nó rồi nhưng tay chân của nó còn theo thói tục xấu xa cũ, còn bám vào xã hội mới như rễ cỏ mao. Để lập vận hội mới thì phải nhổ hết không còn chỗ cho thói xấu xa cũ mọc trở lại, tiến hành đi (nhổ) rất tốt. c.2 Hào nhị: Bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di bằng vong, đắc thượng vu trung hành. Có lòng bao dung rộng rãi, không phân biệt người của chế độ cũ hay mới, quyết chí tiến lên đến bến bờ mới, không quên đồng bào xa Tổ Quốc, dẹp bỏ bè đảng, phụ tá lãnh đạo đi đường Trung chính. Bước đầu khi cách mạng thành công là trừ bỏ hệ thống chân rết của chế độ cũ, để những bại hoại không còn cơ phục hồi, sau đó là đại đoàn kết toàn dân không phân biệt cũ mới, ai có tài cũng trọng dụng. Cách mạng thay cũ đổi mới là một việc khó khăn đòi hỏi sự quyết tâm vững bước tiến tới không một chút chần chừ do dự. Trong công cuộc phát triển không phải chỉ có những người hiện ở trong nước, phải làm sao huy động được mọi nguồn lực kể cả của kiều bào ở nước ngoài.. và vô cùng quan trọng là phải dẹp bỏ đảng phái riêng tư đi, không có một nhóm nào được hưởng đặc quyền đặc lợi cả, tất cả phải chí công vô tư , có làm được những việc trên bậc trưởng nhân mới có thể phò tá lãnh đạo đi đường công chính. Trong cả cuốn sách Dịch học thực không có một đoạn văn nào bất hủ như hào từ hào nhị Quẻ Thái này, câu nói có đến 3.000 năm rồi mà vẫn như bài học còn đang phải học . c.3 Hào Tam: Vô bình bất bí, vô vàng bất phục, gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc. Không có gì bằng mãi không nghiêng, không có gì đi mãi không trở lại, gian nan vẫn một tấm lòng son thì không lỗi lầm rồi ra sẽ được trọng dụng, hưởng được phước lớn. Thời cũ đầy dãy những điều tệ hại, cuộc cách mạng quét sạch đi rồi… nhưng thánh nhân cảnh giác chúng ta, thói hư tật xấu rất dễ trở lại, nếu không kiểm tra đánh động thường xuyên, sự thoái hóa biến chất sẽ xảy ra ngay, mặc ai ra sao thì ra, bậc trưởng nhân kiên trì một lòng với đạo công chính, trước mắt có thể bị trù dập vì không cùng hội cùng thuyền với bè lũ thoái hóa biến chất đó ; sau cùng chắc chắn công đạo sẽ phục hồi, lúc đó bản thân lại được trọng vọng, phú quí thanh dương. c.4 Hào Tứ: Phiên phiên bất phú dĩ kỳ lân, bất giới dĩ phu Chẳng cần giàu sang cũng có xóm giềng người ta cư xử với nhau bằng lòng thành tín, cần gì phải đề phòng. Đây là cảnh tượng Thái Bình của Quẻ Thái, Việt Nam có câu thơ: Thuở Thái Bình cửa thường bỏ ngỏ… chính là ý hào từ này không có ý lợi dụng nhau nên đâu cần giàu cũng có xóm giềng, người người sống chân thực thì đề phòng cái gì? c.5 Hào ngũ Đế ất qui mụôi, dĩ chỉ nguyên cát. Thời thái cực điểm không còn phân biệt “giai cấp”, quý tộc và bình dân, vua và dân không có bức tường ngăn cách, một câu ngắn nhưng thể hiện tính nhân văn cực cao đến 3.000 năm sau vẫn còn phải học tập, bệnh công thần địa vị , thói môn đăng hộ đối đâu đã bị quét sạch trong xã hội ngày nay. Thời Thái con người được hưởng phúc biết dường nào mà kể. Đặc biệt Hào này sót lại chữ đế ất. Cấu trúc ngôn ngữ Việt rõ rệt, đó là một trong những chỉ dẫn để xác định nguồn gốc kinh Dịch. c.6 Hào thượng: Thành phục, vu hoàng, vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận Vương triều đã đến thời sụp đổ, vua quan mặc sức phóng túng ăn chơi, bóc lột người dân đến cùng cực, nhân dân đói khổ nổi lên khắp nơi, không thể dùng quân đội để đàn áp dân chúng được, tốt nhất bậc trưởng nhân là lui về ấp quốc của mình (ông Cơ Xương lui về Tây Quốc của mình) trung thành mãi với hôn quân là sai lầm đáng xấu hổ. B. Quẻ Ngược ngạo hay Bỉ = Thiên/ Địa Thiên trên địa, trời trên đất dưới là một trật tự chuẩn xác sao lại bỉ. Dịch học không dùng hệ đối chiếu trên - dưới mà dùng bên trong và bên ngoài. Dưới là bên trong trên là bên ngoài, bên trong là tinh thần- đạo đức- lý tưởng còn bên ngoài là đời sống vật chất kinh tế. Bên trong mà lúc nào cũng đầy ắp lợi với lộc kể cả lúc mơ cũng chỉ thấy một chữ Tiền… còn bên ngoài thì biến lý tưởng thành thực tế ảo … bất cần có tài sản hay không cũng thực hiện ngay việc công hữu hóa tất cả là của chung, xã hội không còn người cai trị … chỉ còn đầy tớ của nhân dân… thực lý tưởng vô cùng. Bên trong là cái gì vô hình vô hạn, thì lại đem vào đầy dẫy những quy tắc cứng rắn buộc phải chấp nhận vô điều kiện, nào là biện chứng nào là ý thức hệ nào là chủ nghĩa … tất cả đều là những thiết định vô bằng qui chiếu về những chuẩn mốc do chính mình dựng nên một cách chủ quan. a) Lời Quẻ: Bỉ chi phỉ nhân, bất lợi, quân tử trinh, đại vãng tiểu lại. Ngược ngạo hay bế tắc là thời của lũ “ngợm”, hoàn toàn bất lợi . bậc trưởng nhân đừng ngã lòng, Thời này bên ngoài xã hội được tổ chức theo khuôn mẫu lý tưởng nhưng trong lòng người ta...thì đầy ắp sự tham lam của cải. (Đại vãng, tiểu lai). Lợi lộc. Đây là thời đặc trưng của dối trá… đến tột đỉnh là lừa cả chính mình… sống khiêm tốn “bình dân” đến độ vua chúa cũng phải thèm. Bản thân mình không có chút tài sản, tất cả tiền của mình “xài” là của nhân dân…? Đúng là thời đảo ngược nhiễu nhương . Trong cái vũng lầy đó vẫn còn những viên ngọc trọn vẹn một tấm lòng son, Dịch học dặn dò… kiên trinh đừng ngã lòng vì chắc chắn sẽ có ngày thái lai… a / Lời tượng: Thiên địa bất giao, quân tử dĩ kiệm đức tỵ nạn, bất khả vinh dĩ lộc. Trong ngoài lộn phèo đấy là tượng xấu xa (bỉ tiếng Việt là xấu xa, đáng khinh) bậc trưởng nhân phải che giấu đức sáng nơi mình hòng tránh nạn sát thân, không thể mưu cầu lợi lộc và sự vinh quang trong tình thế đó. Lũ đầu trâu mặt ngựa kết bè kết cánh với nhau, khống chế mọi hoạt động của xã hội, người quân tử không về phe với chúng thế nào cũng bị chúng trừ khử. Để thông đường trộm cắp, vơ vét, trưởng nhân phải cố giữ mạng sống mình, chờ ngày thay thời đổi thế .. :lol: Lời Hào c.1 Hào Sơ Bạt mao nhự, dĩ kỳ vị, trinh cát hanh Mỗi khi chuyển thời hay đổi đời đều phải quét sạch tàn dư chế độ cũ Bỉ chuyển sang Thái… quét sạch Thái chuyển sang Bỉ cũng quét sạch. Người có lương tri và bản lĩnh phải biết giữ gìn lập trường, kiên trinh với con đường đã chọn rồi ra khi sóng yên biển lặng , phúc trạch hanh thông chắc chắn sẽ đến. c.2 Hào nhị Bao thừa, tiểu nhân cát, đại nhân bỉ, hanh Được cấp trên dung dưỡng, bọn đầu trâu mặt ngựa mặc sức tung hoành, trả thù và vơ vét, riêng những người có lương tri thì thực sự bế tắc vì một bên là lý tưởng cao đẹp và một thực tế quá sức phũ phàng phơi bày trước mắt, bế tắc diễn ra ngay trong nội tâm người quân tử, ray rứt khổ sở làm sao có thể chấp nhận dễ dàng việc mình thờ lầm chúa để bây giờ xảy ra tình cảnh này. c.3 Hào tam: Bao tu . . gánh lấy sự nhục nhã Bất tài vô đạo chắc chắn chỉ đắc thế một thời rồi sẽ phải gánh lấy sự nhục nhã ê chề, ra đường không dám ngẩng mặt, bia miệng còn truyền đến cả những đời sau, đấy là quy luật tất yếu không sao tránh khỏi. c.4 Hào Tứ Hữu mệnh vô cữu trù ly chỉ Vận nước đã đến rồi, bình minh chiếu khắp nơi… những người tâm huyết hợp nhau ra tay đi cho muôn dân được hưởng ơn phước bởi trời. Người Quân tử hãy sẵn sàng đón “thiên mệnh” để cứu đời, cứu người và hưởng phúc trạch từ trên cao ban xuống cho. c.5 Hào ngũ Hưu bỉ, đại nhân cát, kỳ vong hệ vu bao tang. Khuynh bỉ đã thành công bọn dã man độc ác đã bị loại bỏ, mở ra vận hội hết sức tốt đẹp cho những chí sỹ có lòng yêu nước thương dân thực sự. Không được tự mãn ngủ quên trên chiến thắng, nguy cơ thoái hóa biến chất lúc nào cũng rình rập cả, bên ngoài lẫn chính bên trong tâm trí của mình, phải luôn luôn đề phòng luôn luôn cảnh giác không một chút lơ là. c.6 Hào thượng Khuynh bỉ, tiên bỉ, hận hỹ Đánh đổ được chế độ thối nát vô nhân rồi không phải mọi sự êm xuôi ngay, do hậu quả của nó để lại rất lớn lao, xã hội rã rời, lòng người giao động, quốc khố trống rỗng, hạ tầng cơ sở quốc gia nát bét do sự bòn rút của bọn vua quan thời “đen tối”, nhiều khi nợ nần phải gánh ngập đầu ngập cổ thành ra Dịch học báo trước khuynh bỉ… tiên bỉ. Đừng nản lòng, cùng nhau bắt tay vào việc phục hưng, huy động mọi nguồn lực trong cũng như ngoài nước (bất hà di) thế nào rồi sự phồn vinh, hạnh phúc cũng đến.
-
Dịch học họ HÙNG . bài 19 Cặp quẻ: Lớn – Khôn Đầu mối Dịch học họ Hùng là 2 quẻ: Lớn – Khôn, cửa miệng người họ Hùng thường nói: lớn mạnh và khôn ngoan. Quẻ lớn mạnh có 6 vạch liền Quẻ khôn ngoan có 6 vạch đứt Dịch học của Trung Hoa gọi là Kiền Khôn Từ khôn là ký âm nguyên gốc tiếng Việt còn Kiền là biến âm của ‘cường’ Hán ngữ dịch chữ Lớn – mạnh của Việt ngữ. Lớn mạnh và khôn ngoan là ý chỉ của đại tượng và lời thoán: Kiền: Thiên hành kiện, quân tử chỉ tự cường bất tức. Cường biến âm → Kiền. Còn khôn Dịch nói: tính nhu thuận không thể dẫn đầu nên viết: tiên mê ; Khôn phải đi theo Kiền nên nói: hậu đắc, sự nghe theo này Tiếng Việt là: Ngoan, ngoan là biết nghe lời “người lớn” ở đây chính là quẻ “lớn mạnh” tức quẻ Kiền. Kiền Khôn trong tiếng Việt “bình dân” là : trời tròn – đất vuông hoặc ý nghĩa nó nằm ngay trong từ điệp: Cong vòng, thẳng thừng. Tức 2 đường nét cơ bản của “văn”. Trời tròn → cong vòng → con : giống cái Đất vuông → thẳng thừng → thằng : giống đực Đây là tàn tích thời mẫu quyền: Ông giăng mà lấy bà giời Đẻ ra con rắn thằn lằn cụt đuôi Sau đợt cách mạng phụ quyền thì đạ̉o ngược như ngày nay: Cong = vạch liền = đàn ông→ âm Thẳng = vạch đứt = đàn bà→ dương Trong cấu tạo ngôn ngữ Việt Nam có nhiều điều chưa hiểu nổi thí dụ: Bản thân chữ Cường cũng là biến âm từ kiềng hay còng, kiềng hay còng ngày nay dùng để chỉ vật thể hình tròn. Điều này chắc chắn có căn nguyên trên ý niệm trời tròn – đất vuông. Kiềng = vòng tròn đeo ở cổ Còng = vòng tròn đeo ở tay. Khi lấy hình tượng: quẻ Kiền = trời tròn làm căn cứ thì: kiềng- còng Tiếng Việt và Cường: Hoa ngữ lại thống nhất ngữ nghĩa một cách kỳ lạ. Lớn và khôn hay quẻ Kiền và Khôn nếu ta xem xét riêng rẽ từng quẻ tức ta không tôn trọng tính lưỡng lập cơ bản của Dịch học sẽ không thể hiểu trọn vẹn hay thấu triệt ý nghĩa của nó. Kiền không phải là cái to của hình thể hay khối lượng, nếu chỉ to về hình dạng thân thể thì gọi là to xác, còn một khi nói lớn - mạnh là ý nghĩa “triết học”, Dịch học gọi là: tự cường bất tức; ngày nay ta gọi là “tự chủ”, ý chỉ này thuộc về phạm trù tinh thần, vô hình. “Lớn - mạnh” làm nên cái giá trị tối thượng khiến con người trở nên “túc hữu tự nội”, ta sống vì ta sống thế thôi chẳng phải vì bất cứ điều gì khác, quẻ Kiền đã xác lập địa vị của con người là tài nhân ngang bằng với thiên và địa trong Tam Tài, một trong 3 thành phần “chủ trì” cuộc đại diễn của vũ trụ. Trong 64 Quẻ chồng, ý nghĩa đích xác chữ Kiền là “nền minh triết” đối lại với Quẻ Khôn chỉ “nền khoa học” hay tri thức của loài người. Khôn là khả năng hiểu biết và sáng tạo nơi con người. Sống trong 2 môi trường tự nhiên và xã hội. Trí khôn cho phép con người tìm ra các quy luật chi phối sự vận động của môi trường Kể cả sự biến hóa của chính bản thân con người với tư cách là một sinh vật tức một thành phần của tự nhiên. Nắm được quy luật con người vận dụng nó để đề ra các giải pháp và chế tạo các công cụ để thực hiện ý đồ của mình, như thế mục tiêu tối thượng vẫn là con người … Chứ không phải và bất kỳ một “đấng” nào khác. Như thế đối tượng “tác nghiệp” của quẻ Khôn là thế giới hữu hình hay thế giới vật thể ngược hẳn với quẻ Kiền. Dịch học vô cùng tế vi, dùng những gì bé nhỏ- thô thiển để nói lên điều vô cùng lớn vô cùng tinh diệu , ta so sánh lời thoán của 2 quẻ Kiền Khôn. Kiền: Nguyên hanh lợi trinh Khôn: nguyên hanh lợi, tẫn mã chi trinh Chỉ khác nhau chữ tẫn mã mà mở ra cả một đạo lý bao trùm tất cả. Kiền tức nền Minh triết Khôn là nền khoa học, cả 2 phải hội đủ 4 tiêu chuẩn: Nguyên: Khởi đầu, khởi đầu từ cái gì? Tinh thần xuyên suốt của Dịch học là Nhân bản, khởi từ gốc là chính con người Vậy ở đây : chữ Nguyên hiểu trọn vẹn theo nghĩa ngày nay là: Nhân bản. Nguyên là từ gốc Việt Ngữ nghĩa là: nguồn gốc. Ý thánh nhân dạy: triết lý và khoa học đều khởi nguồn từ còn người. Hanh: nếu hiểu là Hanh thông thì chưa trọn nghĩa của Dịch học, hanh là xuôi thuận hiểu theo ngôn ngữ ngày nay là sự hợp lẽ, chính xác phải gọi là tính khoa học. Cương mãnh không đồng nghĩa với làm càn, nền triết học duy ý chí chắc chắn sẽ thất bại Ở đây ta thấy sự độc đáo của Dịch học, khoa học phải hợp lẽ là chuyện bình thường, thâm sâu là ở chỗ: triết học cũng phải hợp lẽ nếu triết học mà bay bổng quá sẽ gặp phải cảnh chép trong lời tượng hào ngũ: “Kháng long hữu hối” Lợi: Tiếng Việt trọn ý là: lợi ích thiết thực, tức phải giải quyết cái rất “tầm thường” như cơm áo gạo tiền, những thứ rất nhỏ nhoi nhưng không có là không sống được, người Việt có câu châm ngôn: “có thực mới vực được đạo” thể hiện rất sát ý chữ lợi trong Dịch học, triết học mà chỉ bàn truyện trên trời tức bắt con người trần gian “hưởng” Hương Hoa mà sống là thứ triết học lừa gạt đểu cáng của đám thầy mo cúng ma. Tóm lại cả triết học và khoa học cũng có 3 đặc tính: Nguyên: Nhân bản Hanh: Hợp lý Lợi: Thiết thực Còn tiêu chuẩn thứ 4 thì khác biệt, sự khác biệt nhỏ nhoi nhưng chỉ rõ cương giới triết học và khoa học. Quẻ Kiền là Trinh, tức bền lâu. Quẻ Khôn là tẫn mã chi Trinh. Tẫn mã là ngựa cái; Quẻ Khôn có tượng là đàn bà nên ở đây nói ngựa cái. Người xưa dùng 2 con vật biểu tượng thi thố tài năng: Rồng bay trên trời dùng trong quẻ Kiền, ngựa đi dưới đất dùng trong quẻ Khôn, ngựa đi là theo người điều khiển, ở đây ý muốn nói đến sự thuận tòng; tẫn mã chi trinh nghĩa là: nền khoa học phải theo sự định hướng hay được dẫn dắt bởi nền minh triết thì sự nghiệp khoa học mới bền lâu. Ngày nay có “cả đống” bom nguyên tử treo lơ lững trên đầu người ta mới chợt thấm ý thánh nhân đã dạy từ ngàn xưa: đã khôn thì phải ngoan… khôn mà không ngoan thì coi chừng có ngày chết mất xác. Ở thời đại chúng ta các từ nhân bản -hợp lẽ - thiết thực thì triết thuyết nào, chính cương nào cũng để lên hàng đầu nhưng còn một chữ nhỏ nhoi là chữ “trinh” thì dường như chẳng ai nói đến ; đợi cho đến khi khói bụi ô nhiễm đã phủ cả mặt địa cầu, hóa chất độc hại đã thấm đều vào các mạnh nước dưới lòng đất người ta mới nói đến “phát triển bền vững”, liệu có còn kịp hay không? Câu trả lời còn đang ở phía trước... Nếu Dịch học không bị vùi dập, bị coi là sách bói toán quỷ thần thì nhân loại đâu có khốn khổ như ngày nay. Tóm lại 4 đặc tính của nền minh triết Dịch học: Nhân bản, hợp lẽ, thiết thực, bền vững. Lời thoán quẻ Khôn, ngoài nguyên hạnh lợi cũng ý như quẻ Kiền, riêng phần trinh thì phải tẫn mã mới trinh được như con ngựa cái thì mới bền lâu. Tức phải là một nền khoa học có định hướng, tuân phục đạo đức thì mới vững bền. Khoa học là con dao 2 lưỡi, nó chế được thuốc bổ thì cũng chế được thuốc độc. Còn quyết định chế loại nào là thẩm quyền của lương tâm – đạo đức. Tức hành vi được định hướng dẫn dắt bởi minh triết, ngôn ngữ Việt tạo thành từ kép, để nhắc nhở luôn phải “khôn ngoan”, nếu không sẽ có ngày tự hủy. Nguyên hanh lợi trinh cũng là 4 tiêu chuẩn để định hướng suy tư và hành động của con người “lớn - khôn” tức ‘quân tử’. A. Lớn mạnh hay cường a. Quái từ hay lời quẻ Kiền: nguyên – hanh – lợi – trinh đã bàn luận ở phần trên. b. Đại tượng hay lời tượng : thiên hành kiện quân tử dĩ tự cường bất tức. Quẻ lớn mạnh chỉ sự tự chủ và mạnh mẽ nên trưởng nhân (quân tử) phải giống như Kiền tự cường không dựa dẫm vào bất cứ cái gì, chữ Quân tử mà hiểu là “con vua” thì trở thành mối nhục cho Nho giáo, quân tử là từ kép chỉ thành phần đứng đầu dẫn dắt cộng đồng xã hội , ở đây chỉ con người trong tam tài , quân tử đồng nghĩa với trưởng nhân - Đại nhân hay “người lớn”, đấy cũng chính là tư tưởng triết lý xuyên suốt của Dịch học họ Hùng. c. Hào Từ hay lời Hào Mỗi Quẻ Dịch có 6 hào là 6 nấc thang hay 6 giai đoạn kế tiếp nhau trong thời gian nên Dịch nói: “Lục vị thời thành”, đầu tiên là hào sơ, quy ước là vạch dưới cùng, rồi đến các hào kế tiếp: nhị tam tứ ngũ sau hết là hào thượng. Chỉ riêng 2 quẻ Kiền và Khôn có thêm hào “dụng”, quẻ Kiền là dụng cửu, quẻ Khôn là dụng lục. Hào từ chỉ là hình mẫu về vận dụng Dịch học, gọi là hình mẫu vì Dịch học gói gọn cả “thế gian” trong 32 cặp quẻ trùng và 384 hào; thiên hình vạn trạng thì làm sao nói ra hết được, con người phải tự suy nghĩ và lý giải những vấn đề cụ thể, những vụ việc cụ thể trên cái nền là các quy tắc đã được Dịch học xác lập; mỗi lời hào trong kinh Dịch chỉ là một ví dụ điển hình về việc vận dụng Dịch học mà thôi. Vị trí 2 quẻ Kiền Khôn là mấu chốt của Dịch học, thấm nhuần được ý của thánh nhân trong 2 quẻ càn khôn là đã căn bản “đắc đạo”, bao quát sự to lớn và sâu xa của Dịch học được gói trọn trong 2 quẻ Càn Khôn. Để dễ hình dung trước hết phải sắp xếp thứ tự các hào từ dưới lên trên. 6 – Thượng: Kháng long hữu hối. 5 – Ngũ: phi long tại thiên, lợi , kiến đại nhân 4 – Tứ: hoặc dược tại uyên – vô cữu 3 – Tam: Quân tử chung nhật Kiền Kiền, tịch Dịch được nhược, lệ – vô cữu 2 – Nhị: hiên long tại điền – lợi, kiến đại nhân 1 – Sơ : Tiềm long – vật dụng. Ta thấy: 6 hào mà có tới 4 con Rồng … vậy hình tượng con Rồng nói lên điều gì? Con người là sự hợp nhất của thần và vật…, thần là hồn phải nhập vào xác là vật thì mới tồn tại được trong thế giới vật chất; con Rồng tượng trưng cho thần tính trong con người, thìn là biến âm của thần là biểu tượng của thần tính trong con người mà thôi , 6 hào là 6 bước tiến trên đường trưởng thành của con người. c.1. Sơ: tiềm long vật dụng Rồng ẩn không hoạt động. Thời sơ khai của loài người, tức giai đoạn tục ngữ gọi là: thời ăn hang ở lỗ, lang thang kiếm sống bằng săn bắt và hái lượm, đây là thời mà con người vừa trải qua sự chuyển biến về chất để vượt trên tất cả các loài sinh vật trở thành người nguyên thủy. Vì vậy thân xác đã có con rồng ẩn ở trong, tức đã mang trong mình thần tính nhưng thần tính chưa phát lộ hay chưa hoạt động… Sở dĩ vậy vì lúc này còn là lúc …” cái khó nó bó cái khôn” hay là lúc chưa đủ … thực nên chưa thể vực được đạo. Ở một phần trên ta đã nói đến 3 mặt của sự tự chủ: làm chủ chính mình, làm chủ giới tự nhiên và làm chủ xã hội, 3 mặt này liên quan và đồng chuyển nên khi còn hái lượm tức tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên thì sự tự chủ cũng không thể nào có được, việc này Dịch học đã mượn hình tượng con Rồng ẩn để chỉ ý nghĩa. Ý tứ của Hào từ rất đơn giản cũng hết sức thiết thực: kẻ bụng đang đói thì đừng nói đến tự chủ, điều này đúng với từng cá nhân và cả quốc gia. Dù có là Rồng, muốn bay cũng phải hội đủ điều kiện vật chất mới bay lên được chứ không thể bay trong thinh không chẳng cần cánh và bệ đỡ là không khí. c.2. Hào nhị: Hào từ: Hiện long tại điền lợi kiến đại nhân; câu này được Dịch là: Rồng hiện trên mặt Ruộng, có lợi gặp người lớn. Nếu Dịch một cách trần truồng như thế thì chẳng phải là “Dịch lý” , trong Dịch học họ Hùng hào nhị có ý như sau: Qua thời Hái lượm hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên con người vượt qua chính mình bằng cuộc cách mạng nông nghiệp, con người không còn phó mặc cho trời đất nữa mà trở thành nhân ngang hàng với trời đất trong thể tam tài thiên – địa – nhân. Năng lượng đến từ vũ trụ kết hợp với vật liệu trong đất được bàn tay con người chăm sóc để trở thành của ăn nuôi dưỡng con người. Khi không còn phải hoàn thành lệ thuộc vào tự nhiên chính là lúc thần tính bắt đầu vẫy vùng. Hào từ vạch nhị gọi là hiện long tại điền; còn lợi kiến đại nhân hiểu gọn là:, khiến con người trở thành ‘vĩ đại’ ; khi thần tính xuất hiện con người trở thành “đại nhân” tức đúng nghĩa “người” không còn là “người vượn” Cách mạng lần thứ nhất nhờ biết chế tạo sử dụng công cụ đặc biệt là phát minh ra cách dùng lửa con người đã thoát xác từ vượn người trở thành người vượn, cuộc cách mạng thứ 2, cách mạng nông nghiệp con người trở nên to lớn phi thường ngang hàng với trời đất để người vượn chuyển hẳn thành “người” hay “đại nhân.” c.3. Hào tam Quân tử chung nhật Kiền Kiền, tinh Dịch nhược lệ vô cữu Trưởng nhân tích cực hoạt động cả ngày luôn cẩn thận thì không lỗi. Nông nghiệp mới chỉ là thành tựu khoa học kỹ thuật bước đầu, con người phải tiếp tục tiến xa hơn nữa, tích cực nghiên cứu để tìm ra các quy luật chi phối mọi sự vận động trong giới tự nhiên và xã hội, khoa học là điều kiện “vật chất” để trưởng thành trong tâm linh , chữ trí giúp chữ thần toả sáng , Thấu suốt tự nhiên là bệ phóng của ý thức đạo đức . ban tối Dịch chỉ dẫn ta phải nghỉ ngơi, ban sáng phải tích cực làm việc; tích cực hành động là thể hiện rõ rệt tính “người” tức biểu hiện của tài nhân cùng với thiên địa tạo nên bộ mặt cuộc đời. Hào tam nói rõ: một mặt tích cực hoạt động nhưng mặt khác phải luôn cẩn thận đề phòng sự “chủ quan”. Ta luôn có sự vận động trong thế giới thực thể và sự phản ánh của thế giới đó vào não bộ con người, tức thế giới “thông tin”, 2 thế giới có hoàn toàn trùng khớp hay không là điều ta phải cẩn thận; phải luôn kiểm nghiệm luôn so sánh tránh việc xa rời thực tế rơi vào sự chủ quan duy lý . Tóm tắt hào tam thánh nhân chỉ dạy: tích cực làm việc, cẩn thận thì không lỗi. Làm việc để càng ngày càng hiểu rõ thiên nhiên, càng gặt hái được nhiều hơn những lợi ích do thiên nhiên ban tặng, đời sống mỗi ngày mỗi nâng cao và niềm hạnh phúc mỗi ngày mỗi dâng trào mạnh mẽ đấy chính là sự bất tận của dòng đời mà thánh nhân muốn tặng cho nhân thế Khi các ngài khổ công nghiên cứu khai sáng Dịch học. c.4 Hào Tứ: Hoặc dược tại uyên vô cữu Nghĩa đen là: Nhảy qua vực thẳm không lỗi. Nghĩa bóng: chỉ sự duy lý tức chỉ thuần lý luận không có cơ sở thực tế . Tưởng đã ở trên cao lắm khi thấy phía dưới sâu ngút ngàn… Thực sự đâu có cao mà là ảo giác vì mặt đất thụt xuống sâu thẳm. Sai lầm như thế tại sao lại vô cữu, không lỗi ? Thưa vì Thánh nhân cho đó là điều tất yếu sẽ xảy ra trong quá trình phát triển. Nếu đã là một bước ắt có thì không mắc lỗi , dù biết vậy thánh nhân vẫn phải làm nhiệm vụ của mình cảnh báo con người ....phải cẩn thận, cẩn thận…để có thể giảm nhẹ mức độ sai lầm , bớt đi hậu qủa nặng nề ... Tất yếu sẽ có một giai đoạn gọi là thời duy lý, đấy là sai lầm duy nhất có tầm vóc "vũ trụ” và dĩ nhiên hậu quả chính con người phải gánh chịu là khôn lường. Thời mà con người quằn quoại trong đau khổ tột cùng. Thế giới thông tin không phản ánh đúng thế giới thực tạo thành vinh quang ảo nhưng đau khổ lại rất thực, thực là thời đại cười ra nước mắt, đúng lý luận thì phải là thiên đàng nhưng thực tế thì ngược lại…như đã diễn ra ở đất Campuchia thời Khơme đỏ , Con người trở nên mê sảng vì phải tiêu hoá cả một cuốn tự điển ngược… Tớ tớ, chủ chủ không còn phân biệt được nữa , … đi đến tột cùng con người không còn biết thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ? Sống không phải là sống cho chính mình , tạo lập hạnh phúc cho chính mình mà lại sống vì lý tưởng… gì gì đó ... Của lãnh tụ vĩ đại … cuối cùng là sự hủy diệt như Hitle và chủ nghĩa Quốc xã ở Đức thời thế chiến thứ II . c.5 Hào Ngũ: Phi long tại thiên lợi Kiến đại nhân Hình ảnh con Rồng bay trên trời biểu thị thần tính con người đã phát huy cực đại, con người đã là con người tự chủ dựa trên một trình độ khoa học kỹ thuật rất cao, con người thong dong tự tại như con Rồng bay trên trời sự ràng buộc của vật chất đã nhẹ như sợi lông tơ. Nếu như ở Hào nhị hiện long tại điền, biểu lộ chủ yếu ở phần trí tuệ, đến hào ngũ thì thần tính chủ yếu biểu lộ ở phần bản lĩnh tự chủ, cũng vẫn lợi kiến đại nhân nhưng ở hào 5 khác hào 2, một đàng là trí tuệ một đàng là đạo đức, giúp thành người lớn nhưng đến hào 5 là con người trưởng thành toàn diện làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình, tức một trưởng nhân thực sự, là trung tâm của vũ trụ như “Hành Cam” (Dịch của Trung Hoa là hành Thổ) để viết “giá sắc” tức gieo gặt cũng là nơi xuất phát và qui về của cả chuỗi phản ứng “xã hội – tự nhiên” Biết dùng quy luật “tòng cách” (Thạch viết tòng cách) để làm chủ diễn trình tự nhiên, biết luật “khúc trực” để điều khiển các diễn trình xã hội (Mộc viết khúc trực). Tự nhiên vẫn ràng buộc nhưng không hạn chế con người. Xã hội vẫn biến chuyển theo quy luật nhưng lại do con người “điều hoà ” tức phần “quyết” vẫn thuộc thẩm quyền của con người. Nhìn từ góc cạnh triết lý thì hào 5 là giai đoạn tột cùng con người đã trở thành trưởng nhân tức tự chủ dựa trên một nền khoa học và kỹ thuật cực kỳ cao. Phi long tại thiên là hình ảnh vật chất thực khi con người cưỡi “phi thuyền” du hành vũ trụ… Nói như vậy để ta nhìn nhận thời đại hiện nay nhân loại đã đạt đến phần đầu của sự tột cùng văn minh vật chất nhưng cũng là lúc phải chịu sự căng kéo ghê gớm, do độ lệch quá lớn giữa văn minh vật chất và văn minh tinh thần, giữa nơi này và nơi khác trên thế giới; Ở vài nơi tinh thần con người vẫn còn ở thời hoang sơ… Thần phục các mãnh lực… vô hình, sống và chết theo lời truyền bảo của đấng này, hay đấng kia dù đấng đó đã “qua đời” có đến ngàn năm . Tâm và trí không đi đôi với nhau xuất phát từ sự tham lam và ích kỷ đã khiến bộ mặt thế giới trở nên méo mó dễ sợ, điều mà cả loài người đạt được là càng văn minh tiến bộ, càng tiến gần đến cái … chết chắc chắn, phải chăng là thượng đế đã lập trình sẵn một sự tự hủy…? Coi như là một bước tất yếu để đổi mới địa cầu… Loài người này mất đi để 5, 7 chục vạn hay triệu năm sau có một loài người khác xuất hiện? Điều ghê gớm đó rất có thể sẽ đến nếu con người không phản tỉnh theo lời dạy của Dịch học ở hào thượng của quẻ Kiền và quẻ Khôn. c.6 Hào thượng Kháng long, hữu hối. Rồng lên quá cao, có hối hận Đây là sự thoát tục, không còn liên hệ đến nhân tình thế thái. Hình ảnh thực tế là một mình lên đỉnh núi tu tiên, tiêu giao tháng ngày với cánh hạc và giọt sương mai tìm sự thuần tịnh trong tâm hồn không kể chi đến xác thân... đấy chính là sự tu hành, xuất thế, nó không thể là hình ảnh tiêu biểu cho đời sống con người, đó chỉ là những trường hợp cá biệt riêng lẻ, có hối là ở chỗ này trưởng nhân mà bịt mắt bưng tai sống chết mặc bay, riêng ta tìm sự thanh thoát chỉ cho riêng mình, thanh cao thì có thanh cao thực đấy nhưng tu tiên dứt khoát không thể là con đường của người Quân tử, con người là một sinh vật xã hội tự nhiên từ khi sinh ra đã là vậy nên hạnh phúc thực chỉ đến giữa những con người, còn riêng mình ta với ta chỉ là cảm giác sung sướng mãn nguyện nhất thời không thể trường cửu, nên dịch học nói Hữu hối là vậy. Kháng long mà xuất thế thì như thế, còn kháng long mà nhập thế thì thật là khủng khiếp, một khi thần quyền nhập chung với thế quyền thì cả xã hội được điều hành theo luật… tu viện, muốn hình dung ra tình cảnh xã hội lúc này thì phải lùi về thời Trung cổ ở phương Tây, tới thăm và hỏi chuyện nhà khoa học Gallilé, hỏi về các toà án dị giáo… còn dễ thực hiện hơn thì đến thăm Afganistan hỏi về sự cai trị của Taliban… Trong mọi sự áp bức thì áp bức về tư tưởng là ghê gớm nhất, không thể gọi là con người nếu không được quyền suy nghĩ độc lập, đến việc cầu kinh để giao cảm với thượng đế cũng được bảo trợ bằng roi da- xích sắt thì .... thượng đế cũng phải ngán ngẩm lắc đầu . c.7 Hào dụng cữu: Kiến Quần Long Vô Thủ Cát Nghĩa đen câu trên là: thấy bầy Rồng không đầu tốt. Còn nghĩa dịch học của nó? Con người cứ mỗi ngày mỗi tiến lên, đến một ngưỡng nào đó xã hội chỉ toàn triết gia và nhà khoa học…nói khác mọi người đều đã thành ‘quân tử’ ; lúc đấy thì làm gì còn nhà lãnh đạo, xã hội thực sự là xã hội tự do và tự giác… điều hành “việc chung” lúc này không chừng chỉ là một máy tính điện tử siêu siêu tốc mà thôi. Đấy là xã hội công dân tự quản, không cần ai “cầm lái” nữa một xã hội mà tất cả các thành viên đều là đại nhân thì còn cần gì lãnh đạo, nên hào dụng cửu nói: Kiến Quần long Vô Thủ Cát.
-
Dịch học họ HÙNG . bài 23 4. Cặp Quẻ: Kết – Đoàn 4. Cặp Quẻ: Kết – Đoàn Dịch học thông hành của Tàu là cặp quẻ : Tỷ – Sư. Với dịch học họ HÙNG là cặp quẻ : Kết – Đoàn Thủy địa là quẻ kết hay tỷ nghĩa là kết nối. Địa thủy tạo thành quẻ Đoàn hay đàn hay cộng đồng Kinh Dịch hiện lưu hành thì : Địa thủy thành quẻ sư chỉ quân đội đây là cái nhìn khác hẳn với dịch học họ Hùng. Thủy ở trên, đất ở dưới là tương phối hợp với nhau, vì nước thấm xuống đất, sự ứng hợp theo từ ngữ Dịch học gọi là theo nhau hay liên kết, liên hợp v.v… Còn đất và nước hay quẻ địa trên quẻ thủy chỉ cộng đồng, một đoàn người, … nếu là người Việt ai cũng hiểu: đất nước đồng nghĩa với Quốc gia. Liên kết con người lại với nhau thì thành người một nhà hay gia nhân chữ người một nhà ở đây cũng đồng nghĩa với chữ Đồng bào; hoặc nhìn ngược lại thì quốc gia là những người mà số phận gắn kết với nhau cùng vui cũng như cùng buồn…, Dịch học của người Tàu không biết vô tình hay cố ý biến cặp quẻ kết - đoàn này thành cặp : Tỷ – sư. Trong đó sư có 2 nghĩa là quần chúng và sư cũng là quân đội, còn tỷ là sự thân thiết với nhau. Thân thiết thì có quần chúng nhân dân rất gần nghĩa với kết đoàn còn thân thiết mà có quân đội thì chịu thua không hiểu nổi. A. Quẻ kết hay gắn kết = thủy/ địa. Dịch học của Tàu gọi là Thủy địa tỷ nghĩa là gắn kết, liên kết lại . Để cố gắng hiểu trọn vẹn Dịch ta phải đặt mình lùi lại vài ngàn năm. Thời tiền nhân làm ra Dịch học, từ ngữ và cú pháp không hoàn toàn giống như bây giờ, chỉ một thoáng gần gũi còn nhận ra được sau vài ngàn năm là quý lắm rồi. Thí dụ: Ta xét 2 quẻ liền nhau: Thiên thủy = cạnh tranh hay tụng và thủy địa = gắn kết hay tỷ. Trời ở trên, nước ở dưới, nước thấm xuống dưới chẳng liên quan gì tới trời, giữa 2 quẻ không có sự hỗ trợ nhau, thậm chí vận động trái chiều nhau, chống đối nhau nên lấy tượng đó đặt tên cho quẻ là trái chống hay tụng cũng có nghĩa là tranh đấu, tranh dành, giành giật v..v… Sang Quẻ Thủy địa có hiện tượng đảo nghịch. Nước ở trên, đất ở dưới, nước thấm xuống đất.. như vậy có sự phối hợp, hay ứng hợp với nhau khi vận động, sự ứng hợp này về mặt ngôn ngữ được khái quát hóa thành một từ chỉ sự gắn kết, liên hệ với nhau. Thủy địa = kết hay tỷ. Cách đây 2000 – 3000 năm chắc số từ còn rất ít nên sức ngoại trương của một từ rất lớn và nội hàm của từ đó dĩ nhiên là rất hẹp, rất ít thông tin chi tiết, nghĩa là: một từ gốc chưa được chi tiết hóa chỉ định chính xác riêng rẽ từng khía cạnh như ngày nay. a. Lời Quẻ: Tỷ cát, nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu, bất ninh phương lai, hậu phu huy Liên kết với nhau, tốt lắm phải xem xét kỹ lưỡng từ đầu (tác sự mưu thỉ) bền chặt ngay từ đầu như thế không lỗi gì, dựa vào nhau thành một khối an ninh chung. Kẻ chờ tới khi thấy rõ nguy cơ mới xin liên kết thì chẳng ai dại mà nhận để mua cái rắc rối vào người. Con người sức vóc bé nhỏ mà phải gánh không biết bao nhiêu nguy cơ do đó họ phải gắn kết lại thành cộng đồng người, dựa vào nhau mà tồn tại, đến lượt các cộng đồng cũng phải liên kết với nhau thành các cộng đồng lớn hơn để đối phó với thiên tai dịch họa cũng như dựa vào nhau mà phát triển. b. Lời Tượng: Địa Thương hữu thủy: tỷ. Tiên vương dĩ kiến vạn quốc, thân chư hầu. Đất ở dưới nước ở trên là tượng phối hợp, đấng tiên vương xem tượng ấy lập vạn nước, thân thiết với chư hầu. Chế độ phong kiến có từ thời nhà Chu. Ngoài nước chính là nòng cốt của liên minh gọi là Trung Quốc, vua chia đất ở bốn phía cho thân vương, công thần lập nên các “phụ Quốc” gọi là chư hầu hay các hầu. Với ý đồ là các nước thân tộc đó sẽ liên kết bảo vệ lẫn nhau và bảo vệ chính quốc tức Trung Hoa, sỡ dĩ phải dùng chính sách chư hầu vì điều kiện vật chất đặc biệt là phương tiện liên lạc và giao thông vận tải, chưa cho phép có thể điều hành thống nhất một quốc gia quá rộng lớn. Phong tước kiến địa là một giải pháp tình thế hết sức thông minh, và hữu hiệu trong mấy trăm năm liền cho tới thời Xuân thu, chiến Quốc mới hết. C. Lời Hào c.1 Hào Sơ: Hữu phu tỷ chi vô cữu, hữu phu doanh phẫu chung lai hữu tha cát Lấy lòng thành tín mà kết liên, không lỗi gì; tín thành hết mực như rượu đầy bình sau cùng cũng khiến người người quy tụ về, thật tốt đẹp. Đấy chính là cõi lòng và thánh đức của bậc minh quân khi tạo lập sự nghiệp vỗ yên thiên hạ. c.2 Hào nhị: Tỷ chi tự nội, trinh cát. Liên kết là yêu cầu của cuộc sống, dựa vào nhau để tồn tại và phát triển, liên kết bền vững rất tốt. Tự nội ở đây làm xuất phát từ bản thân cuộc sống, là sự bức bách buộc phải hành động như thế…. Không phải là ý muốn chủ quan, bày đặt ra. c.3 Hào Tam: Tỷ chi phỉ nhân Tụ tập thành đảng cướp , Không phải bức bách và cuộc sống như ở hào nhị mà chủ động liên kết tạo sức mạnh để cướp của giết người. Tức có mục đích bất chính xấu xa. Đây chỉ là thí dụ điển hình về sự liên kết xấu xa gây tội ác mà thôi. Thực tế có đến thiên hình vạn trạng đủ thứ mưu mô quỷ quyệt, đại đa số đảng này phái kia đều là loại này, trộm cướp không chỉ là phường đầu đường xó chợ, cướp núi cướp rừng… có khi lại là chính các lãnh tụ khả kính, chính các bậc “cha mẹ” dân, ăn cướp công khai, ăn cướp hợp pháp, ăn cướp có binh lực bảo kê … tất cả loại này gom vào một chữ “phỉ nhân”. c.4 Hào Tứ: Ngoại Tỷ chi, trinh cát Liên kết bên trong và bên ngoài lâu dài tốt. Mỗi nước đều có thế mạnh, mặt mạnh riêng, liên kết để bổ sung cho nhau tốt cho cả 2, có nhiều loại và nhiều mặt hay lãnh vực có thể liên kết nếu không kể sự liên kết toàn diện như : Liên kết kinh tế – tài chính.,Liên kết chính trị ngoại giao,Liên kết quân sự phòng thủ v.v… Liên kết cũng có nhiều loại, liên kết giữa nhà nước và nhà nước, liên kết giữa các tổ chức quần chúng, liên kết giữa các công ty… Tóm lại càng ngày ngoại tỷ chi càng quan trọng và phong phú thậm chí nhân loại đã tiến đến mức không một nước nào có thể sống riêng lẻ, tất cả trở nên phụ thuộc vào nhau dù có muốn hay không muốn. c.5 Hào ngũ: Hiển tỷ vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát. Kết liên một cách quang minh chính đại, vua có lòng quảng đại vô biên còn tấm lòng của “đồng bào” đối với nhau trong suốt như thủy tinh, như thế còn việc gì phải dè chừng? Hết sức tốt đẹp. Thời xưa săn bắn hầu như đã là một nghi thức bắt buộc với vua chúa, quí tộc, khi đi săn vua cho chăng lưới 3 mặt chừa một mặt trống làm cổng để săn lùa thú vào vòng vây, tới vua Thành Thang vô cùng nhân từ vẫn phải thực hiện nghi thức đi săn nhưng mở 3 mặt chỉ chăng lưới một mặt (tức ngược lại) hễ có con chim hay thú nào “cố tình” không tránh bẫy mới bị bắt (tức là vua chỉ thực hiện tượng trưng nghi thức đi săn mà thôi). Đoạn này mô tả đức hiếu sinh của vua tổ nhà Thương. Vua thì nhân từ như thế, còn dân thì trong sáng hết mực, hỏi có sự kết nối nào tốt đẹp hơn nữa, đúng nghĩa hiển tỷ hơn nữa? Hào từ này nhiều sách dịch rất tối nghĩa : vua đi săn chỉ chăng lưới 3 mặt còn mở 1 mặt để tỏ đức hiếu sinh ...thử hỏi nếu chăng lưới cả 4 mặt thì thú làm sao có thể chạy vào trong để mắc lưới ...? c.6 Hào thượng: Tỷ chi vô thủ, hung Tụ tập đông đảo mà không được dẫn dắt, thực nguy hiểm khôn lường Ta hiểu được thế nào là bùng phát, quá khích thực là ghê gớm, đốt phá không thua gì lũ giặc cướp, người tràn như thác đổ và sự phá hoại cũng không thua gì thác đổ, một người sai lầm thì hậu quả đã rất đáng kể còn cả một tập thể người có hành động sai lầm thì thật là một đại họa nên hào tứ kết thúc bằng chữ Hung Một cơ thể bao giờ cũng phải có cái đầu, một tập thể người không thể không có thủ lĩnh, gắn kết mà không có thủ lĩnh thì chỉ là một mớ bùng nhùng ….. cãi nhau chán rồi tan rã. B. Quẻ: Đoàn hay Đàn = Địa/ Thủy Người liên kết lại thì thành một cộng đồng, cộng đồng người có rất nhiều từ để gọi, Đoàn, Đàn, bày, tộc, Quốc, … Ở đây Thánh nhân dùng tượng đất nước (địa trên thủy) để lập thành quẻ Đoàn, đàn hay gia nhân tức người một nhà. a. Lời Quẻ: Gia nhân lơi nữ Trinh Hợp nhau lại thành người một nhà để cùng mưu lợi ích. Mềm mại, tốn nhuận mà cư xử thì cộng đoàn bền vững. Quan niệm xưa, nam thì gánh vác việc quân việc quốc còn nữ thì tề gia nội trợ nên quẻ đoàn hay gia nhân mới nói nữ mà không nói nam, nữ đây là nữ đạo không phải người nữ ;trong văn hóa Việt là: lấy chồng gánh cả giang sơn nhà chồng.Ta nhấn mạnh: gánh cả giang sơn tức là dồn hết sức lực, tâm trí cho công việc nhưng vẫn gọi là của chồng không xưng là “nhà” của mình, đấy là sự tốn thuận đến hết mực, tuy không vỗ ngực xưng tên nhưng vị trí, người đàn bà trong gia đình Việt hết sức “uy tín”. Lệnh ông không bằng cồng bà… tục ngữ Việt đã nói thế từ xưa xưa lắm rồi, không phải đợi phong trào nữ quyền tranh đấu đàn bà mới được xếp ngang bằng với đàn ông như hiện nay . b.Lời tượng: Gia nhân: quân tử dĩ dung dân súc chúng. Dân một nước, bậc trưởng nhân phải làm hết sức mình để bao dung, súc dưỡng dân chúng, đồng bào. Dịch học người Tàu đặt lời tượng này vào Quẻ Sư tức Quân đội khiến lạc nghĩa không ăn đâu vào với đâu ... C. Hào Từ c.1 Hào Sơ: Nhàn hữu gia – hối vong. Kỷ cương phép nước phải nghiêm minh từ buổi đầu dựng nước, nếu để việc vô phép tắc đã xảy ra lâu ngày thành nếp khó sửa chữa, tục ngữ Việt dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thủơ bơ vơ mới về. Cũng cùng ý nghĩa với nhàn hữu gia, đã ngăn ngừa từ đầu như thế còn gì phải hối tiếc. c.2 Hào nhị: Vô dụ toại, tại trung quĩ, trinh cát. Trong một Quốc gia guồng máy hành chính, tập trung vào việc chăm lo đời sống cho nhân dân, kinh tế ngày càng phát triển dân càng ấm no hạnh phúc, đấy là sự nghiệp lâu dài rất tốt đẹp. Việc lèo lái con thuyền về mặt chính trị là phận sự của vua, của thủ lãnh. Hào nhị đắc trung ở hạ quái là địa vị của tể tướng, của các chuyên gia hay nhà khoa học, còn hào ngũ đắc trung ở thượng quái là địa vị của vua chúa, thủ lãnh, của triết gia, việc sắp xếp thứ bậc các hào rất cẩn trọng về ý nghĩa chứ không tùy tiện. c.3 Hào Tam: Phú Gia đại cát Làm cho dân giàu nước mạnh hết sức tốt đẹp. Trong 6 cung bậc của một quẻ thì Hào Tam chủ lợi, hào Tứ chủ lý. Theo luật Dịch học vật chất hữu hình ở dưới, tinh thần vô hình ở trên.Ở đây Hào Tứ nói về giới doanh nhân và công chức quản lý xã hội, nếu đem lại no ấm giàu có cho người dân thì thực là tốt đẹp. Nền văn hóa Trung Hoa và Việt thường kỵ hay không thiện cảm với giới thương buôn và nghệ sĩ ,chữ thương buôn ngày nay phải hiểu là Doanh nhân chứ không phải chỉ riêng người đi buôn. Thực là lạ và hiếm khi Hào Từ Tán Dương phú gia đại cát. c.4 Hào Tứ: Gia nhân Hác Hác, Hối lệ cát, phụ tử Hy Hy chung lận Mọi người sống có nề có nếp, đôi khi thấy không xứng ý toại lòng,nhưng chắc chắn mọi sự đều tốt, còn cả trên lẫn dưới cùng ăn chơi thoải mái thì có ngày hối không kịp. Nơm nớp lo sợ bất trắc, mới dành dụm tiết kiệm, ăn xài chi tiêu đúng mực, ngày nay gọi là để dành cho tương lai tức đầu tư phát triển kinh tế, như thế không tốt sao được. c.5 Hào Ngũ: Vương cách hữu gia, vật tuất, cát. dịch sát nghĩa như cụ Ngô Tất Tố: “Vua đến có nhà đừng sợ tốt lành”....? lời dịch Hào Từ này không dám bàn vì không hiểu gì cả câu này có thể hiểu như sau : Bậc Quân vương không kể đến họ mình, thiên hạ không phải lo sợ ,ý muốn nói là: khi đã lên ngôi vương tức là vương của trăm họ, của toàn dân chứ không còn là người của một họ riêng nào nữa. c.6 Hào Thượng: Hữu phu, uy như chung cát Tự tin, uy nghiêm vô cùng tốt đẹp. Đây là trường hợp đặc biệt trong Dịch học, Hào Thượng của Quẻ gia nhân hay đoàn lũ lại dành để nói đến phong cách của thủ lĩnh. Nếu một nhà là gia trưởng còn một nước là Quốc trưởng, phẩm chất là biểu hiện là: tự tin và uy nghiêm. Tự tin vì con đường mình vạch ra chắc chắn đúng, thần thái uy nghiêm để thiên hạ một lòng cùng hợp sức vì mục đích chung, được như thế sau cùng sẽ thành công tốt đẹp lưu danh muôn thuở .
-
Dịch học bài 22 3. Cặp Quẻ: Cầu – Cạnh Dịch học người Tàu gọi là : Nhu – Tụng . Tranh dành là do thiếu thốn, nếu thừa thãi thì tranh dành làm chi, thiếu thốn là do có nhu cầu mà không được thỏa mãn. Dịch học đã chỉ ra thuộc tính của vật chất là hữu hạn, chỉ có luợng của cải nhất định trong khi nhu cầu thì hầu như vô hạn vì ...lòng tham không đáy. Nên tranh dành được coi như một hiện tượng tự nhiên, chữ tranh dành nhiều khi rất nhẹ như 2 đứa trẻ giành nhau cái kẹo, khi lại hết sức to như 2 quốc gia giành nhau địa vị bá chủ thiên hạ, hàng triệu người đã chết đâu phải chuyện đùa. Nhu cầu để sinh tồn của con người thực ra không quá to lớn, để sống được cũng chỉ cần ngày vài chén cơm mà thôi, nhưng từ nhu cầu sinh tồn biến tướng thành nhu cầu an toàn- dự trữ bảo đảm không sợ có lúc thiếu như thế là chữ “nhu cầu” đã phình ra to lớn lắm rồi, đến khi phát sinh nhu cầu so sánh tranh hơn giữa mọi người thì “nhu cầu” trở thành vô hạn, chính vì vậy mà sự tranh dành không bao giờ dứt được, hết thế chiến thứ I ,đến thế chiến thứ II bây giờ nhân loại đang chờ… thế chiến thứ III hay ngày tận thế… Thánh nhân dày công làm ra Dịch học cũng là để… tránh ngày ấy cho hậu thế, sở dĩ tụng là tại nhu … vậy muốn tránh tụng thì phải bắt đầu ngay cả 2 phương cách: - Đường khắc: mỗi người phải biết tự tiết chế nhu cầu… chỉ có nhu cầu sinh tồn là nhu cầu thực, còn lại điều xuất phát từ sự tham lam giả tạo. - Đường sinh: tăng thêm kiến thức, cải tiến công cụ để sản xuất ra nhiều của cải hơn thỏa mãn cho dân sinh. Cả 2 phương cách đều nhằm giảm cầu, cầu giảm thì “cạnh tranh” cũng giảm. A. Quẻ cầu = Thủy/ Thiên Dịch học người Tàu gọi là Thủy Thiên Nhu và giải nghĩa là chờ đợi. Mây tụ đầy trời dân họ Hùng có bài đồng dao về chữ “cầu”: Lạy trời mưa xuống Lấy nước tôi uống Lấy ruộng tôi cày Lấy đầy bát cơm Lấy rơm đun bếp… Thực là đầy đủ các khâu, sản xuất chế biến và “tiêu thụ” . cầu nghĩa đầy đủ là: mong cầu tức muốn và chờ, cũng là nhu cầu nghĩa là cần thiết. a. Lời Quẻ: Nhu hữu phu quang hanh, trinh cát lợi thiệp đại xuyên. Cầu mong thì phải tin tưởng, trong sáng, bền lòng sẽ gặp may, dùng để vượt sông lớn. Người Việt Nam có câu : “cầu được, ước thấy” bậc trưởng nhân chỉ cầu mong những gì hợp lẽ đạo nên lời quẻ nói hữu phu , cầu mong thì phải có lòng chí thành, sáng trong và bền bỉ như thế sẽ gặp điều tốt đẹp, điều lớn nhất đáng cầu mong là quốc thái dân an xã hội nhanh chóng phát triển ( lợi thiệp đại xuyên ) . b. Lời tượng: Vân thướng ư thiên, nhu, quân tử dĩ ẩm thực yến lạc. Mây tụ trên trời là tượng quẻ nhu: quẻ thủy trên quẻ thiên, trưởng nhân coi tượng đó mà ăn uống, an vui. Như ở phần trên đã nói: ăn uống là nhu cầu sinh tồn, nhu cầu thực sự không có không sống được, việc phải thoả mãn là điều đương nhiên, trưởng nhân cứ vui vẻ mà ăn uống không phải nghĩ suy gì đến khía cạnh lễ giáo, miễn là đừng ăn uống bằng tiền …của người khác. c. Lời Hào c.1 Hào Sơ: Nhu vu giao lợi dụng hằng, vô cữu Nhu cầu sinh tồn, cần thiết hằng ngày, thỏa mãn là chuyện đương nhiên, không có chuyện phải trái ở đây. Cơ thể con người cũng là một sinh vật chịu sự chi phối của các quy luật sinh học như bao sinh vật khác, ăn mặc, truyền giống là các nhu cầu sinh lý tự nhiên, phải thỏa mãn nếu không có thì không thể tồn tại hoặc nối tiếp giòng giống. c.2 Hào nhị: nhu vu sa, tiểu hữu ngôn , chung cát. Đợi ở nơi bãi cát, việc nhỏ có điều tiếng xầm xì, sau cùng vẫn tốt. Mong cầu cuộc sống tiện nghi là điều bình thường, sự hưởng lạc đừng quá đáng (tiểu hữu ngôn) sau cùng vẫn tốt, không có gì sai cả. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận phải làm cho cuộc sống ngày càng khá hơn, sung sướng hơn, vượt trên các nhu cầu sinh lý con người ,chế tạo sản xuất ra của cải nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống văn minh, đấy là nhu cầu chính đáng, các tiện nghi hưởng thụ ngày càng nhiều, lao nhọc ngày càng ít đi, không gian ngày càng thu hẹp lại, thời gian ngày càng dài ra vì mỗi giây, mỗi phút chất lượng cuộc sống thay đổi hẳn. c.3 Hào tam: Nhu vu nê, trí khấu chí Dịch nghĩa: chờ đợi nơi đất bùn là vời giặc đến. Tới hào tam này thì không còn là nhu cầu nữa mà là sự ham mê, nhu vu vê là ham mê của cải, mong muốn sự giàu có, của cải tích tụ quá nhiều sẽ đánh động lòng tham của người khác, rồi trộm cắp sẽ kéo đến vì chính mình mời nó vậy. Làm giàu chính đáng rất ít người đạt được, còn bất chính là số đông, tham ô tham nhũng buôn gian bán lận, trộm cắp móc ngoặc… không đếm xuể, đấy chính là nê, là bùn đấy. Cái mà anh có nếu là do trộm cắp dù là hình thức trộm cắp nào … rồi cũng sẽ bị trộm cắp lại bởi kẻ khác, đấy là trí khấu chí. c.4 Hào tứ: Nhu vu huyết, xuất tự huyệt. Chờ nơi vũng máu, thoát ra khỏi hang. Thực ra chữ Huyết là từ dùng thay thế chỉ màu đỏ, người Việt gọi là máu đào, trong Dịch học màu đỏ chỉ quyền bính hay việc chính trị. Nhu vu huyết là ham mê danh vị, quyền bính. Sự ham mê này xuất phát từ trong đáy lòng (xuất tự huyệt), mọi biện minh chỉ nhằm che đậy sự thật này. Mong cầu lợi lộc vật chất và mong cầu danh vị quyền hành là những gì Dịch học diễn tả ở hào tam và hào tứ́. Sự răn đe trong nhiều quẻ. Tập trung vào 2 hào này là 2 giai đoạn nhiễu nhương bắt buộc con người phải vượt qua để đạt đến nấc tốt đẹp là hào ngũ. c.5 Hào ngũ: nhu vu tửu thực trinh cát. Chờ đợi trong no say, bền chí rất tốt nghĩa Dịch học là: người có chí của bậc quân vương (Hào Ngũ) thì thản nhiên đợi mệnh trời. Không thay đổi lập trường dù gặp hoàn cảnh nào đi nữa sau cùng vẫn tốt lành. c.6 Hào Thượng: Nhập vu huyệt, hữa bất tốc chi kháchTam nhân lai, kính chi chung cát Vào hang sâu, có khách thong dong 3 người đến, kính trọng họ, sau cũng tốt. Đi vào chốn sâu thẳm của tâm hồn con người (nhập vu huyệt). Nếu có sự hướng dẫn, giáo dục đúng đắn thì sẽ dần nghiêng về, hướng về: các điều chân – thiện – mỹ. Lo noi theo 3 điều ấy sau cùng sẽ rất tốt đẹp. Chí chân, chí thiện, chí mỹ là lý tưởng, là điều ước mong lớn lao nhất, cao xa nhất mà bậc trưởng nhân phải hướng tới và làm cho mọi người cùng hướng tới. B. Quẻ Cạnh = Thiên/ Thủy Chu dịch bên Tàu gọi là: Thiên Thủy Tụng Cung không đủ cầu là thiếu thốn, thiếu thốn phát sinh tranh dành đấy là ý cặp quẻ: cầu – cạnh hay như – tụng. Cạnh là tranh dành còn có nghĩa là trái chống nhau. Tính của nước là thấm xuống dưới, trời lại ở trên cao, 2 đàng chuyển động không đồng chiều gọi là cạnh (Quẻ thiên ở trên, thủy ở dưới). a. Lời Quẻ: Tụng hữu phu, trất dịch, trung cát, chung hung, lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên. Đấu tranh vì có lòng tin chắc chắn sẽ thắng lợi, đấu tranh để đạt mục đích là tốt nhưng đấu tranh đến cùng thì xấu, đấu tranh làm cho con người mau chóng trưởng thành nhưng đấu tranh mãi không lợi cho công cuộc phát triển b. Lời Tượng: Thiên dĩ thủy vi hành, tụng, quân từ dĩ tác sự mưu thủy. Trời nước chuyển động nghịch chiều là tượng quẻ cạnh tranh hay tụng, trưởng nhân khi hành sự phải tính cho kĩ từ lúc khởi đầu, tính kỹ tức dự liệu mọi tình huống phát sinh. Không để xảy ra sự tự triệt tiêu từ bên trong do có xung đột. c. Lời hào c.1 Hào sơ: Bất vĩnh sở sự, tiểu hữu ngôn chung cát. Không thể tranh dành mãi được, nếu dừng lại sẽ có lời ong tiếng ve nhưng chung cuộc tốt, tránh việc giành giật ngay từ đầu là tốt nhất. c.2 Hào nhị: Bất khắc tụng quy nhi bô, kỳ ấp nhân tam bách hộ vô sảnh Biết thực lực của ta và của người lui về hương bản nhỏ bé của mình tránh đối đầu đó là sự khôn ngoan ,tránh voi chẳng xấu mặt nào ... Chiến tranh luôn là điều tệ hại nhất trong các điều tệ hại, thánh nhân luôn khuyên ta làm hết sức có thể để tránh đi. c.3 Hào Tam: Thực cựu đức, trinh lệ, chung cát hoặc tòng vương sự, vô thành. Thừa hưởng cơ ngơi sẵn tốt đẹp, cố giữ nguyên, kết cục rất tốt, tham chính chỉ biết hết sức làm việc không màng đến công trạng. c.4 Hào Tứ: Bất khắc tụng, phục tức mệnh du an trinh cát Đòi hỏi quá đáng đến độ phi lí ( bản chất hào tứ là sự thái quá ) , không thể đạt được, phải biết thực tế khi đưa ra các yêu sách, hồi tâm chuyển ý, ở yên theo điều chính là tốt nhất. c.6 Hào Thượng: Hoặc tích chi bàn đái, chung tiêu tam trị chi. Tranh được chiếu đại áo, thì một buổi sáng 3 lần bị cướp lại. Của tranh cướp được rồi của cũng thiên trả địa, mình cướp của người khác được thì người khác cũng cướp lại của mình được, mạnh được yếu thua là luật rừng, con người càng tiến lên, càng văn minh thì sự tranh cướp càng phải giảm, thay vào đó là sự phân chia, phân xử êm đẹp theo luật pháp, sức mạnh của bạo lực thay bằng sức mạnh của công lý.
-
Dịch học họ HÙNG . bài 21 2. Cặp quẻ: Mờ mệt Mờ mệt đọc sai đi thành mờ mịt , dịch sang Hoa ngữ là mông và truân. Mờ là nguyên nhân mệt là kết quả, với mỗi con người thực tế nếu trình độ thấp thì phải chịu lao nhọc bán mồ hôi mà ăn, còn đối với quốc gia xã hội nếu trình độ khoa học kỹ thuật thấp thì thiên nan vạn nan, đến thánh nhân cũng phải đau đầu. Tiếng Việt có câu “gian truân, vất vả” chính là tình huống này. Trên thế giới dù ta gọi là Quốc gia chậm tiến, kém phát triển hay lạc hậu, nhược Tiểu quốc v.v…đều nằm trong nghĩa Quẻ mờ hay mông này… mờ ở đây không phải là không thấy đường mà là mờ về tri thức nói chung chỉ mặt bằng dân trí còn thấp ; với tình cảnh xã hội như thế thì đấng trưởng nhân tức người gánh vác việc nước sẽ vất vả vô cùng, làm sao có thể thúc đẩy xã hội tiến lên khi phần đông trong xã hội ấy là những người không hiểu gì , không biết làm gì ngoài việc đào khoai xúc tép…; chỉ với sức cơ bắp và cái đầu trống rỗng thì gian nan biết chừng nào cho người lãnh đạo? Đã vậy khi thực lực không có thì thiên hạ thiếu gì kẻ sẵn sàng nhảy vào hòng đè đầu cởi cổ mình , thế giới này có khác gì chốn rừng xanh ...;. Đấng quân tử lúc này thực lao tâm khổ – trí biết bao nhiêu , tình cảnh này Dịch học gói gọn có mỗi một chữ: Mệt hay Truân. Mờ và mệt là cặp quẻ đảo hay lật ngược , giá trị phần 64 Quẻ chồng là ở việc thành lập từng cặp quẻ, tình cảnh xảy ra là có nguyên nhân, từng cặp quẻ giúp ta biết việc phải làm để thành công , 32 cặp quẻ là 32 định luật của khoa học xã hội, giúp con người thấu triệt và vận dụng thành công các định luật này là mục đích của Dịch học. Phần lớn giá trị của Dịch học cũng nằm ở đây, nếu không có 32 định luật này thì Dịch học trở thành sách nói nhăng nói cuội … chẳng ơn ích gì. A- Quẻ: Thủy – Lôi :Mông ( mờ tối ) Mưa gió sấm chớp mù trời là tượng mờ tối. Mờ tối dịch sang Hoa ngữ là Mông, trong Dịch học của Tàu thì Thủy Lôi là truân còn ghép 2 quẻ Sơn Thủy mới thành quẻ Mông ngược với dịch học họ Hùng. a. Lời Quẻ (Quái từ): Mông, Hanh phỉ ngã cầu đồng mông, Đồng Mông cầu ngã sơ phệ cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo, lợi trinh. Mông, Hanh là khai thông sự mờ tối đồng nghĩa với chữ: khai trí. người Thầy không đi tìm trẻ để dạy (học), mà trẻ thơ phải tìm đến thầy mà học, hỏi một lần thì chỉ bảo, quá tam ba bận hay nhất quá tam thì không phí công dạy dỗ, giáo dục là lợi ích trăm năm (lâu dài) Quái từ nói đến 2 mặt : ước muốn học tập và khả năng học tập. Kẻ đã không muốn học thì thầy có bổ đầu nhét chữ cũng không thể tiếp thu được, trong dạy và học nếu thầy tìm trò là vất bỏ sự tôn nghiêm, điều phải học đầu tiên là: “Lễ” đã không giữ thì làm gì còn là ‘giáo dục’. Thứ đến phải có khả năng học tập mới tiếp thu được sự dạy dỗ, khả năng này ngày nay gọi là chỉ số thông minh. Năng lực kém cỏi quá việc học cũng không thành, nên quái từ nói hỏi đến 3 lần thì không dạy nữa chữ ba ở đây nghĩa là nhiều . b. Lời tượng (tượng từ): Vân lôi mông, quân tử dĩ kinh luân. Mây mưa sấm chớp mù trời là tượng quẻ mờ tối (mông), trưởng nhân phải lo sắp đặt tổ chức tạo lập giềng mối cho thiên hạ. Cũng như con thuyền trên biển cả mênh mông biết dựa vào đâu để tìm đến bến bờ? Người Quân tử dĩ kinh luân, tức làm ra kinh tuyến vĩ tuyến để có kinh độ vĩ độ làm chuẩn mốc cho phép xác định hướng đi của con thuyền tìm đến bến. Còn trong lĩnh vực xã hội, mông là trạng thái hỗn mang trên dưới chưa phân, phải trái chưa định, xã hội chưa được tổ chức sắp xếp có nề có nếp, mọi việc còn rối rắm mờ mịt nhiều khi không biết khởi động từ đâu, lấy khâu nào làm khâu đột phá. Trên bình diện thế giới, mông chỉ các quốc gia kém phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp kém. C. Lời Hào c.1 Hào sơ: Phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát trất cốc, dĩ vãng lẫn. Hào sơ chỉ lúc mới đầu của công việc gây dựng cơ nghiệp, tiến hành cách tân, trình độ dân chúng còn rất thấp thì khoan nói chuyện đạo nghĩa lý lẽ, cốt yếu là ban hành và thực thi luật pháp, hình phạt là bất đắc dĩ nhưng phải dùng để tạo kỷ cương; Dụng thoát trất cốc nghĩa là dùng hình pháp để con người không còn dám tham lam ác độc tượng như tháo cái gông cùm ra khỏi cổ con người vậy. Mục đích việc dụng hình là để chính pháp . Quá lạm để thị uy sẽ trở thành tàn ác. Sự mông ở Hào sơ này là mông tất nhiên, cái mông nguyên sơ của con người, từ đó mới tiến lên dần mãi tới văn minh. c.2 Hào nhị: Bao mông cát, nạp phụ cát tử khắc gia. Bảo bọc kẻ ngu tối dung nạp người yếu đuối. Đấy là việc của người quản lý cộng đồng phải làm. Mông chỉ người yếu kém về trí tuệ. Phụ chỉ sự yếu kém về thể lực. Xã hội phải quan tâm chăm lo bảo bọc cho 2 giới người này, hào từ này chắc chắn viết ở thời xa xưa còn trọng nam khinh nữ , trong câu nạp phụ cát rõ ràng xếp đàn bà ở bậc dưới, cả thể lực và trí tuệ; sự bao dung viết trong hào từ này ngày nay đã trở thành chính sách xã hội, nước nào cũng có quĩ xã hội để chia xẻ, nâng đỡ những người kém thế, ý hào nhị là sự mờ tối ở đây là do “trời làm” hay thiên định, bản thân sự yếu kém là một sự thiệt thòi bẩm sinh, không có lỗi chủ quan nên xã hội có trách vụ bù đắp . c.3 Hào Tam Vật dụng thú nữ kiến kim phu bất hữu cung vô du lợi. Nghĩa thông thường là: Đừng lấy hạng đàn bà hễ thấy đàn ông giàu là tít mắt, không còn nghĩ gì đến phẩm giá của mình, nếu dây vào ả thì thực là bại hoại (vô du lợi) hào từ này chỉ bọn “tối mắt” vì tiền, những kẻ theo đạo thờ tiền, coi tiền là trên hết và coi việc kiếm tiền là mục đích của đời người. Cũng là mờ tối nhưng 2 hào sơ và nhị không bị lên án vì đấy là do khách quan và bẩm sinh, còn tới hào tam thì do con người tự làm mờ mắt mình, đến cùng cực có thể chết vì tiền, điều này triết học gọi là sự vong thân, sự vong thân ngày nay chính là “bất hữu cung” của Dịch học c.4 Hào Tứ Khốn mông – lận Khốn khổ vì mắt to hơn người, thực là lầm lẫn. Mắt to hơn người ý chỉ bọn duy lý luận, diễn biến trong thế giới “tín hiệu” trở thành khép kín trong não bộ, mất liên thông hoàn toàn với thế giới thực ở bên ngoài. Quá trình xử lý thông tin của não bộ là độc lập với bên ngoài, nhưng kết quả luôn phải được kiểm chứng – đối chiếu, nếu kết quả có khác thì luôn luôn là lý luận sai chứ thực tế làm sao sai được? Nhưng một khi cơn say lý luận tới tột độ thì lý luận không thể sai… và chân phải gọt cho vừa giày. Lấy kết luận của suy nghĩ chủ quan làm chân lý thì thực là tự mình bịt mắt mình, tự mình làm cho mình mờ tối đi, cần gì phải đi tìm nữa vì chân lý đã có sẵn trong đầu rồi… Hào tam là duy lợi đến hào tứ là duy lý cả 2 sự mù lòa đều do chữ duy mà ra. c.5 Hào ngũ: Đồng mông cát Trí óc trẻ thơ như tờ giấy trắng tốt lắm. Mông ở đây hiểu là chẳng biết gì trong trắng như trẻ thơ, đây là trường hợp đặc biệt duy nhất. Mông mà lại tốt. Tai mắt dần dần khai mở tiếp thu kiến thức về thế giới và cuộc đời, quan niệm của Nho giáo là nhân chi sơ tính bản thiện, viết vào tờ giấy trắng những điều xấu xa là tại người lớn, uốn nắn tính khí của đứa trẻ là một kỳ công, có cái dạy bằng lời nhưng hàng ngàn cái dạy bằng gương sống thực, gần gũi là người thân trong gia đình, rộng ra là xã hội ; trẻ con học lời dạy bảo nhưng tập quen theo thói ăn ở của những người chung quanh, miệng thì dạy con phải sống cho công bằng nhưng cứ buôn gian bán lận hỏi trẻ thơ sẽ đi theo đường nào? c.6 Hào thượng: Kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu. Kẻ tăm tối có những hành động ngu xuẩn thì phải chịu sự trừng phạt, nhưng luôn nhớ tác dụng của sự trừng phạt là để giáo hóa, để lôi nó thoát khỏi sự tối tăm chứ không phải là sự trả thù. Trừng phạt nặng tay quá rất có thể khiến kẻ phạm tội trở thành giặc cướp vì cùng đường. Trong vòng pháp luật không còn con đường sống thì bắt buộc phải sống ngoài vòng pháp luật vì không còn đường nào khác nữa. B. Quẻ Sơn/ Thủy = mệt ( gian truân ) a. Lời Quẻ: Truân (xóa chữ nguyên hanh lợi Trinh) vật dụng hữu du vãng, lợi kiếu hầu Chữ mệt dịch sang Hoa ngữ là Truân hay gian truân vất vả. Dịch học của Tàu viết là: vân lôi truân tức ngược với dịch học họ Hùng. Có là người Việt thuộc lòng truyện Sơn Tinh Thủy Tinh mới hiểu rõ 2 quẻ thủy sơn kiển và sơn thủy Truân tức vất vả-mệt mỏi .. Thủy Sơn kiển : Nước ở trên núi là hình ảnh nước dấy lên tràn núi lấp gò , đây không phải là nạn lụt thông thường mà là cơn đại hồng thủy. Còn Sơn Thủy là truân, (dịch học Tàu ngược lại), nước rút xuống đã thấp hơn núi, đây là lúc phải vất vả vô cùng để xây dựng lại cơ ngơi, nhà cửa ruộng vườn trâu bò và các phương tiện khác có còn gì đâu ? Thực là một cảnh hoang tàn. Trong hoàn cảnh này không thể phát động ngay những việc to lớn mà phải lo ngay vấn đề nhân sự để quản lý –điều hành việc chung . c. Lời tượng: Truân: quân tử dĩ quả hạnh Dục đức Gặp hoàn cảnh này người lãnh đạo phải hành động một cách quyết liệt- rắn rỏi và luôn bồi dưỡng đức độ để ngày càng cao trọng hơn. Hoàn cảnh gian truân vất vả đòi hỏi trên dưới một lòng, dưới đối với trên tâm phục khẩu phục làm việc quên mình, chính vì thế tượng từ nói phải “dục đức” để thu phục nhân tâm, có vậy việc vượt thác băng ngàn mới có thể thành công. c. Hào từ c.1 Hào sơ: Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu Buổi ban đầu chưa xác định được phương hướng phát triển, không vội vã hành động, lo củng cố đội ngũ cán bộ, sẵn sàng guồng máy thực thi. c.2 Hào nhị: Truân như, chiên như, thừa mã ban như, phỉ khấu hôn cấu. Nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự. Phát động cải cách vội vã duy ý chí, giữa đường buộc phải sửa sai, cần một thời gian dài xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật (tượng trưng là 10 năm ) Khi đã hội đủ điều kiện vật chất việc cải cách xã hội mới có thể thành công được (đặt tên). Đừng bế quan tỏa cảng, hãy mở rộng cửa giao lưu với nước ngoài đấy là sự kết hợp cần thiết và tự nhiên cho công cuộc phát triển (phỉ khấu hòn cấu), lúc nào cũng bo bo sợ người khác cướp nước, thật ra là sợ cướp ngôi là một sai lầm lớn, có tội với lịch sử. c.3 Hào Tam: Tức lộc vô ngu, duy nhập vô lâm trung, quân tử cơ bất như xả vãng lận… Lộc là con nai cũng là lợi lộc. Lao vào săn tìm lợi nhuận một cách điên cuồng, trưởng nhân lập tức tránh xa nếu không sẽ phải hối hận cả đời, vì hành vi thủ lợi bất chấp thủ đoạn rồi ra thế nào cũng sa lầy không lối thoát lúc đó sẽ mất tất cả , chẳng những vậy mà còn lưu tiếng xấu muôn đời. c.4 Hào Tứ: Thừa mã ban như, cầu hôn cấu vãng cát, vô bất lợi. Công cuộc phát triển đang tiến bước, rồi sẽ đến một khúc quanh có tính quyết định, phải mở cửa liên kết với thế giới, lùi lại dựa theo thực tế chấm dứt kiểu hành sử duy ý chí thì không gì là không lợi. Ví dụ có tính thời sự là các nước cùng vào WTO để tạo ra liên kết toàn cầu và mỗi nước Tìm kiếm cơ hội phát triển dựa trên ưu thế cạnh tranh cũng như bổ sung lẫn cho nhau những khiếm khuyết ở tầm mức quốc gia. c.5 Hào ngũ: Truân kỳ cao, tiểu trinh cát đại trinh hung Cải cách đã đến đỉnh điểm, lo giữ vững thành qủa mới đạt được về mặt xã hội là tốt nhưng cấp thiết phải đẩy mạnh chuyển biến về văn hóa, đạo đức nếu không cuộc cách mạng sẽ thất bại vì sự sa đọa tinh thần sẽ kéo lùi tất cả. c.6 Hào thượng: Thừa mã ban như khấp huyết liên như Tiến lên bằng sự duy ý chí bất chấp thực tế, cuối cùng đạt được chỉ là... bể khổ. Con người sung sướng tới độ không còn nước mắt mà khóc (khấp huyết liên như), duy ý chí kiểu Maoist dẫn con người đi đường tắt lên thiên đàng ..., nhưng trong sự tiến hóa xã hội làm gì có đường tắt ....nếu có thể bỏ qua giai đoạn này hay giai đoạn khác để ‘nhảy vọt’ thì làm gì còn định luật khoa học ? cuối cùng dĩ nhiên là ...chẳng tới đâu cả chỉ làm khổ nhau mà thôi .
-
Dịch học họ HÙNG . bài 20 B. Quẻ khôn ngoan a. Quái từ: Khôn: Nguyên, Hanh, Lợi, Tẫn mã Chi Trinh; quân tử hữu du vãng tiên mê hậu đắc chủ lợi , Tây Nam đắc bằng Đông Bắc Táng bằng, an trinh cát. Trong một “đơn vị” Dịch học thì Khôn luôn là phần dương (thấy) , Kiền là phần âm (không thấy) . Trong một gia đình thì Kiền là chồng, Khôn là vợ đến chuyện cực lớn là ý thức của con người thì Kiền là phần triết lý-ý chí Khôn là khoa học-lý trí , trong việc chính trị thì Kiền là lãnh đạo Khôn là điều hành hay quản lý, trong chế độ quân chủ xưa thì Kiền là hoàng đế, Khôn là tể tướng nội các….còn như chế độ hiện tại ở Việt Nam thì Kiền là bí thư Khôn là chủ tịch… Xác định như thế ta mới hiểu rõ quái từ hay lời quẻ dạy. Khôn là tri thức khoa học đích thực bao gồm các chuẩn mực: Nguyên là nhân bản, Hanh là hợp lẽ, Lợi là thiết thực, Tẫn Mã Chi Trinh nghĩa là thuận hành theo sự dẫn dắt của đạo đức, lương tâm thì lâu bền. Quân tử hữu du vãng, là bậc trưởng nhân đi tới nếu chỉ ỷ vào Tài không cần tới Đức sẽ lầm lạc tai hại (tiên mê), ngược lại nếu biết hành động theo lương tri, đi theo sự hướng dẫn của đạo đức ắt sẽ thành công (hậu đắc). Đạo Khôn hay khoa học là để giải quyết các nhu cầu vật chất thiết thực của đời sống con người nên lời quẻ nói: chủ lợi. Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc Táng Bằng, nghĩa là: Quẻ Khôn cùng một tính chất Tốn thuận như quẻ Cấn trấn góc Tây Nam trong Bát quái tự nhiên hay Bát quái Lạc đồ , ngược lại với tính chất quẻ Đoài trấn phía Đông Bắc đồng tính chất với Kiền . Bát Quái Thiên nhiên đồ. Quẻ Khôn nếu cứ ở yên với địa vị và thực hành đường hướng như trên sẽ được lâu bền nên gọi là: an – trinh và mọi chuyện như thế là tốt đẹp nên Dịch nói Cát. b. Lời tượng: địa thế Khôn, quân tử dĩ hậu đức tải vật. - Nghĩa thông thường là : bậc quân tử phải làm giàu đức độ nơi mình để có thể gánh vác trọng trách đối với xã hội . - Nghĩa nguyên thủy của dịch học : Tri thức khoa học là sự hiểu biết về thế giới vật chất, hậu đức nghĩa là trưởng nhân phải luôn nghiên cứu học hỏi tăng cường thêm tri thức, tức tăng cường nền tảng khoa học kỹ thuật để làm chủ trong quan hệ con người – tự nhiên. Câu ‘hậu Đức tải vật’ nghĩa đen là: làm vững mạnh thêm chân đế để đủ sức chở đỡ vật mang ở trên; ở đây ta “bắt” được sự tạo từ: đức=đất = đế không phải từ ‘đức’ mơ hồ trừu tượng trong Hoa ngữ .... từ Đất Việt Ngữ người Tàu ký âm thành Đức khiến câu ‘hậu đức tải vật’ trở nên lạc nghĩa . . Mặt đất chở đỡ loài người , là cái nền cho loài người sinh hoạt , không có nền đất đó thì không có đời sống nghĩa là mọi hoạt động kể cả hoạt động trí thức và nhân văn đều kết thúc hay không thể xảy ra được cũng như Không có tri thức thì không có sáng tạo như thế loài người không thể tiến tới ; mọi sự cứ dậm chân tại chỗ và con người mãi mãi ăn hang ở lỗ . Tóm lại ở quẻ Khôn thánh nhân dạy ta phải làm dày thêm cho cái nền tri thức Khoa học để trên cơ sở đó mà phát triển sản xuất làm ra của cải vật chất ngày một nhiều hơn . C. Hào từ hay lời hào c.1 Hào Sơ: Lý Sương kiên băng chí. Chân dẫm lên sương biết ngay băng đá sắp đến Liên kết các sự kiện trước sau là kết quả sự quan sát và đúc kết tức kinh nghiệm bao đời của loài người, bản chất sự liên hệ giữa 2 sự kiện trước sau đó chưa được xét đến và thực ra con người lúc này chưa đủ trình độ để xét nhưng sự ghi nhận cũng đã giúp ích rất nhiều ; biết trước cái sẽ đến và chuẩn bị sẵn để đối phó, như ngay khi dẵm lên sương là phải lo chuẩn bị đồ lạnh cho con người , nói chung có sự chuẩn bị cho sinh hoạt và công việc làm ăn sản xuất khi thời tiết thay đổi . Tương tự tục ngữ Việt: Thấy chuồn chuồn bay thì bão… 2 hiện tượng liên kết dính với nhau, thấy hiện tượng nào đó biết ắt cái sau sẽ đến vậy phải chuẩn bị, kinh nghiệm chưa phải là khoa học nhưng với hoạt động của não bộ thì nó là bước dạo đầu tập dợt cho sự “tiên đoán”, tức dựa vào những yếu tố đã có đã nắm được để biết về cái sẽ có, cái sẽ xảy ra. c.2 Hào nhị: Trực phương Đại bất tập vô bất lợi. Dịch nghĩa đen: thẳng thắn, vuông vắn to lớn, không cần tập luyện, không gì là không lợi. Nghĩa theo Dịch học: Người bắt đầu là người đúng nghĩa từ khi biết rút kinh nghiệm, liên kết 2 sự kiện trước sau, cho đến khi sự liên kết giữa các sự kiện được khẳng định bằng định luật và công thức thì kinh nghiệm tiến lên thành khoa học. Khoa học có các tính chất: Khách quan, cụ thể, bao trùm và có ứng dụng rộng rãi, Đó là sự mô tả rất hiện đại về bản chất nền khoa học tự nhiên, hay sự lý giải cho các hiện tượng thuộc giới tự nhiên; biết có gieo, có gặt nên muốn gặt được phải gieo… đấy chính là lẽ chủ động trong quy luật bất biến . c.3 Hào Tam: Hàm chương khả trinh hoặc tòng vương sự vô thành hữu chung Trưởng nhân phải trù hoạch sẵn chương trình hành động lâu dài để một khi tham chính, không thành công cũng thành nhân hoặc không hoàn tất mỹ mãn chung cuộc cũng có thành tựu nhất định. Ở Hào Tam này ta đã thấy Dịch nói đến một nền khoa học xã hội, một chương trình hoạch định lâu dài tất phải dựa trên cơ sở của lý luận về sự tiến hoá xã hội. Sự phát triển nói chung và phát triển của xã hội nói riêng bất tận, là không ngừng, cứ tuần tự hết lớp người này lại đến lớp người sau, mỗi lớp người đều để lại dấu ấn của mình trên con đường phát triển, vì vậy với Dịch học thì không bao giờ có chữ “thành” hay hoàn tất tức là việc đã xong. c.4 Hào Tứ: Quát nang vô cữu – vô dự Thắt miệng túi lại, không lỗi, không lời khen. Cái túi trong câu này là túi khôn trong văn hoá Việt Nam. Tiến hoá là quy luật tự nhiên nhưng từ khi con người nhận thức được nó, tổng kết thành các quy luật và công thức thì loài người đã bước vào thời khoa học tiến bộ. Ở hào nhị Dịch học đã nói đến khoa học về giới “tự nhiên”, hào tam nói về một chương trình dài hạn trong lãnh vực xã hội, nhân quần ,tới hào tứ Dịch học lại nói: Thắt miệng túi lại… nghĩa là sao? Thế giới bao la hầu như vô tận, tri thức về thế giới ấy cũng hầu như vô tận, nên sự hiểu biết của con người lúc nào cũng là vô cùng nhỏ bé so với những điều chưa biết, hào tứ cảnh giác con người coi chừng rơi vào chủ nghĩa duy khoa học… quên mất ý nghĩa nhân sinh. Lúc nào ta cũng không được quên điều cốt lõi: mọi thứ từ khoa học đến văn hóa, văn nghệ v.v… đều nhằm phục vụ nhân sinh. Hơn nữa khi khoa học đã trở thành một thế giới riêng, thế giới các tín hiệu và mối tương quan thì nó tương đối độc lập với thực tế… chính vì vậy khi giải một bài toán ta có thể có kết quả đúng hoặc sai, hậu quả của kết quả sai có khi là lớn lao khôn lường, trả giá cả đến đời sau vẫn chưa xong. Sợ hậu quả của việc biết một mà không biết hai nên thánh nhân bảo ta” thắt miệng túi lại” được như thế thì không lỗi lầm, ta cũng chẳng cần gì tiếng khen như kẻ khoác lác tức vô dự. Khoác lác một tấc lên tới trời là chuyện bậc trưởng nhân nên tuyệt đối tránh, thời gian qua đi sự thật và cái đúng sẽ được phơi bày lúc đó mọi vinh quang của kẻ khoác lác “sẽ rụng rơi như lá mùa thu” và thay vào đó sẽ là sự xỉ nhục muôn đời. c.5 Hào Ngũ: Hoàng thường nguyên cát, nghĩa thông thường: quần màu vàng, cực tốt. Trong Dịch học hào ngũ này lời từ là: trung chính ở phận dưới thì vô cùng tốt đẹp. Thường là cái quần dịch học dùng chỉ hạ thể … nhưng với Dịch học họ Hùng thì thường cũng chính là quẻ Khôn vì trong ngôn ngữ dân gian Việt từ kép “thường - xuyên” …, Xuyên chỉ là tên khác của quẻ Khôn); quẻ Khôn nếu đi trước có thể mắc sai lầm (tiên mê), còn đi sau (hậu đắc) thì luôn có kết quả tốt. Đi sau ai? Đi sau ở đây là theo sự dẫn giắt của quẻ Kiền, ý nghĩa thời đại là: khoa học phải được dẫn dắt bởi minh triết… nếu không thì cả nhân loại có ngày “tan xác”. Hoàng là màu vàng tượng của sự trung chính; trung không phải là ba phải ở giữa mà chữ trung đặc biệt trong tiếng Việt là “trúng” hay “đúng”. Không thiên lệch sang phải hoặc trái, không chậm, không nhanh, không thái quá không bất cập… “đúng” ngay boong thì gọi là “trung”. Quẻ Khôn nếu đắc ‘Hoàng thường’ nôm na là đúng phận bề tôi thì được ‘nguyên cát’ cực kỳ tốt đẹp, trong việc cai quản Quốc gia hiện nay có sự phân biệt giữa: lãnh đạo và quản lý tương ứng với 2 nhiệm vụ của nguyên thủ và chính phủ, thế giới càng ngày càng có khuynh hướng lập ra chính phủ chuyên viên hay nội các chuyên gia để điều hành quản lý đất nước… tức là bắt đầu thực hiện điều mà Dịch học đã dạy từ 3.000 năm trước… c.6 Hào thượng: Long chiếm vu đã kỳ huyết huyền hoàng Ở Hào này, chữ khôn hiểu theo nghĩa Việt là trí khôn, tục ngữ Việt có câu: khôn quá hoá rồ chính là lột nghĩa hào từ này. Hào thượng chỉ sự tột cùng tức không còn phải theo ai nữa mà tự mình tiến đi, quái từ đã nói: khôn tiên mê hậu đắc. Vì mê nên bom đạn tơi bời, ngày nay chiến tranh đã đi vào vũ trụ với “chiến tranh các vì sao” đúng là long chiến vu dã, kết quả cả vua máu vàng và dân tiếng Việt dùng từ kép là dân đen hay máu đen đều tiêu vong. Hào thượng – Quẻ Khôn là chỉ sự tột cùng của khoa học trở thành duy khoa học đâu cần gì đến đạo đức nữa, cỗ xe không người cầm lái mà cứ tăng hết công suất máy lao về phía trước.. thì sớm muộn gì cũng chết chắc , không đâm vào vách núi thì cũng lao xuống vực sâu… c. 7 Dụng lục: lợi vĩnh trinh Khoa học đem lại lợi ích cho con người và sẽ vĩnh viễn được hưởng nếu chính đáng. Chữ Trinh ta phải liên kết nghĩa với quái từ: lợi tẫn mã chi trinh tức thuần phục tuyệt đối với Kiền, bậc tài trí luôn đi theo tùng phục bậc thánh đức thì sự nghiệp mới bền lâu , Kiền và Khôn trong 64 quẻ trùng cũng chính là tài và đức. Chữ Trinh ở đây nghĩa là bền chặt mãi mãi không thay đổi, khoa học phải luôn theo sự dẫn dắt của minh triết, tham vọng cộng với sự gian ác được sự ủng hộ của khoa học thì chắc chắn sẽ có ngày tận thế.
-
Dịch học họ HÙNG . bài 15 G. 9 chỗ hay cửu trù Tổng thể lớn nhất mà ý thức con người nhận ra được là tổng thể thiên nhiên xã hội và con người. Trong đó chữ người tồn tại với tư cách là cộng đồng người. Trên bình diện siêu vĩ mô đó thì con người trường tồn, ngang với trời đất. 2 vòng tương sinh và tương khắc ta đã nói đến là hoạt động thường xuyên của cái tổng thể trên, cứ hết 5 bước này đến 5 bước khác, 2 vòng đồng tác động thông qua một trung tâm chính là: con người cụ thể đang sống hay nói khác là một cá nhân, là cái: chính ta, tại đây, lúc này. Không có thành phần trung tâm này thì mọi bước tiến hóa đều không có . ý nghĩa lớn nhất của 9 chỗ hay cửu trù là sự vận động liên tục của một cộng đồng người, thông qua nhân 8 mặt cùng phác tác; thực chất cửu trù là sự hợp nhất 2 ngũ hành, 2 ngũ hành hợp lại thành 9 chỗ vì có chung 1 nhân hay trung tâm. Tiên thiên bát quái nếu ta thêm vào giữa một nhân thì được cửu trù, với 2 vòng vận động một tương sinh và một tương khắc cùng diễn ra. Cửu trù là hình ảnh một cộng đồng người đang tiến hóa, trung tâm của chuyển động đó chính là con người đang sống cụ thể (chính ta, tại đây, lúc này). nó là sự tổng hợp 2 dòng sinh và khắc , cả 2 ngũ hành song song vận động tạo ra sự tiến hóa xã hội . 1 - Dòng tương khắc Bản ngữ → vô cầu → vô vọng → vô chấp →vô biên → vô ngã. Người viết rất phân vân, chữ Hành ở đây rất có thể cũng nghĩa là “bước” ngũ hành tức 5 bước Ngũ hành tương sinh là : 5 bước vòng thuận. Ngũ hành tương khắc là: 5 bước vòng nghịch. Với ý này khi ta nói: Thủy sinh Mộc hay Thủy khắc Hỏa thì phải hiểu: Sự thay đổi ở Hành Thủy tất yếu đưa đến sự thay đổi ở Hành Mộc, ý nghĩa triết học là: đời sống vật chất thay đổi tất yếu dẫn đến thay đổi trong tương quan người – người. Chữ tất yếu là từ đồng nghĩa với tương sinh của Dịch lý. Còn Thủy khắc Hỏa ta hiểu rằng trong chuỗi phản ứng ở vòng khắc thì Thủy đi trước rồi đến Hỏa hay muốn thay đổi Hỏa buộc phải thay đổi Thủy trước; chữ buộc phải này tương đương chữ tương khắc của Dịch học. 2 . Dòng tương sinh Ở phần trước đã trình bày về dây chuyền phản ứng tương sinh: Cam →Thổ → Thủy →Mộc →Hỏa →Cam Đồ hình biểu diễn Hành Cam là nhân, con người nơi xuất phát và quy về của quá trình vận động, mỗi lần trở về là một con người mới văn minh hơn . các bước vận động cụ thể xảy ra ở 4 hành Thạch- Thủy- Mộc- Hỏa Trong Bát quái tiên thiên là: Đoài, Chấn, Cấn, Tốn Ý nghĩa trong sự tiến hóa xã hội là 4 mặt: Đoài = Tri thức Chấn = công cụ máy móc (sức mạnh) Cấn = chế độ kinh tế Tốn = chế độ chính trị Vậy 5 bước tương sinh được hiểu là: Con người đầu tiên phải quan sát nghiên cứu để khám phá các quy luật chi phối sự vận động của giới tự nhiên (tri thức); tri thức khoa học tiến bộ sẽ dẫn đến sự cải tiến công cụ, sức mạnh máy móc dưới quyền con người ngày càng lớn; sự thay đổi trong lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay đổi trong tổ chức sản xuất và thay đổi toàn bộ nền kinh tế; chế độ kinh tế thay đổi là tiên đề cho sự thay đổi chế độ chính trị , và sau cùng kết thúc quá trình 5 bước là thay đổi hẳn con người và xã hội loài người .. 4. Lạc đồ và sự vận dụng . Ngày xưa Cửu trù còn được vận dụng để phân chia không gian sinh tồn như : -Cửu châu : Kinh , Dương, U, Thanh , Lương , Ký, Dự , Duyện , Từ . -Cửu Thiên : Chữ thiên ở đây ta hiểu theo nghĩa Việt là ‘phương trời’. Khi xoay Lạc đồ số 1 nấc theo chiều kim đồng hồ ta có : Đối chiếu với Cửu thiên : Ta thấy giữa 2 đồ hình có sự tương thông ý nghĩa : Số 1 : tiếng Việt còn gọi là Giêng (tháng giêng) biến âm thành Dương trong Dương thiên . Số 2 : hai →hè→hạ→hỏa , chỉ sự nóng bức-viêm nhiệt , trong 9 thiên là Viêm thiên . Số 3 : ba→bu tiếng Việt là Mẹ đồng nghĩa với U trong U thiên . Số 4 : bốn →bóng hay sáng bóng đồng nghĩa với Hạo cũng là Hạo thiên . Số 5 : năm→lang nghĩa là thủ lãnh đồng nghĩa với quân trong Quân thiên . Số 6 : số 6 chữ Nho đọc là lục , âm lục cũng là đất và màu xanh , màu xanh của ngũ sắc trấn phương đông cũng là phương của Thanh niên , trong cửu thiên là Thanh thiên. Số 7 : bẩy →bể= biển , Hán ngữ ký âm sai thành Biến trong Biến thiên . Số 8 : tám → xám-xẫm hay đen đồng nghĩa với huyền trong Huyền thiên . Số: chín là số lớn nhất trong số đếm tượng trưng cho Kiền hay Cha ,hán văn ký âm sai thành Chu trong Chu thiên . Với ý nghĩa mang trong bản thân Cửu thiên phải đặt theo đúng phương hướng : Với Khám phá : chính bộ số đếm của người Việt đem áp vào Lạc đồ đã tạo ra cửu thiên đủ để khẳng định 2 điều quan trọng : - cả Lạc đồ và Cửu thiên đều là sáng tạo của người họ HÙNG tức tiền nhân người Việt hiện nay . - Chiều Bắc-Nam xưa dựa trên dịch học đã bị đảo ngược khiến những thông tin của Địa lý lịch sử trong sách cổ Trung hoa không còn chính xác vì vậy Lịch sử Trung hoa cũng buộc phải viết lại .
-
Dịch học họ HÙNG . bài 18 PHẦN II 64 QUẺ TRÙNG Ở đây vẫn gọi là quẻ trùng vì đã quen như thế đúng tiếng Việt phải gọi là “Quả chồng” vì 64 quả được tạo thành bằng cách chồng đôi 8 quả đơn hay 8 nguyên tố đơn. 2 quẻ 3 vạch chồng lên nhau tạo thành quẻ 6 vạch kết quả hình thành tổng số 64 quẻ chồng hay 64 nguyên tố kép của Dịch học. Tới tận ngày nay các nhà Dịch học còn chưa xác quyết được bản thân quẻ trùng đã là quẻ 6 vạch từ đầu hay là chồng 2 quẻ đơn mà thành. Theo Dịch học họ Hùng thì 8 quẻ đơn là 8 tượng tin nền, thông tin nó mang là thông tin khởi đầu. Sự chồng 2 quẻ thực ra là sự “ghép từ” tạo chữ mới mà nghĩa của nó tạo thành từ sự liên kết nghĩa của 2 tượng tin nền; chỉ cần đảo vị trí trên dưới khi xếp 2 quẻ đơn là nghĩa quẻ trùng hoàn toàn khác. Ở phần Dịch học tổng quát nếu so sánh Dịch học họ Hùng và Dịch học của người Tàu hiện nay thấy đã có các khác biệt cơ bản. - Phương hướng Bắc Nam đảo ngược. - Ý nghĩa âm dương đảo ngược - Vạch đứt vạch liền đảo ngược - Ngũ hành đảo 2 hành Kim và Thổ - Các đồ hình Bát Quái hoàn toàn khác. tới phần 64 quẻ trùng thì khác biệt giữa 2 nền Dịch học trở nên xa lắm: 1 - khác hẳn nhiều tên quẻ. 2 - nhiều tên quẻ đồng âm hay cận âm, nhưng nghĩa hoàn toàn khác 3 - đại lượng tức sự mô tả quẻ bị xáo trộn rất nhiều. Khi soạn Dịch lý họ Hùng người soạn đã cố ý né tránh sự so sánh và kết luận đúng sai vì công việc tìm hiểu Dịch học còn mênh mông lắm sớm sa vào những tranh cãi là vô ích, ngày rộng tháng dài từ từ mọi việc sẽ rõ ràng, nhưng tới đoạn này phải nêu ra vài sự khác biệt cơ bản để người đọc dễ chấp nhận các ý tưởng mới mẻ, mạnh bạo, quyết liệt mà không cảm thấy choáng váng, vì những đảo lộn. 64 quẻ trùng được thiết lập dựa trên các nguyên tắc chặt chẽ: - Luật – Tầng sâu và độ số - Luật thay đổi: một tăng một giảm tạo thành sự tuần tự biến đổi độ số âm dương từ cực này tới cực kia. - Tổng số 64 quẻ. Từ quẻ thuần Kiền 63 __, 00 _ _ Tới thuần Khôn 00 __ , 63 _ _ Ta có 64 quẻ hữu danh và một quẻ ẩn mà độ số âm dương cân bằng: 31,5 __ 31,5 _ _ 64 Nguyên tố Dịch lý theo thứ tự Chu Dịch và Dịch họ Hùng. 64 quẻ là 64 nguyên tố kép dịch học Chu Dịch và Dịch học họ Hùng sắp xếp các quẻ theo nguyên tắc khác: 64 nguyên tố được tổ hợp thành 32 cặp quẻ 28 cặp quẻ đảo: tức quẻ này lật ngược thì thành quẻ kia. 4 cặp quẻ đối: với những cặp không có quẻ đảo thì dùng cách đối nghịch âm dương để tạo thành. Việc hình thành 32 cặp quẻ mang ý nghĩa chính của Dịch học họ Hùng. Về mặt lý luận mỗi cặp quẻ : - là sự sinh đôi: nghĩa là luôn có 2 sự việc cùng xảy ra một lúc Thí dụ: ký tế – vị tế Việc đã xong – việc chưa xong – chu kỳ hay vòng tuần hoàn này kết thúc tức là khởi đầu vòng khác -Hoặc là sự sinh thành Thí dụ cặp truân – Mông Mờ tối thì gian nan vất vả, ý nói trình độ dân trí thấp thì việc tổ chức và thực hiện kế hoạch phát triển rất khó khăn mệt mỏi. -Hoặc là một cặp nhân quả Thí dụ: cặp tụ + thăng, tựu – thành Tụ là tụ tập, ý của Dịch học rất rõ: tích tiểu dĩ cao đại, tích dần đến nhỏ để thành cái lớn, vinh quang danh vọng đến không phải tự nhiên đến, mà do sự đều đặn tích đức, làm điều nhân nghĩa có thể từ đời ông đời cha không phải chỉ đời mình mà thôi. 32 cặp quẻ chính là 32 vấn đề và giải pháp trong sự vận hành, phát triển xã hội Phát triển là điều tất yếu của xã hội loài người cứ lần mò, vấp ngã gánh chịu tổn thất, rồi lại đứng dậy sữa sai tìm phương hướng và đi , ngay bây giờ dù đã là thế kỷ 21 rồi nhưng về mặt quy luật phát triển xã hội vẫn là sự lần mò mù lòa; từ cổ chí kim duy nhất có một dân tộc bước đi trong ánh sáng đó là dân họ Hùng , ánh đuốc soi đường chính là Dịch lý. Đại nạn đã đến với dân tộc này vào khoảng đầu công nguyên, Trọng Thủy tên “sở khanh” đã gạt vợ là Mỵ Châu để tráo nỏ thần đem về phương Nam (Bắc ngày nay). Linh Qui thần trảo hay nỏ thần Rùa Vàng chỉ là hóa thân của “Quy Tàng Dịch” mà thôi, đó là lời nhắn gửi cho con cháu của tiền nhân họ Hùng, mơ hồ nhưng vô cùng rõ rệt, rời rạc nhưng vô cùng chắc chắn và đặc biệt chỉ con cháu họ Hùng mới hiểu biết điều linh thiêng ấy, để cùng nhau lấy nước mà rửa cho ngọc châu ngày càng sáng, rửa tức bóc gỡ lớp bụi bặm đất cát bẩn thỉu tà ma bói toán đang vây bọc Dịch lý, viên ngọc ngày càng sáng ra tức ý nghĩa khoa học cao minh, ý nghĩa triết học cao siêu hàm chứa trong Dịch học được phát lộ trở thành Kim chỉ nam cho con cháu nhà Hùng trên hành trình đến hạnh phúc. Dịch lý thực bao la, đầu óc ta quá nhỏ bé nên không dám nghĩ đến sự quán thông chỉ xin góp với đời tất cả những gì mình nhận thấy hoặc cảm thấy mà thôi.
-
Dịch học họ HÙNG . bài 17 K . Dịch học và tiến hóa xã hội tt 3.4 Kinh tế thị trường điều tiết Ở thời kinh tế thị trường tự do việc sản xuất và tiêu dùng không gắn kết chặt chẽ với nhau mà qua trung gian phân phối. Khi có sai lầm trong một khâu trung gian lập tức khủng hoảng xảy ra, đơn đặt hàng sản xuất bao giờ cũng phải đi trước, lúc đó chưa có lệnh mua của người tiêu dùng nên số lượng hàng hóa đặt làm là con số hoàn toàn chủ quan dựa trên ước tính, cho đến khi nhận ra lệnh đặt mua quá ít so với lượng hàng đặt làm thì mọi việc đã muộn. Việc phải giết hàng loạt bò để giữ giá trên thị trường là một sự phí phạm tài nguyên ghê gớm là một điển hình rõ rệt cho khủng hoảng thừa. Thứ nữa thời thị trường tự do thì năng suất là đạo đức nên nhiều khi nhân cách bị xem nhẹ . Con người mù quáng sản xuất ra những thứ giết hại chính mình như ruợi và thuốc lá chẳng hạn, ai cũng biết thế nhưng vì lợi nhuận mà guồng máy cứ quay không làm sao ngừng lại được. Việc phân bổ tài nguyên cho lãnh vực nào, sản xuất hàng tiêu dùng, hay máy móc thiết bị, bao nhiêu cho giáo dục, cho nghiên cứu nói chung ai quyết định việc này? Không thể ai ngoài nhà cầm quyền, nhưng ở giai đoạn này nhà cầm quyền vẫn phải tôn trọng quy luật kinh tế chỉ tác động đến “chiều hướng” bằng thuế khóa, bằng lãi suất hay bằng các đơn đặt hàng của chính phủ. Càng ngày ngân sách càng trở thành nhân tố quan trọng đối với kinh tế quốc gia , tài chính công trở thành bánh lái của con tàu kinh tế, nó cho thấy trước tình huống kinh tế sẽ trải qua phồn vinh hay ảm đạm vào thời gian sau đó. Tất cả sự can thiệp bằng biện pháp hành chính nhằm điều chỉnh nền kinh tế gọi chung là sự “điều tiết” kinh tế. 3.5 Kinh tế kế hoạch Ở thời kinh tế thị trường, bên trong các hộp đen là các quy luật kinh tế nhà cầm quyền chỉ tác động ở đầu ra và đầu vào, sang thời kinh tế kế hoạch thì ý muốn chủ quan của con người thâm nhập vào bên trong các hộp đen. Với các mặt hàng gọi là “nhu yếu phẩm” được sản xuất theo kế hoạch, ở đâu, bao nhiêu là một mệnh lệnh chủ quan nhưng lại được tính toán một cách khoa học. Tài nguyên huy động vào lãnh vực nào bao nhiêu, cân đối cho tiêu dùng trước mắt và phát triển lâu dài được tính toán lên kế hoạch cụ thể. Kinh tế kế hoạch là giai đoạn tất yếu phải trải qua khi có đủ các điều kiện : - Sản xuất tự động hóa cao độ - Kinh tế quốc doanh chiếm tỉ lệ áp đảo trong nền kinh tế - Trình độ dân trí rất cao. Khi các công cụ sản xuất đã tự động hóa và nối mạng trên toàn lãnh thổ thì bản thân quy luật thị trường trở nên thừa, công năng điều hòa sản xuất- tiêu dùng không phát huy được mà thay vào đó là các mệnh lệnh phát ra từ bộ não của xã hội tức nhà cầm quyền. Nói như trên là ta đã khẳng định điều kiện của nền kinh tế kế hoạch là một cơ sở vật chất hoàn chỉnh, nền sản xuất tự động hóa cao, một chính phủ điện tử và một xã hội được số hóa. Mạng thông tin nối liền từ viện nghiên cứu đến nhà máy đến tận các điểm bán lẻ nơi xa xôi nhất nghĩa là một nền kinh tế số hóa được điều hành bởi các máy tính siêu tốc nối mạng với nhau. Có như thế thì tính kế hoạch trong kinh tế mới khả thi. Đã gọi là quy luật thì không thể đốt giai đoạn hay tùy tiện thay đổi đi, nếu đã có thể chủ quan thay đổi thì còn gì là quy luật? 3.6 Kinh tế phi kinh tế Từ kinh tế chỉ có nghĩa khi cầu lớn hơn cung còn khi đạt được mức: cung lớn hơn cầu thì đấy chính là giai đoạn chủ nghĩa cộng sản gọi là cần gì có nấy hay làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Lực lượng sản xuất của xã hội lúc này là các nhà máy hoàn toàn tự động và một lực lượng đông đảo các Robot cơ giới tự hành. Con người vẫn làm việc nhưng trong tinh thần đam mê nghiên cứu, sáng tạo chứ không phải là lao nhọc kiếm sống. Lúc đó quĩ thời gian của mỗi người chủ yếu được tiêu dùng trong các việc: - Chăm sóc lẫn nhau để thể hiện tình người - Tìm kiếm cái mới như đi du lịch và nghiên cứu khoa học. - Sáng tạo và sáng tác nghệ thuật văn chương và chế tạo các vật thể mới. - Thưởng thức: món ăn vật chất trở nên nhỏ bé vì tính hữu hạn của nó, thay vào là các món ăn tinh thần như văn hóa, nghệ thuật v..v.. - Thi đấu thể thao và hội diễn văn nghệ Người ta chỉ còn mỗi một mối lo là cái chết, dù khoa học phát triển nâng tuổi thọ lên mãi nhưng cuối cùng rồi cũng phải chết. 4/ Quẻ Tốn – chế độ chính trị Dịch viết : Tề hồ Tốn là ý muốn nói quẻ Tốn chỉ mối tương quan người và người về mặt quyền lực , hay rõ hơn : Tốn là quản trị. ,Quản trị cả cộng đồng quốc gia tức là “chính trị” Trong cơ chế của một nền chính trị, thì cốt lõi là việc tuyển chọn người lãnh đạo, dựa trên cách thức để đạt đến quyền hành ta có 6 chế độ chính trị “lục vị thời thành” như sau: 4.1 Chế độ giáo chủ hoặc đại tộc trưởng Thời thị tộc mô thức chung là chế độ tộc trưởng, người lãnh đạo cộng đồng thường là bậc cao niên trưởng thượng của thị tộc lớn nhất trong liên minh , khi cộng đồng được mở rộng vượt qua chế độ thị tộc để bắt đầu lập quốc thì nhân loại rẽ theo 2 đường: a. Chế độ giáo chủ : khi mối liên hệ thân tộc không còn đủ mạnh để làm thành trật tự xã hội thì thần quyền nổi dậy, đa phần nhân loại thời tri thức khoa học chưa phát triển đã tự khuất mình dưới một quyền lực siêu hình, tức thế lực giấu mặt nhưng chi phối tất cả, từ bệnh tật cho tới mùa màng và có những người liên hệ được hay được chọn làm đại diện cho các quyền lực siêu hình để cai trị cộng đồng, tức họ cai trị với tư cách đại diện cho thượng đế. Ở phương Tây đó là vào thời Trung cổ khi nhà thờ kiêm luôn việc quản trị xã hội, ngay cuối thế kỷ 20 vẫn có những quốc gia do các giáo sĩ Hồi giáo nắm thực quyền cai trị như Taliban của Afganistan và chế độ “lãnh dạo tối cao” ở Iran hiện nay. Khi các giáo chủ mà nắm quyền thì thực là khủng khiếp, lòng nhân từ của thượng đế được biểu hiện bằng roi da và máy chém thực là kinh hoàng khi nhắc đến các toà án dị giáo của đạo Thiên chúa ở phương Tây thời Trung cổ. b. Chế độ đại tộc trưởng Nhiều dân tộc ngay từ khi lập quốc nhờ nhận thức đúng đắn về cuộc sống mà vũ trụ đã không phải trải qua thời giáo chủ kinh hoàng như phương Tây, thay vào đó là chế độ đại tộc trưởng, đó là Hoàng đế, Nghiêu Thuấn của Trung Hoa hay các vua Hùng của sử Việt Nam. Tính nhân văn nổi cộm ở những gì cực kỳ bình dị như … Vua và dân cùng cày ruộng mà ăn, quân vương và thần dân cùng tắm chung dòng suối v.v.. các vì vua khai quốc thường là những trang tuấn kiệt, những anh hùng dẫn giắt cộng đồng vượt thiên tai dịch họa. Hình ảnh sơ nguyên của chế độ đại tộc trưởng chính là các già làng hay cụ tiên chỉ của cộng đồng bản làng ở Việt Nam. Chế độ đại tộc trưởng xét về tính nhân văn thì cao hơn chế độ giáo chủ hẳn một cái đầu. 3.2 Chế độ quân chủ Bản chất chế độ là cưỡng chế bằng bạo lực, vị vua khai sáng chế độ bao giờ cũng là một tướng lãnh hay một thủ lĩnh quân sự, sau khi chiếm quyền ông ta tự quyền thiết lập thể chế , tự định ra quy tắc kế chuyển quyền hành khi mình qua đời, thường là truyền cho con, chế độ quân chủ ra đời đã vài ngàn năm; tới nay hầu như không còn chế độ quân chủ nguyên mẫu nhưng các biến tướng thì vẫn còn. Chế độ quân chủ coi như là một tiến bộ khi nó thay thế chế độ giáo chủ. Và 2 thế lực này đã có thời song hành cùng tồn tại, cùng đấu tranh trong một thời gian khá dài trước khi có sự thay đổi dứt khoát. Gọi là tiến bộ vì trong chế độ quân chủ lý lẽ đã thay thế đức tin, có nghĩa là trình độ hiểu biết của con người đã được nâng cao đến độ không thể bịp bợm bằng các vỏ siêu hình con thần cháu thánh được nữa. Ở nấc thang này Tuy là một xã hội vẫn bị quản trị bằng cường lực nhưng cái gốc hay chuẩn mốc để các thành viên xã hội căn cứ vào mà bình phẩm hành vi công hay tội là lý lẽ chứ không phải giáo lý nữa, người ta có tội khi vi phạm luật lệ của vua chứ không phải tín điều chúa dạy . Do thoát khỏi sự cưỡng chế ràng buộc bởi các tín điều nên cuộc sống các thành viên xã hội dễ thở hơn nhiều. Cùng tên là chế độ quân chủ nhưng có nhiều hình thức mà thực chất bên trong khác xa nhau; như Trung Hoa từ đầu công nguyên đã hình thành chế độ quân chủ sĩ trị ; giúp việc vua chăm lo cho dân ngoài quí tộc ra còn có kẻ sĩ hay những người có học đã đỗ đạt và làm quan . Nho giáo và nho sĩ đã làm cho nền quân chủ phương Đông khác phương Tây về chất dù cùng được gọi là chế độ quân chủ. 3.3 Chế độ tư bản trị hay dân chủ hình thức . Chế độ tư bản ra đời cùng với cuộc cách mạng cơ khí – điện lực. Chế độ quân chủ là hình thái cai trị đồng hành với lực lượng sản xuất chủ yếu là nộng nghiệp và thủ công nghiệp. Công dân làm việc và đóng thuế cho vua chúa- quí tộc; thường ruộng đất nằm trong tay quí tộc, nông dân thực ra là nông nô, quí tộc với tư cách chúa đất là thành phần cầm giữ cái bao tử của xã hội, do đó dân đen không thể thoát khỏi sự kềm chệ́ để vùng lên vì không muốn chết đói. Sang thời điện khí hóa thì thành phần nắm túi tiền của xã hội là giới tư sản; ở đời luật chung là kẻ nắm tiền bao giờ cũng nắm quyền …không có điều khỏan luật nào nói như thế nhưng ..đa .kim ngân phá luật lệ...., Có cả một thời gian dài chuyển tiếp từ chế độ quân chủ sang tư bản trị , 2 thế lực đấu tranh gay gắt làm tiêu phí của nhân loại cả một quĩ thời gian không phải ít. Cuối cùng việc đến cũng phải đến về thực chất chế độ quân chủ sau hàng ngàn năm ngự trị đã sụp đổ, nhường chỗ cho tư sản thống trị với vỏ bọc là chế độ dân chủ tư sản. Thực chất ta thấy dân chủ không thể đi đôi với tư sản, vì kẻ có tiền luôn là kẻ thống trị, chúng ta chỉ có thể thiết lập chế độ cộng hòa mà thôi, trong chế độ mới tiến bộ con người đạt được là: - Sự Định kỳ thay đổi chóp bu guồng máy cầm quyền . - Hình thành tinh thần Thượng tôn pháp luật Thời vua chúa thì bản thân ông ta là pháp luật... nên các thành viên xã hội đối với ông ta thực chất chỉ là ‘con cháu trong nhà’ hoặc nô lệ, vua chúa tùy tiện phán xử bắt ai chết thì người đó phải chết … Qua thời cộng hòa thì có tam lập phân quyền; cơ sở để đối xử giữa các thành viên xã hội là luật pháp; quyền tư pháp là quyền tối hậu độc lập không bị ai chi phối (nguyên tắc)… dù tam quyền phân lập chưa đạt được mức thực chất tuyệt đối nhưng nó cũng là một điểm mốc đánh dấu bước văn minh của loài người. Mặc dù tư sản vẫn khống chế xã hội nhưng không còn là sự khống chế tuyệt đối nữa do sự đấu tranh của chính các thế lực tư sản với nhau hòa quyện vào với xu hướng của những thế lực mới như báo chí v.v… Dư luận xã hội đã trở thành một thế lực không thể không tính đến trên bàn cờ chính trị. Việc phổ thông đầu phiếu tuy chưa có thực chất dân chủ nhưng nó đã manh nha tính cách đặc thù “người” ấy và không ít thì nhiều cũng giúp vào việc định kỳ thay đổi nhà cầm quyền; chính việc định kỳ thay đổi đã ngăn chặn sự phóng tay lạm quyền quá mức của kẻ thống trị… vì không như chế độ quân chủ, ai là vua thì làm vua cho tới chết rồi thường được tiếp nối bởi con cái nên kẻ dã tâm đâu có kiêng ngại điều gì mà không dám làm… còn trong chế độ cộng hòa, quyền hành chỉ là quyền hành có thời hạn… vậy khi hết quyền thì ra sao? Chính vì lý do này mà không khí trong chế độ dân chủ tư sản dễ thở hơn nhiều so với hình thái chế độ trước nó. Ở phần trên ta đã nói, chế độ quân chủ xây dựng dựa trên cường lực còn ở đây chế độ dân chủ tư sản giai đoạn ấu trĩ dựa trên sự lôi kéo mua chuộc là chính . Mua chuộc không phải là sự mua chuộc công khai lộ liễu mà phần lớn là mua chuộc công luận , thông qua các cơ quan truyền thông báo chí con người bị dẫn dụ bởi các thông tin và hình ảnh đã bị bóp méo để có định kiến sai lầm về giới này việc khác ; thực tế ngày nay việc này luôn xảy ra và có không ít những chính khách lưu manh đã dùng đồng tiền để trở thành cha mẹ thiên hạ. Khi mặt bằng dân trí được nâng cao đến một mức nào đó thì vầng hào quang thần thánh không còn làm chóa mắt được con người nữa, cường lực cũng không đủ sức khống chế cả xã hội thì chế độ quân chủ phải cáo chung như một tất yếu của lịch sử, nhưng nấc thang mới mà con người đạt tới cũng chưa phải là lý tưởng, sự nói dối trắng trợn thì chẳng ai tin nhưng sự dối trá khôn khéo và lắt léo thì không dễ gì nhận biết. Khi thông tin chưa phát triển tới mức ai cũng có thể biết tất cả, nắm tất cả thì còn chỗ cho kẻ lưu manh dối trá lừa gạt, với các phương tiện truyền thông của thời đại thì con người rất dễ bị xỏ mũi dẫn đi ..., dĩ nhiên xã hội thời này cũng có không it́ người trí thức sáng suốt không thể bị lừa bịp , nhiều bậc quân tử không thể mua chuộc nhưng vì là xã hội số hoá ...ai cũng là con số 1 nên phần tinh hoa bao giờ cũng là số ít đồng nghĩa với ...thua cuộc ...đành mặc cho vận nước cuốn theo số đông ... 4.4 Chế độ Đảng trị Từ nguyên thủy đi lên, con người đã trải qua nhiều hình thức tổ chức xã hội, trong đó mô hình quốc gia tương đối bền vững, quốc gia lâu đời nhất có lẽ là Trung Hoa đã hình thành 5, 6 ngàn năm nay, Quốc gia ra đời cùng với chế độ quân chủ là cặp song sinh thống trị nhân loại mãi cho tới thời cận đại; chỉ khi hậu quả về mặt xã hội của cuộc cách mạng cơ khí xảy ra nó mới bị thách thức , chế độ dân chủ tư sản ra đời nhưng như ta đã phân tích chế độ này vẫn còn đầy khiếm khuyết, không thỏa đáng cho con người ngày một có trình độ hiểu biết cao hơn, ý thức nhân chủ khởi phát từ thời cách mạng nông nghiệp cũng mỗi ngày mỗi thôi thúc con người nhiều hơn về một xã hội lý tưởng tuyệt đối tốt đẹp văn minh… Nhưng làm sao thực hiện ? cả trăm ngã đường biết chọn đường nào để có thể đến đích? Thế là những người cùng đường, cùng chí hướng tập hợp nhau lại thành các thực thể chính trị gọi là “Đảng” “liân minh” .v.v., đại bộ phận các Đảng phái đều giới hạn tầm hoạt động là quốc gia, Khát khao vươn tới sự chí thiện, chí chân, chí mỹ là tính rất “người”…, thể hiện nguyện vọng đó các đảng đều có chánh cương hết sức cao đẹp, đôi khi hình thành hẳn một hệ tư tưởng hết sức thâm sâu, viễn kiến gọi là lý luận cách mạng. Tới đây có thể phân đảng thành 2 loại: Đảng chính trị và đảng cách mạng . Về hình thức thì cùng chữ đảng nhưng nội dung 2 chữ đảng này khác nhau về bản chất . .... Không thể bàn thêm về bản chất các đảng vì sự nhạy cảm của vấn đề .... - Sau thời “duy lợi” của chế độ tư bản trị con người dao động sang phía đối cực; chủ nghĩa duy lý, quy trình xử lý thông tin đúng đắn bao giờ cũng bắt đầu bằng việc thu nhận thông tin phản ánh thực tế. Sau đó mới xử lý chắt lọc tổng kết thành các quy luật và công thức ; các quy luật này còn phải kiểm chứng nghiêm ngặt thông qua thực tế, còn với duy lý thì tất cả được nhào nặn bên trong não bộ… nếu “không khớp” với đời thường thì “gọt chân cho vừa giày…” việc xử lý thông tin khách quan biến thành sự hoang tưởng, không thể phân biệt giữa chân lý khoa học và đức tin , chưa thời nào mà đầu óc con người chịu sự căng kéo và o ép đến thế, thực cũng không dám cho là thực, ảo cũng chưa chắc là ảo… ngay đến nguyên tắc tạo từ cho ngôn ngữ giao tiếp cũng “lộn ngược ”. Tất cả cứ như cắm đầu xuống đất vậy; Dân gian Việt Nam có thành ngữ “mắt to hơn người” đã lột tả thời đại duy lý này. Ngày nay nhân loại đang trải qua hiện tượng lại giống di truyền trong chính trị , giáo chủ kiêm luôn lãnh tụ tối cao ...không biết ở những nơi ấy rồi sẽ đi về đâu ...trước mắt thấy có nơi ... phụ nữ đã bị ném đá tới chết.., bom nổ ầm ầm ở nơi họp chợ ....thật là kinh khủng . 4 . 5 Chế độ dân chủ thực sự Dân chủ được hiểu nôm na là tự quyết định lấy số phận mình, tức việc gì của riêng mình thì chỉ mình mình quyết còn việc chung thì cùng người khác quyết – nhưng làm sao có thể cùng quyết được? Hiện nay chế độ Dân chủ được coi là lý tưởng , nhưng quy trình hay kỹ thuật để thực hiện được dân chủ thì còn đang mày mò tìm hiểu thử nghiệm. Dân chủ về ý nghĩa thì rõ ràng đơn giản nhưng thực chất lại rất khó khăn, với tư cách thành viên cộng đồng, muốn làm chủ cộng đồng thì trước hết phải làm chủ được chính mình, muốn làm chủ được mình thì phải có kiến thức và nghị lực. Về kiến thức không phải ai muốn trang bị cũng được, ngoài thời gian còn vấn đề thể chất, kẻ trí người ngu khác nhau xa lắm. Kiến thức đã thế nghị lực lại còn khác nhau nhiều hơn nữa; người yếu đuối kẻ kiên cường, thiên hạ có thiên hình vạn trạng, người cũng có không biết bao nhiêu là hạng, có người chẳng bao giờ có thể tự chủ ; với riêng mình đã vậy còn cùng phối hợp với các thành viên xã hội khác để làm chủ tập thể thì thiên nan vạn nan hơn nhiều. Chính vì vậy mà dân chủ là giai đoạn sinh sau đẻ muộn so với các hình thức khác; ở giai đoạn này trình độ khoa học nói chung cũng đã rất cao, xã hội sinh hoạt trên cơ sở kỹ thuật máy móc đã tự động hóa, xã hội đã là một xã hội điện tử. Mọi nơi mọi người được nối kết trong một hệ thông tin chằng chịt và thống nhất. Giữa quyết định cá nhân và làm chủ tập thể có mâu thuẫn? Dịch học đã dạy: cái riêng và sự thống nhất xã hội dung hợp với nhau bằng chữ Lý, Lý là lửa, tượng cho sự sáng suốt. Sáng suốt giúp cho con người có nhận định chung và giải pháp chung, tức tạo sự đồng thuận xã hội. Đồng thuận là điểm giao của tự chủ và dân chủ, vượt qua thời duy lý đảng trị là con người thoát khỏi chính cái bóng của mình thời tự mình hù dọa mình đến độ thất thần, biến bóng thành thân là sự ngu dại tột cùng, tinh thần của Dịch là : chính mình là sự cao trọng trên hết, đã sinh ra là đủ lý do để sống rồi không cần phải sống vì bất cứ lý tưởng gì gì...nữa cả . Lý tưởng cao đẹp nếu có thì cũng vô cùng bình dị: làm sao cho cuộc sống sung sướng thế thôi… Dân chủ là một điều tốt đẹp con người chỉ có thể tiến càng ngày càng gần chứ không thể nào đến nơi được ,, kỹ thuật dân chủ đương đại là sự số hóa muôn vạn phồn tạp thành chữ “nhất” là sự gượng ép khập khiễng ngay từ đầu nhưng đành phải nhận vì không có cách làm khác. Kẻ trí là số một, kẻ ngu cũng là số một, vị đức cao trọng vọng cùng một phiếu, kẻ lê la đầu đường xó chợ cũng một phiếu, đúng là một sự bình đẳng đầy bất công . 4.5 Giai đoạn “vô thủ” Rồi sẽ có ngày xã hội tiến đến giai đoạn, chẳng cần người lãnh đạo, có chăng chỉ còn là guồng máy điều hành thậm chí có thể chỉ là một máy điện toán siêu siêu tốc. Đó là xã hội chỉ toàn những nhà khoa học, triết gia, văn nghệ sĩ và vận động viên… Của cải thì tràn trề thừa thãi xã hội có một mạng thông tin còn tốt hơn hệ thần kinh của con người, con người muốn biết điều gì đó dù xảy ra ở bất cứ nơi đâu chỉ việc bấm nút. Muốn “phát biểu” điều gì đó với toàn xã hội … chỉ việc bấm nút, cả xã hội yêu thương nhau như tình mẹ thương con vậy. đó gọi là xã hội toàn hảo của những người toàn hảo , xã hội mà hào Dụng cửu quẻ Kiền mô tả: “Kiến quần long, vô thủ…” Mọi thành viên đều là lãnh đạo thì còn cần “đầu” làm chi. ************** Công thức vận dụng Dịch lý vào sự tiến hóa xã hội : ‘4 mặt 6 bước’ như trên rõ ràng là một ứng dụng rất mới ở ngay thời hiện đại. Chứng tỏ sức sống của Dịch học là vô tận, thánh nhân lao tâm khổ trí biết bao nhiêu chỉ nhằm giúp ích cho hậu thế, vấn đề còn lại là hậu thế có biết vận dụng hay không mà điều đầu tiên để có thể vận dụng là phải hiểu biết Dịch học nguyên bản nền tảng triết lý và khoa học… còn cái vuốt rùa giả mà Trọng Thủy đã tráo thì chỉ dùng cho bói toán và bàn chuyện qủy thần ... Kim qui thần trảo bị đánh tráo, âm dương hay An Dương Vương chết tức Dịch học đích thực đã mất thay vào đó là mớ hỗn độn đầu gà đuôi vị̣t chẳng ra sao cả ; thứ vuốt rùa giả đó đương nhiên chẳng ích lợi gì cho con người ngoài việc giúp chúng ta thêm...loạn trí .
-
Dịch học họ HÙNG bài 16 K . Dịch học và tiến hóa xã hội . Ta nhìn lại bát quái đồ Ta có tổ hợp 4 quẻ: Đoài, Chấn, Cấn, Tốn tượng trưng cho 4 mặt của đời sống cộng đồng Đoài: tri thức, Chấn: công cụ kỹ thuật; Cấn: chế độ kinh tế, Tốn: chế độ chính trị. Mỗi mặt theo thời gian từ nguyên thủy tới văn minh tuần tự qua 6 nấc thang hay 6 giai đoạn (lục vị thời thành), sự chuyển biến tiến lùi của các mặt lại lôi kéo thúc đẩy nhau, nhưng lưu ý đây không phải là liên hệ cơ tính , không có luật “đồng vị – đồng biến” nghĩa là cả 4 mặt cùng một lúc đều phải ở nấc một, nấc 2 v...v… ; sự dung hợp 4 mặt như thế nào là tùy khí chất dân tộc bối cảnh thế giới cũng như sự sáng suốt của lãnh đạo cộng đồng , sự phù hợp giữa các mặt với nhau càng chặt chẽ thì tốc độ phát triển càng nhanh . Trong 4 mặt ta bắt đầu ở đâu? Dịch dạy ta: đế xuất ư chấn: nghĩa là người lãnh đạo bắt đầu sự nghiệp chuyển biến ở quẻ Chấn tức là cải tiến công cụ, hay kỹ thuật sản xuất, ngôn từ ngày nay gọi là cách mạng công nghiệp; bước đột phá này sẽ tạo ra phản ứng dây chuyền tự nhiên được Dịch học tổng kết thành luật “ngũ hành tương sinh” cứ tuần tự 5 bước sau kế tiếp 5 bước trước, hết vòng này ta bắt đầu vòng kia. Cứ thế, cứ thế mà tiếp diễn bất tận nếu không có các biến cố khách quan hay chủ quan phá vỡ dây chuyền. Dịch học chia các bước thay đổi trong mỗi mặt thành 6 bậc, gọi là lục vị thời thành. Tức 6 giai đoạn hình thành theo thời gian: 1/ Tri thức – khoa học – quẻ đoài . 1.1 Giai đoạn tưởng tượng hay sự giải thích hoàn toàn chủ quan Trước một hiện tượng tự nhiên không thể lý giải nên tưởng tượng ra một nguyên cớ nào đó, sự tưởng tượng không theo một quy luật nào cả. Thấy người đang khỏe lăn ra ốm thì cho là bị ông bà quở vì có sự bất kính nào đó nên phải sửa lễ để tạ tội với thần linh . Các hiện tượng tự nhiên đều có một vị thần nào đó chi phối như thần sấm, thần gió… đất có thổ công sông có hà bá .v.v.. Ở giai đoạn đầu tiên việc ghi nhận và phán đoán dù chủ quan nhưng cũng có yếu tố tích cực: đó là sự ham hiểu biết, có lẽ chỉ loài người mới biết đặt dấu hỏi; chính từ cái dấu hỏi và sự tự giải thích dần dần dẫn dắt loài người đến nền văn minh ngày nay cho dù sự khởi đầu là cái gì đó rất ngớ ngẩn. Với con người hiểu biết từ lâu đã trở thành một khoái cảm, khám phá là một hứng thú rất mãnh liệt, đã trở thành một nhu cầu tự nhiên, chính vì vậy con người bỏ không biết bao nhiêu công sức cho nó để khoa học có cái dáng dấp như ngày nay và chắc chắn còn tiến mãi trong tương lai. 1.2 Giai đoạn kinh nghiệm Kinh nghiệm là bảng tổng kết nhân – quả của nhân loại. Hai hiện tượng trước sau đi đôi với nhau cứ lập đi lập lại nhiều lần, con người ghi nhận và cho chúng một sự liên kết. Thí dụ: hào nhị quẻ Khôn viết: lý sương kiên băng. Đi trên sương giá biết băng dày sắp đến. hoặc: thấy chuồn chuồn bay thì bão – đó là do tổng kết kinh nghiệm mà có. Liên kết hiện tượng để phán đoán chưa là khoa học, đó là tri thức dựa trên hiện thực, nền của sự liên kết vẫn là hình ảnh thực, vẫn bó hẹp trong cái mắt thấy tai nghe, não bộ chưa có hoạt động xử lý mà thuần là ghi nhận. Hình ảnh diễn biến chưa được khái quát hóa thành thông tin, chưa có các công thức tổng quát để có thể vận dụng, tất cả mới chỉ là nhân quả trước sau đơn lẻ mà thôi. 1.3 Giai đoạn khoa học thực nghiệm Đây là giai đoạn khái quát hóa hiện thực thành thông tin và công thức. Con người bắt đầu có tư duy khoa học Thực sự, khoa học thực nghiệm kéo dài cả ngàn năm nay hiện nay khái niệm khoa học cơ bản vẫn chiếm giữ vị trí then chốt trong tổng vốn khoa học của loài người, toán- lý-hóa- sinh là mô phỏng tất cả cõi nhân gian không có gì nằm ngoài nó; nhà khoa học chỉ cần cây bút và cuốn vở là có thể gói gọn thế giới, biết việc ngàn năm trước; đoán việc ngàn năm sau nào có thua gì quỉ thần. Dịch học cũng là khoa học ra đời trong giai đoạn này, nó đã sớm khái quát hóa thế giới vật chất thành thế giới thông tin, khái quát hóa chuyển biến vật thể thành các định luật khoa học và công thức toán học, Dịch học còn vượt trên khoa học ở phần triết lý vừa là người chỉ lối dẫn đường (Minh Triết) vừa là người tổ chức thực hiện (khoa học) chỉ Dịch học mới có khả năng đó, phi phàm như thế tại sao Dịch học lại bị vùi dập gần ngàn năm qua, đến độ biến thành “thân tàn ma dại”… là quyển sách bói toán yêu ma “quỉ quái” (Quái = quẻ = quỷ) Thưa vì chủ nhân của Dịch học hay dân tộc đã sáng tạo ra Dịch học đã phải chịu thân phận còn tệ hơn thế nữa, mọi liên thông với quá khứ bị cắt đứt họ như người bị mất trí nhớ không còn biết mình là ai, mình ở đâu ra. Sau cả gần ngàn năm sống kiếp nửa người nửa ngợm dưới móng ngựa của bọn ‘hung-hãn’ thử hỏi về nhân văn thì Trung Hoa còn lại gì ? Thực may mắn trời không tuyệt đường người, Dịch học ngày nay hồn đã mất nhưng xác thì còn , với cái xác đất vật hèn này bằng nỗ lực chính mình chúng ta sẽ gọi hồn Dịch học trở về. Khôi phục Dịch học nguyên gốc cũng là bước đầu tìm về cội nguồn của người Đông Nam Á (xin đọc sử thuyết họ Hùng). Ở giai đoạn này khoa học khởi đầu bằng sự cố gắng giải thích các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên vì vậy mọi lý thuyết khoa học đều có thể kiểm chứng bởi thực tế. 1.4 Khoa học vi thể Con người sau vài trăm năm với nền khoa học thực nghiệm, chỉ khoảng vài chục năm lại đây khoa học đã bước một bước dài vào được đến cốt lõi vật chất, tiêu biểu là hạt nhân và mã di truyền, liên kết chúng trong một thể thống nhất tức liên kết được vật chất thực và mã thông tin của một cơ thể sống, nếu khống chế được vật chất ở vi thể con người sẽ tạo được quyền năng lớn lao để tác động vào thế giới vật chất nói chung và sinh vật nói riêng. Phạm vi ứng dụng của khoa học vi thể vô cùng lớn, năng lượng hạt nhân, nguồn năng lượng hầu như vô tận, dùng công nghệ hạt nhân để chế tạo các loại nguyên liệu mới, hay tạo ra các tính năng mới trên vật liệu cũ, qua công nghệ di truyền tạo ra muôn vàn cái mới trong sinh học. Một thành tựu đặc biệt của nền khoa học vi thể là ngành tính toán hay xử lý thông tin lần đầu tiên tạo ra được công cụ hỗ trợ cho đầu óc con người; khoa học về tính toán kết hợp với truyền thông hiện đại đã biến đổi hẳn thế giới. Ngoài thế giới thực đã hình thành hẳn một thế giới mới, thế giới công nghệ số, mọi thứ mọi vật đều được số hóa; chỉ với số 0 và 1 tương đương vạch đứt – vạch liền được nối kết hàng triệu hàng tỉ cách khác nhau để biểu thị mọi vật, biểu thị cả một thế giới đang chuyển biến. Ngành vi điện tử đang từng bước biến cái tưởng là không thể thành có thể. Các chip vi mạch được cấy vào thân thể một sinh vật tạo nên hiệu ứng liên kết thần kinh hết sức tốt đẹp khiến người mù có thể nhìn thấy, việc tạo ra các tay chân giả có thể tiếp nhận và thi hành lệnh của não bộ thực là thần kỳ mà chỉ cách nay chục năm con người không dám mơ tưởng đến. Nói tóm lại ngành khoa học vi thể vừa mới ra đời đã có một vị trí hết sức quan trọng, quy mô ứng dụng hết sức lớn hết sức rộng. Mở ra cho con người một trời mới đất mới đầy dãy những điều tốt đẹp. 1.5 Khoa học vô thể Khoa học về các trường hay nghi âm tức phần vật chất không hình ảnh, không khối lượng. Nhưng bàng bạc khắp vũ trụ, trường tức vật chất không cố kết, đứng về mặt lý luận nó là phần đối của vật chất có khối lượng. Những bộ óc vĩ đại nhất của nhân loại đang tiếp cận cái trường mênh mông đó; trường là gì? Bản chất? Các quy luật chuyển biến? Hàng loạt các câu hỏi đang chờ được trả lời. Một khi nắm được quy luật chi phối các trường con người có thể chủ động làm thay đổi nó… vật chất hữu hình hữu khối với bản chất gián cách và hữu hạn nên những tác động do sự thay đổi cũng trong một phạm vi nào đó thôi, còn với thay đổi trong một trường thì tác động của nó chắc chắn là vô cùng rộng lớn, con người phần thân xác cũng chỉ là một sinh vật nên chỉ có thể sinh tồn trong một khung các điều kiện vật lý và sinh lý nhất định, một khi các “trường” thay đổi con người sẽ bị ảnh hưởng lập tức, sự thay đổi vượt mức nào đó, sinh vật không thể tồn tại. 1.6 Khoa học tâm linh Chắc chắn sẽ có ngày khoa học vượt ngưỡng ý thức để tiếp cận tâm linh. Não bộ tức cơ sở vật chất của ý thức xét cho cùng cũng là thuần vật chất, cũng nằm trong môi trường và cũng thường xuyên trao đổi vật chất và thông tin với bên ngoài, nhưng sự trao đổi trực tiếp này ở mức tế vi, nó vẫn phát vào không gian chung quanh những bức sóng sinh học, và ngược lại cũng tiếp nhận từ môi trường những tín hiệu phát ra do sự thay đổi bên trong các trường, chung quanh ta ảo giác cho ta sự tĩnh lặng, thực ra không phải vậy nó là một không gian ồn ào, hỗn độn của hằng hà sa số các tia bức xạ cũng ồn ào không kém gì cái chợ bởi sự giao thoa giữa các sóng, khi gặp một bước sóng thích hợp, não bộ con người có thể tiếp nhận những gì đó đến từ không gian xa thẳm. Về bản chất sự sống con người chưa trả lời được, ở đâu ra và đi về đâu? Người ta có thể phân tách một cơ thể sống thành ra các khối lượng nguyên tố hóa học nhất định, nhưng với cùng khối lượng các nguyên tố đó không thể nào tổng hợp thành một sinh vật được. Có cái gì đó vượt trên ý thức không? Con người đã mường tượng đến một vùng mơ hồ gọi là siêu thức, nửa có nửa không nửa hư nửa thực, nơi bắt đầu không còn quy luật như Đạo Đức Kinh của Lão tử chép… Tư Bất tư, … nghĩ mà không suy, hay … chẳng đi mà đến v.v…, bước đầu Á đông đã cảm nhận được tầng thấp nhất của giới siêu nhiên thông qua một số hiện tượng như: bùa chú, đồng bóng, ngoại cảm…, hiện tượng sóng vô tuyến sinh học tạo nên sự linh cảm vì một sự việc xảy ra cho người thân cách xa hàng ngàn dặm là hiện tượng hay thấy nhất, tự nhiên bồn chồn lo lắng đứng ngồi không yên để rồi sau đó nhận được tin chẳng lành của người thân ở xa… điều này ít ra trong đời chúng ta cũng đôi lần chứng nghiệm, rõ ràng là phi tự nhiên, phi tự nhiên nhưng có thực, điều này là một chỉ dẫn về một thế giới siêu tự nhiên. Tới nay tuy chưa có khám phá cụ thể về giới siêu nhiên nhưng Á Đông đã bắc sẵn nhiều đầu cầu để nối thông 2 bờ đó là bùa chú, đồng bóng, thiên văn, phong thủy, ngoại cảm, cầu cơ, bói toán v.v… Giới khoa học cũng không khác , dựa trên những hiểu biết tiên tiến nhất họ vẫn âm thầm đi tìm một thế giới khác ; rất có thể đó là thế giới ‘sóng đôi’ với thế giới của chúng ta theo luật lưỡng lập của Dịch học . Tu luyện tức tập trung để tạo nên năng lực tinh thần, đến 1 mức nào đó ‘thần lực’ có thể tác động trên thế giới vật chất làm đảo lộn các quy luật vật lý thông thường, thay vào sự bình thường này thế giới vật chất sẽ vận động theo mệnh lệnh chủ quan do não bộ con người phát ra. Đạt đến trình độ này thì .....người không còn là người mà là tiên là thần thánh. 2. Công cụ kỹ thuật – quẻ chấn 2.1 Công cụ cầm tay: Các loài động vật tác động vào tự nhiên bằng tay chân và sức cơ bắp, theo sự tiến hóa tự nhiên ở những loài vật thông minh bước đầu đã có trí khôn dù rất sơ khai, và chúng đã biết sử dụng vào việc kiếm sống. Thí dụ: - Một loài chim đã biết mang con rùa lên rất cao thả ra để rơi xuống đá núi làm vỡ mai rùa cứng chắc ra, và thế là nó ung dung dùng bữa ngon lành, công việc như thế rõ ràng đòi hỏi một trí tuệ. - Một loài khỉ đã biết bẻ cái cây cho vừa tầm để chọc vào tổ ong lấy mật, việc bẻ đó chính là gia công chế tạo công cụ. 2 thí dụ trên cho thấy hoạt động trí tuệ không phải độc quyền của loài người; trí khôn và tình cảm thực sự đã sơ khởi có ở một số loài vật. Con người chỉ độc quyền ở những hoạt động não bộ cao cấp, phức tạp. Công cụ cầm tay là sản phẩm của con người nhằm tăng cường khả năng và sức lực của chính mình. Thí dụ: không có cái lưỡi dao thì không thể xẻ thịt, con người ban đầu đẽo đá sau đó là mài tạo nên lưỡi dao đá, thời kỳ đầu con người chỉ gia công tạo dáng trên những vật thể có sẵn như đá cuội, cây tre v.v… để chúng có một công năng hữu ích, bước đầu thành hình tổ hợp: người và công cụ để tác động vào tự nhiên, ở giai đoạn đầu này công năng tạo ra nhờ: - Sức lực của cơ bắp con người - Kỹ năng điều khiển của con người - Công cụ chỉ tham gia phần của mình ở điểm chạm tức điểm tác động mà thôi. Công cụ cầm tay đã tạo nên sự chuyển biến diệu kỳ: vượn người vặn mình trở thành người vượn, hay người nguyên thủy. Con người nếu so sánh từng khả năng chuyên biệt thì đôi khi thua các loài thú khác xa lắm như làm sao có thể so sánh sức mạnh với voi, thi chạy với báo, thi bơi với cá. Nhưng con người lại có địa vị chúa Tể và hơn mọi loài ở cái đầu có thể nhận biết và sáng tạo. Nhận biết để khám phá quy luật và sáng tạo để làm ra những gì mình cần, sáng tạo dựa trên những gì đã nhận biết, và nhận biết là cái nền của sáng tạo, sáng tạo cho con người làm chủ những cỗ máy khỏe hơn voi, nhanh hơn báo và bơi với tốc độ không loài cá nào đuổi nổi. 2.2 Máy thô sơ: Máy thô sơ đã đồng hành và nâng đỡ con người cả ngàn năm qua. Máy đã có thể có nhiều cơ phận, hoạt động phức tạp nhưng đặc điểm chung là: không vận hành bằng sức lực nội thân, mà bằng sức từ ngoài truyền vào, hoặc của súc vật hoặc các chuyển động tự nhiên thậm chí có thể là chính sức con người, trong cái tổ hợp người máy đó con người phải tiêu tốn rất nhiều sức lực để điều khiển và có khi phải cung cấp năng lực cho máy vận hành. Thí dụ như người đi xe đạp chẳng hạn. Nhưng so với công cụ cầm tay thì con người đã tiến một bước dài lắm, với máy thô sơ đời sống con người đã được nâng cao bỏ xa thời hoang dại, máy thô sơ và cơ bản đã đáp ứng được các nhu cầu bức thiết của con người vì ăn mặc ở đi, nhiều nơi trên trái đất ngày nay con người vẫn tồn tại chủ yếu dựa vào máy thô sơ. 2.3 Cơ khí: Cách mạng cơ khí đưa con người bước vào thời văn minh tiến bộ, mới chỉ vài trăm năm nay, khởi đầu từ Anh quốc với việc phát triển máy hơi nước, nhưng tiêu biểu cho thời đại này lại là việc điện khí hóa. Cơ khí là máy móc vận hành bằng sức lực nội thân nó hay điện lực truyền từ ngoài vào, con người chỉ thao tác điều khiển mà thôi như thế sự hao nhọc đã giảm đi rất nhiều. Trong tổ hợp người – máy thời cơ khí kết quả sản xuất phần nào tùy thuộc vào sự khéo léo, thuần thục của người thợ mà ta thường coi là kỹ năng hay tay nghề; sự liên kết người – máy thời này là liên kết cơ tính. Bộ mặt của địa cầu hiện nay phần lớn vẫn là kết quả của thời công nghệ cơ khí, của cải khá dồi dào nhưng chênh lệch cũng rất lớn, các vấn đề kinh tế không còn đơn thuần nữa mà nó luôn là sự sóng đôi: kinh tế – xã hội, do cách mạng cơ khí xã hội thủ đắc nhiều của cải hơn, con người làm chủ nhiều phương tiện hơn khiến thu hẹp không gian sống của cộng đồng thành một thị trường thống nhất, những vấn đề của nền kinh tế như năng suất, chất lượng, độ tăng trưởng v.v… bắt đầu có liên hệ hữu cơ với những vấn đề xã hội như: giáo dục, phân phối lợi tức an sinh xã hội … 2.4 Thời cơ khí bán tự động Đặc trưng cuả thời này là sự gắn kết điện cơ, điện tử tạo thành các dây chuyền sản xuất hàng loạt, thao tác điều khiển là những thao tác đơn giản, lập đi lập lại không tốn sức nhưng hết sức nhàm chán. Sản xuất lớn là một ưu thế rõ rệt ở thời này các sản phẩm ra đời hàng loạt, các chi tiết được tiêu chuẩn hóa cao và có thể lắp lẫn cho nhau đã tạo nên một sinh hoạt thị trường vô cùng náo nhiệt, hàm lượng lao động cơ bắp đã giảm nhiều trong khi hàm lượng chất xám trong sản phẩm tăng rất nhanh, xã hội bắt đầu trở thành xã hội tri thức nên từ ‘lao động’ bắt buộc phải định nghĩa lại. Công nghệ điện tử đặc biệt là ngành bán dẫn đã trở thành đòn bẩy của thời đại, nó góp mặt trong mọi tiến bộ, mọi lãnh vực của đời sống đem đến cho con người vô vàn tiện ích. 2.5 Máy móc tự động – được lập trình Ngành vi điện tử ra đời đã mở ra cho nhân loại cả một trời mới đất mới, thời đại kỹ thuật số, đặc biệt sự ra đời ngành điện toán, từ tạo thiên lập địa đến thời này con người đã có trợ thủ giúp bộ não mình xử lý thông tin, tốc độ xử lý cứ mỗi ngày mỗi nhanh thêm với kích thước ngày càng gọn lại, máy vi tính đã đi đến hầu như mọi nhà, phụ giúp mọi người từ nhà bác học đến anh nông dân, khuynh hướng phát triển đang đi từ hoạt động đơn lẻ đến nối mạng toàn cầu, thông tin được số hóa, xử lý bởi máy tính siêu tốc kết hợp với kỹ thuật truyền thông siêu tốc, kích thước không gian hầu như trở nên vô nghĩa. Nhưng máy tính điện tử dù mạnh tới đâu nhanh tới đâu cũng vẫn chỉ là công cụ của con người, nó chỉ có thể hoạt động dưới sự điều khiển bằng lệnh được con người lập trình và đưa vào máy. Không có những thông số và những câu lệnh thì máy tính cũng chỉ nằm không nhưng khi đã được lập trình thì hệ thống máy sẽ miệt mài độc lập làm việc cho ra sản phẩm mà không cần đến sự can thiệp, điều khiển của con người. Hệ thống máy móc làm việc dưới sự điều phối bởi máy tính được gọi là tự động hóa, thực chất tương tác giữa người và máy trong hệ thống máy cũng chỉ ở mức cao hơn tương tác cơ học, chưa có sự biến đổi về chất , thay vì phải thao tác thì con người chỉ gõ bàn phím hay dịch chuyển con chuột vi tính, nghĩa là quá trình làm việc vẫn phải khởi động hay chấm dứt trực tiếp từ con người. 2.6 Máy thông minh có trí tuệ Từng cỗ máy hay cả một hệ thống máy được điều khiển bởi bộ não nhân tạo , tương tác người máy là tương tác bởi các câu lệnh có tính mục tiêu, thí dụ làm ra một triệu xe hơi, hay xây 1.000 căn nhà, khi nhận được lệnh cả guồng máy chuyển động, tự sắp xếp, tự tính toán tự phối hợp tác nghiệp, ở giai đoạn này câu lệnh có thể chỉ là ý nghĩ phát sinh trong não ...lập tức các cảm biến đã ghi nhận và chuyển thành câu lệnh ...đưa vào siêu hệ thống tự động ...hệ thống này là toàn bộ lực lượng sản xuất của cộng đồng được nối mạng với nhau từ những robot cơ giới đơn lẻ tới những nhà máy khổng lồ cho tới siêu thị và ngân hàng ...tất cả đều thuộc một hệ thống điều hành duy nhất, lúc này con người chỉ còn dành sức để khám phá, sáng tạo, thưởng thức nghệ thuật và thi đấu thể thao. 3/ Kinh tế – Quẻ cấn 3.1 Kinh tế tự cấp Mỗi gia đình cố gắng làm ra mọi thứ mình cần, nhu cầu lúc này chưa vượt ra ngoài cái ăn cái mặc. Thời bầy đàn của cải của cộng đồng được phân phối theo luật tự nhiên do bản năng quyết định khi chuyển sang đời sống xã hội sự phân phối đã vượt trên bản năng và phụ thuộc vào hàng loạt các nhân tố khác mang tính người như lý trí và tình cảm và cả nếp sống, đạo đức xã hội. Thời nguyên thủy cộng đồng thường nhỏ bé trong phạm vi đại gia đình, ở đó tình cảm chi phối và định hướng hành động nên sự sản xuất và phân phối của cải không theo các quy luật kinh tế học; mà theo mệnh lệnh của trái tim, ngày nay các nhà kinh tế xã hội thường gọi thời đại đó là thời cộng sản nguyên thủy. Quy mô cộng đồng lúc này chỉ từ vài người tới vài chục người, sống đời du cư rày đây mai đó, kinh tế vẫn là hoàn toàn khai thác tự nhiên chủ yếu là săn bắt hái lượm, chưa có “của cải” để dành nên chưa nảy sinh sự trao đổi. 3.2 Kinh tế đổi chác Đổi chác hàng – hàng tức trao đổi giữa những người sản xuất chứ chưa xuất hiện thương nghiệp. Muốn trao đổi thì phải có của cải để dành tức không sử dụng tức thì, như thế ít ra cũng phải sang thời con người biết trồng trọt chăn nuôi , đã bước vào thời kỳ định canh định cư tương đối lâu dài và đã xuất hiện thủ công nghiệp. Quy mô tổ chức xã hội ít ra cũng đã bước vào thời liên minh thị tộc. Trao đổi hàng – hàng đánh dấu sự phân công xã hội không phải mỗi cộng đồng nhỏ tự cấp tự túc nữa mà họ chỉ lo những mặt mình có ưu thế rồi trao đổi sản phẩm với nhau như thế năng suất chung sẽ gia tăng, sự trao đổi hàng cũng nối kết nhiều cộng đồng nhỏ thành cộng đồng lớn hơn khiến xuất hiện hình thái tổ chức xã hội mới gọi là quốc gia . 3.3 Kinh tế thị trường tự do Khi hình thành nền kinh tế thị trường tức đã hội đủ số điều kiện sau: - Sản phẩm làm ra tương đối dồi dào. - Có các phương tiện vận tải. - Xuất hiện tiền làm phương tiện trung gian trao đổi. - Hình thành khu vực thương nghiệp bên cạnh khu vực sản xuất Kinh tế thị trường trải qua 3 thời kỳ: thời thị trường khu vực – do các phương tiện vận tải chưa đủ nhiều, đủ nhanh nên hàng hóa chỉ có thể lưu chuyển trong một phạm vi nào đó. Thời này tương ứng với thời máy thô sơ và phải tới thời máy móc cơ khí thì thị trường toàn quốc mới thành hình và có vóc dáng tương tự ngày nay, bên cạnh kinh tế Sản xuất, đã xuất hiện loại hình kinh tế Dịch vụ cũng quan trọng không kém, thậm chí tỉ lệ đóng góp vào tổng sản phẩm xã hội của nó trở nên ngày càng vượt trội. Quan điểm kinh tế của Trung Hoa cổ và chủ nghĩa xã hội ngày nay không hẹn mà gặp ở chỗ “ức thương”, người Trung Hoa đã có câu tục ngữ “ phi thương bất phú” thể hiện nguyên nhân tại sao nhà cầm quyền “ức thương” trong quá khứ không thiếu trường hợp có những thương gia giàu hơn cả vua, sâu xa Hơn ít người để ý là ngay trong Dịch học cũng đã nói đến việc phải kiểm soát “tài phú” để điều hành xã hội. Ý tưởng này đến tận ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Kinh tế thị trường cho phép xã hội phân công triệt để, có người cả đời chỉ làm mỗi một loại công việc để trao đổi và nhận lại mọi thứ từ xã hội, chính vì thế từ đây xuất hiện một loại quyền lực mới, kẻ nào khống chế chi phối được thị trường hàng hóa thì kẻ đó là vua thực sự .