Rubi

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.161
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    3

Everything posted by Rubi

  1. Thưa chú, do sách cháu xem là sách mượn trong thư viện Hà Nội, và hiện tại cháu lại không đăng ký thẻ của thư viện nên không vào đó để mượn lại được, cho nên cháu không thể đọc kỹ lại và dẫn chứng chỗ mà cháu đã không hiểu đó. Tuy thế nhưng cháu nghĩ là tìm trên thư viện của các diễn đàn cũng có, khi nào cháu tìm được thì cháu sẽ xem lại và trích dẫn. Thực tế nữa là, hiện tại cháu cũng đang mải suy nghĩ một vài vấn đề khác, cũng là theo cảm hứng tự nhiên, cho nên chưa tập trung cho vấn đề này (với những yếu tố như trên).
  2. Thưa các học giả và các anh chị, Rubi xin nói thêm về cách gọi tên khác hơn cho các đối tượng của Âm Dương Ngũ Hành. Như cách gọi tên cho các đối tượng của ADNH đã nói trên thì nó liên quan trực tiếp đến định luật tương sinh của ADNH. Ngoài cách gọi tên như vậy, còn có một cách gọi tên khác, cách gọi tên này không phụ thuộc vào định luật nào của ADNH, cụ thể là: Hành Thuỷ: Số 6 và quái Tốn gọi là Thiếu Âm Thuỷ Số 1 và quái Khảm gọi là Thiếu Dương Thuỷ Hành Hoả: Số 2 và quái Chấn gọi là Thiếu Âm Hoả Số 7 và quái Ly gọi là Thiếu Dương Hoả Hành Mộc: Số 8 và quái Cấn gọi là Thái Âm Mộc Số 3 và quái Khôn gọi là Thái Dương Mộc Hành Kim: Số 4 và quái Đoài gọi là Thái Âm Kim Số 9 và quái Càn gọi là Thái Dương Kim Hành Thổ: Số 10 và nghi Âm gọi là Thái Âm Thổ Số 5 và nghi Dương gọi là Thái Dương Thổ Ưu điểm của cách gọi mới như vậy là không bị phụ thuộc vào sự phân cực của Ngũ Hành, tức là đúng cho mọi trường hợp đối tượng được xác định vị trí trong Ngũ Hành Tương Khắc hoặc Tương Sinh hoặc là bất cứ đứng chung với toàn bộ hay riêng một mình. Nhưng nhược điểm của cách gọi như vậy là không thể hiện được vai trò lớn nhỏ và lớn nhất của các đối tượng trong Ngũ Hành nói riêng. Cũng bởi vì định luật ADNH tương sinh là một định luật quan trọng để thống nhất các cấu trúc của ADNH vì vậy cách gọi tên thứ hai nói trên có vẻ như không đầy đủ với Ngũ Hành và định luật tương sinh của nó.
  3. Thôi, Rubi không nói thêm nữa. http://www.daotam.org/mp3/albums/NguyenTua...nh_Neu_Biet.mp3
  4. Chắc là anh chị cũng biết và thực hành nhiều các bài chú ngắn. Nhưng Rubi cũng cảm nhận được kết quả rất logic khi đã có thời gian trì tụng chú đại bi, cho nên chỉ muốn có một gợi ý với anh chị là khi trì tụng chú đại bị, mỗi ngày một lần, mỗi lần 5 biến chú thì phải nên phát nguyện theo cách đã được hướng dẫn rất rõ ràng trong Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni. Nếu chuyên tâm tu hành thanh tịnh và thực hành trì Chú Đại Bi thì nhất định sẽ có những cảnh giới không thể nghĩ bàn. Nếu là người phàm tục, tập khí còn nặng thì chỉ cần tâm thành trì tụng và phát nguyện như trong kinh đã hướng dẫn thì kết quả cũng rất tốt đẹp tùy theo ưu điểm thân tâm và tính cách cũng như sở trường của mỗi hành giả. Thời gian hành trì cho đến lúc có kết quả không thể tính, bởi vì có khi lúc hành trì là nhân nhưng khi kết quả lại là lúc chúng ta đã quên bẳng rằng mình đã hành trì và phát nguyện như thế, rất buồn cười phải không anh chị.
  5. Có thể không cần trích dẫn lời của anh Vo Truoc thì vẫn có thể nói về tình trạng học Phật của người phàm mà điển hình như anh Vo Truoc đây. Thứ nhất là anh Vo Truoc tâm phục Đức Phật và Đạo Phật Thứ hai anh Vo Truoc có hiểu về Tánh Giác hay là ngộ ở mức giải ngộ Thứ ba anh Vo Truoc có sự giải ngộ nhưng chưa chứng ngộ Thứ tư anh Vo Truoc không thể chứng ngộ vì tuy giải ngộ nhưng anh vẫn còn nghi rằng sức anh không thể làm được việc chứng ngộ Thứ năm anh Vo Truoc kinh hoàng khi nghe đến phương pháp rốt ráo là ngay lý tức là sự, tức là ngay khi người chịu nhận lại Tánh Giác thì Tánh Giác là Chân Không, Ý Thức vô ngã trở lại với cái diệu hữu của Chân Không. Chỉ khi Ý Thức trở về với vị trí của nó là Diệu Hữu thì tự nhiên Ý Thức sẽ là Vô Trước. Thứ sáu với sự kinh hoàng ấy của anh Vo Truoc thì ngay cả khi có được phước báo ăn đủ, ngủ đủ, mặc đủ thì anh Vo Truoc cũng không dám buông mọi thứ để Ý Thức nhập vào Diệu Hữu để Chân Như Phật Tánh hiện hữu như nó là nó, như thường, như vậy và như như. Thứ bảy anh Vo Truoc từ bụng ta suy ra bụng người, tức là tự mình kinh hoàng nên nghĩ rằng người cũng kinh hoàng, người và mình đều kinh hoàng cho nên không dám nói đến chân lý, không dám sống bằng sức sống của chân lý cho dù biết rằng là mê hay giác thì chân lý không bao giờ xa cách mỗi mỗi một mảy lông hồng. Thứ tám anh Vo Truoc đã quay lưng với chân lý khi khởi xướng một phương pháp diệt khổ mới. Trong phương pháp diệt khổ của anh Vo Truoc nhằm tìm cách chạy vòng quanh chân lý để nghĩ rằng như thế sẽ bớt khổ và có thể hy vọng vô tình hành giả theo cách đó tự nhiên chứng ngộ chân lý. Thứ chín anh Vo Truoc không biết rằng tu hành năm bảy chục kiếp mà không chịu ngộ khi được khai ngộ thì cũng thành ngoại đạo. Chính vì những hình ảnh đó của anh Vo Truoc là thực tế để nhấn mạnh một điều ngược lại rằng, ngoài cái đức của sự chứng ngộ thì cái đức giải ngộ và thật sống với thực tại con người thật cũng đáng làm thầy trời người. Đây là con đường trực khai, trực ngộ, trực nhận, trực nhập Tâm Phật, học giả kinh hoàng cũng là lẽ bất thường lôgic. Thiền là Tâm Phật, Kinh là lời Phật. Ai sống bằng sức sống của Tự Tánh Thanh Tinh Thiền thì lời mở bày của họ cũng được coi là Kinh. Vậy anh Vo Truoc bám vào đâu để nói chẳng hạn ngay trường hợp Rubi là cố chấp, bảo thủ, mê muội. Chân lý anh không dám nói nhưng những lời ngược với chân lý thì anh lại nói quá tự tại một cách độc tài.
  6. Anh Vo Truoc không chuyên tu cho nên không có kinh nghiệm tu chứng, không đức tu chứng thì chẳng thể hướng dẫn cho người khác được, anh chỉ có Lý mà không có Sự. Kinh và Luận hay Ngữ Lục đều là của Phật và Tổ tu chứng rồi mới nói ra lời, Lý Sự không hai. Trường hợp của anh Vo Truoc nếu có phát minh thì nên tìm đến các Cao Tăng để được ấn chứng hay thọ ký, sau đó mới phổ biến cũng chưa muộn. Nay tuy mới phát minh, nhưng không có đức thực chứng ngay nơi anh thì chẳng ai coi trọng cái phát minh đó. Chưa đâu vào đâu thế mà anh đã buông lời nói rằng phương pháp của Phật Giáo là kém hiệu quả thế nọ thế kia, người có tâm chẳng làm như thế, chẳng nói như thế. Nói như thế là vì cái tôi muốn đưa ra phát minh của mình, nếu muốn đưa ra phát minh thì anh không cần phải nói phương pháp của Phật Giáo hay dở ra sao. Anh thử lìa cái thấy hay dở đó rồi đem phương pháp của anh ra như vậy xem. Khi cần cho phương pháp của anh thì anh nói Phật Giáo là hay, cũng thế, khi cần cho phương pháp của anh thì anh cũng nói được là phương pháp của Phật Giáo không hiệu quả. Rốt cục thì cái mà anh gọi là phương pháp ấy chẳng phải là phương pháp mà chỉ là công thức do anh tự đặt ra. Đúng cái vấn đề cốt lõi của Phật Giáo thì anh Vo Truoc đã chặt gốc nó rồi, nếu ai đưa cái gốc ấy ra nhắc lại thì anh Vo Truoc cho đó là cố chấp, bảo thủ rồi tức giận đổ luôn cho họ là mê muội. Bỏ gốc theo ngọn là mê hay nắm chắc lấy cái gốc rồi tự sinh trí huệ là mê đây ? Rõ ràng là như vậy, anh Vo Truoc, trong sự luận bàn thì đến thời điểm này ai nhắc đến cái Giác thì anh cho đó mà Mê, xin nói trước là Rubi không xuyên tạc đâu.
  7. Cứ theo cái Nick Vo Truoc thì có thể thấy rằng anh ấn tượng với Tạng Luận của Phật Giáo. Chắc là Tạng Luật thì anh chưa xem, còn Tạng Kinh thì có lẽ anh Vo Truoc sau khi ưa thích một pho Luận nào đó rồi thì xem đến Kinh thấy không hợp, tích tụ thầm thầm lâu ngày đến lúc thành khối thì mới chê những người chấp vào Kinh, rồi anh cũng lại vòng sang mắng luôn ai ai đó là giáo điều. Do nắm bắt được tư tưởng nào đó trong pho Luận nào đó của Phật Giáo cộng thêm kiến thức khoa học chuyên ngày nào đó mà anh Vo Truoc cho đến giờ này, thực tế tại topic này đã đề cấp đến những điểm mà anh cho là mặt hạn chế của Phật Giáo. Dần dần thì anh Vo Truoc đã chê cả Giáo lẫn Thiền. Thiền là Kinh Không Chữ (Kinh Vô Tự), Giáo là Kinh Có Chữ (Văn Tự). Rốt cục là vì tâm phục một pho Luận nào đó mà anh Vo Truoc đã sinh ra những ý kiến như vậy. Đây có thể giống như hiện tượng Phật Giáo hủy hoại ngay từ bên trong giống như người chết là bệnh từ bên trong rồi hủy hoại cũng là do bên trong có ròi. Ngộ Luận thì đem Luận ấy ra thực hành, ngộ Kinh thì đem Kinh ấy ra thực hành, ngộ Thiền thì Tự Tánh Thanh Tịnh mà sống. Không nên đem Luận mà chê Kinh với Thiền, không nên đem Thiền mà chê Kinh với Luận, không nên đem Kinh mà chê những hành giả Thiền Vô Học hay Luận Hữu Học.
  8. Thôi vậy, kiến giải của Rubi đầu năm cũng đã dẹp được phong trào Pháp Luân Công hoành hành trên khắp các diễn đàn. Đối với việc của chú Vo Truoc đây có lẽ phải gặp Thiền Sư Lâm Tế hoặc là Thiền Sư Châu Triệu thì mới biết thế nào là đứa trẻ 7 tuổi và ông già 70 tuổi. Thiền Sư Lâm Tế kính trọng cả đứa bé 7 tuổi hoặc ngược lại có thể mắng cả ông già 70 tuổi ấy là vì ấn chứng cho kiến giải chánh pháp nên mới có điều bình thường như thế. Trong nhà đạo, chỉ nhìn con người thật không nhìn hình tướng già hay trẻ mà cả nể theo thói bất thường.
  9. Thực tế mà nói cái gì cũng phải có môi trường đào tạo, ngay cả thiền tông cũng là môi trường đào tạo nhưng là một môi trường đặc biệt. Học Phật nhiều hoặc nghe giảng nhiều thì ai cũng có những tư duy trí tuệ giải thoát có tác dụng đối trị phiền não ở mức độ nhất định. Song về thực hành thì chỉ có hoặc chuyên về Thiền hoặc chuyên về Niệm Phật. Thế gian đa sự, đầu óc chân tay phải hoạt động nhiều thì những khi ấy rất khó Niệm Phật nhưng lại sẽ rất hiệu quả nếu là hành giả biết ứng dụng tập tu thiền trong khi hoạt động như thế. Mà đã là Thiền thì cũng phải cho ra chò, muốn vậy thì cũng phải ngộ Tánh Giác thì mới có thể tự hào về mình là Thiền Giả, một ngày thiền định còn hơn sống trăm năm vì vậy mà đừng ai nghĩ rằng đời này tu không được giải thoát thì chẳng cần tu. Tu thì sợ không giải thoát thế mà sống bình thường tạo bao tội lỗi hoặc tự biết hoặc không tự biết mà lại không tự quan trọng vấn đề tương lại tâm linh thì thật là buồn cười. Đối với pháp môn Niệm Phật thì việc kiến tánh cũng khiến cho hành giả Niệm Phật miên mật hơn, nói rằng Niệm Phật nhưng đây cũng là con đường Thành Phật như trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật đã nói rõ. Tóm lại là một là Thiền, hai là Niệm Phật bà là học đến đâu thì tự sẽ có trí tuệ giác ngộ mà dẹp trừ phiền não đến đó.
  10. Nhân có tin nhắn của Vinhvinh về bản Chú Đại Bi rút gọn, Rubi trở lại topic này. Do có một số vấn đề về thời gian online cho nên chủ đề này không được Rubi triển khai đến kết thúc. Vậy nên cũng nhân tiện có người hỏi đến bản Chú rút gọn nên Rubi biết thế nào thì đưa ra thế ấy, nhưng đây không phải là bản chủ rút gọn mà là bản chú dạng tài liệu flast, nội dung và hình thức là song ngữ Hán Phạn. Sau đây là link download tài liệu và một vài hình ảnh minh hoạ. Link web: http://tech2.npm.gov.tw/sutra/web/skill/s1_play.htmKhi kích vào link trên sẽ thấy giao diện web như sau: Trong ô màu vàng có hai dòng chữ Trung. Kích vào dòng trên để xem và nghe online. Kích vào dòng dưới để download tài liệu flash về bản chú. Nếu anh chị nào sau khi download mà không tự mò được để nghe nội dung và nếu có nhu cầu thì ới Rubi một tiếng để Rubi làm thêm một bài hướng dẫn sử dụng. Nếu xem online thì anh chị hãy kích chuột vào biểu tượng con ốc để nghe từng cấu âm tiếng Phạn, hình minh hoạ:
  11. Kiến giải của anh không vững, không chánh và không triệt cho nên dùng lại không đúng chỗ và không triển khai được phong phú, đó chính là chỗ hạn chế khi phụ thuộc vào ý thức.
  12. Thưa chú, đúng là cháu chưa thể chứng minh được hay nói đúng hơn là vấn đề vẫn đang còn là ý tưởng. Việc chứng minh vấn đề chu kỳ 120 năm tương đồng với 120 giờ lại xuất hiện một sự khác nhau là: -Đối với can chi của năm thì Năm Giáp Tý lại không bao giờ có tháng Giáp Tý, bởi vì tháng giêng của năm là Tháng Dần. -Đối với can chi của giờ thì Ngày Giáp Tý lại bắt đầu từ Giờ Giáp Tý. Năm thì bắt đầu từ tháng Dần, Ngày thì bắt đầu từ Giờ Tý do vậy đây là yếu tố chính khiến có sự khác nhau giữa Năm và Giờ và đồng thời cũng ít có khả năng thời gian của năm có chu kỳ 120 năm. Không những thế mà riêng trong các nguyên lý về TNLC lại đang có hai khái niệm khác nhau như cháu vừa nói ở bài trên. Tóm lại, nội dụng topic này vẫn chỉ là một ý tưởng và chưa thể có kết quả chứng minh để kết luận, hoặc có thể ý tưởng không có triển vọng là đúng hướng. Nếu chứng minh được vấn đề nêu ra thì nó lại liên quan đến tháng Tý là tháng đầu năm như lịch Tây, do vậy vấn đề cũng còn liên quan đến nhiều các nguyên lý căn bản khác. Và tóm lại, đúng như chú nói, cháu chưa chứng minh được vấn đề đặt ra.
  13. Chú Ý: Xuất hiện hai khái niệm khác nhau cho cùng một vấn đề về thời gian Thưa các học giả và các anh chị, vừa hôm nay khi xem lại các khái niệm của Tý Ngọ Lưu Chú (Lưu=chảy ra, Chú=rót vào) ở một cuốn sách khác thì thấy khái niệm về thời gian có những yếu tố khác như đã trình bày. Tực là hiện nay, có hai khái niệm về thời gian khác nhau cho cùng một vấn đề trong TNLC. Cụ thể là khái niệm thời gian về ngày từ Ngày Giáp đến Ngày Quý. Một là khái niệm như đã trình bày và một khái niệm mà Rubi mới biết thêm và sẽ nói tới sau. Như đã trình bày thì khái niệm ngày Giáp cho đến ngày quý là 10 ngày đêm đúng với lịch âm, mỗi ngày có 12 giờ cổ (=24 tiếng). Còn có một khái niệm khác là từ ngày Giáp cho đến ngày Quý là 10 ngày đêm nhưng không giống như trên mà mười ngày này lại chính là Ngày Đường Kinh Chủ Đạo. Cụ thể là: 01-Ngày Quý là Ngày đường kinh Thận chủ đạo-từ giờ 120=00 (Quý Hợi) đến hết giờ thứ 10 (Quý Dậu) 02-Ngày Giáp là Ngày đường kinh Đởm chủ đạo-từ giờ 11 (Giáp Tuất) đến hết giờ thứ 21 (Giáp Thân) 03-Ngày Ất là Ngày đường kinh Can chủ đạo-từ giờ 22 (Ất Dậu) đến hết giờ 32 (Ất Mùi) 04-Ngày Bính là Ngày đường kinh Tiểu Tràng chủ đạo-từ giờ 33 (Bính Thân) đến hết giờ 43 (Bính Ngọ) 05-Ngày Đinh là Ngày đường kinh Tâm Chủ đạo-từ giờ 44 (Đinh Mùi) đến hết giờ 54 (Đinh Tị) 06-Ngày Mậu là Ngày đường kinh Vị chủ đạo-từ giờ 55 (Mậu Ngọ) đến hết giờ 65 (Mậu Thìn) 07-Ngày Kỷ là Ngày đường kinh Tỳ chủ đạo-từ giờ 66 (Kỷ Tỵ) đến hết giờ 76 (Kỷ Mão) 08-Ngày Canh là Ngày đường kinh Đại Tràng chủ đạo-từ giờ 77 (Canh Thìn) đến hết giờ 87 (Canh Dần) 09-Ngày Tân là Ngày đường kinh Phế Chủ đạo-từ giờ 88 (Tân Mão) đến hết giờ 98 (Tân Sửu) 10-Ngày Nhâm là Ngày đường kinh Bàng Quang chủ đạo-từ giờ 99 (Nhâm Dần) đến hết giờ 109 (Nhâm Tý) Vấn đề xác định 10 ngày Thiên Can là cần thiết vì trong TNLC còn áp dụng nguyên lý Hóa Hợp của Thiên Can trực tiếp cho 10 ngày này để tìm ra các cặp Huyệt hợp với nhau có tác dụng nhất định làm tăng khả năng điều trị bệnh hiệu quả theo đúng dịch lý vận động của khí huyết. Nhưng như trên, Rubi trình bày thì thấy có hai khái niệm thời gian về Ngày cho cùng một vấn đề trong TNLC. Việc xác định khái niệm nào được áp dụng nguyên lý Hóa Hợp thì Rubi cần phải nghiên cứu thêm. Vậy Rubi cũng thông tin như vậy để các học giả tiếp cận vấn đề được biết tình hình chung.
  14. Không cái ấy thì làm sao ngắm, bởi nó là Chủ, là Đại Phật Đảnh, cho nên còn khái niệm ngắm được nó thì không phải là bậc trí giả. Nó là Đại Phật Đảnh thì cần gì với tới cái gì nữa, lại bày ra khái niệm với tới nó thì khái niệm ấy cũng là do thức tình học nhiều mà đặt ra. Cái ấy tu ngàn năm cũng chẳng thêm, hoặc đã ngàn năm quên nó thì nó cũng chẳng bớt. Nay anh Vo Truoc bị ngần ấy kiến thức khoa học che mất, kinh sách bày trước mắt, chỉ ngay chỉ thẳng chắc anh cũng không dám tin được rằng cài ấy là như thế. Thật thế thì không nên bày cái danh Vo Truoc kia rồi nói là tinh thần ấy. Như trường hợp của một nhà khoa học đến tham vấn ngài Châu Triệu. Khoe danh nọ bằng kia, xong rồi được mời uống trà. Thiền Sư Châu Triệu rót trà đã tràn ly mà vẫn cố tình rót làm nhà khoa học kia phải ngạc nhiên mà cất lời. Hóa ra Thiền Sư muốn khai thị cho khách thiền rằng kiến thức của ông đã giống như ly trà đã đầy, nay rót thêm học vấn về thiền chắc là không thể nào thấm cho được, càng rót càng tràn. Anh Vo Truoc cũng trong trường hợp ấy, học kinh Phật không những chẳng thấm mà còn nản, nghĩ rằng không thể thực hành. Vậy mà còn nói nhiều đến Phật Giáo thì ích cho mình và người ở đâu ? Cho nên Phật Giáo bắt buộc phải là hành giả chứ không thể là học giả.
  15. Nguyên nhân chúng sinh bị thoái chuyển tâm cầu đạo là vì chưa ngộ. Trong khi đó anh Vo Truoc lại biết rằng chúng sinh khó có thể lãnh hội chữ Không của sự Ngộ đồng thời lại có hướng đề xướng một phương pháp mới, chắc phương pháp này có ý tránh chữ Ngộ Không nhưng vẫn có thể khiến cho họ tu hành bớt khổ. Không Ngộ thì khó có thể kiên trì một pháp tu nào, huống chi lại là một phương pháp tương đối cứng nhắc, chắc chỉ dành cho những vị có ít nhiều chữ nghĩa toán học. Không Ngộ thì chẳng có pháp nào khác. Ngộ Không thì không pháp tức là pháp. Chẳng biết lời này có phải là Kinh điển, có phải là giáo điều, có phải là bảo thủ, có phải là những điều áp đặt của anh Vo Truoc cho ngay trường hợp của Rubi ?
  16. Rubi không cần bảo vệ Phật Pháp, muốn bảo vệ cũng không được. Và tất nhiên, Rubi không cần đối thoại theo cách đến mức này như anh Vo Truoc, nhắc đi nhắc lại nhiều lần một đoạn văn. Nói thật là nếu còn nói nữa thì chẳng còn gì để nói trừ phi anh Vo Truoc trình bày phương pháp mà anh cho là nên như thế thì mới có hiệu quả trong việc làm cho chúng sinh hết khổ. Rubi cũng muốn xem rằng anh sẽ công thức hóa thay thế kinh sách giáo điều ra làm sao. Nhưng có lẽ qua sự phản biện trên thì anh Vo Truoc không thể trình bày được nữa.
  17. Khi chưa ngộ thì Thầy độ, khi ngộ rồi thì tự độ. Tự độ thì Phiền não tức Bồ Đề, thế nghĩa là sao? Tự độ thì tự sinh kiến giải mở bày cho người lại hay phá được kiến giải của ngoại đạo. Đã ngộ thì khi sống giữa đời thường gặp bao nhiêu phiền não thì cũng là bấy nhiều sự nhắc nhở sách tấn mời gọi hành giả trở về sống với thực tại con người thật, với tánh giác thường chiếu soi, vốn thanh tịnh. Cuộc đời càng phiền não bao nhiều thì cũng là bấy nhiều sự khẳng định những gì Phật nói là hoàn toàn đúng, và do đó càng phiền não thì càng giác ngộ, càng thấm thì càng ngộ và khi đó sắn có nhân duyên triệt ngộ từ trước thì chỉ cần xả bỏ phiền não, xả bỏ bằng cách nào ? Chuyển sức nặng ngàn cân bằng cách nhẹ nhàng nhất, ấy chính là phiền não chẳng nắm bắt tức chẳng phiền não, lời nói ra đều coi như là Kinh vậy. Đấy cũng chỉnh là ý chỉ Vạn Pháp Tức Phật Pháp mà anh Vo Truoc nói đến. Vậy thì xem ra, cái chữ ngộ của Phật Giáo hay đến bất ngờ, hay một cách đáo để và chỉ có người thực sống thì mới nhận ra, không chỉ thế mà ai cũng có thể sống bởi đó là cái sẵn có nơi mỗi người. Ngoài ra có thể thấy rằng vì sao Kinh Lăng Nghiêm lại bị diệt đầu tiên, bởi vì người học kinh lăng nghiêm thì có thể ngộ đạo và tự độ do vậy mà Thiên Ma tìm mọi cách để chờ thời tiêu diệt Kinh Lăng Nghiêm. Khi Kinh Lăng Nghiêm đã diệt rồi và các Cao Tăng cũng không còn ai thì con người ta chỉ tu hành bằng lòng tin là chính chứ thật chất thì không ai ngộ cả, khi đó thì Phật Pháp sẽ là một Tôn Giáo và đó cũng là thời kỳ mạt pháp thật sự, nhưng thật may là do lòng từ bi lớn lao của Phật Vô Lượng Thọ đã thành tựu nguyện lực tiếp dẫn chúng sinh cho nên thời mạt pháp nhưng chúng sinh vẫn có thể chứng đắc cảnh giới quyết định vãng sinh. Đến đây có thể đi vào vấn đề vì sao nói Phật Giáo không phải là Tôn Giáo, Phật Giáo là Phật Giáo, ấy là vì khi chúng sinh tự độ thì Phật Giáo là Phật Giáo, khi chúng sinh không thể tự độ thì Phật Giáo là Tôn Giáo. Liệu anh Vo Truoc khi nghĩ ra một phương pháp thực hành khác thì có thể vô tình đã biến Phật Giáo thành Tôn Giáo sơm hơn rồi còn gì. "Thuyết thông tâm cũng thông Như mặt trời giữa không Chỉ truyền pháp kiến tánh Ra đời phá tà tông" Hậu thế các chúng sinh Muốn cầu thiện tri thức Nên cầu người chánh kiến Tâm không ở nhị thừa Phàp hành ly bốn bệnh Là Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt Bốn bệnh là gì? Tác là làm có vẻ tích cực nhưng không đúng pháp. Nhậm là thay vì phóng khoáng thì lại quá đà thành phóng túng trở thành buông trôi trái với tinh tấn. Chỉ là chặn đứng, ngưng đặc hết hết ý niệm tư duy. Diệt là triệt tiêu, hủy diệt hết.
  18. Suốt khoảng thời gian cuối đời, người chuyên tu thì chắc chắn được hóa sinh cõi Phật hoặc an lạc trong lúc lâm chung. Còn trường hợp tu hành được thời gian rồi thối tâm thì không thể giải thoát. Lý do trường hợp thối tâm ban đầu là do đâu ? Yếu chỉ Phật Pháp là kiến tánh khởi tu, khởi tu mà không kiến tánh thì giống như là nói mà không biết mình đang nói để làm gì, làm mà không biết mình làm để làm gì. Cũng vậy, người sơ cơ chưa ngộ nên tâm thường một nơi thân ở một nơi, dụng công hạ thủ Tham Sân Si mà còn nghi ngờ nên chóng nản lòng kết quả lại bị các duyên bên ngoài chi phối nên trở lại buông lung như trước là chuyện đương nhiên, ấy gọi là tu lùi chớ nên đổ tại Phật Pháp. Song với người đã ngộ thì tự biết mà lìa tam độc, lìa mà không có chỗ để lìa nên dụng công ít mà kết quả nhiều. Nhưng vì nhiều người không tin hoặc tin không sâu, ngộ không triệt nên không phá được các kiến giải của người khác và dễ bị loạn kiến, kiến giải không vững và không chánh nên việc không kết quả khi tiếp cận với Phật Giáo là lẽ thường. Không chuyên tu, hoặc không ngộ đạo thì chẳng có cách nào mà thành tựu đạo nghiệp, không nên đổ lỗi cho Phật Pháp rằng lý do chúng sinh tu không hết khổ là bởi phương pháp mà Phật đã chỉ bày. Liệu rằng phương pháp của anh Vo Truoc đưa ra có thể khiến người vừa thực hành trừ được phiền não đồng thời khi đối duyên lại hay phá được các tà kiến của ngoại đạo ? Khi chưa ngộ thì Thầy độ Khi ngộ rồi thì có thể tự độ Cho nên ai muốn tự độ thì phải ngộ đạo, độ người căn bản cũng là chỗ khiến cho người ngộ được Tánh Giác là xong trách nhiệm. Nếu người không chịu ngộ thì chẳng còn cách nào.
  19. Cô ơi, Xẩm Hà Nội đấy, tìm tác giả cũng hơi khó.
  20. Nếu mà như anh Vo Truoc nói thì nghĩa đó khẳng định lời Phật nói phải chăng là không đúng, có thể trích dẫn một câu kệ của Phật thuyết cho Bồ Tát Từ Thị: "Di Lặc ông nên biết Tất cả các chúng sinh Không được đại giải thoát Đều do lòng tham dục Mà rớt trong sinh tử Nếu dứt hết ghét yêu Và tham sân si mạn Không luận chủng tánh nào Đều được thành Phật Đạo" Lại nữa. Bồ Tát Văn Thù có dạy rằng: Trên mặt không sân đồ cúng dưỡng Ở miệng không sân xuất diệu hương Trong tâm không sân là chân bảo Không nhơ, không nhiễm là chân thường Tuy là chưa nghe nhưng con người thật thì thấy trước khi nghe, nói nín động tịnh chẳng cầu đúng nên không hề sai.Phật là Hằng Giác Hằng Tri cho nên thấy mà không lập thêm cái thấy thì tức là Niết Bàn, chỉ khi ở trong sinh tử mà không rời xa Niết Bàn thì ngay đó Vạn Pháp tức Phật Pháp. Vạn Pháp là như như, nếu thấy mà gây ra cái thấy tức ngay đó là Vô Minh, thế thì không thể nào Vạn Pháp tức Phật Pháp cho được.
  21. Chắc đây là Pháp Tướng Tông của Phật Giáo. Rubi không rành về nội dung Pháp Tướng, chỉ gọi là biết chút chút về Pháp Tánh Tông.
  22. Tiểu Đề-Đông Tứ Tượng và Tây Tứ Tượng Thưa các học giả và anh chi, Rubi có đặt vấn đề như tiểu để trên vì cho rằng tên gọi như hiện nay theo sách vở đã bị đặt nhầm. Sau khi phân tích để trả tên gọi "Đông Tứ Tượng và Tây Tứ Tượng" về đúng vị trí, Rubi cũng sẽ đề cập khái quát tới vấn đề xung hay hợp giữa hai nhóm quẻ đúng hay sai. Xin cảm ơn các đọc giả. Phần I Phải nói ngay rằng: Đông Tứ Tượng là bốn đối tượng thuộc cực âm của Tiên Thiên Bát Quái Rubi, Tây Tứ Tượng là bốn đối tượng thuộc cực dương của Tiên Thiên Bát Quái Rubi. Bốn đối tượng quái thuộc cực âm là Tốn Khảm Cấn Khôn. Theo thứ tự Tốn Khảm Cấn Khôn là quy luật Dương Tiêu Âm Trưởng, trong đó quái Khôn thuộc hành Mộc ứng với hướng Đông và là quái chủ của bốn quái thuộc cực âm. Vì lấy tính chất của quái chủ để đặt tên cho cả nhóm nên gọi là Đông Tứ Tượng. Bốn đối tượng quái thuộc cực dương là Chấn Ly Đoài Càn. Theo thứ tự Chấn Lý Đoài Càn là quy luật Âm Tiêu Dương Trưởng, trdong đó quái Càn thuộc hành Kim ứng với hướng Tây và là quái chủ của bốn quái thuộc cức dương. Vì lấy tính chất của quái chủ để đặt tên cho cả nhóm nên gọi là Tây Tứ Tượng. Như vậy thì nhóm bốn quái Tốn Khảm Chấn Ly và nhóm bốn quái Cấn Khôn Đoài Càn lại chưa có tên mới thay thế. Rubi cũng chưa có căn cứ để đặt tên chính xác cho hai nhóm này nhưng có thể nhận khái quát về quan hệ giữa các quái trong một nhóm như đang dùng là có lý hay không. Phần II Vì là khái quát nên Rubi có ý phát kiến các yếu tố như sau: - 1 và 2 là nguyên lý cho tên gọi Dương Thiếu Âm Thủy và Âm Thiếu Dương Hoả, đặc biệt , 1 và 2 là Thiếu đối với 3 và 4 là Thái. Số cuối cùng là 5 và là nguyên lý cho tên gọi Dương Thái Cực Thổ, Cực với nghĩa là số cuối cùng theo thứ tự 12345, Thái với nghĩa là số lớn, số cuối cùng là số lớn nhất nên gọi nó là Thái Cực. - 3 và 4 là nguyên lý cho tên gọi Dương Thái Âm Mộc và Âm Thái Dương Kim. 3 và 4 là Thái đối với 1 và 2 là Thiếu. - 6 và 7 là nguyên lý cho tên gọi Âm Thiếu Âm Thủy và Dương Thiếu Dương Hỏa. 6 và 7 là Thiếu đối với 8 và 9 là Thái. Số cuối cùng là 10 và là nguyên lý cho tên gọi Âm Thái Cực Thổ, Cực với nghĩa là số cuối cùng theo thứ tự 678910, Thái với nghĩa là số lớ, số cuối cùng là số lớn nhất nên gọi nó là Thái Cực. - 8 và 9 là nguyên lý cho tên gọi Âm Thái Âm Mộc và Dương Thái Dương Kim. 8 và 9 là Thái đối với 6 và 7 là Thiếu. Nguyên lý đặt tên cho Âm Dương Ngũ Hành, cụ thể là các tên Thái Dương Kim, Thiếu Dương Hoả, Thiếu Âm Thủy, Thái Âm Mộc và Thái Cực Thổ được đặt dựa trên độ lớn nhỏ và lớn nhất của Âm Dương Ngũ Hành được cụ thể hóa bằng Cấu Trúc Số. Hợp nhất Tượng Số theo quy tắc Âm Dương Ngũ Hành tương ứng thì có kết quả: Nhóm thứ nhất-Tứ Tượng của Thiếu Âm và Thiếu Dương - 1 và 6, Khảm và Tốn ứng với Thiếu Âm - 2 và 7, Chấn và Ly ứng với Thiếu Dương Thiếu Âm hợp với Thiều Dương ấy là tính chất đồng lứa và ngũ hành Tương Vũ (Tam Biến Phúc Đức), Âm Dương hợp với nhau theo tính chất đồng hành (Thượng Biến Sinh Khí). Nhóm thứ hai-Tứ Tượng của Thái Âm và Thái Dương - 3 và 8, Khôn và Cấn ứng với Thái Âm - 4 và 9, Đoài và Càn ứng với Thái Dương Thái Âm hợp với Thái Dương ấy là tính chất đồng lứa và ngũ hành Tương Vũ (Tam Biến Phúc Đức), Âm Dương hợp với nhau theo tính chất đồng hành (Thượng Biến Sinh Khí). Như vậy thì có thể thấy được khái quát các đối tượng hợp với nhau theo tính chất được xác định bằng các nguyên lý căn bản.
  23. Qua đoạn trích dẫn ý tưởng của anh Vo Truoc, đó cũng là ý kiến ban đầu của anh Vo Truoc thì cũng thấy được rằng: Anh Vo Truoc cho rằng cái khổ của chúng sinh ngày càng gia tăng, điều này thì Phật đã nói rồi, thời Ngũ Trược Ác Thế chúng sinh hung hăng tàn bào mà mê muôi. Nói rằng chúng sinh ngày càng khổ thì đó là hậu quả là kết quả, còn về nguyên nhân, không phải là do mặt hạn chế của Phật Giáo mà là do chúng sinh ngày càng tham sân si. Tham Sân Si là nhân thì phải có kết quả là khổ gia tăng. Nhân quả là do chúng sinh tự làm tự chịu, đó chính là Khổ Tập. Tập Khí càng nặng thì Khổ Báo càng tăng, tập khí của người này đan với tập khí của người khác thành lưới nghiệp dàng buộc lẫn nhau. Thay vì nói rằng hiệu quả diệt khổ của Đạo Phật có sự hạn chế thì nên khẳng định rằng Khoa Học Kỹ Thuật Ứng Dụng cũng là có mục đích xóa đói giảm nghèo nâng cao chất lượng đời sống nhưng cũng gây ra sự phân hóa giàu nghèo, người nghèo thì ngày càng nghèo so với mức chung của xã hội, trong khí đó người giàu ngày càng phải lo lắng bao trì mức sống. Khoa học cũng là một Tôn Giáo, và cũng có mục đích diệt khổ và cũng có mặt hạn chế, thậm chí tác dụng phụ của khoa học còn là tác nhân chính gây ra sự khổ. Nếu nói về cái khổ chung của số đông thì thấy rằng nguyên nhân khổ không phải do có Phật Giáo hay không có Phật Giáo. Còn Khoa học Tâm lý cũng bàn đến diệt khổ đấy nhưng đảm bảo không chứng không giải thoát. Chính vì yếu tố này cho nên có thể nói rằng Giải thoát sẽ hết khổ nhưng hết khổ không chắc đã giải thoát. Và từ ý kiến trên của anh Vo Truoc thì rõ ràng anh đã đề cập đến một phương pháp diệt khổ khác với phương pháp của Đạo Phật. Nếu như vậy thì chẳng khác nào bàn đến cách qua sông bằng hai thuyền, mỗi chân đứng một thuyền, thế thì sẽ chẳng những đi chậm hơn mà còn mệt mỏi hơn thậm chí ít đạt đến đích hơn và dễ bị tai nạn. Cũng thế, anh Vo Truoc một mặt thì nói là đạo Phật là đạo diệt khổ một mặt thì muốn đưa ra một phương pháp khác với Phật Giáo. Dựa trên ý kiến của anh Vo Truoc đã nói, không trich dẫn ở trên; anh lại bảo rằng xét cho cùng thì phương pháp của anh cũng là Phật Giáo. Nói tuy là vậy nhưng không phải nói thế nào là nó như thế ấy. Vo Truoc: "Thế mà do câu chấp, mắc vào văn tự, kinh sách, chẳng xét kỹ nên không nhìn thấy điểm này, ra sức phản đối." Chẳng biết bình luận như vậy là đúng hay sai, Rubi không phản biện câu nói này. Trường hợp vấn đề sai mà bàn tới bàn vào thì càng sai.
  24. Ý trên anh Vo Truoc đã nói vừa có cái đúng vừa có cái sai, theo ý của Rubi. Cái sai của anh Vo Truoc là có ý tưởng tìm ra một phương pháp diệt khổ hiệu quả hơn. Còn cái đúng của anh Vo Truoc là thấy thực tế nỗi khổ của cộng đồng ngày càng tăng. Vấn đề là giáo lý Phật Giáo vốn đầy đủ khả năng mở bày cho mọi người sự thoát khổ, nhưng về hình thức thì có sự hạn chế, đó chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong giáo lý Phật Giáo phải thống nhất với ngôn ngữ của xã hội thì mới có thể khiến cho số đông thâm nhập kinh giáo. Nhưng hiện nay, xã hội thì dùng ngôn ngữ latinh còn Phật Giáo (Việt Nam nói riêng) thì vẫn nặng về hình thức ngôn ngữ Hán Việt. Thực tế đã và đang có tình trạng rất nhiều Phật Tử đi chùa, tung kinh nhưng là kinh chữ Hán phiên âm Latinh, cho nên tụng kinh mà không hiểu nghĩa lý của kinh. Và hơn nữa, một vị Thầy mà giỏi chữ Hán thì được coi là giỏi về Phật Pháp, nhưng cũng có thể giỏi chữ Hán nhưng thực tế lại không thông được ý Kinh. Trong trường hợp giỏi về Hán Ngữ nhưng không thông được Ý Kinh mà vẫn được coi là vị Thầy giỏi thì đây chính là nguyên nhân gây ra sự hạn chế về phương diện Phật Giáo diệt khổ cho Chúng Sinh. Có thể nhiều trường hợp do vấn đề ngôn ngữ mà nhiều Thầy không thể giảng pháp trường kỳ cho số đông phật tử. Phật tử không biết chữ nhưng nếu được nghe nhiều thì dần dần vẫn có thể ứng dụng thuần thục vào cuộc sống, nhưng đi chùa thường xuyên mà không được nghe pháp, đa phần là làm công quả và cúng bái cầu khấn như vậy thì đâu thể hết phiền não. Và như vậy thì họ đi chùa chỉ là để cho thanh thản phần nào chứ khi trở về nhà lại chẳng áp dụng được gì từ giáo lý nhà Phật vào cuộc sống. Tóm lại, ý của Rubi là làm sao để nhiều người hiểu được sâu rộng nghĩa lý của Kinh Phật thì thực tế họ sẽ bớt khổ hơn. Còn như anh Vo Truoc, tuy là có thiện tâm và không bị ngăn ngại về ngôn ngữ với số đông quần chúng, nhưng dù thế nào anh cũng không thể giảng hết bộ kinh này đến bộ kinh khác cho số đông nghe. Một điểm đáng chú ý là có một hình thức hoằng pháp đang diễn ra rất hợp lý, đó chính là những vị có học, thông thạo Hán Ngữ lại chuyên tu và thường xuyên giảng Kinh cho Phật Tử nghe, mỗi thời giảng pháp thì lại được ghi lại thành tài liệu dươi dạng Video hay Audio. Như vậy, khi giảng lại có nhiều người chăm chú nghe thì nhất định vị giảng sư sẽ lên tinh thần và bài giảng cũng được chuẩn bị kỹ hơn và sâu hơn, các tài liệu sau khi tổng hợp được phát hành thì nhiều người khác muốn học và tìm hiểu cũng dễ dàng hơn. Và thực tế thì phương pháp này đang rất hiệu quả. Ngoài ra một yếu tố đem lại hiệu quả cho người tu Phật là hình thức ngồi thiền hay ngồi niệm Phật. Bây giờ nhiều người rất ham tu nhưng không ai hướng dẫn họ ngồi tu thì đó cũng là một việc thiếu sót và ảnh hưởng nhiều đến kết quả trong thực tế.