nhatnguyen52

Dịch học họ HÙNG -III

4 bài viết trong chủ đề này

Dịch học họ HÙNG . bài 15

G. 9 chỗ hay cửu trù

Tổng thể lớn nhất mà ý thức con người nhận ra được là tổng thể thiên nhiên xã hội và con người. Trong đó chữ người tồn tại với tư cách là cộng đồng người. Trên bình diện siêu vĩ mô đó thì con người trường tồn, ngang với trời đất. 2 vòng tương sinh và tương khắc ta đã nói đến là hoạt động thường xuyên của cái tổng thể trên, cứ hết 5 bước này đến 5 bước khác, 2 vòng đồng tác động thông qua một trung tâm chính là: con người cụ thể đang sống hay nói khác là một cá nhân, là cái: chính ta, tại đây, lúc này.

Không có thành phần trung tâm này thì mọi bước tiến hóa đều không có .

ý nghĩa lớn nhất của 9 chỗ hay cửu trù là sự vận động liên tục của một cộng đồng người, thông qua nhân 8 mặt cùng phác tác; thực chất cửu trù là sự hợp nhất 2 ngũ hành, 2 ngũ hành hợp lại thành 9 chỗ vì có chung 1 nhân hay trung tâm.

Tiên thiên bát quái nếu ta thêm vào giữa một nhân thì được cửu trù, với 2 vòng vận động một tương sinh và một tương khắc cùng diễn ra.

Posted Image

Cửu trù là hình ảnh một cộng đồng người đang tiến hóa, trung tâm của chuyển động đó chính là con người đang sống cụ thể (chính ta, tại đây, lúc này). nó là sự tổng hợp 2 dòng sinh và khắc , cả 2 ngũ hành song song vận động tạo ra sự tiến hóa xã hội .

1 - Dòng tương khắc

Posted Image

Bản ngữ → vô cầu → vô vọng → vô chấp →vô biên → vô ngã.

Người viết rất phân vân, chữ Hành ở đây rất có thể cũng nghĩa là “bước” ngũ hành tức 5 bước

Ngũ hành tương sinh là : 5 bước vòng thuận.

Ngũ hành tương khắc là: 5 bước vòng nghịch.

Với ý này khi ta nói:

Thủy sinh Mộc hay Thủy khắc Hỏa thì phải hiểu:

Sự thay đổi ở Hành Thủy tất yếu đưa đến sự thay đổi ở Hành Mộc, ý nghĩa triết học là: đời sống vật chất thay đổi tất yếu dẫn đến thay đổi trong tương quan người – người. Chữ tất yếu là từ đồng nghĩa với tương sinh của Dịch lý.

Còn Thủy khắc Hỏa ta hiểu rằng trong chuỗi phản ứng ở vòng khắc thì Thủy đi trước rồi đến Hỏa hay muốn thay đổi Hỏa buộc phải thay đổi Thủy trước; chữ buộc phải này tương đương chữ tương khắc của Dịch học.

2 . Dòng tương sinh

Ở phần trước đã trình bày về dây chuyền phản ứng tương sinh:

Cam →Thổ → Thủy →Mộc →Hỏa →Cam

Đồ hình biểu diễn

Posted Image

Hành Cam là nhân, con người nơi xuất phát và quy về của quá trình vận động, mỗi lần trở về là một con người mới văn minh hơn .

các bước vận động cụ thể xảy ra ở 4 hành Thạch- Thủy- Mộc- Hỏa

Trong Bát quái tiên thiên là:

Đoài, Chấn, Cấn, Tốn

Ý nghĩa trong sự tiến hóa xã hội là 4 mặt:

Đoài = Tri thức

Chấn = công cụ máy móc (sức mạnh)

Cấn = chế độ kinh tế

Tốn = chế độ chính trị

Vậy 5 bước tương sinh được hiểu là:

Con người đầu tiên phải quan sát nghiên cứu để khám phá các quy luật chi phối sự vận động của giới tự nhiên (tri thức); tri thức khoa học tiến bộ sẽ dẫn đến sự cải tiến công cụ, sức mạnh máy móc dưới quyền con người ngày càng lớn; sự thay đổi trong lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay đổi trong tổ chức sản xuất và thay đổi toàn bộ nền kinh tế; chế độ kinh tế thay đổi là tiên đề cho sự thay đổi chế độ chính trị , và sau cùng kết thúc quá trình 5 bước là thay đổi hẳn con người và xã hội loài người ..

4. Lạc đồ và sự vận dụng .

Ngày xưa Cửu trù còn được vận dụng để phân chia không gian sinh tồn như :

-Cửu châu : Kinh , Dương, U, Thanh , Lương , Ký, Dự , Duyện , Từ .

-Cửu Thiên : Chữ thiên ở đây ta hiểu theo nghĩa Việt là ‘phương trời’.

Khi xoay Lạc đồ số 1 nấc theo chiều kim đồng hồ ta có :

Posted Image

Đối chiếu với Cửu thiên :

Posted Image

Ta thấy giữa 2 đồ hình có sự tương thông ý nghĩa :

Số 1 : tiếng Việt còn gọi là Giêng (tháng giêng) biến âm thành Dương trong Dương thiên .

Số 2 : hai →hè→hạ→hỏa , chỉ sự nóng bức-viêm nhiệt , trong 9 thiên là Viêm thiên .

Số 3 : ba→bu tiếng Việt là Mẹ đồng nghĩa với U trong U thiên .

Số 4 : bốn →bóng hay sáng bóng đồng nghĩa với Hạo cũng là Hạo thiên .

Số 5 : năm→lang nghĩa là thủ lãnh đồng nghĩa với quân trong Quân thiên .

Số 6 : số 6 chữ Nho đọc là lục , âm lục cũng là đất và màu xanh , màu xanh của ngũ sắc trấn phương đông cũng là phương của Thanh niên , trong cửu thiên là Thanh thiên.

Số 7 : bẩy →bể= biển , Hán ngữ ký âm sai thành Biến trong Biến thiên .

Số 8 : tám → xám-xẫm hay đen đồng nghĩa với huyền trong Huyền thiên .

Số: chín là số lớn nhất trong số đếm tượng trưng cho Kiền hay Cha ,hán văn ký âm sai thành Chu trong Chu thiên .

Với ý nghĩa mang trong bản thân Cửu thiên phải đặt theo đúng phương hướng :

Posted Image

Với Khám phá : chính bộ số đếm của người Việt đem áp vào Lạc đồ đã tạo ra cửu thiên đủ để khẳng định 2 điều quan trọng :

- cả Lạc đồ và Cửu thiên đều là sáng tạo của người họ HÙNG tức tiền nhân người Việt hiện nay .

- Chiều Bắc-Nam xưa dựa trên dịch học đã bị đảo ngược khiến những thông tin của Địa lý lịch sử trong sách cổ Trung hoa không còn chính xác vì vậy Lịch sử Trung hoa cũng buộc phải viết lại .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dịch học họ HÙNG bài 16

K . Dịch học và tiến hóa xã hội .

Ta nhìn lại bát quái đồ

Posted Image

Ta có tổ hợp 4 quẻ: Đoài, Chấn, Cấn, Tốn tượng trưng cho 4 mặt của đời sống cộng đồng

Đoài: tri thức, Chấn: công cụ kỹ thuật; Cấn: chế độ kinh tế, Tốn: chế độ chính trị.

Mỗi mặt theo thời gian từ nguyên thủy tới văn minh tuần tự qua 6 nấc thang hay 6 giai đoạn (lục vị thời thành), sự chuyển biến tiến lùi của các mặt lại lôi kéo thúc đẩy nhau, nhưng lưu ý đây không phải là liên hệ cơ tính , không có luật “đồng vị – đồng biến” nghĩa là cả 4 mặt cùng một lúc đều phải ở nấc một, nấc 2 v...v… ; sự dung hợp 4 mặt như thế nào là tùy khí chất dân tộc bối cảnh thế giới cũng như sự sáng suốt của lãnh đạo cộng đồng , sự phù hợp giữa các mặt với nhau càng chặt chẽ thì tốc độ phát triển càng nhanh .

Trong 4 mặt ta bắt đầu ở đâu?

Dịch dạy ta: đế xuất ư chấn: nghĩa là người lãnh đạo bắt đầu sự nghiệp chuyển biến ở quẻ Chấn tức là cải tiến công cụ, hay kỹ thuật sản xuất, ngôn từ ngày nay gọi là cách mạng công nghiệp; bước đột phá này sẽ tạo ra phản ứng dây chuyền tự nhiên được Dịch học tổng kết thành luật “ngũ hành tương sinh” cứ tuần tự 5 bước sau kế tiếp 5 bước trước, hết vòng này ta bắt đầu vòng kia. Cứ thế, cứ thế mà tiếp diễn bất tận nếu không có các biến cố khách quan hay chủ quan phá vỡ dây chuyền.

Dịch học chia các bước thay đổi trong mỗi mặt thành 6 bậc, gọi là lục vị thời thành. Tức 6 giai đoạn hình thành theo thời gian:

1/ Tri thức – khoa học – quẻ đoài .

1.1 Giai đoạn tưởng tượng hay sự giải thích hoàn toàn chủ quan

Trước một hiện tượng tự nhiên không thể lý giải nên tưởng tượng ra một nguyên cớ nào đó, sự tưởng tượng không theo một quy luật nào cả.

Thấy người đang khỏe lăn ra ốm thì cho là bị ông bà quở vì có sự bất kính nào đó nên phải sửa lễ để tạ tội với thần linh . Các hiện tượng tự nhiên đều có một vị thần nào đó chi phối như thần sấm, thần gió… đất có thổ công sông có hà bá .v.v..

Ở giai đoạn đầu tiên việc ghi nhận và phán đoán dù chủ quan nhưng cũng có yếu tố tích cực: đó là sự ham hiểu biết, có lẽ chỉ loài người mới biết đặt dấu hỏi; chính từ cái dấu hỏi và sự tự giải thích dần dần dẫn dắt loài người đến nền văn minh ngày nay cho dù sự khởi đầu là cái gì đó rất ngớ ngẩn. Với con người hiểu biết từ lâu đã trở thành một khoái cảm, khám phá là một hứng thú rất mãnh liệt, đã trở thành một nhu cầu tự nhiên, chính vì vậy con người bỏ không biết bao nhiêu công sức cho nó để khoa học có cái dáng dấp như ngày nay và chắc chắn còn tiến mãi trong tương lai.

1.2 Giai đoạn kinh nghiệm

Kinh nghiệm là bảng tổng kết nhân – quả của nhân loại. Hai hiện tượng trước sau đi đôi với nhau cứ lập đi lập lại nhiều lần, con người ghi nhận và cho chúng một sự liên kết.

Thí dụ: hào nhị quẻ Khôn viết: lý sương kiên băng.

Đi trên sương giá biết băng dày sắp đến.

hoặc: thấy chuồn chuồn bay thì bão – đó là do tổng kết kinh nghiệm mà có.

Liên kết hiện tượng để phán đoán chưa là khoa học, đó là tri thức dựa trên hiện thực, nền của sự liên kết vẫn là hình ảnh thực, vẫn bó hẹp trong cái mắt thấy tai nghe, não bộ chưa có hoạt động xử lý mà thuần là ghi nhận. Hình ảnh diễn biến chưa được khái quát hóa thành thông tin, chưa có các công thức tổng quát để có thể vận dụng, tất cả mới chỉ là nhân quả trước sau đơn lẻ mà thôi.

1.3 Giai đoạn khoa học thực nghiệm

Đây là giai đoạn khái quát hóa hiện thực thành thông tin và công thức. Con người bắt đầu có tư duy khoa học Thực sự, khoa học thực nghiệm kéo dài cả ngàn năm nay hiện nay khái niệm khoa học cơ bản vẫn chiếm giữ vị trí then chốt trong tổng vốn khoa học của loài người, toán- lý-hóa- sinh là mô phỏng tất cả cõi nhân gian không có gì nằm ngoài nó; nhà khoa học chỉ cần cây bút và cuốn vở là có thể gói gọn thế giới, biết việc ngàn năm trước; đoán việc ngàn năm sau nào có thua gì quỉ thần.

Dịch học cũng là khoa học ra đời trong giai đoạn này, nó đã sớm khái quát hóa thế giới vật chất thành thế giới thông tin, khái quát hóa chuyển biến vật thể thành các định luật khoa học và công thức toán học, Dịch học còn vượt trên khoa học ở phần triết lý vừa là người chỉ lối dẫn đường (Minh Triết) vừa là người tổ chức thực hiện (khoa học) chỉ Dịch học mới có khả năng đó, phi phàm như thế tại sao Dịch học lại bị vùi dập gần ngàn năm qua, đến độ biến thành “thân tàn ma dại”… là quyển sách bói toán yêu ma “quỉ quái” (Quái = quẻ = quỷ)

Thưa vì chủ nhân của Dịch học hay dân tộc đã sáng tạo ra Dịch học đã phải chịu thân phận còn tệ hơn thế nữa, mọi liên thông với quá khứ bị cắt đứt họ như người bị mất trí nhớ không còn biết mình là ai, mình ở đâu ra.

Sau cả gần ngàn năm sống kiếp nửa người nửa ngợm dưới móng ngựa của bọn ‘hung-hãn’ thử hỏi về nhân văn thì Trung Hoa còn lại gì ?

Thực may mắn trời không tuyệt đường người, Dịch học ngày nay hồn đã mất nhưng xác thì còn , với cái xác đất vật hèn này bằng nỗ lực chính mình chúng ta sẽ gọi hồn Dịch học trở về.

Khôi phục Dịch học nguyên gốc cũng là bước đầu tìm về cội nguồn của người Đông Nam Á (xin đọc sử thuyết họ Hùng).

Ở giai đoạn này khoa học khởi đầu bằng sự cố gắng giải thích các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên vì vậy mọi lý thuyết khoa học đều có thể kiểm chứng bởi thực tế.

1.4 Khoa học vi thể

Con người sau vài trăm năm với nền khoa học thực nghiệm, chỉ khoảng vài chục năm lại đây khoa học đã bước một bước dài vào được đến cốt lõi vật chất, tiêu biểu là hạt nhân và mã di truyền, liên kết chúng trong một thể thống nhất tức liên kết được vật chất thực và mã thông tin của một cơ thể sống, nếu khống chế được vật chất ở vi thể con người sẽ tạo được quyền năng lớn lao để tác động vào thế giới vật chất nói chung và sinh vật nói riêng. Phạm vi ứng dụng của khoa học vi thể vô cùng lớn, năng lượng hạt nhân, nguồn năng lượng hầu như vô tận, dùng công nghệ hạt nhân để chế tạo các loại nguyên liệu mới, hay tạo ra các tính năng mới trên vật liệu cũ, qua công nghệ di truyền tạo ra muôn vàn cái mới trong sinh học. Một thành tựu đặc biệt của nền khoa học vi thể là ngành tính toán hay xử lý thông tin lần đầu tiên tạo ra được công cụ hỗ trợ cho đầu óc con người; khoa học về tính toán kết hợp với truyền thông hiện đại đã biến đổi hẳn thế giới. Ngoài thế giới thực đã hình thành hẳn một thế giới mới, thế giới công nghệ số, mọi thứ mọi vật đều được số hóa; chỉ với số 0 và 1 tương đương vạch đứt – vạch liền được nối kết hàng triệu hàng tỉ cách khác nhau để biểu thị mọi vật, biểu thị cả một thế giới đang chuyển biến. Ngành vi điện tử đang từng bước biến cái tưởng là không thể thành có thể. Các chip vi mạch được cấy vào thân thể một sinh vật tạo nên hiệu ứng liên kết thần kinh hết sức tốt đẹp khiến người mù có thể nhìn thấy, việc tạo ra các tay chân giả có thể tiếp nhận và thi hành lệnh của não bộ thực là thần kỳ mà chỉ cách nay chục năm con người không dám mơ tưởng đến.

Nói tóm lại ngành khoa học vi thể vừa mới ra đời đã có một vị trí hết sức quan trọng, quy mô ứng dụng hết sức lớn hết sức rộng. Mở ra cho con người một trời mới đất mới đầy dãy những điều tốt đẹp.

1.5 Khoa học vô thể

Khoa học về các trường hay nghi âm tức phần vật chất không hình ảnh, không khối lượng. Nhưng bàng bạc khắp vũ trụ, trường tức vật chất không cố kết, đứng về mặt lý luận nó là phần đối của vật chất có khối lượng. Những bộ óc vĩ đại nhất của nhân loại đang tiếp cận cái trường mênh mông đó; trường là gì? Bản chất? Các quy luật chuyển biến? Hàng loạt các câu hỏi đang chờ được trả lời. Một khi nắm được quy luật chi phối các trường con người có thể chủ động làm thay đổi nó… vật chất hữu hình hữu khối với bản chất gián cách và hữu hạn nên những tác động do sự thay đổi cũng trong một phạm vi nào đó thôi, còn với thay đổi trong một trường thì tác động của nó chắc chắn là vô cùng rộng lớn, con người phần thân xác cũng chỉ là một sinh vật nên chỉ có thể sinh tồn trong một khung các điều kiện vật lý và sinh lý nhất định, một khi các “trường” thay đổi con người sẽ bị ảnh hưởng lập tức, sự thay đổi vượt mức nào đó, sinh vật không thể tồn tại.

1.6 Khoa học tâm linh

Chắc chắn sẽ có ngày khoa học vượt ngưỡng ý thức để tiếp cận tâm linh. Não bộ tức cơ sở vật chất của ý thức xét cho cùng cũng là thuần vật chất, cũng nằm trong môi trường và cũng thường xuyên trao đổi vật chất và thông tin với bên ngoài, nhưng sự trao đổi trực tiếp này ở mức tế vi, nó vẫn phát vào không gian chung quanh những bức sóng sinh học, và ngược lại cũng tiếp nhận từ môi trường những tín hiệu phát ra do sự thay đổi bên trong các trường, chung quanh ta ảo giác cho ta sự tĩnh lặng, thực ra không phải vậy nó là một không gian ồn ào, hỗn độn của hằng hà sa số các tia bức xạ cũng ồn ào không kém gì cái chợ bởi sự giao thoa giữa các sóng, khi gặp một bước sóng thích hợp, não bộ con người có thể tiếp nhận những gì đó đến từ không gian xa thẳm.

Về bản chất sự sống con người chưa trả lời được, ở đâu ra và đi về đâu? Người ta có thể phân tách một cơ thể sống thành ra các khối lượng nguyên tố hóa học nhất định, nhưng với cùng khối lượng các nguyên tố đó không thể nào tổng hợp thành một sinh vật được. Có cái gì đó vượt trên ý thức không? Con người đã mường tượng đến một vùng mơ hồ gọi là siêu thức, nửa có nửa không nửa hư nửa thực, nơi bắt đầu không còn quy luật như Đạo Đức Kinh của Lão tử chép… Tư Bất tư, … nghĩ mà không suy, hay … chẳng đi mà đến v.v…, bước đầu Á đông đã cảm nhận được tầng thấp nhất của giới siêu nhiên thông qua một số hiện tượng như: bùa chú, đồng bóng, ngoại cảm…, hiện tượng sóng vô tuyến sinh học tạo nên sự linh cảm vì một sự việc xảy ra cho người thân cách xa hàng ngàn dặm là hiện tượng hay thấy nhất, tự nhiên bồn chồn lo lắng đứng ngồi không yên để rồi sau đó nhận được tin chẳng lành của người thân ở xa… điều này ít ra trong đời chúng ta cũng đôi lần chứng nghiệm, rõ ràng là phi tự nhiên, phi tự nhiên nhưng có thực, điều này là một chỉ dẫn về một thế giới siêu tự nhiên. Tới nay tuy chưa có khám phá cụ thể về giới siêu nhiên nhưng Á Đông đã bắc sẵn nhiều đầu cầu để nối thông 2 bờ đó là bùa chú, đồng bóng, thiên văn, phong thủy, ngoại cảm, cầu cơ, bói toán v.v…

Giới khoa học cũng không khác , dựa trên những hiểu biết tiên tiến nhất họ vẫn âm thầm đi tìm một thế giới khác ; rất có thể đó là thế giới ‘sóng đôi’ với thế giới của chúng ta theo luật lưỡng lập của Dịch học .

Tu luyện tức tập trung để tạo nên năng lực tinh thần, đến 1 mức nào đó ‘thần lực’ có thể tác động trên thế giới vật chất làm đảo lộn các quy luật vật lý thông thường, thay vào sự bình thường này thế giới vật chất sẽ vận động theo mệnh lệnh chủ quan do não bộ con người phát ra. Đạt đến trình độ này thì .....người không còn là người mà là tiên là thần thánh.

2. Công cụ kỹ thuật – quẻ chấn

2.1 Công cụ cầm tay:

Các loài động vật tác động vào tự nhiên bằng tay chân và sức cơ bắp, theo sự tiến hóa tự nhiên ở những loài vật thông minh bước đầu đã có trí khôn dù rất sơ khai, và chúng đã biết sử dụng vào việc kiếm sống. Thí dụ:

- Một loài chim đã biết mang con rùa lên rất cao thả ra để rơi xuống đá núi làm vỡ mai rùa cứng chắc ra, và thế là nó ung dung dùng bữa ngon lành, công việc như thế rõ ràng đòi hỏi một trí tuệ.

- Một loài khỉ đã biết bẻ cái cây cho vừa tầm để chọc vào tổ ong lấy mật, việc bẻ đó chính là gia công chế tạo công cụ.

2 thí dụ trên cho thấy hoạt động trí tuệ không phải độc quyền của loài người; trí khôn và tình cảm thực sự đã sơ khởi có ở một số loài vật.

Con người chỉ độc quyền ở những hoạt động não bộ cao cấp, phức tạp.

Công cụ cầm tay là sản phẩm của con người nhằm tăng cường khả năng và sức lực của chính mình. Thí dụ: không có cái lưỡi dao thì không thể xẻ thịt, con người ban đầu đẽo đá sau đó là mài tạo nên lưỡi dao đá, thời kỳ đầu con người chỉ gia công tạo dáng trên những vật thể có sẵn như đá cuội, cây tre v.v… để chúng có một công năng hữu ích, bước đầu thành hình tổ hợp: người và công cụ để tác động vào tự nhiên, ở giai đoạn đầu này công năng tạo ra nhờ:

- Sức lực của cơ bắp con người

- Kỹ năng điều khiển của con người

- Công cụ chỉ tham gia phần của mình ở điểm chạm tức điểm tác động mà thôi.

Công cụ cầm tay đã tạo nên sự chuyển biến diệu kỳ: vượn người vặn mình trở thành người vượn, hay người nguyên thủy.

Con người nếu so sánh từng khả năng chuyên biệt thì đôi khi thua các loài thú khác xa lắm như làm sao có thể so sánh sức mạnh với voi, thi chạy với báo, thi bơi với cá. Nhưng con người lại có địa vị chúa Tể và hơn mọi loài ở cái đầu có thể nhận biết và sáng tạo. Nhận biết để khám phá quy luật và sáng tạo để làm ra những gì mình cần, sáng tạo dựa trên những gì đã nhận biết, và nhận biết là cái nền của sáng tạo, sáng tạo cho con người làm chủ những cỗ máy khỏe hơn voi, nhanh hơn báo và bơi với tốc độ không loài cá nào đuổi nổi.

2.2 Máy thô sơ:

Máy thô sơ đã đồng hành và nâng đỡ con người cả ngàn năm qua. Máy đã có thể có nhiều cơ phận, hoạt động phức tạp nhưng đặc điểm chung là: không vận hành bằng sức lực nội thân, mà bằng sức từ ngoài truyền vào, hoặc của súc vật hoặc các chuyển động tự nhiên thậm chí có thể là chính sức con người, trong cái tổ hợp người máy đó con người phải tiêu tốn rất nhiều sức lực để điều khiển và có khi phải cung cấp năng lực cho máy vận hành. Thí dụ như người đi xe đạp chẳng hạn.

Nhưng so với công cụ cầm tay thì con người đã tiến một bước dài lắm, với máy thô sơ đời sống con người đã được nâng cao bỏ xa thời hoang dại, máy thô sơ và cơ bản đã đáp ứng được các nhu cầu bức thiết của con người vì ăn mặc ở đi, nhiều nơi trên trái đất ngày nay con người vẫn tồn tại chủ yếu dựa vào máy thô sơ.

2.3 Cơ khí:

Cách mạng cơ khí đưa con người bước vào thời văn minh tiến bộ, mới chỉ vài trăm năm nay, khởi đầu từ Anh quốc với việc phát triển máy hơi nước, nhưng tiêu biểu cho thời đại này lại là việc điện khí hóa. Cơ khí là máy móc vận hành bằng sức lực nội thân nó hay điện lực truyền từ ngoài vào, con người chỉ thao tác điều khiển mà thôi như thế sự hao nhọc đã giảm đi rất nhiều.

Trong tổ hợp người – máy thời cơ khí kết quả sản xuất phần nào tùy thuộc vào sự khéo léo, thuần thục của người thợ mà ta thường coi là kỹ năng hay tay nghề; sự liên kết người – máy thời này là liên kết cơ tính.

Bộ mặt của địa cầu hiện nay phần lớn vẫn là kết quả của thời công nghệ cơ khí, của cải khá dồi dào nhưng chênh lệch cũng rất lớn, các vấn đề kinh tế không còn đơn thuần nữa mà nó luôn là sự sóng đôi: kinh tế – xã hội, do cách mạng cơ khí xã hội thủ đắc nhiều của cải hơn, con người làm chủ nhiều phương tiện hơn khiến thu hẹp không gian sống của cộng đồng thành một thị trường thống nhất, những vấn đề của nền kinh tế như năng suất, chất lượng, độ tăng trưởng v.v… bắt đầu có liên hệ hữu cơ với những vấn đề xã hội như: giáo dục, phân phối lợi tức an sinh xã hội …

2.4 Thời cơ khí bán tự động

Đặc trưng cuả thời này là sự gắn kết điện cơ, điện tử tạo thành các dây chuyền sản xuất hàng loạt, thao tác điều khiển là những thao tác đơn giản, lập đi lập lại không tốn sức nhưng hết sức nhàm chán. Sản xuất lớn là một ưu thế rõ rệt ở thời này các sản phẩm ra đời hàng loạt, các chi tiết được tiêu chuẩn hóa cao và có thể lắp lẫn cho nhau đã tạo nên một sinh hoạt thị trường vô cùng náo nhiệt, hàm lượng lao động cơ bắp đã giảm nhiều trong khi hàm lượng chất xám trong sản phẩm tăng rất nhanh, xã hội bắt đầu trở thành xã hội tri thức nên từ ‘lao động’ bắt buộc phải định nghĩa lại.

Công nghệ điện tử đặc biệt là ngành bán dẫn đã trở thành đòn bẩy của thời đại, nó góp mặt trong mọi tiến bộ, mọi lãnh vực của đời sống đem đến cho con người vô vàn tiện ích.

2.5 Máy móc tự động – được lập trình

Ngành vi điện tử ra đời đã mở ra cho nhân loại cả một trời mới đất mới, thời đại kỹ thuật số, đặc biệt sự ra đời ngành điện toán, từ tạo thiên lập địa đến thời này con người đã có trợ thủ giúp bộ não mình xử lý thông tin, tốc độ xử lý cứ mỗi ngày mỗi nhanh thêm với kích thước ngày càng gọn lại, máy vi tính đã đi đến hầu như mọi nhà, phụ giúp mọi người từ nhà bác học đến anh nông dân, khuynh hướng phát triển đang đi từ hoạt động đơn lẻ đến nối mạng toàn cầu, thông tin được số hóa, xử lý bởi máy tính siêu tốc kết hợp với kỹ thuật truyền thông siêu tốc, kích thước không gian hầu như trở nên vô nghĩa. Nhưng máy tính điện tử dù mạnh tới đâu nhanh tới đâu cũng vẫn chỉ là công cụ của con người, nó chỉ có thể hoạt động dưới sự điều khiển bằng lệnh được con người lập trình và đưa vào máy. Không có những thông số và những câu lệnh thì máy tính cũng chỉ nằm không nhưng khi đã được lập trình thì hệ thống máy sẽ miệt mài độc lập làm việc cho ra sản phẩm mà không cần đến sự can thiệp, điều khiển của con người. Hệ thống máy móc làm việc dưới sự điều phối bởi máy tính được gọi là tự động hóa, thực chất tương tác giữa người và máy trong hệ thống máy cũng chỉ ở mức cao hơn tương tác cơ học, chưa có sự biến đổi về chất , thay vì phải thao tác thì con người chỉ gõ bàn phím hay dịch chuyển con chuột vi tính, nghĩa là quá trình làm việc vẫn phải khởi động hay chấm dứt trực tiếp từ con người.

2.6 Máy thông minh có trí tuệ

Từng cỗ máy hay cả một hệ thống máy được điều khiển bởi bộ não nhân tạo , tương tác người máy là tương tác bởi các câu lệnh có tính mục tiêu, thí dụ làm ra một triệu xe hơi, hay xây 1.000 căn nhà, khi nhận được lệnh cả guồng máy chuyển động, tự sắp xếp, tự tính toán tự phối hợp tác nghiệp, ở giai đoạn này câu lệnh có thể chỉ là ý nghĩ phát sinh trong não ...lập tức các cảm biến đã ghi nhận và chuyển thành câu lệnh ...đưa vào siêu hệ thống tự động ...hệ thống này là toàn bộ lực lượng sản xuất của cộng đồng được nối mạng với nhau từ những robot cơ giới đơn lẻ tới những nhà máy khổng lồ cho tới siêu thị và ngân hàng ...tất cả đều thuộc một hệ thống điều hành duy nhất, lúc này con người chỉ còn dành sức để khám phá, sáng tạo, thưởng thức nghệ thuật và thi đấu thể thao.

3/ Kinh tế – Quẻ cấn

3.1 Kinh tế tự cấp

Mỗi gia đình cố gắng làm ra mọi thứ mình cần, nhu cầu lúc này chưa vượt ra ngoài cái ăn cái mặc. Thời bầy đàn của cải của cộng đồng được phân phối theo luật tự nhiên do bản năng quyết định khi chuyển sang đời sống xã hội sự phân phối đã vượt trên bản năng và phụ thuộc vào hàng loạt các nhân tố khác mang tính người như lý trí và tình cảm và cả nếp sống, đạo đức xã hội.

Thời nguyên thủy cộng đồng thường nhỏ bé trong phạm vi đại gia đình, ở đó tình cảm chi phối và định hướng hành động nên sự sản xuất và phân phối của cải không theo các quy luật kinh tế học; mà theo mệnh lệnh của trái tim, ngày nay các nhà kinh tế xã hội thường gọi thời đại đó là thời cộng sản nguyên thủy.

Quy mô cộng đồng lúc này chỉ từ vài người tới vài chục người, sống đời du cư rày đây mai đó, kinh tế vẫn là hoàn toàn khai thác tự nhiên chủ yếu là săn bắt hái lượm, chưa có “của cải” để dành nên chưa nảy sinh sự trao đổi.

3.2 Kinh tế đổi chác

Đổi chác hàng – hàng tức trao đổi giữa những người sản xuất chứ chưa xuất hiện thương nghiệp. Muốn trao đổi thì phải có của cải để dành tức không sử dụng tức thì, như thế ít ra cũng phải sang thời con người biết trồng trọt chăn nuôi , đã bước vào thời kỳ định canh định cư tương đối lâu dài và đã xuất hiện thủ công nghiệp. Quy mô tổ chức xã hội ít ra cũng đã bước vào thời liên minh thị tộc.

Trao đổi hàng – hàng đánh dấu sự phân công xã hội không phải mỗi cộng đồng nhỏ tự cấp tự túc nữa mà họ chỉ lo những mặt mình có ưu thế rồi trao đổi sản phẩm với nhau như thế năng suất chung sẽ gia tăng, sự trao đổi hàng cũng nối kết nhiều cộng đồng nhỏ thành cộng đồng lớn hơn khiến xuất hiện hình thái tổ chức xã hội mới gọi là quốc gia .

3.3 Kinh tế thị trường tự do

Khi hình thành nền kinh tế thị trường tức đã hội đủ số điều kiện sau:

- Sản phẩm làm ra tương đối dồi dào.

- Có các phương tiện vận tải.

- Xuất hiện tiền làm phương tiện trung gian trao đổi.

- Hình thành khu vực thương nghiệp bên cạnh khu vực sản xuất

Kinh tế thị trường trải qua 3 thời kỳ: thời thị trường khu vực – do các phương tiện vận tải chưa đủ nhiều, đủ nhanh nên hàng hóa chỉ có thể lưu chuyển trong một phạm vi nào đó. Thời này tương ứng với thời máy thô sơ và phải tới thời máy móc cơ khí thì thị trường toàn quốc mới thành hình và có vóc dáng tương tự ngày nay, bên cạnh kinh tế Sản xuất, đã xuất hiện loại hình kinh tế Dịch vụ cũng quan trọng không kém, thậm chí tỉ lệ đóng góp vào tổng sản phẩm xã hội của nó trở nên ngày càng vượt trội.

Quan điểm kinh tế của Trung Hoa cổ và chủ nghĩa xã hội ngày nay không hẹn mà gặp ở chỗ “ức thương”, người Trung Hoa đã có câu tục ngữ “ phi thương bất phú” thể hiện nguyên nhân tại sao nhà cầm quyền “ức thương” trong quá khứ không thiếu trường hợp có những thương gia giàu hơn cả vua, sâu xa Hơn ít người để ý là ngay trong Dịch học cũng đã nói đến việc phải kiểm soát “tài phú” để điều hành xã hội. Ý tưởng này đến tận ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

Kinh tế thị trường cho phép xã hội phân công triệt để, có người cả đời chỉ làm mỗi một loại công việc để trao đổi và nhận lại mọi thứ từ xã hội, chính vì thế từ đây xuất hiện một loại quyền lực mới, kẻ nào khống chế chi phối được thị trường hàng hóa thì kẻ đó là vua thực sự .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dịch học họ HÙNG . bài 17

K . Dịch học và tiến hóa xã hội tt

3.4 Kinh tế thị trường điều tiết

Ở thời kinh tế thị trường tự do việc sản xuất và tiêu dùng không gắn kết chặt chẽ với nhau mà qua trung gian phân phối. Khi có sai lầm trong một khâu trung gian lập tức khủng hoảng xảy ra, đơn đặt hàng sản xuất bao giờ cũng phải đi trước, lúc đó chưa có lệnh mua của người tiêu dùng nên số lượng hàng hóa đặt làm là con số hoàn toàn chủ quan dựa trên ước tính, cho đến khi nhận ra lệnh đặt mua quá ít so với lượng hàng đặt làm thì mọi việc đã muộn. Việc phải giết hàng loạt bò để giữ giá trên thị trường là một sự phí phạm tài nguyên ghê gớm là một điển hình rõ rệt cho khủng hoảng thừa. Thứ nữa thời thị trường tự do thì năng suất là đạo đức nên nhiều khi nhân cách bị xem nhẹ . Con người mù quáng sản xuất ra những thứ giết hại chính mình như ruợi và thuốc lá chẳng hạn, ai cũng biết thế nhưng vì lợi nhuận mà guồng máy cứ quay không làm sao ngừng lại được.

Việc phân bổ tài nguyên cho lãnh vực nào, sản xuất hàng tiêu dùng, hay máy móc thiết bị, bao nhiêu cho giáo dục, cho nghiên cứu nói chung ai quyết định việc này? Không thể ai ngoài nhà cầm quyền, nhưng ở giai đoạn này nhà cầm quyền vẫn phải tôn trọng quy luật kinh tế chỉ tác động đến “chiều hướng” bằng thuế khóa, bằng lãi suất hay bằng các đơn đặt hàng của chính phủ. Càng ngày ngân sách càng trở thành nhân tố quan trọng đối với kinh tế quốc gia , tài chính công trở thành bánh lái của con tàu kinh tế, nó cho thấy trước tình huống kinh tế sẽ trải qua phồn vinh hay ảm đạm vào thời gian sau đó. Tất cả sự can thiệp bằng biện pháp hành chính nhằm điều chỉnh nền kinh tế gọi chung là sự “điều tiết” kinh tế.

3.5 Kinh tế kế hoạch

Ở thời kinh tế thị trường, bên trong các hộp đen là các quy luật kinh tế nhà cầm quyền chỉ tác động ở đầu ra và đầu vào, sang thời kinh tế kế hoạch thì ý muốn chủ quan của con người thâm nhập vào bên trong các hộp đen. Với các mặt hàng gọi là “nhu yếu phẩm” được sản xuất theo kế hoạch, ở đâu, bao nhiêu là một mệnh lệnh chủ quan nhưng lại được tính toán một cách khoa học. Tài nguyên huy động vào lãnh vực nào bao nhiêu, cân đối cho tiêu dùng trước mắt và phát triển lâu dài được tính toán lên kế hoạch cụ thể.

Kinh tế kế hoạch là giai đoạn tất yếu phải trải qua khi có đủ các điều kiện :

- Sản xuất tự động hóa cao độ

- Kinh tế quốc doanh chiếm tỉ lệ áp đảo trong nền kinh tế

- Trình độ dân trí rất cao.

Khi các công cụ sản xuất đã tự động hóa và nối mạng trên toàn lãnh thổ thì bản thân quy luật thị trường trở nên thừa, công năng điều hòa sản xuất- tiêu dùng không phát huy được mà thay vào đó là các mệnh lệnh phát ra từ bộ não của xã hội tức nhà cầm quyền.

Nói như trên là ta đã khẳng định điều kiện của nền kinh tế kế hoạch là một cơ sở vật chất hoàn chỉnh, nền sản xuất tự động hóa cao, một chính phủ điện tử và một xã hội được số hóa. Mạng thông tin nối liền từ viện nghiên cứu đến nhà máy đến tận các điểm bán lẻ nơi xa xôi nhất nghĩa là một nền kinh tế số hóa được điều hành bởi các máy tính siêu tốc nối mạng với nhau. Có như thế thì tính kế hoạch trong kinh tế mới khả thi.

Đã gọi là quy luật thì không thể đốt giai đoạn hay tùy tiện thay đổi đi, nếu đã có thể chủ quan thay đổi thì còn gì là quy luật?

3.6 Kinh tế phi kinh tế

Từ kinh tế chỉ có nghĩa khi cầu lớn hơn cung còn khi đạt được mức: cung lớn hơn cầu thì đấy chính là giai đoạn chủ nghĩa cộng sản gọi là cần gì có nấy hay làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Lực lượng sản xuất của xã hội lúc này là các nhà máy hoàn toàn tự động và một lực lượng đông đảo các Robot cơ giới tự hành. Con người vẫn làm việc nhưng trong tinh thần đam mê nghiên cứu, sáng tạo chứ không phải là lao nhọc kiếm sống. Lúc đó quĩ thời gian của mỗi người chủ yếu được tiêu dùng trong các việc:

- Chăm sóc lẫn nhau để thể hiện tình người

- Tìm kiếm cái mới như đi du lịch và nghiên cứu khoa học.

- Sáng tạo và sáng tác nghệ thuật văn chương và chế tạo các vật thể mới.

- Thưởng thức: món ăn vật chất trở nên nhỏ bé vì tính hữu hạn của nó, thay vào là các món ăn tinh thần như văn hóa, nghệ thuật v..v..

- Thi đấu thể thao và hội diễn văn nghệ

Người ta chỉ còn mỗi một mối lo là cái chết, dù khoa học phát triển nâng tuổi thọ lên mãi nhưng cuối cùng rồi cũng phải chết.

4/ Quẻ Tốn – chế độ chính trị

Dịch viết : Tề hồ Tốn là ý muốn nói quẻ Tốn chỉ mối tương quan người và người về mặt quyền lực , hay rõ hơn : Tốn là quản trị. ,Quản trị cả cộng đồng quốc gia tức là “chính trị” Trong cơ chế của một nền chính trị, thì cốt lõi là việc tuyển chọn người lãnh đạo, dựa trên cách thức để đạt đến quyền hành ta có 6 chế độ chính trị “lục vị thời thành” như sau:

4.1 Chế độ giáo chủ hoặc đại tộc trưởng

Thời thị tộc mô thức chung là chế độ tộc trưởng, người lãnh đạo cộng đồng thường là bậc cao niên trưởng thượng của thị tộc lớn nhất trong liên minh , khi cộng đồng được mở rộng vượt qua chế độ thị tộc để bắt đầu lập quốc thì nhân loại rẽ theo 2 đường:

a. Chế độ giáo chủ :

khi mối liên hệ thân tộc không còn đủ mạnh để làm thành trật tự xã hội thì thần quyền nổi dậy, đa phần nhân loại thời tri thức khoa học chưa phát triển đã tự khuất mình dưới một quyền lực siêu hình, tức thế lực giấu mặt nhưng chi phối tất cả, từ bệnh tật cho tới mùa màng và có những người liên hệ được hay được chọn làm đại diện cho các quyền lực siêu hình để cai trị cộng đồng, tức họ cai trị với tư cách đại diện cho thượng đế.

Ở phương Tây đó là vào thời Trung cổ khi nhà thờ kiêm luôn việc quản trị xã hội, ngay cuối thế kỷ 20 vẫn có những quốc gia do các giáo sĩ Hồi giáo nắm thực quyền cai trị như Taliban của Afganistan và chế độ “lãnh dạo tối cao” ở Iran hiện nay.

Khi các giáo chủ mà nắm quyền thì thực là khủng khiếp, lòng nhân từ của thượng đế được biểu hiện bằng roi da và máy chém thực là kinh hoàng khi nhắc đến các toà án dị giáo của đạo Thiên chúa ở phương Tây thời Trung cổ.

b. Chế độ đại tộc trưởng

Nhiều dân tộc ngay từ khi lập quốc nhờ nhận thức đúng đắn về cuộc sống mà vũ trụ đã không phải trải qua thời giáo chủ kinh hoàng như phương Tây, thay vào đó là chế độ đại tộc trưởng, đó là Hoàng đế, Nghiêu Thuấn của Trung Hoa hay các vua Hùng của sử Việt Nam. Tính nhân văn nổi cộm ở những gì cực kỳ bình dị như … Vua và dân cùng cày ruộng mà ăn, quân vương và thần dân cùng tắm chung dòng suối v.v.. các vì vua khai quốc thường là những trang tuấn kiệt, những anh hùng dẫn giắt cộng đồng vượt thiên tai dịch họa. Hình ảnh sơ nguyên của chế độ đại tộc trưởng chính là các già làng hay cụ tiên chỉ của cộng đồng bản làng ở Việt Nam. Chế độ đại tộc trưởng xét về tính nhân văn thì cao hơn chế độ giáo chủ hẳn một cái đầu.

3.2 Chế độ quân chủ

Bản chất chế độ là cưỡng chế bằng bạo lực, vị vua khai sáng chế độ bao giờ cũng là một tướng lãnh hay một thủ lĩnh quân sự, sau khi chiếm quyền ông ta tự quyền thiết lập thể chế , tự định ra quy tắc kế chuyển quyền hành khi mình qua đời, thường là truyền cho con, chế độ quân chủ ra đời đã vài ngàn năm; tới nay hầu như không còn chế độ quân chủ nguyên mẫu nhưng các biến tướng thì vẫn còn. Chế độ quân chủ coi như là một tiến bộ khi nó thay thế chế độ giáo chủ. Và 2 thế lực này đã có thời song hành cùng tồn tại, cùng đấu tranh trong một thời gian khá dài trước khi có sự thay đổi dứt khoát. Gọi là tiến bộ vì trong chế độ quân chủ lý lẽ đã thay thế đức tin, có nghĩa là trình độ hiểu biết của con người đã được nâng cao đến độ không thể bịp bợm bằng các vỏ siêu hình con thần cháu thánh được nữa. Ở nấc thang này Tuy là một xã hội vẫn bị quản trị bằng cường lực nhưng cái gốc hay chuẩn mốc để các thành viên xã hội căn cứ vào mà bình phẩm hành vi công hay tội là lý lẽ chứ không phải giáo lý nữa, người ta có tội khi vi phạm luật lệ của vua chứ không phải tín điều chúa dạy . Do thoát khỏi sự cưỡng chế ràng buộc bởi các tín điều nên cuộc sống các thành viên xã hội dễ thở hơn nhiều.

Cùng tên là chế độ quân chủ nhưng có nhiều hình thức mà thực chất bên trong khác xa nhau; như Trung Hoa từ đầu công nguyên đã hình thành chế độ quân chủ sĩ trị ; giúp việc vua chăm lo cho dân ngoài quí tộc ra còn có kẻ sĩ hay những người có học đã đỗ đạt và làm quan . Nho giáo và nho sĩ đã làm cho nền quân chủ phương Đông khác phương Tây về chất dù cùng được gọi là chế độ quân chủ.

3.3 Chế độ tư bản trị hay dân chủ hình thức .

Chế độ tư bản ra đời cùng với cuộc cách mạng cơ khí – điện lực. Chế độ quân chủ là hình thái cai trị đồng hành với lực lượng sản xuất chủ yếu là nộng nghiệp và thủ công nghiệp. Công dân làm việc và đóng thuế cho vua chúa- quí tộc; thường ruộng đất nằm trong tay quí tộc, nông dân thực ra là nông nô, quí tộc với tư cách chúa đất là thành phần cầm giữ cái bao tử của xã hội, do đó dân đen không thể thoát khỏi sự kềm chệ́ để vùng lên vì không muốn chết đói.

Sang thời điện khí hóa thì thành phần nắm túi tiền của xã hội là giới tư sản; ở đời luật chung là kẻ nắm tiền bao giờ cũng nắm quyền …không có điều khỏan luật nào nói như thế nhưng ..đa .kim ngân phá luật lệ....,

Có cả một thời gian dài chuyển tiếp từ chế độ quân chủ sang tư bản trị , 2 thế lực đấu tranh gay gắt làm tiêu phí của nhân loại cả một quĩ thời gian không phải ít. Cuối cùng việc đến cũng phải đến về thực chất chế độ quân chủ sau hàng ngàn năm ngự trị đã sụp đổ, nhường chỗ cho tư sản thống trị với vỏ bọc là chế độ dân chủ tư sản. Thực chất ta thấy dân chủ không thể đi đôi với tư sản, vì kẻ có tiền luôn là kẻ thống trị, chúng ta chỉ có thể thiết lập chế độ cộng hòa mà thôi, trong chế độ mới tiến bộ con người đạt được là:

- Sự Định kỳ thay đổi chóp bu guồng máy cầm quyền .

- Hình thành tinh thần Thượng tôn pháp luật

Thời vua chúa thì bản thân ông ta là pháp luật... nên các thành viên xã hội đối với ông ta thực chất chỉ là ‘con cháu trong nhà’ hoặc nô lệ, vua chúa tùy tiện phán xử bắt ai chết thì người đó phải chết … Qua thời cộng hòa thì có tam lập phân quyền; cơ sở để đối xử giữa các thành viên xã hội là luật pháp; quyền tư pháp là quyền tối hậu độc lập không bị ai chi phối (nguyên tắc)… dù tam quyền phân lập chưa đạt được mức thực chất tuyệt đối nhưng nó cũng là một điểm mốc đánh dấu bước văn minh của loài người. Mặc dù tư sản vẫn khống chế xã hội nhưng không còn là sự khống chế tuyệt đối nữa do sự đấu tranh của chính các thế lực tư sản với nhau hòa quyện vào với xu hướng của những thế lực mới như báo chí v.v… Dư luận xã hội đã trở thành một thế lực không thể không tính đến trên bàn cờ chính trị. Việc phổ thông đầu phiếu tuy chưa có thực chất dân chủ nhưng nó đã manh nha tính cách đặc thù “người” ấy và không ít thì nhiều cũng giúp vào việc định kỳ thay đổi nhà cầm quyền; chính việc định kỳ thay đổi đã ngăn chặn sự phóng tay lạm quyền quá mức của kẻ thống trị… vì không như chế độ quân chủ, ai là vua thì làm vua cho tới chết rồi thường được tiếp nối bởi con cái nên kẻ dã tâm đâu có kiêng ngại điều gì mà không dám làm… còn trong chế độ cộng hòa, quyền hành chỉ là quyền hành có thời hạn… vậy khi hết quyền thì ra sao? Chính vì lý do này mà không khí trong chế độ dân chủ tư sản dễ thở hơn nhiều so với hình thái chế độ trước nó.

Ở phần trên ta đã nói, chế độ quân chủ xây dựng dựa trên cường lực còn ở đây chế độ dân chủ tư sản giai đoạn ấu trĩ dựa trên sự lôi kéo mua chuộc là chính .

Mua chuộc không phải là sự mua chuộc công khai lộ liễu mà phần lớn là mua chuộc công luận , thông qua các cơ quan truyền thông báo chí con người bị dẫn dụ bởi các thông tin và hình ảnh đã bị bóp méo để có định kiến sai lầm về giới này việc khác ; thực tế ngày nay việc này luôn xảy ra và có không ít những chính khách lưu manh đã dùng đồng tiền để trở thành cha mẹ thiên hạ.

Khi mặt bằng dân trí được nâng cao đến một mức nào đó thì vầng hào quang thần thánh không còn làm chóa mắt được con người nữa, cường lực cũng không đủ sức khống chế cả xã hội thì chế độ quân chủ phải cáo chung như một tất yếu của lịch sử, nhưng nấc thang mới mà con người đạt tới cũng chưa phải là lý tưởng, sự nói dối trắng trợn thì chẳng ai tin nhưng sự dối trá khôn khéo và lắt léo thì không dễ gì nhận biết. Khi thông tin chưa phát triển tới mức ai cũng có thể biết tất cả, nắm tất cả thì còn chỗ cho kẻ lưu manh dối trá lừa gạt, với các phương tiện truyền thông của thời đại thì con người rất dễ bị xỏ mũi dẫn đi ..., dĩ nhiên xã hội thời này cũng có không it́ người trí thức sáng suốt không thể bị lừa bịp , nhiều bậc quân tử không thể mua chuộc nhưng vì là xã hội số hoá ...ai cũng là con số 1 nên phần tinh hoa bao giờ cũng là số ít đồng nghĩa với ...thua cuộc ...đành mặc cho vận nước cuốn theo số đông ...

4.4 Chế độ Đảng trị

Từ nguyên thủy đi lên, con người đã trải qua nhiều hình thức tổ chức xã hội, trong đó mô hình quốc gia tương đối bền vững, quốc gia lâu đời nhất có lẽ là Trung Hoa đã hình thành 5, 6 ngàn năm nay, Quốc gia ra đời cùng với chế độ quân chủ là cặp song sinh thống trị nhân loại mãi cho tới thời cận đại; chỉ khi hậu quả về mặt xã hội của cuộc cách mạng cơ khí xảy ra nó mới bị thách thức , chế độ dân chủ tư sản ra đời nhưng như ta đã phân tích chế độ này vẫn còn đầy khiếm khuyết, không thỏa đáng cho con người ngày một có trình độ hiểu biết cao hơn, ý thức nhân chủ khởi phát từ thời cách mạng nông nghiệp cũng mỗi ngày mỗi thôi thúc con người nhiều hơn về một xã hội lý tưởng tuyệt đối tốt đẹp văn minh…

Nhưng làm sao thực hiện ? cả trăm ngã đường biết chọn đường nào để có thể đến đích? Thế là những người cùng đường, cùng chí hướng tập hợp nhau lại thành các thực thể chính trị gọi là “Đảng” “liân minh” .v.v., đại bộ phận các Đảng phái đều giới hạn tầm hoạt động là quốc gia, Khát khao vươn tới sự chí thiện, chí chân, chí mỹ là tính rất “người”…, thể hiện nguyện vọng đó các đảng đều có chánh cương hết sức cao đẹp, đôi khi hình thành hẳn một hệ tư tưởng hết sức thâm sâu, viễn kiến gọi là lý luận cách mạng.

Tới đây có thể phân đảng thành 2 loại:

Đảng chính trị và đảng cách mạng .

Về hình thức thì cùng chữ đảng nhưng nội dung 2 chữ đảng này khác nhau về bản chất . ....

Không thể bàn thêm về bản chất các đảng vì sự nhạy cảm của vấn đề ....

- Sau thời “duy lợi” của chế độ tư bản trị con người dao động sang phía đối cực; chủ nghĩa duy lý, quy trình xử lý thông tin đúng đắn bao giờ cũng bắt đầu bằng việc thu nhận thông tin phản ánh thực tế. Sau đó mới xử lý chắt lọc tổng kết thành các quy luật và công thức ; các quy luật này còn phải kiểm chứng nghiêm ngặt thông qua thực tế, còn với duy lý thì tất cả được nhào nặn bên trong não bộ… nếu “không khớp” với đời thường thì “gọt chân cho vừa giày…” việc xử lý thông tin khách quan biến thành sự hoang tưởng, không thể phân biệt giữa chân lý khoa học và đức tin , chưa thời nào mà đầu óc con người chịu sự căng kéo và o ép đến thế, thực cũng không dám cho là thực, ảo cũng chưa chắc là ảo… ngay đến nguyên tắc tạo từ cho ngôn ngữ giao tiếp cũng “lộn ngược ”. Tất cả cứ như cắm đầu xuống đất vậy;

Dân gian Việt Nam có thành ngữ “mắt to hơn người” đã lột tả thời đại duy lý này.

Ngày nay nhân loại đang trải qua hiện tượng lại giống di truyền trong chính trị , giáo chủ kiêm luôn lãnh tụ tối cao ...không biết ở những nơi ấy rồi sẽ đi về đâu ...trước mắt thấy có nơi ... phụ nữ đã bị ném đá tới chết.., bom nổ ầm ầm ở nơi họp chợ ....thật là kinh khủng .

4 . 5 Chế độ dân chủ thực sự

Dân chủ được hiểu nôm na là tự quyết định lấy số phận mình, tức việc gì của riêng mình thì chỉ mình mình quyết còn việc chung thì cùng người khác quyết – nhưng làm sao có thể cùng quyết được? Hiện nay chế độ Dân chủ được coi là lý tưởng , nhưng quy trình hay kỹ thuật để thực hiện được dân chủ thì còn đang mày mò tìm hiểu thử nghiệm.

Dân chủ về ý nghĩa thì rõ ràng đơn giản nhưng thực chất lại rất khó khăn, với tư cách thành viên cộng đồng, muốn làm chủ cộng đồng thì trước hết phải làm chủ được chính mình, muốn làm chủ được mình thì phải có kiến thức và nghị lực. Về kiến thức không phải ai muốn trang bị cũng được, ngoài thời gian còn vấn đề thể chất, kẻ trí người ngu khác nhau xa lắm. Kiến thức đã thế nghị lực lại còn khác nhau nhiều hơn nữa; người yếu đuối kẻ kiên cường, thiên hạ có thiên hình vạn trạng, người cũng có không biết bao nhiêu là hạng, có người chẳng bao giờ có thể tự chủ ; với riêng mình đã vậy còn cùng phối hợp với các thành viên xã hội khác để làm chủ tập thể thì thiên nan vạn nan hơn nhiều. Chính vì vậy mà dân chủ là giai đoạn sinh sau đẻ muộn so với các hình thức khác; ở giai đoạn này trình độ khoa học nói chung cũng đã rất cao, xã hội sinh hoạt trên cơ sở kỹ thuật máy móc đã tự động hóa, xã hội đã là một xã hội điện tử. Mọi nơi mọi người được nối kết trong một hệ thông tin chằng chịt và thống nhất.

Giữa quyết định cá nhân và làm chủ tập thể có mâu thuẫn? Dịch học đã dạy: cái riêng và sự thống nhất xã hội dung hợp với nhau bằng chữ Lý, Lý là lửa, tượng cho sự sáng suốt. Sáng suốt giúp cho con người có nhận định chung và giải pháp chung, tức tạo sự đồng thuận xã hội. Đồng thuận là điểm giao của tự chủ và dân chủ, vượt qua thời duy lý đảng trị là con người thoát khỏi chính cái bóng của mình thời tự mình hù dọa mình đến độ thất thần, biến bóng thành thân là sự ngu dại tột cùng, tinh thần của Dịch là : chính mình là sự cao trọng trên hết, đã sinh ra là đủ lý do để sống rồi không cần phải sống vì bất cứ lý tưởng gì gì...nữa cả . Lý tưởng cao đẹp nếu có thì cũng vô cùng bình dị: làm sao cho cuộc sống sung sướng thế thôi… Dân chủ là một điều tốt đẹp con người chỉ có thể tiến càng ngày càng gần chứ không thể nào đến nơi được ,, kỹ thuật dân chủ đương đại là sự số hóa muôn vạn phồn tạp thành chữ “nhất” là sự gượng ép khập khiễng ngay từ đầu nhưng đành phải nhận vì không có cách làm khác. Kẻ trí là số một, kẻ ngu cũng là số một, vị đức cao trọng vọng cùng một phiếu, kẻ lê la đầu đường xó chợ cũng một phiếu, đúng là một sự bình đẳng đầy bất công .

4.5 Giai đoạn “vô thủ”

Rồi sẽ có ngày xã hội tiến đến giai đoạn, chẳng cần người lãnh đạo, có chăng chỉ còn là guồng máy điều hành thậm chí có thể chỉ là một máy điện toán siêu siêu tốc.

Đó là xã hội chỉ toàn những nhà khoa học, triết gia, văn nghệ sĩ và vận động viên…

Của cải thì tràn trề thừa thãi xã hội có một mạng thông tin còn tốt hơn hệ thần kinh của con người, con người muốn biết điều gì đó dù xảy ra ở bất cứ nơi đâu chỉ việc bấm nút. Muốn “phát biểu” điều gì đó với toàn xã hội … chỉ việc bấm nút, cả xã hội yêu thương nhau như tình mẹ thương con vậy. đó gọi là xã hội toàn hảo của những người toàn hảo , xã hội mà hào Dụng cửu quẻ Kiền mô tả: “Kiến quần long, vô thủ…” Mọi thành viên đều là lãnh đạo thì còn cần “đầu” làm chi.

**************

Công thức vận dụng Dịch lý vào sự tiến hóa xã hội : ‘4 mặt 6 bước’ như trên rõ ràng là một ứng dụng rất mới ở ngay thời hiện đại. Chứng tỏ sức sống của Dịch học là vô tận, thánh nhân lao tâm khổ trí biết bao nhiêu chỉ nhằm giúp ích cho hậu thế, vấn đề còn lại là hậu thế có biết vận dụng hay không mà điều đầu tiên để có thể vận dụng là phải hiểu biết Dịch học nguyên bản nền tảng triết lý và khoa học… còn cái vuốt rùa giả mà Trọng Thủy đã tráo thì chỉ dùng cho bói toán và bàn chuyện qủy thần ...

Kim qui thần trảo bị đánh tráo, âm dương hay An Dương Vương chết tức Dịch học đích thực đã mất thay vào đó là mớ hỗn độn đầu gà đuôi vị̣t chẳng ra sao cả ; thứ vuốt rùa giả đó đương nhiên chẳng ích lợi gì cho con người ngoài việc giúp chúng ta thêm...loạn trí .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dịch học họ HÙNG . bài 18

PHẦN II

64 QUẺ TRÙNG

Ở đây vẫn gọi là quẻ trùng vì đã quen như thế đúng tiếng Việt phải gọi là “Quả chồng” vì 64 quả được tạo thành bằng cách chồng đôi 8 quả đơn hay 8 nguyên tố đơn. 2 quẻ 3 vạch chồng lên nhau tạo thành quẻ 6 vạch kết quả hình thành tổng số 64 quẻ chồng hay 64 nguyên tố kép của Dịch học.

Tới tận ngày nay các nhà Dịch học còn chưa xác quyết được bản thân quẻ trùng đã là quẻ 6 vạch từ đầu hay là chồng 2 quẻ đơn mà thành.

Theo Dịch học họ Hùng thì 8 quẻ đơn là 8 tượng tin nền, thông tin nó mang là thông tin khởi đầu. Sự chồng 2 quẻ thực ra là sự “ghép từ” tạo chữ mới mà nghĩa của nó tạo thành từ sự liên kết nghĩa của 2 tượng tin nền; chỉ cần đảo vị trí trên dưới khi xếp 2 quẻ đơn là nghĩa quẻ trùng hoàn toàn khác.

Ở phần Dịch học tổng quát nếu so sánh Dịch học họ Hùng và Dịch học của người Tàu hiện nay thấy đã có các khác biệt cơ bản.

- Phương hướng Bắc Nam đảo ngược.

- Ý nghĩa âm dương đảo ngược

- Vạch đứt vạch liền đảo ngược

- Ngũ hành đảo 2 hành Kim và Thổ

- Các đồ hình Bát Quái hoàn toàn khác.

tới phần 64 quẻ trùng thì khác biệt giữa 2 nền Dịch học trở nên xa lắm:

1 - khác hẳn nhiều tên quẻ.

2 - nhiều tên quẻ đồng âm hay cận âm, nhưng nghĩa hoàn toàn khác

3 - đại lượng tức sự mô tả quẻ bị xáo trộn rất nhiều.

Khi soạn Dịch lý họ Hùng người soạn đã cố ý né tránh sự so sánh và kết luận đúng sai vì công việc tìm hiểu Dịch học còn mênh mông lắm sớm sa vào những tranh cãi là vô ích, ngày rộng tháng dài từ từ mọi việc sẽ rõ ràng, nhưng tới đoạn này phải nêu ra vài sự khác biệt cơ bản để người đọc dễ chấp nhận các ý tưởng mới mẻ, mạnh bạo, quyết liệt mà không cảm thấy choáng váng, vì những đảo lộn.

64 quẻ trùng được thiết lập dựa trên các nguyên tắc chặt chẽ:

- Luật – Tầng sâu và độ số

- Luật thay đổi: một tăng một giảm tạo thành sự tuần tự biến đổi độ số âm dương từ cực này tới cực kia.

- Tổng số 64 quẻ.

Từ quẻ thuần Kiền 63 __, 00 _ _

Tới thuần Khôn 00 __ , 63 _ _

Ta có 64 quẻ hữu danh và một quẻ ẩn mà độ số âm dương cân bằng:

31,5 __

31,5 _ _

64 Nguyên tố Dịch lý theo thứ tự Chu Dịch và Dịch họ Hùng.

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

64 quẻ là 64 nguyên tố kép dịch học

Posted Image

Chu Dịch và Dịch học họ Hùng sắp xếp các quẻ theo nguyên tắc khác:

64 nguyên tố được tổ hợp thành 32 cặp quẻ

28 cặp quẻ đảo: tức quẻ này lật ngược thì thành quẻ kia.

4 cặp quẻ đối: với những cặp không có quẻ đảo thì dùng cách đối nghịch âm dương để tạo thành.

Việc hình thành 32 cặp quẻ mang ý nghĩa chính của Dịch học họ Hùng.

Về mặt lý luận mỗi cặp quẻ :

- là sự sinh đôi: nghĩa là luôn có 2 sự việc cùng xảy ra một lúc

Thí dụ: ký tế – vị tế

Việc đã xong – việc chưa xong – chu kỳ hay vòng tuần hoàn này kết thúc tức là khởi đầu vòng khác

-Hoặc là sự sinh thành

Thí dụ cặp truân – Mông

Mờ tối thì gian nan vất vả, ý nói trình độ dân trí thấp thì việc tổ chức và thực hiện kế hoạch phát triển rất khó khăn mệt mỏi.

-Hoặc là một cặp nhân quả

Thí dụ: cặp tụ + thăng, tựu – thành

Tụ là tụ tập, ý của Dịch học rất rõ: tích tiểu dĩ cao đại, tích dần đến nhỏ để thành cái lớn, vinh quang danh vọng đến không phải tự nhiên đến, mà do sự đều đặn tích đức, làm điều nhân nghĩa có thể từ đời ông đời cha không phải chỉ đời mình mà thôi.

32 cặp quẻ chính là 32 vấn đề và giải pháp trong sự vận hành, phát triển xã hội

Phát triển là điều tất yếu của xã hội loài người cứ lần mò, vấp ngã gánh chịu tổn thất, rồi lại đứng dậy sữa sai tìm phương hướng và đi , ngay bây giờ dù đã là thế kỷ 21 rồi nhưng về mặt quy luật phát triển xã hội vẫn là sự lần mò mù lòa; từ cổ chí kim duy nhất có một dân tộc bước đi trong ánh sáng đó là dân họ Hùng , ánh đuốc soi đường chính là Dịch lý. Đại nạn đã đến với dân tộc này vào khoảng đầu công nguyên, Trọng Thủy tên “sở khanh” đã gạt vợ là Mỵ Châu để tráo nỏ thần đem về phương Nam (Bắc ngày nay). Linh Qui thần trảo hay nỏ thần Rùa Vàng chỉ là hóa thân của “Quy Tàng Dịch” mà thôi, đó là lời nhắn gửi cho con cháu của tiền nhân họ Hùng, mơ hồ nhưng vô cùng rõ rệt, rời rạc nhưng vô cùng chắc chắn và đặc biệt chỉ con cháu họ Hùng mới hiểu biết điều linh thiêng ấy, để cùng nhau lấy nước mà rửa cho ngọc châu ngày càng sáng, rửa tức bóc gỡ lớp bụi bặm đất cát bẩn thỉu tà ma bói toán đang vây bọc Dịch lý, viên ngọc ngày càng sáng ra tức ý nghĩa khoa học cao minh, ý nghĩa triết học cao siêu hàm chứa trong Dịch học được phát lộ trở thành Kim chỉ nam cho con cháu nhà Hùng trên hành trình đến hạnh phúc.

Dịch lý thực bao la, đầu óc ta quá nhỏ bé nên không dám nghĩ đến sự quán thông chỉ xin góp với đời tất cả những gì mình nhận thấy hoặc cảm thấy mà thôi.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites