Kim Cương

Bản Chất Thật Của Pháp Luân Công?

353 bài viết trong chủ đề này

Bạn ah mình có thấy nick mình ăn nhập j với PLC đâu. Thứ 2 là mình cũng mới biết PLC thôi Posted Image Mình đã nghiên cứu lại PLC để trả lời bài trước chứ đã là đệ tử đâu. VÌ phải biết rõ là chính hay tà đạo thì mới theo....suy luận của bạn về mình hơi nhầm rùi hì hì Posted Image . Mà về tuổi đời nói bạn ko tin chứ có lẽ Thiên Hữu có khi phải gọi bạn là chú hay bác cũng nên. Theo mình nghĩ thì PLC này đâu phải là 1 tôn giáo để hướng mọi người theo. Và chính Lý Hồng Chí cũng có đề cập đến là có liên quan đến Phật Giáo chứ ko phải là Phật Giáo mà họ đâu có tạo thêm ông phật hay ông thần nào khác để con người ngu muội mà theo rồi phá bỏ cái Phật Giáo Chính Tông đâu. Nếu bạn nói tà giáo có nhiều người theo hơn là chính đạo là chuyện thường thấy thì mình hỏi là sao đạo của Thanh Hải Thượng sư lại lèo tèo vài mống và mụ đâu dám truyền bá chính thức trong VN. Mà bạn hình như vẫn chưa chỉ rõ được tà giáo của PLC hay sao nhỉ :P ??? Vì theo mình nghĩ thì tà giáo đâu có đòi hỏi về tu luyện tâm tính? Tà giáo mà cũng đưa ra những góc nhìn thế nào là tà giáo như PLC. Và những người bị đàn áp đều là ở TQ một đất nước mà chính quyền có những người độc tài và nhiều khi còn có phần độc địa. Họ đàn áp vì thấy đệ tử theo PLC nhiều và một nỗi sợ chính quyền sẽ lung lay vì nhiều người theo PLC. Nhưng những người theo PLC trên toàn thế giới đâu có bị làm sao đâu. Hơn nữa họ tu luyện và trị được một số bệnh. Có lẽ bạn nói PLC như vậy vì bạn chưa hiểu rõ về PLC. NÊn nhìn 1 sự việc rõ hơn rồi hẵng đánh giá.

P/s: :lol: bạn nói những đệ tự PLC là hay dùng lời lẽ lịch sự mềm mỏng để tuyên truyền. Vì PLC là một Thiền pháp của Phật gia nên họ thuyết pháp phải dùng lời lẽ dẻo để nói cho người khác hiểu. Lý lẽ có đúng đến đâu mà ăn nói ko khéo léo thì cũng ko có ý nghĩa j. Peace

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi thấy các bạn tranh luận về plc , bạn thiên long vội quy kết cho plc là tà đạo là hơi vội vàng .Mà phai xem bản chât của môm phái đó và giáo lý họ đưa ra có ảnh hưởng gì đến cộng đồng xã hội không. Một tổ chức nào tinh vi đến đâu chỉ có thể lừa được mọt số it người mà thôi.Một tổ chức mà mới ra đời đươc mấy năm mà đã có hàng trăm triệu người theo thi hay thật . ĐCS Trung quốc bao nhiêu năm giáo dục quần chúng mà mơi có tám mươi triệu đảng viên. Tại sao họ mu quáng đi theo PLC thế.Nếu thế mình cũng muốm nghiên cứu về PLC.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hò ơi...

Má ơi đừng đánh con đau

Để con hát bội làm đào má coi.

Thiên Đồng họa thêm:

Làm đào đánh phấn thoa môi

Con chưa làm bộ má ngồi cười rơn.

lấy đà con hát ngon ơn

má cười con hát không đờn vẫn xung.

Thiên Đồng ngẫu bút

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tác giả của chủ đề này nên chịu khó về nghiên cứu phật pháp thêm...rồi hiểu mình đã "phạm" những gì. Pháp Luân Công là chính pháp không 1 pháp nào có khả năng cứu độ chúng sinh trên diện rộng như Pháp Luân Công.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mình cũng chỉ mong rằng các bạn ko nên đố kỵ nhau,ko nên chấp nhau về các lời nói mà trở thành đố kỵ chấp trước nhau những viẹc ko nên có ,nếu là người tu luyện môn Pháp nào đó ,thì chúng ta hãy làm tốt những việc của chúng ta làm,thì cho dù là ở đạo nào đi chăng nữa thì rất có ích cho đời mà thôi,vài lời tâm sự mong rằng các bạn hưởng ứng./.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thần Trí tuệ Thoth đã nói "Ai sử dụng dữ liệu của ta là đệ tử của ta". Cho nên, phải trích dẫn ai đã nói trước hay đã viết rồi, nền tảng nào...

Pháp luân công là một phương pháp tu tập cũng như muôn vàn phương pháp khác, dựa trên nền tảng các tài liệu có trước đó, học từ các vị thầy trước đó hoặc đã được mạc khải bởi các vị thầy vô hình. Như vậy, nó là một pháp môn đã có nhưng hiệu chỉnh tốt hơn, do vậy SP Lý Hồng Chí là người truyền pháp cũng có thể xem là một trong những người có duyên trợ pháp trong thời kỳ này.

Không thể xem ngài là vị Phật hoặc Chúa... được, nhưng có thể xem là truyền nhân của một pháp môn thôi, như võ thuật vậy.

Nên đọc kỹ lại, SP Lý Hồng Chí nói rằng: thời gian ngài truyền pháp môn này sắp kết thúc, bởi đó là nhân duyên, dự kiến trước 1996 nhưng đã kéo dài tới nay, hãy đọc cuốn "Chuyển Pháp luân".

Nên cao thủ khi biết rằng: chả có gì là của ta cả.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mình cũng chỉ mong rằng các bạn ko nên đố kỵ nhau,ko nên chấp nhau về các lời nói mà trở thành đố kỵ chấp trước nhau những viẹc ko nên có ,nếu là người tu luyện môn Pháp nào đó ,thì chúng ta hãy làm tốt những việc của chúng ta làm,thì cho dù là ở đạo nào đi chăng nữa thì rất có ích cho đời mà thôi,vài lời tâm sự mong rằng các bạn hưởng ứng./.

Nữ giới thì dễ có hiện tượng mê tín.

Nam giới thì dễ có hiện tượng tà kiến.

Lý Hồng Chí có một sự tà kiến rất trầm trọng, nhưng chỉ những ai đã giải ngộ mới thấy được sự tà kiến đó. Nếu không như vậy thì Pháp Luân Công đã không bị Chính quyền Trung hoa tiêu diệt.

Tà kiến của Lý Hồng Chí có liên quan đến Thiền Tông. Vậy các độc giả cũng nên biết đến Thiền Tông Việt Nam. Lịch sử Thế giới rất hiếm có ông Vua đi tu chứng đạo, còn ở Việt Nam có Phật Hoàng Trần Nhân Tông xuất gia tu thiền chứng đạo làm Tổ truyền bá Thiền Tổ Sư. Vậy độc giả cũng nên biết, và ngẫu hứng Rubi sưu tầm một sự kiện vào đây:

Hình ảnh giỗ Tổ Trúc Lâm Đại Đầu Đà - Trần Nhân Tông.

Kỷ niêm lần thứ 703 năm ngày mất của Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Trước khi lễ, khoảng 9:30AM, ngày 11/27/2011, một số Phật tử đã vân tập đến thiền viện, sau đó quí Phật tử cùng Thầy Tỉnh Nghiêm cùng nhau tọa thiền. Sau khi tọa thiền xong, khoảng 10:50AM, Thầy Tỉnh Nghiêm bắt đầu tuyên bố lý do của buổi lễ.

Buổi lễ cúng giỗ Sơ Tổ Trúc Lâm - Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã hoàn mãn buổi chiểu cùng ngày, mọi người hoan hỉ ra về trong một chuyến hành hương về nguồn thật hoàn mãn và đầy ý nghĩa, cõi lòng như bừng nở phảng phất đâu đó bài kệ "Cư Trần Lạc Đạo":

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc xa hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

( Ở đời vui đạo, thả tùy duyên,

Ðói đến thì ăn, mệt ngủ liền.

Của báu trong nhà, thôi tìm kiếm,

Ðối cảnh vô tâm, chớ hỏi Thiền! )

Sau đây là một số hình ảnh thâu nhận được trong ngày.

Posted Image

Thầy Tỉnh Nghiêm đang tọa thiền cùng với Phật Tử.

Posted Image

Posted Image

Thầy Tỉnh Nghiêm đang tuyên bố lý do buổi lễ.

Sơ Tổ Trúc Lâm - Phật hoàng Trần Nhân Tông, một người siêu thoát nổi bật trong đạo Phật nói chung và thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng, một nhân cách sáng ngời cho hàng hậu học noi theo; nói về mặt lãnh đạo, là một nhà lãnh đạo tài ba xuất cách qua hai lần chống Nguyên Mông, về văn hóa là nhà văn hóa lớn trong lịch sử của dân tộc Đại Việt, về tôn giáo là nhà tôn giáo xuất trần Thượng Sĩ đi vào cuộc đời như một áng mây huyền thoại… Do đó, để nhận định về Ngài, chúng ta không thể lấy thức tâm phàm tình phân biệt được. Và hơn thế nữa, Ngài lại là bậc “Tùng lâm tông tượng” là bậc Đại Sĩ xuất trần, muốn biết về Ngài chúng ta lại phải một phen nhào nặn công phu đến khi nào “hoa lòng bừng nở” thì mới cùng Ngài tay trong tay dạo khắp mười phương. Có như thế mới mong hiểu rõ được Ngài. Một con người hiện thực mà siêu thực, hướng thượng mà chẳng bỏ hàng hạ căn thiểu trí, nhập thế mà chẳng nhiễm trần thế. Cho nên Ngài chính là linh hồn của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, vĩnh viễn bất sanh bất diệt trong lòng hậu thế, không tính kể phương sở thời gian.

Posted Image

Thầy Tỉnh Nghiêm và các Phật tủ đang làm lễ tụng kinh sám hối trước chánh điện.

Posted Image

Posted Image

Thầy Tỉnh Nghiêm và các Phật tử đang làm lễ cúng Tổ.

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Thầy Tỉnh Nghiêm đang đọc văn tưởng niệm Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập diệt.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Trúc Lâm Yên Tử Pháp Phái Lịch Đại Tổ Sư tác đại chứng minh.

Kính bạch Đức Tổ Sư Điều Ngự Giác Hoàng.

Từ vùng đất địa linh nhân kiệt, làng Hải Ấp, Hải Triều – Kinh Bố, quê hương họ Trần dấy nghiệp. Đất Thăng Long kinh thành hoa lệ, hai Triều Vua củng cố Đế đô, đất nước thanh bình, dân chúng an cư lạc nghiệp, mưa thuận gió hòa, nhà nhà ngâm khúc âu ca, cả nước vui câu hữu đạo.

Rồi một thuở duyên lành xuất hiện, Hoàng thái hậu thụ thai, đấng Tu mi đáng bậc mày râu, vai Thiên tử từ đây kế nghiệp. Đức Thánh Tông định lập Đông cung, chọn người thừa kế ngai vàng. Thọ học với bao hàng thức giả, danh Sư - Tuệ Trung Thượng Sĩ thắm mùi Thiền, Lê Phụ Trần, Nguyễn Thánh Huấn, Nguyễn Sĩ Cố dày công dạy dỗ.

Khi đến độ nhân duyên hội đủ, kế nghiệp phụ vương, lên ngôi Cửu ngũ, trị quốc an dân, lo bề giữ nước, đoàn kết một lòng, quy tụ người tài đức, nêu cao gương hỷ xả, bỏ qua lỗi cũ, đoàn kết toàn dân, tạo thành sức mạnh dân tộc, Hội nghị Bình Than, Diên Hồng một thuở, lấy ý chí toàn dân, làm ý chí của mình, chống giặc ngoại xâm, Nguyên Mông khiếp đỏm, đẩy lùi quân giặc, hai cuộc xâm lăng, chiến thắng vạn quân, giữ nguyên bờ cõi. Quả thật:

“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá

Non sông nghìn thuở vững âu vàng”.

Với tinh thần công thành thân thoái, Ngài đã lên ngôi Thái Thượng Hoàng, truyền ngôi cho Thái tử Anh Tông kế nghiệp, thực hiện những bước vân du hóa đạo khắp nhân gian Đại Việt, Thành Đồ Bàn một thưở lưu danh, đất Chiêm Thành chào mừng Thánh Thượng, Huyền Trân Công Chúa, Chế Mân một thuở gieo duyên, liên kết hai dân tộc Việt – Chăm, ổn định hòa bình hữu nghị. Tổ lại đi khắp chốn thôn quê, thành thị, khuyên nhân dân thực hiện 10 điều lành, xây dựng nhân gian Tịnh độ, Cực lạc tại trần gian bằng con người và tâm thanh tịnh. Tu tâm dưỡng tánh, tin Phật tại Tâm, Tâm là Phật, ngộ Phật ngộ Tâm viên dung một thể. Quả thực:

“Cửa báu đầy kho thôi tìm kiếm

Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền”.

Công đức hoằng dương Phật pháp của Tổ Sư sau khi ngộ đạo, Điều ngự Giác Hoàng, Vua Phật trần gian, trăm hoa đua nở, ngàn cỏ hương thơm, chín nước, mười mây vang rền tiếng Pháp, chống gậy trúc dạo chơi thiên hạ, nâng gót hài đại địa vững bền. Quả thực: “Rừng thiền Tùng Trúc còn in bóng. Xào xạc canh thâu tiếng Pháp mầu”.

Rồi Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, Tổ khai sơn truyền thụ Tâm tông, Pháp Loa, Huyền Quang Tôn giả, nối dõi Tông phong, Thiền giáo song hành, ba dòng thành một, Phái Thiền Đại Việt ngàn đời, làm cho Tổ ấn rạng ngời, đèn Thiền tỏ rạng, hương giới bay xa, chan hòa Pháp giới, non sông xán lạn, vũ trụ huy hoàng, nhật nguyệt hồi quang, Đạo vàng chói lọi. Phật giáo thời Trần muôn thuở, Tam giáo đồng nguyên, chan hòa tình Dân tộc, nghĩa Pháp lữ đời đời, lương duyên hội tụ, cùng nhau chung sống hòa bình.

Từ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, phái Thiền Việt Nam đầu tiên do Tổ sáng lập, đã được lập cước trên những di sản văn hóa muôn đời cho nhân thế, là Trần Nhân Tông thi tập, Đại Hương Hải Ấn thi tập, Tăng già Toái Sự, Thạch Thất Mị Ngữ, Trung Hưng Thực Lực v.v… Quả thực: “Hương thiền gió lộng tỏa ngàn phương. Trăng sáng năm xưa ngặp dặm đường. Hoa lòng đã nở từ độ ấy. Nương Pháp âm về tận cố hương”.

Trên tinh thần sắc tướng vốn không, mượn cảnh huyễn, độ người như huyễn, Tử sinh nào có, nương thuyền từ độ kẻ trong mê, như Tổ Sư đã dạy: “Tất cả Pháp không sinh. Tất cả Pháp không diệt. Ai hiểu được nghĩa này. Thì Chư Phật hiện tiền. Nào có đến có đi”. Do đó, dù thời gian có đi qua hơn 700 năm, không gian có biến dịch, song công đức, đạo nghiệp của Tổ Sư vẫn còn sống mãi trong trang sử vàng son của dân tộc, của Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp Hộ quốc an Dân, đoàn kết hòa hợp toàn dân, phát huy Đạo Pháp trong thời đại ngày nay và mãi mãi về sau. Quả thật:

“Vạn kiếp uy nghi ngôi Tháp Tổ

Khói vẽ nên hình chốn nhân gian”.

Hôm nay, nhân lễ Kỷ niệm 703 năm ngày Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập diệt, chư Tăng cùng Phật tử Thiền Viện Trúc Lâm Hoa Từ, chúng con xin thành tâm đốt nén Tâm hương ngũ phần, dâng lời tưởng niệm chân thành, Tâm cảm ý giao, một lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ Lịch đại Tổ Sư, phát nguyện phụng trì Phật pháp, phát huy chân lý Đạo nhà, giữ gìn Tổ ấn vàng son, làm rạng rỡ vang danh chốn Tổ huy hoàng tráng lệ, non sông gấm vóc thiên thành, một cõi vững bền muôn thuở. Đồng thành kính nguyện thực hành: Giữ gìn đạo tâm. Chúng con cùng nguyện đời đời kiếp kiếp, hiện tại và mãi mãi về sau nương theo Đức Tổ Sư. Chúng con mãi mãi mong rằng:

“Mãi mãi sáng ngời gương Phật Tổ

Ngàn sau còn chiếu rạng nét Tông phong”.

Kính mong Liệt vị Tổ Sư, Hồn thiêng Sông núi, từ bi chứng giám tấm lòng thành của tất cả chúng con.

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

Posted Image

Thầy Tỉnh Nghiêm đang trích giải về lịch sử Sơ Tổ Trúc Lâm.

Ngài tên húy là Khâm, con trưởng vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu, sinh ngày mười một tháng mười một năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở vị sang cả mà tâm hâm mộ Thiền tông từ thuở nhỏ. Năm mười sáu tuổi được lập làm Hoàng thái tử. Ngài cố từ để nhường lại cho em, mà vua cha không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu cho Ngài, tức là Khâm Từ Thái hậu sau này. Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc ấy mà tâm Ngài vẫn thích đi tu.

Một hôm vào lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Ðến chùa Tháp ở núi Ðông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp. Vị Sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy, Ngài bất đắc dĩ phải trở về.

Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng đế (1279). Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, Ngài đến chùa Tư Phước trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, Ngài thấy trong rốn mọc lên một hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: “Biết ông Phật này chăng? Là đức Phật Biến Chiếu.” Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên vua cha. Vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc.

Ngài thường ăn chay lạt thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của Tổ tiên?” Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt.

Con người Ngài rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, suốt thông nội điển (kinh) và ngoại điển (sách đời). Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các Thiền khách bàn giải về Tâm tông (thiền), tham học thiền với Thượng Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tủy. Ðối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy.

Những khi giặc Nguyên sang quấy rối, Ngài phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ tình đoàn kết quân dân, Ngài đã hai lần (1285, 1288) đuổi được quân Nguyên, giữ gìn trọn vẹn đất nước. Dưới triều đại Ngài, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là: Hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than, hội nghị những bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, tỏ quyết tâm chống giặc.

Năm Quí Tỵ (1293), Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Ở ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho con được sáu năm, Ngài sắp đặt việc xuất gia.

Ðến tháng mười năm Kỷ Hợi (1299) Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu-đà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Ðại Ðầu-đà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng. Học chúng đua nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm. Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am Tri Kiến rồi ở đó.

Ðến năm Giáp Thìn (1304), Ngài dạo đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ những dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng), và dạy họ tu hành thập thiện. Vào mùa đông năm ấy, vua Anh Tông dâng biểu thỉnh Ngài về đại nội để truyền giới Bồ-tát tại gia.

Sau đó, Ngài chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá Thiền tông.

Ngày mùng một tháng giêng năm Mậu Thân (1308), Ngài sai Pháp Loa đến huyện Siêu Loại tại Báo Ân thiền tự khai giảng trụ trì. Tháng tư năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang kiết hạ và sai Pháp Loa khai giảng trụ trì. Chính Ngài giảng Truyền Ðăng Lục, bảo Quốc sư Ðạo Nhất vì chúng giảng kinh Pháp Hoa. Bãi hạ, Ngài vào núi Yên Tử, đuổi hết những người cư sĩ theo hầu hạ và những kẻ nô dịch trong chùa, không được chực hầu như trước. Chỉ để lại mười vị Thị giả thường theo Ngài. Ngài lên ở am Tử Tiêu, vì Pháp Loa giảng Truyền Ðăng Lục. Thị giả xuống núi gần hết, duy có đệ tử thượng túc là Pháp Loa còn ở thôi.

Từ đây, Ngài leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động, ở tại thạch thất. Pháp Loa thấy thế bạch: “Tôn đức tuổi đã già yếu, mà xông pha trong sương tuyết, lỡ có bề gì thì mạng mạch Phật pháp trông cậy vào ai?” Ngài bảo: “Ta thời tiết đã đến, muốn tạo cái kế lâu dài vậy.”

Ngày mùng năm tháng mười năm ấy, người nhà của công chúa Thiên Ðoan lên núi bạch Ngài: “Công chúa Thiên Ðoan bệnh nặng mong được thấy Tôn đức rồi chết.” Ngài bùi ngùi bảo: “Thời tiết đã đến vậy.” Ngài bèn chống gậy xuống núi, chỉ cho theo một người Thị giả. Ngày mùng mười Ngài về đến kinh, dặn dò xong, ngày rằm Ngài trở về núi. Ngài dừng nghỉ ở chùa Siêu Loại. Hôm sau vừa rạng đông, Ngài đi bộ đến chùa làng Cổ Châu, tự đề bài kệ rằng:

Âm:

Thế số nhất tức mặc

Thời tình lưỡng hải ngân

Ma cung hồn quản thậm

Phật quốc bất thắng xuân.

Dịch:

Số đời một hơi thở

Lòng người hai biển vàng

Cung ma dồn quá lắm

Cõi Phật vui nào hơn.

Ðến ngày mười bảy, Ngài dừng nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm tại Linh Sơn, Tuyên Từ Hoàng thái hậu thỉnh Ngài vào am Bình Dương cúng trai. Ngài vui vẻ nói: “Ðây là bữa cúng dường rốt sau.” Ngày mười tám, Ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn An Kỳ Sanh. Nghe nhức đầu, Ngài gọi hai vị Tỳ-kheo trong chùa bảo: “Ta muốn lên ngọn Ngọa Vân mà chân không thể leo nổi, phải làm sao?” Hai vị Tỳ-kheo bạch: “Hai đệ tử có thể giúp được.” Ðến am Ngọa Vân, Ngài tạ hai vị Tỳ-kheo rằng: “Xuống núi tu hành đi, chớ xem thường việc sanh tử.”

Ngày mười chín, Ngài sai Thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sát đến đây gấp. Ngày hai mươi, Bảo Sát quảy gói sang, đi đến Doanh Tuyền thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua Lỗi Sơn và hạ xuống Doanh Tuyền, nước đầy tràn lên cao mấy trượng, giây lát lại bình xuống. Lại thấy hai con rồng đầu bằng đầu ngựa ngóc cao hơn trượng, hai con mắt như sao, chốc lát lại lặn xuống. Ðêm ấy Bảo Sát nghỉ trong quán trọ dưới núi, mộng thấy điềm chẳng lành.

Ngày hai mươi mốt, Bảo Sát đến am Ngọa Vân. Ngài trông thấy mỉm cười bảo: “Ta sắp đi đây, nhà ngươi đến sao trễ vậy? Ðối với Phật pháp, ngươi có chỗ nào chưa rõ hãy nói mau.”

Bảo Sát hỏi:

- Như khi Mã Tổ bệnh, Viện chủ hỏi: “Những ngày gần đây Tôn đức thế nào?” Mã Tổ bảo: “Mặt trời Phật, mặt trăng Phật.” Nói thế ý chỉ làm sao?

Ngài lớn tiếng đáp:

- Ngũ đế tam hoàng là vật gì?

Bảo Sát lại hỏi:

- Chỉ như “Hoa sum sê chừ gấm sum sê, tre đất nam chừ cây đất bắc”, lại là sao?

Ngài đáp:

- Làm mù mắt ngươi.

Bảo Sát bèn thôi.

Suốt mấy hôm trời đất u ám, chim vượn kêu hót rất bi thảm.

Ðến ngày mùng một tháng mười một, đêm nay trời trong sao sáng, Ngài hỏi Bảo Sát: “Hiện giờ là giờ gì?” Bảo Sát bạch: “Giờ Tý.” Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói: “Ðến giờ ta đi.” Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đến chỗ nào?” Ngài nói kệ đáp:

Âm:

Nhất thiết pháp bất sanh

Nhất thiết pháp bất diệt

Nhược năng như thị giải

Chư Phật thường hiện tiền

Hà khứ lai chi liễu dã.

Dịch:

Tất cả pháp chẳng sanh

Tất cả pháp chẳng diệt

Nếu hay hiểu như thế

Chư Phật thường hiện tiền

Nào có đến đi ấy vậy.

Bảo Sát hỏi:

- Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?

Ngài liền nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:

- Chớ nói mớ.

Nói xong, Ngài bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, vào niên hiệu Hưng Long thứ mười sáu (1308), thọ năm mươi mốt tuổi.

Pháp Loa theo lời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm ngọc cốt có năm màu để vào bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về tôn thờ nơi Ðức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Ðại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Ðầu-đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Ðiều Ngự Tổ Phật.

Ngài còn lưu lại những tác phẩm:

1. Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục

2. Ðại Hương Hải Ấn thi tập

3. Tăng-già Toái sự

4. Thạch Thất Mị Ngữ do Pháp Loa soạn lại lời của Ngài.

Posted Image

Thầy Tỉnh Nghiêm cùng Phật tử thọ trai trong chánh niệm.

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Nguồn: Thiền Viện Trúc Lâm Hoa Từ, Hội Thiền Học Việt Nam, thành lập vào tháng sáu 2009, tại Mesa, Arizona, (http://www.tvtlhoatu.org/Default.aspx)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Vua Trần Nhân Tông không thể đạt đến cảnh giới của Thích Ca Mâu Ni nên cái ông sáng lập ra có lẽ cũng không có tác dụng độ nhân. Chỉ có tác dụng giống như giải thoát ở phút giây hiện tại...Ông không có thiên quốc để độ đệ tử mình tới đó.

Edited by Bsthuan

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Bạn RuBi muốn hiểu cặn kẽ về pháp luân công thì nên vô thuviendaiphap com mà đọc hết kinh văn và đọc kỹ cuốn "chuyển pháp luân"...bạn hiểu biết còn rất nông cạn không nên hồ đồ mà nói nên những lời lẽ phạm.

Bạn biết năm xưa đức phật thích ca đã từng nhắc đến Hoa Ưu Đàm và Đức Chuyển Luân Thánh Vương hay vị Phật tương lai ngài gọi la Di Lặc..lúc đó mới là chính pháp, không xuất gia vẫn có thể tu hành, độ tất cả chúng sinh hữu duyên.

Dự ngôn maya 21/12/2012 kết thúc chu kỳ dài 5.125 năm trong...20 năm cuối là tịnh hóa địa cầu đó là xãy ra hiện tượng gì? 13.5.1992 chỉ có sư phụ Lý Hồng Chí đề ra Pháp Luân Công với "CHÂN,THIỆN,NHẪN" truyền 145 quốc gia tất cả mọi thành phần trong xã hội, sự kỳ diệu của PLC về hồi phục sức khỏe đã được tổ chức y tế thế giới công nhận. 99,1% phục hồi sức khỏe nhờ tập PLC, 85% bỏ các thói quen xấu...Sự đàn áp PLC với việc mổ cướp nội tạng bị cả thế giới lên án...Những ai tìm kiếm tri thức, phật pháp đều thấy PLC có hết những điều mà cả đời mình tìm kiếm.

Có ai đọc khải huyền trong kinh thánh chưa??

Edited by Bsthuan

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vua Trần Nhân Tông không thể đạt đến cảnh giới của Thích Ca Mâu Ni nên cái ông sáng lập ra có lẽ cũng không có tác dụng độ nhân. Chỉ có tác dụng giống như giải thoát ở phút giây hiện tại...Ông không có thiên quốc để độ đệ tử mình tới đó.

Người xưa bảo là cẩn ngôn.

Chỉ có người trình độ lớp 12 mới nhận xét người lớp 12. Người lớp 12 không thể nhận xét được thấu đáo các giáo sư, bác học...

Cũng như vậy, muốn bảo rằng ngài Trần Nhân Tông "không thể đạt đến cảnh giới của Thích Ca Mâu Ni" thì người đưa ra nhận xét này chí ít cũng phải đạt đến cảnh giới của Thích Ca Mâu Ni" hay cảnh giới Trần Nhân Tông thì mới được.

Bởi vậy...thiệt là....!!!!Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vua Trần Nhân Tông không thể đạt đến cảnh giới của Thích Ca Mâu Ni nên cái ông sáng lập ra có lẽ cũng không có tác dụng độ nhân. Chỉ có tác dụng giống như giải thoát ở phút giây hiện tại...Ông không có thiên quốc để độ đệ tử mình tới đó.

Pháp Luân Công thì đem thức tình dò xét đến cả cảnh giới của Phật Thích Ca, thì chắc Phật Hoàng Trần Nhân Tông sẽ bị các học viên PLC phân tích thế nào thì biết. Lấy cảnh giới Phật để bác cảnh giới Tổ, rồi lại lấy cảnh giới của Lý Hồng Chí để hạ thấp cảnh giới Phật, đó là sự bệnh hoạn của Pháp Luân Công.

Cảnh giới của Thiền Tông là 'sống chết là việc lớn, cần phải giải ngộ Phật tính làm nhân', 'thực hành sinh tử tự tại là quả, sống chết nhàn mà thôi'. Sinh tử tự tại chính là Thần Thông bậc nhất, chứ không bám dính vào sự trị bệnh cho cái thân xác mấy chục ký này và cũng không bám vào sự biến hiện của các cảnh giới trong quá trình dụng công. Sinh tử đã tự tại thì có thể thấy mười phương Tịnh độ, có thể ra vào Uế độ.

Kẻ sở cơ mới tìm đến tâm linh thường hiếu kỳ đòi có một cõi đến đến, nếu pháp tu mà không đến cõi nào thì chạy thẳng, đó là căn bệnh của người mới biết đến tâm linh. Tu thiền thì đến cõi nào đây ? Tu thiền là Tu tâm, Thiên tông là Tâm tông, Tâm vốn tịnh thì có thể hợp với mười phương Tịnh độ, tuỳ duyên đến đi.

Nếu cho rằng Lý Hồng Chí có thiên quốc để độ đệ tử tới đó, thì đó là đồng nghiệp, do nghiệp lực chung mà có thôi, chẳng thể so sánh với Phật quốc. Hơn nữa, với ngôn ngữ của Lý Hồng Chí thì có phần thiên ma, cho nên chưa chắc đó đã là Thiên giới thuần tuý mà là Thiên ma.

Thật sự nếu đem tâm lý: "pháp môn có tác dụng trị thân bệnh mới là pháp môn hay" để mà xem thường tác dụng của sức sống thể nghiệm chân lý thiền thì đó là tâm lý hơi bị lầm, lạc đường giải thoát, giác ngộ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bạn RuBi muốn hiểu cặn kẽ về pháp luân công thì nên vô thuviendaiphap com mà đọc hết kinh văn và đọc kỹ cuốn "chuyển pháp luân"...bạn hiểu biết còn rất nông cạn không nên hồ đồ mà nói nên những lời lẽ phạm....

Đọc thì phải lọc, không nên bỏ sót. Theo cách này thì chỉ cần đọc "bài thứ nhất" trong cuốn Chuyển Pháp Luân thì sẽ thấy rất nhiều sạn.

Bài giảng thứ nhất

Chân chính đưa con người lên cao tầng:

...

Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau:

Tôi cũng cần phải nhấn mạnh một vấn đề, tu luyện chúng ta cần phải có truyền công [và] giảng Pháp. Một số hoà thượng ở chùa, đặc biệt là [hoà thượng] Thiền tông có thể có cách nghĩ khác. Hễ nghe đến giảng Pháp, họ liền không thích nghe. Tại sao? Thiền tông [nhìn] nhận rằng: Pháp ấy không thể giảng, Pháp đã giảng ra [thành lời] thì không còn là Pháp nữa; không có Pháp có thể giảng; chỉ có thể tâm lĩnh thần hội; vậy nên đến ngày nay Thiền tông không giảng Pháp gì hết. Đạt Ma [bên] Thiền tông truyền [dạy] điều ấy; [đó] là căn cứ theo một câu của Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca Mâu Ni giảng: ‘Pháp vô định Pháp’. Ông ấy căn cứ trên câu thoại của Thích Ca Mâu Ni mà sáng lập pháp môn Thiền tông. Chúng tôi nói cái pháp môn ấy là thứ dùi sừng bò. Sao lại gọi là dùi sừng bò? Khởi đầu khi Đạt Ma dùi vào trong thì thấy còn rộng; nhị tổ dùi vào thì thấy không còn rộng nữa; tam tổ thì thấy còn lọt được; tứ tổ thì thấy hẹp lắm rồi; ngũ tổ về cơ bản chẳng còn gì để dùi nữa; tới lục tổ Huệ Năng thì đã đến đỉnh [sừng bò] và có dùi cũng chẳng đi đến đâu được nữa. Ngày nay chư vị nếu muốn đến Thiền tông học Pháp, chư vị chớ hỏi; nếu chư vị hỏi ông [thầy] bất kể vấn đề gì, [ông ta] sẽ quay lại cho vào đầu chư vị một gậy, gọi là “bổng hát”3. Đó nghĩa là chư vị không được hỏi, phải tự mình ngộ. Chư vị nói: ‘Tôi chưa biết nên mới đến học, ngộ được gì đây? Ông lại cho tôi một gậy [là sao]?!’ Đó là cái sừng bò kia đã dùi đến đỉnh rồi, không còn gì có thể giảng nữa. Đạt Ma giảng rõ là nó chỉ có thể truyền đến lục tổ, sau đó không dùng được nữa. Mấy trăm năm qua rồi, đến nay vẫn có người ôm chết cứng cái lý của Thiền tông mà không bỏ. Hàm nghĩa chân chính của lời giảng “Pháp vô định Pháp” của Thích Ca Mâu ni là gì? Tầng của Thích Ca Mâu Ni là [tầng] Như Lai; [nhưng] các tăng nhân sau này có rất nhiều vị không hề ngộ đến tầng của Thích Ca Mâu Ni, [không ngộ được] tâm thái trong cảnh giới tư tưởng của Ông, hàm nghĩa chân chính trong Pháp mà Ông giảng, [cũng như] hàm nghĩa chân chính trong lời mà Ông nói. Vậy nên đời sau người giải thích thế này, người giải thích thế kia, giải thích đến độ hỗn loạn; cho rằng ‘Pháp vô định Pháp’ nghĩa là chư vị không được giảng, đã giảng ra thì không còn là Pháp nữa. Thật ra không phải nghĩa như vậy. Thích Ca Mâu Ni dưới cội bồ đề khai công khai ngộ rồi, chưa lập tức đạt đến tầng Như Lai. Trong suốt 49 năm truyền Pháp, Ông liên tục tự mình đề cao. Mỗi khi đề cao [lên] một tầng, Ông quay lại xét thấy Pháp mình vừa giảng xong không còn đúng nữa. Lại đề cao lên, Ông phát hiện rằng Pháp mình vừa giảng xong lại cũng không đúng nữa. Cứ đề cao lên, Ông lại phát hiện rằng Pháp vừa giảng xong lại không còn đúng. Trong toàn bộ 49 năm, Ông không ngừng thăng hoa như thế; mỗi lần đề cao [lên] một tầng, [Ông] lại phát hiện Pháp Ông giảng trước đó về nhận thức đều là rất thấp. Ông cũng phát hiện rằng Pháp của mỗi một tầng là thể hiện của Pháp tại mỗi một tầng đó; mỗi một tầng đều có Pháp, nhưng đó không phải là chân lý tuyệt đối của vũ trụ. Vả lại Pháp của tầng cao so với Pháp của tầng thấp thì [tiếp cận] gần đặc tính của vũ trụ hơn; vậy nên, Ông bèn giảng: ‘Pháp vô định Pháp’.

Cuối cùng Thích Ca Mâu Ni lại giảng: ‘Ta đời này chưa có giảng Pháp nào hết’. Thiền tông lại lý giải rằng không Pháp có thể giảng. Vào những năm cuối, Thích Ca Mâu Ni đã đạt đến tầng Như Lai; hỏi tại sao Ông nói Ông chưa có giảng Pháp nào hết? Thực ra Ông đã nêu ra một vấn đề gì? Ông [muốn] nói: ‘Đạt đến tầng Như Lai như ta, ta chưa thể thấy được [chân] lý tối hậu của vũ trụ, Pháp tối hậu của vũ trụ là gì’. Vậy nên Ông muốn nói người đời sau không được lấy những lời Ông giảng làm chân lý tuyệt đối, chân lý bất biến; nếu không người đời sau sẽ bị hạn cuộc vào tầng Như Lai hoặc thấp hơn Như Lai, mà không thể đột phá lên tầng cao hơn. Người đời sau không lý giải được nghĩa chân chính của câu nói ấy, [nên nhìn] nhận rằng Pháp đã giảng ra thì không còn là Pháp, [họ] lý giải kiểu như thế. Kỳ thực Thích Ca Mâu Ni [muốn] giảng rằng: Các tầng khác nhau có Pháp của các tầng khác nhau, Pháp của mỗi một tầng không phải là chân lý tuyệt đối của vũ trụ; nhưng Pháp của mỗi một tầng có tác dụng [làm Pháp lý] chỉ đạo tại mỗi một tầng. Thật ra Ông đã giảng chính [Pháp] lý này.

Trước đây có nhiều người, đặc biệt [bên] Thiền tông, cứ nhất mực bảo trì nhận thức thiên kiến và sai lầm cực đoan ấy. Không dạy chư vị, thử hỏi chỉ đạo [tu] luyện làm sao, luyện thế nào, rồi tu ra sao? Trong Phật giáo có nhiều chuyện cổ Phật giáo, có thể có người đã từng xem; kể rằng lên trên trời, sau khi đến thiên quốc, rồi phát hiện rằng kinh «Kim Cương» ở đó so với kinh «Kim Cương» ở dưới [hạ giới], từng chữ đều khác nhau, ý nghĩa cũng khác nhau. Tại sao kinh «Kim Cương» kia lại khác với kinh «Kim Cương» tại nhân gian? Lại có người nói: Kinh sách của thế giới Cực Lạc so với [kinh thư] dưới [hạ giới] quả là khác hẳn, hoàn toàn khác nhau, không chỉ các chữ khác nhau mà hàm nghĩa, ý nghĩa cũng khác nhau, chúng đã thay đổi hẳn rồi. Thật ra, chính là cùng một Pháp đồng nhất [nhưng] tại các tầng khác nhau [thì] có các biến hoá và hình thức hiển hiện khác nhau; đối với người tu luyện tại các tầng khác nhau, có thể phát huy tác dụng chỉ đạo khác nhau.

Mọi người đều biết, trong Phật giáo có cuốn sách nhỏ tên là «Tây phương Cực Lạc thế giới du ký», kể rằng một tăng nhân kia đả toạ luyện công, nguyên thần [bay] đến thế giới Cực Lạc xem ngắm cảnh tượng [nơi ấy]; hết một ngày; rồi quay về nhân gian đã thấy sáu năm trôi qua. Vị ấy thấy được không? Đã thấy, nhưng điều vị ấy đã thấy không phải là chân tướng. Tại sao? Bởi vì tầng của vị ấy không đủ, [nên] chỉ có thể ở tầng của vị ấy mà hiển hiện cho vị ấy những thể hiện của Phật Pháp mà vị ấy nên được thấy. Bởi vì một thế giới kiểu như vậy chính là thể hiện cấu thành của Pháp; cho nên, vị ấy không thể thấy được chân tướng. Tôi giảng rằng ‘Pháp vô định Pháp’ chính là có hàm nghĩa như thế.

Ngồi lại mà mổ sẻ kiến giải trên của Lý Hồng Chí thi thấy rất nhiều lỗi, tà kiến.

Hãy xem:

Gia Phong Của Năm Phái Thiền

Gia Phong Của Năm Phái Thiền

Dưới cửa Lục Tổ có bốn mươi ba người đắc pháp, mỗi mỗi hóa độ một phương, đều là chánh thống, trong đó có Nam Nhạc Hoài Nhượng, Thanh Nguyên Hành Tư và Hà Trạch Thần Hội nổi bậc nhất. Phái Nam Nhạc sau này sanh ra Lâm Tế và Qui Ngưỡng hai tông, phái Thanh Nguyên sau này sanh ra Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động ba tông. Mỗi tông đều có phương pháp riêng để tiếp dẫn hậu học, gọi chung là Ngũ gia gia phong. Phái Hà Trạch truyền đến Khuê Phong Tông Mật, vốn là người tông Hoa Nghiêm, thuộc giáo môn, chưa thể gánh vác tông chỉ Tào khê mà mong điều hòa Thiền tông với các tông Giáo môn, lọt vào ngôn thuyết kiến giải, làm cho phái Hà Trạch Thần Hội tuyệt truyền, chỉ còn phái Nam Nhạc Thanh Nguyên được người đời sau công nhận là phái đích truyền của Tào Khê. Nam Nhạc có Mã Tổ cũng như Thanh Nguyên có Thạch Đầu, Mã Tổ được sự thọ ký “Dưới chân chà đạp khắp người thiên hạ”, còn Thạch Đầu thì có tiếng tăm “Thạch đầu đường trơn”. Mã Tổ chủ hóa Giang Tây, Thạch Đầu chủ hóa Hồ Nam, người tham học từ bốn phương đều tìm đến cửa hai phái, rất là thịnh vượng. Dưới cửa Mã Tổ có đệ tử một trăm ba mươi chín người ngộ đạo, trong đó có Bá Trượng Hoài Hải nổi bật nhất, ngài Bá Trượng là người bắt đầu sáng lập Thiền viện, soạn Thanh qui của Tòng lâm, đệ tử bậc thượng thủ là Huỳnh Bá Hy Vận, Qui Sơn Linh Hựu. Dưới Huỳnh Bá có Lâm Tế Nghĩa Huyền, là Tổ của Lâm Tế tông. Qui Sơn là Tổ của Qui Ngưỡng tông, dưới Qui Sơn có Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, do thầy trò Qui Sơn, Ngưỡng Sơn xướng họa với nhau cùng phát dương mà thành gia phong của bản Tông. Dưới Thạch Đầu người đắc đạo cũng nhiều, trong đó Thiên Hoàng Đạo Ngộ, Dược Sơn Duy Nghiễm hai nhánh là chủ lưu, dưới Đạo Ngộ truyền qua Long Đàm Sùng Tín, Đức Sơn Tuyên Giám, đến Tuyết Phong Nghĩa Tồn, Thiền phong chấn hưng, tứ chúng nhiễu quanh thường hơn một ngàn năm trăm người, đệ tử tiếp nối có Vân Môn Văn Yểm, Huyền Sa Sư Bị tất cả năm mươi sáu người, Văn Yểm là Tổ của Vân Môn tông. Dưới Huyền Sa truyền qua La Hán Quế Sâm, đến Pháp Nhãn Văn Ích là Tổ của Pháp Nhãn tông. Dưới Dược Sơn Duy Nghiễm truyền qua Vân Nham Đàm Thạnh, đến Động Sơn Lương Giới với đệ tử Tào Sơn Bổn Tịch cùng nhau sáng lập Tào Động tông. Ấy là cội nguồn thành lập của năm phái Thiền. Nói gia phong là tác phong riêng biệt của mỗi Tổ dùng để phát dương Tông chỉ biệt truyền của Thiền tông. Chư Tổ minh tâm kiến tánh dù đồng nhau, nhưng cá tánh mỗi mỗi chẳng đồng, nên phương pháp tiếp dẫn hậu học mới có sự khoan hồng, oai mãnh, ôn hòa, gấp bách mỗi mỗi khác nhau. Nói tóm lại, gia phong của các phái trong Thiền tông đều lấy “Niêm hoa thị chúng” của Phật Thích Ca làm mô phạm.

Phương pháp phổ biến nhất của chư Tổ Trung Quốc là dùng gậy, dùng hét để tiếp dẫn hậu học. “Gậy” bắt đầu Lục Tổ đánh Thần Hội, “Hét” bắt đầu từ Mã Tổ tiếp Bá Trượng, tác dụng với niêm hoa chẳng khác. Cho đến Ca Diếp giơ tay, A Nan hiệp chưởng, nhị tổ Huệ Khả lễ bái xong về đứng chỗ cũ, Mã Tổ dựng phất trần, quăng phất trần, Bí Ma giơ chỉa, Hòa Sơn đánh trống, Thạch Củng giương cung, tuyết Phong đá cầu, Quốc Sư để chén nước, Qui Tông kéo đá, La Hán vẽ chữ, Đại Tùy hầm khoai, Đức Sơn vào cửa liền đập, Lâm Tế vào cửa liền hét, “Là cái gì?” của Bá Trượng, “Chớ vọng tưởng” của Vô Nghiệp, Triệu Châu uống trà, Vân Môn ăn bánh, tất cả đều chẳng khác với sự niêm hoa thị chúng của Phật Thích Ca. Ấy đều là chư Tổ tùy cơ phát huy dùng để tiếp dẫn hậu học, vốn chẳng qui tắc nhất định. Như Lâm Tế Nghĩa Huyền thiết lập các quan ải Tam Huyền Tam Yếu và Tứ Liệu giản để khám xét đồ chúng, tiếp dẫn hậu học, con cháu truyền thừa nhau tỏ ra thành gia phong.

GIA PHONG LÂM TẾ TÔNG

Truyện Lâm Tế trong Truyền Đăng Lục rằng: Tăng hỏi thế nào là câu thứ nhất?

Sư nói: Ấn khai tam yếu điểm son hẹp, chưa cho suy nghĩ chủ khách phân.

Hỏi thế nào là câu thứ nhì?

Sư nói: Diệu giải chẳng cho vô vấn trước (chấp trước), phương tiện đâu phụ (cô phụ) triệt lưu cơ.

Hỏi thế nào là câu thứ ba?

Sư nói: Hãy xem trên đài hát múa rối, kéo dây đều do người bên trong.

Lại nói: Một cú ngữ phải đủ tam huyền môn, một huyền môn phải đủ tam yếu, có quyền có thực, các ngươi làm sao lãnh hội!

Thủ Sơn Tĩnh Niệm thiền sư (đời thứ năm phái Lâm Tế) trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục rằng: Ngộ được câu thứ nhất làm thầy của Tổ và Phật, ngộ được câu thứ nhì làm thầy của người và trời, ngộ được câu thứ ba tự cứu chẳng xong!

Còn Từ Minh Sở Viên thiền sư (đời thứ bảy phái Lâm Tế) vì Tăng hỏi Tam huyền tam yếu mà thuyết tụng rằng: Đệ nhất huyền: Tam thế chư Phật tính nói chi?

Dạy bảo trong mộng sanh khinh rẻ,

Ngồi không lại thành đọa đoạn kiến. Đệ nhị huyền: Lanh lợi nạp Tăng mắt chưa sáng,

Lửa đá điện chớp là chậm trể,

Nhướng mày nháy mắt càng cách xa. Đệ tam huyền: Vạn tượng sum la vũ trụ rộng,

Mây tan hang trống núi non lặng,

Nước chảy đất bằng đầy sông ngòi. Đệ nhất yếu: Thánh phàm nói chi diệu,

Suy nghĩ đường càng xa,

Mở mắt điên đảo nhiều. Đệ nhị yếu: Đánh kiểng gọi đỉnh núi,

Thần thông đến tự tại,

Đa văn kêu ngoài cửa. Đệ tam yếu: Ngồi nằm khiến người chê,

Bàn tay nắm thiên địa,

Chiếu soi đủ ngàn sai. Về Tứ Liệu Giản, trong Lâm Tế Lục ghi rằng: Như kiến giải Thiền tông, tử hoạt dĩ nhiên, người tham học cần nên chú ý, cũng như chủ khách gặp nhau thì có ngôn luận qua lại, hoặc tùy vật hiện hình, hoặc toàn thể tác dụng, hoặc nắm cơ tùy phương tiện mà vui giận, hoặc hiện bán thân, hoặc cỡi sư tử, hoặc cỡi tượng vương. Như tiếng hét của người học chơn chánh là đưa ra cái thau bằng keo, Thiện tri thức chẳng biết là cảnh, bèn dính mắc cảnh họ làm dáng làm điệu, liền bị người học hét thêm tiếng nữa, Thiện tri thức chẳng chịu buông xuống, ấy là bệnh tuyệt vọng chẳng thể trị, gọi là “khách nhìn chủ”. Hoặc là Thiện tri thức chẳng đưa ra vật gì, tùy chỗ hỏi của người học liền đoạt, người học bị đoạt thà chết chẳng chịu buông, ấy gọi là “chủ nhìn khách”. Hoặc có người học tỏ một cái trong sạch ra trước mắt Thiện tri thức, Thiện tri thức biết là cảnh, liền quăng vào hầm sâu, người học nói: “Tốt lắm Thiện tri thức”. Thiện tri thức liền nói: “Ngốc thay chẳng biết tốt xấu”. Người học liền lễ bái, đây gọi là “Chủ nhìn chủ”. Hoặc có người học còng tay còng cổ ra trước mắt Thiện tri thức, Thiện tri thức lại cho còng thêm một lớp, người học hoan hỉ, hai bên đều chẳng biết, ấy gọi là “Khách nhìn khách”. Các Đại đức! Sơn Tăng kể chuyện như thế đều là phân biệt ma quái để biết rõ chánh tà vậy. Lại nói:

“Có khi đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh,

Có khi đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn,

Có khi nhơn cảnh đều đoạt,

Có khi nhơn cảnh đều chẳng đoạt”. Tăng hỏi thế nào là đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh?

Sư đáp: Mặt trời phát sinh lụa trải khắp, hài nhi tóc dài trắng như tơ.

Hỏi thế nào là đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn?

Sư đáp: Lệnh vua đã ban khắp thiên hạ, tướng quân biên thùy chẳng thấy nghe.

Hỏi thế nào là cảnh nhơn đều đoạt?

Sư đáp: Biên giới cách tuyệt tin tức, tự cô độc ở một nơi.

Hỏi thế nào là nhơn cảnh đều chẳng đoạt?

Sư đáp: Vua lên ngôi bửu điện, lão ẩn dật ca ngợi. Lại nói:

“Người học từ bốn phương đến, Sơn Tăng ở đây phân ra làm ba thứ căn cơ: Như người trung hạ căn đến thì ta đoạt cảnh họ mà chẳng trừ pháp họ; như người trung thượng căn đến thì ta cảnh pháp đều đoạt; như người thượng thượng căn đến thì ta cảnh pháp, nhơn đều chẳng đoạt; như có kẻ kiến giải xuất cách (siêu việt ba thứ căn cơ) đến thì Sơn Tăng ở đây bèn toàn thể tác dụng, chẳng tùy căn cơ”. Ngài Lâm Tế ứng cơ thường hay dùng hét, người ta gọi là “vào cửa liền hét”. Bởi trong một tiếng hét sẵn đủ tam huyền tam yếu và tác dụng chủ khách. Sư từng nói: “Có một tiếng hét như bửu kiếm Kim Cang Vương, có khi một tiếng hét như Kim Mao sư tử cự địa (thế sắp chụp người), có khi một tiếng hét như cây trúc dọ thám hình bóng trong đám cỏ, có khi một tiếng hét chẳng cho là tác dụng một tiếng hét, các người làm sao lãnh hội!” Lúc bấy giờ, môn đồ tham học trong hội cũng bắt chước Sư hét, Sư nói: “Các ngươi cứ bắt chước Ta hét, nay Ta hỏi các ngươi: có một người từ bên Đông ra, một người từ bên Tây ra, hai người cùng hét một lượt, ở đây phân được chủ khách chăng? Mà các người làm sao phân? Nếu phân chẳng được, về sau chẳng nên bắt chước lão Tăng hét”. Đối với gia phong Lâm Tế, Thủ Sơn Tĩnh Niệm thiền sư từng nói: “Các Thượng tọa! Chẳng nên hét mù hét bậy, ở đây bình thường nói với các ông, khách thì rốt cuộc là khách, chủ thì rốt cuộc là chủ; khách chẳng hai khách, chủ chẳng hai chủ. Nếu có hai khách, hai chủ tức là hai thằng mù, cho nên nếu ta đứng thì ngươi phải ngồi, nếu ta ngồi thì ngươi phải đứng. Ngồi thì cùng ngươi ngồi, đứng thì cùng ngươi đứng, mặc dù như thế, đến đây con mắt phải nhìn nhanh cho rõ mới được, nếu con mắt do dự thì cách xa muôn ngàn dậm. Tại sao như thế? Giống như cách cửa sổ xem cỡi ngựa, suy nghĩ tức chẳng dính dáng. Các Thượng tọa đã lưu tâm việc này, cần phải chú ý, tốt nhất đừng bám vào chỗ giả dối, hôm nọ ngày sau ngươi sẽ bị gạt”.

Đây là gia phong đại khái của Lâm Tế tông.

GIA PHONG QUI NGƯỠNG TÔNG

Qui Ngưỡng tông có chín mươi sáu tướng tròn, gia phong tương đối ôn hòa, chẳng giống sự mãnh liệt của Lâm Tế tông. Trong Nhơn Thiên Nhãn Mục nói về gia phong Qui Ngưỡng tông là “Cha từ con hiếu, trên lệnh thì dưới tùng, người muốn ăn cơm ta liền bưng canh; người muốn qua sông ta liền chèo thuyền, cách núi thấy khói liền biết là lửa; cách tường thấy sừng liền biết là trâu”. Còn Pháp Nhãn Thiền sư Thập Qui Luận rằng: “Qui Ngưỡng thì vuông tròn mặc khế, như tiếng dội trong hang, như phù hợp luật lệ thông qua cửa ải”. Truyền Đăng Lục Qui Sơn truyện rằng: Phổ thỉnh hái trà, Sư (Qui Sơn) nói với Ngưỡng Sơn rằng: Suốt ngày hái trà, chỉ nghe tiếng ngươi, chẳng thấy hình ngươi, xin hiện bổn hình ra xem!

Ngưỡng Sơn lắc cây trà.

Sư nói: Ngươi chỉ được cái dụng, chẳng được cái thể.

Ngưỡng Sơn nói: Chưa rõ Hòa thượng thế nào?

Sư giây lâu.

Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng chỉ được cái thể, chẳng được cái dụng.

Sư nói: Cho ngươi hai mươi gậy.

Ngưỡng Sơn nói: Gậy Hòa thượng con ăn, gậy con bảo ai ăn?

Sư nói: Cho ngươi ba mươi gậy. Ngữ Lục của Chơn Tịnh thiền sư sau khi trụ trì Động Sơn có ghi: “Thượng đường kể: Thuở xưa Diêm Quan thường dạy Tăng về pháp môn kiến tánh, nghe nói Qui Sơn cũng vậy, liền sai hai vị Tăng đi dọ thám, đến nơi tọa hạ, nghe trăm điều đề xướng đều chẳng hiểu, lại sanh tâm khinh mạn. Một hôm gặp Tiểu Thích Ca (Ngưỡng Sơn) nói: “Ngươi chớ tâm thô”. Tiểu Thích Ca bèn làm một tướng tròn, hai tay đưa ra, hai Tăng cũng chẳng hiểu, Tiểu Thích Ca nói: “Ngươi chớ tâm thô” liền bỏ đi.

Sư Chơn Tịnh nói: “Tiểu Thích Ca tam muội, hai vị Tăng chẳng biết, dưới cửa Động Sơn có kẻ nào biết chăng? Là tam muội gì?” Giây lâu, Ngài nói tiếp: “Làm mì cần xứ trồng lúa mạch, ca nhạc nên tôn người Đế Hương” (Nhạc thần của Đế Thích).

GIA PHONG VÂN MÔN TÔNG

Người sáng lập Vân Môn tông là tổ Văn Yểm, ban sơ tham vấn ngài Mục Châu phát minh tâm địa sau tham ngài Tuyết Phong, thấu được áo chỉ bèn nối pháp Tuyết Phong. Gia phong của Mục Châu mãnh liệt bén nhọn, mà gia phong của Tuyết Phong thì ôn hòa, huyền ảo, Văn Yểm kế thừa sở trường của hai nhà, phát huy Tông chỉ vi diệu đặc biệt, trụ núi Vân Môn Thiều Châu, đồ chúng thường hơn ngàn người, kẻ nối pháp sáu mươi mốt người. Gia phong của Vân Môn thẳng tắt, thường dùng ba chữ Cố (nhìn), Giám (xem), Ỷ (chê) để khám xét người học; còn có Vân Môn Bát Yếu: một Huyền, hai Tùng, ba Chơn Yếu, bốn Đoạt, năm Hoặc, sáu Quá, bảy Tán, tám Xuất. Pháp Nhãn Thiền Sư Thập Qui Luận xưng ngài Vân Môn là “Hàm cái triệt lưu”, nói gia phong nhà họ giống như nước sông đang chảy gấp mà đột nhiên dừng lại. Văn Yểm có tự làm bài kệ rằng: Vân Môn chót vót trên đám mây,

Cá chẳng dám trụ, nước chẳng bay,

Vào cửa đã biết ôm kiến giải,

Đâu phiền kể lại sình bánh xe. Đệ tử ngài Vân Môn là Viên Minh thiền sư có bài kệ tụng ba câu của Vân Môn rằng: 1/ Hàm cái càn khôn: Càn khôn và vạn tượng,

Địa ngục với thiên đường.

Vật vật đều trực hiện,

Mỗi mỗi chẳng đúng sai. 2/ Triệt đoạn chúng lưu: Đầy núi đầy biển lại,

Mỗi mỗi đều trần ai.

Lại muốn lập huyền diệu,

Ngói bể băng tiêu ngay. 3/ Tùy ba trục lãng: Cách hỏi dù biện tài,

Cao thấp đáp chẳng sai.

Cũng như thuốc đúng bệnh,

Chẩn trị lúc lâm thời. - Riêng hỏi ngoài ba câu: Đương nhơn nếu đề xướng,

Ba câu đâu thể gồm.

Có hỏi việc thế nào,

Nam Nhạc và Thiên Thai. Ngài Trí Môn làm bài tụng “Rút chữ Cố” rằng:

Vân Môn rút cố cười hi hi,

Suy nghĩ bị nó cố giám ỷ.

Dẫu cho Trương Lương nhiều kế sách,

Cuối cùng ở đây cũng khó thi (hành).

GIA PHONG PHÁP NHÃN TÔNG

Người sáng lập là Thanh Lương Văn Ích thiền sư, trụ trì Kim Lăng Thanh Vương Tự, học giả bốn phương tấp nập tìm đến tham học, hình thành một Tông phái trong Thiền tông.

Gia phong của Pháp Nhãn tông có Lục Tướng và Tứ Liệu giản dùng để tiếp dẫn hậu học. Tứ Liệu Giản tức là Văn văn (phóng), Văn bất văn (thu), Bất văn văn (minh), Bất văn bất văn (ám).

GIA PHONG TÀO ĐỘNG TÔNG

Tào Động tông đúng ra phải xưng là Động Tào tông, do Động Sơn Lương Giới thiền sư và đệ tử là Tào Sơn Bổn Tịch thiền sư sáng lập. Ngài Lương Giới thọ tâm yếu nơi Vân Nham thiền sư, sau trụ trì Động Sơn Phổ Lợi viện ở Dự Chương, đề xướng Ngũ Vị để tiếp dẫn hậu học. Ngũ Vị là: Chánh trung thiên, Thiên trung chánh, Chánh trung lai, Thiên trung chí, Kiêm trung đáo. Ngòai ra còn có bài Bửu Cảnh Tam Muội Ca. Động Sơn gia phong miên mật, trong số đệ tử thượng thủ, ngài Tào Sơn Bổn Tịch đắc tâm truyền, trụ trì Tào Sơn Sùng Thọ viện ở Võ Châu, xướng dương yếu khuyết Ngũ Vị, người học đến tấp nập, người đời xưng là Tào Động tông. Pháp Nhãn Thiền Sư Thập Qui Tụng rằng: “Tào Động là xướng họa làm dụng”, bởi gia phong một vấn một đáp, qua lại miên mật, so với cơ phong thẳng tắt của Lâm Tế ý thú khác xa. Nên người xưa có lời nói “Lâm Tế tướng quân, Tào Động nông dân”. Vì gia phong Lâm Tế như tướng chỉ huy binh lính trăm vạn, mà gia phong Tào Động thì như kẻ nông phu canh tác ruộng đất rất chu đáo vậy. Có Tăng hỏi Phần Dương Thiện Chiêu thiền sư: Thế nào là Chánh trung lai?

Đáp: Bông sen nở đầy trên đất khô.

Hỏi: Sau khi nở thế nào?

Đáp: Nhụy bông Kim Liên hứng sương ngọc, cao Tăng chẳng tọa đài Phượng Hoàng.

Hỏi: Thế nào là Chánh trung thiên?

Đáp: Mặt trăng chiếu sáng đầu đêm rồi, gà gáy phải báo trước canh năm.

Hỏi: Thế nào là Thiên trung chánh?

Đáp: Mầm nhỏ thành cây to, giọt nước làm sông ngòi.

Hỏi: Thế nào là Thiên trung chí?

Đáp: Ý khí chẳng đắc từ thiên địa, anh hùng đâu nương thời thế thành.

Hỏi: Thế nào là Kiêm trung đáo?

Đáp: Ngọc nữ dệt vải thuyền ọt ẹt, người đá đánh trống tiếng đùng đùng. Sư vì Tăng xin hỏi Ngũ Vị, bèn tụng ra từng vị rằng:Chánh trung lai: Bửu kiếm Kim Cang vạch trời ra,

Một tia thần quang khắp thế giới,

Phẩm tánh sáng tỏ tuyệt trần ai. Chánh trung thiên: Cơ phong sấm sét nháy mắt nhìn,

Lửa đá điện chớp chậm trể thay!

Suy nghĩ đo lường xa ngàn dặm. Thiên trung chánh: Hãy xem Luân Vương ban chánh lệnh,

Bảy ngàn Thái Tử đều theo hầu,

Giữa đường một mình tìm gương vàng. Thiên trung chí: Sư tử ba tuổi oai thế sẵn,

Thiên tà bá quái ló đầu ra,

Rống lên một tiếng đều hàng phục. Kiêm trung đáo: Hiển bày vô công chớ tạo tác,

Trâu gỗ bước đi trong lửa hồng,

Thật là Pháp Vương diệu trung diệu. Còn Ngũ Vị Tụng của Từ Minh Sở Viên thiền sư rằng: Chánh trung thiên: Gà đen nửa đêm gáy trong phòng,

Đáy biển đốt đèn thế giới sáng,

Tảng đá trồng bông mọc cây linh. Thiên trung chánh: Mặt trời lặn xuống hiện bóng lạ,

Ảnh tượng rõ ràng hiển Tông thừa,

Lông mày chớ nhìn trăng trong giếng. Chánh trung lai: Ngựa gỗ sanh con khắp thiên hạ,

Mặt tình dẫn dắt đi đường chim,

Há chẳng người nương ổ chim ở. Kiêm trung chí: Mỗi mỗi trượng phu có ý khí,

Mâu thuẫn chống nhau chẳng vết thương,

Tung hoành khai triển chẳng lìa nhau. Kiêm trung đáo: Trắng đen chưa rõ chớ tạo tác,

Phải biết trụ cột chưa sanh con,

Chớ nhận lời cuồng ngưng nữa đường. Trên đây là gia phong đại khái của Tào Động tông.

Người xưa có bình luận Ngũ gia gia phong rằng: Tào Động đinh ninh, Lâm Tế thế thắng, Vân Môn thẳng tắt, Pháp Nhãn linh xảo, Qui Ngưỡng trao nhau. Còn Bạch Vân, Pháp Diễn thiền sư trong Ngữ Lục có luận về Ngũ gia gia phong rằng: Tăng hỏi: Thế nào là việc Lâm Tế?

Đáp: Ngũ nghịch nghe sấm sét.

Hỏi: Thế nào là việc Vân Môn?

Đáp: Cờ đỏ lấp lánh.

Hỏi: Thế nào là việc Tào Động?

Đáp: Gởi thơ chẳng đến nhà.

Hỏi: Thế nào là việc Qui Ngưỡng?

Đáp: Bia gẫy nằm đường xưa.

Tăng lễ bái.

Sư nói: Sao chẳng hỏi việc Pháp Nhãn?

Tăng nói: Để giành cho Hòa thượng.

Sư nói: Người tuần phạm luật giới nghiêm. Sư nói tiếp: “Ngộ thì việc đồng một nhà, chẳng ngộ thì muôn ngàn sai biệt, một nửa ăn bùn ăn đất, một nửa ăn mạch ăn mè, hoặc là hàng long phục hổ, hoặc là lượm sò vớt tôm. Hòa Sơn chỉ biết đánh trống, Bí Ma luôn luôn giơ chỉa. Nói chung một tuồng hát cười, đều do mỉm cười niêm hoa, đồ bỏ trong đám Bạch Vân, gió xuôi xả đất, xả cát, nếu chẳng tâm can thế này, sao được áo gấm vinh qui! Vậy một tiếng Vinh Qui nên nói thế nào? Vinh hoa hôm nay người chẳng biết mười năm trước là một thư sinh”. Còn thượng đường nói: “Đạt Ma từ bên Tây đến, việc lâu nhiều biến đổi, con cháu đời sau gia phong vô hạn, nhiễu loạn thân tâm, một đống chỉ mành. Bạch Vân hôm nay thảy đều cắt đứt.

Đại chúng! Một trăm lẻ năm ngày thanh minh, Thượng nguyên nhất định là rằm tháng giêng”. Nên biết nói gia phong chỉ là phương tiện tùy nghi của chư Tổ dùng để tiếp dẫn hậu học. Gia phong dù theo người mà khác, nhưng Phật tánh thì ngàn xưa chẳng đổi, kẻ ngộ thì thấu qua như một, chẳng ngộ thì lại thêm lắm rối. Pháp Nhãn tông truyền sang Cao Ly, Vân Môn tông thất truyền đã lâu, nay chỉ còn ba tông Qui Ngưỡng, Tào Động, Lâm Tế; nhưng con cháu của các Tông, chỉ lấy cội nguồn gia phổ để truyền thừa với nhau, ghi tên trên pháp quyển là thiền sư đời thứ mấy mà thôi, nếu hỏi về gia phong tông chỉ thì ngơ ngác chẳng thể trả lời. Nên khuyên người học đời nay, hễ được minh tâm kiến tánh liền được liễu thoát sanh tử, nối tiếp huệ mạng của chư Phật chư Tổ, với chư Phật chư Tổ nắm tay cùng đi, đâu cần phân chia tông phái chi nữa!

Nguồn: http://www.thienvien...am.net/node/218

Thêm: http://www.thienvien...am.net/node/204

Hãy so sánh lịch sử Thiền Tông với kiến giải của Lý Hồng Chí về Thiền Tông, dành cho các độc giả.

Posted Image

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thôi mà! Tất cả đều đúng đúng cả đi. Dĩ hòa vi quí mà.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bạn biết năm xưa đức phật thích ca đã từng nhắc đến Hoa Ưu Đàm và Đức Chuyển Luân Thánh Vương hay vị Phật tương lai ngài gọi la Di Lặc..lúc đó mới là chính pháp, không xuất gia vẫn có thể tu hành, độ tất cả chúng sinh hữu duyên.

Dự ngôn maya 21/12/2012 kết thúc chu kỳ dài 5.125 năm trong...20 năm cuối là tịnh hóa địa cầu đó là xãy ra hiện tượng gì? 13.5.1992 chỉ có sư phụ Lý Hồng Chí đề ra Pháp Luân Công với "CHÂN,THIỆN,NHẪN" truyền 145 quốc gia tất cả mọi thành phần trong xã hội, sự kỳ diệu của PLC về hồi phục sức khỏe đã được tổ chức y tế thế giới công nhận. 99,1% phục hồi sức khỏe nhờ tập PLC, 85% bỏ các thói quen xấu...Sự đàn áp PLC với việc mổ cướp nội tạng bị cả thế giới lên án...Những ai tìm kiếm tri thức, phật pháp đều thấy PLC có hết những điều mà cả đời mình tìm kiếm.

Có ai đọc khải huyền trong kinh thánh chưa??

Nói đến Di Lặc Từ Thị Bồ Tát thì tức là nói đến cảnh giới Trời Đâu Xuất. Trong Kinh: "Bồ Tát Di Lặc Thượng Sinh" có nói đến sự Thượng Sinh và Hạ Sinh.

Ai muốn Thượng Sinh (sinh lên) cõi trời Đâu Xuất của Bồ Tát Di Lặc thì phải thực hành đúng theo lời Đức Phật Thích Ca thuyết trong Kinh này. Đây là hình thức tu mà đi trong sinh tử, không cầu giải thoát sinh tử. Hạ Sinh, cũng trong Kinh này, nội dung có nói đến đời tương lai, Bồ Tát Di Lặc sẽ Hạ Sinh (sinh xuống) Trái đất (Ta bà thế giới, uế độ-đất bẩn) này. Bồ Tát sẽ Thiền Định, ngồi dưới gốc cây Long Thọ chứng đắc Phật Quả thành hiệu Đức Phật Di Lặc.

Nhiều người xem Kinh, biết được vấn đề này nhưng thường hay mắc bệnh thọ ký thời Phật Di Lặc đã đến rồi, đang đến. Sự tự thọ ký này là bệnh của một số người trong giới tham học về Tôn giáo, Tâm linh. Và rất nhiều học viên Pháp Luân Công cũng mắc bệnh này.

"Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực lòng là Di lặc":

Sơ lược tiểu sử Đệ Nhất Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông

VUA TRẦN NHÂN TÔNG, ĐỆ NHẤT TỔ

THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ

(1258 – 1308)

Vua tên là Khâm, đản sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu ngọ, niên hiệu Nguyên Phong thứ VIII (1258), con trưởng thượng hoàng Thánh Tông và hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Năm 16 tuổi, được lập làm Thái tử, vua có ý từ chối, xin nhường cho em nhưng không được vua cha chấp thuận. Vua bản tính thông minh, học rộng, đa tài, đọc hết các sách sử thế gian; về Phật học, cũng rất tinh tường, thường cùng các vị tôn đức trong thiền gia giảng cứu Thiền học; nhất là được sự giáo huấn của ngài Tuệ Trung Thượng sĩ, nên vua am hiểu Phật pháp đến chỗ uyên áo. Năm vua 21 tuổi, được thượng hoàng truyền ngôi và lấy hiệu là Thiệu Bảo Nguyên Niên (1279). Tuy ở ngôi chí tôn, vua vẫn giữ mình thanh tịnh, ban ngày làm việc triều chính, đêm về nghỉ ở chùa Tư Phúc trong nội thành.

Vua trị vì mười lăm năm (1279 – 1293). Quốc sử ghi: "Vua giáng sinh có được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung (tức hai bà phi) đều cho là lạ, gọi là "Kim Tiên đồng tử" (sách Tam Tổ Thực Lục gọi là "Kim Phật"); ở vai bên trái có một nốt ruồi đen, cho nên cố thể cáng đáng được việc lớn. Vua lên ngôi năm 21 tuổi, trị vì 14 năm, đến niên hiệu Trùng Hưng thứ IX (năm Quí Tị) thì nhường ngôi cho con là Anh Tông. Cách mấy năm sau vua xuất gia ở hành cung Vũ Lâm, rồi sau ra tu ở núi Yên Tử và băng ở am Ngọa Vân. Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng làm vẻ vang đời trước. thực là vị vua hiền của nhà Trần…"

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư –

Niên hiệu Trùng Hưng thứ IX (1293), vua truyền ngôi cho con là thái tử Thuyên (tức vua Trần Anh Tông), rồi về Thiên Trường làm thái thượng hoàng 6 năm, để dạy con cách quản trị việc nước.

Niên hiệu Hưng Long thứ III (1295) vua dời đến ở hành cung Vũ Lâm, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình. Đây là năm đầu tiên khởi sự "thực tập xuất gia", vua có làm bài tgơ Vũ Lâm Thu Vãn:

"Hoa kiều đảo ảnh trám khê hành

Nhất mạt tà dương thủy ngoại minh.

Tịch tịch thiên sơn, hồng diệp lạc,

Thấp vân hòa lộ tống chung thanh"

CUỐI THU Ở HÀNH CUNG VŨ LÂM

Con khe dìn ngược bóng cầu

Hắt lên một vết sáng màu tà dương.

Núi non lặng trút là hường,

Móc dầm mây ướt đưa đường tiếng chuông.

Bản dịch Giản Chi-

Vua chỉ ở hành cung Vũ Lâm trong thời gian ngắn, rồi trở lại quê hương ở Thiên Trường (Nam Định), mở Vô Lượng Pháp Hội tại chùa Phổ Minh "bố thí tiền của, vải vóc, vật thực và trợ cấp cho những nơi mất mùa nghèo đói…"

Niên hiệu Hưng Long thứ VII (1299(, vua cho dựng thảo am ở ngọn Tử Tiêu, núi Yên Tử, lấy pháp danh là Hương Vân Đại Đầu Đà, hiệu là Đại Hương Hải Ấn Thiền Sư. Vua là người sáng lập pháo thiền Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, hoàn toàn mang trái tim, khối óc và hơi thở Việt nam, và cho lập chùa Long Động (ở bên nuí) để độ tăng và giảng dạy Chính Pháp. Số học chúng tới xin thụ giáo đông có hàng ngàn.[131]

Cũng trong năm 1299, vua Anh Tông sắc cho ấn hành cuốn "Phật Giáo Pháp Sự Đạo Tràng Công Văn Nghi Thức" để phổ biến trong toàn quốc, ghi dấu ngày thượng hoàng Nhân Tông xuất gia.

Niên hiệu Hưng Long thứ XII (1304), vua lấy đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà Điều Ngự Giác Hoàng, rồi cùng với đệ tử là tôn giả Pháp Loa và mười đồ đệ đi khắp nẻo thôn quê giảng pháp, khuyên dân bỏ mê tín, hủy dâm từ, thực hành giáo lý Thập Thiện,[132] với mục đích xây dựng một xã hội đạo đức "nhân gian tịnh độ".

Sau đó Giác Hoàng trở về chùa Sùng nghiêm, ở Linh Sơn, mở khoá dạy thiền:

Mở đầu Pháp hội, ngài nói: Đức Thích Ca Văn Phật, vì một đại sự nhânn duyên, thị hiện xuống cõi đời, ròng rã ngót nửa thế kỷ "hoằng pháp độ sinh", nhưng Phật vẫn tự nhận là "chưa hề nói một chữ…"

Nay ta lên ngôi tòa này, chẳng biết phải nói gì với các ngươi?

Một vị tăng đứng dậy, chắp tay bạch:

- Thế nào là Phật?

Ngài đáp:

- Chấp theo lối cũ là không đúng.

Lại nói tiếp:

- Thế nào là Pháp?

Ngài đáp:

- Chấp theo lối cũ là không đúng.

Hỏi tiếp:

- Thế nào là tăng?

Ngài đáp:

- Chấp theo lối cũ là không đúng.

Lại hỏi:

- Cứu cánh sẽ ra sao?

Ngài đáp:

- Tám chữ [133]

Cuối năm 1304, vua Anh Tông cung thỉnh Giác Hoàng về kinh đô Thăng Long xin thụ Bồ Tát Giới Tại Gia. Năm 1306, Giác Hoàng vào tu trong am Ngọc Vân, lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ.

Niên hiệu Hưng Long thứ XVI (1308), ngày 1 tháng giêng năm Mậu Thân, Giác Hoàng chính thức ủy cử tôn giả PHÁP LOA, đảm nhận chức trụ trì chùa báo Ân, ở Siêu Loại (Bắc Ninh).[134]

Tháng 4 Giác Hoàng đích thân tới chùa Vĩnh nghiêm ở Lạng Giang (Bắc Giang) chủ trì và giảng Truyền Đăng Lục và bảo quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho chư tăng kiết hạ tại đây.

Sau ngày làm lễ "tự tứ", kết thúc ba tháng hạ, Giác Hoàng trở lại núi Yên Tử, và cho hết những tịnh nhân xuống núi, chỉ giữ lại mười vị thị giả theo ngài lên ở trên am Tử Tiêu và giảng riêng Truyền Đăng Lục cho tôn giả Pháp Loa. Giác Hoàng dạo khắp các hang động, lúc quá mệt, vào nghỉ ở Thạch Thất. Bảo Sát bạch:

- "Tôn Đức xuân thu đã cao, mà xông pha mưa nắng lỡ khi nóng, lạnh bất thường thi mệnh mạch Phật pháp biết nương tựa vào đâu?"

Giác Hoàng bảo:

- "Thời tiết đã đến, ta chỉ còn đợi ngày viên tịch nữa thôi".

Ngày 5 tháng 10, bỗng có gia đồng của chị là công chúa Thiên Thụy lên tâu rằng:

- "Công chúa bị đau nặng, chỉ mong được diện kiến Tôn Đức trước khi nhắm mắt".

Giác Hoàng bùi ngùi than:

- "Thời tiết mà thôi vậy!"

rồi xuống núi cùng với một thị giả đi hầu. Ngày mồng mười thì tới kinh, thăm chị xong, ngày rằm lên đường về núi, đêm nghỉ ở chùa Siêu Loại. Sáng dậy đi bộ ghé ngang qua chùa làng Cổ Châu, và đề bài thơ:

"Thế số nhất tức mặc,

thời tình lưỡng hải ngân.

Ma cung hồn quản thậm,

Phật quốc bất thăng xuân".

Dịch:

Kiếp người một hơi thở!

Tình đời đôi mắt buồn…

Cung ma nhiều rối rắm

Cõi phật vui nào hơn.

Ngày 17, nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm, núi Linh Sơn, hoàng thái hậu Tuyên Từ thỉnh về am Bình Dương phó trai. Giác Hoàng vui vẻ nói: "Đây là buổi cúng dường cuối cùng"!

Ngày 18 lại lên đường, tới chùa Tú Lâm, ở ngọn An Sinh, Giác Hoàng bị nhức đầu, bảo hai vị tỳ khưu Tử Doanh và Hoàn Trung rằng: "Ta muốn lên đỉnh Ngọa Vân mà chân yếu quá, không thể lên nổi, phải làm sao?" -Hai vị tỳ khưu bạch: "Hai chúng con xin đỡ ngài đi". Vừa đến am Ngọa Vân, Giác Hoàng cãm ơn hai vị và nói: "quí vị xuống núi tu hành đi, chớ coi thường sinh tử".

Ngày 19, Giác Hoàng bảo thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu, núi Yên Tử, gọi Bảo Sát đên gấp.

Ngày 20, Bảo Sát đeo tay nải ra đi, đến Doanh Tuyền bỗng thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua núi Lỗi thì dừng lại. Bỗng nhiên nước dâng lai láng, cao đến vài trượng, khi nước rút xuống, thấy hiện hai con rồng, đầu như đầu ngựa, ngóa cao hơn một trượng, hai mắt sáng như sao, chỉ trong khoảnh khắc, rồi biến mất. Chiều tối, Bảo Sát phải nghỉ lại ở sườn núi, đêm chiêm bao thấy hiện những điềm bất thường.

Ngày 21, Bảo Sát đến am Ngọa Vân. Giác Hoàng trông thấy cười và nói: "Ngươi sao đến chậm thế? Ta sắp đi đây. Trong Phật Pháp có điều nào còn ngờ thì hãy nói gấp đi".

Bảo Sát thưa: "Khi đại sư Mã Tổ bệnh, vị viện chủ hỏi: Những ngày gần đây Tôn Đức thế nào?" Mã Tổ bảo: "Ngày thấy Phật, đêm thấy Phật. Vậy ý ấy thế nào?"

Giác Hoàng lớn tiếng: "Ngu đế và Tam hoàng là vật gì?"

Bảo Sát nói: "Hoa nở sum suê màu rực rỡ, tre phương nam với gỗ phương bắc phải hiểu thế nào?"

Giác Hoàng nói: "Ngươi là kẻ ngu".

Bảo Sát liền thôi.

Suốt mấy hôm trời đất mù mịt tối tăm, gió bảo nổi lên, mưa tuyết làm ướt đẫm cây cỏ; vượn, khỉ liệng quanh am gào khóc thê thảm, chim núi cùng hót giọng buồn rầu…

Ngày 1 tháng 11, vào lúc nửa đêm, tự nhiên trời quang mây tạnh, sao sáng đầy trời. Giác Hoàng gọi Bảo Sát:

"-Bây giờ là giờ gì?"

Bảo Sát thưa: "Giờ tý".

Giác Hoàng đưa tay vén màn nhìn ra ngoài và nói: "Đã đến giờ ta đi đây".

Bảo Sát hỏi: "Tôn Đức đi đâu bây giờ?"

Giác Hoàng nói bài kệ:

"Nhất thiết pháp bất sinh,

Nhất thiết pháp bất diệt.

Nhược năng như thị giải,

Chư Phật thường hiện tiền

Hà khứ lai chi hữu dã".

(Các pháp vốn không sinh

Các pháp vốn không diệt

Nếu hiểu rõ như thế

Chư Phật thường hiện tiền…

Chẳng đi đâu mà cũng chẳng lại đâu cả).

Bảo Sát hỏi thêm: "Còn khi bất sinh bất diệt thì sao?"

Giác Hoàng bỗng nhiên xoè bàn tay và nói:"Đừng có ngủ mơ".

Nói xong ngài nằm trên tòa sư tử mà hóa, trụ thế 51 năm[135] Tôn giả Pháp Loa rước ngọc thể lên hỏa đàn. Tương truyền: "Khi đó có hương thơm tỏa ra và thấy những tiếng nhạc ở trên trời, mây ngũ sắc tụ lại thành hình cái tàn để che nơi hỏa thiêu Thượng hoàng Nhân Tông. Tôn giả Pháp Loa thu nhặt ngọc cốt: ngoài xương (ngọc cốt) còn thấy những xá lợi ngũ sắc. Sách Tam Tổ Thực Lục ghi là sau khi hỏa thiêu có thu nhập được 3.000 xá lợi. Nhưng sách Tam Tổ Hành Trạng ghi là có 1.000 xá lợi. Sau lúc đó thì vua Trần Anh Tông và đình thần đến núi Yên Tử để chịu tang. Theo sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược HT Mật Thể ghi: vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về an thổ ở Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, lấy tên là "Huệ Quang Kim Tháp" và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật". trong sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép: tên thụy hiệu của Thượng hoàng Nhân Tông là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hoá Dân Long Từ Hiển Huệ Thánh Văn Thần Vũ nguyên Minh Huệ Hiếu Hoàng Đế".

Louis BEZACIER trong bài "Le Stupa du Phổ Minh Tự" nghiên cứu những tài liệu Tam Tổ Thực Lục, Tam Tổ hành Trang, Trúc lâm Tông Chỉ, Nam ông Mộng LụcTan Tổ Hành Trạng thì lễ táng của Trần Nhân Tông được tổ chức tại Hà Nội. Nhưng theo sách Nam ông Mộng Lục thì lễ hỏa táng ngọc thể của Trần Nhân Tông được tổ chức ở gần am Ngọa Vân.

"Trong lễ tang có hoàng tử Oanh (cũng gọi là Mạnh), lên 9 tuổi, đứng ở gần vua Anh Tông. Sách Nam Ông Mộng Lục chép là xá lợi của Thượng hoàng Nhân Tông đã bay đến ẩn trong áo của một hoàng tử con vua Trần Anh Tông và chiếu sáng lên. Vua Anh Tông quỳ lạy xin tuân lệnh, sau khi đó thì ánh sáng của xá lợi biến đi. Vua Anh Tông đã chọn vị hoàng tử đó làm đông cung thái tử. Sách Tam Tổ Thực Lục cũng kể sự việc này và có ghi là vua Trần Anh Tông đã khóc và không còn nghi ngờ các xá lợi. Vua Anh Tông truyền để ngọc cốt trong bảo tháp xây trên lăng của Thượng hoàng Nhân Tông và những xá lợi chia làm hai phần đựng trong bình đựng di cốt. Sau lễ tang, ngọc cốt được đem chôn ở Đức Lăng, một phần xá lợi đặt ở tháp trong lăng (nhưng đặt ở kim tháp trong chùa Vân Yên trên núi Yên Tử).

"Các tài liệu trên đều không ghi ngày tháng cử hành lễ tang, Thượng hoàng Nhân Tông, nhưng trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, tập VI, có ghi tháng 9 âm lịch, mùa thu năm 1310, an táng linh cửu Nhân Tông ở Đức Lăng, phủ Long Hưng, tỉnh Hưng Yên ngày nay.

"Như vậy theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì Thượng Hoàng Nhân Tông mất ở chùa núi Yên Tử vào tháng mười một âm lịch năm Mậu Thân (1308) và mãi tới tháng chín âm lịch năm Canh Tuất (1310) mới làm lễ an táng linh cữu ở Đức Lăng, nghĩa là linh cữu của Thượng hoàng Nhân Tông được an táng.

"Trong sách Tam Tổ Thực Lục chỉ ghi có hai nơi chôn ngọc cốt và xá lợi Thượng hoàng Nhân Tông là tháp Đức Lăng và tháp ở chùa Vân Yên, mà không nói phần xá lợi thứ hai được để ở đâu. Theo L. BEZACIER thì phần xá lợi này phải để ở tháp[136] xây ở trước chùa Phổ Minh, làng Tức Mặc, tỉnh Nam Định"[137]

Theo Việt Sử Tiêu Án: "Khi rước di hài vua Nhân Tông về táng ở Đức Lăng, lúc tử cung (quan tài của vua gọi là tử cung) sắp đưa ra, người xem đông chật cả cung, phải dùng đến lính ngự lâm để mởi lối đi cũng không được. Vua (Anh Tông) sai Trịnh Trọng Tử dẹp mở đường. Trọng Tử đến sân rồng gọi đạo quân Long Dực hát khúc long ngâm, dân chúng kéo đến đó xem; cung điện mới rộng chỗ đi được, lại lấy những câu hát ở dọc đường, phổ vào khúc hát, làm cho có tiếng hát liền mãi, không cần phải truyền bảo gì, mà khi đi lên, đi xuống, quanh chuyển, không có lo nghiêng lệch nữa. người đời bấy giờ khen là có xảo tứ.

"Xá lợi của vua Nhân Tông chia làm hai phần: một đưa về táng ở Đức lăng, một để ở tháp Yên Tử. Có thầy Tăng chùa siêu Loại là Trí Không đốt tay cháy từ bàn tay đến cánh tay, cứ ngồi nghiễm nhiên, không đổi sắc mặt. Vua Anh Tông hỏi, trả lời rằng: "Thần đốt đèn đó". Lửa tắt, thầy về tăng viện ngủ kỹ, đến khi thức dậy chỗ phỏng lên đều khỏi cả. Đến lúc xá lợi vua Nhân Tông đưa để ở bảo tháp, thầy liền lên núi hầu hạ" (Sđd trang 225, 226).

Những tác phẩm do Giác Hoàng sáng tác gồm có:

Chữ Hán:

Tăng Già Toái Sự.

Thạch Thất Mị Ngữ.

Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục.

Trúc Lâm Hậu Lục.

Đại Hương Hải Ấn thi Tập.

Chữ Nôm:

Cự Trần Lạc Đào Phú[138]

Đắc Thú Lâm Tuyền Thánh Đạo Ca.

Ngoài ra, ngài còn là tác giả bài Thượng sỉ Hành Trạng (viết về cuộc đời của Tuệ Trung Thượng sĩ) in ở sáchTuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục.

Dưới đây, chúng tôi xin trích dẫn ít bài thơ của ngài làm điển hình:

Thiên Trường Vãn Vọng

Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô, bán hữu tịch dương biên.

Mục đồng địch lý qui ngưu tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền.

Cảnh Chiều Ở Thiên Trường

Mờ mờ thôn trước, thôn sau,

Như không, như có trong bầu tịch dương,

Trâu theo sáo mục về chuồng,

Ruộng bên, từng cặp trắng buông cánh cò…

Bản dịch Giản Chi.

Lạng Châu Vãn cảnh

Cổ tự thê lương thu ái ngoại

Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ.

Nguyệt minh sơn tĩnh bạch điểu quá,

Phong định vân nhàn hồng thụ sơ.

Cảnh Chiều Châu Lạng

Lạnh lẽo chùa quê bóng mịt mờ

Thuyền ngư lẽo đẽo, tiếng chuông đưa.

Nước quanh, non tĩnh, con cò liệng,

Gió tạnh, mây in, lá đỏ thưa.

Ngô Tất Tố dịch

XUÂN HIỂU

Thụy khởi khải song phi

Bất tri xuân dĩ qui

Nhất song bạch hồ điệp

Phách phách sấn hoa phi.

BUỔI SỚM MÙA XUÂN

Thức dậy nhìn ra cửa

A, xuân đã đến kìa!

Có đôi bươm bướm trắng

Đậu cành hoa phất phơ…

Tạm dịch

XUÂN VÃN

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,

Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.

Như kim kham phá đông hoàng diện,

Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

XUÂN MUỘN

Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không,

Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng.

Chúa xuân nay đã thành quen mặt,

Nệm cỏ ngồi yên, ngó rụng hồng.

Ngô Tất Tố (TVLT tập II, q. th, trang 464)

NGUYỆT

Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,

Lộ trích thu đình dạ khí hư.

Thụy khởi hâm thanh vô mịch xứ,

Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.

TRĂNG

Đèn song chếch bóng, sách đầy giường,

Đêm vắng sân thu lác đác sương.

Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết,

Trên cành hoa quế nguyệt lồng gương

Đào Phương Bình (TVLT, t.2, q. thg)

ĐẠI LÃM THẦN QUANG TỰ

Thần quang tự liểu hứng thiên u,

Sanh thỏ phi ô thiên thượng du

Thập nhị lâu đài khai họa trục,

Tam thiên thế giới nhập thi mâu.

Tục đa biến thái vân thương cẩu,

Tùng bất tri niên tăng bạch đầu.

Trừ khước trụ hương tham Phật sự,

Tá dư niệm liễu tổng hưu hưu.

CHÙA THẦN QUANG TRÊN NÚI ĐẠI LÃM

Chùa vắng Thần Quang, hầu nhã hứng,

Chơi mây, thỏ ngọc, quạ vàng đưa.

Lâu đài chín cõi bày tranh vẽ,

Thế giới ba ngàn lọt mắt thơ.

Biển hóa thành dâu buồn thói tục,

Tùng không biết tuổi bạc đầu sư.

Ngoài câu cúng Phật, tuần nhang thắp,

Lo nghĩ bao điều, mấy cũng ngơ!

Khương Hữu Dụng (TVLT t.2 q thg. Tr 481)

ĐỀ PHỔ MINH TỰ THỦY TẠ

Huân tận thiên đầu mãn tọa hương

Thủy lưu sơ khởi bất đa lương

Lão dung ảnh lý tăng quan bế

Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường.

ĐỀ NHÀ THỦY TẠ CHÙA PHỔ MINH

Nghìn hương thắp hết ngát đầy nhà

Làn nước hiu hiu gió lạnh qua

Dưới bóng đa già chùa vắng vẻ

Tiếng ve khơi động tứ thu xa.

Theo ngô Tất Tố (VHĐT)

ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN

Địa tích đài du cổ,

Thời lai xuân vị thâm.

Vân sơn tương viễn cận,

Hoa kính bán tình âm

Vạn sự thủy lưu thủy,

Bách niên tâm ngự (ngữ) tâm.

Yû lan hoành ngọc địch,

Minh nguyệt mãn hung khâm.

LÊN NÚI BẢO ĐÀI

Nghĩa là:

Đất hẻo lánh làm cho đài tăng vẻ cổ kính

Tuy xuân đến nhưng màu chưa muộn

Mây phủ kín núi đồi, ngọn như gần, ngọn như xa.

Đường đầy những hoa chỗ hừng chỗ râm

Muôn việc ở đời có khác gì dòng nước chảy trôi.

Cuộc trăm năm riêng lòng nhủ với lòng

Tựa lan can, cầm ngang ống sáo thổi

Trăng sáng tràn đầy cả ngực, bụng.

LÊN NÚI BẢO ĐÀI

Cảnh vắng, đài thêm cổ,

Xuân sang, màu chửa già.

Gần, xa, mây tiếp núi;

Nắng, rợp, bóng xen hoa.

Muôn việc: nước cuốn nước,

Trăm năm: ta nhủ ta.

Tựa lan, nâng sáo ngọc,

Tâm sự ánh trăng ngà…

Bản dịch Giản Chi

Hai câu PHÁ, THỪA tả cảnh cô tịch của ngôi tháp đứng chơ vơ trên ngọn núi, nơi xưa nay ít có ai tới được; có lẽ tác giả là người duy nhất đã lên chơi núi Bảo Đài, nhìn ra chung quanh cảnh vật (lúc ấy) mùa xuân bắt đầu chuyển hiện, tuy chưa rực rỡ lắm, nhưng cũng gợi cho khách du quan cảm thức được vẻ đẹp huyền bí của thiên nhiên. Hai câu THỰC ghi hiện trạng cảnh núi đồi trùng điệp với những bóng mây ngũ sắc bay là là trên không, xen kẽ trong các hang hốc bên sườn núi có những bông hoa nở lúc đậm lúc lợt; thỉnh thoảng nghe điểm những tiếng chim kêu, vượn hót, hổ gầm đến rợn người… Đứng trên đài cao, ngắm bầu trời mặt đất mênh mông, huyền ảo đủ để tác giả lý hội trọn vẹn lẽ Sắc, Không mầu nhiệm – "cuộc đời là như thế đó" –để rồi dẫn đến hai câu LUẬN:

"Vạn sự thủy lưu thủy,

Bách niên tâm ngự tâm".

Cảnh vật là vô thường biến đổi. Tất cả hiện tượng chỉ như dòng nước chảy trôi không bao giờ dừng nghỉ – Họa chăng còn rớt lại trên vết thời gian một chút dư âm "trăm năm: lòng nhủ lòng". Nói theo thi hào Nguyễn Du:

"…Của TIN gọi một chút này làm ghi".

Hai câu KẾT: Tác giả đứng cô đơn bên bức lan can, lấy ống sáo ra thổi để cho quên hết mọi suy tư…Nhưng kìa! Trăng đã mọc tự lúc nào? Rồi (bỗng nhiên) vầng trăng sáng ùa vào lồng ngực khiến khắp người cảm thấy thanh thoát nhẹ nhàng như hòa mình (tiểu ngã) vào với đại – ngã – thể – rộng – lớn – của – vũ – trụ – vô – biên. Vầng trăng là biểu tượng của CHÂN TÂM tồn tại trên sự sinh thành, hủy diệt của vạn pháp… Phải nói đây là bài thơ lẫm liệt có sức cuốn hút lạ lùng nên mỗi chữ, mỗi câu là những viên ngọc tỏa ánh sáng lung linh…

Có lần, Lý bạch (thời Thịnh Đường 715 –766) đến chơi lầu Hoàng Hạc, nhìn lên thấy bài thơ của Thôi Hiệu đề ở vách tường, không phải nhà thơ kém tài… nhưng bao nhiêu ý sâu, lời đẹp Thôi Hiệu đã nói cả rồi (!) đành cắn bút thở dài, ngượng ngùng viết hai câu:

"Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc,

Thôi Hiệu đề thi tại thượng đài".

(Có cảnh đẹp trước mắt mà không sao nói đựợc, vì trên lầu Thôi Hiệu đã có đề thơ quá hay).

Nguyên tác bài HOÀNG HẠC LÂU:

"Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ?

Thử địa không dư hoàng hạc lâu!

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản;

Bạch vân thiên tải không du du.

Tình xuyên lịch lịch Hán dương thụ;

Hoang thảo thê thê Anh Vũ châu.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu".

GÁC HOÀNG HẠC:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?

Mà đây Hoàng hạc riêng lầu còn trơ!

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!

Tản Đà dịch.

LẦU HOÀNG HẠC:

Người cưỡi hạc vàng xưa vắng bóng

Riêng lầu Hoàng Hạc cảnh chơ vơ

Hạc vàng, một thoáng đi biền biệt

Mây trắng bao đời vẫn nhởn nhơ.

Bén tạnh Hán Dương cây bát ngát

Bãi hoang Anh Vũ cỏ lưa thưa

Chiều tà, gợi nhớ đâu quê quán?

Khói sóng trên sông khách ngẩn ngơ!

Nếu đem bài Hoàng Hạc Lâu so với bài "Đăng Bảo Đài Sơn" ta thấy mỗi bài có những vẻ đẹp dị thường…

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ (1)

(Thập hồi dụng diễn ca quốc ngữ phú)[139]

Đệ Nhất Hội

Mình ngồi thành thị,

Nết dụng[140] sơn lâm.

Muôn nghiệp lắng,[141] an nhàn thể tính[142];

Nửa ngày rỗi, tự tại thân tâm.[143]

Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí;

Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.

Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý;

Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm[144]

Nguyệt bạc vầng xanh, soi mọi chỗ thiền hà[145] lai láng;

Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm[146]

Lừa hoán cốt[147], ước phi thăng, đan thần mới phục[148];

Nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc quí còn đam[149].

Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu ngọc;

Kinh nhàn đọc sách, trọng lòng rồi trọng nớ[150] hoàng kim.

Đệ Nhị Hội

Biết vậy:

Miễn được lòng rồi,

Chẳng còn phép khác.

Gìn tính sáng, tính mới hầu an;

Nén niềm vọng; niềm đành chẳng thác [151].

Dứt trừ nhân ngã [152], thì ra tướng thực kim cương[153];

Dừng hết tham sân[154], mới láu lòng mầu viên giáo[155].

Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương[156];

Di Đà là tính sáng soi, mựa[157] phải nhọc tìm về Cực Lạc.

Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe;

Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán giác[158].

Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiếm thửa đắng cay;

Vận giẻ vận sui[159], thân căn có ngại chi đen bạc.

Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quí nớ[160] thiên cung;

Dầu hay mến thửa nghĩa nhân, ba phiến ngói yêu hơn lầu các.

Đệ Tam Hội

Nếu mà cốc[161]

Tội ắt đã không, phép học lại thông.

Gìn tính sáng mựa[162] lạc tà đạo;

Sửa mình học cho phải chính tông.

Chỉn Bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ[163]

Vong tài đối sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng Công[164].

Áng tư tài[165]tính sáng chẳng tham, há vì ở canh diều Yên Tử;

Răn thanh sắc niềm đành chẳng chuyển, lo chi ngồi am Sạn[166] non Đông.

Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu[167] hết sức;

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả[168] uổng công;

Nguyện mong thân cận minh sự, quả bồ đề[169] một đêm mà chín;

Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa ưu đàm[170] mấy kiếp đơm bông.

Đệ Tứ Hội

Tin xem:

Miền cốc[171] một lòng,

Thời rồi mọi hoặc.

Chuyển tam độc[172] mới chứng tam thân[173];

Đoạn lục căn[174] nên trừ lục tặc[175]

Tìm đường hoán cốt, chỉn xá hay phục được luyện đan;

Hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc[176]

Biết Chân như[177] tin Bát nhã[178] chớ còn tìm Phật tổ tây đông;

Chứng thực tướng[179] ngộ vô vi[180], nào nhọc hỏi kinh thiền nam bắc.

Xem Tam tạng[181], giáo, ắt học đòi thiền uyển thanh qui[182];

Đốt ngũ phần hương, chẳng tốn đến chiên đàn chiên bặc[183].

Tích nhân nghĩa, tụ đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca;[184]

Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực lòng là Di lặc[185].

Đệ Ngũ Hội

Vậy mới hay:

Bụt ở cung nhà[186], chẳng phải tìm xa.

Nhân khuy bản[187] nên ta tìm Bụt;

Đến cốc hay chỉn Bụt là ta.

Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng[188] trong quê Hà Hữu[189].

Kinh xem ba bận, ngồi nghe với quốc Tân La[190]

Trong đạo nghĩa, khoáng cơ quan [191] đà đột lần trường kinh cửa Tổ;

Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa.

Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyện cho thân cận;

Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đà xa[192].

Áo miễn[193] chăn đầm ấm qua mùa, hoặc kim hoặc chỉ;

Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dù bạc dù thoa[194].

Ngăn bát thức[195], nén bát phong[196] càng đè càng bội[197];

Rẽ tam huyền[198], nong tam yếu[199], một cắt một ma[200].

Cầm vốn thiếu huyền, sá đàn dấu xoang vô sinh khúc[201];

Địch nguyên chẳng lỗ, cũng phím chơi xướng thái bình ca[202].

Rẽ cỗi tìm cành, còn khá tiếc. Câu Chi trưởng lão[203];

Khuấy đầu chớp bóng, ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa[204].

Lột quyển kim cương, há mặt hầu thông nên nóng[205];

Nuốt bồng lật cức, nào tay phải xước tượng da[206].

Đệ Lục Hội

Thực thay:

Hễ xá vô tâm,

Tự nhiên hợp đạo.

Dừng tam nghiệp[207] mới sáng thân tâm;

Đạt một lòng thời thông tổ giáo,

Nhận văn giải nghĩa, lạc loài nên thiền khách bơ vơ;

Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo[208]

Han hữu lậu, han vô lậu, bảo cho hay: the lọt, thược sàng[209];

Hỏi đại thừa, hỏi tiểu thừa, thưa thảng tắt: lòi tiền, tơ gáo[210].

Nhận biết lầu lầu lòng bản, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên[211];

Chùi cho vằng vặc tính gương, nào có nhiễm căn trần huyên náo.

Vàng chửa hết quặng, xá tua chín phen đúc, chín phen rèn;

Lộc chẳng còn tham, miễn được một thời chay, một thời cháo.

Sạch giới lòng, chùi giới tướng[212] nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm;

Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.

Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân;

Học đạo thờ thầy, dọi xương óc chửa thông của báo[213]

Đệ Thất Hội

Vậy mới hay:

Phép Bụt trọng thay,

Rèn mới cốc hay.

Vô minh hết, bồ đề thêm sáng;

Phiền não rồi, đạo đức càng say.

Xem phỏng lòng kinh, lời Bụt thuyết dễ cho thấy dấu;

Học đòi cơ tổ, sá thiền không khôn xét biết hay[214].

Cùng căn bản, tả trần duyên, mà để mỗ hào ly dương mắt[215];

Ngã thắng chàng, viên tri kiến, chửa cho còn họa giữ cong tay[216].

Vung lửa giác ngộ, đốt hoại bỏ rừng tà ngày trước;

Cầm kiếm trí tuệ, quét cho không tính thức thủa nay[217]

Vâng ơn thánh, lọt mẹ cha[218], thờ thầy học đạo;

Mến đức Cồ[219], kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay.

Cảm đức từ bi, để nhiều kiếp nguyện cho thân cận;

Đội ơn cứu độ, nát muôn thân thà chịu đắng cay.

Nghĩa hãy nhớ, đạo chẳng quên, hương hoa cúng xem còn nên thảo;

Miệng rằng tin, lòng lại lỗi, vàng ngọc thờ coi chửa hết ngay[220]

Đệ bát Hội

Chưng ấy:

Chỉn xá tua rèn[221],

Chớ nên tuyệt học.

Lơi ý thức chớ chấp trừng trừng[222];

Nén niềm vọng mà còn xông xốc[223].

Công danh màng đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ;

Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc.

Dựng cầu đò, xây chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu;

Cương hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc[224].

Rèn lòng làm bụt, chỉn xá tua một sức dùi mài;

Đãi cát thấy vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc

Xem kinh đọc lục[225], làm cho bằng thửa thấy thửa hay;

Trọng Bụt tu thân, dụng mà lỗi một tơ một tóc[226].

Cũng nơi ngôn cú[227], chỉn chẳng hề một phút ngại lo;

Lật thửa cơ quan[228], mà còn để tăm hơi dột lọc[229].

Đệ Cửu Hội

Vậy cho hay:

Cơ quan tổ giáo,

Tuy khác nhiều đường,

Chẳng cách mấy gang[230].

Chỉn xá nói tự sau Mã Tổ;

Ắt đã quên thửa trước Tiêu Hoàng[231].

Công đức toàn vô, tính chấp si, càng thêm lỗi;

Khuếch nhiên bất thức, nghe ngu mắng, ắt còn vang[232].

Sinh Thiên trúc, chết Thiếu lâm, chôn dối chân non Hùng Nhĩ[233];

Thân bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang[234].

Vương lão chém mèo, lại lẫy lòng ngừa thủ tọa[235];

Thầy Hồ xua chó, trỏ xem trí nhẹ côn sàng[236].

Chợ Lư Lăng, gạo mát quá ư, chẳng cho mà cả[237];

Sở Thạch đầu, đá trơn hết sức, khôn đến thừa đương[238].

Phả táo cất cờ[239], đạp xuống dấu linh thần vật;

Câu Chi dời ngón, dùng đôi dép cũ ông ang [240]

Lưỡi gươm Lâm Tế , nạng Bí ma[241], trước nạp Tăng no dầu tự tại;

Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt lượm xá nghênh ngang[242]

Giơ phiến tử, cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẫn[243]

Xô hòn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hòa chước móc khoe khoang[244].

Thuyền tử gia chèo dòng xanh, chửa cho tiễn tẩy[245];

Đạo Ngô múa hốt càn ma, hoang thấy quái quàng[246].

Rồng Yển lão[247] nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ;

Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt giương.

Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái bạch;

Bính đinh thuộc hỏa, lại lỡ sau lỗi hướng thiên cương[248].

Trà Triệu lão, bánh Thiều Dương[249], bầy thiền tử hãy còn đói khát;

Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu thất, chúng nạp Tăng những để lưu hoang[250]

Gieo bó củi,[251] nảy bông đèn, nhân mang mới nát;

Đào hoa, nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang.

Đệ Thập Hội

Tượng chúng ấy:

Cốc một chân không,

Dụng đòi căn khí.

Nhân lòng ta vướng chấp không thông;

Há cơ tổ nay còn thừa bí[252].

Chúng tiểu thửa cốc hay chửa đến, Bụt xá ngăn bảo sở hóa thành;

Đấng thượng sĩ, chứng thực mà nên, ai chia có sơn lâm thành thị[253].

Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dât sĩ tiêu dao;

Chiền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí.

Ngựa cao tán cả, diêm vương nào kể đứa nghênh ngang;

Gác ngọc lầu vàng, ngục tối thiểu chi người yêu quí[254].

Chẳng công danh, luông[255] nhân ngã, thực ấy phàm ngu;

Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí.

Mày ngang, mũi dọc, tướng tuy lạ, xem ắt bằng nhiều;

Mặt thánh, lòng phàm, thực cách nhẫn muôn muôn thiên lý[256].

Kệ Vân[257]

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc san hề, khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo, hưu tầm mịch

Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền. (*)

(Cõi trần vui đạo, hãy tùy duyên,

đói cứ ăn no, mệt ngủ yên.

Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm.

Vô tâm trước cảnh, hỏi gì Thiền)

- Huệ Chi dịch-

(*) Bản phiên âm và chú thích dẫn theo sách Hợp Tuyển Thơ Văn Việt nam, thế kỷ X – thế kỷ XVII.

[131] "Vua Anh Tông thấy thượng hoàng tu khổ hạnh, trèo đèo leo núi vất vả, trong lòng không yên, thường kiếm cớ ngăn trở, nhưng ngài cương quyết không bỏ.

Tháng 8 năm Hưng Long thứ 9 (1301) Anh Tông sai ngự sử Đoàn Nhữ Hài lên núi Yên Tử đón thượng hoàng về Tức Mặc dự lễ giỗ đầu đức Hưng Đạo Đại Vương. Giỗ xong, vua tâu xin ngài đi chơi nước Chiêm Thành xem chỗ Đức Phật Nam Hải Quán Âm giáng sinh và phong cảnh nước Chiêm. Ngài bằng lòng.

Tương truyền: "Cách đây khoảng 1.200 năm, đời vua Thuận Đế nhà Đông Hán, Đức Phật Nam Hải Quán Âm giáng sinh làm con gái vua Trang Vương nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), di tích còn lưu lại ở thành Phật Thệ.

Tháng 9 năm ấy, vua sai nhân huệ vương Trần Khánh Dư, ngự sử trung tán Đoàn Nhữ Hài, tướng quân Phạm Ngũ Lão đem ba nghìn quân ngự lâm hộ giá thượng hoàng sang du ngoạn nước Chiêm. Vua Chiêm Thành Chế mân tiếp được sắc thư vua ta, sai các quan văn võ đưa binh sĩ nghi tượng ra giáp giới đón. Còn vua Chiêm thân đón ở thành Phật Thệ. Thượng hoàng đi gần hai tháng đến thành Trà Kiệu, vua Chiêm nghinh tiếp hết sức cung kính tôn nghiêm.

Hơn hai tháng ở nước Chiêm, thượng hoàng đi xem khắp mọi chùa chiền, nơi cổ tích Phật Nam Hải Quán Âm, các tháp cổ và phong cảnh kinh đô. Ngài đi từ Trà Kiệu tới Trà Bàn, qua xem tháp Mỹ Sơn, tháp Chùa, tháp Chợ và khảo cứu Phật tích suốt 72 tháp Đông Dương.

Thành Đồ Bàn dựng từ thế kỷ thứ 9, chu vi tám dặm, ra vào có 9 cửa, chung quanh xây bao thành gạch. Ở trong có những cung điện hùng vĩ đều quay mặt hướng Nam. Lại có tám ngôi chùa rất lớn và những tháp cao chót vót. Chùa chính có tượng Đức Phật Nam Hải Quán Âm nghìn mắt nghìn tay, tượng Văn Thù cưỡi sư tử xanh, tượng Phổ Hiền cưỡi voi trắng tạc bằng đá quý. Phía sau kinh thành có sông bao bọc chảy thông ra biển.

Khi thượng hoàng từ biệt Chiêm Thành, cảm lòng người Chiêm tiếp đón long trọng, ngài hứa gả công chúa Huyền Trân là con gái út cho Chế Mân để tình ban giao hai nước thêm bền hặt. Chế Mân lạy tạ cảm ơn, sai các quan đi tiễn đến tận biên giới."

(Sự Tích Trúc Lâm Tam Tổ, Đỗ Trọng Huề,

Tạp chí vạn Hạnh số 19, 20).

[132] Trong kinh "Những Điều Phật Dạy", nguyên bản chữ Hán: Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh.

Điều thứ ba.

Đức Phật dạy rằng: Chúng sinh có mười (10) việc Thiện và mười (10) việc ác. Những gì là mười? Đó là: Ba thuộc về Thân, bốn thuộc về khẩu, ba thuộc về ý.

Ba việc thuộc về thân là: giết hại, trộm cắp, tà dâm.

Bốn việc thuộc về khẩu là: nói lời chia rẽ, nói độc ác, nói giận dữ, nói thêu dệt.

Ba việc thuộc về ý là: Tham lam, giận dữ, si mê.

Mười việc làm ấy không thuận theo thánh đạo nên gọi là ác.

Mười việc làm ấy chấm dứt, gọi là Thiện.

[133] Tám chữ: "Sinh diệt diệt dĩ,

Tịch diệt vi lạc"

(Sinh và diệt đã chấm dứt, đó là sự vắng lặng an vui của Niết Bàn).

Kinh Đại Niết Bàn, phẩm Thanh Hạnh, dẫn tích Bồ Tát Tuyết Sơn hy sinh tính mạng cho quỷ la Sát ăn thịt để xin được gnhe hai câu sau của bài kệ, tức hai câu "Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc".

Trong bộ Thủy Lục Toàn Khoa có câu "Trượng bán ngôn nhi tam chướng tiêu trừ, bằng tứ cú nhi lục trần thanh tịnh". Dưới đây là toàn bài kệ (4 câu):

"Chư hành vô thường

Thị sinh diệt pháp

Sinh diệt diệt dĩ

Tịch diệt vi lạc".

[134] Sách Tam Tổ Thực Lục chép: "Năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 16, vào ngày mồng một tháng giêng, tôn giả Pháp Loa phụng mệnh làm người nối pháp trụ trì chùa Siêu Loại ở giảng đường Cam Lộ. Bắt đầu buổi lễ, mọi người làm lễ ở Tổ đường; đại nhạc được tấu lên, các loại danh hương được xông đốt… Điều ngự Giác Hoàng đưa Pháp Loa vào lạy ở Tổ đường, xong cùng xuống trai đường để ăn điểm tâm sáng. Xong buổi tiểu thực, nhạc tấu lên, trống lớn nổi dậy, đại chúng chư tăng được triệu tập cùng lên pháp đường: lúc đó vua Anh Tông đã ngự giá tới chùa; ngôi chủ khách phân xong, mọi người cùng ngồi. Vua Anh Tông lúc đó đóng vai một vị đàn việt lớn của Phật Pháp, ngồi vào ghế khách ở pháp đường; quốc phụ Thượng Tổ (tức huệ võ vương Quốc Chấn) cùng với các quan cùng đứng dưới sân. Điều Ngự thăng đường thuyết pháp. Thuyết pháp xong Điều ngự rời pháp tòa, dắt Pháp Loa cho ngồi trên pháp tòa ấy, rồi đứng chắp tay đối diện Pháp Loa làm lễ thăm hỏi. Sau khi Pháp Loa đáp bái lại. Điều Ngự trao pháp y cho Pháp Loa khoác vào. Bấy giờ Điều Ngự ngồi xuống ghế khúc lục (1) một bên để nghe Pháp Loa thuyết pháp. Xong rồi, Điều Ngự đem Sơn Môn (Giáo Hội) Yên Tử, và chùa Siêu Loại ủy cho Tôn giả Pháp Loa kế thế trụ trì, làm vị tổ thứ hai phái Trúc Lâm" (dẫn theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Tập I, trang 342, 343).

Sách Tam Tổ Thực Lục chép: "Năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 16, vào ngày mồng một tháng giêng, tôn giả Pháp Loa phụng mệnh làm người nối pháp trụ trì chùa Siêu Loại ở giảng đường Cam Lộ. Bắt đầu buổi lễ, mọi người làm lễ ở Tổ đường; đại nhạc được tấu lên, các loại danh hương được xông đốt… Điều ngự Giác Hoàng đưa Pháp Loa vào lạy ở Tổ đường, xong cùng xuống trai đường để ăn điểm tâm sáng. Xong buổi tiểu thực, nhạc tấu lên, trống lớn nổi dậy, đại chúng chư tăng được triệu tập cùng lên pháp đường: lúc đó vua Anh Tông đã ngự giá tới chùa; ngôi chủ khách phân xong, mọi người cùng ngồi. Vua Anh Tông lúc đó đóng vai một vị đàn việt lớn của Phật Pháp, ngồi vào ghế khách ở pháp đường; quốc phụ Thượng Tổ (tức huệ võ vương Quốc Chấn) cùng với các quan cùng đứng dưới sân. Điều Ngự thăng đường thuyết pháp. Thuyết pháp xong Điều ngự rời pháp tòa, dắt Pháp Loa cho ngồi trên pháp tòa ấy, rồi đứng chắp tay đối diện Pháp Loa làm lễ thăm hỏi. Sau khi Pháp Loa đáp bái lại. Điều Ngự trao pháp y cho Pháp Loa khoác vào. Bấy giờ Điều Ngự ngồi xuống ghế khúc lục (1) một bên để nghe Pháp Loa thuyết pháp. Xong rồi, Điều Ngự đem Sơn Môn (Giáo Hội) Yên Tử, và chùa Siêu Loại ủy cho Tôn giả Pháp Loa kế thế trụ trì, làm vị tổ thứ hai phái Trúc Lâm" (dẫn theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Tập I, trang 342, 343).

[135] Giác Hoàng tịch cùng một ngày với Công chúa Thiên Thụy.

[136] Tháp chùa Phổ Minh xây năm 1310 theo lệnh của vua Trần Anh Tông (1293 – 1314) để chứa một phần tro xương của Trần Nhân Tông.

Tháp này rất đáng được nghiên cứu về phương diện kiến trúc và về mục đích của kiến trúc tôn giáo, vì đó là tháp duy nhất tại Việt Nam được xây cất để chứa tro xương của một vị đế vương. Chắc là vì khi Thượng hoàng Nhân Tông băng thì vì ngài không là vua nữa mà chỉ là một tu sĩ nên mới dựng tháp của Phật giáo để làm lăng một vị vua.

[137] Nghiêm Thẩm, Tháp Chùa Phổ Minh, Vạn Hạnh số đặc biệt về thành đạo và xuân đinh vị – 1967.

[138] Cư Trần Lạc Đạo Phú: bài phú về cảnh sống ở cõi bụi mà vẫn vui vì lẽ đạo. Bài phú này được lưu hành ở nhà chùa và trải qua nhiều lần sao đi in lại, chắc là không còn giữ được đúng nguyên bản đời Trần.

Trong bản in năm Bảo Đại thứ bảy (1932), bài phú này để liền sau bài Thiền Tông Bản Hạnh.

[139] Thập Hội Dụng Diễn ra quốc Ngữ Phú: bài phú gồm mười đoạn, dùng tiếng nước nhà diễn thành lời ca.

[140] Nết Dụng Sơn Lâm: dụng là công dụng, tác dụng; nết dụng sơn lâm nghĩa là tính nết như là chịu tác dụng của cảnh an tĩnh của núi rừng.

[141] Nghiệp: từ ngữ trong Phật học, chỉ nguyên nhân tạo nên thiện và ác.

[142] Thể tính: thể là thân thể, tính là tinh thần bản nhiên vốn có.

[143] Thân tâm: thân là thân thể, tâm là tinh thần.

[144] Năng mấy chủ tri âm: có được mấy người làm chủ cảnh đẹp đào hồng, liễu lục mà hiểu được cảnh đẹp ấy.

[145] Lỗ Thiên Hà: lỗ (bây giờ có địa phương còn đọc là lỗ) là âm cổ của chỗ, thiên hà là sông Thiền, sông nhà Phật; lỗ thiên hà là cõi nhà Phật.

[146] Tuệ Phật: mặt trời trí tuệ (của phật), sâm lâm không có nghĩa rập rạp như rừng (nghĩa Hán tự) mà có nghĩa là nhiều lắm ở khắp nơi (nghĩa nôm)

[147] Lừa Hoán Cốt: lừa hoặc lựa có nghĩa là cố gắng sắp xếp, tìm mọi cách; hoán cốt, đổi xương, là phép của Đạo gia tìm cách đổi xương thịt nặng nề của người đời thành cốt cách trong nhẹ của tiên để có thể phi thăng, bay lên cao vào cõi tiên.

[148] Đan Thần: thuốc thiêng của thần linh, thuốc tiên Phục là uống thuốc.

[149] Nhắm Trường Sinh: nhằm theo mục đích được vào cõi trường sinh. Thuốc quí: quí ở đây có nghĩa là thần linh như ở trong danh từ quỉ thần. Thuốc quí cũng có nghĩa như đan thần.

[150] Nơ: tiếng cổ, có nghĩa là bằng, là.

[151] Võng, Thác: đều có nghĩa là bậy bạ sai lầm. Cả câu này có ý nói tìm cách kiềm chế sự lầm lẫn thì tất là bớt được sự lầm lẫn.

[152] Dứt trừ Nhân Ngã: trừ bỏ được sự phân biệt, kỳ thị giữa người khác với bản thân mình.

[153] Kim Cương: chất cứng rắn nhất, tượng trưng cho bản lĩnh vững chắc của kẻ tu hành đắc đạo; Nhà Phật có kinh Kim Cương. Tướng thực có nghĩa là sự biểu hiện (tướng) chân thực (của bản lĩnh kim cương).

[154] Tham, Sân: tham lam và giận dữ.

[155] Làu: tiếng cổ có nghĩa là thông suốt (ta còn nói thuộc làu làu, thuộc lau lảu); lòng mầu là tấm lòng thấu suốt lẽ mầu nhiệm của đạo; viên giác là sự giác ngộ đầy đủ trọn vẹn.

[156] Tịnh Thồ (Cũng đọc là Tịnh Độ): đất thanh sạch, chỉ cõi Phật, Tây phương; chỉ cõi Phật, theo Tịnh độ tông thì Phật quá khứ là Phật A Di Đà ở cõi Tây phương cực lạc.

[157] Mựa: tiếng cổ, có nghĩa là chớ nên, đừng. Cả câu này có nghĩa là kẻ tu hành chân chính chẳng cần phải truy cầu Tĩnh thổ, Tây phương, A Di Đà, Cực Lạc ở đâu cả, mà tìm lẽ đạo ở trong tấm lòng trong sạch của mình, ỡ trong trí tuệ trong sáng của mình.

[158] Cầm Giới Hạnh: giới là điều răn giới, giới luật của nhà chùa; hạnh là đạo đức kẻ tu hành, giữ gìn theo đúng giới luật của nhà chùa và đạo đức của kẻ tu hành. Địch vô thường: chống lại cái vô thường tức là mọi sự ảo hóa khôn lường của pháp tướng, của các hiện tượng trong trần thế, giữ được sự an nhiên tự tại của tâm, của bản ngã, của Phật tính vốn có trong mọi người. Bán giác: nửa hào, ý nói món tiền rất nhỏ. Nào có sá cầu danh bán giác: nào có cầu đi tìm danh vọng một chút nào đâu.

[159] Vận Giẻ Vận Xui: đồ mặc, quần áo thì dùng giẻ, vải xấu, hoặc vỏ cây xui, ý nói giản dị, thô sơ.

[160] Nớ: Xem lời chú số 13.

[161] Cốc: hoặc đọc là cộc, tiếng cổ có nghĩa là hiểu biết

[162] Mở: xem lời chú số 20.

[163] Mã Tổ Một Vị Tổ Của thiền Tông, họ Mã, pháp danh là Đạo Nhất, đệ tử của thiền sư Hoàn Nhượng ở Tào Khê (Thiều châu), sống vào đời Đường. Cơ là then máy. Cả vế này ý nói cứ tu dưỡng lòng mình thì khắc có Phật tính ở trong, há phải đi tìm phép tắc, then máy của Mã Tổ.

[164] Bàng Công: tức cư sĩ Bàng Uẩn, học trò Mã Tổ. Khi giác ngộ rồi, ông đem khuân hết của cải quẳng xuống hồ Động Đình. Cả vế câu này ý nói cứ tu dưỡng nghiêm chỉnh ắt là thoát được sự ràng buộc của tài sản (vọng tài) xua đuổi được mọi ham muốn vật chất, hình sắc (đuổi sắc) chẳng cần phải có hành động quyết liệt đem tài sản quẳng xuống hồ như Bàng Công.

[165] Áng Tư Tài: áng là tiếng cổ, có nghĩa là đám, chốn đông. Áng tư tài là của cải, tài sản.

[166] Am Sạn: am bắc bằng sàn gỗ thô sơ (sạn là sàn gỗ)

[167] Yêu: tiếng cổ, có nghĩa là quí báu.

[168] Cả: lớn, rất.

[169] Bồ Đề: giác ngộ.

[170] Ưu Đàm: một thứ cây thuộc loài cây sung, có quả mà không có hoa. Hoa ưu đàm được kinh Phật dùng để gọi cái gì quí hiếm. Khi hoa ấy mà nở thì phúc to lắm.

[171] Cốc: xem chú số 24.

[172] Tam Độc: Ba cái độc là tham, sân, si (tham lam, giận dữ, ngu muội).

[173] Tam Thân: ba thân của Phật, một là pháp thân tức chân thân, hia là báo thân tức trí, ba là ứng thân tức hành.

[174] Lục Căn: sáu cái rễ khiến người đời bám vào trần tục; đó là nhãn căn (mắt), nhĩ căn (tai), tỵ căn (mũi) thiệt căn (lưỡi), thân căn (mình), ý căn (ý thức). Đoạn lục căn: chặt đức sáu cái rễ ấy.

[175] Lục tặc: sáu tên giặc làm hại người ta. Lục tặc là do lục căn mà sinh ra: do nhãn căn mà có sắc, do nhĩ căn mà có thanh, do tỵ căn mà có hương, do thiệt căn mà có vị, do thân căn mà có xúc, do ý căn mà có pháp làm cho người ta bị chìm đắm

[176] Chân Không: hoàn toàn không có gì, ý nói vượt ra ngoài sắc tướng và ý thức. Có tuệ quang chiếu thấu mọi sắc, mọi tướng (hình dáng) giả dối, ảo hóa, và thấy tất cả đều là không. Ngại thanh: vướng vào thanh, chấp sắc: bám lấy sắc.ù

[177] Chân Như: thực thể, thực tính không bao giờ thay đổi, vượt lên trên sự biến hoá vô thường của sắc tướng, của hiện tượng.

[178] Bát Nhã: trí tuệ.

[179] Thực Tướng: thực tính, thực thể của vũ trụ, tức chân như.

[180] Vô Vi: theo nghĩa nhà Phật, thì vô vi là chân lý. Chân lý không phải do nhân duyên tạo ra cho nên gọi là vô vi.

[181] Tam Tạng: Ba kho kinh điển của Phật giáo là kinh tạng, luật tạng, luận tạng.

[182] Thanh qui: qui chế của nhà chùa.

[183] Chiên Đàn hay đàn hương là loại cây gỗ thơm rất quí, chiêm bặc là giống cây ở Tây vực, hoa rất thơm.

[184] Thích Ca: tức Phật hiện tại, là thủy tổ của Phật giáo, người Ấn Độ, sống vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch kỷ nguyên.

[185] Di Lặc: tên một vị Bồ tát, tức là Phật vị lai.

[186] Cung nhà: vua Trần tu ở ngay trong cung

[187] Khuy Bản: thiếu gốc.

[188] Nằm Nhãng: nằm khễnh lơ đãng, nằm mà quên nhãng đi.

[189] Quê Hà Hữu: Hà hữu hương, chữ trong sách Trang Tử, nghĩa là "quê có đâu", tức là một cõi vu vơ không có thực. Ở đây ý nói nằm trong cõi đời vốn chỉ là ảo hóa, không có thực.

[190] Tân La: tên một nước cổ ở bán đảo Triều Tiên, bị diệt vào cuối đời Đường. Có ý nói một nước không còn nữa.

[191] Khoáng cơ quan: then máy lỏng rộng, ý nói không câu nệ, gò bó

[192] Bô: là bỏ trốn, chểnh mảng bô việc là bỏ trốn công việc. Cả vế này có ý nói chính sách của nhà vua rộng rãi, dân có thể trút bỏ mọi ràng buộc trốn bỏ việc đời, mà đi theo Đạo Phật.

[193] Miễn: cũng như lẫn, có nghĩa như là với.

[194] Thoa: cũng như thô, hẫm.

[195] Bát Thức: tám điều biết. Đó là nhãn thức (biết bằng mắt), nhĩ thức (biết bằng tai), tỵ thức (biết bằng mũi), thiệt thức (biết bằng lưỡi), thân thức (biết bằng thân mình), ý thức (biết bằng ý), mạt na thức (biết bằng sự suy lường), a lại da thức (biết bằng tâm thức).

[196] Bát Phong: tám gió, chỉ tám thứ có thể lay động lòng người như gió vậy; đó là lợi, suy, hủy (hủy báng), dự (vinh dự), xưng (khen), cơ (chê), khổ, lạc.

[197] Càng Đè Càng Bội: càng đè xuống càng tăng lên, nở ra. Ý nói bát thức, bát phong nếu dùng cách khiên cưỡng, gò bó, đè nén thì không thể trừ bỏ được, mà phải thoải mái, an nhiên thì mới khắc phục được.

[198]

[199]

[200] Tam Huyền Và Tam Yếu: tam huyền là ba điều sâu kín. Đó là huyền ở tron thể, huyền ở trong câu và huyền ở trong huyền, tất cả gọi là tam huyền môn. Mỗi huyền lại gồm tam yếu lý (ba điều chủ yếu), là lý, trí và phương tiện. Cả vế này nghĩa là: chia rành rọt ra làm tam huyền, trong mỗi huyền lại lấy tam yếu làm nòng cốt. Cắt là gọt tỉ, ma là mài giũa.

[201] Đàn Sách: sách, tiếng cổ có nghĩa là rong chơi, chơi dỡn (Ngày nay ta còn nói, hút sách, rướt sách); đàn sách là gảy đàn chơi. Xoang là khúc nhạc. Phật giáo nêu nghĩa vô sinh vô diệt. Vô sinh khúc là khúc nhạc của nhà chùa. Nhà chùa có câu kệ: "Vô duyên cầm thương tấu dương xuân, thiên cổ vạn cổ thánh bất tuyệt" (trên đàn không có giây đánh khúc nhạc xuân đầm ấm, nghìn năm vạn năm tiếng không dứt).

[202] Phím: thổi sáo, thổi địch. Nhà chùa có câu kệ: "Tranh tự nhất chi vô không địch, vi quân suy khởi thái bình ca" (sao giống một cây sáo khổng lồ, vì người thổi lên khúc ca thái bình).

[203] Câu Chi Trưởng lão: tức là hòa thượng Câu Chi, đời Đường, tu ở núi Kim Hoa. Một lần hòa thượng Câu Chi có điều chưa hiểu đem ra hỏi hòa thượng Thiền Long. Thiền Long giơ một ngón tay để bảo, Câu Chi bèn giác ngộ. Câu Chi thường nói: ta được phép Thiền ở đầu ngón tay của Thiền Long, ăn suốt đời không hết. Và hễ có đệ tử đến tham Thiền, Câu Chi chỉ giơ một ngón tay ra, không nói gì cả.

[204] Diễn Nhã Đạt ma: tức Yajedatta. Theo kinh Lăng Nghiêm thì đây là một nhân vật trong một truyện do Phật tổ kể ra để thuyết pháp. Diễn Nhã Đạt Đa lấy gương soi mặt, thì mặt mày có thể thấy, quay đầu đi thì bóng trong gương chớp đi không thấy nữa, cho là ma quỉ, sợ quá bỏ chạy.

[205] ,69) Khuyên Kim Cương, Bồng lật Cức: Thiền sư Dương Kỳ có hai câu kệ rằng:

thấu đắc kim cương khuyên

thôn đắc lật cức bồng

Nghĩa là:

Lọt được cái lỗ khuyên kim cương

Nuốt được quả gai lật cứ .

Dù nói khi đã giác ngộ lẽ đạo thì có thể bao quát vũ trụ, vạn vật trong khóe mắt của mình, lọt được qua cái lỗ nhỏ của vành khuyên bằng kim cương, có thể thông suốt mọi việc không còn gì vướng mắc, dầu có nuốt quả cức có gai góc tua tủa thì cũng trơn tuột không làm xước được da của mình. Tượng da: có lẽ ý nói da dầy như da voi, không có thể bị cào xước.

[206]

[207] Tam nghiệp: gồm có nghiệp về thân, nghiệp vầ miệng, nghiệp về ý. Xem thêm lời chú số 4.

[208] Ý nói Câu Nệ Về Văn Về nghĩa Trong Kinh Điển thì chẳng qua chỉ làm cho kẻ thiền khách thêm bơ vơ lạc loài (Thiền khách là người cư sĩ tin theo Đạo Phật, tuy chưa đi tu). Còn nếu biết giác ngộ cái lý sâu xa của đạo, hiểu thấu cái then máy huyền vi của đạo thì mới có thể trở thành người tu hành (nạp Tăng, nhà sư) đắc đạo.

[209] Thược Là Cái Gáo Múc Chất Lỏng, Sàng Là Dụng Cụ Để Phân Tách Những Hạt To Nhỏ. Lậu Là Thấm Nước, Thiền sư Lệnh Tuân đến gặp Tăng Đại Thông. Tăng hỏi: "Đại thừa là thế nào?. Đáp: "Là cái dây kéo ở giếng". Hỏi: "Tiểu thừa là thế nào?. Đáp: "Là cái dây sắt". Hỏi: "Hữu lậu là thế nào?". Đáp: "Là cái sàng, cái rây". Hỏi: "Vô lậu là thế nào?". Đáp: "Là cái mộc thược, cái gáo gỗ". The lọt: chưa hiểu nghĩa. Hoặc giả the có nghĩa như là kín chăng?. Ngày nay ta còn nói hàn the. Nếu hiểu hàn the là kín thì đối với lọt. Và cả câu có nghĩa như sau: "Hỏi thế nào là hữu lậu, hỏi thế nào là vô lậu, đáp rằng vô lậu là kín như cái múc nước, hữu lậu là cái khe lọt như cái sàng, cái rây”.

[210] Tơ Gạo: ngờ là day gáo viết sai. Chuổi tiền, dây gáo là những thứ dây để xâu chuỗi, hoặc để buộc. Xem lời chú số 72.

[211] Ý Nói Hiểu Thông Được Cái Bản Chất cái gốc của tâm thì có sợ gì mọi sự thay đổi (thời tiết) mọi sự ràng buộc (nhân duyên) thoát được cõi tục.

[212] Giữ Gìn Tấm Lòng Cho Trong Sạch, chùi cho hết mọi vết của sắc tướng (hiện tượng ở thế gian huyễn hoặc người ta).

[213] Ý Nói Học Thầy Chịu Ơn Nặng, dầu có dọt vỡ xương, óc của mình để tri ân cũng chưa đủ báo đáp.

[214] Sá: kinh lạ, lấy làm sự kỳ dị, lạ lùng. Cơ là cơ hội may mắn trong đó chúng sinh có thể gặp nhân duyên mà giác ngộ. Cơ tổ: then máy đạo lý của tổ sư, cả câu này ý nói xem trong kinh điển sách vở thì dễ thấy được lý thuyết của Phật giáo, nhưng học đòi để được dịp may mắn mà giác ngộ theo đạo lý của tổ sư thì phép tin kỳ lạ của đạo Thiền khó mới cứu xét được.

[215] Cùng Căn Bản: là đi cho đến chỗ tận cùng của gốc rễ, tả trần duyên là từ bỏ mọi sợi dây ràng buộc với cõi đời bụi, mỗ hào ly là chẳng một chút, một tí nào; dương mặt là mang ở trên mặt.

[216] Ngã Thắng Tràng: (tràng là một thứ cờ phướn của nhà Phật) ngọn cờ chiến thắng của bản ngã. Viên tri kiến: hiểu biết trọn vẹn đầy đủ. Họa giữa trong tay, ngờ là: họa giữ trong tay mà bản nôm đã in sai

[217] Tỉnh Thức: thức là những hiểu biết ràng buộc mình với cõi trần tục (xem lời chú số 58). Tỉnh thức là những hiểu biết vốn có từ bản tính của người đời.

[218] Lọt Mẹ Cha: lọt ra đời từ lòng mẹ cha ý nói chịu ơn sinh đẻ của mẹ cha.

[219] Miễn Đức Cồ: (cồ, tiếng cổ, có nghĩa là lớn), cố gắng noi theo đức lớn.

[220] Ý Nói: nếu ngoài miệng nói rằng tin mà trong lòng lại phạm lỗi thì trong việc thờ cúng dẫu cho có dùng đến vàng ngọc đi nữa cũng chẳng phải là thành tâm.

[221] Tua: tiếng cổ nghĩa là nên.chỉn Xá Tua Rèn, chỉ có thể nên gắng rèn luyện.

[222] Lơi Ý Thức Chớ Chấp Trừng trừng, phải để cho ý thức được lơi, được rộng rãi thoải mái, chớ câu chấp gò bó cái gì cả.

[223] Nén Niềm Võng Mà Còn Xong Xóc: nếu chỉ thô bạo mà nén xuống thì niềm võng (tức cái sai trái) lại cứ nổi lên như xong xóc.

[224] Cả Câu Ý Nói: bên ngoài thì phải giữ gìn trang nghiêm những nghi thức thuộc về bề mặt (sự tướng), nhưng bên trong thì lại phải rèn luyện tấm lòng đạo.

[225] Lục: sách ghi chép sự tích nhà chùa và các vị tổ sư của đạo Thiền.

[226] Dụng Mà Lỗi Một Tơ Một Tóc: dụng công chớ để sai trái một chút gì.

[227] Cùng Nơi Ngôn Cú: xét suy đến cùng các lời nói.

[228] Lật Thửa Cơ Quan: lật đi lật lại mọi then máy, mọi phép tắc của thiền môn.

[229] Chớ: để sơ hở một chút gì.

[230] Ý Nói: Đạo Phật nếu truy nguyên đến các dòng phái, các phép tu, các vị tổ, thì thấy có nhiều và thấy xa xôi, nhưng nên hiểu rằng Phật tại tâm thì lại rất ngắn.

[231] Mã Tổ: xem lời chú số 26. Tiêu Hoàng tức Hoàng đế nhà Lương tên Tiêu Diễn, miếu hiệu là Lương Vũ Đế. Tiêu Hoàng rất chuộng Đạo Phật. Chính vào thời kỳ này Bồ Đề Đạt Ma ở Ấn Độ sang Trung Hoa lập nên dòng Thiền tông ở đây.

[232] Công Đức Toàn Vô: nghe ngu mắng ắt còn vang:Tiêu Diễn Mời Bồ Đề Đạt Ma đến và hỏi:"Từ khi trẫm lên ngôi, dựng chùa chép kinh, có thể có công đức gì không:" Đáp: Chẳng có công đức gì cả". Hỏi: "Vậy chân công đức là cái gì?. Đáp: "Tĩnh tri diệu viên thì thể tự không lặng, công đức mà như thế thì không thể lấy việc đời mà cân được". Hỏi: "Đệ nhất nghĩa của thánh đế là như thế nào?" Đáp: "Khoách thiên bất thức". Vua nghe thế mắng là ngu.

[233] Bồ Đề Đạt Ma sinh ở Thiên Trúc (tức Ấn Độ), sang Trung Hoa và viên tịch ở chùa Thiếu Lâm, phía bắc núi Thiếu Thất, chôn ở chân núi Hùng Nhĩ.

[234] Bài Giơ Mặt Vách Hành Lang: Bồ Đề Đạt Ma tu ở chùa Thiếu Lâm, suốt ngày thiền định, mặt quay vào vách, như thế trong chín năm, cho đến lúc chết. Ở chùa Thiếu Lâm cón có Điện Bích Am (cái Am nơi Ngài quay mặt vào vách). Bài giơ: tấm biển trỏ (nơi Ngài quay mặt vào vách).

[235] Lạt Lẫy: tiếng cổ, chưa rõ nghĩa lắm. Có lẽ có nghĩa là dùng thủ đoạn khéo léo (lấy tay lẩy). Thủ tọa là người trông nom Tăng xá, chỗ sư ở. Vương lão sư tức thiền sư Phổ Nguyện, học Vương, truyền đạo ở Nam Tuyền. Một hôm, hai người thủ tọa nhà phía đông và phía tây tranh nhau một con mèo, Vương lão bèn cầm con mèo giơ lên và bảo: "ai biết được con mèo là của bên nào thì cứu được con mèo, nếu không thì chém bỏ. Mọi người không ai trả lời được. Vương lão sư bèn chém chết con mèo. Có người giải thích việc sát sinh có vẻ trái với tôn chỉ nhà chùa ấy như sau: Vương lão sư đã có phép thần thông, hiểu rõ lẽ vô sinh, chắc có cách chiêu hồn. Làm như vậy một là để cho hồn mèo thoát hóa, hia là khéo léo giải quyết được sự phân tranh giữa hai người thủ tọa.

[236] Côn Sàng: chưa rõ nghĩa, có thể là một từ cổ, có thể là khắc sai ở bản in. Thầy Hồ là thiền sư Lợi Tung ở Tử Hồ Nham. Ở dưới cửa chùa có dựng tấm biển đề rằng: Tử Hồ có một con chó, trên thì lấy đầu người, giữa thì lấy tâm người, dưới thì lấy chân người. Ai mà dị nghị tức là bỏ thân mất mạng. Có thầy tăng đến tham thiền, vừa vén rèm định vào thì thiền sư quát: "Xem chó". Có người hỏi chó Tử Hồ ở đâu, Thiền sư nói: "Gâu! Gâu!. Đây là cách mà các nhà sư theo Thiền tông thường làm để thức tỉnh và giác ngộ đệ tử.

[237] Gạo Mạt: gạo tồi, kém. Thiền sư Nguyệt Luân một hôm đến yết kiến hòa thượng Giáp Sơn. Giáp Sơn hỏi: "Ngươi xứ nào?". Nguyệt luân đáp: "Ở Mân Trung. Hỏi: "Có biết lão tăng không?". Nguyệt Luân hỏi lại: "Có biết kẻ học trò không?". Giáp Sơn nói: "Không biết thì người trả tiền giày cỏ cho lão Tăng, rồi sau lão Tăng sẽ trả giá gạo Lư Lăng cho người". Nguyệt Luận nói: "Như thế thì chẳng biết, hòa thượng cũng chưa hiểu giá gạo chợ Lư Lăng là bao nhiêu". Giáp Sơn khen và truyền pháp ấn cho, đọc câu kệ rằng: "Nói thế quả là người anh linh. Đem hết gốc rễ tiếp hữu tình. Mới hỏi đến giá gạo chơ Lư Lăng. Toàn nhiên chẳng chút qua lộ trình". Ý muốn nói Phật pháp là vô giá, như giá gạo chợ, nói bao nhiêu trả bấy nhiêu, không được mặc cả.

[238] Thừa Đương: nhận gánh vác. Thạch Đầu là chỗ dãi đá ở phía nam núi Hành Sơn, phía đông chùa nơi thiền sư Hy Thiên đời Đường tu hành. Hy Thiên có biệt hiệu là hòa thượng Thạch Đầu.

[239] Phá Tác: Đập Bếp, Hòa thượng Phổ Trúc ở núi Tung Sơn. Trong núi có miếu thiêng. Người xa gần đem bò lợn đến bếp trong miếu để mổ và tế thần. Một hôm Phổ Trác đến miếu, vào bếp mằng rằng: bếp là do bùn đất mà nặn lên, sao lại nấu nướng giết hại sinh vật. Nói xong đập tan lò bếp. Lát sau có vị thần hiện ra vái lạy, thưa rằng: "Tôi là thần bếp, lâu ngày chịu nghiệp quả báo, may nhờ thiền sư tôi được thoát khỏi chốn này, nên đến để tạ ơn". Cấp Cô: trưởng giả Cấp Cô Độc ở Thiên Trúc làm tháp thờ Phật, lại dựng cờ phướn hình sư tử, trâu, chim, rồng để cúng.

[240] Câu Chi Giơ Ngón: xem chú thích số 66. Ông ang, tức là ông ông, là sắc cũ kỹ. Sau khi gặp Bồ Đề Đạt Ma tịch đã ba năm. Chu Vân lại gặp ngài ở núi Thúy Linh, chỉ đi một chiếc giày, nói rằng ông ta đi về Tây Thiên. Chu Vân về Trung Hoa, tâu vua xin đào mộ Đạt Ma lên xem, thì chỉ thấy còn một chiếc giày cũ

[241] Lâm Tế: một phái của Thiền tông do Thiền sư Lâm Tế nghĩa Huyền lập ra. Lâm Tế Lục chép rằng: "Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền bảo các Tăng: "Có khi quát một tiếng là bảo kiếm của kim cương vương". Trí tuệ bát nhã co thể khiến người ta dứt được mọi trần lụy cũng như lưỡi gươm chém đứt mọi xiềng xích. Bí Ma: tức hòa thượng Bí Ma Nham ở Ngũ Đài sơn (Sơn Tây). Nhà sư thường cầm một cái nạng gỗ. Có Tăng đồ đến tham thiền thì sư đè nạng vào cổ và nói: "Ma quỉ nào bảo người xuất gia? Ma quỉ nào bảo ngươi hành cước? Nói được thì cũng nạng cho chết, không nói được thì cũng nạng cho chết. Nói mau! Nói mau! Không có ai trả lời được.

[242] Ông Đoan: tức Tây Dư Đoan sư tử ở An Cát châu. Lúc đầu nhà sư thấy chơi sư tử thì phát sinh được yếu chỉ về tâm. Sau khi yết kiến thiền sư Long Hoa về bèn làm một bộ lốt sư tử bằng chỉ màu, thường khoác lên người, do đó mà có danh hiệu. Đoan Sư Tử. Thầy Hựu: tức thiền sư Linh Hựu ở Qui Sơn (Hồ Nam). Theo truyền thuyết, nhà sư ba mươi năm chăn một con trâu. Lúc đầu trâu khó bảo, sau tuân phục dần vâng lời người bảo. Rồi lại có thể thả rong, không cần chăn dắt, sau cùng biến thành con trâu trắng rồi biến mất. Sự tích này sau được vẽ thành mười bức tranh, gọi là Thập Mục ngưu Đồ (mười bức tranh về trâu), biểu hiện quá trình người tu hành khắc phục được bản ngã (con trâu tượng trưng cho bản ngã). Đàn việt là tín đồ Phật giáo.

[243] Phiến Tử: cái quạt. Thiền sư Vân Môn thường cầm cái quạt. Có Tăng đồ đến tham thiền thì giơ quạt lên mà chỉ thị. Trúc bề: một thứ lược tre. Thiền sư Thứ Sơn một hôm trả lời kẻ tham thiền, giơ cái trúc bề lên và nói: "Gọi là cái gì? Gọi là trúc bề thì xúc phạm, không gọi là trúc bề thì sai trái. Gọi là cái gì?"

[244] Xô Hòn Cầu: Thiền sư Nghĩa Tồn ở Tuyết Phong, Phúc Châu (Phúc Kiến) có thời làm phạn đầu ở Động Sơn. Một hôm, Tăng đồ họp, nhà sư xô ra một quả cầu bằng gỗ. Sư Huyển Sa bắt lấy để vào chỗ cũ. Thiền sư Nghĩa Tồn lên tòa, thuyết pháp rằng: "Ở Nam Sơn có một con rắn, các ngươi phải coi chừng". Cẩm Mộc Thược: xem lời chú số 72. Chước móc: mưu chước, máy móc. Ý nói mọi qui tắc, qui chế của nhà chùa.

[245] Tiễn Tẩy: chưa rõ nghĩa. Có thể là một từ nôm cổ. Nếu theo nghĩa Hán tự thì có thể hiểu là tẩy rửa tràn trề. Hãy tồn nghi. Thuyền Tử Gia Chèo: Thuyền tử là biệt hiệu của Thiền sư Đức Thanh ở Hoa Đình, Tô Châu (Triết Giang) thường chèo một lá thuyền con, ngao du sông nước, tùy duyên qua ngày mà tiếp người bốn phương qua lại.

[246] Đạo Ngô: người đồng đạo của Đức Thành. Múa hốt càn ma: chưa hiểu rõ điển này.

[247] Rồng Yển Lão: Yển Lão là thiền sư Văn Yển ở Thiều Châu (Quảng Đông) thường nói: "Chăng lưới to khắp trời bắt rồng, chăng lưới nhỏ bắt tôm và hến. Thế thì ngao sò lạc vào chỗ nào?" Lại nói: "Cây gậy hóa làm con rồng, nuốt hết trời đất thì núi sông còn ở vào đâu nữa?" Rắn ông Tồn: Ông Tồn là thiền sư Nghĩa Tồn, xem lời chú số 107

[248] Thái Bạch: là tên mà đạo gia dùng để gọi sao Kim Tinh, còn Thiên Cương là tên mà Đạo gia dùng để gọi sao Bắc Đẩu. Chưa hiểu rõ điển tích ở đây.

[249] Triệu lão: tức là thiền sư Tùng Nẫm ở Quan Âm viện Triệu Châu, thường có lời: "Uống chè đi" để đáp lại những Tăng đồ đến tham thiền. Sau có bài kệ rằng: Triệu Châu có lời: "Uống chè đi", các Tăng thiên hạ đều theo về. Bánh Thiều Dương: bánh của Thiều Dương lão nhân là biệt hiệu của thiền sư Văn Yển (xem lời chú số (110). Văn Yển theo thiền sư Chí Trừng. Một hôm Chí Trừng hỏi:" Minh Giáo ngày hôm nay ăn được mấy cái bánh đúc?" – Đáp: "mời hòa thượng vào uống chè". Chí Trừng nói: "Ta không cung dưỡng Nam Tăng" (Ý nói không cung dưỡng Văn Yển là người Phùng Nam)

[250] Tào Khê: là tên con sông, nơi có chùa Bảo Lâm, Tuệ Năng tức Lục Tổ, người mở đầu Thiền tông phương Nam. Thiếu thất là tên núi, nơi có chùa Thiếu Lâm. Bồ Đề Đạt Ma, tổ thứ nhất của Thiền tông, tu ở đấy. Ruộng Tào Khê và vườn Thiếu Thất ở đây dùng để trỏ đạo Thiền.

[251] Gieo bó Củi: Tuyết Phong đến thăm thiền sư Ngộ Bản, gieo một bó củi trước mặt sư. Sư hỏi: Nặng bao lăm. Tuyết Phong nói: "Người khắp cả thiên hạ cũng không mang nổi". Nảy bóng đèn: chưa rõ điển tích.Lộc đào hoa:Thiền sư Trí Cầu ở núi Linh Vân, Phúc Châu. Nhân thấy hoa đào nở mà ngộ đạo. nghe tiếng trúc: Đại sư Hương nghiêm một hôm làm đất, ném hòn đá vào cây trúc có tiếng kêu, chợt giác ngộ lẽ đạo.

[252] Ý Nói: nếu hiểu được lẽ chân không thì kết quả đến căn khí; chỉ vì lòng ta còn vướng mắc câu chấp nên chưa thông hiểu lẽ đạo, chứ then máy của tổ sư có gì là bí mật.

[253] Ý Nói do mình chưa hiểu chứ Bụt nào có hẹp hòi với ai, do chứng thực (chứng thực tướng) mà trở nên thượng sĩ (tức Bồ tát), chứ việc ở sơn lâm hay ở thành thị há có phân biệt gì.

[254] Yêu: tiếng cổ, có nghĩa là quí trọng. Người yêu quí; người sang trọng. Ý nói: ở dưới địa ngục bọn lính gác ngục canh giữ thiếu gì người sang trọng ở trên đời gác ngọc lầu vàng mà phạm tội

[255] Luông: luông tuồng. Luông nhân ngã: luồng tuồng thanh nhân chấp ngã, tranh giành hơn thua với người khác.

[256] Ý Nói: bề ngoài có vẻ đạo đức cả (mặt thánh) mà bên trong thì tầm thường dung tục (lòng phàm), cách xa nhiều lắm..

[257] Nghĩa là: Ở cõi đời bụi, vui vẻ lẽ đạo cứ để tùy duyên. Đói thì ta ăn, mệt thì ta ngủ. Trong nhà có của báu, đừng tìm tòi ờ đâu đâu. Đứng trước cảnh mà vô tâm, tự khắc có Phật sao phải hỏi Thiền.

Nguồn: http://www.thienvien...am.net/node/215

Share this post


Link to post
Share on other sites

Các vị theo Phật pháp thì cho mình chánh Đao, theo Pháp Luân Công thì cũng cho mình là chân lý. Tôi không có ý kiến gì về mặt nội dung của hai Pháp này. Nhưng quí vị hơn thua chỉ trích nhau làm gì, nếu tự thấy mình là chánh Pháp thì cứ việc nói cái hay của Pháp mình cho thiên hạ coi. Tự họ sẽ nghiệm ra chân lý.

Còn tôi, tôi có những đối đáp vì có kẻ mạt sát văn hiến truyền thống Việt nên phải lên tiếng. Việc này ngoại lệ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bạn biết năm xưa đức phật thích ca đã từng nhắc đến Hoa Ưu Đàm và Đức Chuyển Luân Thánh Vương hay vị Phật tương lai ngài gọi la Di Lặc.. lúc đó mới là chính pháp, không xuất gia vẫn có thể tu hành, độ tất cả chúng sinh hữu duyên.

Dự ngôn maya 21/12/2012 kết thúc chu kỳ dài 5.125 năm trong...20 năm cuối là tịnh hóa địa cầu đó là xãy ra hiện tượng gì? 13.5.1992 chỉ có sư phụ Lý Hồng Chí đề ra Pháp Luân Công với "CHÂN,THIỆN,NHẪN" truyền 145 quốc gia tất cả mọi thành phần trong xã hội, sự kỳ diệu của PLC về hồi phục sức khỏe đã được tổ chức y tế thế giới công nhận. 99,1% phục hồi sức khỏe nhờ tập PLC, 85% bỏ các thói quen xấu...Sự đàn áp PLC với việc mổ cướp nội tạng bị cả thế giới lên án...Những ai tìm kiếm tri thức, phật pháp đều thấy PLC có hết những điều mà cả đời mình tìm kiếm.

Có ai đọc khải huyền trong kinh thánh chưa??

Cái sai bét của các truyền nhân khi đưa ra một Pháp áp dụng gọi là "Mới" cứ tưởng của mình mà không chịu ghi rõ ai đã truyền cho, sách nào chỉ ra...

Pháp luân công là một phương pháp áp dụng OK, tuy nhiên vẫn chưa biết bản chất thực của nó là gì ngay cả các cuốn sách của SP Lý Hồng Chí.

Muốn rõ thì phải đọc Trần Nhân Tông là chuẩn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Có ai đọc khải huyền trong kinh thánh chưa??

Cũng bình thường.

Một số nội dung của các tôn giáo pha lẫn giữa tuyệt đỉnh triết học lẫn hỗ độn về nguồn gốc và thực tiễn, những lời dạy của các thánh nhân cũng phải dựa trên một dòng chảy lịch sử trước đó, nếu chỉ là những nội dung luân lý thì chưa đủ... và thậm chí trở thành bình thường vì... ai cũng nói, ví dụ thương yêu, bác ái... cần gì nói khi mà trong các lớp học trẻ nhỏ đã dạy dỗ từng bước rồi...

Bản chất là nguồn gốc nào tạo ra... để có phương "Pháp" giáo dục, xử lý...

Lại nhồi nhét giáo lý các loại cho trẻ nhỏ... thật vớ vẩn, tuổi này là chơi - học, định hướng là chính... như hàng vạn trò chơi của trẻ Việt vậy.

Nói chung Hậu Thiên Bát Quái vận động quá kinh hoàng nên đừng tin các vị nào đấy... rao giảng lằng nhằng, quyền và tiền thôi...

Theo tôi, ngay cả triết gia Kim Định cũng bị vướng vào tình hình trên, mặc dù nghiên cứu triết học và văn hóa Việt của ông tuyệt diệu:

- Nhận định không chuẩn về Phật giáo, chưa thấy cái tinh túy của nó.

- Đề cập Hồ Chủ Tịch còn chưa khách quan, thiên về chủ quan.

- Vài vấn đề luân lý của Ki Tô giáo mà đưa lên mây.

- Chưa kỹ về Bà La Môn giáo mà chỉ mới nhận định về sự phân cấp xã hội...

Xin không thảo luận.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cuốn sách thất lạc của Nostradamus

Năm 1994, hai ký giả người Ý là Enza Massa và Roberto Pinotti đã tình cờ tìm thấy một cuốn sách chép tay thần bí nằm trong một chồng sách trong khi đang tiến hành nghiên cứu cổ thư tại Thư viện Quốc gia ở Rome. Trên bìa sách ghi rõ năm 1629, và tên cuốn sách cũng thật đáng kinh ngạc: “Mật mã tiên tri của Nostradamus” (Nostradamus Vatinicia Code). Trong sách là các bức tranh màu nước không bị phai, đề tên tác giả là “Michel de Nostredame” (tiếng Anh là Nostradamus). Nostradamus là một nhà tiên tri trứ danh người Pháp sống vào thế kỷ 16, với tác phẩm tiêu biểu là «Các Thế Kỷ» (Les Propheties), bao gồm các bài thơ tứ tuyệt, tiên tri rất nhiều sự kiện sau khi ông qua đời và được kiểm chứng là vô cùng chính xác.

Posted Image

«Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Posted Image

«Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Việc tìm thấy bản viết tay chưa từng được biết đến này của Nostradamus quả thực là một phát hiện trọng đại. Cuốn sách gồm 80 bức họa do Nostradamus tự mình vẽ, rất thần bí và kỳ dị, tương tự cuốn sách tiên tri nổi tiếng «Thôi Bối Đồ» vào thời nhà Đường, Trung Quốc. Người ta cho rằng những bức vẽ tiên tri này là có quan hệ mật thiết với những sự kiện trọng đại từng được Nostradamus tiên đoán trong «Các Thế Kỷ». Trong hình vẽ là các chữ, phù hiệu, biểu ngữ, cây nến, cây gậy, thậm chí có cả thành lũy đang bốc cháy, v.v. Có người cho rằng đây chính là “phiên bản hội họa” các bài thơ tứ tuyệt lừng danh của Nostradamus, tiên tri các sự kiện cho tới tận thế kỷ 21 ngày nay (xem thêm: Giải mã những bức họa trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus).

Điều khiến người ta kinh ngạc là bản chép tay thần kỳ này đã ẩn náu rất kỹ trong suốt 400 năm qua và “tình cờ” được phát hiện vào năm 1994. Có người đoán rằng Nostradamus năm ấy đã cố ý cất giấu những bức họa tiết lộ thiên cơ này, để rồi đến đúng thời điểm chúng sẽ hiển lộ cho con người thế gian. Hệt như có an bài của Thiên Ý vậy.

Rất nhiều bức họa là biểu hiện cuộc đọ sức giữa Thiện và Ác, trong đó một số bức rõ ràng là rất gần gũi với những sự kiện đã phát sinh hoặc đang phát sinh ngày hôm nay. Ví dụ có một bức tranh vẽ cảnh binh sĩ chém giết tăng lữ, trong đó binh sĩ mặc trang phục màu xanh lá. Người ta cho rằng bức họa này rất có thể là chỉ sự kiện đàn áp đoàn thể tu luyện Pháp Luân Công của đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Trên thế giới hiện nay chỉ có quân đội ĐCSTQ là sử dụng phổ biến bộ quân phục màu xanh lá cây.

Posted Image

Hình vẽ số 79 về binh sĩ áo xanh chém giết người tu hành.

Điều khiến người ta kinh ngạc hơn nữa chính là bức tranh miêu tả sinh vật mình rồng đầu người đang bị lửa thiêu đốt, nhìn rất giống với “ác long” của phương Đông. Con rồng Tây phương và con rồng Đông phương có sự khác biệt rất lớn, ở đây Nostradamus đặc biệt chọn dùng hình dạng con rồng phương Đông.

Posted Image

Hình vẽ số 18 về ác long Đông phương bị lửa thiêu đốt.

Ngoài ra còn có bức tranh “Chuyển Luân” (bánh xe xoay chuyển) của Phật gia tương quan với ý nghĩa luân hồi của kiếp người. Cũng có một bức họa khác dự ngôn về tân kỷ nguyên sắp tới của nhân loại tương lai, trong đó một vị trưởng lão đang giảng Đạo trước đám đông quần chúng ngồi nghe rất cung kính. Đến thời đó con người đều cảm động trước đại ân cứu độ của vị Giác Giả.

Posted Image

Hình vẽ số 35 về bánh xe xoay chuyển tượng trưng cho luân hồi.

Posted Image

Hình vẽ số 80 về vị Giác Giả đang giảng Đạo cho chúng sinh.

Những bức họa kỳ bí được phát hiện của Nostradamus đã trở thành một đề tài nóng bỏng và được giới nghiên cứu làm thành phim tài liệu. Mọi người giờ đây đều hy vọng sẽ khám phá được những bí ẩn thú vị cũng như tìm thấy những thông điệp quý báu mà tác giả gửi gắm trong đó

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hoài nghi cuốn sách này quá. Vì thấy nó qúa mới. Trong khi đã 400 năm trôi qua thì giấy phải vàng và sẽ rất giòn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ (1)

(Thập hồi dụng diễn ca quốc ngữ phú)[139]

Đệ Nhất Hội

Mình ngồi thành thị,

Nết dụng[140] sơn lâm.

Muôn nghiệp lắng,[141] an nhàn thể tính[142];

Nửa ngày rỗi, tự tại thân tâm.[143]

Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí;

Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.

Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý;

Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm[144]

Nguyệt bạc vầng xanh, soi mọi chỗ thiền hà[145] lai láng;

Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm[146]

Lừa hoán cốt[147], ước phi thăng, đan thần mới phục[148];

Nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc quí còn đam[149].

Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu ngọc;

Kinh nhàn đọc sách, trọng lòng rồi trọng nớ[150] hoàng kim.

Đệ Nhị Hội

Biết vậy:

Miễn được lòng rồi,

Chẳng còn phép khác.

Gìn tính sáng, tính mới hầu an;

Nén niềm vọng; niềm đành chẳng thác [151].

Dứt trừ nhân ngã [152], thì ra tướng thực kim cương[153];

Dừng hết tham sân[154], mới láu lòng mầu viên giáo[155].

Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương[156];

Di Đà là tính sáng soi, mựa[157] phải nhọc tìm về Cực Lạc.

Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe;

Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán giác[158].

Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiếm thửa đắng cay;

Vận giẻ vận sui[159], thân căn có ngại chi đen bạc.

Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quí nớ[160] thiên cung;

Dầu hay mến thửa nghĩa nhân, ba phiến ngói yêu hơn lầu các.

Đệ Tam Hội

Nếu mà cốc[161]

Tội ắt đã không, phép học lại thông.

Gìn tính sáng mựa[162] lạc tà đạo;

Sửa mình học cho phải chính tông.

Chỉn Bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ[163]

Vong tài đối sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng Công[164].

Áng tư tài[165]tính sáng chẳng tham, há vì ở canh diều Yên Tử;

Răn thanh sắc niềm đành chẳng chuyển, lo chi ngồi am Sạn[166] non Đông.

Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu[167] hết sức;

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả[168] uổng công;

Nguyện mong thân cận minh sự, quả bồ đề[169] một đêm mà chín;

Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa ưu đàm[170] mấy kiếp đơm bông.

Đệ Tứ Hội

Tin xem:

Miền cốc[171] một lòng,

Thời rồi mọi hoặc.

Chuyển tam độc[172] mới chứng tam thân[173];

Đoạn lục căn[174] nên trừ lục tặc[175]

Tìm đường hoán cốt, chỉn xá hay phục được luyện đan;

Hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc[176]

Biết Chân như[177] tin Bát nhã[178] chớ còn tìm Phật tổ tây đông;

Chứng thực tướng[179] ngộ vô vi[180], nào nhọc hỏi kinh thiền nam bắc.

Xem Tam tạng[181], giáo, ắt học đòi thiền uyển thanh qui[182];

Đốt ngũ phần hương, chẳng tốn đến chiên đàn chiên bặc[183].

Tích nhân nghĩa, tụ đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca;[184]

Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực lòng là Di lặc[185].

Đệ Ngũ Hội

Vậy mới hay:

Bụt ở cung nhà[186], chẳng phải tìm xa.

Nhân khuy bản[187] nên ta tìm Bụt;

Đến cốc hay chỉn Bụt là ta.

Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng[188] trong quê Hà Hữu[189].

Kinh xem ba bận, ngồi nghe với quốc Tân La[190]

Trong đạo nghĩa, khoáng cơ quan [191] đà đột lần trường kinh cửa Tổ;

Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa.

Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyện cho thân cận;

Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đà xa[192].

Áo miễn[193] chăn đầm ấm qua mùa, hoặc kim hoặc chỉ;

Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dù bạc dù thoa[194].

Ngăn bát thức[195], nén bát phong[196] càng đè càng bội[197];

Rẽ tam huyền[198], nong tam yếu[199], một cắt một ma[200].

Cầm vốn thiếu huyền, sá đàn dấu xoang vô sinh khúc[201];

Địch nguyên chẳng lỗ, cũng phím chơi xướng thái bình ca[202].

Rẽ cỗi tìm cành, còn khá tiếc. Câu Chi trưởng lão[203];

Khuấy đầu chớp bóng, ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa[204].

Lột quyển kim cương, há mặt hầu thông nên nóng[205];

Nuốt bồng lật cức, nào tay phải xước tượng da[206].

Đệ Lục Hội

Thực thay:

Hễ xá vô tâm,

Tự nhiên hợp đạo.

Dừng tam nghiệp[207] mới sáng thân tâm;

Đạt một lòng thời thông tổ giáo,

Nhận văn giải nghĩa, lạc loài nên thiền khách bơ vơ;

Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo[208]

Han hữu lậu, han vô lậu, bảo cho hay: the lọt, thược sàng[209];

Hỏi đại thừa, hỏi tiểu thừa, thưa thảng tắt: lòi tiền, tơ gáo[210].

Nhận biết lầu lầu lòng bản, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên[211];

Chùi cho vằng vặc tính gương, nào có nhiễm căn trần huyên náo.

Vàng chửa hết quặng, xá tua chín phen đúc, chín phen rèn;

Lộc chẳng còn tham, miễn được một thời chay, một thời cháo.

Sạch giới lòng, chùi giới tướng[212] nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm;

Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.

Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân;

Học đạo thờ thầy, dọi xương óc chửa thông của báo[213]

Đệ Thất Hội

Vậy mới hay:

Phép Bụt trọng thay,

Rèn mới cốc hay.

Vô minh hết, bồ đề thêm sáng;

Phiền não rồi, đạo đức càng say.

Xem phỏng lòng kinh, lời Bụt thuyết dễ cho thấy dấu;

Học đòi cơ tổ, sá thiền không khôn xét biết hay[214].

Cùng căn bản, tả trần duyên, mà để mỗ hào ly dương mắt[215];

Ngã thắng chàng, viên tri kiến, chửa cho còn họa giữ cong tay[216].

Vung lửa giác ngộ, đốt hoại bỏ rừng tà ngày trước;

Cầm kiếm trí tuệ, quét cho không tính thức thủa nay[217]

Vâng ơn thánh, lọt mẹ cha[218], thờ thầy học đạo;

Mến đức Cồ[219], kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay.

Cảm đức từ bi, để nhiều kiếp nguyện cho thân cận;

Đội ơn cứu độ, nát muôn thân thà chịu đắng cay.

Nghĩa hãy nhớ, đạo chẳng quên, hương hoa cúng xem còn nên thảo;

Miệng rằng tin, lòng lại lỗi, vàng ngọc thờ coi chửa hết ngay[220]

Đệ bát Hội

Chưng ấy:

Chỉn xá tua rèn[221],

Chớ nên tuyệt học.

Lơi ý thức chớ chấp trừng trừng[222];

Nén niềm vọng mà còn xông xốc[223].

Công danh màng đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ;

Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc.

Dựng cầu đò, xây chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu;

Cương hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc[224].

Rèn lòng làm bụt, chỉn xá tua một sức dùi mài;

Đãi cát thấy vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc

Xem kinh đọc lục[225], làm cho bằng thửa thấy thửa hay;

Trọng Bụt tu thân, dụng mà lỗi một tơ một tóc[226].

Cũng nơi ngôn cú[227], chỉn chẳng hề một phút ngại lo;

Lật thửa cơ quan[228], mà còn để tăm hơi dột lọc[229].

Đệ Cửu Hội

Vậy cho hay:

Cơ quan tổ giáo,

Tuy khác nhiều đường,

Chẳng cách mấy gang[230].

Chỉn xá nói tự sau Mã Tổ;

Ắt đã quên thửa trước Tiêu Hoàng[231].

Công đức toàn vô, tính chấp si, càng thêm lỗi;

Khuếch nhiên bất thức, nghe ngu mắng, ắt còn vang[232].

Sinh Thiên trúc, chết Thiếu lâm, chôn dối chân non Hùng Nhĩ[233];

Thân bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang[234].

Vương lão chém mèo, lại lẫy lòng ngừa thủ tọa[235];

Thầy Hồ xua chó, trỏ xem trí nhẹ côn sàng[236].

Chợ Lư Lăng, gạo mát quá ư, chẳng cho mà cả[237];

Sở Thạch đầu, đá trơn hết sức, khôn đến thừa đương[238].

Phả táo cất cờ[239], đạp xuống dấu linh thần vật;

Câu Chi dời ngón, dùng đôi dép cũ ông ang [240]

Lưỡi gươm Lâm Tế , nạng Bí ma[241], trước nạp Tăng no dầu tự tại;

Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt lượm xá nghênh ngang[242]

Giơ phiến tử, cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẫn[243]

Xô hòn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hòa chước móc khoe khoang[244].

Thuyền tử gia chèo dòng xanh, chửa cho tiễn tẩy[245];

Đạo Ngô múa hốt càn ma, hoang thấy quái quàng[246].

Rồng Yển lão[247] nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ;

Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt giương.

Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái bạch;

Bính đinh thuộc hỏa, lại lỡ sau lỗi hướng thiên cương[248].

Trà Triệu lão, bánh Thiều Dương[249], bầy thiền tử hãy còn đói khát;

Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu thất, chúng nạp Tăng những để lưu hoang[250]

Gieo bó củi,[251] nảy bông đèn, nhân mang mới nát;

Đào hoa, nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang.

Đệ Thập Hội

Tượng chúng ấy:

Cốc một chân không,

Dụng đòi căn khí.

Nhân lòng ta vướng chấp không thông;

Há cơ tổ nay còn thừa bí[252].

Chúng tiểu thửa cốc hay chửa đến, Bụt xá ngăn bảo sở hóa thành;

Đấng thượng sĩ, chứng thực mà nên, ai chia có sơn lâm thành thị[253].

Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dât sĩ tiêu dao;

Chiền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí.

Ngựa cao tán cả, diêm vương nào kể đứa nghênh ngang;

Gác ngọc lầu vàng, ngục tối thiểu chi người yêu quí[254].

Chẳng công danh, luông[255] nhân ngã, thực ấy phàm ngu;

Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí.

Mày ngang, mũi dọc, tướng tuy lạ, xem ắt bằng nhiều;

Mặt thánh, lòng phàm, thực cách nhẫn muôn muôn thiên lý[256].

Kệ Vân[257]

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc san hề, khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo, hưu tầm mịch

Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền. (*)

(Cõi trần vui đạo, hãy tùy duyên,

Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên.

Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm.

Vô tâm trước cảnh, hỏi gì Thiền)

- Huệ Chi dịch-

(*) Bản phiên âm và chú thích dẫn theo sách Hợp Tuyển Thơ Văn Việt nam, thế kỷ X – thế kỷ XVII.

Muốn thấm được thiền ngữ Cư Trần Lạc Đạo Phú này thì độc giả có thể phải tìm nghe tài liệu Pháp âm do Thiền Sư Thượng Thanh Hạ Từ giảng giải. Nếu có dịp thăm quan Thiền viện Trúc Lâm ở núi Phụng Hoàng-Lâm Đồng-Đà Lạt, độc giả có thể tìm tới Nhà Trưng Bày ở khu vực ngoại viện để thỉnh tài liệu Pháp âm.

Từ khoảng năm 2000, sự Khôi phục tinh thần Thiền phái Trúc Lâm đời Nhà Trần bắt đầu được mở rộng, từ Đà Lạt tới Hà Nội, Yên Tử, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá; từ Việt Nam tới Mỹ, Pháp, Canada, Đức vv...

Nếu không có sự mở rộng này thì Rubi có thể vẫn còn tu trong Thiền Viện Trúc Lâm-Đà Lạt.

PS:

Nhớ lại, Thầy Thích Thông Lưu hỏi Rubi: 'muốn ở lại Thiền Viện Trúc Lâm-Đà Lạt hay muốn ra Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử' ?

Rubi trả lời Thầy, ý là: 'Sư Ông (Hoà Thượng Thích Thanh Từ) bảo đi thì Rubi đi, Sư Ông không bảo thì Rubi ở. Đến Yên Tử được khoảng tháng thứ 2, Rubi xin xả giới nhập thế, trở về gia đình. Trở về khoảng năm thứ 2 thì bắt đầu chỉnh lý thuyết Âm dương Ngũ hành.

Sự diễn biến của vấn đề chỉnh lý thuyết Âm dương Ngũ hành có một lối đi rất triển vọng, chỉ riêng Rubi thấy được. Mọi sự diễn biến về tình hình chung quanh thuyết Âm Dương Ngũ Hành ở đất Hà Nội, Rubi vẫn bám sát, nói chung không có chướng ngại nào mà không có tác dụng của nó. Chướng ngại lớn lại xuất hiện tác dụng lớn, thật là ngộ. PS thì chỉ nên ngắn gọn thế.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi thấy rằng, tôn giáo... hướng dẫn cho mỗi người về một vài vấn đề trong cuộc sống, còn bản chất thì do mỗi người phải đi tìm, chung quy có dăm thứ:

- Sống và chết, cái chết ảnh hưởng mạnh khi có vẻ đi qua một phần cuộc sống, gây ra sợ hãi mà không thể trở thành bình thường, là quy luật.

- Thuận lợi và khó khăn từ cuộc sống dẫn đến sự khổ và sướng, nhưng sẽ phải thấy khổ vì đó là quy luật từ tương tác được mất về con người, vật chất...

- Thuộc tính phải liên quan cái gì đấy... vào bất cứ không thời gian.

Phải phá tan chúng bằng tri thức và thực hành:

- Không còn sự sợ nghoẻo nữa vì không ai chết cả nhưng khổ hay sướng là do mỗi người tự thiết lập các thuộc tính khi sống.

- Cân bằng sướng khổ vì bản chất cuộc sống là giống như cây cối là nở hoa, vui hát... thông qua một pháp môn tu tập chuẩn và đơn giản. Lúc này không thời gian không sẽ giảm tác động ngay cả cơ thể ở dạng tâm linh.

- Tất cả lại gặp nhau một lần nữa và vĩnh cửu vì đó là thuộc tính củ vũ trụ, cuối cùng chỉ còn lại mỗi người và một từ MẸ thôi.

Nhưng vị sự vận động của Hậu Thiên Bát quái nên giải quyết rất khó do tư duy phụ thuộc ngoại cảnh và chính nhu cầu của mình và là Định Mệnh. Từ đây mới thấy rằng, tôn giáo khắp nơi được rao giảng bởi hàng triệu triệu... vị nào đấy phần lớn là tầm phào.

Phật - Chúa - Thánh - Thần - Ma - Quỷ .. là chính ta. Các vị đi trước là thầy dạy chúng ta.

Cho nên, thời nay gọi là mạt pháp và vì vậy sẽ thấy tri thức lưu manh đông như quân Nguyên.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôn giáo với cách của họ, luôn như chiêu bài cây gậy và củ cà rốt, hù dọa và ủy mị, luôn đưa ra những cái hay ho như ơn phúc, phúc lành, hồng ân , thiên đàng và song song đó kèm bên là sự trừng phạt, phúc dữ, giáng họa, địa ngục...luôn hứa hẹn một miền đất hứa, thiên đàng lý tưởng nhưng với điều kiện là...chết đi mới được vào xứ sở ấy. Hic thật là điên rồ biết bao.

Thiên Đồng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đúng như Anh Thiên Đồng nói , Chẳng thấy ai tu thành tiên phật cả , vậy các đạo có còn khả năng độ cho con người nữa không ? chỉ đến lúc chết mới thành này kia thì ai kiểm chứng được. Qua toppic này mới thấy các phái có người tu còn tranh cãi mạt sát lẫn nhau chứng tỏ một điều chẳng có ai tu thành chính quả cả

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đúng như Anh Thiên Đồng nói , Chẳng thấy ai tu thành tiên phật cả , vậy các đạo có còn khả năng độ cho con người nữa không ? chỉ đến lúc chết mới thành này kia thì ai kiểm chứng được. Qua toppic này mới thấy các phái có người tu còn tranh cãi mạt sát lẫn nhau chứng tỏ một điều chẳng có ai tu thành chính quả cả

Nếu không có đàn bà mê tín thì sẽ không sinh ra đàn ông tà kiến, nếu không có đàn ông tà kiến thì sẽ không ai đầu độc đàn bà rơi vô sự mê tín. Không mê tín, không tà kiến thì tức là có đức, có đức thì mặc sức mà ăn. Nhưng để không mê tín và tà kiến thì lại phải chính tín và chính kiến. Để có được chính kiến chính tín thì phải có được chính nhân của chính quả. Động đến chính quả thì phải xem đến chính nhân, cái nhân để thành Phật là gì, cái nhân để thành Người là gì, cái nhân để thành Qủi là gì.

Người đứng đắn thì trọng Nhân hơn trọng Qủa.

Có chính nhân làm gốc thì sẽ có chính kiến và chính tín. Chính kiến và chính tín nuôi lớn chính nhân trở thành chính quả.

Lại nói: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc", phận sự của hành giả là xoay lại chính mình, đừng có tìm cầu bên ngoài. Bên ngoài thành tiên hay không, thành Phật hay không, mạt sát nhau hay không thì kệ bên ngoài, phận sự của hành giả chẳng có ở chỗ đó để ngóng để nghe để tham gia.

Nhưng dẫu sao, muốn kiểm chứng được có ai tu hành đắc đạo hay không thì bản thân mình cũng phải có trình độ dấn thân tầm sư cầu đạo. Nghi lớn thì ngộ lớn, nghi nhỏ thì ngộ nhỏ. Bạn nghi có chút xíu thì ngộ chút xíu như thế, nếu nâng cao cái nghi ấy lên nữa thì sẽ thấy biết khá hơn đó.

Người ta nghi: con người từ đâu đến, đến đây để làm gì, sau khi chết còn hay mất, nếu còn thì đi về đâu ? Nghi quá là triệt cho nên khi ngộ cũng là triệt ngộ, khi chứng cũng là triệt chứng. Độc giả có thể tiếp cận vấn đề ở một điểm chốt: Triệt Ngộ (gợi ý: Chỉ thẳng tâm người, thấy tính thành Phật). Cứ lo tu lo ngộ đi, dưới chân sẽ đạp khắp người trong thiên hạ.

Trong sự bạn gọi là mạt sát thì cũng có người có tâm bồ tát ở trong đó, vấn đề là bạn có nhìn ra hay không thôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Quan điểm của đạo Phật về đấng sáng thế Thích nữ Tịnh Quang đăng ngày 03/03/2012 Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năng và Vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng thế và các vị thần được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của Đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải quyết những nỗi khổ đau đang hiện hữu.

Trong văn học Phật giáo, xuyên qua giáo lý Vô ngã, không có một thực thể cố định (unsubstantiality) thì hẳn nhiên niềm tin vào một vị thần sáng tạo luôn luôn bị phản bác và từ chối, bởi vì Phật giáo là sự phủ định về sự vĩnh hằng và bất biến đối với việc giải thích nguồn gốc của thế giới như vũ trụ, linh hồn, thời gian vv.. Niềm tin về một đấng Sáng thế được đặt trong cùng thể loại như những quan điểm sai lầm về mặt đạo đức, đặc thân phận con người dưới sự an bài của đấng vô hình như là định mệnh tuyệt đối và không thể thay đổi, và dẫn đến sự nguy hại lâu dài cho nền móng xã hội do tác động đến những giá trị nhân bản của đạo đức.

Vì tin tưởng vào một đấng Sáng thế Brahma mà hằng nghìn năm xã hội Ấn Độ đã duy trì sự phân chia bốn giai cấp, gây nên sự chia rẽ trầm trọng, mỗi giai cấp đều tùy thuộc vào ý chí của đấng Phạm thiên, cố định vị trí ở body của Phạm Thiên: giai cấp Bà La Môn (Brahman) được cho là con chính thống của Phạm thiên, sinh ra từ miệng Phạm thiên là chủng tánh tối thượng an hưởng cuộc đời sung sướng. Giai cấp Sát Đế Lỵ (Kshastriya) sinh ra từ cánh tay Phạm thiên là giai cấp hoàng tộc, thay mặt cho Phạm thiên nắm giữ quyền hành thống trị. Giai cấp Vệ Xá (Vaisya) được cho là sinh ra từ bắp vế Phạm thiên, là giai cấp thương gia, nông phu và thợ thuyền phụ trách về kinh tế. Giai cấp Thủ Đà La (Sùdra) được cho là sinh ra từ gót chân của Phạm thiên được cho là hạng bần cùng hạ tiện, và chỉ làm nô lệ suốt đời cho các giai cấp trên.

Sự thị hiện của Đức Phật đã làm đảo lộn mọi giá trị cố hữu, thay vào đó Ngài mở ra cánh cửa cửa mới của sự nhận thức khi Ngài chối từ về sự tồn tại của Brahma; điều này được bàn bạc trong nhiều kinh văn Phật giáo. Đoạn kinh Tevijja sau đây là cuộc đối thoại giữa Đức Phật và Bà -la-môn Vàsettha về đấng Phạm thiên:

“…Này Vàsettha, như vậy ngươi nói không có một Bà-la-môn nào trong những vị tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên - không có một tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một đại tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông ba tập và đã tận mặt thấy Phạm thiên - không có một Bà-la-môn nào cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mắt thấy Phạm thiên, trong những tu sĩ thời cổ, trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vi trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy như các vị Atthaka, Vàmaka… không có một vị nào đã nói: ‘Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu’. Như vậy các bà Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã nói: ‘Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: ‘Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo’. Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý…”

Với sự tin tưởng hão huyền này đã gây nên sự cuồng tín, không khoan dung, nâng cao tự ngã; thông thường hay gây ra sự căm thù và những bạo lực khi người khác không có cùng niềm tin và quan điểm với mình.

​​Xuyên qua nhiều thế kỷ, triết học Phật giáo đã trình bày các lập luận chi tiết bác bỏ học thuyết của một vị thần sáng thế. Nó sẽ được quan tâm để so sánh những việc này với những cách mà các triết gia phương Tây đã bác bỏ các thông tin chứng minh thần học về sự tồn tại của Đấng Sáng tạo..

Đối với một vài người tin tưởng một cách nghiêm túc hơn thì ý tưởng về một đấng tạo hóa chỉ là một lập trường chỉ để giải thích các sự kiện bên ngoài như nguồn gốc của thế giới mà họ không thể hiểu thấu. Đối với y, nó là một đối tượng của đức tin có thể tạo ra cho một cảm giác mạnh mẽ bên cạnh sự hiện diện an ủi của đấng tạo hóa và sự gần gũi với chính mình, chẳng hạn như ấn tượng thời thơ ấu, hình ảnh huyền thoại như những ông Bụt và cô Tiên đi vào truyền thống, học đường, và môi trường xã hội đã tác động vào bề mặt của vỏ não và tạo nên những những hình ảnh của tư tưởng mà tín đồ của các tôn giáo đã có một lề lối khái niệm chân thành nhất; một phân tích phát hiện gần đây đã hiển thị rằng "kinh nghiệm về Đấng sáng thế " đã không có nội dung cụ thể hơn điều này.

Tuy nhiên cuộc sống và tác phẩm của các nhà thần bí của tất cả các tôn giáo lớn đã chứng minh cho kinh nghiệm của họ có ảnh hưởng lớn, trong đó việc thay đổi đáng kể được thực hiện ở chất lượng của ý thức, sự cảm thụ sâu xa trong lời cầu nguyện hay thiền định có thể đánh động đến chiều sâu và ảnh hưởng trên mặt rộng ý thức xuyên qua cảm hứng truyền trao của sự hân hoan và hạnh phúc đi từ họ. Với cảm thụ tuyệt vời như vậy, các nhà thần bí tin rằng kinh nghiệm của mình là biểu hiện của thần thánh, là hiệp thông với đấng tạo hóa, nhiệm vụ của họ là trung gian giữa thượng đế và con người… với những ấn tượng sâu sắc được xem như là thần bí và họ đã gõ cửa thần học đề xác định sự “hiệp thông” đặc biệt của mình. Giả định này là khá dễ hiểu, kinh nghiệm huyền bí cũng chỉ là những đặc trưng tăng, giảm hoặc loại trừ tạm thời, biểu hiện làn sóng đa phương trình của ý thức, nhận thức và suy nghĩ không ngừng nghỉ trong những tầng số rung động của tâm. Thật là thú vị cần lưu ý, tuy nhiên, các nỗ lực của hầu hết các nhà thần bí lớn phương Tây liên quan đến kinh nghiệm thần bí của mình để các tín đồ chính thức của các nhà thờ công nhận kết quả của họ trong giáo lý thường được xem xét và nghi ngờ đối với chính thống, nếu không được coi là hết sức dị giáo.

Xuyên quaPhật giáo, những hành giả khi đã thâm sâu trong thiền định họ nhận diện các yếu tố thể chất và tinh thần cấu thành kinh nghiệm của mình trong ánh sáng của mọi hiện hữu qua ba đặc điểm, đó là vô thường, đau khổ, và sự vắng mặt của một cái tôi (vô ngã); điều này được thực hiện chủ yếu để sử dụng độ tinh khiết thiền định và sức mạnh của ý thức cho mục đích cao nhất: giải phóng bản ngã từ cái thấy sâu sắc; việc này giúp hành giả thoát khỏi sự tràn ngập ảo giác bởi bất kỳ những cảm xúc và ý nghĩ không kiểm soát được đi từ bởi kinh nghiệm của họ, và do đó sẽ có thể tránh đi sự lừa dối của kinh nghiệm ý thức.

Một thiền giả tốt trong phật giáo, thông qua những trải nghiệm thiền định mà những gì y có là cái thấy không tùy thuộc, không có vị trí cố định để xác lập, như thác nước trôi chảy không ngừng, không có đối tượng hoặc chủ thể định vị, do đó trạng thái thần bí cao nhất của thiền giả không cung cấp cho sự tồn tai của một đấng tạo hóa duy nhất hay một vị thần khách quan điều động và chi phối cá nhân.

Do vậy, Phật giáo được xem như là “chủ nghĩa vô thần” đối với những người có tư tưởng độc lập hay những nhà Hữu thần, chỉ vì Phật giáo không tin tưởng vào một đấng sáng tạo, toàn năng và vĩnh cửu, đúng hơn đó là sự sáng tạo từ ý tưởng con người. Tuy nhiên quan niệm về “vô thần” trong Phật giáo không đồng với “vô thần” của những nhà thuần túy Duy vật hay Duy vật biện chứng. Học thuyết Phật giáo là sự hòa hợp giữa tâm và vật. Phật giáo không tán thành triết lý vật chất hủy diệt thuần túy (annihilationism-ucchedavata), đúng hơn nó là một lý thuyết sai lầm. Sáu cõi luân hồi và các cảnh giới Thánh hiền thanh tịnh đủ để chứng minh rằng quan điểm của Phật giáo không phải là sự hủy diệt hoàn toàn sau khi chết, mà là sự thay đổi không ngừng. Mỗi chúng sinh là một đấng sáng tạo muôn vẻ cho chính mình xuyên qua sự vô hạn của kiếp luân hồi .Học thuyết về “nghiệp” (karma) là chu kỳ của sự tạo tác và hình thành của tâm và vật đặt căn bản trên giáo lý nhân quả, tác động và chi phối sự hiện hữu của chúng sinh. Đức Phật không cung cấp một chủ nghĩa Hư vô, đồng nghĩa với đau khổ và không còn có con đường hy vọng. Chủ thuyết “không” (empty) trong đạo Phật chỉ là sự từ chối của bản ngã bất biến đã gây nên đau khổ cho con người. Ngược lại, nó là một giáo lý cứu rỗi (Niyyanika-Dharmma), giải thoát (vimutti), hoặc Niết bàn (Nirvana), là trạng thái hủy diệt hoàn toàn của tham, sân, si, những khổ đau của ngọn lửa dục vọng điên cuồng đang thiêu đốt chúng sinh. Tuy nhiên Niết bàn không phải là cảnh giới có chủ thể và đối tượng, vì vậy nó không đồng với hình thức và ý tưởng tạo lập của một đấng vĩnh hằng.

Phật giáo không phải là một kẻ thù của tôn giáo như là chủ nghĩa vô thần được thấy. Phật giáo, thực sự là kẻ thù của “không” (sự hủy diệt hoàn toàn). Người Phật tử là những người đại diện cho kiểu mẫu về các gía trị đạo đức, tinh thần và văn hóa trong các quốc gia châu Á. Tuy nhiên, chúng ta không thể nhắm kín đôi mắt của mình với các khái niệm vế đấng sáng tạo-đã xử dụng quá thường xuyên thông qua với những con người quyền lực, tàn nhẫn…nhân danh tình yêu của đấng toàn năng đã gây nên sự chia rẽ, hận thù và tiêu hủy văn hóa bản địa. Những nghiên cứu và thể hiện quan điểm bất đồng chính kiến ​​đã bị cản trở và dập tắt trong danh xưng và tham vọng điên rồ cho sự phục vụ đấng tối cao đã và đang gây đau thương không ngừng cho nền hòa bình thế giới.

Không cần sự thưởng phạt của một đấng tối cao, giá trị đạo đức của Phật giáo trên căn bản năm giới cấm vào mười điều thiện đã cung ứng cho quốc gia và xã hôi một nền tảng đạo đức viên mãn. Không mù quáng và ảo tưởng trong niềm tin, dựa trên triết thuyết hợp lý sâu sắc và thí nghiệm từ sự thực hành mang tính khoa học, Phật tử tôn thờ đức phật là bậc thầy (Bổn sư) giác ngộ, một vị Thượng đế của lòng từ bi và trí tuệ. Họ nhìn nhận đức phật như bản chất tiềm ẩn trong chính mình, đó là điểm khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác.

Mặc dù Phật giáo được xem như là một tôn giáo, tuy nhiên lý thuyết, triết học và sự thực hành của nó vượt ra ngoài phạm vi tôn giáo; Phật giáo đặt con người làm mục tiêu thể nghiệm sự khổ đau và sự giải thoát khổ đau ngay trong đời sống thay vì khái niệm hão huyền về một đấng Sáng thế toàn năng và vĩnh cửu Vì vậy, Phật giáo có thể dung nhiếp với các tôn giáo khác, tuy nhiên các tôn giáo khác không thể hợp nhất với Phật giáo; đó là một thực tế không thể tranh cãi.

Không có luân hồi, ta vẫn là ta với tư duy... đã được format khi sống.

Share this post


Link to post
Share on other sites
Guest
Chủ đề này hiện đang đóng.