-
Số nội dung
526 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Lê Bá Trung
-
NGŨ HÀNH ĐĂNG (ĐÈN NGŨ HÀNH) Trong chín chòm sao Tử bạch, gồm : Nhất Bạch tinh (sao Sói Tham Lam, cát tinh), Nhị Hắc tinh (sao Cửa Lớn, hung tinh), Tam Bích tinh (sao Lộc Tồn, hung tinh), Tứ Lục tinh (sao Văn Khúc, hung tinh), Ngũ Hoàng tinh (sao Thanh Bạch, hung tinh), Lục Bạch tinh (sao Vũ Khúc, cát tinh), Thất Bích tinh (sao Phá Quân, hung tinh), Bát Bạch tinh (sao Hỗ Trợ bên trái, cát tinh) và Cửu Tử tinh (sao Hỗ Trợ bên phải, cát tinh), thì Ngũ Hoàng tinh (còn gọi là sao Liêm Trinh) được xem là đại hung tinh. Từ xưa người ta đã tin rằng, đại hung Ngũ Hoàng tinh chiếu đến đâu cũng mang đến những vận rất xấu như gia phong bại hoại, tiền của tiêu hao, người nhà bệnh tật, con cái ngỗ ngược, tính khí hung ác, … Và người ta cũng tin rằng, đèn ngũ hành sẽ khắc chế được những sát khí và vận hung do Ngũ Hoàng tinh gây ra. Đèn Ngũ Hành gồm 4 phần chính: phần nắp vặn hình chóp, phần miệng hình bình bát, phần thân như chiếc đèn ngủ và phần chân đế vuông. Bên trong miệng bình và chân đế rỗng. Chủ nhân sẽ cho vào miệng bình một ít trà, gạo và muối, phần chân đế sẽ chứa một ít đất lấy trong sân nhà. Đặt đèn ngũ hành ở phương chính của Ngũ Hoàng tinh, sẽ có tác dụng phát tán sát khí và hóa giải vận hung. Nguồn:hoangthantai.com
-
Đây là một số anh do em chụp mời mọi người tham khảo cho vui ạ Facebook: http://www.facebook.com/photography.letrung Xem thêm ảnh ở đây ạ: http://www.flickr.com/photos/photography_letrung/
-
Thiên địa nhân chi lí tối minh, Giang tây nhất quái khởi vu đông , Giang đông nhất quái khởi vu tây, Thử thị mĩ văn cơ môn lí ….. Sơn dữ thuỷ đối cấu sinh xuân , Ai tinh xuất quái giai mạc thủ , Long huyệt sa thuỷ hợp bàn tham , Nhất cá bài lệ thiên bách cá …. Phiên thiên đảo địa đối bất đồng ,bí mật tại huyền không , Duy hữu ai tinh tối vi quý ,tiết lộ thiên cơ bí . Âm dương chi khí quán sơn hà, Kim long nhất động tế tróc mạc , Sa thuỷ quý tinh hướng hợp nghi, Nguyên vận hưng suy ai tinh thuyết. Huyền không đại quái xuất từ Huyền không ngũ kinh bao gồm: “Thanh Nang”, “Thiên Ngọc”, “Áo Ngữ”, “Bảo Chiếu”, “Thanh Nang Tự”; tương đồng với “Nguyên Không Pháp Giám”, “Băng Hải”, “Ngọc Hàm Thông Bí”. Phần căn bản của Huyền không Đại quái cốt yếu ở “ai tinh chân quyết bản sơn tinh”, “ai tinh chân quyết phụ mẫu tinh”, và "hợp cục, phản cục thượng hạ nguyên vận" Vì Huyền không đại quái thực không dễ hiểu nên phần căn bản này Nam phong tạm chia thành mục lục như sau: Mục Lục 1. Luận Huyền không đại quái 2. Huyền không đại quái ai tinh chân quyết 3. La bàn nhị thập tứ sơn bản sơn tinh 4. Huyền không đại quái ai tinh pháp tường giải ai tinh chân quyết bản sơn tinh (dương trạch) ai tinh chân quyết phụ mẫu tinh (âm trạch) 5. Huyền không đại quái chính thần linh thần tường giải 6. Nhị thập tứ sơn ai tinh chân quyết đồ kỳ 7. Luận cửu tinh: đắc thất hợp cục và phản cục đại huyền không thuỷ pháp thiên cơ đồ thượng nguyên nhất, nhị, tam, tứ thuỷ pháp đồ hạ nguyên lục, thất, bát, cửu thuỷ pháp đồ thuỷ pháp thiên cơ chân giải 8. Thượng trung hạ tam nguyên thuỷ pháp giải 1. Luận Huyền không đại quái Huyền không địa lý học, đại để thuỷ tổ là Hoàng Thạch Công, Quách Cảnh Thuần. Hoàng thạch công viết “ thanh nang kinh”, Quách Cảnh Thuần viết “ táng thư”, có thể nói là căn cơ của địa học. Đến Dương Quân Tùng thời Đường viết “thanh nang áo ngữ”, “ thiên ngọc kinh”, “ bảo chiếu kinh”, động triệt lý âm dương. Tăng Cầu Kỷ được chân truyền của Dương Công viết “thanh nang tự” dĩ minh huyền không đại quái chính quyết. Đến cuối thời Minh Tưởng Đại Hồng được Vô Cực Tử chân truyền phát dương quang đại huyền không học, tạo ra cuộc bút chiến trăm năm cùng Tam Hợp, từ những cuộc bút chiến này một số bí quyết đã được tiết lộ nhưng chủ yếu chỉ là phi tinh, riêng đại quái thực sự Tưởng Đại Hồng có nói đến nhưng do dùng ẩn ngữ và rải rác trong một số tài liệu nên hầu như không ai hiểu. Đến sau này từ Dương Thủ Vạn đại sư Huyền không đại quái mới được biết đến rộng rãi. Huyền không đại quái bí bản nếu không được chân sư chỉ dẫn, dẫu đọc ngàn quyển thanh nang, tận hết sinh lực, cuối cùng cũng không có kết quả. Hà đồ tinh nghĩa: Nhất lục cộng tông: thuỷ; nhị thất đồng đạo: hoả; tam bát vi bằng: mộc; tứ cửu tác hữu: kim; ngũ thập cư trung: thổ. Hà đồ, là địa lý chi nguyên. Kỳ thực là thiên vận chi bản, sinh tử chi cơ. Thiên nhất sinh thuỷ, địa lục thành chi: Thuỷ ở bắc phương, nên thiên nhất tại bắc, địa lục cũng tại bắc. Nhất sinh nhất thành, tương vi kinh vĩ. Thiên nhất đương lệnh là chính thần, tức lấy địa lục cũng là chính thần hỗ trợ. Địa lục đương lệnh là chính thần, tức lấy thiên nhất cũng là chính thần hỗ trợ. Lấy lạc thư phương vị đối diện là cửu, tứ làm linh thần. Xưng là nhất lục cộng tông. Địa nhị sinh hoả, thiên thất thành chi: Hoả tại nam phương, nên địa chi nhị tại nam, tức thiên chi thất cũng tại nam, địa nhị đương lệnh là chính thần, tức lấy thiên thất cũng là chính thần hỗ trợ. Thiên thất đương lệnh là chính thần, tức lấy địa nhị cũng là chính thần hỗ trợ. Lấy lạc thư phương vị đối diện là bát, tam làm linh thần, xưng là nhị thất đồng đạo. Thiên tam sinh mộc, địa bát thành chi: Mộc tại đông phương, nên thiên tam tại đông. Địa bát cũng tại đông, thiên tam đương lệnh là chính thần, tức lấy địa bát cũng là chính thần hỗ trợ. Địa bát đương lệnh là chính thần, tức lấy thiên tam cũng là chính thần hỗ trợ. Lấy lạc thư phương vị đối diện là thất, nhị làm linh thần, xưng là tam bát vi bằng. Địa tứ sinh kim, thiên cửu thành chi: Kim tại tây phương, nên địa tứ tại tây, thiên cửu cùng tại tây. Địa tứ đương lệnh là chính thần, tức lấy thiên cửu cũng là chính thần hỗ trợ. Thiên cửu đương lệnh là chính thần, tức lấy địa tứ cũng là chính thần hỗ trợ. Lấy lạc thư phương vị đối diện là nhất, lục làm linh thần, xưng là tứ cửu vi hữu. Thiên ngũ sinh thổ, địa thập thành chi: Thổ cư trung ương, nên thiên ngũ tại trung địa, thập cũng tại trung, là hoàng cực. Ngũ thập ký gởi tứ phương bát khí, xưng là ngũ thập đồng đồ. Hà đồ có lý khí, nhưng không phương vị. Có thể nhưng không dụng, cần Lạc thư phương vị để dùng. Cái tam nguyên khí vận, chính là bản chất hà đồ. Thiên nhất, địa nhị, thiên tam, là thượng nguyên. Địa tứ, thiên ngũ, địa lục, là trung nguyên. Thiên thất, địa bát, thiên cửu, là hạ nguyên. Riêng địa thập với thiên ngũ đồng tại trung nguyên. Lạc thư tinh nghĩa Đới cửu lý nhất. Tả tam hữu thất. Nhị tứ vi kiên. Lục bát vi túc. Ngũ vị cư trung. Cửu nhất hợp thập. Tam thất hợp thập. Nhị bát hợp thập. Lục tứ hợp thập. Lạc thư chi văn, là hà đồ chi số, tương quan với nhau. Có hà đồ mà không có lạc thư, tức có thể mà vô dụng. Có lạc thư mà không có hà đồ, tức có dụng mà không thể. Cái luận tam nguyên khí vận, là bản chất hà đồ. Luận tam nguyên phương vị, không thể nói ngoài lạc thư. Địa số cư tứ ngung, thiên số cư tứ chính, nhất sinh nhất thành, gọi là kinh vĩ. Nhất âm nhất dương, gọi là giao cấu. Cửu trù tòng thử sinh, cửu cung tòng thử phối, cửu tinh tòng thử ai, là kinh văn ngàn năm không đổi. Thiên nhất sinh thuỷ, bắc phương thiên nhất, thượng nguyên đệ nhất vận. Bắc phương chi thuỷ không thể tự sinh, tất cần nam phương thiên cửu chi kim hỗ sinh. Địa lục thành chi, nên tây bắc địa lục là chiếu thần. Địa nhị sinh hoả, tây nam địa nhị, thượng nguyên đệ nhị vận. Tây Nam phương hoả không thể tự sinh, tất cần cấn phương địa bát chi mộc hỗ sinh. Thiên thất thành chi, nên tây phương thiên thất là chiếu thần. Thiên tam sinh mộc, chính đông thiên tam, thượng nguyên đệ tam vận. Đông phương mộc sinh hoả, nên dụng tây phương thiên thất chi hoả để dưỡng chi. Địa bát thành chi, nên đông bắc địa bát là chiếu thần. Địa tứ sinh kim, đông nam địa tứ, trung nguyên thủ vận. Đông Nam kim sinh thuỷ, nên dụng tây bắc địa lục chi thuỷ để dưỡng chi. Thiên cửu thành chi, nên ly phương chi thiên cửu là chiếu thần. Ngũ thập ở trung ương ký gởi tứ phương bát khi nên không luận. Địa lục thành chi, Tây bắc phương địa lục, trung nguyên vận cuối. Thuỷ không thể tự sinh, tất dụng tốn phương địa tứ kim để sinh, khảm phương thiên nhất là chiếu thần. Thiên thất thành chi, Tây phương thiên thất, hạ nguyên đệ nhất vận. Hoả bất năng tự sinh, tất cần đông phương thiên tam chi mộc hỗ sinh. Địa nhị sinh hoả, nên khôn phương địa nhị là chiếu thần. Địa bát thành chi, Đông bắc phương địa bát, hạ nguyên đệ nhị vận. Mộc năng sinh hoả, nên dụng tây nam địa nhị chi hoả để dưỡng chi. Thiên tam sinh mộc, nên đông phương tam mộc là chiếu thần. Thiên cửu thành chi, Nam phương thiên cửu, hạ nguyên đệ tam vận. Kim năng sinh thuỷ. Nên dụng bắc phương thiên nhất chi thuỷ để dưỡng chi. Địa tứ sinh kim, nên đông nam địa tứ là chiếu thần. Đại để tứ sinh tứ thành nói sâu xa là ngũ hành tương sinh chi thể, nói gần hơn là bát quái điên đảo chi dụng. Cái tam nguyên phương vị, là bản thể lạc thư. Nói Lạc thư thực ra cũng không ngoài nghĩa Hà đồ. Tiên hậu thiên quái tinh nghĩa Tiên thiên bát quái, là lý khí của hà đồ. Hậu thiên bát quái, là phương vị của Lạc thư. Tiên hậu tương giao là dụng, là tử sinh hoạ phúc chi đạo. Phân Tiên thiên tứ dương quái thành thượng nguyên: Thượng nguyên nhất bạch khảm quái đương lệnh, tất cần thu ly phương thuỷ, ly tiên thiên là kiền. Nhất lục cộng tông, nên lục bạch kiền là chiếu thần. Thượng nguyên nhị hắc khôn quái đương lệnh, tất cần thu cấn phương thuỷ. Cấn tiên thiên là chấn. Nhị thất đồng đạo, nên thất xích đoài là chiếu thần. Thượng nguyên tam bích chấn quái đương lệnh, tất cần thu đoài phương thuỷ. Đoài tiên thiên là khảm. Tam bát vi bằng, nên bát bạch cấn là chiếu thần. Trung nguyên tứ lục tốn quái đương lệnh, tất cần thu kiền phương thuỷ. Kiền tiên thiên là cấn. Tứ cửu vi hữu, nên cửu tử ly là chiếu thần. Phân tiên thiên tứ âm quái thành hạ nguyên: Trung nguyên lục bạch kiền quái đương lệnh, tất cần thu tốn phương thuỷ. Tốn tiên thiên là đoài. Nhất lục cộng tông, nên nhất bạch khảm là chiếu thần. Hạ nguyên thất xích đoài quái đương lệnh, tất cần thu chấn phương thuỷ, chấn tiên thiên là ly. Nhị thất đồng đạo, nên nhị hắc khôn là chiếu thần. Hạ nguyên bát bạch cấn quái đương lệnh, tất cần thu khôn phương thuỷ, khôn tiên thiên là tốn. Tam bát vi bằng, nên tam bích chấn là chiếu thần. Hạ nguyên cửu tử ly quái đương lệnh, tất cần thu khảm phương thuỷ, khảm tiên thiên là khôn. Tứ cửu vi hữu, nên tứ lục tốn là chiếu thần. Thiên kinh tam quyết, là bí mật thiên địa, bí mật của huyền không đại quái. Dương, Tăng, Tưởng không tiết lộ cũng do câu “thiên cơ” ràng buộc. Người có duyên học được không nên khinh suất xem thường, không dùng bừa khi chưa hiểu hết. 2. Huyền không đại quái ai tinh chân quyết Huyền không đại quái xem “thể dụng làm trọng, hình khí tương hợp” là thiên cổ công thức. Hình, chỉ loan đầu hình thế. Khí, chỉ ai tinh lý khí. Nhất loan đầu; nhị lý khí. Loan đầu là thể, lý khí là dụng, cả hai không thể thiếu một. Loan đầu luận long, huyệt, sa, thuỷ, sát sinh khí thể; lý khí nói nguyên vận, linh chính, nhân sự hưng phế. Huyền không hai chữ, hàm nghĩa số từ 1 đến 9, ý chỉ nguyên vận, điên đảo thuận nghịch huyền cơ. Bí bản viết: “tam nguyên nhất thư, áo diệu vô cùng. Tông quán thiên địa vạn vật, giai lại ngũ hành dĩ thành bại; vượng tướng hưu tù, giai lại tam nguyên dĩ vận hành.” “ thanh nang áo ngữ” viết:“ khôn nhâm ất, cự môn tòng đầu xuất. Cấn bính tân, vị vị thị phá quân. Tốn thìn hợi, tẫn thị vũ khúc vị. Giáp quý thân, tham lang nhất lộ hành.” “ thiên ngọc kinh” viết: “Minh đắc linh thần dữ chính thần, chỉ nhật nhập thanh vân; bất thức linh thần dữ chính thần, đại đại tuyệt trừ căn. Phân định âm dương quy lưỡng lộ, thuận nghịch thôi bài khứ, tri sinh tri tử diệc tri bần, lưu thủ giao nhi tốn.” Lại viết: “thức đắc âm dương lưỡng lộ hành, phú quý đạt kinh thành, bất thức âm dương lưỡng lộ hành, vạn trượng hoả khanh thâm.” “ thanh nang tự” viết: “Sơn thượng long thần bất hạ thuỷ, thuỷ lý long thần bất thượng sơn. Sơn quản sơn hề thuỷ quản thuỷ, thử thị âm dương bất đãi ngôn. Thức đắc âm dương huyền diệu lý, tri kỳ thôi vượng sinh dữ tử. Bất vấn toạ sơn dữ lai thuỷ, đãn phùng tử khí giai vô thủ.” Huyền không đại quái lấy Thái cực, hà lạc, tiên hậu thiên bát quái làm lý luận căn cơ. Thuật thư hùng, kim long, thành môn là chân chính khái niệm, giảng rõ điên đảo thuận nghịch, lập hướng nạp thuỷ, thâu sơn xuất sát. Do nhị thập tứ sơn trừu hào hoán tượng, tuỳ nguyên vận, phân âm dương, nhập trung cung, hoặc thuận hoặc nghịch, gọi là ai tinh. Không luận thuận ai hoặc nghịch phi, đại đạo chí đơn giản, chỉ một bàn là thành; Ở tại gia trung, biết sơn hướng, biết thuỷ khẩu, tức tốc đoán xuất cát hung hoạ phúc cho người. Ai Tinh Chân Quyết Giáp quý thân, tham lang nhất lộ hành; khôn nhâm ất, cự môn tòng đầu xuất; Tý mão mùi, tam bích lộc tồn đáo; tuất kiền tỵ, tứ lục văn khúc chiếu; Thìn tốn hợi, tận thị vũ khúc vị; cấn bính tân, vị vị thị phá quân; Dần canh đinh, nhất lệ tả phụ tinh; ngọ dậu sửu, cửu tử hữu bật thủ. (Lời bàn thêm của Nam Phong ở phần này: Ai tinh chân quyết đã được Nam Phong so sánh với Thư hùng giao cấu đồ và Tiên thiên nguyên vận đồ, tất cả đều chuẩn xác. Đây là từ phép biến quẻ Tiên thiên mà ra, 8 quái tiên thiên lần lượt biến thượng, trung, sơ hào mà sinh 24 sao trên 24 sơn như trên. Tuy nhiên riêng 4 sơn Kiền, Hợi, Tốn, Tị lại không theo quy tắc đó, đây là một bí mật chưa có lời giải.) 3. La bàn nhị thập tứ sơn bản sơn tinh Phương vị----------nhị thập tứ sơn----------giác độ----------bản sơn tinh ----------------------Nhâm-----------------337.6~352.5-------nhị hắc cự môn 2 Chính bắc----------tý----------------------352.6~22.5--------tam bích lộc tồn 3 ----------------------Quý-------------------7.6~22.5-----------nhất bạch tham lang 1 ----------------------Sửu-------------------22.6~37.5----------cửu tử hữu bật 9 Đông bắc-----------cấn-------------------376~52.5-----------thất xích phá quân 7 ----------------------Dần-------------------52.6~67.5----------bát bạch tả phụ 8 ----------------------Giáp------------------67.6~82.5----------nhất bạch tham lang 1 Chính đông--------mão-------------------82.6~97.5----------tam bích lộc tồn 3 ---------------------Ất----------------------97.6~112.5--------nhị hắc cự môn 2 ---------------------Thìn-------------------112.6~127.5-------lục bạch vũ khúc 6 Đông nam---------tốn---------------------127.6~142.5------lục bạch vũ khúc 6 ---------------------Tỵ---------------------142.6~157.5-------tứ lục văn khúc 4 ---------------------Bính------------------157.6~172.5-------thất xích phá quân 7 Chính nam--------ngọ--------------------172.6~187.5------cửu tử hữu bật 9 ---------------------Đinh------------------187.6~202.5------bát bạch tả phụ 8 ---------------------Mùi-------------------202.6~217.5------tam bích lộc tồn 3 Tây nam-----------khôn-----------------217~232.5---------nhị hắc cự môn 2 ---------------------Thân-----------------232.6~247.5-------nhất bạch tham lang 1 ---------------------Canh-----------------247.6~262.5-------bát bạch tả phụ 8 Chính tây---------dậu-------------------262.6~277.5-------cửu tử hữu bật 9 --------------------Tân-------------------277.6~292.5-------thất xích phá quân 7 --------------------Tuất------------------292.6~307.5-------tứ lục văn khúc 4 Tây bắc----------kiền------------------307.6~322.5--------tứ lục văn khúc 4 --------------------Hợi------------------322.6~337.5--------lục bạch vũ khúc 6 4. Huyền không đại quái ai tinh pháp tường giải Huyền không đại quái luận nguyên vận chia làm thượng nguyên và hạ nguyên (thượng hạ nhị nguyên bát vận). Tam nguyên chia thành nhị nguyên. Thượng nguyên gồm 1, 2, 3,4, hạ nguyên gồm 6, 7, 8, 9. vận 5 10 năm đầu do vận 4 quản, 10 năm sau do vận 6 quản (ngũ hoàng tiền 10 niên quy vận 4, hậu 10 niên quy vận 6) kỳ thực cũng chính là tam nguyên cửu vận, chỉ bất quá đem ngũ vận chia đôi, nửa trước thuộc thượng nguyên, nửa sau thuộc hạ nguyên. “thanh nang tam tự kinh” viết: “đại huyền không, dụng cửu tinh”. Tức dùng cửu tinh thuận nghịch ai mà luận cát hung mộ trạch. Huyền không đại quái tại thượng hạ nguyên vận dụng tinh không giống nhau, cửu tinh chia hai lộ âm dương, dương thuận âm nghịch. Tức dương nhất lộ, âm nhất lộ. Huyền không đại quái ai tinh âm dương nhị trạch dụng tinh không giống nhau. Dương trạch với âm trạch ai tinh hai cách cần phân biệt rõ, không thể lẫn lộn. Nhị thập tứ sơn ai tinh, chỉ dùng ai tinh chân quyết bên trên mà lập tinh bàn, dương trạch nhập trung bài tinh bàn, ai tinh dùng bản sơn tinh; âm trạch nhập trung bài tinh bàn, ai tinh dùng phụ mẫu tinh. Phụ mẫu tinh do bản sơn tinh nghịch kinh tứ vị (987654321←) mà ra. Tinh tuỳ thượng hạ nguyên vận mà thuận phi hoặc nghịch phi, nên nói điên điên đảo, thuận nghịch hành. Ai tinh chân quyết bản sơn tinh (dương trạch) Toạ giáp quý thân sơn, tham lang nhất lộ hành; nhất bạch là bản sơn tinh, thượng nguyên dùng nhất bạch nhập trung thuận hành, hạ nguyên nhất bạch nhập trung nghịch hành. Toạ khôn nhâm ất sơn, cự môn tòng đầu xuất; nhị hắc là bản sơn tinh, thượng nguyên dùng nhị hắc nhập trung thuận hành, hạ nguyên nhị hắc nhập trung nghịch hành. Toạ tý mão mùi sơn, tam bích lộc tồn đáo; tam bích là bản sơn tinh, thượng nguyên dùng tam bích nhập trung thuận hành, hạ nguyên tam bích nhập trung nghịch hành. Toạ tuất kiền tỵ sơn, tứ lục văn khúc chiếu; tứ lục là bản sơn tinh, thượng nguyên dùng tứ lục nhập trung thuận hành, hạ nguyên tứ lục nhập trung nghịch hành. Toạ thìn tốn hợi sơn, lục bạch vũ khúc vị, lục bạch là bản sơn tinh, thượng nguyên dùng lục bạch nhập trung nghịch hành. Hạ nguyên lục bạch nhập trung thuận hành. Toạ cấn bính tân sơn, thất xích thị phá quân; thất xích là bản sơn tinh, thượng nguyên dùng thất xích nhập trung nghịch hành. Hạ nguyên thất xích nhập trung thuận hành. Toạ dần canh đinh sơn, bát bạch tả phụ ứng; bát bạch là bản sơn tinh, thượng nguyên dùng bát bạch nhập trung nghịch hành. Hạ nguyên bát bạch nhập trung thuận hành. Toạ ngọ dậu sửu sơn, cửu tử hữu bật tinh. Cửu tử là bản sơn tinh, thượng nguyên dùng cửu tử nhập trung nghịch hành. Hạ nguyên cửu tử nhập trung thuận hành. Ai tinh chân quyết phụ mẫu tinh (âm trạch) (1) thất xích là nhất bạch phụ mẫu tinh (1→7), thượng nguyên dùng thất xích nhập trung nghịch hành. Hạ nguyên thất xích nhập trung thuận hành. Bát bạch là nhị hắc phụ mẫu tinh (2→8), thượng nguyên dùng bát bạch nhập trung nghịch hành. Hạ nguyên bát bạch nhập trung thuận hành. Cửu tử là tam bích phụ mẫu tinh (3→9), thượng nguyên dùng cửu tử nhập trung nghịch hành. Hạ nguyên cửu tử nhập trung thuận hành. Nhất bạch là tứ lục phụ mẫu tinh (4→1), thượng nguyên dùng nhất bạch nhập trung thuận hành, hạ nguyên nhất bạch nhập trung nghịch hành. Nhị hắc là ngũ hoàng phụ mẫu tinh (5→2), thượng nguyên dùng nhị hắc nhập trung thuận hành, hạ nguyên nhị hắc nhập trung nghịch hành. Tam bích là lục bạch phụ mẫu tinh (6→3), thượng nguyên dùng tam bích nhập trung thuận hành, hạ nguyên tam bích nhập trung nghịch hành. Tứ lục là thất xích phụ mẫu tinh (7→4), thượng nguyên dùng tứ lục nhập trung thuận hành, hạ nguyên tứ lục nhập trung nghịch hành. Ngũ hoàng là bát bạch phụ mẫu tinh (8→5), thượng nguyên dùng ngũ hoàng nhập trung thuận hành, hạ nguyên ngũ hoàng nhập trung nghịch hành. Lục bạch là cửu tử phụ mẫu tinh (9→6), thượng nguyên dùng lục bạch nhập trung nghịch hành. Hạ nguyên lục bạch nhập trung thuận hành. Huyền không đại quái ai tinh chỉ lấy toạ sơn (24 sơn) ai tinh nhập trung phi tinh, từ đó luận bát phương linh chính cát hung; cùng một sơn hướng thượng hạ nguyên vận bài bàn không giống nhau. Không có vận tinh, hướng tinh nhập trung. Cứ toạ sơn ai tinh là 1,2,3,4, ở thượng nguyên vận sẽ thuận phi cửu cung, hạ nguyên vận sẽ nghịch phi cửu cung. (1,2,3,4 thượng thuận hạ nghịch) Cứ toạ sơn ai tinh là 6,7,8,9, ở thượng nguyên vận sẽ nghịch phi cửu cung, hạ nguyên vận sẽ thuận phi cửu cung. (6,7,8,9 thượng nghịch hạ thuận) Âm dương hai trạch cửu cung theo thứ tự lạc thư(trung ngũ→ lục→ thất→ bát→ cửu→ nhất→ nhị→ tam→ tứ cung) ai bài, các cung phi đáo tại thượng nguyên hoặc hạ nguyên 90 năm không thay đổi. Sơn hướng bất biến thì tinh nhập trung vĩnh viễn bất biến, chỉ theo nguyên vận mà thay đổi thuận nghịch nên Nguyên không có nói “Ai tinh thượng hành đảo bài 9 cung” là ý như vậy. Ví dụ: dương trạch dần sơn thân hướng, dần canh đinh tam sơn bản sơn tinh là bát bạch, tức dùng bát bạch tinh nhập trung. Không luận tại thượng nguyên hoặc hạ nguyên xây cất, cứ theo nguyên vận hiện tại, nếu là thượng nguyên dùng bát bạch tinh nhập trung nghịch hành bài bàn, nếu là hạ nguyên bát bạch nhập trung thuận hành bài bàn. Thượng nguyên bài bàn nghịch hành ai tinh: 9---4---2 1---8---6 5---3---7 Hạ nguyên bài bàn thuận hành ai tinh: 7---3---5 6---8---1 2---4---9 Hợp cục pháp tắc: Huyền không đại quái lấy hợp cục pháp tắc làm trọng(chính thần chính vị trang, bát thuỷ nhập linh đường). Ở nơi chính thần, linh thần đóng tất cần địa thế phù hợp, chính là nói hình khí phối hợp. Nếu như phạm nhằm linh chính điên đảo, bài bàn tính toán lý khí cũng chỉ là uổng phí mà thôi. Thượng nguyên lấy 1,2,3,4 làm chính thần, những nơi này cần cao, lai thuỷ, lai phong, lai khí; 6,7,8,9 làm linh thần, nhưng nơi này cần không(trống), xuất thuỷ, xuất phong, xuất khí. Hạ nguyên lấy 6,7,8,9 làm chính thần, những nơi này cần cao, lai thuỷ, lai phong, lai khí; 1,2,3,4 làm linh thần, nhưng nơi này cần không(trống), xuất thuỷ, xuất phong, xuất khí. Sơn thuỷ hình thế-lý khí hợp cục chính như câu “thuỷ lý long thần bất thượng sơn, sơn thượng long thần bất hạ thuỷ”, nếu không hợp hình cục, đừng luận ai tinh làm gì. Các cung cửu tinh cát hung, theo hợp cục pháp tắc mà đoán. Ai tinh cửu tinh bản thân tinh không cát không hung, cát hung kết quả hoàn toàn ở căn cứ hợp cục(chính thần chính vị trang, bát thuỷ nhập linh đường) hoặc phản cục (thượng sơn hạ thuỷ) mà luận định. Muốn hiểu cát hung ứng tại người nào, việc gì… cần dùng cửu tinh phối với hình tượng hoàn cảnh mà phân tích. (phần này còn: Đại quái linh chính điên đảo Đại quái định cục bí mã) Nguồn:HuyềnKhongLySo.com
-
TRÙNG TANG LIÊN TÁNG - MỘT VÀI ĐIỀU CẦN BIẾT . 1/ KHÁI NIỆM TRÙNG TANG LIÊN TÁNG . Trùng tang liên táng là một hiện tượng có thật trong cuộc sống của chúng ta . Không có nhiều tư liệu viết về hiện tương này , nhưng trong dân gian vẫn truyền tụng với nhau những trường hợp chết phạm vào Trùng tang liên táng hết sức đau thương , thậm chí có nhà nhân đinh đông đúc là thế mà chỉ vài ba năm phải chịu cảnh tuyệt tự . Tại miền Bắc Việt Nam có một trung tâm nhốt Trùng lớn nhất nước : Đó chính là chùa Hàm Long ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh .Chùa được xây dựng vào thời Lý, tương truyền đây là nơi tu hành của Thiền sư Dương Không Lộ. Nơi đây từ ngày xưa , các vị sư tăng đã có những phương pháp Trấn Trùng rất huyền bí mà hiệu quả . Hàng ngày , vào buổi chiều , các sư ở đây phải nấu một nồi cháo to , cúng thí thực cho Trùng và vong bị nhốt ở đây, bữa nào quên là gà vịt của dân quanh vùng thay nhau chết la liệt . Ngoài ra , tại miền Bắc Việt Nam , từ xưa đã có các môn phái Pháp Sư theo Bắc Tông , Pháp sư các môn phái Phù thủy của đồng bằng bắc Bộ nhất là tại các tỉnh Bắc Ninh , Hải Phòng , Nam Định ... có khả năng hóa giải Trùng tang liên táng rất hay . Thông thường , các vị sư trong chùa chỉ học theo đạo Phật chứ ít khi học theo kiểu Pháp sư , Phù Thủy , thế nhưng đặc biệt ở chùa Hàm Long - Bắc Ninh , Liên Phái - Hà Nội và một vài chùa nữa lại có những bộ ván khắc in phù giải Trùng tang liên táng từ hàng trăm năm . Theo Nguyên Vũ đã viết : "Hàm long : Chỉ nghe tên thôi cũng đã gợi lên một điều gì đó về ngôi chùa rồi. Dọc theo đường quốc lộ số 1 chỗ rẽ đi Cẩm Phả, xuất hiện một dãy núi lớn, dài 3,4 cây, ta tìm đến đầu của dãy đó là nơi toạ lạc của chùa Hàm long. Nơi đây cũng là trường trung cấp Phật giáo của tỉnh Bắc ninh. Về thế đất Tân long, huyệt kết oa, Long, hổ hoàn mỹ, ngoại minh đường rộng rãi có sông lớn chảy qua nhưng không được đẹp. Ngoài ra còn có Tứ linh chầu vào. trong chùa còn có một cây tháp đá rất cổ, thường có nước rỉ ra từ đó. tương truyền nơi đây là nơi nhốt trùng rất lớn. Tôi có một người bạn thân đã từng tu hành ở đây nói với tôi " ngày nào chùa cũng phải nấu một nồi cháo to để cúng, nếu không gà chó của dân địa phương tự nhiên lăn ra chết rất nhiều. " Trùng tang liên táng thường có các dạng như sau : " *Trùng 3 ngày( tức là trong gia đình họ hàng sẽ có người chết theo ngay, tính từ lúc có người chết trùng cho đến 3 ngày sau. Nhiều khi người này chưa kịp chôn thì người tiếp theo đã chết.Đây là trùng tang nặng nhất, làm cho gia đình không kịp trở tay vì cũng chưa biết là có chết trùng. ). * Trùng tuần đầu( tính từ lúc chết cho đến hết tuần đầu, đây cũng là trùng tang khá nặng và có thể kéo dài đến 49 ngày- tức là cúng 49 ngày đó. * Nhẹ hơn nữa tức là xảy ra vào những ngày sau đó, kéo dài cho đến hết 3 năm và có thể hơn tuỳ thuộc vào thời gian bốc mộ lên mộ tròn. Nhiều khi sự việc xảy ra vào đúng ngày cuối cùng ngay trước hôm bốc mộ do gia đình không kiêng khem cẩn thận. Sở dĩ nói trùng này là nhẹ nhất vì gia đình có nhiều thời gian để đi cứu giải. - Việc trùng nặng hay nhẹ do giờ của người chết trùng quyết định. Việc này nên nhờ các ông thầy hoặc các nhà sư cao tay xem cho. Vì vậy khi nhà có người mất thường nên đi xem ngay để nếu không may chết trùng gia đình còn kịp xoay xở. *Cách giải: - Nhà có người chết trùng phải lập tức gửi người đó lên chùa, tuy nhiên không phải chùa nào cũng giữ được vong chết trùng. Nó phụ thuộc vào sự linh thiêng của chùa và mức độ cao tay của vị sư trụ trì. Nếu trùng nhẹ các bạn có thể gửi lên một ngôi chùa nào đó gần nhà, các nhà sư sẽ hàng ngày đọc kinh niệm phật cho vong hồn siêu thoát( hay nói đúng ra là nhốt vong vào trong ngục, không cho đi lung tung kẻo quỷ sứ bắt được nó sẽ tra tấn và khai ra tên họ người nhà, càng những người hợp với vong chết trùng càng dễ bị bắt). - Nếu trùng nặng, tôi khuyên chân thành bạn phải gửi ngay vào chùa Hàm Long, dù có ở trong Nam thì cũng nên cấp tốc đi máy bay ra mà gửi. Các chùa khác nổi tiếng về cái gì thì tôi không biết nhưng đệ nhất giữ vong phải là chùa Hàm Long ( Ở Thành phố Bắc Ninh). Đây là ngôi chùa cổ mấy trăm năm nằm trên sườn núi, địa thế rất đẹp. Chùa có những cây cổ thụ cực to, và cũng là một trong những nơi đào tạo các nhà sư ở Việt Nam. Từ trong nam ngoài bắc trùng tang đều đem về đó gửi. Hàng ngày vào buổi sáng tôi thấy các nhà sư tụng kinh niệm phật cúng vong rất cẩn thận. - Khi gửi vào chùa rồi, bạn có thể yên tâm ăn ngủ nếu thực hiện đúng các điều sau( các nhà sư chắc cũng sẽ nói lại cho bạn nếu bạn đến đó): 1- sau khi gửi lên chùa, ở nhà không được lập bàn thờ cúng bái người đã chết nữa kể cả ngày giỗ tết, vì có hương là có hồn, chỉ cần bạn đốt hương và đọc tên người chết thì đó coi như chìa khoá mở ngục cho vong thoát ra ngoài. 2- Khi đưa vong lên chùa phải nhờ người không phải là họ hàng, nếu nhờ được bạn bè là tốt nhất, còn nếu không cũng phải nhờ người bên họ ngoại. Vì vong chết trùng thường rất khôn ngoan, nếu thấy người quen đưa đi thì thường nó sẽ đi theo về hoặc tệ hơn là nó đã biết trước và không đi theo. Thế nên không nên bàn chuyện đưa tiễn vong lên chùa ở nhà người chết.3- sau khi nên mộ tròn tức là người chết đã về với tổ tiên, mới được thờ cúng lại bình thường. * Có một nhà sư đã nói đặc điểm của người chết trùng (không phải ai chết trùng cũng có đặc điểm này, tôi chỉ ví dụ để bạn tham khảo thôi)là : dù có ốm thập tử nhất sinh người đó vẫn luôn tin mình sẽ sống ( kể cả là ung thư giai đoạn cuối thì vẫn tin có phép tiên), nên nếu bạn có hỏi xem người ấy có muốn trăn trối gì không thì họ thường lảng tránh câu đó không muốn trả lời. Thêm nữa nếu mất trong khoảng giữa đêm hoặc gần 6h sáng thì cũng nên cẩn thận vì đó là giờ quan, nên đi xem xét cho cẩn thận kẻo bị trùng tang mà không biết. * Ở chùa Hàm Long có các lá bùa để gia đình đeo vào trong khoảng 3 năm để tránh tai hoạ, tôi thấy một mặt là chữ nho một mặt là phật bà. * Rất tiếc là tôi không nhớ địa chỉ cụ thể, tuy nhiên bạn có thể đi đường cao tốc về thành phố Bắc Ninh, có 1 cái cầu vượt, tay trái đi vào thị xã, tay phải đi về phía chùa. Tuy nhiên chùa ở núi nên còn đi vào khá xa, tôi chỉ nhớ là có đi qua nhà máy kính nổi. sau đó thì bạn hỏi đường tiếp nhé, vì nó khá nổi tiếng mà,với lại cũng có biển chỉ đường đi về chùa đó. Tôi đã đi nhiều chùa nhưng đó là ngôi chùa cổ u tịch nhất mà tôi biết, khi tôi đến đó thấy cả dãy dài ô tô từ tứ phương đổ về- thường là những người đi gửi vong chứ ít ai đi vãn cảnh chùa lắm có lẽ vì tâm lý đó là nơi giữ vong, mọi người đến thường xong việc đi luôn, chắc cũng vì sợ ở lâu chỉ thêm đau long do thương xót người đã mất. Các gia đình sau khi gửi vong thường chỉ thực hiện được một thời gian đầu những điều cần kiêng, sau vì thương tiếc người thân đã cúng lại vì sợ ma bị đói. Đây là điều cần hết sức tránh vì các nhà sư cúng bái còn cẩn thận hơn chúng ta nhiều. Có nhiều gia đình phải gửi đi gửi lại nhiều lần vì vong theo về, vì cúng khấn ở nhà. Vì vậy bạn nên tránh những điều tôi đã nói nhé. Bạn ạh, chết trùng hoàn toàn có thể khống chế được nếu làm đúng cách. Vài điều nhắn gửi, mong gia đình bạn bình an. " ( dienbatn quên nguồn ). "Theo quan niệm của lịch số Trung Hoa và trong dân gian nói chung thì ngày trùng tang là ngày đại kỵ trong việc an táng, chôn cất. Ngày này còn có tên là ngày cướp sát. Cách tính ngày trùng tang như sau: Đối với tuổi Thân, Tý , Thìn kỵ Tỵ. Có nghĩa là người chết tuổi Thân hay tuổi Tý hoặc tuổi Thìn mà mất vào năm Tỵ, tháng Tỵ, ngày Tỵ và giờ Tỵ là bị chết vào ngày trùng tang, tuyệt đối tránh an táng vào ngày Tỵ. Tương tự như thế đối với các tuổi Tỵ, Dậu, Sưủ kỵ Sưủ, Dần, Ngọ, Tuất kỵ Hợi, Hợi, Mão, Mùi kỵ Thân. Những ngày trùng tang này rất hiếm trong năm. Theo quan niệm dân gian, nếu chôn cất vào những ngày trùng tang này thì sau khi an táng xong, một thời gian ngắn sau có thể những người khác trong thân tộc sẽ chết theo. Trong trường hợp khoảng vài tuần, vài tháng hoặc trong vòng ba năm có nhiều người chết liên tiếp thì bị trùng tang liên táng. Ngày trùng tang (trùng nhật) là ngày Dần, Thân, Tỵ, Hợi cùng trùng ngày, trùng tháng và trùng năm. Như ngày Dần, tháng Dần và năm Dần; ngày Thân tháng Thân và năm Thân... gọi là những ngày trùng. Vào những ngày trùng, kiêng kỵ tẩm liệm, chôn cất và cải táng. Người chết với bất cứ tuổi nào cũng đều xung kỵ ngày này. Trong dân gian tin rằng nếu chôn cất vào ngày trùng ắt sẽ có một người thân bị chết theo, tuy vậy vẫn nhẹ hơn trùng tang liên táng. Đối với Phật giáo thì sống chết là chuyện thường nhiên, do nghiệp lực của tự thân mỗi người chi phối. Sống và chết chỉ là hai hiện tượng trong tiến trình luân hồi bất tận. Nghiệp tuy có chung và riêng, song nghiệp riêng vẫn giữ vai trò chủ động, quyết định và có tính cách độc lập, không ai có thể thay thế cho ai. Vì thế, Phật giáo không có quan niệm về ngày trùng tang, trùng nhật và hoàn toàn phủ nhận việc ngày giờ chôn cất của một người mà có thể ảnh hưởng đến sự sống chết của người khác. Tuy nhiên, vì tập tục này ăn sâu vào tâm thức mọi người nên một vài nơi, trong tinh thần phương tiện, nhà chùa vẫn khuyên các Phật tử không an táng thân quyến vào những ngày trùng, nhằm giúp họ an tâm để chu toàn tang lễ đồng thời nỗ lực cầu nguyện, khai thị, làm phước hồi hướng cho hương linh. Đây mới là những điều cần làm để " âm dương lưỡng lợi" theo quan điểm Phật giáo." ( dienbatn ghi lại từ nguồn - Tổ tư vấn báo Giác ngộ - UIA ) Trùng tang liên táng hoàn toàn có thật , bản chất của sự việc này ra sao thì chưa có một nghiên cứu nào khả dĩ có thể giải thích được . Trong quá trình nghiên cứu về hiện tượng này , dienbatn cho rằng đó tương tự như một loài vật sống ký sinh trên xác người chết phạm vào giờ trùng . Đó chính là một trường năng lượng xấu tồn tại cùng với trường năng lượng của người chết phạm trùng . Vì lý do " Đồng thanh tương ứng - Đồng Khí tương cầu " hay hiện tượng cộng hưởng tần số . . Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương :Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và tần số của Trùng ,nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào.Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống ,dòng họ.Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều,nên trong lý thuyết về Nhạc,loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia ).Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống. Chính điều này cũng giải thích được hiện tượng chỉ có những người cùng huyết thống với người chết phạm phải giờ trùng tang liên táng mới bị , còn những người khác và con Dâu , con Rể cùng sống trong gia đình không bị ảnh hường . CHÙA HÀM LONG - BẮC NINH Một tư liệu khác nữa dienbatn sưu tập : "Theo tín ngưỡng dân gian: Trùng tang là chêt trùng vào năm tháng ngày giờ. Theo tinh thần Phật giáo Chánh Tín: thì không kiêng cử ngày giờ. Mọi sự vật đều bị chi phối bởi luật nhân-quả. Bởi vì chúng ta còn là phàm nhân nên mọi người chúng ta cũng bị chi phối bởi các tín ngưỡng dân gian. Do đó, Đức Phật-Ngài không cho chúng Tăng xem bói, coi tướng ngày giờ. Nhưng để hóa độ chúng sanh, cho nên Chúng Tăng có vị đã làm những việc này, xem như là một phương tiện nưong vào đó để hóa độ chúng sanh vì chúng sanh tín ngưỡng như thế nên các Ngài mới phưong tiện mà độ để giúp cho họ có niềm tin vào Phật vào Chánh Pháp. Nhưng hỡi ơi! Vào thời này có vị lạm dụng những việc này để kiếm tiền làm ô danh cửa đạo. Thật đáng buồn thay! Trùng tang có phải xét trên nhiều yêu tố khác như: bị thư bị yếm, phong thủy......Nói chúng ta là những người học Phật tu nhân không tin những việc này, nhưng cũng cần biết để mà xử trí khi gặp phải các vấn đề này: như trường hợp nàng Ma Đăng Già dùng chú của Phạm Thiên cám dỗ Tôn Giả A Nan, Đức Phật Ngài thuyết Chú Lăng Nghiêm và Sai Ngài Văn Thù Sư Lợi dùng Chú Phật để hóa giải chú của Phạm Thiên mà giải cứu Ngài A Nan thoát khỏi vòng dây tình ái ( ai nhiều dâm dục hay để ngăn ngừa thì nên trì tụng Chú Lăng Nghiêm, do đó các Chùa thường hay trì tụng Chú này ). Tôi xin nói về vị nữ cư sĩ khơi nguồn Mật Tông cho tôi là Người Nam Vang ( Campuchia ), ba của vị này là Thầy tu sĩ Phật giáo Nam Tông chính thống, chính vị nữ cư sĩ này đã kể nhiều chuyện cho tôi nghe như: ở miền quê mé miền Tây, có một người ghét không thích gia đình nào đó, thế rồi họ liệng vô nhà đó, chỉ 1 tờ giấy trắng, rồi người trong nhà mở ra thế là lần lần cả nhà chết hết....còn nhiều chuyện dị kỳ. Dó đó, mọi sự việc phải xét nhiều mặt chứ không nên phiến diện một phía...... Trung Hoa không thích đất nước ta vì có nhiều Thánh nhân xuất hiện và có nhiều vị tướng tài. Do đó, họ đã dùng các nhà phong thủy phù thuật trấn ếm nguyền rủa nước ta bằng nhiều cách nhiều phương diện....Cũng như Ô Mã Nhi, một vị tương sang đánh nước ta từng có lời thề:" Đánh thua VN thì đội quần đàn bà ", do đó, phụ nữ ai mà bị rớt đồ xuống sông thừơng bị mắc đàn dưới. Thầy tôi đã ra tay chữa bệnh này rất nhiều và Thầy tôi cũng đã lập Đại trai đàn để giải lời thề cho Ô Mã Nhi cũng như anh em Ngô Đình Diệm.... thoát khỏi bị đọa ( Nếu vị nào am tường về binh pháp chắc biết Ô Mã Nhi ). Đàn này rất lớn xin nguyện lực sự gia trì lực của của Chư Tăng Ni hòa Thượng nhiều nơi ẩn mật tu luyệncùng Chư Phật Bồ Tát Thánh Hiền, dưới sự chẩn tế của các pháp sư....Do đó, một lời thề đến một lúc nào đó cũng bị phá vỡ, do nguyện lực niệm lực niềm tin Phật Pháp Tăng Tam Bảo chính thống, thì bị phá vỡ bởi sức mạnh của Diệu pháp nhằm lợi lạc cho nhân sinh. Mọi việc không qua luật nhân quả, không ngoài huyền cơ là vậy. ( dienbatn ghi từ Phổ Quảng ) 2/ CÁCH TÍNH TRÙNG TANG LIÊN TÁNG : CÁCH TÍNH TRÙNG TANG ( Nhớ tính theo tuổi âm lịch ) . KIỂM TRA TRÙNG TANG NGÀY MẤT : Theo sách “ Tam Giáo Chính Hội “ : Nam nhất thập khởi Dần thuận liên tiến,Nữ nhất Thập khởi Thân , nghịch liên tiến , Niên hạ sinh Nguyệt , Nguyệt hạ sinh Nhật , Nhật hạ sinh Thời . Ngộ Tý - Ngọ - Mão - Dậu Thiên di . Dần - Thân - Tỵ - Hợi Trùng tang . Thìn - Tuất - Sửu - Mùi Nhập mộ cát dã “. Từ 1 đến 9 tuổi không tính Trùng tang. " Xin ghi lại tính Trùng Tang theo cổ truyền: 1. Địa Chi trùng Trong 12 tuổi con giáp chết bất kỳ năm tháng nào cũng kỵ 4 ngày ần, Thân, Tỵ, Hợi. Mức độ "Trùng" nhẹ hay còn gọi "trùng phục" theo dân gian. Khi chôn cất hay cải táng cũng phải cữ ngày giờ trên. 2. Trùng tang liên táng 2.1 Tuổi Thân Tý Thìn chết năm tháng ngày giờ Tỵ. 2.2 Tuổi Dần Ngọ Tuất chết năm tháng ngày giờ Hợi. 2.3 Tuổi Tỵ Dậu Sửu chết năm tháng ngày giờ Dần. 2.4 Tuổi Hợi Mão Vị chết năm tháng ngày giờ Thân. Chết năm tháng ngày giờ trên gọi là trùng tang liên táng. Sợ nhất là Trùng Năm. Khi niệm, chôn người trong thân tộc cũng phải tránh những năm tháng ngày giờ trên ứng theo tuổi. Chết ngày giờ trên gọi là ngày giờ kiếp sát (theo Tứ trụ). Dân gian gọi là Cướp Sát. Nếu thân tộc bị vào trường hợp trên rất là kinh hoàng. Cần đến Thầy gấp. Nếu nhanh có thể là 3 giờ, 3 ngày, 3 tháng lâu thì 3 năm thì mới hết. 3. Kỵ tuổi khi niệm và chôn Có 3 tuổi phải kỵ. Con trai trưởng nam tuổi Dần; dâu trưởng nam tuổi Mão; cháu trưởng nam tuổi Thìn. Kỵ giờ Dần Mão Thìn khi niệm phải tránh đi. Người chết không có con, dâu và cháu trưởng trên thì cần tránh anh trưởng và cha mẹ. 1/. Trước tiên , ta khởi Đại -Tiểu -Số -liên -tiết , nam khởi tại Dần đi thuận , nữ khởi tại Thân đi nghịch , tính đến tuổi người mất thì dừng lại. VD : Người mất là nam 68 tuổi Tại Dần ta khởi 10 , Mẹo là 20 , Thìn là 30 , Tị là 40 , Ngọ là 50 , Thân là 60 , Dậu là 61 , Tuất là 62 , Hợi là 63 , Tý là 64 , Sừu là 65 , Dần là 66 , Mẹo là 67 , Thìn là 68. Đến đây là đã đến tuổi người mất , ta dừng lại , chờ...tính tiếp Bước II 2/. Kế tiếp , ta lấy cung kế đó khởi tháng giêng , tính đến tháng người mất VD tiếp : Giả như người mất ở trên là mất vào tháng 6 , ngày 9 , giờ Dần Ở trên ta đã đếm tới cung Thìn là tuổi người đó , vậy cung kế là cung Tị khởi tháng 1 , Ngọ là tháng 2 , Mùi là tháng 3 , Thân là tháng 4 , Dậu là tháng 5 , Tuất là tháng 6. Đến đây ta lại dừng lại...chờ xem tính tiếp thế nào nhé ! 3/. Ta lần lượt tính như thế với ngày , rồi giờ. VD tiếp :Ở trên ta đã có tháng 6 ở Tuất , vậy nhích tới Hợi là mùng 1 , Tý là mùng 2 , Sửu là mùng 3 , Dần là mùng 4 , Mẹo là mùng 5 , Thìn là mùng 6 , Tị là mùng 7 , Ngọ là mùng 8 , Mùi là mùng 9. Vậy thì tới cung Thân là giờ Tý , cung Dậu là giờ Sửu , cung Tuất là giờ Dần. Bây giờ ta chỉ việc tra vào xem các cung năm tháng ngày giờ rơi vào cung nào thôi : Các cung TÝ _ NGỌ _ MẸO _ DẬU là Thiên Di Các cung THÌN _ TUẤT _ SỬU _ MÙI là Nhập Mộ Các cung DẦN _ THÂN _ TỊ _ HỢI là Trùng Tang Vậy các cung của VD này là Nhập Mộ hết , vậy là người chết đó tận số rồi vậy. Như thế con cháu sau này sẽ làm ăn khấm khá. Thường thì có cung này có cung khác , hễ càng có nhiều cung Trùng Tang chừng nào thì việc Trùng càng bị nặng thôi." ( dienbatn ghi lại từ bạn đồng tu Pháp vân ). Theo duonghoainam61 : " Trong phép tính trùng tang ta phải biết tiên lượng :trùng ngày nặng nhất-Trùng thất xa. trùng tháng nặng nhì-Trùng tam xa. trùng giờ nặng 3-trùng nhị xa trùng năm nhẹ nhất -trùng nhất xa. Ngoài ra cứ chết vào năm tháng ngày giờ :lol:ần,thân,tỵ,hợi thì cũng bị trùng tang theo phương đồ trên .Năm tính năm,ngày tính ngày... Còn phải xem người chết chôn vào ngày nào nữa để tính, nếu chết chôn: -Tháng giêng:ngày 7-19 -Tháng 2,tháng ba:ngày 6-18-30. -Tháng tư:ngày 4-16-28. -Tháng năm,tháng sáu:ngày 3-15-27. -Tháng bảy:ngày 1-12-25. -Tháng tám,tháng chín:ngày 12-24. -Tháng mười :ngày 10-22. -Tháng 11-tháng chạp:ngày 9-21. Nếu người chết mà chôn vào các ngày trên thì trong vòng ba tháng hoặc là ba năm sẽ có cha mẹ ,con cháu,anh em ruột chết nữa.Bài này khá linh nghiệm xin nhớ kỹ. Khi thấy bị phạm những điều trên rồi ,gia chủ nên tìm thầy giải hạn ngay,nên tìm các thầy tu ,cao tăng,ngoài đời thường rất hiếm.Chớ coi thường. " Có thể nhìn bảng tính sau do dienbatn thực hiện , cũng thấy dễ dàng : LIÊN QUAN GIỮA CÁC TUỔI CẦN TRÁNH KHI PHẠM TRÙNG TANG . Sách cũng viết rằng : Trùng tang Nhất xa - Ba người chết theo . Trùng tang Nhị xa - Năm người chết theo , Trùng tang Tam xa - Bẩy người chết theo . Sinh năm Kỷ Dậu nên bị Phục tang tại Địa hộ Tỵ - Tam xa . Phục - Sự quay trở lại của Vong hồn . Trùng _ Sự nhập của Vong hồn vào người sống , bắt đi theo . Trùng tang ngày là nặng nhất . Trùng tang Tháng là nặng nhì . Trùng tang Giờ là nặng thứ ba . Trùng tang Năm là nhẹ nhất . KIÊNG KỴ : Người nhà kiêng người Tam hợp tuổi , kiêng tuổi xung , kiêng tuổi Hình với Vong mệnh . Kỵ Long - Hổ - Kê - Xà tứ sinh Nhân ngoại ( Người khách các tuổi Thìn - Dần - Dậu - Tỵ không được có mặt khi khâm liệm ) . Kiêng người có cung phi Bát trạch xung khắc với Vong mệnh . Kiêng khóc thành tiếng khi đang liệm . Một bài của Trường Minh ( NCD ) về Thần Trùng : VỤ 30 : THẦN TRÙNG . Cách này ở nhiều sách hay lầm lẫn với các ngày Trùng Tang , Tam Tang , Trùng Phục...Thần Trùng là trong gia quyến , thân chủ có người chết nhằm ngày đó , nếu không Nhương Ếm thì sẽ bị tai họa chết trùng , người ta gọi là Trùng Tang Liên Táng , trong thân sẽ có người chết tiếp. Những ngày đã nói ở trên không kỵ chết mà chỉ kỵ những việc an táng , tẩn liệm , mặc đồ tang , chôn cất , xả tang... Còn như chết nhằm ngày Thần Trùng mới đáng sợ. Sau đây là ngày Thần Trùng : _ Tháng 1,2,6,9,12 : Chết nhằm ngày Canh Dần hay Canh Thân là phạm Thần Trùng " Lục Canh Thiên Hình ". Nếu thêm thấy năm tháng cũng vậy là càng nặng. _ Tháng 3 : Chết nhằm ngày Tân Tị hay Tân Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Tân Thiên Đình " , nếu gặp thêm năm , tháng nữa càng nặng hơn _ Tháng 4 : Chết nhằm ngày Nhâm Dần hay Nhâm Thân là phạm Thần Trùng " Lục Nhâm Thiên Lao " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 5 : Chết nhằm ngày Quý Tị hay Quý Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Quý Thiên Ngục " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 7 : Chết nhằm ngày Giáp Dần hay Giáp Thân là pahm5 Thần Trùng " Lục Giáp Thiên Phúc " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 8 : Chết nhằm ngày Ất Tị hay Ất Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Ất Thiên Đức " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 10 : Chết nhằm ngày Bính Dần hay Bính Thân là phạm Thần Trùng " Lục Bính Thiên Uy ". nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 11 : Chết nhằm ngày Đinh Tị hay Đinh Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Đinh Thiên Âm " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng NCD 3/ CÁCH HÓA GIẢI TRÙNG TANG LIÊN TÁNG : ( Còn tiếp - dienbatn )
-
Nhà Tọa Thìn hướng Tuất 304 độ. Nhập trạch trong vận 8 Theo như HK của Hán thì trong vận 8 này cách cục nhà này phạm Thượng Sơn Hạ Thủy. Nhưng được Tam ban liên châu là cách cục hiếm có. Theo HK Lạc Việt thì được Vượng Sơn. Sự khác biệt này được so sánh như thế nào ? Mong các Cao Nhân và ACE luận bàn và nghiên cứu . Chứng Nghiệm: Nhà vửa có thêm đinh. Kính mong các Cao Nhân và ACE xem về cách cục của nhà này.
-
Thời gian gần đây, báo chí có đưa tin về việc các nhà ngoại cảm đi tìm mộ liệt sĩ và tiếp xúc được với người "cõi âm”. Phật giáo giải thích hiện tượng này thế nào? Quan điểm của Phật giáo là thần thức sau khi chết tối đa là 49 ngày thì tái sanh vào một thế giới tương ứng với nghiệp thức. Nếu đã tái sanh vào cõi khác thì "ai” tiếp xúc với các nhà ngoại cảm? Tại sao có những người chết cách nay hàng trăm năm vẫn tiếp xúc được với các nhà ngoại cảm? "Cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được nằm ở đâu trong lục đạo. Việc các nhà ngoại cảm tìm được hài cốt của những người chết nhờ tiếp xúc với người “cõi âm” được báo chí công bố gần đây là điều có thật và rất đáng trân trọng. Thực ra, khả năng ngoại cảm của con người được biết đến từ thời xa xưa. Các nước trên thế giới, từ lâu, đã nghiên cứu và ứng dụng ngoại cảm vào nhiều lĩnh vực của đời sống, trong đó có cả quân sự. Và các nhà khoa học Việt Nam, từ khoảng 15 năm nay, đã bắt đầu nghiên cứu một cách nghiêm túc về các hiện tượng đặc biệt của con người, trong đó có ngoại cảm. Tiên phong trong lĩnh vực này là các cơ quan như Liên hiệp Khoa học Công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ Văn hóa truyền thống và Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người. Trước hết, Phật giáo không hề có quan niệm về một dạng sống được gọi là “cõi âm”. Thế giới quan của Phật giáo là vô lượng vô biên thế giới, hằng hà sa số thế giới, trong đó có thế giới Ta bà gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Hai cõi Sắc và Vô sắc là cõi giới của thiền định. Cõi Dục gồm lục đạo là các loài Trời, A tu la, Người, Ngạ quỷ, Súc sanh và Địa ngục. Cõi âm hoặc âm phủ chỉ là quan niệm dân gian dùng để chỉ thế giới của người chết đối lập với cõi người sống (cõi dương). Đối với các bậc chân sư Phật giáo đã chứng đạo, khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là chuyện bình thường, không có gì xa lạ cả. Những thiền sư, nhờ tu tập thiền định mà thành tựu Tam minh và Lục thông. Trong đó, khả năng của các nhà ngoại cảm hiện nay có thể xem như là một phần nhỏ của Thiên nhãn thông (năng lực thấy rõ mọi thứ, không ngăn ngại), Thiên nhĩ thông (năng lực nghe được tất cả các dạng âm thanh) và Tha tâm thông (năng lực biết được tâm ý của người cùng các chúng sanh khác). Chỉ có điều, các hành giả Phật giáo hiếm khi tuyên bố về thần thông, bởi thần thông thường thành tựu trước trí tuệ (chứng đắc Tứ thiền đã có năng lực của Ngũ thông, trừ Lậu tận thông) và chấp thủ hay lạm dụng vào thần thông sẽ chướng ngại giải thoát tối hậu. Vì vậy, các hành giả Phật giáo khi có sở đắc về thần thông thì đa phần thường im lặng. Đối với giới khoa học, Thiếu tướng Chu Phác, Chủ nhiệm Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, khá am tường Phật giáo khi nhận định: “Việc ‘thấy’ của các nhà ngoại cảm xét dưới góc độ khoa học hiện đại thực ra là hiện tượng Thiên nhãn thông, một trong mười lợi ích của thiền định”. Sau khi chết, thần thức thường trải qua giai đoạn trung gian, chuyển tiếp trước khi tái sanh. Khoảng thời gian cho giai đoạn mang thân trung ấm này tối đa là 49 ngày, ngoại trừ hai trường hợp cực thiện và cực ác thì tái sanh ngay lập tức vào cõi Trời hay cõi Địa ngục. Tuy nhiên, còn có trường hợp đặc biệt của thân trung ấm do chết đột ngột (đột tử) và chết một cách oan ức thì thần thức hoặc “không biết” mình đã chết, hoặc do oán hận ngút ngàn mà cận tử nghiệp bám chặt, chấp thủ kiên cố vào trạng huống “hiện tại”, được gọi là các “oan hồn”, cần phải khai thị (giải nghiệp) mới có thể chuyển kiếp, tái sanh. Ngoài các thân trung ấm, những “oan hồn”, các nhà ngoại cảm còn tiếp xúc được với những chúng sanh trong loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng đã nói rất chính xác: “Thế giới người âm rất đa dạng, phong phú, chia thành nhiều giai tầng”. Chúng sanh loài Ngạ quỷ chiếm nhiều nhất so với các loài khác trong lục đạo. Những đối tượng mà con người gọi là “ma, quỷ, thần linh nói chung…” đều thuộc “những giai tầng” của loài Ngạ quỷ này. Như vậy, “cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được bao gồm các chúng sanh đang ở giai đoạn thân trung ấm, các “oan hồn” và loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng cũng nói rõ là “tôi chưa thấy địa ngục của người cõi âm bao giờ”, bởi chỉ những người tạo các ác nghiệp và các bậc Đại Bồ tát có đầy đủ thần lực mới vào được địa ngục mà thôi. Hiện nay, các nhà ngoại cảm thường tìm kiếm hài cốt theo hai hướng. Khuynh hướng thứ nhất là các nhà ngoại cảm “thấy” được hài cốt, vẽ lại sơ đồ chi tiết khu vực ấy và hướng dẫn thân nhân tìm kiếm. Trường hợp này nhà ngoại cảm chỉ sử dụng khả năng “thiên nhãn thông” của mình để tìm kiếm và phát hiện hài cốt mà không cần trợ giúp của “chủ nhân” chính hài cốt ấy. Bởi hầu hết những hài cốt này chỉ là phần thân xác vật chất đơn thuần (địa đại-đất), còn thần thức đã theo nghiệp tái sanh. Tuy nhiên, vì các nhà ngoại cảm chưa thành tựu Đại định (tam muội) nên năng lực “thấy” của họ thường chập chờn. Tùy thuộc vào cấp độ định tâm hay trạng thái tâm của họ khi làm việc mà “thấy mờ hoặc tỏ” khác nhau, phải điều chỉnh nhiều lần mới tìm ra vị trí chính xác của hài cốt. Năng lực thấy rõ không có gì ngăn ngại này của các nhà ngoại cảm còn được vận dụng để tìm kiếm khoáng sản, thăm dò lòng đất (ngành mỏ-địa chất), khả năng khám, chữa bệnh (ngành y khoa) v.v… hiện đang được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu, khai thác và ứng dụng. Khuynh hướng thứ hai thì ngược lại, nhà ngoại cảm tiếp xúc với người “cõi âm” và họ chỉ cho nhà ngoại cảm thấy hài cốt của chính họ hoặc những người khác. Trường hợp này, sự trợ giúp của người “cõi âm” vô cùng cần thiết, do đó nhà ngoại cảm và thân nhân phải có lòng thành. Vì người “cõi âm” biết được tâm ý của chúng ta cho nên nếu lòng không trong sáng, tâm không thành khẩn, làm việc vì danh lợi thì sẽ thất bại. Những chúng sanh mang thân trung ấm, những “oan hồn” và loài ngạ quỷ đều có thể tiếp xúc được với nhà ngoại cảm để truyền thông những thông tin cần thiết. Ở đây, trường hợp đặc biệt cần lưu tâm là các “oan hồn”. Như đã nói những người chết “bất đắc kỳ tử”, chết trong oán hận tột cùng rất khó tái sanh. Mặc dù phần lớn các luận sư Phật giáo đều cho rằng thời gian thích hợp cho tái sanh của thân trung ấm thường tối đa là 49 ngày nhưng “oan hồn” là một ngoại lệ. Theo luận sư Pháp Cứu (Dharmatrata), tác giả Tạp A tỳ đàm tâm luận (Samyutara Abhidharmahridaya) thì thân trung ấm tồn tại không hạn chế thời gian nếu nhân duyên chưa đủ để đầu thai (xem thêm Đại cương luận Câu xá, tác giả Thích Thiện Siêu, NXB Tôn Giáo, 2000, tr.109). Kế thừa quan điểm này, về sau vị chân sư Phật giáo Tây Tạng Sogyal Rinpoche, bằng tuệ giác chứng ngộ của mình, trong Tạng thư sống chết (Thích nữ Trí Hải dịch) khẳng định: “Toàn thể trung ấm tái sanh kéo dài trung bình 49 ngày, và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giới trung gian để thành ma quỷ (18- Bardo tái sanh)” hay “Những người đã có cái chết kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể tiến đến giai đoạn tái sanh (19- Giúp đỡ sau khi chết)”. Vì những lý do trên, có những trường hợp tuy đã chết rất lâu nhưng vẫn chưa được tái sanh. Phần lớn những người “cõi âm” mà nhà ngoại cảm tiếp xúc, mô tả hình dáng, tính cách của họ đúng như dáng vẻ, tâm trạng lúc chết đều ở trong trường hợp này. Chính việc thần thức “ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết”, “bị kẹt trong thế giới trung gian” (lời của Sogyal Rinpoche), sự chấp thủ kiên cố, bám chặt vào trạng huống “hiện tại” trước khi chết đã tạo ra một dạng sống gọi là “oan hồn”. Do đó, Phật giáo thường lập đàn tràng Giải oan bạt độ và Chẩn tế âm linh cô hồn. Giải oan là tháo gỡ sự chấp thủ, khai thị cho “oan hồn” hiểu giáo pháp mà buông xả, tỉnh ngộ để tái sanh. Chẩn tế là ban phát thực phẩm cho loài ngạ quỷ được no đủ, đồng thời khuyến hóa họ hồi tâm hướng thiện để sớm chuyển nghiệp, siêu thăng. Như vậy, thế giới “cõi âm” vô cùng đa dạng và phức tạp, những nhà ngoại cảm nhờ có nhân duyên đặc biệt nên tiếp xúc được với họ, giúp họ truyền thông với con người. “Thông điệp” của người “cõi âm” cũng không ngoài tình thương, sự trân trọng, quan tâm lẫn nhau và đề cao các giá trị đạo đức, tâm linh. Chính những tâm tư của người “cõi âm”, nhất là các “oan hồn” đã góp phần tạo nên khí vận quốc gia, hồn thiêng sông núi. Do đó, việc cầu nguyện cho âm siêu dương thái theo pháp thức Phật giáo là điều cần làm. Ngày nay, các nhà khoa học đang nỗ lực khám phá hiện tượng ngoại cảm theo hướng trường sinh học hay năng lượng sinh học. Tuy nhiên, nếu chỉ thiên về nghiên cứu “vật chất” thì sẽ khó tiếp cận trọn vẹn vấn đề, bởi “sắc tức thị không, không tức thị sắc” (Tâm kinh). Đó là chưa kể đến hoạt dụng của tâm thức A lại da bao trùm khắp cả pháp giới, siêu việt cả tâm lẫn vật, theo Duy thức học, chỉ có tu tập thiền định mới có thể khai mở và thành tựu kho tàng tuệ giác này. (Theo Giác Ngộ)
-
Từ xưa đến nay trên thị trường xây dựng, chúng ta thường thấy thước Lổ-Ban xuất hiện bày bán rất nhiều, trên hình thức thước cuộn từ 3 mét trở lên, trước tiên là thước Lổ-Ban do T.Q sản xuất, chia chiều dọc làm hai phần, phần trên là thước tấc để đo, phần dưới là thước Lổ-Ban. Tất nhiên là ngôn ngữ trên thước cũng toàn là tiếng T.Q, mấy bác thợ nề, thợ mộc cứ thế mà mày mò “khoản đen thì bỏ, khoản đỏ thì dùng”, chứ không hiểu trong thước nói gì ?…Và cách sử dụng cho chính xác ra sao ?… Sau này các nhà sản xuất trong nước chúng ta nắm được thị hiếu người tiêu dùng, nên đã phiên dịch ra tiếng Việt và thước được bán rất chạy.Sự việc chưa dừng lại ở đó, có nhà sản xuất thước cuộn chia chiều dọc của thước làm ba phần, phần trên là thước tấc để đo, phần giửa ghi rỏ sự tốt xấu …,phần dưới cùng cũng ghi rỏ sự tốt xấu… Làm người sử dụng không biết đâu mà phân biệt loại thước nào để mà sử dụng, đành phải mày mò theo kiểu “hai thước cùng song hành, thôi đành chấp nhận gạn lọc “hai đen cùng trùng thì bỏ, hai đỏ cùng trùng thì dùng”!(Phần đen là cung xấu, phần đỏ là cung tốt). Thực chất hai thước cùng song hành đó, phần trên là thước “Khổng Tử”, phấn dưới là thước “Lổ-Ban”, hoặc phần trên là thước “Lổ-Ban”, phần dưới là thước “Khổng-Tử” tùy vào nhà sản xuất, để mọi người tuỳ thích chọn lựa mà sử dụng. Nhưng khi bán thước không có kèm theo hướng dẫn sử dụng, nên người dùng không biết tin vào phần thước nào cho phải, thôi đành chọn hai thước cùng trùng “chổ tốt” cho nó chắc, và cứ gọi nó là thước “Lổ-Ban” cũng chẳng sao ?!…Nhưng trong thực tế xây dựng, chúng ta tận dụng đến từng cm khi cần thiết, thế mà trong thước khi tìm được hai khoản đỏ trùng nhau gọi là được “cung tốt” thì lại hơi bị quá xa…thật là khổ cho người ham mê phong thủy, để cầu mong điều tốt lành ! Trong phong thủy từ xưa đến nay, người ta sử dụng nhiều loại thước “Địa lý” để sử dụng trong việc xây dựng và nhiều việc khác, trong đó có thước LỔ-BAN là được mọi người yêu chuộng nhất, vì tác dụng của nó qua hàng ngàn năm được người ta chiêm nghiệm là đúng thật với những gì trong thước đã nói. Cũng vì được mọi người yêu chuộng sự màu nhiệm của thước Lổ-Ban, nên thước Lổ-Ban sử dụng trong nhân gian đã biến dạng đũ loại kích cở khác nhau, người sử dụng không biết đâu là thật, đâu là giả, để mà chọn lựa khi cần dùng, đôi khi đã lở dùng rồi, rủi khi gặp họa do kích thước gây ra, cũng chẳng ai nghĩ là do cái thước “Lổ-Ban biến dạng” kia gây ra…. Cũng vì vậy đa số các bạn ham mê và yêu chuộng thước Lổ-Ban, đã thắc mắc và nhiều lần hỏi Admin về “Bản gốc của thước Lổ-Ban” sự thật là như thế nào? để chia sẻ cùng với mọi người, để mọi người cùng tin dùng cho nó chắc, để khỏi phập phồng lo âu khi sử dụng “dị bản của thước Lổ-Ban” hiện tràn lan trôi nổi trên thị trường. Cũng chẳng có gì to lớn khi đáp ứng đa số các bạn đã ham mê yêu chuộng thước Lổ-Ban. Nên nhân đây Admin cũng trao tặng đến các bạn có nhân duyên xem Blog này nguyên “Bản gốc thước Lổ-Ban” mà Admin đã có nhân duyên được Sư phụ truyền lại cách đây trên 30 năm. Và đã trên 30 năm nghiên cứu và thực hành phong thủy, trong đó có thước Lổ-Ban, thì thật sự thước Lổ-Ban đã mang lại những điều may mắn cho người sử dụng khi làm mới hoặc sau khi chỉnh sửa. Và khi đem thước Lổ-ban đến đo các cửa của những ngôi nhà củ, thì đến cung tốt hoặc cung xấu, thì các gia chủ đều công nhận là đúng với những gì đã xảy ra cho gia chủ. Qua kiễm chứng việc sử dụng thước Lổ-Ban trên 30 năm, Admin chỉ tin vào một thước Lổ-Ban này thôi, mặc dầu hiện nay trong nhân gian có nhiếu kích cở thước Lổ-Ban… Trước thực tế sự màu nhiệm của thước Lổ-Ban đã qua kinh nghiệm sử dụng, nhân đây Admin cũng xin thành tâm với cả tấm lòng tri ân sâu sắc, kính dâng lên hương hồn Sư phụ cùng các Đai sư phong thủy ở Hồng-Kông và T.Q đã trao tặng cho Sư phụ “Bản gốc thước Lổ-Ban”, khi Sư phụ đến hai nơi này để giao lưu học hỏi về phong thủy, và đã được Sư phụ truyền lại cho Admin. Và bây giờ Admin trao tặng “Bản gốc thước Lổ-Ban” đến các bạn có nhân duyên đọc được Blog này, nếu các bạn tin… Sau đây là nguyên văn “Bản gốc thước Lổ-Ban”: 1- Cung QUÝ NHÂN: NHẤT TÀI MỘC CUỘC. ( TỐT ).Tham lam tấn hoạnh tài.Ưng ý tự nhiên tai.Tác vật hà hội thứ.Phân minh kỳ bất sai. Cung QUÝ NHÂN còn có tên NHẤT TÀI MỘC CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Quyền lộc- Trung tín- Xác quan- Phát đạt- Thông minh. Có nghĩa cửa mà đo được cung QUÝ NHÂN thì gia cảnh sẽ được khả quan, có người giúp đỡ, quyền thế, lộc thực tăng, làm ăn luôn phát đạt, người ăn ở bạn bè trung thành, con cái thông minh trên đường học vấn. Nhưng chớ quá tham lam, làm điều bất chánh thì sẽ bị mất hết. 2- Cung HIỂM HỌA: NHỊ BÌNH THỔ CUỘC. ( XẤU ).Cự môn hiếu phục thường.Du ký tẩu tha phương.Nhất thân ly tật bệnh.Dâm loạn nam nử ương.Cung HIỂM HỌA còn có tên NHỊ BÌNH THỔ CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Tán thành- Thời nhơn- Thất hiếu- Tai họa- Trường bịnh. Có nghĩa cửa mà đo được cung HIỂM HỌA thì gia cảnh sẽ bị tán tài lộc, trôi giạt tha phương mà sống vẫn thiếu hụt, con cháu dâm ô hư thân mất nết 3- Cung THIÊN TAI: TAM LY THỔ CUỘC. ( XẤU ).Lộc tồn nhân đa lãm.Ly biệt hưu bất tường.Phu thê xung khắc mãnh.Nam nử đại gia ương. Cung THIÊN TAI còn có tên TAM LY THỔ CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Hoàn tữ- Quan tài- Thân bệnh- Thối tài- Cô quả. Có nghĩa cửa mà đo được cung THIÊN TAI thì gia cảnh coi chừng đau ốm nặng, chết chóc, mất của, cô độc, vợ chồng cắng đắng, con cái gặp nạn. 4- Cung THIÊN TÀI: TỨ NGHĨA THỦY CUỘC. ( TỐT ).Văn khúc chử vạn chương.Đời đời cận quân vương.Tài lộc tái gia phú.Chấp thằng lục lý xương. Cung THIÊN TÀI còn có tên TỨ NGHĨA THỦY CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Thi thơ- Văn học- Thanh quý- Tác lộc- Thiên lộc. Có nghĩa cửa mà đo được cung THIÊN TÀI thì gia cảnh rất tốt, chủ nhà luôn luôn may mắn về tước lộc, con cái được nhờ và hiếu thão. Cuộc sống luôn luôn được ăn ngon mặc đẹp, tiền bạc vô đều 5- Cung NHƠN LỘC: NGŨ QUAN KIM CUỘC. ( TỐT ).Vũ khúc xuân lộc tinh.Phú quý tự an ninh.Tấn bửu an điền trạch.Thông minh trí tuệ sinh. Cung NHƠN LỘC còn có tên NGŨ QUAN KIM CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Tử tôn- Phú quý- Tấn bửu- Thập thiện- Văn chương. Có nghĩa cửa mà đo được cung NHƠN LỘC thì gia cảnh có nghề nghiệp luôn luôn phát triển tinh vi đắc lợi, con cái học giõi,gia đạo phú quý,tuổi thọ. 6- Cung CÔ ĐỘC: LỤC CƯỚC HỎA CUỘC. ( XẤU ).Liêm trinh tửu sắc thanh.Lộ vong nhân đánh tranh.Quân sư lâm ly tán.Đao kiếp mãnh tri hoành. Cung CÔ ĐỘC còn có tên LỤC CƯỚC HỎA CUỘC. Gồm có năm cung nhỏ là: Bạo nghịch- Vô vong- Ly tán- Tửu thực- Dâm dục. Có nghĩa cửa mà đo được cung CÔ ĐỘC thì gia cảnh bị hao người, hao của, biệt ly, con cái ngổ nghịch, trác táng, tửu sắc vô độ đến chết. 7- Cung THIÊN TẶC: THẤT TAI HỎA CUỘC. ( XẤU ).Phá quân chủ tung hoành.Thập ác tri nghịch hành.Phá gia tài thối tán.Phiền tất bất an ninh. Cung THIÊN TẶC còn có tên THẤT TAI HỎA CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Phòng bịnh- Chiêu ôn- Ôn tai- Ngục tù- Quan tài. Có nghĩa cửa mà đo được cung THIÊN TẶC thì gia cảnh nên đề phòng bịnh đưa đến bất ngờ, tai bay họa gởi, ngục tù, chết chóc.Phải sửa cửa ngay. 8- Cung TỂ TƯỚNG: BÁC BỜI THỔ CUỘC. ( TỐT ).Phụ đồng tể tướng tinh.Kim ngân mẩn thất đinh.Ngũ âm tài đính xuất.Công hầu phú quý kinh. Cung TỂ TƯỚNG còn có tên BÁC BỜI THỔ CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Đại tài- Thi thơ- Hoạnh tài- Hiếu tử- Quý nhân. Có nghĩa cửa mà đo được cung TỂ TƯỚNG thì gia cảnh được hanh thông đủ mọi mặt: Con cái, tiền tài, công danh, sanh con quý tử, thông minh, hiếu thảo.Chủ gia luôn được may mắn bất ngờ. CÁCH LÀM THƯỚC LỔ BAN: Các bạn có thể lấy một tấm bìa giấy màu trắng dày, cứng cáp, hoặc nhờ thợ mộc cắt, bào cho bạn cái thước dày 3 mm, rộng60 mm, dài 520 mm, tất nhiên khi cắt chiều dài phải cho thật chính xác: 520 mm. Sau đó các bạn có thể lấy bút bi để kẻ cái thước Lổ-Ban và điền tên các cung LỚN, cung NHỎ vào từng ô theo mẩu dưới đây.Thế là các bạn đã có cái thước Lổ-Ban để sử dụng khi cần. Nguon: Blogphongthuy
-
Bạn geotech_ihr ơi, bạn đã vô tình từ chối một Cao Thủ rồi đấy...Ý anh ý nói hoàn toàn là có lý . Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Chào bạn :)
-
(Zing) - Quần thể lăng mộ của ông Vũ Hồng Khánh "ngự" trên mảnh đất rộng hơn 3.000 m2 giữa TP Hải Phòng. Để hoàn thành ngôi mộ "độc nhất vô nhị" này, ước chừng ông Khánh đã bỏ ra hơn 1 triệu USD. >> Người đàn ông bỏ 120 tỉ đồng để… chơi cây Ông Vũ Hồng Khánh sinh ra trong ra đình công chức nghèo tại phố Cảng, từng tốt nghiệp khoa Chế tạo máy, ĐH Bách Khoa Hà Nội. Vốn ham mê sáng tạo máy từ nhỏ, chàng kỹ sư trẻ Vũ Hồng Khánh đã sớm nổi danh với những sáng chế máy như: chế biến xà phòng, máy ép gỗ, ép mùn cưa, máy cải tạo đồng cói, máy ép cói, máy chẻ cói, máy đan cói xuất khẩu, rồi đủ các loại máy móc phục vụ nông dân như máy cày, máy gặt, máy tuốt lúa, máy cắt cỏ… Nhưng sáng tạo khiến ông "nức danh" nhất phải kể đến việc chế tạo máy uốn vành xe đạp bằng inox. Sáng chế này đã đem lại nhiều giải thưởng, bằng khen, bằng sáng tạo khoa học ViFOTEC. Đặc biệt, việc mở doanh nghiệp cung cấp vành xe đạp inox khắp Việt Nam và xuất khẩu sang Lào, Campuchia đã đưa tên tuổi Vũ Hồng Khánh lên hàng "đại gia" bậc nhất Hải Phòng thời bấy giờ. Giờ chàng kỹ sư ngày nào đã trở thành ông lão 70 tóc muối tiêu, ông khề khà kể: "Cả tuổi trẻ cống hiến cho khoa học, làm bạn với dầu mỡ. Giờ về già, tôi chỉ khao khát tự tay xây mộ cho mình lúc nằm xuống". Vậy là, để thỏa khao khát ông đã ngắm cho mình mảnh đất tại quận Kiến An, Hải Phòng làm nơi... yên nghỉ. Ông gặp tất cả những hộ dân xung quanh mảnh đất để thỏa thuận, ngã giá mua lại đất để mảnh đất được rộng rãi, vuông vức, dù đắt cỡ nào ông cũng mua. Cuối cùng, với 9 tỷ đồng, ông đã "có trong tay" mảnh đất 3.000 m2. Để bắt tay xây dựng lăng mộ cho mình, ông Khánh đã khăn gói quả mướp vào tận khu vực núi Nhồi, Thanh Hóa để tự tay chọn những khối đá đẹp nhất, đắt nhất. Ông bảo: "Đá xanh, đá đen đủ tiêu chuẩn phải nguyên khối, nguyên tảng, không có đường vân dù chỉ nhỏ bằng sợi tóc, không màu sắc pha tạp". Vì thế, ông Kha không dùng cách khai thác bằng nổ mìn mà dùng sức người khai thác, bởi theo ông, đá khai thác bằng nổ mìn sẽ om, sức bền không tốt. Mỗi tảng đá như thế giá từ 10-30 triệu đồng. Sau 5 năm cần mẫn làm việc của 3 anh em họa sĩ Trần Minh Tuấn cùng hàng trăm thợ lành nghề, khu trung tâm lăng mộ đã được hình thành. Khu trung tâm lăng mộ rộng chừng 200m2, lẩn khuất sau những hàng cau vua rợp bóng. Cổng vào lăng mộ được dựng bằng hai cột đá đen, mái cổng là một tấm đá đen lớn. Ở giữa lăng mộ là khối đá đen nặng 10 tấn, mặt trước là những dòng chữ khắc nội dung kể tài năng cũng như đóng góp của ông cho xã hội. Trên cùng tháp đá bức tượng bán thân của ông Khánh được chạm khắc tỉ mỉ. Toàn bộ phần khuôn viên lăng mộ đều được xếp bằng những khối đá trắng lớn, được mài giũa rất khít. Hầm mộ sâu trong lòng đất 4m, được bao bọc bởi những phiến đá khổng lồ, mỗi khối nặng 2,6 tấn. Ông Khánh dặn lại, khi nào ông và vợ nằm xuống, các con sẽ rút hết nước, nhấc nắp lăng mộ đưa thi hài ông và vợ xuống. Sau đó, sẽ cho nước lên nắp hầm cho... mát mẻ. Công trình được đặt tên là "vườn treo Babylon" gồm 3 bậc sàn bằng đá, 24 cột đá và một mái đá lớn. Ông Khánh coi đây là nơi nghỉ ngơi, thưởng trà. Vị đại gia này muốn xương cốt của mình nằm vĩnh hằng dưới một lớp nước để tạo sự kín đáo, yên tĩnh và cũng là để con cháu đời sau được tự hào về khả năng của ông cha mình. Căn biệt thự của ông Vũ Hồng Khánh "ngự" bên cạnh khu "lăng mộ triệu đô". Lê Trang
-
Đêm 24/8, hàng trăm người dân đã kéo đến nhà ông Dương Văn Hồng (Tiền Giang) chứng kiến cảnh gia đình ông Trần Văn Nhi (Bến Tre) đào vườn nhà ông Hồng để tìm xác đứa con gái đã mất tích 23 năm trước. Quang cảnh đào bới trong vườn nhà Dương Văn Hồng Hàng chục người “ăn theo” đến xin số đề suốt đêm làm cho an ninh khu vực trở nên náo loạn. Ông Nhi cho biết 23 năm trước ông có đứa con gái tên Phan Thị Nga (sinh năm 1969) bị mất tích. Mấy ngày gần đây, gia đình ông liên tục được chị Nga báo mộng là bị giết chết rồi bỏ vào cái lu chôn ở khu vực này. Sau đó, gia đình ông đi xem bói thì được ông thầy “phong thủy” chỉ địa điểm chôn xác của chị Nga?! Trưa 24/8, gia đình ông đến nhà ông Hồng xin được vào vườn để cúng bái và được gia đình ông Hồng đồng ý. Đến chiều cùng ngày, nhiều người đã mang cuốc, xẻng, dao... vào để đào đất lên tìm kiếm xác chị Nga. Đào đến sáng ngày 25/8 vẫn không thấy gì. Lúc này mọi người dự định lấp lại nơi đào thì có một phụ nữ tên Gái xuất hiện. Bà Gái tự xưng là bạn của chị Nga và đêm qua được báo mộng là có xác chị Nga chôn tại đây nên đề nghị mọi người tiếp tục đào. Sự việc đã gây tò mò nhiều người, buộc Công an Tiền Giang phải cử cán bộ đến để giải tán và giữ trật tự. Tuy nhiên nhóm đông người vẫn tiếp tục tụ tập, đào bới. Đại tá Lưu Văn Bình, Trưởng Công an TP Mỹ Tho, cho biết đó chỉ là tin đồn và công an sẽ tiếp tục cử cán bộ giữ trật tự ở đây trong những ngày tới. Theo NLĐ
-
(Zing) - Đám mây hình ống này dài 1.000km, cao từ 1 đến 2km và có lúc di chuyển đến 60 km/h, xuất hiện ở vịnh Carpentaria, miền Bắc Australia. Các chuyên gia khí tượng cho biết đây là một hiện tượng rất hiếm.>> Cảnh đẹp kinh ngạc ở công viên Bryce Canyon >> 16 điểm du lịch 'đáng giá' nhất hành tinh Hình ảnh ngoạn mụcđược người dân ở vịnh Carpentaria ghi lại. Ở một góc nhìn khác. Như một cây cầu vắt ngang qua bầu trời. Nhìn từ trên cao... Đám mây này dài đến 1.000km. Cao từ 1 đến 2 km. Cụm mây bồng bềnh tuyệt đẹp. Theo các nhà khí tượng, đây là một hiện tượng rất hiếm thấy. An Bình Theo V.B
-
(Dân trí) - Một tàu đánh cá của Hàn Quốc, cùng 7 thuyền viên gồm cả người Trung Quốc, đã bị Triều Tiên bắt giữ - báo chí Hàn Quốc dẫn nguồn tin của Lực lượng bảo vệ bờ biển nước này cho biết, trong bối cảnh tình hình bán đảo Triều Tiên đang căng thẳng. Tàu đánh cá đi ngang qua căn cứ của Hải quân Hàn Quốc gần đảo Yeonpyong, gần khu vực lãnh hải tranh chấp với Triều Tiên. Các giới chức Seoul cho hay Triều Tiên đã bắt giữ một tàu đánh cá của Hàn Quốc đang hoạt động ở vùng biển Nhật Bản ngoài khơi phía Đông bán đảo Triều Tiên. Trong một thông cáo hôm nay, lực lượng tuần duyên Hàn Quốc cho biết Bình Nhưỡng đang điều tra tàu đánh cá về khả năng tàu này hoạt động trong vùng kinh tế đặc quyền của Triều Tiên. "Chúng tôi đã phát hiện thấy tàu cá của chúng tôi đang bị giới chức Triều Tiên thẩm vấn trong vùng được coi là vùng biển đặc quyền kinh tế của Triều Tiên ở biển phía Đông bán đảo”. Lực lượng này không biết rõ nơi tàu đánh cá hoạt động khi bị bắt. Trong khi đó, kênh truyền hình hàng đầu của Hàn Quốc YTN dẫn các nguồn tin của chính phủ cho biết Thuyền đánh cá mang số hiệu “55 Daeseung” cùng 4 thủy thủ người Hàn Quốc và 3 thủy thủ người Trung Quốc, đã mất liên lạc ở vùng biển cách bờ biển Triều Tiên 270km về phía Đông vào khoảng 11 giờ sáng 8/8 giờ địa phương. Theo YTN, lần liên lạc cuối cùng, tàu đanh cá này cho biết “đang tiến về cảng Sungjin của Triều Tiên”. Hãng tin Yonhap thì đưa tin rằng tàu Daeseung có thể đã bị bắt giữ sau khi vào Vùng đặc quyền kinh tế của Triều Tiên. Chính phủ Hàn Quốc hy vọng Triều Tiên thực thi các biện pháp phù hợp với luật pháp và công ước quốc tế và sớm thả tàu đánh cá của Hàn Quốc, Yonhap dẫn lời một quan chức giấu tên nói. Truyền thông Hàn Quốc cho đến nay không đưa ra bình luận nào về tin này. Sự việc xảy ra khi Hàn Quốc tổ chức một đợt diễn tập chống tàu ngầm quy mô lớn kéo dài 5 ngày ở ngoài khơi bờ biển phía Tây nước này, bắt đầu từ hôm 5/8. Hàng nghìn binh sĩ và thủy thủ đã tham gia đợt tập trận ở các vùng nước gần nơi tàu chiến Hàn Quốc Cheonan bị đắm trong một vụ nổ hồi tháng 3 mà Hàn Quốc và Mỹ cáo buộc Triều Tiên là thủ phạm. Nhật Mai Nguồn:DanTri
-
Kính gửi BQT. Hiện nay bài viết khi đăng lên thì không thể vào edit được và bị lỗi về font chữ và hàng. Kính mong BQT có thể điều chỉnh để ngày càng hoàn thiện hơn. Xin cám ơn. Trân trọng.
-
Cận cảnh di sản văn hóa Hoàng Thành Thăng Long Nằm giữa những tuyến phố tấp nập của thủ đô, khu di tích Hoàng thành Thăng Long bình yên trong nắng hè, ghi dấu những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc... của biết bao triều đại. > Hoàng thành Thăng Long được công nhận là Di sản thế giới Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long, được các triều đại xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử. Thành bao quanh bởi đường Trần Phú - Điện Biên Phủ - Độc Lập - Hoàng Văn Thụ - Hoàng Diệu - Phan Đình Phùng và Nguyễn Tri Phương. Ngày 1/8, khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới. Phạm vi di sản được thế giới công nhận chính là khu khảo cổ 18 Hoàng Diệu và các di tích cạnh đó. Đây chính là trục trung tâm của Cấm Thành còn sót lại, gồm: Cột cờ - Đoan Môn - Kính Thiên - Hậu Lâu và Bắc Môn. Đoan Môn, cửa chính đi vào Hoàng thành Điện Kính Thiên, nơi vua và các bá quan trong triều họp bàn quyết định việc nước. Đây vốn là trung tâm của Hoàng Thành. Hậu Lâu, nơi các cung tần mỹ nữ ở. Kiến trúc Hậu Lâu gồm các lớp mái lầu lợp bằng ngói ống, các mái đao trang trí đầu rồng. Cổng dẫn vào điện Kính Thiên được xây gạch với kiểu nóc mái chồng 2 lớp. Súng thần công bằng gang trước cửa điện Kính Thiên Rồng đá trước điện. Thành Bắc Môn được xây bằng đá tảng, gạch nung rất kiên cố từ triều Nguyễn Hai vết đại bác của quân Pháp bắn vào thành Hà Nội ngày 25/4/1882 trên thành Bắc Môn. Tổng đốc Hoàng Diệu đã anh dũng chỉ huy quân dân chiến đấu bảo vệ thành. Toàn cảnh Hoàng thành nhìn từ trên cao. Quang Xuân Nguồn: http://vnexpress.net
-
Do sự tồn tại của Đại ngã trong cấu trúc và bản thể của mình con người hợp với “Trời, Đất “ thành Một . Đó là nội dung của nguyên lý Thiên Địa Nhân. Về mắt sinh học nguyên lý đó biểu hiện như sau: Năng lượng của trời đi xuyên qua luân xa 7 Bách hội, rồi chảy xuống theo con đường tủy sống. Mặt khác năng lượng của Đất đi qua luân xa 1 Hội âm, rồi chảy lên phía trên , cũng theo con đường tủy sống. Theo Phương Đông, Trời được coi là Dương còng Đất là Âm. Như thế trong con người Dương giáng Âm thăng. Chính hai quá trình Dương giáng Âm thăng này của năng lượng Trời Đất trong tủy sống của nhân thế đã tạo ra được mọi nguồn năng lượng cho sự sống của con người .Do các năng lượng này giao nhau nên người xưa nói rằng con người là vạch nối giữa đất và trời. Nền văn hóa truyền thống Việt Nam đó đã mang trong long nó một tinh hoa nào đó. Và một số câu hỏi cần đặt ra một cách rất nghiêm túc. Những chiến công hiển hách của dân tộc chúng ta từ trước đến nay phải chăng là do một sức mạnh của một tinh hoa nào đó của chính dân tộc chúng ta,. Nếu vậy, tinh hoa đó là gì và tìm ở nơi đâu.? Theo lịch sử, một trong những vấn đề có liên quan là vấn đề Địa Linh và Địa Linh sinh Nhân Kiệt. Trong Văn Miếu Quốc Tử Giám Có Đoạn “Hiền tài là nguyên khí của đất nước …….” Tất nhiên hiền tài với nhân kiệt là đồng nghĩa. Còn nguyên khí chính là bản thể của Địa Linh. Đất nước chúng ta có những Địa Linh như Núi Tản Viên, Tam Đảo , Ngũ Hành Sơn , núi Yên Tử , Hồ Tây , Hồ Hoàn Kiếm, Chùa Hương. Điều quan trọng là đề ra một cách thực nghiêm túc các nguyên tắc , phương pháp bảo vệ các Địa Linh đó và tìm hiểu nghiên cứu về các địa linh này. Địa Linh liên quan đến Núi và Sông Philippin là án của Viêt Nam theo thế đất phong thủy Chẳng hạn, nguyên khí từ Trời xuống trên rặng núi Hymalaya theo hình xoắn lốc, xem như một anten. Dẫy núi này vươn cao ở hai đầu giữa là Bình nguyên Tây Tạng. Về phía Ấn Độ là đỉnh Kailas, về phí Trung Quốc là đỉnh Côn Luân. Thiên nguyên khí sau khi xuống đỉnh Kailas, sẽ thấm vào một hố tròng gọi là hố tròn Manasovara , nước hồ là một trường hấp thụ nguyên khí đó. Nguyên khí này được 4 dòng sông Bramaputas, Indus, Kamakli ,Stulej mang theo và tạo nên nền văn minh Ấn Độ. Còn Thiên nguyên khí xuất phát từ đỉnh Côn Luân sẽ thấm vào một hồ hình bán nguyệt tên là Raskatal và được hai dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử mang đi để tạo nên nền văn minh Trung Hoa. Cuối cùng dòng sông thứ năm xuất phát từ hồ Manasovara là Cửu Long Giang đi băng qua Vân Nam, Lào, Campuchie và chảy về Việt Nam suốt từ Bắc chí Nam dọc theo dẫy Trường Sơn ở đó nó lại mang them nguyên khí của dẫy núi này và tạo nên nền văn minh Việt. Các địa linh lại liên quan đến một hệ thống nào đó gọi là Hàng rào tâm linh, quan hệ hữu cơ đến các hiền tài, các anh hùng dân tộc là một hệ thông tinh hoa tạo nên nền văn hóa dân tộc và che chắn cho dân tộc. Chiến lược giáo dục tương lai cho con em chúng ta sẽ liên quan đến các vấn đề phát hiện, bảo vệ và phát triển Tinh hoa trên như thế nào? Nguồn:http://thanhtanvien.com
-
Trước khi đi vào các thế đất cụ thể sau này, cần lưu ý đến một số điểm sau: 1. Các thế đất này là thế đất tự nhiên, được hình thành theo quy luật Thiên - Địa nào đó. Nếu có thể cho phép đi xa hơn theo một kiểu ngoại suy nào đó từ nhân thể, thì Mặt Đất – cũng giống như hình thể con người - phải có những chỗ lồi, chỗ lõm, những chỗ “phát, nhận” năng lượng từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong…Các chỗ lõm này phải tuân theo các quy luật xác định, nhằm bảo vệ, duy trì sự tồn tại của con người hay Quả Đất. Ngày nay, một số thế đất tự nhiên đã bị san bằng - tại các thành thị chẳng hạn- và chủ yếu chỉ còn lại ở các vùng đồi núi, cao nguyên, các vùng con người chưa hề đặt chân tới. Tuy nhiên, con người trong thế kỷ sau sẽ trở lại với thiên nhiên một phần nào, hạn chế phần nào sự phá phách Thiên Nhiên của mình, và từ đó một phần nào sẽ sống trong bối cảnh Thiên Nhiên sẵn có với các thế đất của nó. Trước mắt, có thể quan sát các thế đất của tổ tiên nhiều đời. Theo thống kê của Pháp (Raymong Réant) thì hài cốt tổ tiên còn ảnh hưởng đến người sống trong 600 năm. 2. Trong phần tiếp theo sau đây, có một số thế đất có dạng đặc biệt, như dạng cái bút (có đầu nhọn). Cổ nhân xem đây là biểu tượng của khoa bảng, của sự thành đạt trong thi cử…Nếu đối chiếu với nền văn minh hiệnđại, thì biểu tượng của khoa bảng không chỉ là cái bút kiểu xưa mà còn phải là cái bút bi hay cái máy vi tính! Thành thử cần hiểu các thế đất sau đây như thế nào, khi có xuất hiện hình bút? Để tôn trọng văn hoá truyền thống, chúng tôi vẫn giữ lại ý nghĩa biểu tượng khoa bảng của thế đất hình bút.(tác giả xin trân trọng cảm ơn anh Trần Xuân Hiến đã giứp đỡ tác giả trong việc dịch một số tư liệu từ tiếng Trung Hoa sang tiếng Việt). www.thanhtanvien.com
-
Sáng mai, Quốc hội sẽ bàn thảo về Quy hoạch Hà Nội tại hội trường. Chương trình thảo luận này sẽ không được truyền hình trực tiếp trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam. Đành chờ nghe các PV thuật lại vậy! Ngày mai, chắc Quốc hội sẽ bàn chủ yếu về Trục Thăng Long và TTHCQG sẽ đưa lên Ba Vì vì đó là hai vấn đề cộm cán gây bức xúc trong dư luận nhất..Tôi được biết có một số đại biểu Quốc hội thường xuyên ghé đọc Blog này (trong đó có 3 vị nói trực tiếp với tôi điều này). May mắn đêm nay, có đại biểu nào lạc vào đây trong một đêm khó ngủ, đọc đến những dòng chữ này, thì là điều tôi mong đợi nhất. Trước đây, tôi đã phát biểu về việc làm ngược đời của Bộ Xây Dựng (mà chủ yếu là anh em ông Bộ trưởng Nguyễn Hồng Quân và Thứ trưởng Nguyễn Đình Toàn). Bộ này thay mặt Chính phủ VN thuê nhà tư vấn nước ngoài PPJ làm đồ án quy hoạch. Nhà tư vấn lại thuê lại 2 Viện của Việt Nam làm cho họ(1 của Bộ Xây dựng và 1 của UBND TP Hà Nội). Có lẽ vì thế mà anh em ông Bộ trưởng cứ xông lên Truyền hình và báo chí để bảo vệ quyết liệt cho đồ án này (?). Có lẽ vì đồ án quy hoạch do người Việt Nam làm, nên nhất định phải đưa vào một tí tâm linh cho nó đậm đà truyền thống, vì thời gian qua người ta nói về cái chiếu dời đô của Lý Công Uẩn rất nhiều (?). Trục Tâm linh (sau gọi tránh là Trục Thăng Long) vừa được bày ra tức thì đất hai bên trục này và cả vùng núi Ba Vì sôi lên ùng ục. GS. Trần Trọng Hanh gọi trục đường này là cái mũi tên đã được đặt lên cái cung để bắn vào TTHCQG Ba Vì. Cách nói rất hình ảnh của GS Trần Trọng Hanh làm tôi nhớ đến một câu chuyện đã xảy ra cách đây khoảng 1000 năm mà tôi có dịp đọc trong tài liệu và khảo sát trên thực địa. Đó là khi triều đình nhà Lý xây dựng chùa Dạm trên núi Lãm Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh), quy mô hoành tráng, là một trong những "chùa hoàng gia"(Chữ dùng của PGS. Chu Quang Trứ) nối tiếng trong lịch sử. . Cột đá Chùa Dạm hoành tráng vẫn đang thách thức hậu thế. Hiện nay không ai khẳng định được đây là cái gì. Khi chùa dựng xong, nhà vua nghe theo ai đó xui bậy, cho đào một con ngòi để tiện bề thuyền ngự của nhà vua và hoàng gia ghé vào bến nước tận chân núi trước cửa chùa. Nhưng, chỉ một thời gian ngắn, chùa Dạm trở thành phế tích. Nay chỉ còn một cột đá (có phiên bản đặt tại Bảo tàng Mỹ Thuật VN, Hà Nội), một tấm bia mờ hết chữ nghiêng ngả trong tàn hoang bụi rậm, và mấy chục tấm tảng kê chân cột. Còn con ngòi - tên gọi là NGÒI CON TÊN - tức Ngòi Mũi Tên) thì vẫn còn đó. Nay, lên núi Lãm Sơn, đứng ở nền phế tích chùa Dạm nhìn xuống, vẫn là ngòi CON TÊN, nước trắng xóa như chiếc mũi tên bằng thép đang lăm lăm bắn vào phế tích! Hoang tàn bia đá ngả nghiêng Chùa hoàng gia giờ chỉ còn những tảng kê chân cột Tôi cũng phân tích rằng: Trong lịch sử, xứ Đoài chính là nơi nhà Lý nhốt giữ tù binh; là nơi ẩn cư của các kẻ sĩ lánh đời, chán đời, bất đắc chí, bất lực và quay lưng với thời cuộc. Còn nay thì sao? Xứ Đoài hiện là nơi nhà nước xây dựng những trung tâm giáo dưỡng phục hồi nhân phẩm, trung tâm cai nghiện. Hơn thế Ba Vì còn là nơi người ta xây dựng siêu nghĩa trang có thể giải quyết việc an táng của thành phố chục triệu dân. .Xứ Đoài chưa bao giờ là vùng kinh tế năng động. Nơi này chỉ thích hợp để bảo tồn văn hóa, làm du lịch văn hóa và du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Đã 12 năm nay, Khu Công nghệ Cao Hòa Lạc đặt ở đây nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được bao nhiêu. Đại học Quốc gia cũng vậy. Hình như, tự vùng đất này đã có cơ chế tự bảo vệ rồi! Sấm Trạng Trình nói rằng: “Đoài phương tĩnh nhất khu”(xứ Đoài là một phương yên tĩnh”) là vì thế. Nếu đưa Trung tâm Hành chính Quốc gia về chân núi Ba Vì, tức là đặt Chính phủ và các cơ quan của chính phủ vào trạng thái nghỉ ngơi, không năng động, không linh hoạt… thì rất tai hại. .Ngoài ra, chúng ta đều biết vùng Sơn Tây là nơi Bộ Quốc Phòng đặt các trường đào tạo sỹ quan cho quân đội, cũng là nơi đóng quân của nhiều đơn vị quân đội, nhà máy quốc phòng. Ở đấy là vùng khí hậu khắc nghiệt (dân gian nói “Chó ăn đá, gà ăn sỏi”, và “nắng Sơn Tây, mây Ba Vì”) và địa hình địa vật tự nhiên phù hợp với việc thao diễn, luyện tập của quân đội. Vì thế, đưa Trung tâm Hành chính quốc gia về đây sẽ gây xáo trộn nơi này! Các bản đồ địa chất cũng cho thấy vùng núi Ba Vì có nhiều vết đứt gãy. Tại khu vực mà đồ án quy hoạch dự kiến đặt TTHCQG lại là vùng có hai đường đứt gãy giao nhau, càng tăng thêm lo ngại nếu đặt ở đây các công trình xây dựng lớn. Vì những lẽ trên, tôi rất mong các đại biểu Quốc hội nước ta không nên biểu quyết đưa TTHCQG lên vùng Ba Vì nói chung và lên xã Yên Bài nói riêng. Và chúng ta cần phải nói KHÔNG với cái Trục Tâm linh (Trục Thăng Long) đã được nhà tư vấn PPJ và Bộ Xây Dựng vẽ ra. Nguyễn Xuân Diện. Nguồn:nguyenxuandien.blogspot.com
-
(Zing) - Ông Nguyễn Văn Tung quả quyết: "Tôi vẫn đang ngồi bên một cột trụ của của miếu thì có tiếng động rung người. Khi ngẩng mặt lên, ba cột trụ còn lại bỗng nổ tung trong chớp mắt. Gần 30 người thợ ai nấy đều thất kinh"...Câu chuyện thần thánh, ma quái ở khu đồi sau làng Bích Nham còn được thêu dệt thêm phần kỳ bí bởi cây đa và cây lách cổ thụ đã ngự trị ở đây cả trăm năm. Theo lời kể của bà Tăng Thị Mức (70 tuổi), người dân thôn Bích Nham, từ khi bà còn nhỏ đã thấy cây đa, cây lách ở đây lớn lắm rồi, cỡ chục người ôm không xuể. Bà Mức bảo: "Hồi đó tôi có hỏi ông nội, cây đa, cây lách ở làng mình bao nhiêu tuổi. Ông xoa đầu tôi nói: từ lúc ông lớn lên cũng thấy có cây này ở đây rồi. Chẳng ai biết được nó bao nhiêu tuổi nữa, nhưng nghe người làng đồn đại tuổi nó cỡ hơn 300 tuổi". Một phần thân của cây đa cổ thụ. Nói rồi, bà dẫn tôi ra chỗ cây đa, cây lách nằm nép bên góc đồi sau làng Bích Nham. Thấy tôi ngạc nhiên ngước nhìn cây đa cao cỡ gần hai chục mét, bà Mức khoát tay: "Trước đây, cây này to gấp 5,7 lần, thanh niên trong làng còn lập cả sân bóng chuyền dưới tán đa. Nhưng không hiểu nguyên nhân gì cây đa cứ mục rỗng dần rồi từ từ lụi, đây chỉ là một cái gốc nhỏ và rễ tả của cây". Bà Mức cho biết thêm, cách đây vài năm, cây đa này có hai rễ phụ bên tả, bên hữu rất đẹp. Tuy nhiên, anh Nguyễn Văn Quang, là người dân trong làng trong lúc làm móng nhà gần chỗ cây đa đã chặt đi một bên rễ. "Có nhiều người cho rằng chính vì việc làm này đã khiến dân làng Bích Nham mất lộc. Nếu giữ nguyên cả rễ tả, hữu hẳn đất này đã thịnh lắm", bà Mức thở dài. Về phần anh Quang, bà Mức kể, sau khi chặt một nhánh của cây đa cổ thụ, gia đình anh cũng "liểng xiểng", vợ chồng ly tán. Hiện anh ta đã bỏ vào rừng làm than, sống khép kín, tính tình "dở dở ương ương". Một điều kỳ lạ khiến dân làng chắc mẩm đây là cây đa thiêng do rễ cây mọc tua tủa, ôm xung quanh cái bàn đá to chừng 6m2. Về phần cây lách, chính những người dân bản địa cũng khẳng định là chưa từng nhìn thấy loại cây này và cũng không hiểu sao lại có cái tên lạ như vậy. Điều đặc biệt là trong lòng cây lách có tổ ong lớn to cỡ cái thúng, loài ong làm tổ trong thân cây này cũng không ai biết là ong gì. Người ta chỉ kháo nhau đây là loài ong cực độc do có hai đứa trẻ trong làng trèo lên cây bắt tổ chim, vô tình bị ong đốt. Loài ong lạ trong thân cây lách. Nguyễn Văn Khương, một trong hai cậu bé bị đốt vào đùi cho biết, mỗi ngày trở trời em lại thấy đau nhức. Còn Nguyễn Văn Thể bị đốt vào môi thì môi sưng vù như con đỉa, bầm tím 6-7 năm, đến giờ thỉnh thoảng lại đau đớn đến độ không ăn được cơm. Thể cũng được bố mẹ đưa đi chữa trị nhiều lần nhưng chưa khỏi. Từ đó, không đứa trẻ nào dám nghịch dại trèo lên cây đa, cây lách nữa. Lời đồn về đồi thiêng vang xa, nhiều người dân xã lân cận cũng tìm đến Bích Nham cúng lễ. Có người đem tặng làng một pho tượng thờ. Dân làng bàn nhau xây dựng một miếu nhỏ để bảo quản pho tượng cũng tiện cho việc thờ cúng của bà con quanh vùng. Tuy nhiên, câu chuyện xây miếu thờ theo lời kể của dân làng cũng nhiều phần "liêu trai". Ông Nguyễn Văn Trung, 81 tuổi, là người trực tiếp phụ trách việc xây miếu thờ, đưa tay quệt mồ hôi kể lại: "Lần thứ nhất tôi và một vài người nữa xây miếu, nhưng khi vừa hoàn thiện thì bỗng nhiên đổ sập xuống. Dân làng cho rằng, tại tôi làm ẩu nên mới xảy ra sự cố. Ông Trung và bà Mức kể cho tác giả nghe về hai lần xây miếu của làng. Đến lần thứ hai, lúc bấy giờ là vào khoảng năm 1969 - 1970, tôi cùng gần 30 người nữa phụ trách xây miếu. Lo sợ sự cố, lần này chúng tôi chọn 2 cây tre cuốn, cột miếu xây 30-20, xi măng tốt. 4 cột xây lên vững chãi, khi ấy tôi ngồi lên một cột để chuẩn bị cho phần xây mái thì bỗng đâu có tiếng động rung người, ngoảnh lại, 3 chiếc cột còn lại đã vỡ tung, gạch đá rơi loảng xoảng. Điều lạ là những người đứng xung quanh không ai bị thương, phích, bát, chén... cũng không hề hấn gì. Chừng ấy người thất kinh, hoảng hốt. Sau có ông thầy bói đến coi đất và nói rằng: Thánh ở trần, không xây lên được. Hiện tại, pho tượng được dân làng đúc khung tôn nhỏ để bảo quản, dân trong làng cũng không ai nhắc đến việc xây miếu thờ nữa". Ngôi miếu lợp tôn của người dân làng Bích Nham. Ngôi miếu nhỏ mà dân làng gọi là miếu Vóc, trong văn trào của làng có ghi là miếu thờ Đức Thiên quan Đại thần, hiện giao cho bà Mức trông nom, nhang khói. Cứ mỗi dịp rằm, mùng 1 hoặc lễ Tết đều rất nhiều người dân đến lễ tạ, thậm chí cả những người ở Hà Nội nghe tin đồi thiêng cũng tìm về cúng bái. Nhưng đồ lễ tịnh không ai dám động vào hoặc tự ý lấy mang về. Nghe những câu chuyện và lời đồn đại của dân làng Bích Nham về khu đồi thiêng quả thực rất kỳ bí và khó tin. Cũng có khả năng, một phần câu chuyện là do "tam sao thất bản" mà ra. Tuy nhiên, sự khẳng định "như đinh đóng cột" của nhiều người dân "mắt thấy tai nghe" về các câu chuyện như trên cho thấy ngoài những thông tin "dị bản" có thể có cả nhiều chi tiết là do sự ngẫu nhiên. Nguồn: Zing.vn
-
Chúc mừng Sinh nhật cô Wildlavender! Chúc cô luôn Hạnh phúc và nhiều niềm vui trong cuộc sống.
-
Thật tuyệt vời. Chúc huynh ngày càng phát triển thương hiệu của mình... http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/rolleyes.gif
-
Video clip thiệt là bổ ích, hy vọng phong thủy Lạc Việt sẽ ngày càng lan nhanh để mọi người đều biết đến. :lol:
-
Chúc Mừng Sinh Nhật Artemisia. Chúc Artemisia luôn luôn trẻ đẹp và thành công trong mọi lĩnh vực :( :( :( :blink: :blink:
-
Hoảng loạn vì rắn độc lạ bò về khắp làng Trời sáng, vợ anh Cảnh xuống bếp nấu cơm cũng chết điếng người khi lũ rắn thò đầu ra đống củi, mái bếp, tất cả khoảng vài chục con bò, trườn, quấn, vặn trên nền bếp, đống củi. Chỉ trong khoảng nửa ngày, hơn 300 con rắn độc không biết từ những ngóc ngách nào trườn ra, chúng bò la liệt khắp làng. Người dân đi đâu trong tay cũng lăm lăm chiếc gậy, gặp rắn là đánh nhưng đánh không xuể. Rắn bò đầy sân và bị đánh chết ở nhà một gia đình trong thôn Phúc Hoà. Sáng dậy thấy rắn bò đầy đường Khoảng 3h sáng 10/4 vừa qua, Quách Cảnh, một nông dân trong thôn Phúc Hòa thị trấn Trung Tâm, Tăng Thành, Quảng Đông, Trung Quốc đi ra đầu làng thì kinh hoàng phát hiện gần 10 con rắn đang bò vào cửa sổ nhà mình. Toát mồ hôi hột, phải mất một lúc anh mới trấn tĩnh lại và lập tức lấy gậy đánh chết những con ác xà ấy. Sau đó, vợ anh Cảnh xuống bếp nấu cơm cũng chết điếng người khi lũ rắn thò đầu ra đống củi, mái bếp, tất cả khoảng vài chục con bò, trườn, quấn, vặn trên nền bếp, đống củi. Chị kinh hoàng thét lên, mọi người đổ xô vào đánh, nhưng càng đánh chúng bò ra càng nhiều. Đến trưa 10/4, chỉ riêng nhà anh Cảnh đã đánh chết hơn 50 con rắn. Những cụ cao niên trong làng 80, 90 tuổi cho hay, trong đời mình chưa bao giờ chứng kiến cảnh tượng hãi hùng đến thế. Họ chưa từng gặp ở đâu nhiều rắn như ở chính làng mình bây giờ. “Nhà hàng xóm kế bên đây sáng nay cũng có ba bốn con bò vào nhà, may mà chưa ai bị rắn cắn" – anh Cảnh kinh hoàng kể lại. Để phòng rắn cắn, rắn bò vào nhà, người dân đã đi mua lưu huỳnh rải bốn xung quanh nơi ở. Đến chập tối ngày 10/4 lũ rắn không những không đi khỏi làng mà như ngày càng phát cuồng phát dại. Khắp đường làng, chỗ nào cũng có rắn bò, có đoạn cả đàn rắn bò trườn la liệt, uốn éo, chúng mổ nhau, cắn xé và phát ra những tiếng phì phì, đêm tối những âm thanh đó càng vọng rõ khiến người ta sởn da gà. Cả thôn Phúc Hòa bước vào “kháng chiến”, những hộ như anh Cảnh phải tạm thời di chuyển sang nhà khác chưa phát hiện rắn bò vào ở nhờ, trong một ngày người ta đánh chết hơn 300 con rắn, nhưng vừa đánh chỗ này lại thấy rắn bò ra từ chỗ khác. Cảnh sát, dân phòng cũng được huy động nhưng xem ra hiệu quả chưa ăn thua. Đàn ông trong làng chia nhau đi tìm bắt rắn lạ. Không phải rắn bản địa và không sợ người đánh Những người dân thôn Phúc Hòa khi được hỏi đều cho biết họ chưa từng gặp loài rắn này bao giờ. Những con rắn xuất hiện trong làng này cùng một loài, dài khoảng 30 cm và to bằng ngón tay, vỏ nâu sậm có nhiều đốm đen, đầu hình tam giác rất giống các loài rắn độc. “Những con rắn này rất lạ, bình thường rắn độc hễ gặp người là chúng bỏ chạy, đằng này thì không. Chúng cứ nằm đấy trừng mắt nhìn, bị đánh chúng cũng không bỏ chạy”. Một người dân cho biết. Mấy hôm nay người dân thôn Phúc Hòa luôn sống trong tâm trạng nơm nớp lo âu, không dám ngủ vì sợ rắn vào nhà. Các cơ quan chức năng đã vào cuộc, một vài con đã được bắt đưa đi xét nghiệm. Kết quả ban đầu cho biết đây là một loài rắn độc, triệu chứng đầu tiên khi bị loài rắn này cắn là suy thận cấp dẫn đến tử vong. Nhiều người dân đang hết sức hoang mang, đánh mấy ngày vẫn chưa hết rắn. Sau rắn và những nỗi kinh hoàng, khiếp đảm do rắn mang đến, người ta lại đồn thổi sắp xảy ra… động đất mạnh nên rắn mới bò ra nhiều thế. Cơ quan chức năng tỉnh Quảng Đông đã bác bỏ tin đồn này và đang tiếp tục điều tra làm rõ. Theo Bee.net
-
(ý thức cũng là một dạng vật chất, ý thức nảy sinh từ nền tảng vật chất nên cũng chịu sự tương tác của vật chất – Vật chất hay ý thức – dungkq). Bài này hình như đọc ở đâu đó bên Vietlyso...có cả tên của dungkq
-
1. Sự lưu truyền lâu dài: Gần đây, chúng ta có nghe thấy xuất hiện ở VN một phương pháp trị bệnh không cần dùng thuốc. Nó thật mới mẻ, kỳ lạ đến mức độ khó tin đối với những ai chưa có dịp điều trị hoặc chứng kiến. Phương pháp điều trị này là một bộ phận của sự ứng dụng Năng Lượng Sinh Học, còn gọi là Trường Sinh Học hoặc Nhân Điện Trước hết, chúng ta nhận thấy các tôn giáo đã biết đền Năng Lượng Sinh Học từ lâu rồi. Ấn Độ giáo, trong kinh Vedas và Upanishads (cách nay trên 5.000 năm) có ghi hệ thống 7 Luân Xa (Chakra) rất hòan chỉnh. Đây là những điểm hút năng lượng vũ trụ, là trung tâm của cơ thể, đồng thời là nơi qua đó con người được giao tiếp với thế giới bên ngòai. Người Ấn Độ cổ gọi Năng Lượng Vũ Trụ là "Khí Prana", nguyên tố cấu tạo căn bản và là nguồn gốc của sự sống. Họ thu Khí Prana bằng phép thở, Thiền tịnh và luyện Yoga. Phật giáo cũng có những kinh nói về các Luân Xa, phép Thiền. cách đây hơn 2.500 năm. http://' target="_blank">Thiên Chúa Giáo họa hình Chúa Giêsu hoặc các Đấng Linh Thánh với hào quang quanh đầu hay tòan thân. Ai Cập – Babylon, nơi có một nền văn minh cổ kính, hiện còn đang lưu trữ nhiều bức tranh nghệ thuật tuyệt tác, trong đó có một bức minh họa trên đá (cách đây 4000 năm) mô tả một hệ thống 7 Luân Xa. Kundalini (Hỏa Xa) cũng được đề cập đến bằng hình ảnh rất rõ ràng. Người Trung Quốc đã xây dựng thuyết Âm-Dương từ 3.000 năm trước Công nguyên. Họ thừa nhận sự tồn tại của năng lượng vũ trụ đầy sức sống gọi là "Khí". Vạn vật đều được tác thành từ "Khí", và Khí này luôn xâm nhập vào mọi vật. Từ thời cổ, họ đã biết luyện Khí công để thu Tiên Thiên Khí và phát Nội Khí để bảo vệ sức khỏe. 2. Thời hiện đại: Từ thế kỷ 12 (sau CN) đến thế kỷ 20, Năng Lượng Sinh Học được các học giả, các nhà khoa học, các viện khoa học khắp nơi trên thế giới nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi bằng các phương tiện khoa học hiện đại. Liebnitz cho rằng nguyên tố cốt yếu của vũ trụ là những trung tâm lực, nó chứa nguồn chuyển động riêng của nó. Newton đã khai sinh khái niệm Trường Vũ Trụ. Cơ sở này được Faraday kết luận: nó là cơ sở khoa học để giải thích khả năng gây ảnh hưởng qua lại của con người từ một khỏang cách. Năm 1800, Mesmer cùng với Helmont đã khám phá ra những hiện tượng năng lượng, theo đó, sinh vật và ôổ sinh vật đều được xung nạp một "chất lỏng". Nhờ năng lượng này mà mọi vật có thể gây ảnh hưởng lẫn nhau từ một khỏang cách. Sau đó, hàng lọat các nhà vật lý chuyên môn, các bác sĩ lần lượt công bố những khám phá của mình về năng lượng sinh học. Năm 1911, bác sĩ William Kilner tưởng trình kết quả nghiên cứu của ông. Ông mô tả quanh cơ thể con người có một màn sáng chói, đó là hào quang hoặc Nhân Trường Năng. Màn này có nhiều lớp, phân biệt được nhờ màu của nó. Tùy theo giới tính, năng lực tinh thần và tình trạng sức khỏe mà hào quang này khác nhau. Bác sĩ William Reich, nhà tâm thần học, là bạn đổng sự của Freud, từ năm 1930 đến 1950 đã nghiên cứu Năng lượng Vũ trụ và và tương quan của các nhiễu lọan dòng Orgone trong cơ thể con người. Năm 1939, Kirlian đã sáng chế máy chụp hào quang quanh cơ thể con người và bất động vật. Cùng năm ấy, bác sĩ H. Burr và F. Northrop ở đại học Yale đã đo được các trường năng của hạt giống và động vật. Bác sĩ Valorie Hunt và Rosalyn Bruyere đã phân tích thấy hào quang của con người có 7 lớp màu, tương ứng với 7 Luân Xa cũng mang màu này. Hiện nay người ta đo điện từ trường quanh cơ thể bằng một thiết bị cực nhạy gọi là Squid (máy đo giao thoa điện tử siêu dẫn). 3. Kết luận: Năng Lượng Sinh Học có một lịch sử lâu đời ở phạm vi tòan cầu, nhưng trước đây con người chỉ được giải thích là hoặc cho là điều huyền bí. Không ít môn phái, cá nhân chủ trương tập luyện thu năng lượng vũ trụ để đạt được các phép thần thông, biến hóa, độn thổ, phi hành Kiến thức con người ngày càng mở rộng, và những khám phá ngày càng phong phú, tinh vi. Năng Luợng Sinh Học đã trở thành một bộ môn nghiên cứu-ứng dụng khoa học thật lý thú của con người và không còn huyền hoặc như xưa nữa. Các khoa học gia thế kỷ 20 đã công bố: "Năng lượng sinh học là một lọai vật chất, có thể gây ảnh hưởng giữa những cá nhân từ một khỏang cách". 4. Năng lượng sinh học là gì ? "Nhân điện" là Năng lượng Sinh học của con người, tên gọi do các nhà nghiên cứu người Pháp đặt ra từ thế kỷ 19, để phân biệt với Năng lượng Sinh học của động và thực vật. Tên gọi này cũng xuất phát từ quan quan niệm Năng lượng Sinh học chính là “điện”. Bản chất Năng lượng Sinh học là gì, nền vật lý hiện đại chưa thể đưa ra định nghĩa dứt khoát, hiện các nhà khoa học còn đang tranh cãi, nhưng có thể hiểu qua các xác định cụ thể của các khoa học gia hiện đại như sau: - Đó là loại vật chất đa dạng, siêu dẫn, siêu trạng thái, siêu phát xạ, bao gồm: tĩnh điện, từ tính, điện từ, màu, nhiệt, sóng âm thanh. Chính trong những thành phần cấu tạo này mà nó còn có mang thông tin và “lệnh” phát đi từ người sử dụng. Nó mang thông tin và cả những cảm giác thuộc 5 giác quan của con người. là một lọai "vật chất" phát ra từ các lọai vật chất khác. 5. Ứng dụng: Năng lượng Sinh học để luyện tập và ứng dụng trong các thuật: Thần giao cách cảm (Thấu thị– nhìn xuyên qua vật chất và thời gian), Thôi miên, đọc tư tưởng của người khác và Chữa bệnh từ một khỏang cách thật xa… Kết quả của các thuật trên đây nói lên khả năng “siêu phàm” của con người. “Sự huyền diệu xảy ra không mâu thuẫn với tự nhiên, chỉ mâu thuẫn với những gì chúng ta hiểu biết về tự nhiên mà thôi”. Môn Năng lượng Sinh học phát triển theo thời gian và không gian trên cơ sở khoa học. Những khám phá về Năng lượng Sinh học thật là kỳ thú và hữu ích vô tận. Năng lượng Sinh học gọi là “Y năng lượng” là lọai thuộc thần diệu đối với tất cả mọi chứng bệnh, kích thích và tái tạo sinh thái của các tế bào, mô, màng của cơ thể. Nhớ vào tính có chứa phát lệnh và chứa thông tin của nó mà ta có thể trị bệnh từ một khoảng cách thật xa. Dùng “Y năng lượng” để trị bệnh, không cần kèm thêm một lọai thuốc hay phẫu thuật nào khác mà bệnh vẫn khỏi được một cách nhẹ nhàng, êm ái. Nó có thể chặn đứng hoặc tiêu diệt được tận gốc căn bệnh trong một thời gian ngắn, kể cả các bệnh nan y. Không có trường hợp phản ứng hay gây tác hại cho cơ thể khi sử dụng nó. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net