hoangnt
Hội viên-
Số nội dung
1.909 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
6
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by hoangnt
-
Có nhiều tranh luận khác nhau về Thái Tuế, đó là có phải Mộc Tinh hay không? Theo tôi, 100% đó chính là Mộc tinh. Từ định vị này, chúng ta mới xác định nên bảng Lục thập hoa giáp (sau khi đã đổi chỗ Tốn Khôn). Nếu không biết được điểm này, rất khó đi sâu vào tổ hợp các hệ tương tác từ vũ trụ tới trái đất và con người. Tuy nhiên, chu kỳ Mộc tinh theo thiên văn hiện đại là 11.86 năm, không chẵn 12 năm thì tại sao lập được quy tắc này? Các độ lệch thời gian được tự hiệu chính trong các quy luật tương tác và một số khu vực gọi là "Đới" chưa được tính tới giữa Mộc tinh và các hành tinh khác, ta gọi là: Mộc đới hỏa chẳng hạn. Tự thân Hệ Mặt trời đã điều chỉnh chu kỳ này.
-
Do đổi chỗ hai sao Tử Vi và Thiên Phủ, cho nên bảng nào mà có tên sao Thiên Phủ cũ (tức Tử Vi mới - Bắc Cực cùng hướng với chòm sao Bắc Đẩu) ở phía dưới ứng phía cung Càn (bắc) là chính nó. Do chúng ta đã xác định được định tính của Đương Số, cho nên chỉ có duy nhất 1 bảng an sao Thiên Phủ theo Tử vi đẩu số Thái Thứ Lang mà thôi, vì dụ như một người dù là nam hay nữ khi đứng dưới mặt trời cùng một vị trí đều chịu nhiệt như nhau. Khi an Mệnh và an Thân: chúng ta thấy, mệnh và thân an ở cung đối xứng nhau qua tâm bàn tử vi, điều này chứng minh Mệnh khắc Thân (Cường độ của Mệnh >>> Thân) vể mặt tổng thể, do định vị qua Tháng và Giờ sinh, bắt đầu từ tháng Giêng - cung Dần chứng tỏ có mối liên quan đến Tháng - vòng quay mặt trăng và Giờ - Tự quay của trái đất, điều này chỉ ra Thân phụ thuộc rất lớn vào "từ trường trái đất và mặt trăng". Từ đó, dữ liệu về quy luật tương tác định nên Các vòng an sao khả năng như sau: - Lộc Tồn an theo Can ứng với 10 cung Địa chi (không ở các cung hành Thổ) - an theo Can của năm sinh (Thiên can): Tương tác từ ngoài Hệ Mặt trời. - Thái Tuế an ở cung Tý - an theo Chi của năm sinh (Địa chi): Tương tác từ Hệ Mặt trời. - Trường sinh an theo Cục - phụ thuộc quy tắc từ an Mệnh từ cung Dần - tháng Giêng, theo tháng thuận rồi giờ nghịch để định: Tương tác từ Mặt trăng và Tự quay quanh trục của mình - Trái đất. Độ lớn của tương tác, dĩ nhiên: Mạnh nhất từ ngoài Hệ Mặt trời -> Hệ Mặt trời -> Mặt trăng - Tự quay. Giữa Mặt trăng và Tự quay có mối quan hệ chặt chẽ, cầm xem xét kỹ lưỡng hơn. Nếu xem xét tương tác từ ngoài Hệ Mặt trời, thì Thiên can có phối được với Hậu thiên Bát quái - Hà Đồ hay không???
-
Nếu như vậy, sự khởi động ban đầu của lá số Tử vi là an sao Thiên Phủ đầu tiên (dịch nghĩa là Cung Trời, hay Nhà Trời), sau đó mới tới sao Tử vi (hai sao này đối xứng qua trục Dần Thân - trục vuông góc với trục Thiên cực bắc, thiên cầu). Cũng chú ý, theo nội dung chủ đề thì an Mệnh cũng bắt đầu quy ước định vị là bắt đầu từ cung Dần - một điểm trên trục Dần Thân đã nói ở trên. Ẩn nghĩa việc an sao Tử Phủ trước trong lưu ý: phải định vị phương Nam tức Nam Cực (Nam Tào) trước, "vua khi chầu phải quay mặt hướng nam". Nam Tào là "Vua Tương Lai" tức lá số Tử vi nói về tương lai. Tôi kiểm tra sự phối hợp giữa sao Tử Vi và sao Thiên Phủ theo Tử vi đẩu số tân biên - tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang thì khi an sao Thiên Phủ (tức Tử Vi cũ) trên bản đồ - đặc biệt là có 2 bản đồ để an sao Thiên Phủ (theo quy ước cũ Hậu thiên Bát quái - Hà đồ: Càn phía dưới, Khôn phía trên), vậy cái nào là chuẩn đây??? Do đổi chỗ hai sao Tử Vi và Thiên Phủ, cho nên bảng nào mà có tên sao Thiên Phủ cũ (tức Tử Vi mới - Bắc Cực cùng hướng với chòm sao Bắc Đẩu) ở phía dưới ứng phía cung Càn (bắc) là chính nó: phải chăng có 2 bảng an sao Thiên Phủ (cũ) là vấn đề của Tử Vi trong phân tích logic??? Các vòng an sao: Lộc Tồn - an theo Can của năm sinh (Thiên can) Thái Tuế - an theo Chi của năm sinh (Địa chi) Trường sinh: an theo Cục - phụ thuộc quy tắc từ an Mệnh, theo tháng thuận rồi giờ nghịch để định: từ đó này sinh một sự lưu ý khả năng, đây là tương tác từ Mặt trăng (đường Bạch đạo) và sự quay tự thân Trái đất quay trục của nó. Vòng này và hai vòng trên không liên quan đến "an Thân" của đương số.
-
"Tác giả Thiên Lương đã có quan niệm về vòng thái tuế, trong quan hệ với hai vòng lộc tồn và vòng tràng sinh. Tác giả đã đặt vấn đề: "Hai mươi năm gần đây, lần chắp nối lại tơ duyên với Tử Vi lần cuối, tự đặt câu hỏi tại sao lại 3 vòng: Thái Tuế, LộcTồn, Tràng Sinh. Sao không 2 vòng, 4 hay 5 vòng. Rồi tìm ngay nguyên nhân nào sinh ra vòng Lộc Tồn, Thái Tuế, và Tràng sinh. Thấy ngay đáp ứng do Thiên can, Địa chi và Nạp âm của tuổi. Tưởng Thanh nhân phân tách đời thế nhân không phải là sơ sài, thật là đầy đủ." Từ tư tưởng này, cụ Thiên Lương cho rằng ba vòng lộc tồn, thái tuế và tràng sinh lần lượt tương ứng với ý nghĩa mỗi vòng là đại diện của một Tài trong tam tài thiên – địa – nhân. Đó là: vòng Lộc tồn là vòng thiên can, vòng thái tuế là vòng địa chi, và vòng tràng sinh là vòng nhân sinh. Bởi vòng lộc tồn xác định can niên sinh, vòng thái tuế xác định bởi chi của tuổi. Vòng tràng sinh xác định bởi nạp âm của tuổi. Chúng ta thấy ngay tác giả Thiên Lương đã sai cơ bản ngay từ đây. Lần lẫn cho rằng vòng tràng sinh xác định bởi nạp âm của tuổi. Chúng ta có thể kiểm tra trực tiếp, vòng tràng sinh được xác định bởi nạp âm của cung an mệnh, có tên gọi là Hành của Cục. Chứ không phải được xác định bởi ngũ hành bản mệnh. Nay có thể có người, để bảo vệ cái ý nghĩa vòng tràng sinh là vòng của tài nhân, bên cạnh vòng thiên và vòng địa tương ứng lộc tồn và thái tuế. Biện lý rằng, vòng tràng sinh được xác định bởi ngũ hành nạp âm. Do nạp âm là sự phối hợp của thiên can và địa chi, vì thế mà tổ hợp thiên can, địa chi và nạp âm của nó cho ta một tam tài. Thưa rằng, đúng như vậy. Một tổ hợp thiên can địa chi và nạp âm cho ta một tam tài, trong tam tài vũ trụ thiên địa nhân có thập thiên can, thập nhị chi và lục thập hoa giáp. Cấu trúc tương ứng, cho phép mỗi ngũ hành nạp âm thuộc tam tài thiên địa nhân với mỗi can và mỗi chi tương ứng, chứ không có chuyện một nạp âm xác định được bởi bất cứ một cặp can chi bất kỳ nào khác. Bởi vậy, ba vòng lộc tồn, thái tuế, và tràng sinh, vốn nó không phải là một hệ thống tam tài cho một lá số. Bởi vậy, khi xét một lá số xác định, ba vòng này không thể đóng vai trò đó là ba vòng thiên địa nhân của đương số được. Từ lý do này, khi giải đoán, chúng ta không được phép râu ông nọ cắm cằm bà kia. Cho rằng đương số đứng trong tam tài, với đại diện của tam tài là ba vòng, lộc tồn, thái tuế, và tràng sinh. Từ đó mà nói, không được xem có sự tồn tại của cái gọi là đắc hay hẵm ba vòng này, tương ứng khi mệnh có thái tuế, lộc tồn và tràng sinh đóng hay thuộc tam hợp của chúng. Để mà nói, đắc được ba vòng, đương số được thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đó là một ngộ nhận căn bản. Không chỉ là đưa chúng ta tới sự giải đoán sai, mà còn sai lầm về minh triết sâu sắc. Bẻ cong lý luận của tử vi. Đẩy lý luận của tử vi vào chỗ suy luận chủ quan. Trong sự bố trí lại các sao của chòm Tử vi và Thiên phủ tương ứng qua chòm sao Bắc Đẩu và Nam Đẩu cùng Bắc Cực, thì lúc này theo cổ thư sẽ phải đảo ngược lại, sao Tử Vi an theo sao Thiên Phủ và sao Thiên Phủ an theo sao Tử Vi. Đồng thời, có một hoặc 2 sao trong từng nhóm đổi lại tên và chức năng tương ứng trong 110 sao. Nếu như vậy, sự khởi động ban đầu của lá số Tử vi là an sao Thiên Phủ đầu tiên (dịch nghĩa là Cung Trời, hay Nhà Trời), sau đó mới tới sao Tử vi (hai sao này đối xứng qua trục Dần Thân - trục vuông góc với trục Thiên cực bắc, thiên cầu). Cũng chú ý, theo nội dung chủ đề thì an Mệnh cũng bắt đầu quy ước định vị là bắt đầu từ cung Dần - một điểm trên trục Dần Thân đã nói ở trên. Ẩn nghĩa việc an sao Tử Phủ trước trong lưu ý: phải định vị phương Nam tức Nam Cực (Nam Tào) trước, "vua khi chầu phải quay mặt hướng nam". Nam Tào là "Vua Tương Lai" tức lá số Tử vi nói về tương lai.
-
Tử Vi là sao chủ của chòm sao Tử Vi gồm có sáu sao: Tử Vi, Liêm Trinh, Thiên Đồng, Vũ Khúc, Thái Dương, Thiên Cơ. Sao Tử Vi là một trong 14 chính tinh và còn là sao chính trong khoa tử vi nên còn gọi là đế tinh (sao vua) và được an đầu tiên trong lá số tử vi. Hai chòm sao Tử Vi và Thiên Phủ hợp lại để tạo thành 14 chính tinh (sao chính) trong lá số tử vi. Trường hợp một cung trên lá số không có chính tinh thì được gọi là cung Vô Chính Diệu tức là cung này không có sao chính tọa thủ. TỬ VI Phương Vị: Cả Nam lẫn Bắc Đẩu Tinh ??? Tính: Dương Hành: Thổ Loại: Đế Tinh Đặc Tính: Quyền Uy, Phúc Đức, Tài Lộc Tên gọi tắt thường gặp: Tử Sao Tử Vi được an theo cục và ngày sinh. Sự kết hợp Bắc Đẩu và Tử vi do cùng hướng = chòm Tử Vi (8 sao), còn lại Nam Đẩu gọi là chòm Thiên Phủ (6 sao): các sách Tử vi ghi nhận khác nhau cả. Tử vi hoàn toàn khoa học của Đằng Sơn cho rằng sao Tử Vi không "phụ thuộc" bất cứ sao nào, kể cả Thái Dương, vượt lên tất cả. Theo trích dẫn ở trên, sao Tử Vi mang thuộc tính Dương Thổ, nhiều sách cũng ghi nhận vấn đề này nhưng không thể giải thích rõ. Chắn chắn, Tử Vi mang thuộc tính Âm Thổ.
-
Cùng vòng Thái Tuế, thì vòng Lộc Tồn và Tràng Sinh cũng có 12 sao: đây là quy luật ứng 12 cung (có nơi vòng Bác Sĩ thay Lộc Tồn - Lộc Tồn là tên gốc). Các vòng này, về bản chất là đại diện cho hệ tương tác nào? Thái Tuế: Mộc Tinh cho phép suy đoán quy tắc tương tác từ Hệ mặt trời (hành tinh) tới trái đất ứng với năm sinh ra. Sự kết hợp Bắc Đẩu và Tử vi do cùng hướng = chòm Tử Vi (8 sao), còn lại Nam Đẩu gọi là chòm Thiên Phủ (6 sao): các sách Tử vi ghi nhận khác nhau cả. Tất cả, đều phải quay trở lại hiểu được bản chất Lục thập hoa giáp (sau khi đổi chỗ Tốn Khôn) -> phải hiểu Ngũ vận lục khí -> phải hiểu Thiên can và Địa chi -> 5 trạng thái giữa Thiên khí và Địa khí (chi) -> điểm mốc xuất phát của Thiên (Giáp Ất), điểm mốc xuất phát của của Địa (Tý Sửu) và điểm mốc xuất phát của của Nhân (??? - hành Kim trong cổ thư) + Sinh Vượng Mộ. Quy tắc Thiên (Ngũ hành tương sinh liên tục) trước Địa sau -> Địa (Hà đồ với trục Tý Ngọ làm mốc định hướng) trước Nhân sau --->>> khởi điểm làm mốc Nhân sinh phải khắc Thiên. Không có sách nào, ai đó ghi nhận: Thiên can này là từ "Vũ trụ" hay từ "Hệ thiên văn nào" chẳng hạn Hệ Mặt trời!
-
Tử Vi - Những Cách Nhìn Khác Nhau Về Một Số Sao (II) Tác giả: Mộc Công Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương Chỉ có Tử Vi Việt là đưa đủ vào 12 sao của vòng Thái Tuế. Và đặc biệt Tử Vi Việt còn có thêm sao Thiên Không luôn an cùng Thiếu Dương. Tất cả những sách Tử Vi được xem là chính tông đều ghi chép vòng Thái Tuế gồm có 5 sao: Thái Tuế, Tang Môn, Bạch Hổ, Điếu Khách và Quan Phù. Không hiểu từ đâu và do ai mà vòng Thái Tuế của Tử Vi Việt có đủ 12 sao kèm theo sao Thiên Không. Trong khi đó sao Thiên Không của Tử Vi bắc phái chính là sao Địa Không của Tử Vi Việt. Những sao ăn theo Tử Vi gồm có Đào Hoa, Hồng Loan, Long Trì, Phượng Các, Kiếp Sát, Thiên Mã, Thiên Khốc, Thiên Hư.Những sao này hợp với vòng Thái Tuế để tạo ra những cách cục rất đặc trưng, mệnh có Thái Tuế tất có Long Phượng mà không có Đào Hồng, mệnh thân tạo thành thế Tang Mã Khốc Hư,... từng cách cục này có ảnh hưởng rất mạnh lên toàn bộ lá số. Ngay như 12 sao của vòng Thái Tuế khi dùng để luận đoán chủ yếu chỉ dùng đến 5 sao đã kể trên kèm theo Khốc Hư, Đào Hồng, Long Phượng, và Thiên Mã, những sao như Tứ Đức, Kiếp Sát, Thiếu Dương, Thiếu Âm, ... hầu như rất ít dùng để luận đoán vì tính chất của nó không rõ ràng, mỗi người nói mỗi kiểu, đến khi xảy ra vận hạn không giải thích được thì lại cứ viện vào những sao này để lí giải, thật là rối rắm đâu thể nào làm khuôn mẫu được. Cho nên dựa trên những nghiệm lý trên có lẽ khi xem Tử Vi chúng ta nên làm theo nguyên tắc là 1 nhóm nhỏ các sao quan trọng sẽ quyết định đến 90% thông tin về lá số, tất cả những sao còn lại chỉ là sự phụ trợ thêm mà thôi. Những sao quan trọng này bao gồm: 14 chính tinh, lục sát, Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt,Tứ Hóa, Thái Tuế và những sao đi theo, Lộc Tồn và một số sao đi theo. Nó là xương sống của Lá số, còn những sao còn lại chỉ là phụ trợ. Xem như vậy sẽ đơn giản hơn cho người học, mà thông tin luận đoán cũng sẽ chính xác hơn. Lá số Tử Vi nó là tổng hợp tương tác của Năm, Tháng, Ngày, Giờ lên Lá số, trong đó chỉ duy nhất có 14 chính tinh là phải dùng hết cả 4 tương tác. Các sao theo Giờ, Tháng thực chất là tương đương nhau, qua đó chúng ta có thể thấy những sao đó là thông nhất của 2 dữ kiện Giờ và Tháng. Còn lại địa chi năm sinh đó là Thái Tuế. 5. Tả Hữu và chữ "ĐỚI" trong Ngũ Hành: Như đã viết ở trên, Tả Hữu khởi an ở hai cung Thìn Tuất theo tháng sinh. Ý nghĩa của hai cung Thìn Tuất cũng đã nói rõ một cung là nơi mặt trời mọc vào ngày Đông Chí, một nơi là mặt trời lặn vào ngày Hạ Chí, một nơi là Thủy vượng, một nơi là Hỏa vượng. Tính của Thủy là nhuận hạ, tính của Hỏa là viêm thượng cho nên Tả Phù khởi ở Thìn được xem là thuận, biểu lộ cho một tính cách nhẹ nhàng, tượng cho Văn còn Hữu Bật khởi ở Tuất được xem là nghịch, biểu lộ cho sự mạnh mẽ, tượng cho Võ. Khởi từ cung Thìn coi là tháng Giêng, ngày đông chí lại luôn rơi vào thàng Tý trong tự nhiên, cho nên tháng 1 của sao Tả Phù chính là tháng Tý trong tự nhiên, tháng mà Thủy cực vượng. Tương tự như vậy tháng 1 của Hữu Bật chính là tháng Ngọ, khi mà Hỏa cực vượng. Đặc tính của Thủy và Hỏa đều là sự nhanh nhẹn, và quyết liệt, cho nên khi Mệnh ở Thìn Tuất có Tả Hữu đó là người rất tháo vát và nhiều câu phú của Tử Vi khi nói về Tả Hữu cũng nói về tính tháo vát khi có Tả Hữu đóng mệnh. Tả Hữu vốn hành Thủy, Hữu Bật vốn hành Hỏa. Đến tháng trọng xuân trong tự nhiên (tức là tháng 2) hay là tháng 4 của Tả Hữu thì Tả Hữu đồng cung tại Mùi. Đến tháng trọng thu trong tự nhiên (tức là tháng 8) hay là tháng 10 của Tả Hữu thì Tả Hữu đồng cung tại Sửu. Trọng xuân thì mộc vượng, cho nên người có tướng Mộc cách thì đầy đặn, cao; phú Tử Vi cũng có câu Tả Hữu cư Mệnh vi trọng hậu, đó chẳng phải là để chỉ người Mộc vượng đó ư. Ngược lại trọng Thu thì kim vượng, chủ về cứng rắn quyền hành, cho nên phú Tử Vi cũng có câu nói Tả Phù, Hữu Bật vị đến tam thai, đây chẳng phải là tính của Kim ư. Như vậy bản thể Ngũ Hành của Tả Hữu cũng thay đổi theo 4 điểm quan trọng nhất của một năm : trọng xuân, trọng thu, trọng hạ và trọng đông. Tại 4 vị trí này Tả Hữu đều ở những cung Tứ Mộ, cho nên mới nói 4 mộ cung Ngũ hành tạp vì táng chứa đầy đủ ngũ hành. Và để mô tả cho Ngũ Hành có sự biến động, người xưa dùng chữ ĐỚI, và đó cũng là nguyên nhân vì sao một số sách Tử Vi ghi Hữu Bật hành Thổ đới Hỏa, và nhiều ví dụ khác. Qua đó cũng có thể thấy, khi xem về Tả Hữu, cần biết rõ, tháng sinh của mình để an Tả Hữu tương ứng thật sự với tháng nào trong tự nhiên để đoán về tính cách của Tả Hữu. Ví dụ sinh tháng 9 âm, Tả Phù an ở Tý, tháng 9 của Tả Hữu tức là tháng 7 trong tự nhiên, Kim vượng, lúc này nếu có Tả Hữu thủ Mệnh nó sẽ mang đặc tính của quyền lực, đương số sẽ không còn tính trọng hậu nữa mà sẽ là người quyền bính, cứng rắn, đặc tính này gia giảm, tăng lên và biến đổi còn phải tùy thuộc và chính tinh đi kèm. Tả Hữu lúc này sẽ có đặc điểm của một quyền tinh. Như vậy cầm một lá số Tử Vi lên, nhìn vị trí của Tả Hữu có thể cho ta thấy cả một sự biến đổi của Ngũ Hành trên lá số, một bức tranh của Nguyệt lệnh. 6. Xương Khúc Xương Khúc như đã nói ở trên nó chính là cặp sao đối chọi với Không Kiếp. Đã có Không Kiếp ở Mệnh tất không thể có Xương Khúc, cả 4 sao đều có thể an theo cả ngày sinh và tháng sinh. Không Kiếp là sát tinh hạng nặng vậy còn Xương Khúc thật sự là gì, liệu nó có mang cái ý sát tinh hay không? Xương Khúc nổi bật nhất của nó là vai trò hỗ trợ giống như Tả Hữu và Không Kiếp, đi kèm nhiều cát tinh thì sẽ tăng sự cát lên, đi kèm nhiều hung tinh thì Xương Khúc sẽ hỗ trợ cho cái hung, ví dụ đi kèm chính tinh miếu vượng Nhật Xương vị đến Tam thai, đi kèm dâm tinh Xương Riêu là cách dâm dật.... như vậy bản chất của Xương Khúc không phải cát không phải hung mà phải xem nó đi kèm cùng những tinh đẩu nào để mà luận đoán. Đó là đặc tính nổi bật của Xương Khúc. Xương Khúc có hoàn toàn như nhau? Không hoàn toàn như nhau. Cả 2 sao đều mang nghĩa là duyên dáng có tài ăn nói khi đi kèm những sao hùng biện như Thái Tuế, Lưu Hà, nhưng Văn Xương nó còn mang nghĩa là bằng sắc trong khi Văn Khúc thì không? Sao Văn Xương luôn có Thai, Cáo đi cùng đó là chỉ bằng sắc, ấn tín tài năng đã được công nhận một cách chính thức. Ngoài ra an theo Xương Khúc còn có bộ Quang Quý chủ về quý nhân ân điển. Như vậy chỉ một bộ Xương Khúc mà đã có đến 4 sao an theo Thai Cáo Quang Quý, Tả Hữu thì có Thai Tọa an theo, trong khi đó KK lại chẳng có sao nào an theo nó cả. Khởi an từ trục Tỵ Hợi là nơi nghiêng lệch hẳn về âm dương, còn trục Thìn Tuất là nơi nhất âm nhất dương sinh nơi La Võng kìm hãm, đó chính là đặc điểm nổi bật của KK là sự mạnh liệt và nhanh bất ngờ, còn của XƯơng Khúc Tả Hữu là sự từ từ nhưng vững chãi. Tử Vi là vậy làm gì có chuyện cát tinh cứu giải, hung tinh gây họa, sao nào cũng là hung mà cũng là cát, chúng tổ hợp hòa quyện vào nhau khăng khít để tạo nên sự mã hóa tuyệt vời cho số mệnh của con người thông qua năm, tháng, ngày , giờ sinh... còn tiếp ... Cùng vòng Thái Tuế, thì vòng Lộc Tồn và Tràng Sinh cũng có 12 sao: đây là quy luật ứng 12 cung (có nơi vòng Bác Sĩ thay Lộc Tồn - Lộc Tồn là tên gốc). Các vòng này, về bản chất là đại diện cho hệ tương tác nào? Đới: nơi giao nhau của các trường tương tác các hành tinh: như giữa mặt trăng - mặt trời, mặt trời - ngoài hệ mặt trời... >>> phải chăng còn có các Đới của Thất Tinh nữa.
-
14 chính tinh: - Vòng Tử Vi có 6 sao: sao Tử vi, Thiên cơ, Thái dương, Vũ khúc, Thiên đồng và Liêm trinh. - Vòng Thiên Phủ có 8 sao: Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát và Phá quân. Nếu chúng ta quy ước 14 chính tinh như trên là không thể chính xác rồi, theo tôi như dưới đây, căn cứ một phần vào Tử vi tổng hợp của Nguyễn Phát Lộc và dựa trên cáo chòm sao trên bầu trời (36 Thiên Cương): Trung Thiên: Sao Tử Vi tức Sao Bắc Cực trong chòm sao Tiểu Hùng. Nam Tào tinh quân tức chòm sao Nam Cực Đệ nhất Thiên Phủ cung: Tư mệnh tinh quân Đệ nhị Thiên Tướng cung: Tư lộc tinh quân Đệ tam Thiên Lương cung: Duyên thọ tinh quân Đệ tứ Thiên Đồng cung: Ích toán tinh quân. Đệ ngũ Thiên Cơ cung: Thượng sinh tinh quân Đệ lục Thất Sát (Kiếm lệnh) cung: Độ ách tinh quân Bắc Đẩu tinh quân: Bắc đẩu đệ nhất Dương Minh Tham lang tinh quân Bắc đẩu đệ nhị Âm Yinh Cự môn tinh quân Bắc đẩu đệ tam Chân Nhân Lộc tồn tinh quân Bắc đẩu đệ tứ Huyền Minh Văn khúc tinh quân Bắc đẩu đệ ngũ Đan Nguyên Liêm trinh tinh quân Bắc đẩu đệ lục Bắc Cực Vũ khúc tinh quân Bắc đẩu đệ thất Thiên Quan Phá quân tinh quân Chú ý, chỉ tên các sao mà thôi, tổng cộng 14 chính tinh. Tử vi thuộc âm thổ, chủ tinh của hệ Bắc đẩu. Về hiện tượng Tử Vi, đứng bậc chí tôn còn gọi là Đế Tọa (như vị vua). Khi luận về Tử Vi, điểm tối trọng yếu là phải thấy được những sao phò tá cho chủ tinh này. Như cổ ca viết: "Tử Vi nguyên thuộc thổQuan lộc cung chủ tinhHữu tướng vi hữu dụngVõ tướng vi cô quân" (Sao Tử Vi vốn thuộc thổChủ quan tước quyền vịCó bề tôi thì mới hữu dụngNhư vua mà không triều đình) Tử Vi - chủ tinh hệ Bắc Cực (Tiểu Hùng). Làm sao biết thuộc tính là Âm Thổ???
-
Thực ra Trung Quốc đang chỉ cho chúng ta nên làm gì Tạ Duy Anh Nguyễn Trãi: “Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng.” Nguyễn Huệ: “Bọn chó Ngô kia là cái thá gì mà ta phải sợ”. Khi người Nga tiến vào bán đảo Crưm, tôi đã giật mình lo lắng cho những gian nan có thể sớm xảy ra với đất nước mình. Chắc chắn Trung Quốc sẽ lợi dụng sự phân tán của dư luận để thực hiện mưu đồ đánh úp các nước láng giềng, kịp khi thiên hạ nhận ra thì mọi việc đã xong xuôi. Tại sao Việt Nam là lựa chọn của Trung Quốc lần này để ra tay thì rất dễ lý giải. Với Philippines hay Nhật Bản, Trung Quốc chỉ e ngại Mỹ can dự và trên thực tế điều đó là khó tránh khỏi. Gây sự với Việt Nam, ngoài một chút dè chừng Hoa Kỳ, Trung Quốc biết rằng không thể dễ dàng qua mặt Nga, dù không có bất cứ cam kết đồng minh nào với Việt Nam nhưng có nhiều lợi ích kinh tế và địa chiến lược. Thế mà cả hai cường quốc này lại đang bị cuốn vào vòng xoáy khủng hoảng Ucraina. Trong khi Mỹ phải thể hiện nghĩa vụ không thể thoái thác với các đồng minh châu Âu, vì thế không thể tập trung sự quan tâm thích đáng đến các khu vực ít bị giàng buộc nghĩa vụ hơn, thì Nga phải cần đến Trung Quốc để phá thế bị bao vây. Có lẽ Trung Quốc cũng bất ngờ với cơ hội hiếm hoi này. Vì thế họ lập tức hành động như những gì chúng ta đã thấy trong 2 tuần qua. Nhưng lại phải nói ngay rằng, giàn khoan HD 981 đã được chế tạo trước đó nhiều năm, với mục tiêu duy nhất là khoan ở vùng nước sâu tại biển Đông. Nó được khởi công từ trước khi ông Tập Cận Bình long trọng cam kết với người đồng cấp Việt Nam là sẽ chỉ đạo giải quyết tranh chấp giữa hai nước trên tinh thần hữu nghị anh em, coi trọng đại cục. Còn khi ngài thủ tướng Lý Khắc Cường đích thân sang Hà Nội thể hiện tình “đồng chí” cao hơn lợi ích có được từ những tranh chấp lãnh thổ, thì giàn khoan HD 981 đã sắp hoàn tất. Cái giàn khoan khổng lồ và tốn kém đó không phải được sản xuất ra để chơi! Vì thế cho dù không xảy ra sự kiện Ucraina thì cái căn cứ quân sự nổi trá hình đó vẫn sẽ phải được hạ đặt ở vị trí hiện nay, thuộc vào tử huyệt quân sự ở biển Đông. Vì thế, nếu chỉ dừng lại ở sự kiện Ucraina như là nguyên nhân khiến Trung Quốc xâm chiếm lãnh hải Việt Nam, thì có thể chúng ta sẽ phạm sai lầm lớn trong đánh giá tình hình và đưa ra các đối sách. Khi đó chúng ta dễ nhầm lẫn giữa một hành động mang tính thời cơ của Trung Quốc, với ý đồ được họ nuôi dưỡng từ nhiều chục năm qua và lên kế hoạch đạt được nó trong hàng trăm năm tiếp theo. Loại bỏ một hành động cơ hội của Trung Quốc không quá khó, kể cả với sức mạnh quân sự hiện tại của họ. Nhưng cắt được gốc của khối ung thư tham tàn mang tên Trung Hoa mới là khó. Và rồi thế giới sẽ hiểu ra rằng, nhiệm vụ đó không chỉ của riêng Việt Nam. Nhưng từ nay đến khi nhân loại trả giá, như đã từng trả giá trong thế chiến thứ 2 (có nguyên nhân từ những toan tính ích kỷ của các quốc gia trong việc ngăn chặn Hitler) còn nhiều trò chơi lợi ích đủ làm tối mắt khiến người ta chả hơi đâu mà tính xa cho mệt người. Chỉ những ai bị tai nạn trực tiếp là phải tìm cách mà chiến đấu giành lại quyền sống. Chúng ta đang thuộc về những người yếu thế và lẻ loi như vậy trong cuộc đối đầu với Trung Quốc. Để bớt sự phân tán không cần thiết, tôi sẽ bỏ qua nguyên nhân đẩy Việt Nam đến tình cảnh phải đơn độc đối đầu với Trung Quốc như thời gian qua, vì chính chúng ta luôn dạy con cháu “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Sau đây có lẽ chúng ta nên thể hiện thái độ xấu hổ và tìm cách chuộc lỗi với Philippines qua lời lên án công khai, mạnh mẽ của ông Tổng thống Aquino trước hành động xâm lấn lãnh hải Việt Nam của Trung Quốc. Giờ đang là lúc nước sôi lửa bỏng, tôi không được phép làm bất cứ điều gì gây sự chia rẽ. Trước hết tôi đánh giá cao những ứng xử khá thông minh của chính phủ cho đến thời điểm này. Nó khớp với truyền thống của người Việt trước những mối họa xâm lăng từ bên ngoài. Chúng ta phải trù tính mọi khía cạnh để duy trì sự đối đầu có giới hạn trong nhiều ngày, thậm chí là nhiều tháng nữa, cho đến khi Trung Quốc tìm thấy một cái cớ danh dự nào đó để đưa giàn khoan ra khỏi lãnh hải. Cái cớ dễ đoán nhất là họ tuyên bố việc khoan thăm dò đã hoàn thành mục tiêu. (Việc họ đưa ra thời hạn 3 tháng là chuẩn bị trước cho tình thế phải thoái lui nếu mọi việc không như họ mong muốn và có vẻ tình hình đó đang xảy ra). Bất cứ một ý tưởng thiếu quyết tâm nào của Việt Nam lúc này đều ngang bằng với việc công nhận yêu sách của Trung Quốc với Hoàng Sa và biển Đông. Đây là cuộc chiến tranh thực sự, thử thách bản tính bất khuất của toàn thể người dân Việt. Vì tương lai của con cháu, chúng ta chỉ được phép thắng chứ không có quyền thất bại. Nếu chúng ta đặt nhiệm vụ hiện nay ngang với sự sinh tồn của quốc gia, thì phải mạnh mẽ dấn thân. Tôi tin rằng, dù còn nhiều chia rẽ, phía sau chính quyền đang là cả dân tộc với hừng hực tinh thần chống ngoại xâm. Người Việt phải tạm thời bỏ qua những bất đồng để kết lại thành một khối trước hiểm họa giặc phương Bắc, như cha ông ta đã từng làm! Hiện tại Việt Nam đang gặp khó nhiều bề, nhưng không có gì đảm bảo Việt Nam thuận lợi hơn nếu Trung Quốc lùi hành động lại một thời gian nữa. Vì thế, với cá nhân tôi, hành động quyết đoán, chớp thời cơ gây bất ngờ của Trung Quốc cũng lộ ra sự nôn nóng, hấp tấp và nhờ thế mà chính họ đã chỉ cho chúng ta nên làm gì trước khi làm gì cũng là quá muộn. Trước hết-và là điều quan trọng nhất-nó tạo ra tình thế để các nhà lãnh đạo Việt Nam buộc phải nhanh chóng thống nhất về ý chí trong đối sách với Trung Quốc. Từ nay không ai còn có thể viện dẫn “16 chữ vàng” lừa mị mà không cảm thấy xấu hổ. Trung Quốc là tác giả của dòng chữ đó và chính họ quẳng nó vào sọt rác khi đã hết tác dụng. Không còn lý do gì để bất cứ người Việt nào lại bới nó lên. Vậy là xong một hậu hoạ khôn lường. Xét trong điều kiện hiện nay, không ai làm nổi điều này cho người Việt, ngoài Trung Quốc. Trung Quốc, với hành động trắng trợn vừa rồi đã giúp chúng ta nhìn ra điểm yếu nguy hiểm của mình. Điểm yếu ấy là Việt Nam quá thụ động trong chính sách ngoại giao liên quan đến Trung Quốc. Trong khi Trung Quốc công khai ưu tiên hàng đầu quan hệ với Hoa Kỳ, nhưng Việt Nam thì không dám vì e ngại phản ứng bực bội của họ. Khi Philippines bị tầu Trung Quốc quẫy nhiễu khiến họ bắt buộc phải kiện Trung Quốc, để tránh bị đòn hội đồng, Trung Quốc muốn Việt Nam im lặng, đứng ngoài. Nếu chúng ta đủ bản lĩnh để chủ động liên kết lợi ích với Philippines, có thể cục diện đã khác. Nay chính Trung Quốc tạo cho các nhà lãnh đạo của chúng ta cơ hội vàng để thoát cái bóng u ám của họ. Không còn lý do gì để chúng ta không chủ động thảo luận chiến lược an ninh hàng hải, hợp tác quân sự với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, chủ động cùng với những nước có biển trong Asean dẫn dắt, chi phối chính sách ngoại giao của toàn khối với Trung Quốc. Có một sự thật là, nếu chính chúng ta, nước có tranh chấp nhiều nhất với Trung Quốc, lại tỏ ra nhu nhược, thì không thể đòi hỏi người khác phải cứng rắn. Tôi tin rằng, qua sự kiện giàn khoan HD 981, các nhà quân sự của Việt Nam sẽ giật mình nhận ra tầm quan trọng sống còn của phòng thủ bờ biển. Cái giàn khoan khổng lồ đó hoàn toàn có thể đóng vai trò căn cứ hậu cần cho một cuộc xâm lược quy mô lớn trên biển nhưng lại mang danh nghĩa là một cơ sở công nghiệp dân sự để tránh bị tấn công. Nếu chiến tranh xảy ra ở khu vực Trung Quốc đang hạ đặt giàn khoan, chúng ta chỉ có ưu thế hơn họ khi có một hệ thống tên lửa đất đối hạm mạnh, có tầm bắn 500 km, đặt toàn bộ Hoàng Sa trong tầm bảo vệ. Nay cũng là thời điểm để Quốc Hội Việt Nam sớm ban hành một đạo luật về hoà giải dân tộc. Không cần phải chờ sự kiện giàn khoan HD 981 cũng có thể biết trước về mức độ can dự của thế giới. Chúng ta phải chấp nhận thực tế đó, rằng sẽ chỉ có người Việt sống chết vì lợi ích của đất nước mình. Xét về dân số, chúng ta là một nước lớn, đủ sức hóa giải mọi tham vọng của Trung Quốc. Vấn đề là phải huy động được mọi ưu thế người Việt đang có. Không hoà giải dân tộc rất khó mà bảo vệ được lãnh thổ lãnh hải trước tham vọng của Trung Quốc. Và xét thực tế tao loạn, ly tán của con dân Việt nửa thế kỷ qua, phải cần đến một đạo luật về sự hòa hợp, hòa giải mới có thể giải quyết được nhiều vấn đề mà lịch sử đau thương để lại. Sau những việc cấp bách vừa nêu, việc quan trọng nhất mà Việt Nam phải làm, là tiến hành cải cách chính trị sâu rộng, toàn diện, theo hướng tiếp cận những giá trị văn minh. Chính thực tế nội tình Trung Quốc lại một lần nữa mách bảo chúng ta không được chần chừ. Thể chế chính trị hiện nay của Trung Quốc trước sau cũng là thảm họa của thế giới và của chính dân tộc Trung Hoa (chỉ riêng việc trong 50 năm qua cái thể chế ấy đã khởi động tới 3 cuộc chiến quy mô khu vực vì tham vọng lãnh thổ, tự giết hại hàng trăm triệu người Trung Quốc, hiện đang là mối nguy hiểm khôn lường cho thế giới…đã đủ là bằng chứng về điều đó). Trong khi không thể tách núi tách sông để thoát phải làm láng giềng của họ, thì điều chúng ta có thể làm là tránh xa họ về mặt chính trị. Đi theo họ, chúng ta vĩnh viễn thành cái bóng bị cớm nắng và luôn ở vào vị thế của kẻ cắp tráp. Trung Quốc làm gì cũng tính toán kỹ lưỡng. Giàn khoan HD 981 là một thử nghiệm 5 ăn 5 thua với Trung Quốc, là bước đi mang tính quyết định cho tham vọng độc chiếm biển Đông của họ nhưng cũng rất có thể là nước cờ tàn. Họ sẽ tìm cách theo kiểu cố đấm ăn xôi để chiếm đoạt của Việt Nam, Philippines…và vài nước khác một số lãnh hải rồi mới “gương mẫu” thúc giục Asean ký kết COC- thỏa thuận đang bị họ lảng tránh, câu giờ-trên cơ sở tôn trọng hiện trạng mới do họ tạo ra! Khi đó họ sẽ là người bám vào COC nhiều nhất trước khi nó hết tác dụng và bị chính họ xé bỏ để giở những trò tiếp theo. Chúng ta phải tỉnh táo để không bị mắc vào cái bẫy của họ. TDA Một quốc gia khi có Phật, Bồ Tát hạ cánh thì đối thủ chỉ có thua chứ bao giờ thắng, huống hồ là tất cả các vị từ cổ chí kim đều xuống đất này!!!. "VÔ NĂNG THẮNG"
-
Sử kí - phong thiên thư Dịch giả: Tích Dã Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Chính nghĩa: Đắp đất làm đàn ở trên núi Thái để tế trời, báo công với trời, cho nên gọi là 'phong'. Quét đất ở trên núi nhỏ dưới núi Thái để báo công với đất, cho nên gọi là 'thiện'. Nói là 'thiện' là xem như thần. Bạch hổ thông chép: "Có kẻ nói 'phong' là dây bạc dát vàng, hoặc là là dây vàng dát đá, dùng để bọc ấn tỉ." Ngũ kinh thông nghĩa chép: "Khác họ mà làm vua, dẫn đến nền thái bình, phải phong ở núi Thái, thiện ở núi Lương Phủ, vâng mệnh trời, nhận làm vua, trông coi muôn vật, nêu nền thái bình với trời, báo công với các vị thần." Đế vương thời xưa vâng mệnh trời sao lại chưa từng phong thiện? Có lẽ là không có điềm ứng mà làm việc ấy, vì chưa thấy có điềm lành thì không đến cúng tế ở núi Thái vậy. Dẫu vâng mệnh trời nhưng chẳng lập được công lao, hoặc đến núi Lương Phủ rồi nhưng đức không sáng, hoặc là dẫu đức sáng rồi nhưng lại không có ngày giờ rảnh rỗi để phong thiện, cho nên ít làm việc ấy. Truyện chép: "Ba năm không làm lễ thì lễ tất mất, ba năm không bày nhạc thì nhạc tất hỏng." Hễ gặp thời thịnh thì làm lễ phong thiện, kịp lúc suy thì ngừng. Xem việc này xa thì hơn một ngàn năm, gần thì mấy trăm năm, cho nên lễ này đã bỏ ngỏ mai một, đều không thể biết rõ mà ghi lại được. Thượng thư chép: "Vua Thuấn nhòm ống tuyền ki ngọc hành để sắp đặt thất chính." [1] Do đó nhận điềm lành ở Thượng Đế, đốt đồ lễ để cúng tế lục tông, [2] cúng tế sông núi, cầu đảo các vị thần, thu lấy năm miếng ngọc đẹp, [3] chọn ngày lành tháng tốt, gặp mặt các chư hầu bốn phương rồi mới trả ngọc đẹp cho họ. Vào tháng hai hằng năm thì đi tuần thú ở miền đông, đến núi Đại Tông. Núi Đại Tông là núi Thái. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Thái còn gọi là núi Đại Tông, là núi lớn ở miền đông, ở phía tây bắc huyện Bác Thành châu Duyện ba mươi dặm. Chu lễ chép núi trấn ở châu Duyện có núi Đại Tông." Đốt củi để lần lượt cúng tế sông núi. Lại xem xét đông hậu. Đông hậu là chư hầu miền đông. Điều hòa bốn mùa, ngày tháng, lại sắp đặt cân đo đong đếm, tu sửa ngũ lễ, ngũ ngọc, tam bạch, nhị sinh, nhất tử. Vào tháng năm hàng năm thì đến núi lớn miền nam. Núi lớn miền nam là núi Hành. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Hành còn gọi là núi Cẩu Lũ, tại phía tây huyện Tương Đàm châu Hành bốn mươi dặm." Vào tháng tám hằng năm thì đến núi lớn phía tây. Núi lớn phía tây là núi Hoa. Chính nghĩa: Quát địa chí: Núi Hoa tại phía nam huyện Hoa Âm châu Hoa tám dặm. Sách xưa chép là núi Đôn Vật. Chu lễ chép là núi trấn ở châu Dự là núi Hoa." Vào tháng mười một hằng năm thì tuần thú đến núi lớn phía bắc. Núi lớn phía bắc là núi Hằng. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Hằng tại phía tây bắc huyện Hằng Dương châu Định một trăm bốn mươi dặm. Chu lễ chép núi trấn ở châu Tinh là núi Hằng." Đều cúng tế như lễ cúng tế ở núi Đại Tông. Núi lớn ở giữa là núi Tung Cao, Sách ẩn: Không nói là 'đến', có lẽ là chỗ mà thiên tử đóng đô. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Tung cũng có tên là núi Thái Thất, cũng gọi là núi Ngoại Phương, tại phía tây bắc huyện Dương Thành châu Lạc hai mươi ba dặm." năm năm lại tuần thú đến đấy một lần. Vua Vũ noi theo, truyền đến mười bốn đời sau. Vào thời vua Khổng Giáp dâm loạn ưa cúng thần, lại khinh thần, cho nên hai con rồng bỏ đi. Sách ẩn: Như Thuần xét: Quốc ngữ chép: "Hai con rồng nhổ nước bọt ở sân đình nhà Hạ." Ba đời sau đó, vua Thang diệt vua Kiệt, muốn dời miếu xã của nhà Hạ nhưng không được, bèn tác bài văn cáo Hạ xã. Tám đời sau, đến thời vua Thái Mậu, có cây dâu lúa mọc ở sân nhà, một tối cùng quấn vào nhàu, vua sợ, Y Trắc nói: "Vật gở không thắng được kẻ có đức." Vua Thái Mậu tu đức, cây dâu lúa bèn chết. Y Trắc lại khen Vu Hàm, việc cầu cúng được nổi lên từ đó. Sách ẩn: Xét: Thượng thư chép Vu Hàm là tên bầy tôi của nhà Ân. Y Trắc khen ngợi Vu Hàm. Nay đây lại chép là 'việc cầu cúng nổi lên từ đó', vậy thì Vu Hàm là cầu cúng. Nhưng Sở từ cũng nói là thần chủ cầu cúng. Có lẽ Thái sử công cho rằng Vu Hàm là bầy tôi của nhà Ân, làm việc cầu cúng các vị thần, vua Thái Mậu sai cầu đảo điềm gở câu dâu lúa kia, cho nên Y Trắc khem Vu Hàm, do đó nói 'việc cầu cúng được nổi lên từ đó'. Mười bốn đời sau, vua Vũ Đinh gặp được Phó Thuyết mà cho làm tể tướng, nhà Ân lại nổi lên, xưng là Cao Tông. Có chim trĩ đậu ở tai đỉnh mà hót, vua Vũ Đinh sợ. Tổ Ất nói: "Hãy tu đức!" Vua Vũ Đinh nghe theo, ngôi vua được yên. Năm đời sau, vua Vũ Ất coi rẻ thần linh mà bị sét đánh chết. Sách ẩn: Là nói việc vua Vũ Ất dùng cung tên bắn trời, sau đi săn ở miền sông Hà-Vị mà bị sét đánh chết. Ba năm sau, vua Trụ dâm loạn, Vũ Vương nhà Chu đánh vua Trụ. Do đó thấy rằng các vị đế vương thời xuă trước sau há chưa từng cung kính cúng tế thần linh sao? Chỉ là càng về sau có hơi coi rẻ việc ấy thôi. ... ____________ Chú giải: [1] Thất chính: Khổng Dĩnh Đạt thời Đường chú giải là Mặt Trời, Mặt Trăng cùng với ngũ tinh là thất chính. Dùng ống tuyền ki ngọc hành mà nhòm ngắm xem có cân đối hay không để đoán điềm tốt hoặc xấu. [2] Lục tông: Là sáu vị thần chủ quản sáu hiện tượng tự nhiên nào đó. Mã Dung thời Hán chú giải lục tông là trời, đất, mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông. [3] Thu lấy năm miếng ngọc đẹp: Năm miếng ngọc của năm bậc chư hầu là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Chu quan chép: "Vào ngày đông chí thì tế trời ở đàn nam giao để đón ngày dài nhất sẽ đến; vào ngày hạ chí thì tế thần đất, đều có lễ múa hát thì thần linh mới nhận được lễ tế. Thiên tử tế sông to núi lớn trong thiên hạ, xem năm ngọn núi lớn như tam công, xem bốn con sông lớn như chư hầu, chư hầu phải tế các sông to núi lớn trong nước của mình. Bốn con sông lớn là sông Giang, sông Hà, sông Hoài, sông Tế. Chỗ thiên tử tế gọi là minh đường, tích ung, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Tích ung là chỗ đào rãnh nước bao quanh ở ngoài, trong làm mái lầu." chỗ chư hầu tế gọi là phán cung. Tập giải: Trương Yến nói: "Làm to khoảng một nửa so với tích ung của thiên tử." Sách ẩn: Xét: Phục Kiền nói: "Thiên tử đào rãnh nước vòng quanh tích ung, chư hầu không đào rãnh nước vòng quanh, chỉ nửa vòng phán cung." Lễ thống lại chép rằng: "Nửa là rãnh nước, nửa là cung." Chu Công đã làm tể tướng cho Thành Vương, vào lúc tế trời thì tế Hậu Tắc cùng với trời, tế tổ tiên ở minh đường thì tế Văn Vương cùng với Thượng Đế. Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Thượng Đế là tên khác của trời. Thần không có hai chủ, cho nên phải tế ở nơi khác, tránh tế cùng Hậu Tắc." Từ lúc vua Vũ nổi lên thì sửa lại việc tế thần đất ở miếu xã, kịp lúc Hậu Tắc làm việc trồng lúa, cho nên có miếu thờ Hậu Tắc ở miếu tắc. Việc tế trời và tế thần đất có từ lâu rồi. Mười bốn đười từ sau khi nhà Chu thay nhà Ân, nhà Chu ngày càng suy, lễ nhạc bị hủy, chư hầu chuyên quyền, lại nữa U Vương bị người Khuyển Nhung đánh thua, nhà Chu phải dời sang miền đông đến ở ấp Lạc. Tương Công nước Tần đánh người Khuyển Nhung cứu nhà Chu, bắt đầu được xếp vào bậc chư hầu. Chính nghĩa: Vào năm đầu thời Bình Vương nhà Chu thì Tương Công nước Tần được phong làm chư hầu. Tương Công nước Tần đã được làm chư hầu, dựng nước ở miền tây, Chính nghĩa: Là ở huyện Tây quận Lũng Tây thời nhà Hán. Nay là phía tây nam huyện Thượng Quy châu Tần chín mươi dặm. tự cho là dòng dõi của thần Thiếu Hạo, đắp đàn tây chỉ, dùng cỗ bằng một con ngựa lưu câu, Sách ẩn: Ngựa lông đỏ râu bờm đen gọi là ngựa lưu câu. một con bò vàng, một con dê đực để tế. Mười sáu năm sau, Văn Công nước Tần sang miền đông đi săn ở vùng sông Khiên-Vị, bói quẻ để chọn chỗ đóng đô thì được quẻ lành. Sách ẩn: Xét: Địa lí chí chép: "Sông Khiên bắt nguồn từ phía tây bắc huyện Khiên rồi chảy vào sông Vị. Hoàng Phủ Mật nói: "Văn Công dời đô đến ở bên sông Khiên." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ huyện Mi ở phía đông bắc huyện Mi châu Kì mười lăm dặm là thành ấy." Văn Công nằm mơ thấy một con rắn vàng từ trên trời sa xuống mặt đất, miệng nó dừng ở bãi đất thuộc huyện Phu. Sách ẩn: Phu là tên huyện thuộc quận Phùng Dực. Văn Công hỏi Sử Đôn, Đôn nói: "Đấy là điềm báo của Thượng Đế, vua nên cúng tế." Do đó đắp đàn tế ở huyện Phu, dùng cỗ có ba con bò để tế Bạch Đế. Từ lúc chưa đắp đàn tế ở huyện Phu thì ở bên ấp Ung vốn đã có đàn tế ở ấp Ngô Dương Vũ, phía đông ấp Ung có đàn tế ở ấp Hảo nhưng đều bỏ không tế. Có người nói: "Người thời xưa cho rằng châu Ung đất cao, là chỗ ở của thần linh, cho nên đắp đàn tế Thượng Đế, miếu thờ các vị thần đều được dựng ở đấy. Có lẽ từ thời Hoàng Đế từng tế ở đấy, sau đó nhà Chu cũng tế trời ở đấy." Lời này không có chép trong sách cũ, những kẻ mặc áo buộc đai cũng không nói đến. Tập giải: Mặc áo buộc đai là cài cái hốt vào đai." Chín năm sau khi đắp đàn tế ở huyện Phu, Văn Công nhặt được một vật như tảng đá, Tập giải: Phục Kiền nói: "Ở phía bắc, có người nói là ở phía bắc núi Trần Thương." Tô Lâm nói: "Chất cứng như đá, hình giống lá phổi." bàn đắp miếu thờ ở bờ thành phía bắc núi Trần Thương. Chính nghĩa: Tam Tần kí chép: "Phía tây núi Thái Bạch có núi Trần Thương, trên núi có con gà đá, chẳng khác gì gà núi. Triệu Cao đốt núi ấy, gà núi bay ra nhưng gà đá không bay đi, buổi sáng vẫn gáy ở đỉnh núi, tiếng vang đến ba dặm. Có kẻ nói đó là gà ngọc." Quát địa chí chép: "Núi Trần Thương ở phía nam huyện Trần Thương châu Kì." Lại chép: "Miếu thờ thần gà quý ở trong thành cũ huyện Trần Thương thời nhà Hán, nay là ở phía đông huyện Trần Thương, có gà đá ở ở trên núi Trần Thương. Miếu thờ ở thành huyện Trần Thương, cho nên nói là nhặt được một vật như tảng đá ở bờ thành phía bắc núi Trần Thương mà đắp miếu thờ nó. Vị thần ở đàn tế ấy có năm không đến, có năm đến mấy lần, thường đến vào buổi đêm, sáng rực như sang băng, từ góc đông nam đến tụ ở bờ miếu, hình giống con gà trống, gáy tiếng vang lừng như tiếng gà hoang gáy vào buổi đêm. Tập giải: Như Thuần nói: "Gà hoang là chim trĩ. Lữ Hậu tên là Trĩ, cho nên tránh mà gọi là gà hoang." dùng cỗ một con bò để tế, gọi miếu Trần Bảo. Tập giải: Toản nói: "Huyện Trần Thương có miếu thờ Bảo Phu Nhân. Có người nói thường là một hoặc hai năm lại gặp với Diệp Quân. Vào lúc thần Diệp Quân đên, trên trời có tiếng sấm nổ đùng đùng, chim trĩ cũng nhân đó mà hót lên. Miếu thờ ở phía chính tây thành Tràng An năm trăm dặm." Vi Chiêu nói: "Ở huyện Trần Thương vì là vật báo mà thờ nó, cho nên gọi là miếu Trần Bảo." Sách ẩn: Xét: Liệt dị truyện chép: "Người huyện Trần Thương nhặt được vật lạ đem dâng cho vua, trên đường đi gặp hai đứa trẻ con, nói: 'Tôi tên là Vị, ở dưới đất ăn não của người chết.' Vị lại nói rằng: 'Đứa trẻ con kia tên là Trần Bảo, nếu bắt được con trống thì làm vương, bắt được con mái thì làm bá.' Bèn đuổi hai đứa trẻ con đi, liền hóa thành chim trĩ. Mục Công nước Tần đi săn, quả nhiên bắt được con chim trĩ mái, bèn đắp miếu thờ. Khi tế có lửa sáng, có tiếng của sấm chớp. Con chim trĩ trống dừng ở quận Nam Dương, có ánh lửa đỏ dài mấy chục trượng liền đến giữa miếu thờ ở huyện Trần Thương." Cho nên người đời nay gọi là miếu thờ Bảo Phu Nhân là cũng có nguyên do như vậy. Diệp là tên huyện ở quận Nam Dương. Diệp Quân là thần chim trĩ trống, cho nên bấy giờ gặp với thần Bảo Phu Nhân. Bảy mươi tám năm sau khi đắp miếu thờ ở huyện Phu là lúc Đức Công nước Tần đã lập, chọn đóng đô ở ấp Ung, bói rằng: "Con cháy sau này sẽ cho ngựa uống nước ở sông Hà." Bèn đóng đô ở ấp Ung, các miếu thờ ở ấp Ung được dựng nên từ đó. Dùng cỗ tế có ba trăm con bò ở huyện Phu. Sách ẩn: Xét: Tần bản kỉ chép: "Năm đầu thời Đức Công dùng cỗ có ba trăm con bò để tế ở huyện Phu." Nay xét: 'Một trăm' đáng lẽ là 'màu trắng. Vua nước Tần ở phía tây dùng cỗ tế màu trắng thờ thần Thiếu Hạo. Tần là nước chư hầu dẫu xa xỉ nhưng tế trời cũng có cái riêng, cũng không thể dùng ba trăm con bò để tế trời. Có lẽ là chép lầm chữ. bày cách tế phục. Sách ẩn: Xét: Phục Kiền nói: "Thời nhà Chu không đặt ra ngày phục. Vua nước Tần bắt đầu đặt ra ngày ấy, xẻ xác con chó để cúng ngăn tai hại." Hán cựu nghi chép: "Ngày phục là ngày có muôn con quỷ đi liền với Mặt Trời, cho nên ngăn mà không cầu tìm đến nó." Đông quan Hán kí chép: "Hòa Đế vừa ra lệnh vào buổi ngày phục thì che ánh nắng Mặt Trời." Lịch kị thích chép: "Ngày phục là gì? Là ngày khí của hành kim ẩn náu, bốn mùa thay nhau đều là khí sinh lẫn nhau. Cho nên hành mộc mùa xuân thay hành thủy, hành thủy sinh hành mộc. Hành hỏa mùa hạ thay hành mộc, hành mộc sinh hành hỏa. Hành thủy mùa đông thay hành kim, hành kim sinh hành thủy. Đến mùa thu thì hành kim thay hành hỏa, hành kim bị hành hỏa khắc chế, cho nên đến ngày canh phải tế phục. Ngày canh thuộc hành kim." xé xác con chó đặt ở bốn cửa thành ấp để tế ngăn sâu bọ. Sách ẩn: Xét: Tả truyện chép: "Máu sâu bọ gây hại." Nguyệt lệnh chép: "Lễ cầu mát thì phải xé xác con chó." Chú giải rằng: Xé xác con chó để cầu mát. Quỷ ác gây hại sắp hiện ra hại người, sẽ dựa mình vào cửa thành bốn phía, cho nên xé xác con chó đặt ở bốn cửa thành để tế. Phong tục thông chép: "Giết rồi xé xác con chó để cầu đảo." Đức Công lập được hai năm thì chết. Sáu năm sau, Tuyên Công nước Tần đắp đàn mật chỉ ở phía nam sông Vị để tế Thanh Đế. Mười bốn năm sau đó, Mâu Công nước Tần lập, bị bệnh nằm trên giường năm ngày không dậy; lúc nằm lại mơ nói là gặp Thượng Đế, Thượng Đế sai Mâu Công dẹp loạn của nước Tấn. Quan chép sử ghi lại mà cất ở phủ. Cho nên người đời sau đều cho là Mâu Công nước Tần lên trời. Mâu Công nước Tần lên ngôi được chín năm, Hoàn Công nước Tề đã xưng bá, hội chư hầu ở ấp Quỳ Khâu, Quát địa chí chép: "Ấp Quỳ Khâu ở trong thành ngoài phía đông nam huyện Khảo Thành châu Tào một dặm năm chục bước, là chỗ mà Hoàn Công hội chư hầu." bèn muốn phong thiện. Quản Trọng Sách ẩn: Xét: Sách Quản Tử có chép chương Phong thiện biên nhưng đã mất. nói: "Thời xưa có bảy mươi hai nhà Chính nghĩa: Hàn thi ngoại truyện chép: "Khổng Tử lên núi Thái xem những người khác họ làm vua mà đếm được số năm là khoảng hơn bảy chục người, không đếm được số năm thì có đến hàng vạn người." phong ở núi Thái, thiện ở núi Lương Phủ, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Lương Phủ ở bắc huyện Tứ Thủy châu Duyện tám mươi dặm." nhưng Di Ngô chép được có mười hai người. Ngày xưa họ Vô Hoài Tập giải: Phục Kiền nói: "Là vị vua thời xưa ở trước thời họ Phục Hi, xem ở sách Trang Tử." phong ở núi Thái, thiện ở núi Vân Vân; Tập giải: Lí Kì chép: "Núi Vân Vân ở phía đông núi Lương Phủ." Sách ẩn: Tấn chước chép: "Núi này tại phía đông bắc thành cũ huyện Mông Âm, dưới núi có đình Vân Vân." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Vân Vân ở phía tây nam huyện Bác Thành châu Duyện ba chục dặm." họ Phục Hi phong ở núi Thái, thiện ở núi Vân Vân; Thần Nông phong ở núi Thái, thiện ở núi Vân Vân; Viêm Đế Sách ẩn: Đặng Triển chép: "Con cháu dòng dõi Thần Nông cũng xưng là Viêm Đế mà lên núi tế trời." Luật lịch chí chép: "Hoàng Đế đánh nhau với Viêm Đế ở bãi Phản Tuyền." Hoàng Đế há lại đánh nhau với Thần Nông sao? Hoàng Phủ Mật nói: "Viêm Đế truyền ngôi được tám đời." Hoàng Đế phong ở núi Thái, thiện ở núi Đình Đình; Tập giải: Từ Quảng nói: "Tại huyện Cự Bình." Bùi Nhân xét: Phục Kiền nói: "Núi Đình Đình tại huyện Mâu Âm." Sách ẩn: Ứng Thiệu nói: "Tại phía bắc huyện Cự Bình hơn chục dặm." Phục Kiền nói tại huyện Mâu Âm là sai. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Đình Đình tại phía tây nam huyện Bác Thành châu Duyện ba chục dặm." vua Chuyên Húc phong ở núi Thái, thiện ở núi Vân Vân; vua Khốc phong ở núi Thái, thiện ở núi Vân Vân; vua Nghiêu phong ở núi Thái, thiện ở núi Vân Vân; vua Thuấn phong ở núi Thái, thiện ở núi Vân Vân; vua Vũ phong ở núi Thái, thiện ở núi Cối Kê; Sách ẩn: Tấn chước chép: "Vốn tên là núi Mao." Ngô Việt xuân thu chép: "Vua Vũ đi tuần khắp thiên hạ, lên núi Mao, hội bầy tôi để bày kế, đổi tên núi Mao thành núi Cối Kê." Cũng gọi là núi Miêu. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Cối Kê còn gọi là núi Hành, tại phía đông nam huyện Cối Kê châu Việt mười hai dặm." Thành Vương nhà Chu phong ở núi Thái, thiện ở núi Xã Thủ; Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Núi này tại huyện Bác." Tấn chước chép: "Tại phía nam huyện Cự Bình mười ba dặm." đều nhận ngôi thiên tử rồi mới được phong thiện." Hoàn Công nói: "Quả nhân phía bắc đánh rợ Sơn Nhung, Sách ẩn: Phục Kiền nói: "Có lẽ là người Tiên Ti ngày nay." qua nước Cô Trúc; Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ nước Cô Trúc ở phía nam huyện Lư Long châu Bình một chục dặm, là nước Cô Trúc thời nhà Ân." phía tây đánh nước Đại Hạ, qua bãi cát, buộc ngựa treo xe, lên núi Ti Nhĩ; Tập giải: Vi Chiêu nói: "Sắp lên núi thì buộc dây ngựa lại, treo móc xe lại. Núi Ti Nhĩ là núi Tích Nhĩ mà chương Tề ngữ chép." Sách ẩn: Xét: Núi này ở huyện Thái Dương quận Hà Đông. phía nam đánh đến ấp Thiệu Lăng, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ ấp Thiệu Lăng tại phía đông huyện Giao Thành châu Dự bốn mươi lăm dặm." lên núi Hùng Nhĩ Sách ẩn: Xét: Kinh châu kí chép: "Phía đông bắc hai huyện Lỗi Dương-Ích Dương có núi Hùng Nhĩ, hai đầu đông-tây đều có một đỉnh núi hình như tai gấu, nhân đó đặt tên. Hoàn Công nước Tề treo lên đó." để nhìn sông Giang-Hán. Ba lần hội binh xa, Sách ẩn: Xét: Tả truyện chép: "Ba lần hội binh mã là nói về năm thứ mười ba thời Trang Công nước Lỗ thì hội ở ấp Bắc Hạnh để dẹp loạn của nước Tống; năm thứ tư thời Hi Công thì lấn nước Sái, rồi đánh nước Sở; năm thứ sáu thì đánh nước Đặng, vây ấp Tân Thành." sáu lần họp ngồi xe, Sách ẩn: Xét: Tả truyện chép: "Năm thứ mười bốn thời Trang Công hội ở ấp Quyên, năm thứ mười lăm cũng hội ở ấp Quyên, năm thứ mười sáu thì hội thề ở ấp U; năm thứ năm thời Hi Công lại hội ở ấp Thủ Chỉ, năm thứ tám thì hội thề ở ấp Thao, năm thứ chín lại hội ở ấp Quỳ Khâu." chín lần họp chư hầu, hiệu lệnh thiên hạ, chư hầu chẳng ai trái lệnh ta. Ngày xưa ba nhà vâng mệnh trời cũng khác chi như vậy?" Do đó Quản Trọng thấy không dùng lời gì để ngăn được Hoàn Công, nhân đó nêu việc để ví, nói: "Việc phong thiện thời xưa phải lấy lúa nếp ở núi Khao Thượng, cây lúa ở ấp Bắc Lí, Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Khao Thượng là tên núi." Tô Lâm nói: "Khao Thượng, Bắc Lí đều là tên ấp." Sách ẩn: Vi Chiêu nói: "Ví để nói là không làm được". Ứng Thiệu nói: "Vua Quang Vũ đổi huyện Cao Ấp thành huyện Khao." Họ Diêu nói: "Huyện Khao thuộc quận Thường Sơn." Còn nói Khao Thượng là tên núi. để làm đĩa xôi; phải lấy một cành cỏ mao có ba gân ở miền Giang-Hoài, Tập giải: "Vốn gọi là cỏ mao thiêng." để làm nền chiếu. Phải lấy cá bỉ mục ở biển Đông, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Đều như một mắt, không liền nhau thì không bơi, gọi là cá điệp." Sách ẩn: Quách Phác nói: "Giồng hình lá lách của con bò, thân mỏng, vảy nhỏ, màu đen tía, chỉ có một mắt, hai mắt liền nhau thàng một hàng. Người miền Giang Đông ngày nay gọi là cá vương dư, cũng gọi là cá ván." lấy chim bỉ dực ở biển tây, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Đều như một cánh, không liền nhau thì không bay, gọi là chim kiêm kiêm." Sách ẩn: Xét: Sơn hải kinh chép: "Ở trên núi Sùng Ngô có một loài chim tên là 'kiêm kiêm', chỉ có một mắt, một cánh, hai con chim cặp vào nhau mới bay được, còn có tên là 'vân man'." Quách Phác chú rằng: "Nhĩ nhã chép là 'kiêm kiêm'." rồi mới có mười lăm món lễ không cần gọi mà tự đưa đến. Nay phượng hoàng, kì lân không đến, lúa tốt không mọc, lại nữa cỏ lau dại mọc rậm rạp, chim cú ác nhiều lần bay về, thế mà muốn phong thiện, chẳng phải là không nên sao?" Do đó Hoàn Công mới thôi. Năm đó, Mâu Công nước Tần giúp vua nước Tấn tên là Di Ngô về nước. Sau đó ba lần dựng ngôi vua cho nước Tấn, Sách ẩn: Ba lần lập vua nước Tấn. Xét: Là nói về Huệ Công, Hoài Công, Văn Công của nước Tấn. dẹp loạn của nước ấy. Mâu Công lập được ba mươi chín năm thì chết. Hơn một trăm năm sau đó thì Khổng Tử soạn luận lục nghệ, ghi chép qua hơn bảy chục vị vua khác họ mà làm vương đã phong ở núi Thái, thiện ở núi Lương Phủ, nhưng không nêu rõ cỗ mâm đĩa đựng đồ gì để tế, cho nên nay khó mà chép lại. Có kẻ hỏi về việc cúng tế tổ tiên, Khổng Tử nói: "Ta không biết. Muốn biết việc cúng tế thì xem người ta ở trong thiên hạ làm ra sao thì rõ như trong lòng bàn tay." Kinh Thi chép về việc vua Trụ làm vua, Văn Vương nhà Chu nhận ngôi thiên tử, làm việc không đến tại núi Thái. Hai năm sau ki Vũ Vương đánh thắng nhà Ân thì thiên hạ cũng chưa yên mà băng. Rồi thì nhà Chu truyền đến đời Thành Vương, nếu Thành Vương phong thiện thì cũng đúng lí. Kịp lúc đó, bồi thần chuyên chính, họ Quý tế trời ở núi Thái, Trọng Ni mỉa mai việc ấy. [/color=red]Tập giải: Mã Dung nói: "Theo lễ thì chư hầu tế sông núi ở trong ấp phong của mình. Thế mà bồi thần tế trời ở núi Thái là sai lễ."[/color] Bấy giờ Trường Hoằng đang làm việc giúp Linh Vương nhà Chu, chư hầu chẳng ai chầu nhà Chu. Nhà Chu sức mọn, Trường Hoằng bèn làm rõ việc cúng tế quỷ thần, bày ra cách bắt lí thủ. 'Lí thủ' là từ chỉ chư hầu không đến chầu, dựa vào việc quỷ thần để dụ chư hầu đến chầu. Nhưng chư hầu không theo, do đó người nước Tấn bắt giết Trường Hoằng. Tập giải: Hoàng lãm chép: "Mộ của Trường Hoằng ở trên núi phía đông bắc huyện Lạc Dương quận Hà Nam." Người nhà Chu nói về quỷ thần có từ thời Trường Hoằng vậy. Hơn một trăm năm sau, Linh Công nước Tần đắp đàn thượng chỉ ở ấp Ngô Dương Sách ẩn: Ngô Dương là tên ấp, có lẽ ở phía nam của một ngọn núi lớn. để tế Hoàng Đế; Tập giải: Từ Quảng nói: "Cách lúc đắp đàn mật chỉ là hai trăm năm mươi năm." đắp đàn hạ chỉ để tế Viêm Đế. Bốn mươi tám năm sau, quan Thái sử của nhà Chu tên là Đam Sách ẩn: Mạnh Khang cho là Lão Tử. Vi Chiêu xét Niên biểu thấy Đam ở sau thời Khổng Tử hơn một một trăm năm, do đó không phải là Lão Đam. gặp Hiến Công nước Tần nói: "Nước Tần lúc đầu hợp với nhà Chu, hợp rồi tách, năm trăm năm nữa lại hợp, Sách ẩn: Xét: Đại Nhan xét qua các nhà thì thấy rằng từ lúc Bình Vương nhà Chu phong Tương Công làm chư hầu đến năm thứ năm mươi hai thời Chiêu Vương là lúc nhà Tây Chu dâng đất, cả thảy là năm trăm mười sáu năm, đấy là hợp, cũng là số trọn vẹn. hợp được mười bảy năm thì có bậc bá vương nổi lên." Sách ẩn: Từ sau khi Chiêu Vương nước Tần diệt nhà Chu đến năm đầu thời Thủy Hoàng nhà Tần giết Lạo Ai là đúng mười bảy năm. Mạnh Khang nói: "Nhà Chu phong nước Tần là tách, nước Tần chiếm lấy nhà Chu là hợp. Đấy là Tương Công làm bá, Thủy Hoàng làm vương." Chính nghĩa: Tần-Chu đều là dòng dõi Hoàng Đế, đến thời Phi Tử chưa được phong tách là hợp. Hợp rồi tách là chỉ năm cuối thời Phi Tử, nhà Chu phong Phi Tử làm chư hầu, dựng nước ở nước Tần, đấy là tách. Năm trăm năm sau lại hợp là nói nước Tần của Phi Tử trải qua hai mươi chín đời vua đến năm thứ hai thời Hiếu Công nước Tần là năm trăm năm, Hiển Vương nhà Chu dẫn các quan văn võ dâng ngôi vua cho Hiếu Công nước Tần, lại kết thân với nhau, thế là hợp vậy. Mười bảy năm thì có bậc bá vương nổi lên là nói từ năm thứ ba đến năm thứ mười chín thời Hiếu Công nước Tần là lúc Hiển Vương nhà Chu phong tước bá cho Hiếu Công nước Tần, đó là bậc bá xuất hiện; đến thời Huệ Vương nước Tần xưng vương, đó là bậc vương xuất hiện. Cả thảy là năm trăm năm là từ lúc Phi Tử sinh ra vua nước Tần về sau là hai mươi tám đời vua đến năm thứ hai thời Hiếu Công, cả thảy là bốn trăm tám mươi năm, tính cả mười bốn năm sau khi Phi Tử được phong ở nước Tần là năm trăm năm. Các nhà giải thích đều sai. Ở ấp Lịch Dương có mưa vàng, Hiến Công nước Tần tự cho là điềm lành của hành kim, cho nên đắp đàn huề chỉ ở ấp Thược Dương để tế Bạch Đế. Tập giải: Tấn chước chép: "Hán chú chép là ở miếu thờ dưới núi Nhân Tiên Nhuyện Tây quận Lũng Tây miếu có hìn như luống đất trồng rau hẹ, mỗi luống đều đắp một lớp đất." Sách ẩn: Hán cựu nghi chép: "Tế tổ tiên của con người ở núi Nhân Tiên huyện Tây quận Lũng Tây, trên núi đều có người đất, dưới núi có miếu thờ, bờ miếu như hình luống rau, trong miếu đều có một đống đất." Hai mươi năm sau đó thì nước Tần diệt nhà Chu, Tập giải: Từ Quảng nói: "Cách thời quan Thái sử tên là Đam hai trăm hai mươi năm." chín cái vạc của nhà Chu bị dời vào nước Tần. Có người nói: "Sau khi miếu xã Thái Khâu của nước Tống bị mất thì cái vạc trong miếu xã ấy chìm vào sông Tứ bên huyện Bành Thành. Sách ẩn: Ứng Thiệu nói: "Mất là chìm vào đất." Một trăm mười lăm năm sau thì nhà Tần chiếm cả thiên hạ. Thủy Hoàng nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ mà xưng đế, có kẻ nói: "Hoàng Đế có khí tốt của hành thổ cho nên rồng vàng giun đất xuất hiện. Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Hoàng Đế có khí tốt của đất, cho nên đất đai xuất hiện thần linh. Giun đất rộng năm-sáu vòng, dài mấy chục trượng." Vi Chiêu nói: "Màu vàng là màu của đất, giun cũng là con vật ở trong đất, đó là điềm lành." Nhà Hạ có khí tốt của hành mộc, cho nên rồng xanh dừng lại ở ngoài thành, cây cỏ tươi tốt. Nhà Ân có khí tốt của hành kim, cho nên có bạc trồi ra từ trong núi. Nhà Chu có khí tốt của hành hỏa, cho nên có con chim đỏ bay đến. Sách ẩn: Trung hầu và Lữ thị xuân thu đều chép: "Có ánh lửa từ trên trời rơi xuống ở nhà của vua, xẹt thành con chim đỏ, năm lần đến như vậy, có đưa lúa cùng đến." Nay nhà Tần thay nhà Chu là thời của hành thủy. Ngày xưa Văn Công nước Tần đi săn, bắt được con rồng đen, đấy là điềm lành của hành thủy." Do đó nhà Tần đổi gọi sông Hà là sông Đức Thủy, lấy tháng mười mùa đông là tháng đầu năm, chuộng màu đen, thước đo lấy số sáu làm chuẩn, Chính nghĩa: Trương Yến nói: "Hành thủy là phương bắc. Hành thủy là số sáu, cho nên thước đo lấy hàng sáu làm chuẩn, sáu thước là một bước." chuộng tiếng đại lữ, chuộng làm việc theo pháp lệnh. [/color=red]Tập giải: Toản nói: "Hành thủy là khí âm, khí âm chủ việc hình phạt, cho nên chuộng pháp lệnh."[/color] Lên ngôi đế được ba năm, Thủy Hoàng đi tuần đến các quận huyện phía đông, tế trời ở núi Dịch huyện Sô, Sách ẩn: Huyện Sô vốn là nước Chu, Mục Công nước Lỗ đổi tên thành huyện Sô." Tòng chinh kí chép: "Vách núi phía bắc có bia mà Thủy Hoàng nhà Tần khắc chữ lên." khen công nghiệp của nhà Tần. Do đó vời bảy chục nhà Nho, kẻ sĩ học rộng của miền Tề-Lỗ đến ở dưới núi Thái. Trong các nhà Nho có kẻ bàn rằng: "Ngày xưa phong thiện đi xe nhẹ để tránh làm tổn hại đến cây cỏ đất đá ở trên núi; quét đất mà tế thì dùng rơm rạ làm chiếu, Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Rạ là lá lúa, bỏ vỏ để làm chiếu." Sách ẩn: Chu lễ chép: "Cúng tế thì dâng cỏ rơm." Thuyết văn chép: "Rơm là cỏ tranh. Rạ là lá lúa bỏ vỏ, lấy nó để tế trời." cách này dễ làm theo." Thủy Hoàng nghe các lời bàn đều có khác, khó làm được, do đó đó đuổi các nhà Nho. Rồi sai người làm đường xe đi, lên từ phía nam đến đỉnh núi Thái, dựng bia đá khen đức của Thủy Hoàng Đế nhà Tần, nêu rõ mình đã phong ở đấy. Rồi từ phía bắc núi đi xuống, thiện ở núi Lương Phủ. Lễ dùng để phong thiện có giống lễ mà quan Thái chúc tế Thượng Đế, nhưng che giấu mà giữ kín, cho nên người đời đều không biết được mà ghi chép lại. Vào lúc Thủy Hoàng lên núi Thái, đến giữa sườn núi thì gặp mưa gió lớn, bèn nghỉ ở dưới gốc cây to. Các nhà Nho đã bị đuổi, không được cùng dùng lễ để tế trời, nghe tin Thủy Hoàng gặp mưa gió thì đều mỉa mai ông. Do đó Thủy Hoàn bèn sang phía đông dạo ở biển, dùng lễ tế các sông to núi lớn và tám vị thần, tìm người tiên là bọn Tiện Môn. Tám vị thần đã có từ xưa rồi, có kẻ nói là từ thời Thái Công Vọng về sau đặt nên. Nước Tề vốn lấy tên là 'Tề' là từ tên thần 'Thiên Tề' vậy. Việc tế vị thần ấy đã dứt chẳng ai biết từ thời nào. Tám vị thần ấy: một là thần Thiên Chủ, tế ở suối Thiên Tề. Suối Thiên Tề có nước ao, Sách ẩn: Họ Cố xét: Tề kí của Giải Đạo Bưu chép: "Phía nam thành Lâm Truy có suối Thiên Tề, năm dòng cùng chảy, có khác với suối thường, như trời che lấy nước Tề." ở dưới núi ngoài phía nam thành Lâm Truy. Hai là thần Địa Chủ, tế ở núi Lương Phủ, núi Thái. Có lẽ là trời ưa chỗ thấp, chỗ tế thần phải ở dưới chân núi cao, trên ngọn núi nhỏ, gọi là đàn. Đất lại thích chỗ cao, phải tế thần ở gò tròn trong đầm. Ba là thần Binh Chủ, tế ở gò Si Vưu. Gò Si Vưu ở huyện Lục Giám Hương quận Đông Bình, Tập giải: Từ Quảng nói: "Thuộc quận Đông Bình." Sách ẩn: Vi Chiêu nói: "Tên huyện thuộc quận Đông Bình." Hoàng Phủ Mật nói: "Gò Si Vưu ở trong thành Khảm Hương huyện Thọ Trương quận Đông Bình." ở mé tây của nước Tề. Bốn là thần Âm Chủ, tế ở núi Tam. Sách ẩn: Tiểu Nhan cho là núi Tam Thần ở đoạn chép dưới. Họ Cố xét: Địa lí chép là huyện Khúc Thành quận Đông Lai có núi Tham, là núi Tam này, không phải là núi Tam Thần ở giữa biển. Năm là thần Dương Chủ, tế ở núi Chi Phù. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Chi Phù ở phía tây bắc huyện Văn Đăng châu Lai chín chục dặm." Sáu là thần Chủ Nguyệt, tế ở núi Lai. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Tại huyện Trường Quảng quận Đông Lai." Đều ở phía bắc nước Tề, liền đến biển Bột. Bảy là thần Nhật Chủ, tế ở núi Thành. Núi Thành liền vào biển, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Núi Thành tại huyện Bất Dạ quận Đông Lai, liền biển." Sách ẩn: Xét: Tề kí của Giải Đạo Bưu chép: "Có lẽ ở thành Bất Dạ từ xưa có Mặt Trời mọc ở buổi đêm ở trong thành, cho nên vua nước Lai dựng thành mà đặt tên là Bất Dạ." Ở cơi xa nhất phía đông bắc nước Tề để đón Mặt Trời mọc. Tám là thần Tứ Thời Chủ, tế ở đài Lang Da. Sách ẩn: Xét: Sơn hải kinh chép: "Đài Lang Da ở giữa biển Bột." Xét: Núi ấy như nền đài. Địa lí chí chép ở huyện Lang Da có miếu thờ thần Tứ Thời. Đài Lang Da ở phía đông bắc nước Tề, ó lẽ clà chỗ mà sao Tuế mọc. Đều dùng cỗ có một con bò để tế, mà thầy cúng cũng có thêm bớt, tiền ngọc cũng lẫn lộn. Từ thời Uy Vương-Tuyên Vương nước Tề có bọn Trâu Tử Tập giải: Vi Chiêu nói: "Tên là Diễn." soạn chép sự biến chuyển trước sau của ngũ hành, Tập giải: Như Thuần nói: "Sách ấy ngày nay có chép trước sau của ngũ hành. Ngũ hành đều chuyển qua lẫn nhau. Nhà Tần cho rằng nhà Chu có khí lành của hành hỏa, mà diệt hành hỏa là hành thủy, cho nên tự xem mình có khí lành của hành thủy." kịp lúc nhà Tần xưng đế thì người nước Tề tấu lời ấy lên, cho nên Thủy Hoàng chọn dùng lời ấy. Nhưng có bọn Tống Vô Kị, Sách ẩn" Xét: Nhạc Sản dẫn Giới kinh của Lão Tử chép: "Người tiên ở trên Mặt Trăng tên là Tống Vô Kị." Bạch trạch đồ chép: "Thần của hành hỏa là Tống Vô Kị." Có lẽ người này là người tiên của hành hỏa. Chính Bá Kiều, Sách ẩn: Nhạc Sản xét: Tư Mã Tương Như nói: "Chính Bá Kiều là người tiên thời xưa." Họ Cố xét: Kí châu kí của Bùi Tú chép: "Miếu thờ người tiên ở núi Câu, ngày xưa có Vương Kiều là người huyện Vũ Dương quận Kiền Vi làm quan lệnh ở huyện Bách Nhân, ở đấy tu thành tiên, không phải là Vương Tử Kiều." Sung Thượng, Tiện Môn Tử Cao Sách ẩn: Xét: Thủy Hoàng nhà Tần tìm Tiện Môn Tử Cao. đều là người nước Yên bày cách tu thành tiên, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Đều là kẻ thích cách tu thành tiên của người xưa." cởi bỏ thân xác, Tập giải: Phục Kiền nói: "Thoát xác." Trương Yến nói: "Người già thì thoát xác, cho nên xương như cởi bỏ. Trong núi ngày nay có xương rồng, người đời nói là rồng thoát xác mà bay đi." dựa vào việc thờ quỷ thần. Trâu Diễn nói về sự biến hóa của khí âm-dương mà nổi tiếng với chư hầu, nhưng những kẻ sĩ học cái cách tu đạo ấy ở miền ven biển nước Yên-Tề lại không thấu đáo được, do đó bọn a dua xằng bậy theo việc quái gở nổi lên từ đó, không biết bao nhiêu mà kể. Từ thời Uy Vương-Tuyên Vương nước Tề, Chiêu Vương nước Yên đã sai người vào biển tìm núi Bồng Lai, núi Phương Trượng, núi Doanh Châu. Đấy là ba ngọn núi thần, người đời nói là ở giữa biển Bột, cách đất liền không xa, chỉ sợ là sắp đến thì thuyền bị gió tạt mà trôi đi. Có lẽ cũng có kẻ đến được, là nơi có người tiên và thuốc tiên sống lâu không chết đều ở đấy. Muôn vật cầm thú ở đấy đều màu trắng, lại có cung điện làm bằng vàng ròng bạc trắng. Sắp đến thì nhìn từ xa như đám mây; đến nơi thì thấy ba ngọn núi thần lại ở dưới nước. Đến gần thì gió cuốn trôi đi, rút cuộc chẳng ai đến được. Các vị vua trên đời chẳng ai không vui thích đến đấy. Kịp đến thời Thủy Hoàng nhà Tần chiếm cả thiên hạ, khi đến miền ven biển thì những kẻ học đạo thành tiên nói đến việc ấy không sao kể hết. Thủy Hoàng tự cho là đến miền ven biển rồi nhưng sợ là không đến được chỗ ấy, bèn sai người đem bọn trẻ con trai gái vào biển mà tìm. Tuyền vào giữa biển, đều nêu cớ là bị gió chặn lại, Sách ẩn: Cố Dã Vương nói: "Đều tự nói chữa là gặp gió không đến được." nói là không đến được, chỉ nhìn thấy từ xa. Năm sau, Thủy Hoàng lại đi chơi ở miền ven biển, đến quận Lang Da, qua núi Hằng, theo đường từ quận Thượng Đảng đi về. Ba năm sau, Thủy Hoàng lại về phía nam đến núi Tương, rồi lên núi Cối Kê, men theo bờ biển để mong tìm được thuốc tiên của ba ngọn núi thần giữa biển, nhưng không được. Về đến đài Sa Khâu thì băng. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Đài Sa Khâu ở phía đông bắc huyện Bình Hương châu Hình ba chục dặm." ... Năm đầu thời Nhị Thế, đi tuần miền đông đến núi Kiệt Thạch, men biển về phía nam, qua núi Thái, đến núi Cối Kê, đều dùng lễ tế các núi ấy, lại dựng bia khắc chữ ở bên bia mà Thủy Hoàng đã dựng để nêu rõ công đức của Thủy Hoàng. Sách ẩn: Tiểu Nhan nói: "Các ngọn núi ngày nay đều có bia đá khắc chữ mà Thủy Hoàng và Hồ Hợi dựng nên, lời văn vẫn còn." Mùa thu năm đó, chư hầu phản nhà Tần. Ba năm sau thì Nhị Thế bị giết chết. Mười hai năm sau khi Thủy Hoàng phong thiện thì nhà Tần mất. Các nhà Nho ghét nhà Tần đốt Thi-Thư, hủy bỏ văn học, trăm họ oán pháp lệnh của nhà Tần, thiên hạ phản nhà Tần, đều nói ngoa lên rằng: "Thủy Hoàng lên núi Thái bị mưa gió lớn thổi gạt, không phong thiện được." Đấy há chẳng phải là không có đức mà lại làm việc ấy sao? Sách ẩn: Ý là Phong thiện thư có lời tựa rằng: "Có lẽ là không có điềm ứng mà làm việc ấy." Chắc là vốn có nguồn, cho nên Thái sử công dẫn lại để nói rõ. Nhà Hán nổi lên, vào thời Cao Tổ còn hèn kém từng giết một con rắn lớn. Có kẻ nói: "Rắn là là con của Bạch Đế mà người giết nó là con của Xích Đế." Cao Tổ mới nổi dậy, tế thần đất ở miếu xã làng Phần Du huyện Phong. Tập giải: Trương Yến nói: Phần là cây bạch du. Miếu xã tại phía đông bắc huyện Phong mười lăm dặm. Kịp khi đánh lấy huyện Bái, xưng làm Bái Công, lại tế Si Vưu, lấy máu bôi vào cờ trống. Cuối cùng đến tháng mười thì đến huyện Bá Thượng, cùng chư hầu đánh lấy thành Hàm Dương, lập làm Hán Vương. Nhân đấy lấy tháng mười làm tháng đầu năm, lại chuộng màu đỏ. Năm thứ hai, Cao Tổ sang phía đông đánh Hạng Tịch, rồi về vào cửa Hàm Cốc, hỏi rằng: "Ngày xưa nhà tế Thượng Đế thì tế những đế nào?" Có người đáp nói: "Có thờ bốn vị đế, đó là Bạch Đế, Thanh Đế, Hoàng Đế, Xích Đế." Cao Tổ nói: "Ta nghe nói trời có năm vị đế, mà đây có bốn, sao vậy?" Chẳng ai biết đáp ra sao. Do đó Cao Tổ nói: "Ta biết được rồi, phải đợi ta xưng đế mới đủ năm vị đế." Bèn dựng miếu thờ Hắc Đế, gọi là đàn bắc chỉ. Quan coi việc chủ tế nhưng nhà vua không tự đến tế. Gọi hết các quan coi việc lễ tế của nhà Tần đến, lại đặt quan Thái chúc, Thái tể như nghi lễ của nhà Tần. Nhân đó ra lệnh các huyện phải dựng miếu xã. Hạ chiếu rằng: "Ta rất coi trọng đàn miếu mà tôn kính việc cúng tế. Những việc tế Thượng Đế và các vị thần của sông núi đều phải đúng nghi lễ cúng tế như cũ." ]Tập giải: Từ Quảng nói: "Cao Tổ bản kỉ chép: 'Tháng sáu năm thứ hai, hạ lệnh quan coi việc cúng tế trời đất, sông núi bốn phương phải đúng như hằng năm'." Bốn năm sau, thiên hạ đã yên, hạ lệnh quan Ngự sử, quan lệnh ở huyện Phong phải sửa đắp lại miếu xã ở làng Phần Du, thường đến mùa xuân trong bốn mùa thì lấy dê-heo để tế ở đấy. Lại hạ lệnh quan Thái chúc dựng miếu thờ Si Vưu ở thành Tràng An. Ở thành Tràng An đặt ra quan chủ tế, thầy mo. Trong đó ở nước Lương có thầy mo tế các vị thần trời, đất, Thiên Xã, Thiên Thủy, Phòng Trung, Đường Thượng; ở đất Tấn có thầy mo tế các vị thần Ngũ Đế, Đông Quân, Vân Trung, Sách ẩn: Quảng nhã chép: "Thần Đông Quân là thần Mặt Trời." Vương Dật chú Sở từ nói: "Thần Vân Trung là thần mây." Đông Quân, Vân Trung cũng chép ở Quy tàng dịch. Tư Mệnh, Vu Xã, Tộc Nhân, Tiên Xuy. Ở đất Tần có thầy mo tế các vị thần Xã Chủ, Vu Bảo, Tộc Luy. Ở đất Kinh có thầy mo tế các vị thần Đường Hạ, Vu Tiên, Tập giải: Văn loại chép: "Thầy mo là người chủ tế thần theo thứ bậc. Họ Phạm nhiều đời làm quan ở nước Tấn, cho nên có thầy mo cúng tế ở đất Tấn. Dòng thứ của Phạm Tăng ở lại đất Tần đổi thành họ Lưu, cho nên có thầy mo ở đất Tần. Họ Lưu lại vào thành Đại Lương, cho nên có thầy mo ở đất Lương. Sau lại dời đến huyện Phong. Mà huyện Phong thuộc đất Kinh, cho nên có thầy mo ở đất Kinh." Tư Mệnh, Sách ẩn: Xét: Chu lễ chép: "Lấy đuốc lửa để tế thần Tư Mệnh." Thi Mi. Ở miếu Cửu Thiên có thầy mo tế các vị thần của bốn phương trời. Sách ẩn: Xét: Hiếu Vũ bản kỉ chép: "Dựng miếu Cửu Thiên ở cung Cam Tuyền." Tam Phụ cố sự chép: "Ở giữa gọi là Quân Thiên, phía đông là Thương Thiên, phía đông bắc là Mân Thiên, phía bắc là Huyền Thiên, phía tây bắc là U Thiên, phía tây là Hạo Thiên, phía tây nam là Chu Thiên, phía nam là Viêm Thiên, phía đông nam là Dương Thiên." Chính nghĩa: Thái huyền kinh chép: "Một là Trung Thiên, hai là Tiện Thiên, ba là Đồ Thiên, bốn là Phạt Canh Thiên, năm là Tối Thiên, sáu là Quách Thiên, bảy là Hàm Thiên, tám là Trị Thiên, chín là Thành Thiên." Đều hằng năm tế ở trong cung. Có thầy mo tế thần sông Hà ở huyện Lâm Tấn, thầy mo tế thần núi Nam ở núi Nam, tế vua Tần Trung. Vua Tần Trung là Nhị Thế Hoàng Đế. Tập giải: Trương Yến nói: "Tử Sản nói: 'Những người chồng, người vợ bị ép chết thì hồn ma của họcó thể nhập vào người khác để gây hại'." Hằng tháng đều tế. Hai năm sau đó, có kẻ nói là nhà Chu nổi lên mà dựng ấp Thai, dựng miếu thờ Hậu Tắc, đến nay vấy máu khắc thiên hạ. Chính nghĩa: Nhan Sư Cổ nói: "Lúc tế phải giết con bò, cho nên nói là vấy máu ra khắp thiên hạ." Do đó Cao Tổ hạ lệnh quan Ngự sử rằng: "Lệnh cho các quận ấp phải dựng miếu thờ thần sao Linh, Tập giải: Trương Yến nói: "Phần sừng trái của chòm sao Long là sao Thiên Điền, sáng rõ thì việc làm ruộng được lợi, xuất hiện vào buổi sáng thì tế sao ấy." Chính nghĩa: Hán cựu nghi chép: "Năm thứ năm, dựng lại các miếu thờ có từ thời nhà Chu, tế Hậu Tắc ở góc đông nam, để cho người dân làm ruộng tế để đền ơn của Hậu Tắc. Vào mùa hạ thì sao Long xuất hiện thì tế để cầu mưa. Phần sừng trái của chòm sao Long là sao Thiên Điền, phần sừng phải là sao Thiên Đình. Sao Thiên Điền chủ về con ngựa. Dạy dân trồng các cây lúa là Hậu Tắc. Sao Linh là thần. Thần của cung thìn là sao Linh, cho nên vào ngày nhâm thìn thì tế sao Linh ở góc đông nam." Miếu kí chép: "Miếu thờ sao Linh ở phía đông thành Tràng An mười dặm." thường hằng năm lấy bò để tế." Mùa xuân năm thứ mười thời Cao Tổ (năm 197 TCN), quan coi việc xin hạ lệnh cho các huyện thường vào tháng ba và tháng chạp mùa xuân thì phải lấy heo-dê để tế thần đất, thần lúa (Hậu Tắc), người dân phải đều tự lấy tiền của để tế. Hạ lệnh rằng: "Được." Mười tám năm sau thì Hiếu Văn Đế lên ngôi.
-
Ý muốn nói Pháp Luân Đại Pháp do thầy Lý Hồng Chí truyền giảng là Đại pháp bao trùm cả Đạo tiên và Phật pháp thì quả là chủ quan. Và thứ 2 cho rằng Phật Di Lạc sẽ đầu thai vào họ Lý thì cũng chủ quan nốt, đây gọi là cuồng tín. Sai rồi. Sư phụ Lý Hồng Chí học pháp từ nhiều thầy khác nhau, nghiên cứu thêm giáo lý Phật giáo và Tiên giáo, sau đó truyền dạy. Điều đó chứng tỏ có sự phụ của các sư phụ... cho nên, ngài chỉ là một trong những sư phụ chỉ ra "pháp mới" mà thôi. Thần chết YAMA nói: "Ngay cả đến thần thánh còn chưa hiểu linh hồn là gì, huống người thường". Còn một số tôn giáo khác, chẳng hạn Ki Tô giáo, mới ở tầm lý giải "luân lý" mả thôi, trong giáo dục xã hội có bộ môn giáo dục công dân, tuy nhiên xét mọi cái phải nên xem kết quả hay lịch sử nữa - "Sự thật chính là chân lý".
-
Sử kí - Lễ - Nhạc thư Dịch giả: Tích Dã Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Sách ẩn: 'Thư' là tên gọi chung cho ngũ kinh lục tịch. Lục thư của Sử kí là ghi chép những việc lớn của nhà nước, họ Ban gọi là 'chí', chí là ghi chép. Chính nghĩa: Trời đất yên vị, Mặt Trời-Mặt Trăng sáng tỏ, bốn mùa xoay chuyển, Âm-Dương hài hòa, mưa gió điều tiết, ngũ phẩm đầy đủ, muôn vật sắp đặt, vua tôi triều đình cao sang thấp hèn có thứ bậc, đều gọi là 'lễ'. Ngũ kinh lục tịch đều gọi là thư. Cho nên Khúc lễ chép: "Đạo đức nhân nghĩa nếu không có lễ thì không thành, giáo huấn phong tục nếu không có lễ thì không chu đáo, tranh cãi biện tụng nếu không có lễ thì không xử được." Thái sử công nói: "Lễ đẹp đẽ mênh mông thay! Sắp đặt muôn vật, nắm lấy các đức tính khác, há lại do sức người mà có ư? Chính nghĩa: Ý nói trời đất sắp đặt muôn vật, nắm lấy các đức tính, theo bốn mùa mà xoay chuyển, đều được thành công, há là do sức người thường làm được? Đấy là đức tính hay đẹp rộng lớn nồng hậu. Cho nên Khổng Tử nói: "Bốn mùa xoay chuyển thì muôn vật sinh sôi." Ta đến phủ quan Đại hành Sách ẩn: Đại hành là chức quan có từ thời Tần, chủ về nghi lễ. Cảnh Đế nhà Hán đổi gọi là Đại hồng lư, quan Đại hồng lư chủ việc nghi lễ đối đãi tân khách. trông coi về lễ nghi để xem những lễ nghi thêm hay giảm của thời Tam đại mới biết người ta dựa vào tình người mà đặt ra lễ, noi theo tính người mà định ra nghi, nó có từ xưa rồi." Đạo làm người có muôn vẻ dọc ngang, không có gì là không có khuôn mẫu, lấy nhân nghĩa để dạy dỗ, dùng hình phạt để ép buộc, cho nên người có đức hạnh nồng hậu thì được tôn quý, kẻ có bổng lộc dồi dào thì được vinh hiển, lấy đó mà tóm gọn cả nước mà nắn chỉnh muôn dân. Thân người thích ngồi xe êm, làm nên kiệu vàng càng ngọc để gắn vào mui xe; Tập giải: Chu lễ chép trong năm loại dành cho nhà vua có xe vàng. Trịnh Huyền nói: "Lấy vàng dát vào các mặt ngoài." mắt ưa nhìn năm màu, làm ra áo có thêu hoa văn sặc sỡ để mặc khoe ra ngoài; tai thích nghe tiếng chuông khánh, làm nên tám tiếng thanh để làm cho tấm lòng xao xuyến; miệng ưa các mùi vị, làm nên các mon ăn chua mặn để được mùi ngon; Tập giải: Chu lễ chép: "Dùng đến hai mươi món ăn ngon." Trịnh Huyền nói: "Món ăn làm từ bò cúng tế và cầm thú để sắm sửa cho vị ngon." trong lòng ưa đồ dùng hay đẹp, làm nên mài ngọc dũa đá để thỏa ý ấy. Cho nên làm ra xe to, chiếu cỏ, Tập giải: Phục Kiền nói: "Xe to là xe dùng đi tế trời. Chiếu cỏ là chiếu làm bằng cỏ bện lại." Vương Túc nói: "Là chiếu không có viền." Chính nghĩa: Xét: Chiếu cỏ là chiếu cỏ cói. mũ da, váy vải, Tập giải: Chu lễ chép: "Nhà vua lên triều thì đội mũ da." Trịnh Huyền nói: "Muời lăm tuổi trở lên thì đội mũ da, mặc áo vải trắng, chồng thêm tơ nõn làm váy." Chính nghĩa: Lấy da con hươu làm mũ. Xét: Gấp chồng thêm vải trắng mà làm váy. dây đàn màu đỏ, lỗ xuyên đáy đàn, Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Dây đàn màu đỏ là dây đàn bện bằng sợi tơ màu đỏ. canh nhạt rượu đen Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Canh nhạt là canh thịt không trộn thêm rau, muối. Rượu đen là nước." là để ngăn ngừa tính xa xỉ, chặn bỏ việc xấu hại. Cho nên sắp đặt thứ bậc cao thấp của vua tôi, vị trí trên dưới của triều đình, cho đến phân biệt những lễ nghi tang ma, cưới gả, ăn uống, nhà cửa, quần áo, xe kiệu của dân thường, các việc đều có phép tắc, muôn vật đều có khuôn mẫu. Trọng Ni nói: "Trong lễ tế đế từ lúc rót rượu về sau, ta chẳng muốn xem nữa." [/color]Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Trong lễ tế đế hợp, phải theo thứ tự trái phải, cho nên chủ của hủy miếu và chủ của các miếu đều được tế ở thái miếu. Rót rượu là rót rượu nếp thơm, rót vào ở thái miếu để cúng tổ tiên. Sau khi rót rượu thì sắp bày ngôi vị cao thấp, thứ bậc trái phải. Thế nhưng vua nước Lỗ làm trái nghi lễ, dẫm lên ngôi vị của Hi Công, làm loạn thứ tự trái phải, cho nên Trọng Ni chẳng muốn xem nữa."[/color] Nhà Chu suy, lễ hủy nhạc hỏng, lớn nhỏ lẫn lộn, như Quản Trọng lấy ba người con gái khác họ làm vợ, những kẻ noi theo phép tắc trong thiên hạ thì bị lấn hiếp, những kẻ xa kỉ chuyên quyền lại được vinh hiển. Đến như học trò giỏi trong nhà Khổng Tử là Tử Hạ còn nói: "Đi ra thấy cảnh tươi đẹp nhộn nhịp thì vui, vào trong nghe lời dạy của thầy cũng vui, hai cái vui ấy giằng xé trong lòng, không biết chọn cái nào?" Huống chi những kẻ có đức hạnh từ bậc trung dung trở xuống bị phong tục lầm lỗi thấm ngấm, bị lề thói tầm thường bao trùm đây? Khổng Tử nói: "Phải làm cho tiếng tăm ngay thẳng trước đã." Nhưng ở nước Vệ không dùng được. Tập giải: Luận ngữ chép: "Tử Lộ nói: 'Vua nước Vệ muốn dùng thầy làm việc nước, thầy sẽ làm gì trước?' Khổng Tử nói: 'Phải làm cho tiếng tăm ngay thẳng trước đã.' Mã Dung nói: "Sử lại các việc cho ngay thẳng." Sau khi Trọng Ni chết, những học trò học đạo chìm đăm mà không nổi lên, có kẻ đến các nước Tề-Sở, có kẻ náu ở miền ven sông biển, Chính nghĩa: Luận ngữ chép: "Thái sư tên là Chí đến nước Tề; Á Phạn Can đến nước Sở; Cổ Phương Phúc vào vùng ven sông Hà; Thiếu sư tên Dương, Chí Khánh Tương vào vùng ven biển. Vào thời Ai Công nước Lỗ, lễ hỏng nhạc hủy cho nên kẻ sĩ đều bỏ đi. là há chẳng đau lòng sao! Đến thời nhà Tần có cả thiên hạ, thu hết lễ nghi của sáu nước vào trong nước mình, chọn dùng lễ nghi tốt đẹp trong đó, dẫu không hợp nghi lễ tốt đẹp của bậc thánh hiền, nhưng tôn vua nén tôi, triều đình oai nghiêm. Chính nghĩa: Nhà Tần chọn dùng lễ nghi của sáu nước, tôn vua nén tôi, triều đình oai nghiêm, dựa theo pháp lệnh từ xưa đến nay. Đến thời Cao Tổ, nuốt gọn bốn cõi, Thúc Tôn Thông có hơi tăng thêm giảm bớt nhưng phần lớn đều noi theo nghi lễ cũ của nhà Tần. Từ xưng hiệu của thiên tử cho đến tên gọi chức quan và cung thất đều ít có thay đổi. Hiếu Văn Đế lên ngôi, các quan lại bàn muốn sắp đặt nghi lễ, nhưng Hiếu Văn Đế ưa học đạo Hoàng Lão, cho rằng nghi lễ rườm rà bồi đắp cho vẻ ngoài thì không có ích cho việc nước, làm sao mà dẫn dạy kẻ khác được, Chính nghĩa: Hiếu Văn bản kỉ chép: "Nhà vua tự mặc áo lụa thô, lệnh cho người thiếp yêu là Thận phu nhân không được mặc áo dài kéo trên đất, mườn trướng không được thêu hoa văn, sửa lại Bá lăng đều dùng đồ đất nung. Đấy là tự mình tiết kiệm làm giương." cho nên bỏ việc ấy. Vào thời Hiếu Cảnh, Ngự sử đại phu là Triều Thố học theo phái hình danh nổi rõ ở trên đời, nhiều lần can gián Hiếu Cảnh rằng: "Chư hầu làm phên dậu đều cùng bậc làm bầy tôi là phép tắc xưa nay. Nay vua sáu nước chuyên quyền theo cách riêng, không vâng theo lệnh của kinh sư, sợ rằng không truyền cho đời sau được." Hiếu Cành dùng kế của Thố, do đó vua sáu nước phản nghịch. Chính nghĩa: Sáu nước là Ngô, Sở, Triệu, Truy Xuyên, Tế Nam, Giao Tây. Hiếu Vương nước Tề hồ nghi giữ thành, quân của ba nước vây nước Tề, vua nước Tề sai Lộ trung đại phu đến báo cho thiên tử, cho nên không nói là bảy nước phản nghịch. cho rằng Thố đứng đầu gây việc ấy, thiên tử giết Thố để trừ nạn, việkc này có chép trong Viên Áng liệt truyện. Từ đó những kẻ làm quan chỉ kết giao để an phận mà thôi, chẳng ai dám bàn lại việc ấy. Kịp đến lúc nhà vua ngày nay lên ngôi, mời gọi những kẻ sĩ học đạo Nho đến, sai cùng sắp đặt nghi lễ, suốt hơn chục năm chẳng xong. Có người nói là thời xưa thái bình, muôn dân yên vui, điềm lành rủ xuống mới chọn lựa phong tục, sắp đặt nghi lễ. Nhà vua nghe nói, hạ chế cho quan Ngự sử rằng: "Những người vâng mệnh trời mà làm vua đều có cách làm cho hưng thịnh, theo cách khac nhau nhưng cùng một mối, đấy là dựa vào dân mà bày ra pháp lệnh, noi theo phong tục mà sắp đặt nghi lễ. Những kẻ bàn việc này đều khen thời xa xưa, nhưng trăm họ biết sao được? Nhà Hán cũng có việc của một nhà, nếu pháp lệnh không truyền lại thì dạy bảo con cháu thế nào được? Nếu phong tục hay đẹp thì truyền đi rộng khắp, phong tục nông cạn thì truyền đi nhỏ hẹp, không nên gắng sức sao!" Bèn đổi địch vào đầu năm Thái Sơ, Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Lúc trước theo phong tục của nhà Hạ lấy tháng giêng làm tháng đầu năm, nay đổi niên hiệu là Thái Sơ." thay màu áo, phong ở núi Thái, sắp đặt nghi lễ của trăm quan khi tế ở tông miếu, lấy đó làm phép thường truyền cho đời sau.
-
Hiện tại chúng ta vẫn chưa thấy rõ ràng cách chứng minh sự sống trên trái đất, mặc dù đã từng đặt ra bài toán xác xuất tương tác trong vũ trụ để hình thành nên nó, kể từ thời điểm khởi nguyên vũ trụ. Tại sao vậy? Bởi vì vũ trụ vô cùng, do vũ trụ vô cùng nên nó đã bao trùm mọi cái mà... chúng ta cho mọi thứ đang là, kể cả các loại toán học mô phỏng, những bài toán này tự thân nó là hữu hạn so với vũ trụ vô cùng. Xét sự kiện có nước hay sự sống trên trái đất ở 3 giai đoạn: ngay trước khi có sự sống - có sự sống - sau khi có sự sống, vậy thì giai đoạn sau khi à có sự sống có phải chăng là mầm mống cho một sự sống ngoài trái đất, trong vũ trụ bao la này? Nếu đủ thời gian??? Qua đó, giả sử rằng sự sống trên trái đất là duy nhất - chúng ta phải chứng minh tính duy nhất này như thế nào? Nếu trái đất nằm trong 1 tập hợp A như hệt mặt trời chẳng hạn, thì rõ ràng tập hợp A chỉ có duy nhất sự sống. Tiếp theo A thuộc tập hợp B lớn hơn, và phải chứng minh chỉ có tập hợp A trong tập hợp B có sự sống - đây chính là mấu chốt vì rằng, phải chăng có tập hợp A' khác có sự sống thuộc B?
-
Như Lai là gì? Câu hỏi thứ hai: Như Lai (Tathagata) là gì? Một trong các cái tên của Phật là Như Lai (Tathagata). Chúng ta có nhiều tên cho Phật, chỉ để biểu thị các phẩm chất khác nhau của phật tính. Một trong các tên được dùng nhiều nhất là Như Lai; bản thân Phật đã dùng nó. Ông ấy hiếm khi dùng từ tôi, ông ấy dùng Như Lai. Ông ấy sẽ nói, "Như Lai cư ngụ trong vườn nào đó, và thế rồi điều này xảy ra." "Như Lai đang trên đường, đi vào thành phố nào đó, thế rồi điều này xảy ra." Ông ấy sẽ dùng từ 'Như Lai' thường xuyên hơn là ông ấy dùng từ tôi. Câu hỏi là: Như Lai (Tathagata) là gì? Về từ ngữ nó có nghĩa là 'người tới như gió và đi như gió', 'thoắt tới, thoắt đi'. Đó là nghĩa từ nguyên của từ Như Lai: chỉ là làn gió thoảng chợt đến. Nó đã không có đó một khoảnh khắc trước và thế rồi nó có đó, và thế rồi khoảnh khắc tiếp nó mất rồi. Và nó không để lại dấu vết nào đằng sau. Bạn không thể thấy được làn gió, bạn chỉ có thể cảm nó. Bạn không thể thấy được phật, bạn chỉ có thể cảm thấy ông ấy. Do đó những người tới nhìn phật sẽ đi với tay trống rỗng, bởi vì bất kì cái gì họ sẽ thấy đều không là phật. Thấy thân thể tôi không phải là thấy phật. Thân thể chỉ là ngôi nhà nơi phật cư ngụ. Thấy nhà không phải là thấy người đang ngụ bên trong nó. Bạn không thể thấy được người đang cư ngụ trong ngôi nhà, bạn chỉ có thể cảm thấy người đó. Do đó những người tới với tâm trí suy nghĩ đều bỏ lỡ. Những người tới với trái tim cảm nhận lập tức cảm động, xúc động, được biến đổi. Nó giống như gió: bạn không thể thấy được nó nhưng bạn có thể cảm được nó. Bạn có thể cảm cái chạm của nó, cái mát mẻ của nó. Nó làm tươi mát thế, nó làm sảng khoái thế, nó làm cho bạn sống động thế! Ở trong phật trường là ở trong trường nơi gió này thổi thường xuyên. Nó có thể được thấy chỉ bởi các đệ tử. Với 'thấy' tôi ngụ ý nó có thể được cảm chỉ bởi đệ tử. Đó là cách nó phải được thấy. Và nó có thể được thở vào và thở ra bởi những người sùng kính. Đệ tử cảm thấy nó chạm vào thân thể mình, chơi với tóc mình, lay động quần áo mình. Người đó cảm thấy nó, người đó suy diễn rằng nó có đó. Nhưng người sùng kính thở trong nó; nó luân chuyển trong bản thể người đó, nó trở thành một phần của bản thể người đó. Học trò tới để nhìn, đệ tử tới để cảm, người sùng kính tới để hiện hữu. Bồ đề đạt ma nói: Người biết rằng mình không tới từ đâu cả và không đi từ đâu. Gió này tới từ đâu và nó đi đâu? Nó không có điểm đích... nó không có động cơ. Nó không đi bất kì đâu và không tới từ bất kì đâu; nó bao giờ cũng ở đây. Swami Ramateertha thường kể một chuyện ngụ ngôn: Có một người vô thần lớn. Trong phòng khách của mình ông ấy đã viết lên dòng chữ lớn: God is nowhere - Thượng đế không có ở đâu cả. Một hôm đứa con nhỏ của ông ấy đang chơi đùa khi ông ấy đang đọc báo. Cậu bé đang học đọc, cho nên nó thử đọc câu viết trên tường: God is nowhere - Thượng đế không ở đâu cả. Nhưng 'nowhere' là từ lớn, cho nên nó chia từ này ra làm đôi. Nó đọc, "God is now here - Thượng đế là bây giờ ở đây." Ông bố choáng - ông ấy chưa bao giờ đọc câu này theo cách đó. Toàn thể động thái đã đổi: "God is nowhere - Thượng đế không có ở đâu cả," và đứa con đã đọc là, "God is now here - Thượng đế là bây giờ ở đây." Có khác biệt lớn giữa 'không đâu cả' và 'bây giờ ở đây'! Lần đầu tiên ông ấy đọc câu đó với cái nhìn của đứa trẻ, với sự hồn nhiên của đứa trẻ. Chuyện kể rằng kể từ ngày đó ông ấy không thể đọc được câu cũ theo cách cũ nữa: "God is nowhere - Thượng đế không có ở đâu cả." Bất kì khi nào ông ấy nhìn ông ấy đều phải đọc, "Thượng đế là bây giờ ở đây." Nó trở thành cái gì đó cố định - tác động của đứa trẻ đến mức đó. Vị phật bao giờ cũng ở đây. Bạn bao giờ cũng ở đây. Bạn không tới từ bất kì chỗ nào và bạn không đi chỗ nào đó khác. Toàn thể vũ trụ này chứa bạn; chúng ta là một phần của nó. Bồ đề đạt ma nói: Như Lai là người biết rằng mình không tới từ đâu cả và không đi từ đâu. Đọc 'nowhere-không đâu cả' là 'now here - ở đây bây giờ'. Như Lai là người bây giờ ở đây và biết rằng ông ấy bao giờ cũng bây giờ ở đây. Ông ấy đã không tới và ông ấy không đi. Ramana Maharshi sắp chết, và một đệ tử hỏi, "Bhagwan, thầy sẽ đi đâu?" Ông ấy mở mắt ra và cười. Đó là không phải là lúc cười chút nào. Ông ấy sắp chết, cái chết của ông ấy là tuyệt đối chắc chắn - ông ấy chết vì ung thư - đau đớn lắm. Dầu vậy ông ấy vẫn cười và ông ấy nói, "Ông ngu thì có! Cả đời mình ta đã từng nói với ông rằng không có đâu mà đi cả, chúng ta bao giờ cũng ở đây. Cho nên ta có thể đi đâu được? Ta sẽ ở đây thôi! Thân thể sẽ mất đi, cát bụi trở về với cát bụi, nhưng ta có thể đi đâu được? Ta sẽ là một phần của vũ trụ này như ta đang là một phần của nó bây giờ. Bây giờ thân thể cho ông ý tưởng rằng ta tách rời - đó là ý tưởng của ông, không phải của ta. Với ta, thân thể của ta không tách rời khỏi sự tồn tại mà bắc cầu với ta." Bạn có thấy khác biệt giữa người dốt nát và người trí huệ không? Cùng thân thể đó với người dốt nát là bức tường phân tách bạn với sự tồn tại. Cùng thân thể đó với người trí huệ, với người chứng ngộ, là chiếc cầu; nó nối bạn với sự tồn tại. Quan sát thân thể bạn và bạn sẽ nhận biết về nó. Thân thể bạn liên tục thở không khí vào và ra - không chỉ qua mũi mà còn qua mọi lỗ chân lông của thân thể bạn đang thở vào và ra. Các nhà khoa học nói rằng nếu mọi lỗ chân lông của thân thể bạn bị bít lại, nếu thân thể bạn bị sơn dầy và mọi lỗ chân lông bị bít lại và chất đầy với sơn nhưng mũi được để cho vẫn thở, bạn sẽ chết trong vòng ba giờ, vì chỉ mũi là không đủ. Mọi phần của thân thể bạn đều cần việc thở riêng của nó. Bạn liên tục trong trao đổi với sự tồn tại. Nếu mặt trời không mọc ngày mai, tất cả chúng ta sẽ chết. Chúng ta sẽ không có khả năng sống chút nào, thậm chí không sống được vài phút, vì không có mặt trời toàn thể hơi ấm sẽ biến mất. Và không có hơi ấm, cuộc sống là không thể có được. Chúng ta sẽ trở nên lạnh, đông cứng tới mức cái chết nhất định xảy ra. Chúng ta liên tục trong trao đổi với sự tồn tại. Chúng ta không tách rời, chúng ta là một. Và nếu điều này là như vậy với thân thể, với tâm thức bên trong thì sao? Tâm thức bên trong đó không bị phân chia chút nào. Sân trong của bạn được bao quanh bởi một bức tường, nhưng sân trong của bạn vẫn thuộc về bầu trời, là một phần của bầu trời. Cũng giống điều đó, người biết rằng mình không tới từ đâu cả và không đi từ đâu, người đó là Như Lai. Người đó bao giờ cũng giống như làn gió mát thoảng qua. Những người có thể hiểu được điều này, họ sẽ được làm tươi lại bởi làn gió thoảng này. Họ sẽ nhảy múa trong gió thoảng của vị phật, trong ánh mặt trời của ông ấy. Họ sẽ cười cùng vị phật, họ sẽ nhảy múa cùng vị phật. Trở thành Thượng đế Tôi cảm thấy tôi ở trong quên lãng: không trong thế giới này không trong thế giới kia, không là chó không là thượng đế. Làm sao bước ra khỏi nó? Nếu bạn bước ra khỏi nó bạn sẽ trở thành chó. Nếu bạn bị mất hút, mất hút hoàn toàn - không ai còn lại người có thể bước ra khỏi nó - bạn sẽ trở thành thượng đế. Cho nên đừng hỏi tôi cách bước ra khỏi nó. Đây là bản ngã đang hỏi cách bước ra khỏi nó. Bạn ở trong quên lãng sao? Hay đấy, tốt đấy. Mất hút thêm chút nữa đi - trở thành việc quên lãng đi. Thêm mất hút chút nữa đi! Bạn mất hút một chút rồi: nửa con chó bị mất rồi. Ở Ấn Độ chúng ta có chuyện ngụ ngôn hay về toàn thể con đường của nhân loại. Một trong những câu chuyện có nghĩa và biểu tượng nhất là về hoá thân của Thượng đế được biết tới là Narsinha - nửa người / nửa sư tử. Một trong các hoá thân của thượng đế của người Hindu là Narsinha - nửa người /nửa sư tử. Đây là trạng thái của quên lãng. Khi bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn là nửa chó/nửa thượng đế; khi bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn không là thượng đế không là chó, mọi thứ bị mất hút, các biên giới bị mờ đi; khi bạn cảm thấy bản thân bạn ở giữa cầu; đây là trạng thái của Narsinha: nửa người /nửa sư tử. Nếu bạn cố gắng thoát ra khỏi nó, bạn sẽ là sư tử đầy đủ, bởi vì thế thì bạn sẽ bị cô đặc lại. Bạn sẽ rơi trở lại sau. Thoát ra khỏi nó nghĩa là rơi ra khỏi nó, rơi trở lại sau. Điều đó sẽ không phải là tiến bộ, trưởng thành. Không cần. Cứ ngày càng mất hút hơn đi. Tại sao bạn sợ quên lãng thế? Bởi vì bạn cảm thấy mất hút chút ít, danh tính không còn rõ ràng; bạn không thể thấy được hình ảnh riêng của bạn một cách hoàn hảo, các biên giới mờ đi; mặt bạn không còn cố định. Cuộc sống của bạn đã trở thành linh động hơn. Nó không còn giống như đá nữa. Nó giống nước nhiều hơn, không có hình dạng nào, vô dạng. Bạn sợ. Người sợ bên trong bạn là chó, bởi vì nếu bạn đi thêm vài bước nữa thì chó sẽ mất hút hoàn toàn. Đầu tiên, khi người ta bắt đầu vào cuộc hành trình, người ta giống như nước đông cứng, băng, lạnh, tựa đá. Khi người ta di chuyển, đông cứng tan ra, băng trở thành nước. Đây là trạng thái của quên lãng, trạng thái của Narsinha, nửa đường. Nếu bạn đi xa thêm lên trước bạn sẽ bay hơi. Không chỉ có việc bạn sẽ là nước lỏng, bạn sẽ trở nên bay hơi. Bạn sẽ không còn được thấy nữa; bạn sẽ đơn giản biến mất. Nếu bạn trở nên sợ việc biến mất, bạn sẽ rơi trở lại. Bạn sẽ cố gắng để được đông cứng lại để cho bạn có thể có hình, có dạng, có tên - namarupa: tên và dạng. Người Hindus đã gọi thế giới này là thế giới của namarupa, tên và dạng. Thế thì bạn sẽ có căn cước; bạn sẽ biết bạn là ai. Chỉ chó mới biết nó là ai - mọi thứ được lắng đọng, thảnh thơi. Nếu bạn đi trên đường, mọi thứ là rối tinh - núi không còn là núi, sông không còn là sông. Lẫn lộn lớn nảy sinh, hỗn độn; nhưng nhớ lấy, chỉ từ hỗn độn, các vì sao nhảy múa được sinh ra. Nhớ lấy, chỉ từ hỗn độn Thượng đế mới được tìm ra. Thế thì, trạng thái thứ ba là: bay hơi, biến mất hoàn toàn không để lại dấu vết đằng sau. Thậm chí không một dấu chân để lại. Bạn không ở đâu cả. Bạn đã trở thành không đâu cả - và đây là trạng thái tôi gọi là trạng thái của Thượng đế. Đó là lí do tại sao bạn không thể thấy được Thượng đế. Bạn cứ đi tìm và kiếm: bạn sẽ bị mất hút một ngày nào đó, và đó sẽ là cách Thượng đế được tìm thấy. Thượng đế sẽ không được tìm thấy đâu. Bạn sẽ không bắt gặp Thượng đế đứng ở đâu đó, bởi vì ai sẽ bắt gặp? Nếu bạn vẫn có đó để bắt gặp, Thượng đế là không thể có được. Khi bạn không còn đó ai sẽ bắt gặp? Bạn sẽ không bắt gặp Thượng đế như một đối thể đâu. Bạn sẽ bắt gặp ngài như cốt lõi bên trong nhất của bạn. Nhưng điều đó là có thể chỉ khi bạn chảy ra, bạn trở thành linh động như nước, thế rồi bạn bay hơi - bạn trở thành mây bay trên trời, không địa chỉ, không tên, không dạng, đám mây ẩn kín, ở đâu chẳng biết. Đó là nỗi sợ: bởi vì nó là cái chết lớn lao. Nó là việc chết đi của toàn thể quá khứ. Mọi điều bạn đang vậy đều phải bị bỏ lại, bị đóng đinh. Chết đi trước cái chết, đó là cách duy nhất để trở thành thượng đế. Đừng sợ trạng thái của quên lãng; bằng không bạn có thể rơi trở lại sau. Bạn sẽ kết tinh lại lần nữa như băng. Bạn sẽ có namarupa, tên-dạng, căn cước, nhưng bạn đã bỏ lỡ. Cái gì còn lại sau chứng ngộ Thầy đã nói chứng ngộ là có tính cá nhân, nhưng tính cá nhân có còn lại sau chứng ngộ không? Không. Tính cá nhân không còn lại sau chứng ngộ, nhưng chứng ngộ có tính cá nhân. Bạn sẽ phải hiểu điều đó. Sông rơi vào đại dương. Khi nó đã rơi vào, sông đã biến mất - không có tính cá nhân của sông còn lại, nhưng chỉ riêng một sông rơi vào trongđại dương. Bạn rơi vào trong đại dương của chứng ngộ như một cá nhân: bạn không thể đem vợ bạn đi cùng bạn được hay bạn của bạn đi cùng bạn - không có cách nào. Bạn đi một mình. Không ai có thể đem được bất kì ai. Làm sao bạn có thể đem được bất kì ai? Khi bạn thiền bạn thiền một mình. Khoảnh khắc bạn nhắm mắt lại và bạn trở nên im lặng, mọi người đã biến mất - vợ, bạn, con. Cái gần nhất cũng không còn gần; cái gần nhất bây giờ là xa nhất. Trong im lặng sâu của bạn, bình thản bên trong, bạn tồn tại một mình. Một mình này sẽ rơi vào trong đại dương. Cho nên, chứng ngộ có tính cá nhân. Tất nhiên sau chứng ngộ tính cá nhân biến mất; không có tính cá nhân. Cho nên nhớ điều này: bạn không thể đi theo đám đông được; bạn không thể đi như một tổ chức được; bạn không thể đi như một giáo phái. Bạn không thể nói, "Mọi người Ki tô giáo lại đây," hay "Mọi người Hindus lại đây. Tôi sắp chứng ngộ và tôi sẽ đem mọi người Hindus cùng tôi." Không ai có thể đem được bất kì ai khác. Nó tuyệt đối là một mình. Và đó là cái đẹp của nó, thuần khiết của nó. Trong tính một mình tuyệt đối của bạn, bạn rơi vào trong niết bàn đại dương. Mới khoảnh khắc trước, bạn còn là dòng sông; mới khoảnh khắc trước, bạn còn là một cá nhân - chính đỉnh của tính cá nhân, vị phật - và chỉ một khoảnh khắc sau đó chẳng cái gì tồn tại. Bạn không còn là sông nữa; bạn đã trở thành đại dương. Bây giờ bạn thậm chí không thể nói, "tôi đây." Đại dương hiện hữu; sông đã biến mất. Bạn có thể nói điều đó theo hai cách: rằng sông đã biến mất - một cách, cách của Phật tử; hay bạn có thể nói sông đã trở thành đại dương - cách kia, cách của Vedanta. Nhưng cả hai là một. "Sông đã trở thành đại dương," hay, "Sông đã biến mất; chỉ đại dương hiện hữu," chỉ là các cách nói cho cùng một điều. Trích từ "Yoga: Alpha và Omega - Tập 5" Người chứng ngộ có tự đầy đủ không? Câu hỏi Người ta có thể sống và vận hành trong thế giới trong trạng thái của chứng ngộ hay vô trí không? Liệu người đã chứng ngộ có tự đầy đủ trong thế giới không? Đáp Trạng thái của chứng ngộ không phải là trạng thái của cá nhân. Không có người trong nó. Người chứng ngộ là chứng ngộ chỉ bởi vì người đó không có; không có ai để vận hành. Vận hành tiếp tục, nhưng không có ai làm nó. Vận hành tiếp tục, nhưng không có ai vận hành nó. Thế thì nó tiếp tục theo cách riêng của nó... cũng như các vì sao cứ di chuyển và mùa vụ , và mặt trời mọc, và mặt trăng tới, và thuỷ triều, và biển cả, và dòng sông. Người chứng ngộ là một với cái toàn thể; cái toàn thể vận hành qua người đó. Vận hành của người đó là hoàn hảo bởi vì người đó không có đó để bóp méo nó. Người đó giống hệt cây trúc hổng - bất kì bài hát nào cái toàn thể chọn để hát qua người đó, nó đều được hát lên. Không có người nào cản trở, không có người nào gây chướng ngại. Người chứng ngộ là cái trống rỗng chứng ngộ... Cái trống rỗng chói sáng. Người đó đã biến mất. Nếu bạn tin vào khái niệm thượng đế, nếu bạn dùng thuật ngữ đó, thế thì bạn có thể nói thượng đế vận hành qua người đó. Nếu bạn không thích thuật ngữ đó, thế thì bạn có thể nói cái toàn thể vận hành qua người đó. Nhưng người đó không vận hành ở đó. Khi bạn vận hành bạn tạo ra lo âu. Tất cả việc vận hành theo một cách nào đó đều là một loại xung đột với cái toàn thể. Nó là cuộc đấu tranh; có động cơ, có ham muốn, có tham vọng. Khi bạn có đó, tất cả mọi ốm yếu có đó. Khi bạn có đó, chứng loạn thần kinh có đó - bản ngã là loạn thần kinh. Nó cố gắng áp đặt mục đích riêng của nó lên cái toàn thể - điều không thể được. Nó cố gắng làm điều không thể được làm, do đó mới nhận ngày càng nhiều thất vọng hơn, đi ngày một sâu hơn vào địa ngục và khốn khổ. Người chứng ngộ đơn giản cho phép; bất kì điều gì xảy ra đều là việc xảy ra. Rất khó quan niệm điều đó bởi vì nó không phải của tâm trí. Rất khó hiểu điều đó bởi vì không có kinh nghiệm. Bạn có thể hiểu điều đó chỉ khi bạn đã tan biến, khi bạn đã trở thành cái đó. Không có cách nào để hiểu vị phật trừ phi bạn trở thành vị phật - bởi vì đó là một chiều hướng hoàn toàn khác của sự tồn tại. Chúng ta chưa bao giờ nếm trải điều đó. Tâm trí đơn giản không thể nào quan niệm nổi, bởi vì tâm trí vận hành qua động cơ: phải có ham muốn, phải có mục đích, phải có người làm. Tâm trí nói nếu bạn không làm, làm sao điều đó sẽ xảy ra? Nhưng hàng triệu điều đang xảy ra mà không có ai làm chúng cả. Ai đang làm cho các vì sao chuyển động? Việc vận hành của chúng chẳng tuyệt đối hoàn hảo đó sao? Cái gì lỡ? Cái gì thiếu? Ai đang xô những dòng sông này ra đại dương? Ai cứ điều khiển triều lên triều xuống? Ai cứ duy trì cái vô hạn này, cái mênh mông này? Chẳng có ai cả. Bởi vì không có ai cả, đó là lí do tại sao nó lại đẹp thế. Bởi vì không có ai cả, đó là lí do tại sao nó lại tuyệt đối hoàn hảo thế. Nếu ai đó có đó, thì có khả năng lỗi lầm. Nếu ai đó có đó, thì có khả năng sai lầm. Không có ai cả - nó là từ cái trống rỗng. Hạt mầm cứ nhú ra. Từng khoảnh khắc đều là phép màu, bởi vì từng khoảnh khắc sự tồn tại tới từ cái không. Từng khoảnh khắc hoa xuất hiện ra từ trời xanh. Không ai ép buộc nó, không ai kéo nó lên. Không có ai mở nụ; nó mở ra theo cách riêng của nó. Đây là điều Phật gọi là pháp, là luật, là luật tối thượng của cuộc sống. Người chứng ngộ không còn trong xung đột với luật tối thượng; người đó đã buông xuôi. Người đó nổi, người đó chảy cùng dòng sông. Người đó gần như trở thành con sóng trong dòng sông, người đó không tồn tại một cách tách biệt. Người ta có thể sống và vận hành trong thế giới trong trạng thái của chứng ngộ hay vô trí không? Có chứ, người ta có thể vận hành. Người ta đã vận hành. Phật sống bốn mươi hai năm sau khi ngài trở nên chứng ngộ. Mahavira sống bốn mươi năm sau khi ngài trở nên chứng ngộ. Họ vận hành hoàn toàn tốt. Và vậy mà, cái đẹp hiện hữu, sự vĩ đại hiện hữu, điều không có ai làm nó cả. Nó là phép màu từ khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Nó là điều tuyệt đối không thể nào tin được, điều lạ thường là nó vận hành từ cái không, vận hành từ không mục đích, vận hành từ vô trí. Chỉ vận hành mà không có trung tâm, không có cái ngã. Người chứng ngộ là tự nhiên, tự phát. Người đó không có giải thích tại sao người đó lại đang vận hành. Người đó sẽ nhún vai nếu bạn hỏi câu hỏi 'Tại sao?' Người đó không thể giải thích được điều đó, người đó nhiều nhất có thể nói, 'Nó là cách nó thế. Nó là cách nó đang xảy ra.' Người đó sẽ nói, 'Tôi không biết, bởi vì không có ai để biết điều đó.' Nó là một vận hành bí ẩn. Tất nhiên việc vận hành sẽ là khác toàn bộ với việc vận hành của bạn. Từ vận hành của bạn, lo âu nảy sinh, căng thẳng. Từ vận hành của bạn, nỗi sợ nảy sinh. Nỗi sợ - bạn sẽ thành công hay không? Căng thẳng - bởi vì có cạnh tranh, xung đột; người khác cũng xô về cùng mục đích. Bạn sẽ có khả năng trở nên giầu không? Bạn sẽ có khả năng trở thành cái bạn muốn không? Điều đó dường như là dễ dàng. Mulla Nasruddin một hôm nói với tôi, 'Khi tôi mười bốn tuổi tôi đã quyết định rằng tôi sẽ trở thành người giầu nhất trên thế giới, bằng bất kì giá nào.' Thế là tôi hỏi anh ta, 'Thế rồi điều gì đã xảy ra? Anh chưa bao giờ trở thành người giầu nhất thế giới. Anh có thể là người nghèo nhất. Vậy thì điều gì đã xảy ra?' Anh ta nói, 'Vào lúc tôi hai mươi mốt tuổi tôi nghĩ dễ thay đổi tâm trí mình hơn và trở thành người giầu nhất trên thế giới. Thay đổi tâm trí dễ dàng hơn.' Mọi người đều muốn trở thành người giầu nhất thế giới. Mọi người đều muốn là người quyền lực nhất trên thế giới. Mọi người đều muốn là người mạnh nhất, đẹp nhất, thông minh nhất, nổi tiếng nhất trên thế giới. Tất nhiên nhiều lo âu đã được tạo ra. Trong lo âu đó bạn ở trong một loại ốm yếu liên tục, không thoải mái, bồn chồn, lên cơn sốt, trong đó bạn cứ liên tục run rẩy. Và mọi khoảnh khắc đều có thất vọng chờ đợi bạn. Do đó mọi người nói, 'Con người đề nghị và thượng đế quyết định.' Thượng đế chưa bao giờ quyết định cái gì cả. Trong chính đề nghị của mình bạn đang quyết định thượng đế, do đó bạn lâm vào rắc rối. Bởi vì tự nhiên có cách riêng của nó, Đạo có cách riêng của nó; nó có định mệnh riêng của nó. Cứ dường như bộ phận đang cố gắng đi con đường riêng của nó, bỏ cái toàn thể đằng sau. Điều đó là không thể được - bộ phận phải đi cùng với cái toàn thể. Cái đuôi phải đi cùng với con voi. Nếu cái đuôi bắt đầu đi theo cách riêng của nó ngược với voi, tách rời khỏi voi, thế thì sẽ có rắc rối - cái đuôi sẽ phát điên. Và thực tế nó sẽ phải lôi theo con voi; không có cách khác. Cho nên chỉ có hai kiểu người trên thế giới. Một kiểu, những người có mục đích riêng tư - họ cảm thấy họ đang bị kéo lê; họ cảm thấy con người đề nghị, thượng đế quyết định. Thế rồi có kiểu người khác trên thế giới - rất ít, hiếm hoi, xa xôi, xa xăm và ít ở giữa, rất ít - những người đã vứt bỏ tất cả những đề nghị của mình. Họ không kéo lê, họ nhảy múa. Họ nhảy múa, bởi vì bất kì điều gì thượng đế đề nghị họ đều chấp nhận. Và họ không có đề nghị riêng tư nào, họ không có ham muốn nào của riêng mình. Đó là điều Jesus nói trên cây thánh giá, đó là thông điệp cuối cùng của ngài cho thế giới - 'Vương quốc của ngài tới, ý chí của ngài sẽ được thực hiện'. Chỉ một khoảnh khắc trước ngài còn ngần ngại chút ít, ngay khoảnh khắc trước ngài đã kêu lên và nói, 'Sao ngài đã từ bỏ con? Tại sao? Tại sao ngài lại cho con xem tất cả những điều này?' Bạn không thể phàn nàn Jesus được - điều đó nữa cũng là tự nhiên và con người. Ngài mới chỉ ba mươi ba tuổi, ngài còn chưa già, ngài vẫn còn trẻ, ngài chưa thấy toàn thể cuộc sống, ngài còn chưa nếm trải, ngài còn chưa sống - và bỗng nhiên ngài thấy bản thân mình trên cây thánh giá, kì quặc, bị lăng mạ, bị bác bỏ bởi chính người của mình. Và điều đó là tự nhiên khi ngài kêu lên với thượng đế, 'Sao ngài lại từ bỏ con? Sao ngài lại cho con xem tất cả những điều này?' - mang tính con người, rất con người. Nhưng lập tức ngài trở nên nhận biết về điều đó. Điều đó phải đã vô tình buột ra - việc kêu lên phản đối thượng đế - vào khoảnh khắc của vô nhận biết. Nỗi đau có thể đã quá nhiều, khốn khổ quá nhiều. Cái chết kề ngay bên cạnh; ngài đã bị sốc. Nhưng ngài đã lấy lại cân bằng. Ngài đã định đề nghị điều gì đó. Ngài đơn giản nói, 'Vương quốc của ngài tới, ý chí của ngài sẽ được thực hiện.' Ngài đã buông xuôi. Ngài chết như Christ. Trong một khoảnh khắc ngài không còn là Jesus nữa, ngài đã là Christ. Trong một khoảnh khắc ngài không còn là con người nữa, ngài là siêu nhân. Lỗ hổng là rất nhỏ. Đó là lí do tại sao Phật nói, 'Bỏ lỡ nó chỉ một li thôi, hay một khoảnh khắc thôi, và các ông bị ném đi xa hàng triệu dặm.' Chỉ một li là khác biệt giữa hai câu này - không có mấy lỗ hổng, có thể chỉ một hơi thở. Nhưng ngài đã là người thường khi ngài kêu lên phản đối thượng đế - con người, yếu đuối. Ngay một khoảnh khắc sau đó ngài đã được hoà giải; đã không có vấn đề nào. Nếu đây là cách thượng đế muốn nó xảy ra, thế thì đây là cách nó phải xảy ra. Ngài đã chấp nhận. Nụ cười phải đã tới cho khuôn mặt ngài, và không chỉ cho khuôn mặt ngài mà còn cho cả trái tim ngài nữa. Trong khoảnh khắc đó ngài phải đã mở rộng. Bây giờ không có gì để co lại, để vẫn còn khép kín. Ngay cả cái chết cũng được chấp nhận. Khi bạn chấp nhận cái chết, bạn đã chấp nhận thượng đế. Mọi người đều ham muốn cuộc sống. Khi bạn chấp nhận cuộc sống bạn không chấp nhận nhiều. Khi bạn chấp nhận cái chết bạn đã chấp nhận tất cả. Người chứng ngộ là người đã không chỉ chấp nhận cái chết, người đã thực sự chết. Người đó không còn đó nữa, ngôi nhà tuyệt đối trống rỗng. Hay người đó là sự trống rỗng ấy. Sự trống rỗng ấy là chói sáng, đầy ánh sáng. Bây giờ người đó đi tay trong tay với thượng đế. Bây giờ bất kì chỗ nào thượng đế đưa người đó tới, bất kì mảnh đất nào - chưa lên bản đồ, chưa vẽ bản đồ - người đó vẫn đi, nhảy múa. Người đó không bị kéo lê. Nếu bạn bị cuộc sống kéo lê đi, thế thì bạn phải tranh đấu với nó. Nếu bạn bị cuộc sống làm cho chán chường, thế thì bạn phải tranh đấu với nó. Nếu bạn bị cuộc sống làm cho thất vọng, bạn phải tranh đấu với nó. Đây là những chỉ báo rằng bạn không được hoà giải với cuộc sống, rằng bạn vẫn chưa trở nên đủ chín chắn để buông xuôi; bạn vẫn còn trẻ con, bạn đang trong cơn cáu kỉnh trẻ con. Người thực sự chín chắn không có ý chí của riêng mình. Người đó nói, 'Ý chí của ngài sẽ được thực hiện.' Chỉ tâm trí chưa chín chắn mới cứ mang ý chí riêng của mình, và tất nhiên họ khổ sở. Ý chí đem tới khổ sở, ý chí là con đường tới địa ngục. Bạn đem vào đau khổ, bạn là con đường tới địa ngục. Bạn tạo ra đau khổ. Tất nhiên, người chứng ngộ vận hành hoàn toàn khác. Bản thân người đó không biết mình đang đi đâu, và người đó không lo nghĩ về nó. Người đó không nghĩ về nó - nơi người đó đi. Người đó tin cậy: bất kì chỗ nào người đó đi, nó đều tốt. Sự tin cậy của người đó là toàn bộ và vô hạn. Người đó tin cậy vào cuộc sống, người đó tin cậy vào bản thân mình. Người đó tin cậy vào cái toàn thể, bạn tin cậy vào bộ phận tí hon. Người đó tin cậy vào cái mênh mông, cái vô hạn, bạn tin cậy vào tâm trí con người tầm thường. Tin cậy của người đó làm cho người đó thành trí huệ, tin cậy của bạn làm cho bạn thành ngu xuẩn. Bạn hoài nghi cái toàn thể và bạn tin cậy vào bản thân mình. Người đó đã vứt bỏ bản thân mình và người đó tin cậy vào cái toàn thể. Người đó không bao giờ bị thất vọng, người đó không nuối tiếc. Người đó không bao giờ nhìn lại sau, bởi vì bất kì cái gì có, đều đã có - và bất kì cái gì có, đều tốt. Và đó không chỉ là điều tâm trí. Người đó cảm thấy nó, toàn thể sự tồn tại của người đó được rạng ngời với 'có!' Người đó nói 'có' với cuộc sống, bạn cứ nói 'không'. Nói không tạo ra bản ngã, nói có vứt bỏ bản ngã, giúp cho bản ngã được vứt bỏ và biến mất. Người chứng ngộ là 'có' tuyệt đối, vô điều kiện. Rất khó hiểu điều đó trừ phi bạn đã nếm trải cái gì đó của nó. Đó là cách duy nhất để biết về nó. Liệu người chứng ngộ có tự đầy đủ trong thế giới không? Đó là lí do tại sao tôi nói bạn có thể hiểu nó chỉ nếu bạn đã biết nó, nếu bạn đã trở thành nó. Bằng không bạn sẽ cứ hỏi những câu hỏi chẳng liên quan. Chẳng hạn: Liệu người chứng ngộ có tự đầy đủ trong thế giới không? Người đó không có cái ngã, cho nên làm sao người đó có thể là tự đầy đủ được? Người đó không có cái ngã, cho nên làm sao người đó có thể là tự đầy đủ theo bất kì cách nào được? Tôi không nói rằng người đó không hài lòng. Tôi không nói rằng người đó không được thoả mãn, và tôi không nói rằng người đó không đầy đủ. Tôi đơn giản nói rằng người đó không thể tự đầy đủ được bởi vì người đó không có cái ngã. Người chứng ngộ đi tới biết rằng độc lập là không thể được, phụ thuộc cũng không thể được. Thực tại thì không phụ thuộc không độc lập; thực tại là liên thuộc. Chúng ta cùng tồn tại với nhau. Và khi tôi nói 'chúng ta', cây cối cũng được bao hàm, núi non cũng được bao hàm, bầu trời cũng được bao hàm. Khi tôi nói 'chúng ta', mọi thứ đều được bao hàm, không cái gì bị loại trừ. Chúng ta cùng tồn tại với nhau. Chúng ta cùng hiện hữu với nhau. Chính hiện hữu của chúng ta là sự cùng nhau. Không ai là tự đầy đủ. Đó là điều thông thường chúng ta cố gắng để trở thành - tự đầy đủ. Đó là toàn thể cuộc tranh đấu của chúng ta - để cho chúng ta không còn phụ thuộc vào bất kì ai. Những thử nghĩ mà xem: liệu có thể tự đầy đủ được không? Và nếu điều đó là có thể cho con người trở thành tự đầy đủ, người đó có còn sống động không? Người đó sẽ chết. Chỉ khi bạn trong nấm mồ thì bạn mới tự đầy đủ. Bằng không bạn sẽ phải thở chứ - và bạn không thể là tự đầy đủ về điều đó được. Bạn sẽ phải lấy hơi thở, sinh lực, prana. Bạn sẽ phải đợi để mặt trời làm bạn ấm. Bạn sẽ phải ăn quả của cây để cho nước quả trở thành máu bạn. Bạn sẽ cần cả tỉ thứ. Làm sao bạn có thể là tự đầy đủ được? Chính ý tưởng này là ngu xuẩn. Nhưng có những người, cái gọi là thánh nhân - người cứ dạy bạn 'trở nên tự đầy đủ'. Đó là việc đề cao lòng tự trọng. Tự đầy đủ không thể có được trong bản chất của mọi vật bởi vì cái ngã là giả. Cái ngã chỉ là một ý tưởng, nó không có thực tại nào, cho nên làm sao bạn có thể tạo ra sự đầy đủ quanh một ý tưởng giả tạo? Cái ngã trong bản thân nó là mang tính không tồn tại, cho nên làm sao bạn có thể tạo ra sự đầy đủ xung quanh cái gì đó không tồn tại? Người chứng ngộ là người nhìn vào cuộc sống và đi tới biết rằng 'Mình không có, chỉ thượng đế có, chân lí có. Chân lí là tự đầy đủ, cái toàn thể là tự đầy đủ. Làm sao mình có thể là tự đầy đủ được?' Chúng ta được nối với mọi thứ khác, và việc nối này thực sự phức tạp. Tôi không chỉ được nối với bạn, bạn không chỉ được nối với những cây này, bạn không chỉ được nối với mặt trời hôm nay - bạn được nối với tất cả mọi người đã từng sống trên trái đất. Nếu cha mẹ bạn mà không có đó thì bạn đã không có ở đây rồi. Nếu ông bà bạn mà không có đó thì bạn đã không có ở đây rồi. Hãy đi ngược lại, đi lùi lại - nếu Adam và Eve mà không có đó thì bạn đã không có ở đây rồi. Cho nên không chỉ chúng ta được nối với sự tồn tại đương đại, chúng ta được nối với toàn thể quá khứ - không chỉ với nhân loại, mà với toàn thể vũ trụ. Điều này là dễ hiểu - rằng chúng ta được nối với toàn thể quá khứ - bằng không thì làm sao chúng ta có thể hiện hữu được? Chúng ta là một phần của cuộc diễu hành, một phần của dòng sông, dòng sông đang tiếp diễn. Bạn cũng được nối với tương lai. Có chút ít khó khăn hơn bởi vì chúng ta nghĩ rằng có thể điều đó là đúng - chúng ta được nối với quá khứ - nhưng làm sao chúng ta lại được nối với tương lai? Dòng sông có đôi bờ. Nó không thể chảy chỉ với một bờ, bằng không nó sẽ chẳng bao giờ đạt tới đại dương. Bờ bên kia có thể bị ẩn kín trong sương mù dày đặc, bạn có thể không có khả năng thấy nó, nó có thể ở rất xa xăm. Bạn không thể thấy được nó - nó ở bên ngoài đường chân trời - nhưng dầu vậy bạn vẫn có thể nghĩ rằng nó phải có đó. Quá khứ là bờ này của dòng sông thời gian, tương lai là bờ kia. Không có tương lai, quá khứ không thể tồn tại được; và không có quá khứ và tương lai thì hiện tại không thể tồn tại được. Hiện tại là dòng sông, quá khứ là bờ này, tương lai là bờ kia. Chúng ta không chỉ được nối với quá khứ, chúng ta đang được nối với tương lai nữa. Bạn không chỉ được nối với cha mẹ mình, bạn được nối với con cái mình nữa - con cái còn chưa được sinh ra. Bạn không chỉ là một với quá khứ đã từng ở đây, mà cả với tương lai sẽ diễn ra ở đây. Bạn được nối với hôm qua và ngày mai - bằng không thì hôm nay không thể tồn tại được. Nó phải tồn tại giữa hôm qua và ngày mai - những hôm qua và những ngày mai. Hôm nay chỉ là bước chuyển ở giữa. Nếu bạn nhìn theo cách đó, thế thì trong không gian chúng ta được nối với mọi thứ. Nếu mặt trời chết hôm nay chúng ta tất cả đều sẽ chết. Nó ở xa thế; ánh sáng mất mười phút để tới chúng ta. Mười phút chẳng có vẻ gì là thời gian lớn cả, nhưng để ánh sáng đi ngần đó thời gian thì thực sự là lớn, bởi vì ánh sáng đi nhanh thế - ba trăm nghìn ki lô mét một giây. Mặt trời ở xa mười phút. Nhưng nếu nó chết, bỗng nhiên bạn sẽ thấy những cái cây này chết, bỗng nhiên bạn sẽ thấy bản thân mình co lại và chết. Bỗng nhiên bạn sẽ thấy toàn thể cái đẹp biến mất khỏi trái đất, bởi vì toàn thể hơi ấm biến mất khỏi trái đất. Hơi ấm là cuộc sống. Chính sự đập rộn ràng của trái tim là được nối với mặt trời đấy. Nhưng các nhà khoa học nói bản thân mặt trời lại được nối với nguồn ánh sáng nào đó, vẫn còn chưa được phát hiện ra. Ở đâu đó tại chính trung tâm của toàn thể sự tồn tại phải có một nguồn mà mặt trời được nối vào. Mọi thứ đều được nối. Bạn đã từng quan sát mạng nhện chưa? Chạm vào nó ở bất kì đâu và cả cái mạng rung lên. Đích xác theo cách đó là cuộc sống. Chạm vào nó ở bất kì đâu... chạm vào cái một nhành cỏ và bạn đã chạm vào tất cả các vì sao, bởi vì mọi thứ được liên nối thế. Không có biên giới - chúng ta không là những hòn đảo, chúng ta là lục địa. Không cái gì định nghĩa bạn cả. Tất cả mọi định nghĩa đều nhân tạo. Tất cả mọi định nghĩa đều giống như hàng rào quanh nhà bạn - nó không phân chia trái đất. Tất cả các biên giới đều giống như trên bản đồ - nó không phân chia trái đất, nó không phân chia đại dương, nó không phân chia bầu trời. Nó chỉ là trên bản đồ. Người chứng ngộ là người đã vứt bỏ mọi lằn ranh; không là người Ki tô giáo, không là người Hindu, không là người Mô ha mét giáo, không là Phật tử, không là người cộng sản, không là người phát xít, không là đàn ông, không là đàn bà, không là thanh niên, không là người già - người đã vứt bỏ tất cả mọi đường ranh giới, người sống không có định nghĩa. Sống không định nghĩa là sống một cách vô hạn, bởi vì mọi định nghĩa đều là điều hữu hạn. Định nghĩa tức là làm thành hữu hạn. Người chứng ngộ là người không định nghĩa được, vô hạn. Người đó không có ranh giới. Ai đó hỏi Bokuju, một Thiền sư, 'Thưa thầy, thầy nói mọi thứ đều là một. Thế thì con chó cũng là vị phật sao?' Đó là cách thức hỏi của Thiền, 'Chó cũng là thượng đế được không?' Bokuju không trả lời bằng miệng; ông ấy nhảy trên bốn chi và bắt đầu sủa. Ông ấy đã là vị phật, một người chứng ngộ. Ông ấy đơn giản chỉ ra rằng, 'Có chứ. Trông đây - đây là con chó sủa, và đây cũng là vị phật.' Chó không là gì ngoài thượng đế đảo ngược. Cứ đọc ngược nó lại mà xem (dog - god); đó là sự khác biệt duy nhất. Mọi thứ đều thiêng liêng và mọi thứ đều là một. Người chứng ngộ không là tự đầy đủ. Người đó là đầy đủ, chắc chắn - nhưng không tự đầy đủ. Đầy đủ bởi vì không có vấn đề với người đó - cái toàn thể có sẵn cho người đó. Cái toàn thể cứ cung cấp cho người đó cho dù không được hỏi. Cái toàn thể chăm nom. Người đó đã tan biến vào trong cái toàn thể; bây giờ cái toàn thể chịu trách nhiệm. Cái toàn thể chăm nom người đó. Người đó được bảo vệ bởi cái toàn thể, người đó được che chở bởi cái toàn thể. Người đó ở nhà trong cái toàn thể. Bất kì cái gì xảy ra cũng đều được đón chào, bởi vì nó đang xảy ra qua cái toàn thể. Làm sao nó có thể sai được? 'Ý chí của ngài sẽ được thực hiện, vương quốc của ngài tới.' Người đó chỉ là con số không. Cho nên tôi không thể nói người đó là tự đầy đủ được. Người đó là cực kì đầy đủ, nhưng không tự đầy đủ. Sự đầy đủ của người đó không tới từ cái ngã của người đó, sự đầy đủ của người đó tới bởi vì người đó đã vứt bỏ cái ngã của mình. Người đó là đầy đủ bởi vì người đó là cùng với cái toàn thể - bây giờ làm sao người đó có thể thiếu được cái gì? Không thể nào thiếu được cái gì cả. Mặt trời cùng với người đó, mặt trăng cùng với người đó, cây cối, dòng sông, đại dương - người đó không còn nghèo nàn nữa. Người chứng ngộ là người giầu nhất có thể có, nhưng cái giầu của người đó tới từ việc buông xuôi, không từ tranh đấu. Người đó không tranh đấu... người đó không có xung đột gì với cái toàn thể. Người đó đã rơi vào trong hài hoà, người đó là sự hài hoà. _________________ Herenow-Consciousness-Alert
-
Phật tính hay Thiên tính là một trong những thuộc tính phổ quát của muôn vật từ bé đến lớn, trong số đó có mọi sinh vật và đặc biệt là con người. Ở đây là một bài thuyết giảng của Đạo Sư Osho - một vị Phật - về Phật tính hay vị Phật là gì? Dĩ nhiên, để hiểu được vấn đề này không phải đơn giản! PHẬT TÍNH LÀ GÌ? Vị Phật là ai? Hay Phật tính là gì? Chừng nào bạn còn chưa có quan niệm rõ ràng về điều đó, sẽ khó mà hiểu được lời của Phật. Để hiểu những lời này, bạn sẽ phải hiểu cội nguồn từ đâu chúng nảy sinh. Để hiểu hoa, bạn sẽ phải hiểu rễ. Chừng nào bạn còn chưa hiểu rễ, bạn có thể ca ngợi hoa, nhưng bạn sẽ không có khả năng hiểu nó. Vị Phật là ai? Hay Phật tính là gì? Từ 'Phật' nghĩa là nhận biết thuần khiết, trạng thái của nhận biết tuyệt đối. Vị Phật không phải là người mà là một trạng thái - trạng thái tối thượng, việc nở hoa tối thượng. Phật chẳng có liên quan gì tới Phật Thích Ca. Trước Phật Thích Ca đã có nhiều chư Phật, và sau Phật Thích Ca cũng đã có nhiều chư phật. Phật Thích Ca chỉ là một người đã đạt tới tâm thức tối thượng đó. Từ 'Phật' cũng giống như từ “Christ”. Jesus chỉ là một trong các Christ - những người đã đạt tới việc nở hoa tối thượng. Đã có nhiều Christ và sẽ có nhiều. Hãy nhớ điều đó - rằng Phật tính không phải là theo bất kì con đường nào được hạn chế bởi Phật Thích Ca. Ngài chỉ là một ví dụ về Phật tính là gì. Bạn thấy một bông hồng. Nó không phải là bông hồng, nó chỉ là một trong các bông hồng. Hàng triệu bông đã tồn tại trước đó, hàng triệu bông đang tồn tại ngay bây giờ, hàng triệu bông sẽ tồn tại trong tương lai. Nó đơn giản là một đại diện. Bông hồng này đơn giản là một đại diện của tất cả các bông hồng đã từng, đang và sẽ có. Vị Phật không được xác định bởi cá tính của Ngài. Ngài được xác định bởi trạng thái tối thượng của bản thể Ngài, cái vượt ra ngoài cá tính. Và khi vị Phật nói, Ngài không nói như một người. Ngài nói qua nhận biết tối thượng của mình. Người ta nói rằng Ngài nói là không đúng. Không có ai để nói, không có cái ngã trong ngài để nói. Và thực tế Ngài chẳng có gì để nói cả. Ngài đơn giản đáp ứng. Cũng như bạn đi và bắt đầu hát trong thung lũng, thung lũng đáp lại. Thung lũng đơn giản vọng lại bạn. Khi bạn tới vị Phật, Ngài đơn giản soi gương bạn. Bất kì điều gì Ngài nói cũng chỉ là sự phản chiếu. Nó là câu trả lời cho bạn, nhưng Ngài chẳng có gì để nói về mình. Nếu vị Phật khác tới Ngài, họ cả hai sẽ vẫn còn tuyệt đối im lặng, hai tấm gương đối diện nhau... chẳng cái gì sẽ được phản chiếu. Các tấm gương sẽ phản chiếu lẫn nhau, nhưng không cái gì sẽ được phản chiếu. Hai tấm gương - hãy nghĩ về hai tấm gương đối diện nhau. Nếu Christ tới gặp Phật, hay Phật ở đâu đó trên các nẻo đường cuộc sống mà bắt gặp Lão Tử, họ sẽ tuyệt đối im lặng - sẽ không có tiếng vọng. Cho nên khi Phật nói, hãy nhớ điều đó. Ngài không nói gì đặc biệt. Ngài đơn giản phản chiếu mọi người. Đó là lí do tại sao vị Phật không bao giờ có thể rất nhất quán. Triết gia có thể rất nhất quán. Ông ta có cái gì đó để nói. Ông ta nhớ điều đó, ông ta bám vào điều đó, ông ta chưa bao giờ nói cái gì đi ngược lại điều đó... Ông ta xoay xở. Vị Phật nhất định là mâu thuẫn bởi vì mỗi lần ai đó đối diện với Ngài, cái gì đó khác sẽ nảy sinh. Điều đó sẽ tuỳ thuộc vào người đối diện với Ngài. Điều đó cũng giống như tấm gương. Nếu bạn tới trước tấm gương, nó là khuôn mặt của bạn. Ai đó khác tới, thế thì nó là khuôn mặt của người đó. Khuôn mặt sẽ cứ thay đổi. Bạn không thể nói với tấm gương, “Anh rất không nhất quán. Lúc thì anh hiện khuôn mặt đàn bà, lúc thì hiện khuôn mặt đàn ông, lúc thì khuôn mặt đẹp, lúc thì khuôn mặt xấu”. Tấm gương sẽ đơn giản giữ im lặng thôi. Nó có thể làm gì được? Nó đơn giản phản chiếu. Nó phản chiếu bất kì cái gì đang đó. Cho nên lời Phật là rất mâu thuẫn. Jesus mâu thuẫn, Phật mâu thuẫn, Krishna mâu thuẫn, Lão Tử cực kì mâu thuẫn. Hegel không mâu thuẫn, Kant không mâu thuẫn, Russell không mâu thuẫn, Khổng Tử không mâu thuẫn, Manu không mâu thuẫn. Họ có giáo điều nào đó. Họ không phản chiếu bạn. Họ có cái gì đó để nói. Họ cứ nói. Họ không như tấm gương, họ giống như ảnh chụp. Nó chẳng bận tâm bạn là ai; nó vẫn còn như vậy. Nó chết. Nó có định nghĩa và hình dạng rõ ràng. Phật tính là nhận biết vô hình dạng. Hãy nhớ điều đó, bằng không nhiều lần bạn sẽ bắt gặp mâu thuẫn và bạn sẽ không có khả năng hình dung ra cái gì đang xảy ra. Khi Phật chết, lập tức có nhiều tranh cãi, và các tín đồ chia thành nhiều giáo phái. Bởi vì ai đó đã nghe Phật nói điều này, và ai đó đã nghe điều gì đó tuyệt đối mâu thuẫn với nó. Cho nên không có khả năng nào. Làm sao một người có thể nói được tất cả những điều đó? Cho nên, ai đó phải nói dối... và mọi người bắt đầu phân chia ra. Họ phân chia ra thành nhiều trường phái. Phật bị cắt xén. Ai đó mang tay Ngài, ai đó mang đầu Ngài, ai đó mang chân Ngài - nhưng Ngài không còn là hiện tượng sống nữa. Bây giờ, những triết lí này rất nhất quán... rất nhất quán, rất logic - nhưng chết. Vị Phật không phải là triết gia, Ngài không phải là người hệ thống hoá. Vị Phật không logic theo bất kì cách nào. Ngài đơn giản sống động, và Ngài phản chiếu mọi thứ đang đó. Cho nên khi bạn tới một vị Phật, Ngài trả lời bạn. Ngài không có câu trả lời cố định để trao cho bạn, Ngài trả lời bạn. Ngài không có khuôn mặt công cộng. Mọi khuôn mặt của Ngài đều riêng tư và chúng phụ thuộc vào bạn. Nếu bạn mang khuôn mặt đẹp tới cho Ngài, bạn sẽ thấy khuôn mặt riêng của mình được phản chiếu. Và nếu bạn tới mà không có khuôn mặt nào... thuần khiết, tựa tấm gương... chẳng cái gì sẽ được phản chiếu. Thế thì Phật biến mất, Ngài chẳng có gì để nói cả. Những người đã sống cùng Phật, họ biết. Khi họ có tâm trí riêng của mình, những tâm trí đó được phản chiếu trong Ngài. Khi tâm trí họ bị loại bỏ, họ thực sự trở thành thiền nhân, và khi họ nhìn vào Phật chẳng có ai cả... chỉ cái trống rỗng, thung lũng, im lặng thuần khiết, hồn nhiên nguyên thuỷ - nhưng không có ai ở đó cả. Những lời này được thu thập lại, được biên soạn, bởi trường phái nào đó. Chúng rất nhất quán. Nhiều lời đã bị loại bỏ, những lời dường như mâu thuẫn. Nhiều lời đã không được đưa vào, những lời mơ hồ. Những lời này đã được thu thập lại bởi một trường phái đặc biệt. Về sau tôi sẽ thảo luận về các nguồn khác, và nhiều lần bạn sẽ bắt gặp những mâu thuẫn. Hãy nhớ điều đó. Và những người ở gần tôi, họ phải hiểu điều này, tuyệt đối rõ ràng, bởi vì tôi sẽ tự mâu thuẫn mọi ngày. Điều đó tuỳ thuộc vào bầu khí hậu. Điều đó còn tuỳ... Nếu thời tiết nhiều mây, tôi nhiều mây. Nếu mặt trời chiếu sáng và trong trẻo, tôi là cách đó. Bạn không chỉ tới tôi với những câu hỏi, bạn còn tới với những câu trả lời. Có thể câu trả lời còn chưa được biết tới với bạn, có thể câu trả lời còn bị giấu kín trong vô thức của bạn, ẩn núp đâu đó trong bóng tối của linh hồn bạn. Câu hỏi là ý thức, câu trả lời là vô ý thức. Chức năng của tôi là làm cho câu trả lời của bạn thành hiển nhiên rõ ràng cho bạn, đem nó ra ánh sáng. Tôi nhất định phải mâu thuẫn. Tôi không phải là người công cộng. Tôi không quan tâm tới đám đông. Tôi chỉ quan tâm tới các đệ tử và người say mê. Điều đó nghĩa là tôi chỉ quan tâm tới mối quan hệ thân thiết. Tôi quan tâm tới bạn, và bất kì cái gì tôi nói với bạn đều được nói cho bạn và không liên quan tới người khác. Khi tôi nói một cách cá nhân, thế thì tôi đang nói với một người đặc biệt. Với người khác điều đó có thể không liên quan. Cho dù là cùng người đó, điều đó không liên quan vào ngày mai, bởi vì người đó sẽ thay đổi. Cuộc sống liên tục thay đổi. Và tôi chỉ nhất quán với cuộc sống chứ không cái gì khác. Cho nên tôi nhất định mâu thuẫn. Cho nên nếu đôi khi bạn bắt gặp mâu thuẫn, đừng vội vã, và đừng cố gắng hình dung ra bằng cách nào đó, và đừng cố gắng sửa lại chúng. Cứ để chúng như chúng vậy. Một người như Phật phải mâu thuẫn. Ngài phải chứa tất cả mọi mâu thuẫn bởi vì Ngài chứa tất cả các khả năng của nhân loại. Ngài chứa tất cả mọi câu hỏi có thể có và mọi câu trả lời có thể có. Ngài chứa tất cả bề mặt có thể có và tất cả các pha có thể có. Ngài chứa toàn thể quá khứ của nhân loại, hiện tại và tương lai. Đó là nghĩa khi Phật nói, “Khi ông đã tới nhà, kho bản thể bên trong nhất của ông chói sáng, tất cả sẽ được biết - tất mọi điều quá khứ, hiện tại và tương lai. Không cái gì còn lại không được biết. Trong việc biết đó mọi thứ đều được hiển lộ”. Nhưng mọi thứ... và các thứ đều không nhất quán. Đó là cái đẹp của thế giới - rằng mọi sự đều không nhất quán. Mọi thứ đều có phẩm chất khác nhau, cá tính khác nhau. Mọi thứ đều là sự hiện hữu theo cách riêng của chúng, và Phật đơn giản phản chiếu... sự phản chiếu, tấm gương. Những lời này bao giờ cũng bắt đầu bởi Phật nói. Hãy nhớ điều đó. Khi điều đó được Phật nói, điều đó đơn giản nghĩa là Ngài chẳng có gì để nói cả. Ngài phản xạ, Ngài phản xạ lại bạn. Ngài đơn giản biểu lộ cho bạn, bạn là ai. Ngài hiển lộ bạn cho bản thân bạn. Ngài đem bạn về trung tâm riêng của bạn. (Theo “Phật và chứng ngộ” của Osho)
-
"Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho Phật tính của Đường Tăng" Tôn Ngộ Không là biểu tượng cho "cái trí " hay tư duy liên tục của con người. Nếu như trên, vậy phải định nghĩa "Phật tính" như thế nào?
-
Sau khi tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, từ trong Pháp Sư phụ Lý Hồng Chí giảng rằng con người có chủ nguyên thần, phó nguyên thần, trong khi đọc “Tây Du Ký”, tôi phát hiện rằng từ góc độ này mà hiểu về thầy trò Đường Tăng thì vô cùng hợp lý. Đường Tăng đương nhiên là chủ nguyên thần; Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng, Bạch Long Mã chính là các phó nguyên thần. Tu luyện là lấy chủ nguyên thần làm chủ, chủ nguyên thần mê trong nhân thế, nếu muốn tu luyện vượt ra khỏi chốn hồng trần, thì đương nhiên sẽ có nhiều nạn, sẽ có nhiều khổ, nhưng càng như vậy, sẽ tu luyện được càng cao. Phó nguyên thần điều gì cũng biết, đương nhiên sẽ dễ tu hơn một chút. Cho nên, năm vị tuy cùng một thể, nhưng lại đều có thể tu đến quả vị tương ứng của bản thân. Nếu các thầy trò Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng và Bạch Long Mã mà chúng ta không biết đặc trưng cho cái gì của mỗi con người thì hết sức khó khăn khi phân tích. C. Jung - nhà phân tâm học người Đức nổi tiếng thế giới ca ngợi rằng: "Tây du ký phải do một vị Phật sáng tác". Nguyên thần: ??? Phó nguyên thần: ??? Phật tính: ???
-
Núi Kê Túc - nơi Ngài Ca Diếp nhập đại định Tác giả: Huệ Pháp Ngày 10 tháng 11 vừa qua, tôi có nhân duyên tháp tùng cùng Hòa thượng Thích Như Điển và đại chúng đi chiêm bái hang động nơi Ngài Ca Diếp, Tổ sư thứ nhất của Phật giáo nhập đại định. Theo lịch sử ghi lại trong kinh điển, Ngài Ca Diếp đã chọn ngọn núi này nhập đại định để chờ đức Phật Di Lặc ra đời trao truyền y bát của đức Phật Thích Ca. Núi Kê Túc có nghĩa là núi Chân Gà, hình dáng ngọn núi giống ba móng chân của con gà chụp lên nên dân gian gọi là núi Kê Túc (núi Chân Gà), thuộc tiểu bang Bihar, tây bắc Ấn Độ. Đường đi từ Tháp Bồ Đề Đạo Tràng đến núi Kê Túc không xa, khoảng chừng 40 km. Tuy nhiên, vì đường xá quá tệ, nhiều ổ voi, ổ gà nên phải mất gần hai tiếng đồng hồ cho chuyến hành trình này. Trên đường tới, đi qua nhiều làng mạc, đặc biệt đi qua cây cầu bắc qua sông Ni Liên Thiền, nơi đức Thế Tôn quăng bát sữa xuống dòng nước đang chảy, để phát nguyện rằng: nếu như bát sữa trôi ngược dòng sông thì ta sẽ chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Qua hơn 2500 năm, dòng sông ấy nay vẫn còn. Vào mùa hè, nước sông cạn trơ đáy, chỉ còn một rãnh nhỏ có nước ở giữa bãi cát rộng. Người dân bắt đầu trồng trọt rau màu trên đó. Mùa mưa đến thì nước tràn bờ, dòng nước chảy rất mạnh. Chính phủ đã cho xây cây cầu bê tông bắt qua hai bờ sông để giao thông thuận lợi. Trên đường đi, tôi để ý có nhiều làng mạc rất nghèo, nhà cửa được xây bằng đất sét, lụp xụp; trước nhà thì nuôi trâu bò; có những rãnh nước thải đổ trực tiếp trước nhà trong rất mất vệ sinh. Phải biết rằng, Bihar là một trong những tiểu bang nghèo nhất ở Ấn Độ. Dân cư ở khu vực Gaya – gần Tháp Bồ Đề Đạo Tràng – sống chủ yếu bằng nghề nông, chăn nuôi gia súc. Một nghề khác thường thấy ở khu vực này là nghề ‘cái bang’, tập trung chủ yếu ở những nơi có Thánh tích Phật giáo. Vào mùa hành hương, khoảng thời gian tháng 10 đến tháng 04 năm sau, họ lại tụ tập, từ xưa đến nay vẫn như thế, và có khuynh hướng tăng lên. Nhiều khi họ có công ăn việc làm, nhưng vẫn thích cái nghề ‘sè tay năm ngón’ vừa nhàn rỗi, không mệt sức, chỉ có điều hơi mỏi miệng tí. Có nhiều em nhỏ, sáng đi học, chiều tham gia vào hội để kiếm thêm thu nhập cho gia đình, thế đấy! Ba năm trước, tôi đến Bồ Đề Đạo Tràng, thành viên cái bang chưa biết tiếng Việt, giờ thì đã rành: A Di Đà Phật chào thầy, chào cô, cho con xin ít tiền nuôi gia đình… nghe mà cũng động lòng. Khi xe chúng tôi vừa tới thì dân làng ở đây ra chào “Hello” rất đông. Tôi tự nghĩ, họ chắc cũng là Phật tử hay tính họ hiếu khách khi thấy người nước ngoài tới thăm. Thế nhưng, thật ra họ biết chúng tôi lên núi Kê Túc, nên đến để giúp chúng tôi, đổi lại họ có thêm ít tiền để sống, gọi đơn giản là ‘làm ăn’. Lớn có, nhỏ có, đi theo chúng tôi để tìm kiếm cơ hội được làm việc. Trong đoàn có vài chị lớn tuổi, nghĩ không kham nổi chuyện vừa đèo túi xách, vừa đèo cái thân lên núi, nên nhờ ngay một em nhỏ, và trả giá cho chuyến làm ăn này 100 rupees (khoảng 40.000 VNĐ). Cậu bé này chấp nhận ngay. Với người dân quê nghèo vùng này, 100 rupees là lớn lắm. Rồi đoàn cũng phải nhờ một số thanh niên giúp trong việc đèo thức ăn, nước uống, giúp cho những người già lên núi. Xong đâu đó, cả đoàn cùng nhau vượt chướng ngại vật lên chiêm bái đức Tổ Ca Diếp. Từ dưới nhìn lên, núi Kê Túc không cao lắm, nhưng khi đã đi đến nửa chặng đường rồi thì quả mới biết: lên non mới biết non cao. Đường lên đỉnh núi chỗ có bậc tam cấp, có chỗ không. Được biết, chính Phật giáo Tây Tạng đã làm con đường này để Phật tử dễ dàng lên núi chiêm bái. Trên đỉnh núi, có một cái tháp đang xây, mang dáng dấp kiểu Tây Tạng, nên dễ dàng đoán điều đó. Trên đường chinh phục độ cao này, đoàn phải nghỉ nhiều chặng, uống hết bao nhiêu là chai nước. Rồi mỗi khi dừng lại nghỉ ngơi, lại được nghe Hòa Thượng Như Điển ngâm thơ, kể chuyện. Lúc đó mới biết Hòa Thượng có trí nhớ tuyệt vời, biết viết và nói rành năm ngôn ngữ: Tiếng Anh, Đức, Pháp, Nhật và Trung. Hòa thượng nói rằng, ngài có thể nhớ bao nhiêu câu trong một bài thơ, những bài thơ ngài học thuộc lòng từ thời đi học, giờ vẫn còn nhớ như in. Trong trí nhớ của ngài, còn có cả ngàn số điện thoại đang được lưu. Hòa Thượng tuy tuổi đã cao, nhưng nhờ hằng ngày lạy Phật nên ngài leo núi giỏi hơn chúng đệ tử còn trai tráng này. Hòa thượng còn kể nhiều chuyện nghe rất hấp dẫn và ngài đố đại chúng rằng: Tại sao đức Ca Diếp lại chọn hòn núi cao và hiểm trở này để nhập Đại định? Ai cũng trả lời; nào là: vì núi cao thì yên tịnh, thích hợp cho việc tu hành, nhập định; nào là: để không cho ai lên quấy rầy giống như ở dưới xóm làng v.v... Ngài cười vui trả lời rằng: để thử lòng người hậu thế, xem ai có lòng lên thăm! Cả đại chúng đều cười vui vẻ, khiến sự mệt mỏi tan biến. Cuối cùng rồi đỉnh núi cũng không phụ lòng người. Tới nơi rồi! Ai cũng tỏ vẻ hớn hở vì mình có nhân duyên lớn được chiêm bái nơi này. Trên đỉnh núi có một ngọn núi đá to ngáng đường, để lên được đỉnh thì phải trèo lên. Thế nhưng, theo lịch sử ghi lại, Ngài Ca Diếp đã dùng thần lực chẻ đôi ngọn núi đá ấy, rồi đi vào bên trong. Hiện nay, chứng tích ấy vẫn còn. Vách đá hai bên của đường chẻ bằng phẳng. Đường vào bên trong nhỏ hẹp dần, nếu ai mập quá thì không thể lách người qua được. Đi đến cuối đường thì rẽ trái, có một cái lỗ nhỏ chui qua để lên phía trên, hơi khó đi nhưng rất ấn tượng. Đây không phải là sự sáng tạo của thiên nhiên, mà của một vị Thánh nhân, là bậc thầy của người con Phật nên ta có cảm giác vừa thú vị, vừa hãnh diện về điều này. Khi lên trên đỉnh rồi, chúng ta có thể quan sát thấy đồng bằng bốn bên, và vì thế, núi Kê Túc không phải là một dãy núi mà chỉ là một ngọn núi nằm trơ trọi ở một vùng đất bằng phẳng. Tầm nhìn xa và rất đẹp. Trên đỉnh núi có một cái tháp đang được xây, theo kiến trúc của Phật giáo Tây Tạng, dưới tháp đó là một cái hang, được cho là nơi đức Ca Diếp ngồi nhập định. Chỗ đó giờ được xây thành một điện thờ nhỏ, trong có tôn tượng đức Ca Diếp, làm nơi hành lễ của các đoàn đến chiêm bái. Cả đoàn dưới sự chủ trì của Hòa thượng, tụng một thời kinh ngắn, rồi cùng ngồi xuống nghe giảng về công hạnh của đức Ca Diếp. Sau đó, dùng bữa trưa rồi xuống núi. Ai cũng muốn ở lại thật lâu để ở bên cạnh đức Ca Diếp. Trên này, từng có người ngồi thiền suốt đêm với những cơn gió thổi hun hút. Đường xuống núi ai nấy đều tỏ vẻ hạnh phúc, có nhiều thời gian để chụp hình kỷ niệm. Ai cũng nghĩ, xuống núi sẽ dễ và ít mệt hơn lên, nhưng cũng có người, khi lên thì dễ, chứ xuống thì đôi chân trở nên yếu đuối, vì phải chịu lực của cả thân thể đè xuống, nên đôi chân bị run, và có cảm giác rất khó tả, chỉ mong được xuống càng nhanh càng tốt. Lúc xuống núi chỉ khoảng 2 giờ chiều, nhưng về tới nhà thì hơn 4 giờ chiều. Trong hành trình chiêm bái của các đoàn, ít có đoàn nào viếng thăm núi Kê Túc, vì tuyến đường này ngược với các điểm khác. Nếu đi núi Kê Túc thì phải mất một ngày, trong khi các tuyến khác, thì một ngày đi vài địa điểm. Thời gian có hạn nên các đoàn cũng phải lựa chọn địa điểm để viếng thăm. Một ngày trôi qua, tôi đã có được một việc làm lợi ích, như lời của Hòa thượng Như Điển dạy: Hãy làm một việc lợi ích dù nhỏ trong một ngày, đừng để thời gian trôi qua vô ích. Chuyến chiêm bái để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho mọi người trong đoàn, một trải nghiệm mới, một niềm tin về đạo mạnh mẽ, Bồ đề tâm càng thêm kiên cố. Đi về rồi, ai cũng muốn tu để được gặp lại Ngài Ca Diếp trong tương lai.
-
Sử kí - Đông Di liệt truyện Dịch giả: Tích Dã Lưu Tống - Phạm Diệp soạn Đường - Lí Hiền chú Vương chế chép: "Người phương đông gọi là người Di". Di là rễ, ý nói nhân ái mà hiếu sinh. Muôn vật cắm rẽ vào đất mà sinh sôi, cho nên người Di bản tính ôn hòa, dễ lấy đạo mà dạy, có các nước Quân Tử-Bất Tử. Người Di có chín chủng, gọi là Quyến Di-Vu Di-Phương Di-Hoàng Di-Bạch Di-Xích Di-Huyền Di-Phong Di-Dương Di. Cho nên Khổng Tử muốn ở đất Cửu Di vậy. [sơn hải kinh chép: "Người nước Quân Tử mặc áo, đội mũ, đeo kiếm, ăn thịt thú, sai hai con hổ văn ở bên". Ngoại quốc đồ chép: "Cách quận Lang Da ba vạn dặm". "Người nước Bất Tử tại phía đông nước Giao Hĩnh, người nước này da đen, sống thọ không chết". Đều tại phương đông vậy.] [Trúc thư kỉ niên chép: "Vua Hạ là Phân Phát lên ngôi được ba năm, người Cửu Di đến chầu". "Năm thứ hai mươi mốt thời vua Hạ là Tiết, truyền lệnh đến người Khuyển Di-Bạch Di-Xích Di-Huyền Di-Phong Di-Dương Di. Vua Hạ là Tướng lên ngôi được hai năm, đánh người Hoàng Di. Năm thứ bảy, người Vu Di đến thăm. Vua Hạ là Thiếu Khang lên ngôi, người Phương Di đến thăm".] Ngày xưa vua Nghiêu sai Hi Trọng đến mở đất Ngung Di, gọi là Dương cốc, đại khái là chỗ mà mặt trời mọc. Vua Thái Khang của họ Hạ Hậu thất đức, người Di bắt đầu làm phản. Từ thời vua Thiếu Khang về sau, người thường theo vương hóa, làm khách ở triều đình, dâng khúc hát điệu múa. Vua Kiệt làm việc bạo ngược, người Di vào xâm phạm,. Vua Thang của nhà Ân đổi mệnh, đem binh đánh mà bình người Di. Đến thời vua Trọng Đinh, người Lam Di đánh cướp. Từ đó lúc phục lúc làm phản, được hơn ba trăm năm. Đời vua Vũ Ất suy kém, người Di ở phía đông thêm mạnh, bèn dời đến đất Hoài-Đại, dần dần trú ở Trung Thổ (tức Trung Quốc). [Khổng An Quốc chú Thượng thư chép: "Đất ở phương đông gọi là Ngung Di. Thang cốc là chỗ mà mặt trời mọc".] [Trúc thư kỉ niên chép: "Vua Hạ là Phát lên ngôi năm đầu, người Di thăm ở cửa nhà vua, người Di vào múa". "Trọng Đinh lên ngôi, đánh đến chỗ người Lam Di".] Đến thời Vũ Vương diệt vua Trụ, người Túc Thận đến dâng mũi tên đá, mũi tên cây hộ. Quản-Sái phản nhà Chu, Chu Công đánh Quản-Sái, rồi đánh dẹp người Di ở phía đông. Vào thời Khang Vương, người Túc Thận lại đến. Sau đó người Di ở đất Từ tiếm hiệu, bèn đem lĩnh quân Cửu Di đến đánh nhà Chu, sang phía tây đến đầu nguồn sông Hoàng Hà. Mục Vương sợ sự lớn mạnh của người Di, bèn chia chư hầu ở phương đông, phong Từ Yển Vương trông coi người Di. Yển Vương ở phía đông sông Hoàng, đất đai năm trăm dặm, tỏ rõ nhân nghĩa, có ba mươi sáu nước hướng về mà chầu phục. Sau đó Mục Vương làm được xe ngựa kí lục, bèn sai Tạo Phủ đánh xe đến báo cho vua Sở, sai đánh nước Từ, một ngày thì đến. Do đó Sở Văn Vương phát đại quân mà diệt nước Từ. Yển Vương nhân ái mà không quyền biến, không nỡ đánh quân Sở, cho nên bị thua. Yển Vương bèn chạy đến dưới núi phía đông huyện Vũ Nguyên quận Bành Thành, trăm họ đi theo Yển Vương đến mấy vạn người, nhân đó tên núi gọi là núi Từ. Lệ Vương vô đạo, người Hoài Di (tức người Di ở ven sông Hoài) vào cướp, Lệ Vương sai Quắc Trọng đánh người Di, không thắng, Tuyên Vương lại sai Thiệu Công đánh mà dẹp người Di. Đến đời U Vương dâm loạn, người Di đến xâm phạm. Đến thời Tề Hoàn Công làm bá, liền dẹp trừ được. Đến thời Sở Linh Vương hội chư hầu ở ấp Thân, người Di cũng đến thề ước. Sau đó vua Việt (tức vua Việt là Câu Tiễn) dời đô đến ở ấp Lang Da, hợp với người Di đánh dẹp, bèn lấn hiếp Hoa Hạ, phá diệt các nước nhỏ. [Thượng thư chép: "Vũ Vương băng, tam giám cùng người Hoài Di phản, Chu Công đánh chúng, soạn đại cáo". "Thành Vương đã đánh Quản Thúc-Sái Thúc, lại diệt người Hoài Di".] [Thi Tử chép: "Yển Vương có gân mà không có xương, cho nên gọi là 'Yển'".] [Huyện Vũ Nguyên tại phía bắc huyện Hạ Bì thuộc châu Tứ. Núi Từ ở phía đông huyện này. Bác vật chí chép: "Người trong cung vua Từ mang thai nhưng sinh ra quả trứng, vua cho là không lành, vứt quả trứng ở bờ sông. Một người đàn bà có con chó tên là 'hộc thương', thấy quả trứng bị vứt, ngậm về cho người đàn bà ấy, người đàn bà ấy trùm lấy sưởi ấm quả trứng, cuối cùng nở ra một đứa trẻ con, lúc sinh thì nằm ngửa, cho nên gọi là 'Yển'. Người trong cung nghe tin, bèn đổi lấy lại. Lớn lên nối làm vua Từ". "Vua Từ quái lạ khác thường. Phía đông huyện Vũ Nguyên mười dặm thấy có miếu thờ, hang đá ở núi Từ. Yển Vương làm rãnh thông vào đất Trần-Sái, lấy được cây cung đỏ, mũi tên đỏ, cho là đã có ý trời, tự xưng là Yển Vương. Mục Vương nghe tin, sai sứ ngồi ngựa tứ đi một ngày thì đến nước Sở, sai đánh Yển Vương. Yển Vương nhân từ, không nỡ đánh, bị quân Sở đánh bại, chạy lên phía bắc đến núi Từ".] Nhà Tần chiếm cả sáu nước, người Di ở vùng Hoài-Tứ đều chia làm dân hộ. Trần Thiệp dấy binh, thiên hạ vỡ lở, người nước Yên là Vệ Mãn tránh đến nước Triều Tiên, nhân đó làm vua ở nước này, được hơn một trăm năm, Hán Vũ Đế diệt nước Triều Tiên, do đó người Di ở phía đông bắt đầu qua lại kinh đô. Vương Mãn soán vị, người Mạch cướp vùng biên giới. Đầu năm Kiến Vũ, người Di lại đến chầu cống. Bấy giờ Thái thú Liêu Đông là Sái Dung uy hiếp phương bắc, oia lừng miền bờ biển, do đó người Uế, Mạch, Oa, Hàn trải vạn dặm đến chầu cống, cho nên thời Chương-Hòa về sau, sứ giả các nước Di đến qua lại. Kịp đến những năm Vĩnh Sơ, đất Trung Quốc có nhiều nạn, người bắt đầu vào cướp bóc; Hoàn-Linh bỏ bê chính sự, người Di càng thêm khinh mạn. Từ sau thời trung hưng, người Di đến chầu, dẫu có lúc phản nhưng sứ giả đến không dứt, cho nên tục lệ của các nước này được ghi chép qua. Người Đông Di đại khái tụ thành ấp xóm, vui vẻ uống rượu múa hát, đội mũ biện mặc áo gấm, có dùng bát, mâm, cho nên mới nói là nếu Trung Quốc bỏ bê lễ nghi thì tìm đến 'Tứ Di'. Man, Di, Nhung, Địch cộng lại gọi là 'Tứ Di', giống Công, Hầu, Bá, Tử, Nam đều là hiệu của chư hầu vậy. Nước Phù Dư ở cách phía bắc quận Huyền Thố nghìn dặm, phía nam tiếp với nước Cao Câu Li, phía đông tiếp với nước Ấp Lâu, phía tây tiếp với đất của người Tiên Ti, phía bắc có sông Nhược. Đất rộng hai nghìn dặm, vốn là đất của người Uế. Trước đây, vua của nước Tố Li ở phía bắc xuất hành, người hầu gái của vua ở nhà mang thai, vua về, muốn giết đi, người hầu gái nói: "Lúc trước thấy trên trời có luồng khí, lớn như quả trứng gà, bay xuống vào người thiếp, cho nên có thai". Vua bắt giam người hầu gái, sau đó người hầu gái sinh con trai. Vua sai đặt ở chuồng heo, heo chũi mõm thở vào đứa bé, không chết. Sau dời đến chuồng ngựa, ngựa cũng như vậy. Vua cho là thần, bèn cho mẹ đưa về nuôi, đặt tên là Đông Minh. Đông Minh lớn lên thì bắn tên giỏi, vua kị sự dũng mãnh của Đông Minh, lại muốn giết đi. Đông Minh chạy trốn, xuống phía nam đến sông Yểm Hổ, lấy cung đập vào nước, do đó cá, rùa đều tụ nổi trên mặt sông, Đông Minh cưỡi mà qua được, nhân đó đến nước Phu Dư mà làm vua ở đấy. Thành ở đất Đông Di, lớn nhất là Bình Xưởng, đất hợp với ngũ cốc. Xuất ngựa tốt, ngọc đỏ, chồn, ngọc trai lớn và táo chua, lấy tre gỗ tròn làm thành, có cung điện, kho tàng, nhà ngục. Người người nước này to lớn hùng dũng mà thật thà, không gây cướp bóc. Lấy cung tên, mâu, đao làm binh khí. Lấy tên sáu loài súc vật đặt tên chức quan, có 'Mã gia', 'Ngưu gia', 'Cẩu gia', các ấp xóm đều thần phục các 'gia'. Ăn uống thì dùng mâm, bát, cùng hội họp vái mời nhau, nhường nhau lên xuống. Đến tháng chạp thì tế trời, hội họp liên ngày, ăn uống múa hát, gọi là 'nghênh cổ'. Lúc ấy bỏ hình ngục, cởi giam trói. Có việc quân cũng tế trời, giết bò, lấy móng chân bò để bói tốt xấu. [Ngụy chí chép: "Móng bò toác là xấu, móng liền là tốt".] Người đi đường không kể ngày đêm đều ưa ca ngâm, âm thanh không dứt. Thói thường dùng hình pháp nghiêm ngặt, kẻ nào bị tội chết thì đều bị tịch thu người nhà làm nô tì. Nếu trộm một thì đền mười. Trai gái gian dâm thì đều bị giết, rất ghét tính đố kị, đã bị giết rồi còn vứt thây ở trên núi. Anh trai chết thì em trái lấy chị dâu. Lúc chết thì dùng quách mà không dùng quan để táng, giết người táng theo, có khi nhiều đến mấy trăm người. Vua của nước này táng dùng rương ngọc, nhà Hán thường sắm sẵn rương ngọc trao cho quận Huyền Thố, lúc vua nước này chết thì đón lấy đặt vào rương ngọc mà táng. Giữa năm Kiến Vũ, các nước Đông Di đều đến cống nạp. Năm thứ hai mươi lăm, vua Phù Dư sai sứ giả đến cống, vua Quang Vũ báo đáp nồng hậu, do đó sứ giả hằng năm qua lại. Đến năm Vĩnh Sơ thứ năm thời An Đế, vua Phù Dư bắt đầu đem bảy-tám nghìn quân kị bộ cướp bóc quận Lạc Lãng, giết hại quan dân, sau lại thần phục. Năm Vĩnh Ninh thứ nhất, lại sai người nối tự là Úy Cừu Đài đến cửa khuyết cống nạp, thiên tử ban ấn thao vàng cho Úy Cừu Đài. Năm Vĩnh Hòa thứ nhất thời Thuận Đế, vua của nước này đến chầu ở kinh sư, Đế bày nhạc trống, tù và ở cửa Hoàng Môn để đón đãi. Năm Diên Hi thứ tư thời Hoàn Đế, sai sứ giả đến chầu cống. Năm Vĩnh Khang thứ nhất, vua là Phù Đài đem hơn hai vạn quân vào cướp quận Huyền Thố, Thái thú Huyền Thố là Công Tôn Vực đánh phá được, chém hơn nghìn thủ cấp. Đến năm Hi Bình thứ ba thời Linh Đế, lại đến nạp cống. Nước Phù Dư vốn thuộc quận Huyền Thố, thời Hiến Đế, vua của nước này xin thuộc vào quận Liêu Đông. Nước Ấp Lâu là nước Túc Thận xưa vậy. Ở cách phía đông bắc nước Phù Dư hơn nghìn dặm, phía đông kề biển lớn, phía nam và phía bắc tiếp với nước Ốc Trở, không biết nơi tận cùng phía bắc của nước ấy. Đất đai phần nhiều là núi hiểm, dáng người giống người Phù Dư, nhưng tiếng nói đều khác. Có trồng ngũ cốc, vải gai, xuất ngọc đỏ, chồn tốt. Không có quân trưởng, ở các ấp xóm của họ có 'Đại nhân'. Sống ở giữa rừng núi, khí đất rất lạnh, thường ở trong hang, cho là sâu thì tốt, nhà lớn có đến chín cái bậc. Ưa nuôi heo, ăn thịt heo, lấy da heo làm áo. Mùa đông lấy mỡ heo bôi lên người, dày mấy phân để chống gió lạnh. Mùa hạ thì cởi trần, lấy tấm vải nhỏ che trước sau. Người ở đây bẩn thỉu không sạch sẽ, làm nhà xí ở trong, ở quây xung quanh mà ở. Từ lúc nhà Hán nổi lên về sau, người Ấp Lâu thần phục nước Phù Dư. Dân chúng dẫu ít, nhưng phần nhiều hùng dũng, ở nơi núi non hiểm trở, lại bắn tên giỏi, bắn ra có thể trúng mắt người. Cung dài bốn thước, cứng giống nỏ. Mũi tên dùng từ cây hộ, dài một thước tám tấc, lấy đá xanh làm đầu mũi tên, đầu mũi nhọn đều bôi thuốc độc, người trúng phải liền chết. Giỏi chèo thuyền, hay trộm cướp, người các nước xung quanh lo lắng, nhưng không thể áp phục. Người Phù Dư, Đông Di ăn uống đều dùng mâm, bát, chỉ có người Ấp Lâu thì không, thói tục rất không có phép tắc như vậy. Nước Cao Câu Li ở phía đông của quận Liêu Đông nghìn dặm, phía nam tiếp các nước Triều Tiên, Uế-Mạch, phía đông tiếp nước Ốc Trở, phía bắc tiếp với nước Phù Dư. Đất rộng hai nghìn dặm, nhiều hang sâu núi lớn, người dân theo đó mà ở. Ruộng trồng ít, làm không đủ để tự cung cấp, cho nên tục người ở đây dè xẻn khi ăn uống, nhưng dựng cung thất giỏi. Người Đông Di bảo nhau rằng người Cao Câu Li là một chủng khác của người Phù Dư, cho nên tiếng nói, hình pháp phần nhiều giống nhau, nhưng quỳ bái chỉ dùng một chân, đi bộ như chạy. Cả thảy có năm bộ, có bộ Tiêu Nô, bộ Tuyệt Nô, bộ Thuận Nô, bộ Quán Nô, bộ Quế Nô. Vốn là bộ Tiêu Nô làm vua, dần dần suy yếu, sau đó bộ Quế Nô nối thay. Nước này đặt quan lại có 'Tướng gia', 'Đối lô', 'Bái giả', 'Cổ trâu đại gia', 'Chủ bạ', 'Ưu đài', 'Sứ giả', 'Bạch y tiên nhân'. Hán Vũ Đế diệt nước Triều Tiên, lấy nước Cao Câu Li đặt làm huyện, thuộc vào quận Huyền Thố, ban cho ca kĩ thổi sáo đánh trống. Tục thường dâm dật, đều sạch sẽ tự vui, buổi chiều tối thì trai gái tụ tập hát xướng, ưa tế quỷ thần, xã tắc, sao Linh, thường vào tháng mười thì mở hội lớn tế trời, gọi là 'Đông minh'. Phía đông nước này có hang lớn, gọi là 'Toại thần', cũng vào tháng mười thì đến tế ở đấy. Người tụ hội đều mặc áo quần gấm thêu, tự trang điểm vàng bạc. Các 'Đại gia', 'Chủ bạ' đều đội khăn, giống khăn mũ, nhưng không có dải phía sau; các 'Tiểu gia' thì đội khăn 'chiết phong', hình giống mũ biện. Không có nhà ngục, nếu có tội thì 'gia' bàn bạc rồi giết kẻ đó, tịch thu vợ con làm nô lệ. Phép cưới hỏi thì đều tới nhà vợ, sinh con lớn lên, sau đó đem về, rồi dần dần sắm sửa đồ táng, vàng bạc tiền của đều táng cả theo, chất đá đắp mộ, cũng trồng tùng bách bên mộ. Tính người nước này hung hăng, có sức khỏe, tập chiến đấu, ưa cướp bóc, các nước Ốc Trở, Đông Uế đều phụ thuộc. Người Cao Câu Li còn gọi là người Mạch, có chủng khác dựa vào sông nhỏ mà ở, nhân đó có tên là 'Tiểu Thủy Mạch'. Xuất cung tốt, gọi là 'cung Mạch' vậy. Đầu thời Vương Mãng, phát quân của nước Cao Câu Li đi đánh rợ Hung Nô, người nước này không muốn đi, cưỡng bức sai đi, đều trốn ra biên giới làm giặc. Đại doãn Liêu Tây là Điền Đàm đuổi đánh, chết trong trận. Mãng sai tướng của Đàm là Nghiêm Vưu đi đánh, dụ vua Cao Câu Li là Sô vào cửa ải, chém Sô, đưa đầu về Tràng An. Mãng mừng lắm, đổi tên Cao Câu Li Vương là Hạ Cao Li Hầu, do đó người Mạch cướp biên giới thêm nhiều. Năm Kiến Vũ thứ tám, vua Cao Câu Li sai sứ chầu cống, vua Quang Vũ phong lại tước hiệu cho vua của nước này. Mùa đông năm thứ hai mươi ba, người Cao Câu Li là Tàm Chi Lạc Đại Gia Lạc Đái Thăng đem hơn vạn người đến quận Lạc Lãng xin nội thuộc. Mùa xuân năm thứ hai mươi lăm, người Cao Câu Li cướp các quận Hữu Bắc Bình-Ngư Dương-Thượng Cốc-Thái Nguyên, rồi Thái thú Liêu Đông là Sái Dung lấy ân đức vỗ về, do đó đều quay về biên giới. Sau đó vua Cao Câu Li là Cung sinh ra mở mắt đã nhìn được, người trong nước hướng về, đến lúc lớn lên, nhiều lần phạm biên cảnh. Mùa xuân năm Nguyên Hưng thứ nhất thời Hòa Đế, Cung lại vào quận Liêu Đông, cướp chiếm sáu huyện, Thái thú là Cảnh Quỳ đánh phá được, chém cừ súy của quân ấy. Năm Vĩnh Sơ thứ năm thời An Đế, Cung sai sứ giả nạp cống, xin thuộc vào quận Huyền Thố. Năm Nguyên Sơ thứ năm, Cung lại cùng người Uế-Mạch cướp quận Huyền Thố, đánh thành Hoa Li. Mùa xuân năm Kiến Quang thứ nhất, bọn Thứ sử châu U là Phùng Hoán, Thái thú Huyền Thố là Diêu Quang, Thái thú Liêu Đông là Sái Phúng đem binh ra biên giới đánh Cung, bắt chém cừ súy của người Uế-Mạch, bắt được binh mã tài vật. Cung bèn sai con của mình là Toại Thành đem hơn hai nghìn quân chặn đánh bọn Quang, sai sứ trá hàng; bọn Quang tin theo, Toại Thành nhân đó chiếm nơi hiểm yếu để giấu đại quân, rồi ngầm sai ba nghìn quân đánh các quận Huyền Thố, Liêu Đông, đốt thành quách, giết hại hơn hai nghìn người. Do đó nhà Hán phát hơn ba nghìn quân kị của các thuộc quốc Quảng Dương, Ngư Dương, Hữu Bắc Bình, Trác Quận cùng đến ứng cứu, nhưng người Mạch đã bỏ đi. Mùa hạ, Cung lại cùng hơn tám nghìn người người Tiên Ti ở quận Liêu Đông đánh thành Liêu Đội, cướp giết quan dân. Bọn Sái Phúng đuổi đánh đến huyện Tân Xương, chết trong trận, Công tào là Cảnh Háo, Binh tào duyện là Long Đoan, Binh mã duyện là Công Tôn lấy thân che cho Phúng, cùng chết ở trận, kẻ chết đến hơn trăm người. Mùa thu, Cung lại đem mấy nghìn quân kị Mã Hàn, Uế-Mạch vây quận Huyền Thố. Vua Phù Dư sai con là Úy Cừu Đài đem hơn hai vạn quân, cùng châu quận ra sức đánh phá Cung, chém hơn năm trăm thủ cấp. Năm đó, Cung chết, con là Toại Thành lập. Diêu Quang dâng thư lên muốn nhân tang của nước ấy mà phát binh đi nước ấy, người bàn bạc đều cho là được. Thượng thư là Trần Trung nói: "Cung trước kia là người kiệt hiệt, Quang không đánh được, nếu hắn chết mà đến đánh, là không có nghĩa vậy. Nên đến thăm điếu, nhân đó trách tội trước kia, tha mà không đánh để lấy việc tốt sau này". An Đế nghe theo. Năm sau, Toại Thành trả những người Hán bị bắt cho về, tự đến quận Huyền Thố xin hàng phục. Chiếu nói: "Bọn Toại Thành ngỗ ngược vô đạo, đáng bị băm chém để báo cho trăm họ, nhưng được tha cho, thú tội xin hàng. Tiên Ti, Uế-Mạch nhiều năm cướp bóc, đuổi cướp dân yếu, kinh động mấy nghìn người, lại giết chóc mấy chục trăm người, không có lòng hướng về vương hóa. Từ nay về sau, không được đánh nhau với quan huyện, phải gần gũi yêu thương dân chúng để chuộc tội, ban cho mươi người thợ lụa, một nửa là người trẻ". Toại Thành chết, con là Bá Cố lập, từ đó người Uế-Mạch thần phục, biên thùy phía đông ít việc xảy ra. Năm Dương Gia thứ nhất thời Thuận Đế, đặt sáu bộ đóng đồn làm ruộng ở quận Huyền Thố. Giữa thời Chất-Hoàn, lại vào huyện Tây An Bình quận Liêu Đông, giết quan Lệnh của huyện Đái Phương, cướp được vợ con của Thái thú Lạc Lãng. Năm Kiến Ninh thứ hai, Thái thú Huyền Thố là Cảnh Lâm đi đánh, chém mấy trăm thủ cấp, Bá Cố hàng phục, xin thuộc vào quận Huyền Thố. Nước Đông Ốc Trở ở phía đông núi lớn Cái Mã của nước Cao Câu Li, phía đông kề biển lớn, phía bắc tiếp với các nước Ấp Lâu-Phù Dư, phía nam tiếp với người Uế-Mạch. Nước này đông tây hẹp, nam bắc dài ước chừng đến nghìn dặm, đất phì nhiêu, đều dựa vào núi hướng ra biển, hợp với ngũ cốc, làm ruộng giỏi, có trưởng súy của ấp xóm. Tính người thẳng thắn cứng cỏi. Giỏi dùng mâu để đánh trận trên bộ. Tiếng nói, ăn uống, nhà ở, quần áo, có giống với người Cao Câu Li. Cách táng là làm quách bằng gỗ lớn, dài hơn mười trượng, mở một đầu làm nắp, người mới chết chôn trước, đợi da thịt tiêu hết, rồi lấy xương đặt trong quách. Người nhà đều cùng một quách, khắc tượng gỗ như dáng người lúc sống, rồi chôn theo người chết. Hán Vũ Đế diệt nước Triều Tiên, lấy nước Ốc Trở đặt thành quận Huyền Thố. Sau bị người Di-Mạch chiếm, dời quận đến phía tây bắc của nước Cao Câu Li, đổi nước Ốc Trở đặt làm huyện, thuộc Lạc Lãng Đông bộ Đô úy. Đến thời vua Quang Vũ, bỏ quan Đô úy, sau đó đều phong cừ súy của nước này làm Ốc Trở Hầu. Nước này nhỏ hẹp, xen giữa các nước lớn, bèn thần thuộc nước Cao Câu Li. Nước Cao Câu Li lại đặt quan lớn trong nước này làm sứ giả, để cùng trông coi, thu lấy tô thuế, chồn, vải, cá, muối, các đồ hải sản, lấy gái đẹp làm tì thiếp. Lại có nước Bắc Ốc Trở, còn gọi là Trí Câu Lâu, cách nước Nam Ốc Trở hơn tám trăm dặm. Tục nước này giống với người Nam Ốc Trở. Cảnh giới phía nam giáp nước Ấp Lâu, người Ấp Lâu ưa chèo thuyền cướp bóc, người Bắc Ốc Trở sợ, hễ đến mùa hạ lại náu ở hang đá, đến mùa đông đường thuyền đi không thông, lại xuống sống ở ấp xóm. Người già cả ở nước này bảo rằng từng lấy được một cái áo vải ở giữa biển, hình giống áo của người Trung Quốc, nhưng hai tay áo dài ba trượng. Lại ở bên bờ thấy một người cưỡi một cái thuyền vỡ, giữa đổ lại có mặt, chuyện với nhau không hiểu, không ăn rồi chết. Lại bảo rằng giữa biển có nước của đàn bà, không có đàn ông. Lại bảo truyền rằng nước này có giếng thần, nhìn vào sẽ sinh được con. Nước Uế, phía bắc tiếp với các nước Cao Câu Li-Ốc Trở, phía nam tiếp với nước Thần Hàn, phía đông kề biển lớn, phía tây đến quận Lạc Lãng. Nước Uế cùng các nước Ốc Trở-Cao Câu Li vốn đều là đất Triều Tiên. Xưa kia Vũ Vương phong Cơ Tử ở đất Triều Tiên, Cơ Tử dạy dân theo lễ nghĩa, cày ruộng nuôi tằm, lại đặt ra tám điều dạy. Người ở đây không trộm của nhau, không cần đóng cửa nhà. Đàn bà trinh tín. Ăn uống dùng mâm bát. Hơn bốn mươi đời sau đó, đến thời vua Triều Tiên là Chuẩn tự xưng vương. Đầu thời Hán loạn lớn, có đến mấy vạn người Yên-Tề-Triệu đến lánh nạn ở đất Triều Tiên, rồi người nước Yên là Vệ Mãn đánh phá Chuẩn mà tự làm vua ở đấy, truyền nước đến cháu là Hữu Cừ. Năm Nguyên Sóc thứ nhất, quân trưởng của nước Uế là bọn Nam Lư phản Hữu Cừ, đem hai mươi tám vạn người đến quận Liêu Đông xin nội thuộc, Hán Vũ Đế lấy nước Uế lập thành quận Thương Hải, được mấy năm lại bỏ. Đến năm Nguyên Phong thứ ba, diệt nước Triều Tiên, chia đặt thành bốn quận Lạc Lãng-Lâm Đồn-Huyền Thố-Chân Phiên. Đến năm Thủy Nguyên thứ năm thời Chiêu Đế, bỏ quận Lâm Đồn-Chân Phiên, gộp vào quận Lạc Lãng-Huyền Thố. Quận Huyền Thố lại chuyển đến nước Cao Câu Li. Từ núi lớn Đan Đan về phía đông, các nước Ốc Trở-Uế-Mạch đều thuộc quận Lạc Lãng. Sau vì đất đai xa rộng, lại chia bảy huyện ở phía đông núi, đặt ra Lạc Lãng Đông bộ Đô úy. Từ lúc nội thuộc về sau, phong tục kém dần, hình pháp cũng thêm phiền, có đến hơn sáu mươi điều. Năm Kiến Vũ thứ sáu, bớt quan Đô úy, rồi bỏ đất phía đông núi, đều phong cừ súy của nước này làm Huyện hầu, đều hằng năm chầu cống. Không có quân trưởng lớn, quan lại có có 'Hầu', 'Ấp quân', 'Tam lão'. Người già cả tự nói là cùng chủng với người Cao Câu Li, tiếng nói, phép tắc đại khái giống nhau. Tính người ở đây ngu dốt, ít ham muốn, không cầu xin. Trai gái đều mặc áo cổ gấp. Tục thường trọng sông núi, sông núi đều có bộ giới, không được tự tiện đi vào. Người cùng họ không được kết hôn, nhiều kiêng kị, nếu ốm đau chết chóc thì thường bỏ nhà cũ, lại làm nhà mới. Biết trồng cây gai, nuôi tằm, làm thành vải bông. Buổi sớm dậy lúc trời còn nhiều sao, đoán biết được vụ mùa đầy đủ. Thường đến tháng mười thì tế trời, ngày đêm uống rượu múa hát, gọi là "Vũ thiên". Lại tế hổ cho là thần. Ấp xóm có kẻ xâm phạm nhau, thì phạt nhau, bắt đền người, trâu, ngựa, gọi là 'Trách họa'. Kẻ giết người thì đền mạng. Ít cướp bóc. Đánh trận trên bộ, làm gậy dài ba trượng, hoặc mấy người cùng cầm. Cây cung làm bằng gỗ đàn ở quận Lạc Lãng được ra từ nước ấy. Lại có nhiều báo vằn, có ngựa 'quả hạ'.[Ngựa cao ba thước, ngồi lên ngựa này có thể đi dưới cây quả.] Ở biển có cá vằn, sứ giả đến đều dâng lên. Người Hàn có ba chủng: một là Mã Hàn, hai là Thần Hàn, ba là Biện Hàn. Mã Hàn ở phía tây, có sáu mươi tư nước, phía bắc đất ấy tiếp với quận Lạc Lãng, phía nam tiếp với chỗ của người Oa. Thần Hàn ở phía đông, có mười hai nước, phía bắc nước ấy tiếp với người Uế-Mạch. Biện Hàn ở phía nam của nước Thần Hàn, cũng có mười hai nước, nước này cũng tiếp với chỗ của người Oa. Cả thảy có sáu mươi tám nước, nước Bách Tế là một nước trong số đó. Nước lớn thì hơn vạn hộ, nước nhỏ thì mấy nghìn nhà, đều ở giữa núi biển, đất rộng khoảng hơn bốn nghìn dặm, phía đông tây lấy biển làm giới hạn, đều là nước Thần xưa vậy. Mã Hàn lớn nhất, cùng lập người nước mình làm Thần Vương, đóng đô là thành Mục Chi, trông coi cả ba nước Hàn. Các vị vua của họ trước kia là người Mã Hàn. Người Mã Hàn biết làm ruộng nuôi tằm, làm vải bông. Xuất cây dẻ giống cây lê. Có gà đuôi dài, đuôi dài năm thước. Sống xen lẫn ở ấp xóm, cũng không có thành quách. Làm nhà đất, hình giống nấm mộ, mở cửa ở trên. Không biết quỳ bái. Không phân biệt già trẻ, trai gái, không quý len bông, vàng ngọc, không biết cưỡi trâu ngựa, chỉ qúy ngọc châu, đeo lên áo đồ trang sức, và đeo tai bên cổ. Cừ súy đều đầu trần tóc để chỏm, mặc áo choàng dài, đi dày da. Người nước này dũng mãnh, lúc nhỏ đã đắp nhà làm đao, thường lấy dây xuyên qua da thịt, treo trên cây lớn, cho vậy là khỏe. Thường đến tháng năm là lúc làm ruộng xong thì tế quỷ thần, ngày đêm tụ hội uống rượu, quần tụ múa hát, múa thường mấy chục người theo nhau giẫm đất làm điệu. Tháng mười việc làm ruộng xong, cũng lại như vậy. Các nước này chọn một một người làm chủ việc tế trời, tế thần, gọi là "thiên quân". Lại lập 'tô đồ', dựng cây gỗ lớn để treo chuông trống, thờ qủy thần. Phía nam của nước này tiếp với chỗ của người Oa, cũng có người vẽ mình. Thần Hàn, người già ở nước này tự nói vốn là người bỏ đi từ thời Tần, trốn lao dịch mà lánh nạn đến nước Hàn, người Mã Hàn chia đất ở phía đông mà trao cho. Người nước này nói nước là 'bang', cung là 'hồ', giặc là 'khấu', uống rượu là 'hành thương', gọi nhau là 'đồ', có giống tiếng Tần, cho nên còn gọi là người Tần Hàn. Có rào lũy nhà ở. Các ấp nhỏ khác đều có cừ súy, lớn là 'Thần trí', thứ có 'Kiệm trắc', thứ có 'Phàn kì', thứ có 'Sát hề', thứ có 'Ấp tá'. Đất đai phì nhiêu, hợp với ngũ cốc. Biết trồng dâu nuôi tằm, làm vải bông. Cưỡi đi trâu ngựa. Cưới hỏi theo lễ nghi. Người đi nhường đường. Nước này có sắt, người Uế, Oa, Hàn đều đến mua lấy. Hết thảy vật trao đổi đều lấy sắt làm tiền. Tục thích múa hát, uống rượu, đánh đàn, gõ trống. Sinh con muốn khiến cho đầu nhọn, đều lấy đá để nắn ép. Người Biện Hàn ở lẫn với người Thần Hàn; thành quách, quần áo đều giống nhau, còn tiếng nói, phong tục có khác. Dáng người đều to cao, tóc đẹp, quần áo đẹp đẽ. Nhưng hình pháp nghiêm ngặt. Nước này gần với chỗ của người Oa, cho nên cũng có người vẽ mình. Trước đây, vua Triều Tiên là Chuẩn bị Vệ Mãn phá, bèn đem mấy nghìn người còn sót chạy vào biển, đánh nước Mã Hàn, phá được, tự lập làm vua ở nước Hàn. Dòng dõi của Chuẩn diệt dứt, người Mã Hàn lại tự lập làm Thần Vương. Năm Kiến Vũ thứ hai mươi, người Hàn ở thuộc ấp Liêm Tư là bọn Tô Mã Thị đến Lạc Lãng dâng cống. Vua Quang Vũ phong Tô Mã Thị làm chúa ấp Liêm Tư, sai thuộc vào quận Lạc Lãng, bốn mùa chầu cống. Cuối thời Linh Đế, người Hàn-Uế đều mạnh, quận huyện không ngăn được, trăm họ khổ loạn, phần nhiều bỏ chạy vào nước Hàn. Ở phía tây của nước Mã Hàn, trên đảo biển có nước Châu Hồ. Người nước này nhỏ bé, cắt tóc, áo không ra áo, có trên không có dưới. Nuôi bò, heo giỏi. Cưỡi thuyền qua lại mua bán ở giữa nước Hàn. Người Oa ở giữa biển lớn phía đông nam của nước Hàn, dựa vào đảo núi mà ở, cả thảy có hơn trăm nước. Từ thời Hán Vũ Đế diệt nước Triều Tiên, sứ giả đến qua lại với Hán có đến hơn ba mươi nước, mỗi nước đều xưng vương, nối nhau truyền nước. Vua Oa trú ở thành Tà Mã Đài. Ngoài quận Lạc Lãng, đi nước này khoảng một vạn hai nghìn dặm, cách phía tây bắc nước ấy là nước Câu Tà Hàn hơn bảy nghìn dặm. Nước đại khái ở phía đông của huyện Đông Dã quận Cối Kê, gần với các quận Chu Nhai-Đam Nhĩ, cho nên hình pháp, phong tục phần nhiều giống nhau. Đất hợp với lúa nước, cây gai, cây dâu tằm, biết buộc sợi làm vải. Xuất ngọc trai trắng, ngọc xanh. Núi ở đây có đất đỏ. Khí hậu ôn hòa, mùa đông mùa hạ rau cỏ sinh sôi. Không có bò, ngựa, hổ, báo, dê, chim khách. Binh khí có mâu, thuẫn, cung gỗ, tên tre, hoặc lấy xương làm đầu của mũi tên. Đàn ông đều xăm mặt vẽ mình, dựa vào hình xăm ở tay trái tay phải lớn hay bé để phân biệt trên dưới. Quần áo của đàn ông ở đây đều buộc khăn ngang liền nhau. Đàn bà trùm tóc trên đầu, áo giống chăn đơn, quấn trên đầu mà đội; đều lấy đất đỏ bôi lên người, giống người Trung Quốc bôi phấn vậy. Có rào lũy, nhà ở, cha mẹ, anh em ở riêng, riêng lúc hội họp thì không phân biệt trai gái. Ăn uống dùng tay, nhưng dùng bát, mâm. Tục đều đi chân trần, ngồi xổm cho là cung kính, tính người thích rượu. Phần nhiều người già sống lâu, rất nhiều người hơn trăm tuổi. Nước này có nhiều con gái, người quyền quý đều có đến bốn đến năm vợ, còn lại hoặc hai hoặc ba vợ. Đàn bà không dâm không ghen. Lại nữa tục không trộm cướp, ít khi tranh cãi. Người phạm pháp thì tịch thu vợ con người đó, nếu tội nặng thì giết cả nhà. Người chết để tang hơn mười ngày, người nhà khóc lóc, không uống rượu, người trong nhà lại múa hát bày nhạc. Đốt xương để bói, dùng để đoán tốt xấu. Nếu có vượt biển, sai một người không tắm gội, không ăn thịt, không ở gần đàn bà, gọi là 'trì suy'. Nếu trên đường thuận lợi, thì ban cho tài vật; còn bệnh tật gặp hại, cho là trừ xấu không tốt, liền giết đi. Năm Kiến Vũ Trung Nguyên thứ hai, người Oa Nô đến chầu cống chúc mừng, sứ giả tự xưng là 'Đại phu', nước này ở phía nam của nước Oa vậy. Vua Quang Vũ ban cho ấn thao. Năm Vĩnh Sơ thứ nhất thời An Đế, vua Oa là Súy Thăng dâng một trăm sáu mươi người, xin vào gặp. Giữa thời Hoàn-Linh, nước Oa loạn lớn, rồi đánh đá lẫn nhau, nhiều năm không có chủ. Có một người con gái tên là Ti Di Hô, lớn lên không lấy chồng, thờ đạo quỷ thần, có thể làm dân chúng mê hoặc, do đó cùng lập làm vua. Có nghìn hầu gái, ít có người thấy, chỉ có một người con trai trao đồ ăn uống, truyền lời nói. Trú ở cung điện lầu quán rào thành, đều có quân bảo vệ. Hình pháp nghiêm ngặt. Từ phía đông của nước Nữ Vương vượt biển hơn nghìn dặm, đến nước Câu Nô, dẫu đều là người Oa, nhưg không thuộc Nữ Vương. Từ phía nam của nước Nữ Vương đi hơn bốn trăm dặm, đến nước Chu Nho, người cao ba bốn thước. Từ phía đông nam của Chu Nho đi thuyền một năm, đến các nước Khỏa-Hắc Xỉ, sứ giả nói rằng ở đó là tận cùng rồi. Ngoài biển quận Cối Kê có người Đông Đề, chia làm hơn hai mươi nước. Lại có Di Châu và Thiền Châu. Người ta truyền lại là Tần Thủy Hoàng sai phương sĩ là Từ Phúc đem mấy nghìn trai gái trẻ vào biển, tìm thần tiên ở núi Bồng Lai nhưng không được, Từ Phúc sợ bị phạt nên không dám về, bèn dừng ở đấy, nhiều đời nối nhau, có mấy vạn nhà. Người dân hay đến quận Cối Kê mua bán. Người ở huyện Đông Dã quận Cối Kê cũng có nguời đi biển gặp gió, trôi dạt đến Thiền Châu. Chỗ này xa xăm, không thể qua lại. [Lâm Hải thủy thổ chí của Thẩm Oánh chép: "Di Châu tại phía đông nam của quận Lâm Hải, cách quận hai nghìn dặm. Đất đai không có sương tuyết, cây cỏ không chết. Bốn bề là hang núi. Người dân cắt tóc, xâu tai, đàn bà không xâu tai. Đất đai màu mỡ, có mọc ngũ cốc, lại nhiều thịt cá. Có chó, đuôi ngắn như hình đuôi con quân (một loài thú giống con hươu nhưng nhỏ hơn, không có sừng). Người Di ở đây từ nam nữ cô cậu cùng nằm nghỉ trên một cái giường lớn, đại khái không tránh né lẫn nhau. Đất có đồng, sắt. Nhưng dùng sừng hươu làm mâu để chiến đấu, cọ mài đá xanh để làm đầu mũi tên. Lấy thịt cá sống chứa lẫn vào trong cái vò lớn, cho muối mặn vào. Ngày qua tháng lại mới ăn uống nó, cho là món ngon".] Luận rằng: Ngày xưa Cơ Tử gặp buổi nhà Ân suy yếu, lánh đến đất Triều Tiên. Lúc đầu nước này chưa có tiếng tăm gì, đến lúc đặt ra tám điều, khiến cho dân phép cấm, do đó ấp xóm không có dâm dật, buổi đêm không cần đóng cửa, sửa tục ngỗ ngược thì dùng hình pháp khoan hòa, làm được mấy trăm năm, cho nên người Đông Di có tính ôn hòa làm tục, khác với người ở ba phương khác. Nếu chính chính sự thông suốt, thì đạo nghĩa còn vậy. Trọng Ni nhớ mong, cho là đất Cửu Di có thể ở. Có người ngờ rằng chỗ ấy thô lậu, ngài bảo rằng: "Người quân tử ở, sao hiềm thô lậu"! Học trò cũng như thế. Sau đó qua lại buôn bán, dần dần giao lưu với nước trên (tức Trung Quốc). Rồi người Yên là Vệ Mãn quấy rối phong tục ở đất này, do đó mà mỏng bạc vậy. Lão Tử chép: "Pháp lệnh thêm nhiều, giặc cướp thêm nhiều". Nếu Cơ Tử giảm bớt văn điều mà dùng tín nghĩa thì có được gốc hình pháp của bậc thánh hiền rồi! Tán nói: "Đây là Ngung Di, gọi là Dương cốc. Kề núi gần biển, chín chủng ở đấy. Cuối Tần loạn lạc, người Yên tránh nạn (chỉ Vệ Mãn). Thêm ít tục Hoa, rồi có người Hán. Ở chỗ xa xôi, lúc theo lúc phản" Đông Di Đông Di (東夷) là tên gọi chung cho dân cư hạ du lưu vực sông Hoàng Hà (ba châu Thanh, Duyện, Từ) đối với dân cư ở Trung Nguyên thời Tiên Tần, nhất là thời Thương-Chu trong lịch sử Trung Quốc. Dựa theo khảo cổ mà nói thì Đông Di là dân cư kế thừa từ văn hoá Hậu Lí đến văn hoá Nhạc Thạch. Vào thời Đông Chu, người các nuớc Tề-Lỗ sinh sống nhiều năm ở miền đất Sơn Đông khiến cho người Di và người Hoa dần dần dung hợp. Từ thời Tần-Hán về sau, Đông Di là tên gọi chung cho các dân tộc thiểu số miền đông bắc Trung Quốc và những dân tộc ở quần đảo Lưu Cầu, quần đảo Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên phía đông Trung Quốc. Văn hoá của người Đông Di là văn hoá xa xưa nhất thời Tiên Tần trong lịch sử Trung Quốc. Văn hoá Đông Di có nhiều mặt không phân biệt anh em so với văn hoá Trung Nguyên. Người Đông Di là người phát minh và sử dụng chữ viết, cung tên, lễ chế, thuật luyện kim sớm nhất Trung Quốc. Giải nghĩa chữ Di Chữ Di bao gồm nhiều nghĩa. Nghĩa chủ yếu là 'yên bình'. Trong sách Thuyết văn giải tự của người thời Hán là Hứa Thận giải nghĩa chữ Di là 'gồm bộ đại và bộ cung', theo đó người Đông Di phát minh cung tên sớm nhất, có tài bắn tên. Cho nên mới nói 'Đông Di' là những người bắn tên ở miền đông. Truyền thuyết và sách vở thời xưa ghi chép Hậu Nghệ là thủ lĩnh của người Đông Di. Nhưng chữ Di trong giáp cốt văn và kim văn thời Thương-Chu thực tế gồm bộ 'thi' hoặc bộ 'nhân', không có bộ 'cung'. Có người cho rằng quan điểm 'gồm bộ đại và bộ cung' của chữ Di có thể là người thời Hán thêm bớt mà thành đến nay. Thiên hạ trong chủ nghĩa trung tâm của người Trung Quốc thì người Đông Di và người Bắc Địch, người Tây Nhung, người Nam Man gọi chung là Tứ Di. Nhưng người Đông Di từ thời xa xưa đã dung hợp với người Hoa Hạ, trong sách vở từ thời Tần-Hán về sau không có ghi chép về quan hệ trực tiếp với người Đông Di. Lịch sử Đông Di Thời đại Ngũ Đế (trước thế kỉ 21 TCN) Ngũ Đế có nguồn gốc từ thuyết ngũ hành thời xưa ở Trung Quốc. Người xưa cho rằng năm miền đông, nam, tây, bắc, trung đều chủ về một màu, đều chủ một hành, đều thờ một vị vua. Ngũ Đế là Thanh Đế, Xích Đế, Bạch Đế, Huyền Đế, Hoàng Đế. Miền đông chủ màu xanh, chủ hành mộc, thờ Thanh Đế là Thái Hạo Miền nam chủ màu đỏ, chủ hành hoả, thờ Xích Đế là Viêm Đế Miền tây chủ màu trắng, chủ hành kim, thờ Bạch Đế là Thiếu Hạo Miền bắc chủ màu đen, chủ hành thuỷ, thờ Huyền Đế là Chuyên Húc Miền trung chủ màu vàng, chủ hành thổ, thờ Hoàng Đế là Hiên Viên Thời đại Lưỡng Hạo Trận đánh Trác Lộc Di Hạ nhường ngôi Hậu Khải soán ngôi Thời nhà Hạ (thế kỉ 21 TCN - thế kỉ 16 TCN) Hậu Nghệ thay nhà Hạ Nhà Thương nổi lên Trận đánh Minh Điều diệt nhà Hạ Thời nhà Thương Bộ tộc Thương là một nhánh của người Đông Di, thuỷ tổ là Hoàng Đế, lúc đầu bộ tộc Thương cư trú ở vùng phía nam đất Lỗ, sau đó dời sang phía tây đến đất phía nam sông Hoàng Hà. Vua Thang nhà Thương thay nhà Hạ, từng mở rộng liên minh với các bộ tộc Đông Di, mới đầu thời nhà Thương mối quan hệ giữa nhà Thương và các bộ tộc Đông Di rất khăng khít ở một dải đất phía đông châu Dự. Nhà Thương nổi lên, văn hoá nhà Thương được mở rộng, từ sau thời vua Trọng Đinh, nhà Thương chiến tranh với người Lam Di, sau đó không ngừng đánh sang miền đông, văn hoá nhà Thương mở rộng về huớng đông, các bộ tộc Đông Di theo nhà Thương hoặc trở thành chư hầu của nhà Thương. Đến thời vua Trụ, vẫn có người Đông Di ở đất Giao Đông hoặc đất ven sông Hoài vẫn giữ được văn hoá độc lập. Văn hoá nhà Thương trước sau không vượt qua được sông Nghi, sông Duy. Những chư hầu Đông Di sau khi theo lại phản, chiến tranh với nhà Thương, khiến cho nhà Thương suy yếu, cuối cùng bị nhà Chu thay lấy. Thời nhà Chu (năm 1046 TCN - NĂM 256 TCN) Lai Di: hoặc gọi là Lai, là một nước cổ của người Đông Di thời Thương-Chu, tồn tại ở vùng bán đảo Sơn Đông từ thời nhà Chu về trước. Đầu thời nhà Chu, Lữ Thượng được phong ở nước Tề, người Lai Di tranh đoạt ấp Doanh Khâu của nước Tề. Vào thời Xuân thu, người Lai Di thường bị các nước Tề-Lỗ đánh phá. Năm 600 TCN, người nước Tề đánh nước Lai, lấy đất Căn Mâu. Năm 567 TCN, tướng nước Tề là Yến Nhược diệt nước Lai, thế lực của nước Tề thọc sâu vào bán đảo Giao Đông. Khảo cổ phát hiện kinh đô nước Lai có thể là di chỉ thành Quy tại thành phố Long Khẩu tỉnh Sơn Đông ngày nay. Mười bốn dòng họ Doanh: theo Sử kí Tần bản kỉ ghi chép họ Doanh vì được phong phong mà chia thành mười bốn họ là họ Từ, họ Đàm, họ Cử, họ Chung Lê, họ Vận Yểm, họ Thố Cừu, họ Tương Lương, họ Hoàng, họ Giang, hoh Tu Ngư, họ Bạch Minh, họ Phi Liêm, họ Tần, họ Triệu. Mà họ Doanh lại xuất từ Thiếu Hạo, có nhiều chứng cứ. Lúc đầu nhà Tần thờ Bạch Đế là Thiếu Hạo, Thiếu Hạo sinh ở miền đông nhưng được xưng là Bạch Đế chủ miền tây, đều là do nhà Tần ở phía tây. Lại nữa, vua nuớc Đàm lấy Thiếu Hạo làm tổ tiên xuất từ nhà Thương họ Huyền Điểu của Thiếu Hạo. Ngoài họ Tần, họ Triệu ra, các dòng họ Doanh phần lớn cư trú ở miền đông. Cho nên mười bốn dòng họ Doanh đều là dòng dõi của Thiếu Hạo. Nước Cử Nước Từ Hoài Di Nước Cô Trúc và nuớc Triều Tiên của Cơ Tử Đặc trưng văn hoá Văn hoá của người Đông Di là văn hoá xa xưa nhất trong lịch sử Trung Quốc. Văn hoá Đông Di có nhiều mặt không phân biệt anh em so với văn hoá Trung Nguyên. Chữ viết của người Đông Di là một loại chữ viết sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc, có thể là một nguồn gốc chủ yếu tạo nên giáp cốt văn thời nhà Thương. Trong đó các chữ đán, việt, cân, hoàng, phong, tửu, phách, trắc còn sử dụng trong chữ Hán ngày nay. Theo sách vở ghi chép, người Đông Di phát minh cung tên. Người Đông Di còn có kĩ thuật chế tác đồ gốm sứ rất cao. Trong mộ táng của người Đông Di có nhiều đồ gốm sứ vẽ hình con chim, người Đông Di lấy con chim làm vật tổ, là một dân tộc sùng bái loài chim. Người Đông Di cũng là dân tộc dùng đồng và sắt sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nghiên cứu văn hoá Long Sơn cho thấy người Đông Di phát minh lễ chế. Lễ chế trong văn hoá Long Sơn cho thấy xã hội người Đông Di đã hình thành nhà nước và giai cấp. Học giả người Trung Quốc là Du Vĩ Siêu cho rẳng: "Nếu hơn 4000 năm trước không bị nạn hồng thuỷ thì nhà nước sớm nhất nước ta cũng đã có và phải là do người Đông Di lập nên". Sùng bái vật tổ Các bộ tộc Đông Di rất phức tạp, nhưng cùng có một đặc điểm là sùng bái loài chim và có truyền thuyết con chim sinh ra mình. Ví như Sử kí Ân bản kỉ có chép: "Mẹ của ông Tiết nhà Ân tên là Giản Địch, làm vợ lẽ của Đế Khốc. Ba người đi tắm, thấy con chim đen thả rơi quả trứng của nó, Giản Địch nhặt lấy mà nuốt, nhân đó có mang, sinh ra Tiết". Lại nữa, Sử kí Điền Kính Trọng Hoàn thế gia chép: "Người nước Tề là Ý Trọng muốn gả con gái cho Điền Hoàn, bói việc này nói: 'Phượng hoàng kết đôi, kêu tiếng trong lành, dòng dõi họ Quy, sắp thay họ Khương, năm đời trỗi lên, nắm cả công khanh, sau đó tám đời, chẳng ai tranh được'". cho đến Sử kí Tần bản kỉ cũng chép: "Nữ Tu đang dệt vải, có con chim đen thả quả trứng xuống, Nữ Tu lấy nuốt vào, sinh ra Đại Nghiệp". Dòng dõi Thái Hạo Theo truyền thuyết thì Thái Hạo là thủ lĩnh sớm nhất của các bộ tộc Đông Di, họ Phong, lấy đất Trần làm trung tâm, sinh sống ở một dải phía nam nước Lỗ và phía đông châu Dự thời xưa, dòng dõi có họ Nhâm, Túc, Tu Câu, Chuyên Du. Họ Hữu Ngu Sống ở bên sông Quy, còn lấy họ Quy, thay vua Nghiêu trị thiên hạ, thuỵ hiệu là Đế Thuấn, lấy đất Bồ Bản làm trung tâm, dòng dõi là Hồ Công tên là Mãn được phong ở nước Trần. Dòng dõi Thiếu Hạo Được xem là thủ lĩnh của các bộ tộc Đông Di kế thùa Thái Hạo, lấy đất Khúc Phụ làm trung tâm. Dòng dõi được phong ở nước Phí, Cử, Đàm. Những người họ Doanh như các nước Tần, Triệu cũng là dòng dõi của Thiếu Hạo. Si Vưu Là thủ lĩnh của các bộ tộc Đông Di kế thừa Thiếu Hạo, men theo sông Hoàng Hà về phía tây, phát sinh xung đột với Viêm Đế và Hoàng Đế ở đất Trung Nguyên, bị đánh bại ở cánh đồng Trác Lộc. Các nền văn hoá Đông Di - Văn hoá Hậu Lí (6400 TCN - 5700 TCN): phân bố từ dải núi Thái Nghi ở lên phía bắc, dải đất từ sông Tiểu Thanh về phía nam. - Văn hoá Bắc Tân (5300 TCN - 41 TCN): phân bố từ thành phố Bình Độ sang phía tây đến thành phố Trường Thanh tỉnh Sơn Đông, phía bắc lên phía bắc đất Lỗ, phía nam đến phía bắc sông Hoài tỉnh Giang Tô. - Văn hoá Bạch Thạch (5000 TCN - 4000 TCN): phân bố ở bán đảo Giao Đông tỉnh Sơn Đông. - Văn hoá Đại Vấn Khẩu (4100 TCN - 2600 TCN): phân bố ở bán đảo Liêu Đông, phía nam đến phía bắc tỉnh Giang Tô, phía bắc tỉnh An Huy, phía tây đến sông Hoàng Hà ở tỉnh Hà Nam về phía nam. - Văn hoá Long Sơn (3200 TCN - 1900 TCN): phân bố ở bán đảo Liêu Đông, phoá nam đến phía bắc tỉnh Giang Tô, phía bắc tỉnh An Huy, phía bắc tỉnh Hồ Bắc, phía tây đến tỉnh Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Tây, Thiểm Tây. - Văn hoá Nhạc Thạch (2000 TCN - 1600 TCN): phân bố ở dải núi Thái Nghi, phía bắc đến tỉnh Hà Bắc, phía nam qua sông Hoài, phía tây các huyện Khảo Lan, Kỉ, Hoài Dương tỉnh Hà Nam, phía đông bến biển Hoàng Hải. Đông Di Huaxia 華夏 Hoa Hạ Dongyi 東夷 Đông Di Beidi 北狄 Bắc Địch Xirong 西戎 Tây Nhung Nanman 南蠻 Nam Man Yellow River 黃河 Hoàng Hà (sông Hoàng Yangtzi River 長河 Trường Hà (Sông Trường) Huai River 淮河 Hoài Hà (Sông Hoài) Wei River 渭河 Vị Hà (sông Vị) Văn hóa Đông Di thần bí Văn hóa thời xưa của đất Sơn Đông cũng gọi là văn hóa Đông Di. Đông Di vốn là chỉ người Di miền đông ở ngoài trung tâm thống trị của người Hoa Hạ, họ sáng tạo nên văn minh phát triển cao. Dựa vào truyền thuyết lịch sử và khảo cổ phát hiện, người sáng tạo nên văn hóa Đại Vấn Khẩu có thể là các bộ tộc Đông Di của Thái Hạo, Thiếu Hạo. Thái Hạo còn gọi là Phục Hi, là một thủ lĩnh bộ lạc tinh thông thiên văn địa lí, là người phát minh 'bát quái' trong truyền thuyết. Trong ngôi mộ ở Đại Vấn Khẩu phát hiện được một cái lược làm bằng ngà voi khó khắc hình giống bát quái. Vùng đất của Thái Hạo tại một dải đất lầy lội tỉnh Sơn Đông, ứng với văn hóa Đại Vấn Khẩu ở phía tây nam tỉnh Sơn Đông. Kinh đô của Thiếu Hạo tại đất Khúc Phụ, văn hóa Đại Vấn Khẩu ở phía nam bắc núi Thái là văn hóa bộ tộc của Thiếu Hạo. Lược ngà voi có hình khắc giống 'bát quái' phát hiện ở di chỉ văn hóa Đại Vấn Khẩu tỉnh Sơn Đông năm 1959 Văn hóa Long Sơn dựa trên nền tảng văn hóa Đại Vấn Khẩu mà phát triển. Thời kì này người Đông Di xây dựng nhiều thành phố, như di chỉ thành phố Thành Tử Nhai ở Chương Khâu có thể chứa được 5000 người dân, trong thành này có dấu vết của nền nhà, hầm hố, giếng nước, mộ táng, có thể đây là một tòa thành của một nước chư hầu thời nhà Hạ. Đồ gốm văn hóa Long Sơn rất tinh xảo, nổi tiếng là gốm màu đen, sáng bóng như gương, mỏng như giấy, gõ vào vang tiếng như tiếng khánh. Đồ gốm sứ màu đen văn hóa Long Sơn Thời đại Ngũ Đế là thời kì phát triển mãnh liệt, Viêm Đế và Hoàng Đế nảy sinh đại chiến, Hoàng Đế đánh Si Vưu cũng ở thời này. Si Vưu là một thủ lĩnh của bộ tộc Đông Di, đại khái nổi lên ở một dải đất Khúc Phụ, đánh với Hoàng Đế ở cánh đồng Trác Lộc, cuối cùng thua trận, được Hoàng Đế thờ làm thần chiến tranh. Si Vưu bị bắt giết ở một dải huyện Trác Châu tỉnh Hà Bắc, mộ của Si Vưu ở huyện Cự Dã tỉnh Sơn Đông là nổi tiếng nhất. Văn hóa Nhạc Thạch tại một dải đất Bình Độ tỉnh Sơn Đông, là 'tiếng vọng cuối cùng' của văn hóa Lonh Sơn, tương đương với thời nhà Hạ và đầu thời Thương. Đầu thời nhà Hạ, trong bộ tộc Đông Di có thủ lĩnh họ Hữu Cùng tên là Hậu Nghệ từng thay đổi sự thống trị của nhà Hạ, thay vua Thái Khang mà thống trị nhà Hạ được mấy chục năm thì bị dòng dõi nhà Hạ đoạt lại. Vào thời nhà Thương, các bộ tộc Đông Di không ngừng phát triển về phía tây, tranh giành đất Trung Nguyên với nhà Thương. Vua Trụ nhà Thương đánh dẹp người Đông Di, thống nhất Đông Di và Trung Nguyên, cũng gây hấn với người Đông Di tên là Lữ Thượng, do đó bày kế diệt nhà Thương, cuối cùng văn hóa Đông Di biến hóa dung hợp vào văn hóa Tề-Lỗ.
-
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NHĨ CĂN VIÊN THÔNG Tôi bèn xóa đi ý niệm về giác bấy giờ tâm tánh tôi rỗng rang lặng lẽ như hư không. Tôi lại diệt đi cái giác tri “như hư không” ấy. Cuối cùng tôi diệt cả khái niệm “diệt”. Khi tôi diệt hết khái niệm vi tế về “diệt sanh, sanh diệt” bỗng dưng tôi nhận thấy toàn thể pháp giới trong mười phương chỉ còn là cảnh giới “bất nhị” tịch diệt hiện tiền. Tâm tánh của tôi viên mãn khắp giáp mười phương vượt hẳn tầm nhận thức thường tình của thế gian. Tôi được hai món thù thắng : Một là tâm tôi hợp với bản giác nhiệm mầu của mười phương Như Lai, đồng một từ tâm hướng hạ cứu độ chúng sinh. Hai là hợp với tâm của lục đạo chúng sinh trong mười phương, đồng một bi tâm hướng thượng cầu Vô thượng Bồ Đề. Ở phần kinh trên, Đức Phật đã gạn hỏi đại chúng nguyên nhân đạt được đạo, chứng nhập viên thông. Có hai mươi lăm vị Thánh đệ tử Thanh Văn lẫn Bồ Tát lần lượt trình bày về thành quả viên thông ấy, cái nguyên nhân chứng đắc của mình để cho ông A Nan chọn cái nào là viên thông nhất làm nhân địa tu hành. Sáu căn, sáu trần, sáu thức và bảy đại đều là những dữ kiện để đạt đến chứng đắc viên thông và viên thành Thánh quả. Nếu theo thứ tự thì Nhĩ căn viên thông phải được trình bày sau phần nhãn căn viên thông ở đoạn kinh trước. Nhưng vì tầm quan trọng và siêu tuyệt của nó nên Bồ Tát Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông được trình bày sau chót vì chỗ chứng đắc của Đức Quán Thế Âm mới là tròn đủ, nhiệm mầu. Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ, nghe rồi suy nghĩ để tu nghĩa là nghe ở tai, suy nghĩ ở tâm và tu trong sự làm thì trí tuệ vô lậu phát sinh mà vào được chánh định. Nghe ở đây là nghe chánh pháp, nghe Phật pháp và suy nghĩ là suy nghĩ đúng với chân lý thì sự thực hành mới có lợi lạc, mới phát sinh trí tuệ sáng suốt. Nhĩ căn viên thông là phương pháp “phản văn văn tự tánh” giúp hành giả dứt vọng trở về chơn nghĩa là không xuôi dòng chạy theo âm thanh mà trở ngược lại tánh nghe tức là từ cái nghe để trở về với tự tánh của mình. Nhập lưu ở đây chính là đi ngược dòng nghiệp thức để quay lại quán tánh nghe. Người thực hành pháp môn này tuyệt đối không dùng tai để nghe vì nếu còn dùng tai để nghe là còn chạy theo âm thanh sắc tướng tức là chạy theo vọng tưởng trần duyên. Đối với âm thanh chẳng nói là nghe mà nói là Quán tức là dùng Trí chiếu soi chớ không dùng Thức Tai mà nghe. Vậy Ngài Quán Thế Âm áp dụng nhĩ căn viên thông như thế nào? Đức Quán Thế Âm quán cái “tánh nghe” không tăng không giảm, không biến chuyển thay đổi, không sinh diệt và bao trùm khắp mười phương. Ngài quán các tướng động, tĩnh hiện ra trong tánh nghe là huyễn hóa, là không thật vì chúng không có tự tánh, không có chủ thể cho nên Ngài không còn phân biệt thật có năng, có sở mà vào được tánh viên thông. Tánh nghe thì lúc nào cũng có, khi có âm thanh là nghe tiếng còn không có tiếng, vắng lặng là nghe tĩnh đến khi không còn nghe động hay tĩnh tức là dứt được năng văn, sở văn. Khi tai nghe âm thanh động, tĩnh từ bên ngoài (sở văn) thì tâm liền buông bỏ, quên đi sở văn nghĩa là nghe thì cái gì cũng nghe mà thật ra chẳng nghe cái gì hết tức là năng văn, sở văn trở nên vắng lặng, không nghe bên ngoài mà chẳng còn nghe bên trong. Mặc dù động, tĩnh vẫn còn nhưng không quan tâm cái gì hết. Muốn thực hành pháp môn Nhĩ căn viên thông được rốt ráo thì trước hết hành giả phải cố gắng thực tập cái nghe. Nghe thì nghe tất cả mà như không nghe gì hết, hay không nghe gì hết mà vẫn nghe tất cả. Đây là cách nhiếp căn tai lại không cho chạy theo thanh trần tức là âm thanh động, tĩnh, thị phi, phải quấy, tốt xấu. hơn thua… bên ngoài. Nên nhớ căn mắt và căn tai là hai cơ quan nhạy bén nhất của con người nên dễ tiếp xúc, cảm nhận và phân biệt trần cấu mà phát sinh ra vọng tưởng. Do đó mắt thì cái gì cũng thấy mà như không thấy gì hết, chẳng cần quan tâm lưu ý cái gì hết thì tâm không động. Và cứ như thế mà thực hành lối tu này thì đến lúc năng văn, sở văn hoàn toàn không còn nữa tức là có được Nhân Không. Bây giờ không trụ vào chỗ nghe hay không nghe nghĩa là cái nghe thì đã không nghe rồi, nhưng cái không nghe thì cũng không vương mắt, chấp vào chỗ cái không nghe mà trong ta chỉ còn có một cái tánh giác mà thôi. Nói cách khác trong tâm bấy giờ tất cả những ý niệm cho dù là thiện, ác cũng không còn thì tánh giác xuất hiện. Nhưng nếu hành giả cố giữ ý niệm về giác thì cũng không được mà phải xóa bỏ luôn ý niệm năng giác về mình và sở giác là đối tượng giác mà mình cố giữ gìn, bám vúi vào đó. Sau khi đã xóa bỏ hoàn toàn năng giác, sở giác thì tâm rỗng rang lặng lẽ và thấy vạn pháp như rỗng Không. Rỗng Không là thấy vạn pháp là đối tượng “sở không” còn trí của mình là “năng không” nên mới có sự phân biệt năng không, sở không. Sau cùng hành giả phải diệt hết cái biết trống không tức là đừng bám vúi vào cái giác tri rỗng không ấy tức năng không, sở không cũng bỏ hết, chẳng còn gì để phân biệt. Năng Không và Sở Không đều diệt mất tức là đã giải thoát khỏi pháp. Sau cùng ý tưởng về sanh diệt cũng diệt luôn nghĩa là dù biết thế giới là sinh sinh diệt diệt, nhưng hành giả phải diệt đi cái quan niệm sinh diệt của vạn pháp chớ đừng thấy vạn pháp sinh mà vui mừng, tham đắm, say mê và vạn pháp diệt thì phiền não, khổ đau. Thí dụ còn thấy mình tu để diệt vô minh phiền não là ý niệm sinh diệt, cần phải diệt vì thế gian chẳng có cái gì là vô minh phiền não cả. Nếu tâm không còn dính mắc thì tìm đâu ra phiền não vô minh vì phiền não vô minh đâu có thật! Vì thế nếu hành giả diệt được ý niệm sanh diệt nghĩa là thấu hiểu vạn pháp là vô thường sinh sinh diệt diệt cho dù con người có quan tâm thì nó cũng sinh diệt hay chẳng cần để ý đến thì nó cũng sinh diệt như thường nên họ nhìn vạn pháp một cách trực giác, hồn nhiên thì chính họ sẽ có cái vui tịch diệt. Trong ngũ uẩn thì hành uẩn là cội nguồn phát sinh ra ý niệm, dòng tư tưởng sinh diệt xuất phát từ hành uẩn tuôn chảy không ngừng vì thế nếu không diệt được hành uẩn thì khó kiềm chế ý niệm. Một khi phá được hành uẩn thì dĩ nhiên thức uẩn không còn vì chẳng còn ý niệm gì để phân biệt. Sanh diệt đã diệt thì Tịch Diệt hiện tiền nghĩa là tự tánh Bồ Đề hiển hiện tức là vào Tam-ma-đề, chứng vô sanh pháp nhẫn. Đó là Thường Chân Thật vậy. Pháp tu Quán Thế Âm Nhĩ Căn Viên Thông này vô cùng thâm sâu huyền diệu đưa hành giả đạt đến trí tuệ tận cùng và sau cùng chứng được Lăng Nghiêm tam muội để có giải thoát giác ngộ viên mãn. Ngày xưa Trí Giả Đại sư của phái Thiên Thai đã nghiêm trì kinh Pháp Hoa đến chỗ tận đỉnh tột cùng, chứng được Pháp Hoa tam muội và nhất triền Đà la ni. Sau khi xuất định, Ngài lập ra môn Tam Chỉ Tam Quán. Về sau có vị Pháp sư người Ấn Độ nghe danh nên đến núi Thiên Thai thăm viếng. Sau khi nghe Trí Giả Đại sư trình bày về môn Tam Chỉ Tam Quán, vị Pháp sư rất ngạc nhiên mà thốt lên rằng pháp môn này cũng giống như kinh Thủ Lăng Nghiêm ở Ấn Độ. Trí Giả Đại sư tuy đã nghiêm trì Phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm trong kinh Pháp Hoa đến chỗ cao tột nên Ngài muốn nhờ kinh Thủ Lăng Nghiêm để ấn chứng. Tại sao phải là kinh Lăng Nghiêm? Bởi vì trên thế gian, duy nhất kinh Lăng Nghiêm mới có pháp tu “phản văn văn tự tánh’ của Ngài Quán Thế Âm mà chứng đắc Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Pháp môn Tam Chỉ Tam Quán dùng “ý thức” để tu tâm, còn kinh Lăng Nghiêm lại dùng “tánh của căn” để tu. Hành giả muốn tu theo pháp môn ‘phản văn văn tự tánh” để có được Thủ Lăng Nghiêm Đại Định thì tuyệt đối không dùng đến tâm thức bởi vì tâm thức phân biệt là cội nguồn của vọng thức chớ không phải chơn tâm. Nhưng nếu cho rằng tâm thức là dẫn dắt đến chỗ vô minh tăm tối nên chúng sinh cố gắng xả bỏ tâm thức tán loạn vọng động để tạo cái tâm an định, tịch tĩnh thì lại bị kẹt vào chỗ chấp. Mà còn chấp là còn dính mắc, không thể có tự tại. Nếu quan niệm rằng cố gắng thiền quán để đưa tâm đến trạng thái tĩnh lặng tức là ý niệm không còn thì sẽ đắc định. Đây chỉ là bước đầu trên con đường giải thoát giác ngộ chớ thật ra cái định đó vẫn chưa thoát ra khỏi khuôn khổ của tâm thức. Do đó, dựa theo kinh Lăng Nghiêm, hành giả phải xả bỏ tâm thức dưới mọi hình thức thì mới hy vọng đạt được tánh định sẵn có của tự tâm. Lúc bấy giờ chúng sinh mới có thể nhận rõ được những thể tánh như nghe, thấy, nếm, ngửi, xúc, biết thường có trong các giác quan của mình. Tánh định này mới thật sự là chơn định.
-
Bác VoTruoc viết: Anh Thiên Sứ ạ, theo em, công án tiến vỗ của một bàn tay là một cách diễn đạt về Thái cực đâý. Đó là trạng thái âm dương chưa sinh (2 bàn tay), chưa có tương tác âm dương (tiếng do hai bàn tay vỗ vào nhau), mà mới chỉ có 1 bàn tay (Thái cực), khi đó khái niệm "bàn tay" và "tiếng vỗ" cuả nó cũng chưa có, chỉ có "caí một " hay "Thái cực" mà thôi. Khi xuất hiện một bàn tay nữa (âm) thì cái "bàn tay" có trước kia (Thái cực) trở thành dương và tương tác âm dương (hai bàn tay vỗ vào nhau) mới sinh ra những caí mới (tiếng vỗ) hay là sự phát triển của Vũ trụ. Như vậy, công án "tiếng vỗ của một bàn tay" là một kiểu "ngón tay chỉ trăng" giúp người ta quán xét để thấy được cái "bất khả tư nghị" là Thái cực hay Bản thể của Vũ trụ - Đạo theo cách diễn đạt của em. Vì thế, nếu dùng ngôn từ mô tả tiếng vỗ của một bàn tay, theo em, là bất khả (vì Đạo bất khả tư nghị mà). Đó là lý do sau biết bao năm tháng mà đây vẫn là đề tài hóc búa, chưa có lời gỉai thấu triệt, chỉ vì người ta cố dùng ngôn từ mà mô tả nó. Nếu chúng ta cho rằng "Bất khả tư nghì" thì sao lại quy ước hay mô tả đó là Thái Cực! Nếu là thực tại "bất khả tư nghì" thì thiền sinh Toyo lại "nghe" và "hiểu" được trạng thái "Tiếng vỗ tay của một bàn tay"! Nếu quy ước là Thái Cực trước khi có Âm Dương thì trong thế giới đang vận động này, tức sau Thái Cực mà tại sao khẳng định đó là Thái Cực!
-
CÔNG ÁN THIỀN Mokurai, Tiếng Sấm Tĩnh Lặng, là thiền sư trụ trì chùa Kennin. Sư có một đệ tử nhỏ tên Toyo mới 12 tuổi. Toyo thấy các đệ tử đàn anh vào phòng thầy mỗi sáng và tối để nhận giáo huấn trong lớp riêng một thầy một trò và được hướng dẫn cá nhân về cách dùng công án để chận tâm trí không đi lang thang. ... Toyo đến và đi cũng phải mười bận viếng Thầy với nhiều tiếng động khác nhau. Tất cả đều sai bét. Cả một năm cậu cứ suy nghĩ về tiếng vỗ của một bàn tay là thế nào. Cuối cùng, cậu bé Toyo đi vào thiền định và quán chiếu tất cả các tiếng động. "Con chẳng còn biết thêm tiếng động nào khác nữa", cậu giải thích về sau này, do đó con đạt đến tiếng động vô thanh. Toyo đã ngộ được tiếng vỗ của một bàn tay. Chúng ta có thể đang nhầm lẫn cách giải thích, có thể liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ Hành như Thái Cực, Lưỡng Nghi. Đây là một "công án Thiền", Toyo đi vào trạng thái đại định Somachi và quán chiếu tất cả các tiếng động "Con chẳng còn biết thêm tiếng động nào khác nữa". Vậy phải, nghiên cứu kết quả của các bậc giác ngộ lý giải quá trình quán chiếu âm thanh của họ. Một trong những công năng hay thần thông đạt được trong quá trình Thiền hay Yoga: đó là Thuận phong nhĩ - một phép thần thông nổi tiếng của Quan Âm Nam Hải (Quan Âm Bồ Tát), để cứu giúp chúng sinh mắc nạn trên biển cả. Một trong những cái để tư duy, đó là "tính Nghe" như Rubi viết, cần được lý giải chi tiết hơn.
-
Tại sao lại có "Cái Không"? Do nhận thức trực quan của chúng ta về sự vật, hiện tượng nên cho rằng "Cái Có", đồng thời do sự thay đổi, chuyển hóa (Dịch) của chúng và cả những cái chưa nhận biết - theo cách hiểu hiện nay theo khoa học "Vật chất không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi, mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác" mà chúng ta cho rằng đó là "biến mất, thay đổi, không còn như cũ". Không chỉ vậy, tôn giáo cho là có nguyên nhân ban đầu và đó là Mr. Chúa Trời, qua đoạn viết nổi tiếng trên "Vật chất không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi, mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác" cũng chứng tỏ khoa học cũng cho là có nguyên nhân ban đầu. OSHO "Bậc thầy chứng ngộ" của đạo Jain (Kỳ Na giáo) Ấn Độ cho rằng: Nếu suy luận kiểu trên thì muôn đời chỉ "có cãi nhau", nhưng ông cũng không đưa ra được câu trả lời. Chỉ khi nào chúng ta liên kết Tam Giáo: Phật - Lão - Nho và học thuyết Âm Dương Ngũ Hành thì chúng ta biết rằng: - Không có nguyên nhân ban đầu theo cách hiểu sinh ra vũ trụ. - Từ đó, không có Mr. Chúa Trời theo nội dung Kinh Thánh và luận giải của các Linh Mục. Ngoài trò chơi của Vũ trụ còn trò chơi của chính con người với con người. Ngọc Hoàng Thượng Đế đã thông linh nói rằng"Kinh Thánh là không đáng tin", chép trong quyển Đối thoại với Thượng Đế. - Không có "Cái Không" theo cách hiểu một danh từ. - Cho nên, sự đối đãi giữa "Cái Không" và "Cái Có" là không thể, chỉ so với "trạng thái ban đầu trong quá trình biến dịch" của sự vật, hiện tượng trong thế giới Hậu Thiên (Vũ trụ vận động) thì hợp lý hơn. Tuy nhiên, rõ ràng có một vũ trụ ban đầu phi nguyên nhân, do vậy nó được hình dung như thế nào? - Đây là vấn đề mấu chốt đang đi tìm của khoa học, và cãi nhau của thần học cuối cùng đó là Chúa Trời, và là Thái Cực của Lý học Đông phương, cho rằng gượng gọi là "Mẹ" trong Đạo Đức Kinh chứ không phải Chúa Trời.
-
KINH HOA NGHIÊM 12- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tự Tại Chủ đồng tử Theo tinh thần Đại thừa, không căn cứ vào một đời hiện tại, phải xét đến 3 đời hay nhiều đời trước để nhận xét con người. Việc phân chia người lớn hay nhỏ trong một đời không đúng hẳn. Có thể đời này họ nhỏ vì mới tái sanh lại, nhưng thực chất đã có quá trình tu hành từ nhiều đời, nên tuy tuổi nhỏ mà đạo lực và trí tuệ họ lớn. Đại thừa căn cứ vào phước đức, trí tuệ để định vị lớn nhỏ. Theo tinh thần ấy, Thiện Tài cầu đạo, tìm học với người giỏi, có đức hạnh, không phân biệt tuổi tác. Thiện Tài đến học đạo với cô bé Từ Hạnh về khả năng giáo hóa và học với Tỳ kheo Thiện Kiến, tuy trẻ nhưng hiểu biết vượt hơn mọi người. Thiện Kiến lại chỉ ông đến Tự Tại Chủ đồng tử là cậu bé còn bốc cát chơi, nhưng có hiểu biết mà Thiện Kiến chưa đạt được. Tự Tại Chủ đồng tử đang chơi cát với các trẻ khác, nhưng dưới mắt Bồ tát cầu đạo thấy đây là Bồ tát lớn. Người thường chơi cát thì không đáng kể, trong khi Bồ tát cũng làm như vậy lại thành quan trọng. Tự Tại Chủ đồng tử nhờ học toán pháp với Văn Thù Sư Lợi, tức pháp toán của Bồ tát, tính biết được pháp giới, biết trên trời có bao nhiêu vì sao, trong biển sanh tử này có bao nhiêu chúng sanh và tánh thiện ác của họ, bao nhiêu người đau khổ mà ông cứu độ được. Từ Tỳ Lô Giá Na tâm mà lần ra ngoài, Tự Tại đồng tử biết được tất cả. Tu trong Như Lai tạng tâm nhưng biết được ngoài trần thế, hành sử tốt đẹp trên cuộc đời, đó là việc làm của Bồ tát. Từ sở đắc toán pháp của Bồ tát Văn Thù và ngộ nhập nhất thiết công xảo thần thông trí pháp môn, Tự Tại Chủ đồng tử hiện thân hành đạo biết tất cả, giải đáp dễ dàng những bài toán khó của con người. Tự Tại Chủ đồng tử cũng khéo kinh doanh, tính toán không sai lầm, biết rõ khả năng từng người hợp tác nên phân bổ việc làm chính xác. Ngoài ra, đồng tử cũng tính toán được cấu tạo hệ thần kinh từng người, theo đó người nào đáng dùng pháp Thanh văn hay Duyên giác thừa hoặc đáng nhập nhất thiết trí địa. Vì biết rõ nguyên nhân gây bịnh nên chế thuốc cho mọi người sử dụng đều lành mạnh. Tóm lại, từ toán pháp của Bồ tát mà đồng tử Tự Tại hình thành ra vũ trụ quan. Tự Tại Chủ đồng tử còn nhỏ nhưng biết nhiều. Tri thức này không do học, không do suy nghĩ, cũng không do kinh nghiệm có được. Cái biết do kinh nghiệm là của thế gian. Theo Phật dạy, chúng ta chỉ tạm dùng nó, vì cái biết ấy thuộc phiền não, không giúp chúng ta giải thoát. Biết do suy nghĩ là biết của nhận thức, khi đúng khi sai vì còn bị tình cảm và tham vọng chi phối. Kiến thức thế gian hay hiểu biết của người khôn bằng kinh nghiệm và suy luận không bảo đảm đúng. Chúng ta bình tâm thấy rõ trên thực tế, có người chúng ta đánh giá họ dở hoặc còn nhỏ sẽ không được việc, nhưng kết quả họ lại thành công. Nhận thức chúng ta cần có trên bước đường tu là trực giác, tiêu biểu bằng hình ảnh Tự Tại Chủ đồng tử còn bốc cát chơi, không biết gì. Không biết nghĩa là không biết bằng thức, nhưng biết bằng tâm. Đức Phật mượn Tự Tại Chủ đồng tử để nhắc nhở chúng ta dẹp bỏ suy luận, trở về chơn tâm, mới gặp chân lý. Trên bước đường tu, tôi nhận ra ý này. Có lúc lắng lòng, trở về trạng thái không suy nghĩ thì bất chợt lóe lên được tia sáng đúng. Nhiều khi suy nghĩ thì lại thấy khác và làm theo kinh nghiệm, thường sai hơn là đúng. Tuy nhiên, quý vị đừng lầm rằng làm không suy nghĩ với làm càn. Tĩnh tâm, quên tất cả và làm theo điều gì lóe lên trong lòng ta, tức theo trực giác thường đúng nhiều hơn. Qua pháp Phật dạy cho Tự Tại Chủ đồng tử, chúng ta không dùng thủ đoạn, không mong cầu. Cái gì đến tự đến, quả chín tự chín, chúng ta ép nó phải như thế này hay như thế khác sẽ bị phản ứng. Cần trở về với chính mình, sống với tâm hồn bình ổn nhất, bằng trực giác thấy được chuyển biến mà hành động. 34- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ tát Di Lặc Thiện Tài trải qua năm mươi ba chặng đường cầu đạo, gặp một trăm mười vị thiện tri thức, trong đó có bốn Bồ tát quan trọng đã giáo dưỡng, hộ niệm cho Thiện Tài trên bước đường tu, đó là Văn Thù Sư Lợi, Quan Âm, Di Lặc và Phổ Hiền. Mở đầu việc tham học, Thiện Tài gặp Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, tức cầu đạo trước tiên là cầu trí tuệ, vì không có trí tuệ không thể nào giữ được phước đức. Vì vậy khẩu hiệu của người tu là duy tuệ thị nghiệp. Thiện Tài may mắn gặp đại thiện tri thức Văn Thù, nhận được lực gia bị của ngài và phát huy trí tuệ theo từng bước chân hành đạo. Nhờ vậy, Thiện Tài dấn thân vào đời thấy gai góc là huy hoàng, đối diện với đủ thành phần xã hội không hề thấy chống trái, mà toàn là thiện tri thức dưới mắt ông. Vì dưới lăng kính trí tuệ thấy tất cả đều có hai mặt tốt và xấu, không có gì hoàn toàn tốt hay xấu. Tốt xấu là tùy thuộc ở ta. Thiện Tài nhận chân được cái tốt của người và khai thác mặt tốt nên đắc đạo. Dưới ánh sáng trí tuệ của Văn Thù, Thiện Tài đi khắp thế gian thấy sanh thân Phật Thích Ca không còn hiện hữu, nhưng Đức Phật quyền năng tồn tại dưới dạng Quan Âm phổ hiện thành ba mươi hai hiện thân, không có một loại hình Phật cố định. Đối với người đáng hiện thân nào để cứu độ thì ngài hiện thân đó. Vì vậy, kinh Pháp Hoa dạy rằng có người thấy Phật, nhưng cũng có người không thấy. Đức Phật siêu hình thì người có nhân duyên đắc độ mới thấy Ngài. Các vị Tổ sư, các nhà truyền giáo thấy Phật, mới dấn thân hành đạo không tiếc thân mạng. Theo tôi, từ một Đức Phật Thích Ca, nhưng mỗi vị tu hành thấy Phật khác nhau, dẫn đến hình thành nhiều tông phái khác nhau. Có bao nhiêu vị Tổ thì có bấy nhiêu Phật, cho đến có Phật ba đầu sáu tay, hay Phật vạn năng ngàn mắt ngàn tay tiêu biểu cho hành động có trí tuệ chỉ đạo. Sau khi Thiện Tài học với Văn Thù Bồ tát mới gặp được Phật dưới dạng Quan Âm ban vui cứu khổ. Kế tiếp, Thiện Tài bắt đầu du hành trong thế giới siêu hình, gặp những vị thần minh, nhận ra lực chi phối của họ đối với mọi việc trên cuộc đời. Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu với chúng ta thế giới siêu nhiên ấy và duy nhất có Thiện Tài thâm nhập được để tiếp tục học đạo với Di Lặc Bồ tát. Theo kinh Nguyên thủy, độc nhất có Bồ tát Di Lặc được Phật thọ ký thành Phật. Kinh Hoa Nghiêm đặt năng vấn đề người hành Bồ tát đạo cần học với Di Lặc, vì ngài thừa kế sự nghiệp của Đức Thích Ca. Nhưng muốn học với Di Lặc, Thiện Tài phải gặp Văn Thù và Quan Âm trước. Thiện Tài gặp Di Lặc và Di Lặc khảy tay ba cái, thì lâu các Tỳ Lô Giá Na mở ra và Thiện Tài đi vào lâu các thấy được tất cả việc của Đức Phật đã làm trong quá khứ dẫn đến hiện tại và kéo dài tận vị lai, tất cả hiện hữu đầy đủ trong lâu các. Khi Thiện Tài tham quan xong, Di Lặc khảy móng tay một lần nữa thì lâu các biến mất. Lâu các xuất hiện và biến mất chứng tỏ đây không phải là tòa nhà thật. Tỳ Lô Giá Na lâu các tiêu biểu cho Pháp thân Phật. Đức Phật sanh thân Niết bàn, nhưng Ngài vẫn tồn tại miên viễn dưới dạng thanh tịnh Pháp thân. Trên bước đường tu, trở về với chơn tâm thanh tịnh mới bắt gặp được Pháp thân Tỳ Lô Giá Na. Di Lặc là người giữ Tỳ Lô Giá Na lâu các, tức ngài sử dụng được phần linh hoạt diệu dụng của chơn tâm để thông với thanh tịnh Pháp thân Phật. Vì vậy, Di Lặc được coi là Tổ của tông Duy thức. Ngài dạy chúng ta quan sát hiện tượng bên ngoài mà đo được tâm khởi, hay nhờ có cảnh, chúng ta phát hiện được tâm. Và chúng ta mới theo tâm trở về nguồn; từ ngoài lần vào trong đến tận Tiềm thức hay A lại da thức. Có thể ví nó như một cái kho vô hình chứa đựng những thứ vô hình. Kho vô hình của Thiện Tài được Bồ tát Văn Thù khai ngộ, chứa những hạt giống trí tuệ và học với Quan Âm nên có hạt giống từ bi. Tâm thức của Thiện Tài đầy đủ trí tuệ và từ bi, nên A lại da thức trắng sạch như gương trong. Còn kho chứa của chúng ta chỉ có toàn phiền não nhiễm ô. Di Lặc mở lâu các cho Thiện Tài xem thành quả của Phật Thích Ca chứng được và giao cho ngài giữ gìn. Thiện Tài thắc mắc hỏi Di Lặc tại sao ngài là người thừa kế sự nghiệp của Phật mà lại không ra đời để sử dụng những của báu đã được giao phó. Di Lặc cho biết ngài đã đủ điều kiện thành Phật, nhưng chưa ra đời ngồi tòa Long Hoa vì còn phải lo việc giáo hóa chúng sanh có duyên với ngài cho thành thục và tiếp độ những người mà Đức Thích Ca để lại cũng được thuần thục. Theo lời dạy của Di Lặc với Thiện Tài như trên, chúng ta biết rằng hiện tại tất cả ai đang từng bước phát triển trên lộ trình Phật đạo đều được Di Lặc Bồ tát chăm sóc. Di Lặc chứng được Từ tâm tam muội, nên người có duyên với ngài là người cũng phải có tâm Từ. Tại sao Di Lặc Bồ tát giáo hóa người có duyên với ngài trước, rồi mới độ người của Đức Thích Ca sau. Người của Đức Thích Ca để lại phức tạp lắm. Thật vậy, thử nghĩ xem trên thế giới có hàng tỷ người theo đạo Phật, không ai giống ai, giữa các tông phái cũng không chấp nhận nhau. Làm sao xác định ai đúng, ai sai. Đúng thì tất cả đều đúng, mà sai thì tất cả cũng sai. Nếu lo việc này thì suốt đời chỉ tranh cãi nhau. Vì vậy, việc quan trọng đầu tiên là Di Lặc phải thuần thục chúng của mình trước. Thiển nghĩ chúng ta có giỏi mấy, nhưng quyến thuộc của ta toàn người ăn hại thì cũng chẳng thể làm được việc lớn. Ý thức sâu sắc như vậy, người thật tu lo giải quyết bản thân thật tốt, chắc chắn người xung quanh cũng tốt theo. Trên bước đường tu theo Di Lặc, cần phát triển tâm an vui, vì con Phật mà phiền não là biến thành con của ma. Tôi tâm đắc pháp này, cố giữ cho mình an lành. Dù hoàn cảnh thế nào vẫn lấy sự bình ổn làm lẽ sống, còn mưa gió là việc của thiên hạ. Theo Phật dạy, lo cho ta chính là đã lo cho người. Trên tinh thần ấy, bằng mọi giá, chúng ta phải tự an lấy tâm, tức đạt được Định. Từ tâm Định ấy, chúng ta mới bắt gặp được Định của Phật và Bồ tát. Và công đức lành mới theo Định tâm của ta mà tới, nhưng cũng tới với dạng vô hình. Chúng ta không thể biết cho cùng tận công đức này mà đó là sự thật. Công đức chỉ có trong Thiền định là công đức vô lậu. Từ tâm an nên Định sanh, thấy được sự vật không chướng ngại, vật không tác động làm phiền chúng ta là Tuệ sanh. Nhờ vậy, bản thân và hoàn cảnh chúng ta mỗi ngày tốt thêm hơn. Đó là ba điều căn bản mà chúng ta phải thực hiện được trên lộ trình đi theo dấu chân Bồ tát Di Lặc. Thiện Tài được Di Lặc dẫn vào Tỳ Lô Giá Na lâu các, thấy được thành quả của Đức Phật từ vô số kiếp quá khứ đến tận vị lai vô cùng. Kinh Hoa Nghiêm mở ra cho chúng ta hình ảnh một Đức Phật thật không phải chỉ còn lưu lại những viên Xá lợi. Nhưng đó là Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật đang sống, đang chi phối tất cả muôn loài và tồn tại miên viễn theo thời gian vô cùng, không gian vô tận, mới thật quý báu. Thật vậy, từ Phật Niết bàn đến nay, các Luận sư tiếp tục triển khai giáo lý theo từng thời kỳ, từng quốc gia khác nhau, thích hợp với cuộc sống nhân sinh, tức Pháp thân Phật mở rộng biến chiếu khắp tất cả, không có trình độ nào không phổ cập. Người trí thấy Phật tuyệt luân và người chỉ có niềm tin cũng thấy Phật tuyệt vời. Dòng thác trí tuệ của nhân loại phát khởi từ ngọn nguồn bước theo tri kiến Phật, cùng với vô số cuộc sống giải thoát, vị tha của người con Phật, tất cả tiêu biểu cho thanh tịnh Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật vẫn đang tồn tại khắp nơi khắp chốn.
-
Tiếng vỗ của một bàn tay Tháng Một 6, 2010 Trần Đình Hoành Mokurai, Tiếng Sấm Tĩnh Lặng, là thiền sư trụ trì chùa Kennin. Sư có một đệ tử nhỏ tên Toyo mới 12 tuổi. Toyo thấy các đệ tử đàn anh vào phòng thầy mỗi sáng và tối để nhận giáo huấn trong lớp riêng một thầy một trò và được hướng dẫn cá nhân về cách dùng công án để chận tâm trí không đi lang thang. Toyo cũng muốn được vào lớp riêng. Mokurai nói, “Đợi một thời gian đã. Con còn nhỏ.” Nhưng Toyo nằng nặc xin, vì vậy cuối cùng thầy cũng đồng ý. Chiều tối, cậu bé Toyo đến đúng giờ, trước cửa phòng thầy Mokurai dùng làm lớp riêng. Cậu đánh một tiếng cồng báo hiệu đã có mặt, gập mình chào lễ phép ba lần ngoài cửa, và bước vào ngồi yên lặng một cách lễ độ trước mặt thầy, “Con có thể nghe âm thanh của hai bàn tay khi hai tay vỗ vào nhau,” Mokurai nói. “Bây giờ chỉ cho thầy tiếng vỗ của một bàn tay.” Toyo cúi chào và về phòng để suy nghĩ vể câu hỏi. Từ cửa sổ cậu có thể nghe nhạc của các cô geishas. “A, tôi có rồi!” cậy bé tuyên bố. Sáng hôm sau, khi thầy hỏi cậu trình bày tiếng vỗ của một bàn tay, Toyo làm tiếng nhạc của geishas. “Không, không,” Modurai nói. “Không bao giờ được. Đó không phải là tiếng vỗ của một bàn tay. Con chẳng hiểu gì cả.’ Nghĩ là nhạc của geishas cắt đứt dòng suy tưởng, Toyo chuyển chỗ ở đến một nơi yên lặng hơn. Cậu bé thiền định. “Tiếng vỗ của một bàn tay là gì?” Cậu bé nghe tiếng nước nhỏ giọt. “Tôi có rồi,” Toyo nghĩ. Khi Toyo đến gặp thầy sau đó, cậu bé bắt chước tiếng nước nhỏ giọt. “Cái gì vậy?” Mokurai hỏi. “Đó là tiếng nước nhỏ giọt, nhưng không phải là tiếng vỗ của một bàn tay. Cố thêm đi.” Hoài công Toyo thiền định để nghe tiếng vỗ của một bàn tay. Cậu nghe tiếng thở dài của gió. Nhưng tiếng đó cũng bị thầy gạt bỏ. Tiếng vỗ của một bàn tay cũng không phải là tiếng ve kêu. Hơn mười lần Toyo vào thăm Mokurai với những loại tiếng khác nhau. Tất cả đều trật. Cả một năm, cậu bé suy nghĩ tiếng gì có thể là tiếng vỗ của một bàn tay. Cuối cùng Toyo vào được thiền định thật sự và vượt lên trên tất cả mọi âm thanh . “Tôi chẳng còn tìm được tiếng nào nữa,” sau này cậu bé giải thích, “vì vậy tôi đạt được âm thanh im lặng.” Toyo đã đạt được tiếng vỗ của một bàn tay. Bình: • Takeda Mokurai (1854-1930) (“Silent Thunder” – Tiếng Sấm Tĩnh Lặng) đi tu lúc còn nhỏ và được huấn luyện bởi các thiền sư hàng đầu thời đó. Mokurai trở thành sư trụ trì chùa Kennin, một trong những ngôi chùa cổ nhất và quan trọng nhất ở Kyoto, Nhật, vào năm 1892 khi Mokurai chỉ 38 tuổi. Mokujrai còn là một họa sĩ nổi tiếng với tên Sayu Núi Đông. Sayu vì một trong những bút danh của Mokurai là Sayutei, và Núi Đông là chỉ chùa Kennin. • Bài này nói đển thủ tục lễ nghĩa khi đến gặp thầy để có lớp riêng với thầy (sanzen) rất rõ. • “Dùng công án để chận tâm trí không đi lang thang.” Đây chính là yếu tính của công án. Đa số công án không phải là một câu hỏi cho một câu trả lời bằng chữ nghĩa hay lý luận, như câu hỏi “tiếng vỗ của một bàn tay” ở đây. Người học trò, trong tiến trình tìm câu trả lời, sẽ tự nhiên tìm mọi cách để tập trung tư tưởng, không cho tư tưởng đi lang thang. Tâm sẽ lặng từ từ, như nghe tiếng nhạc, đến tiếng nước nhỏ giọt, tiếng thở dài của gió… • Đến một lúc nào đó, tâm hoàn toàn tĩnh lặng đến nỗi không còn âm thanh nào có thể làm cho ta bị phân tâm. Tai nghe thì vẫn nghe, nhưng tâm hoàn toàn không xao động. Đó là “vượt lên trên” mọi âm thanh. • Nhưng tại sao lại là tìm được “âm thanh tĩnh lặng” (soundless sound)? Âm thanh tĩnh lặng (soundless sound) cũng là âm thanh của tĩnh lặng (sound of silence) như tên một bản nhạc của Simon and Garfunkel hay “tiếng thầm trong ngọc nói lời hay” của thiền sư Kiều Trí Huyền. Tức là, trong tĩnh lặng ta “nghe”, “thấy”, “hiểu” hay “ngộ” được nhiều điều mà khi tâm ta bị phân tâm vì các “tiếng động” ta không nghe, không thấy, không hiểu. Điều này thì chúng ta ai cũng đã có kinh nghiệm loáng thoáng phần nào—đôi khi ta tĩnh lặng, chẳng làm gì cả, chẳng suy nghĩ gì cả, tự nhiên bao nhiêu ý tưởng sáng tạo lại ùa đến. Tĩnh lặng làm con người thông thái ra, bao nhiêu vị thầy đã nói như thế. • Tại sao vị học trò trong truyện này chỉ mới 12 tuổi? Thưa, vì: (1) 12 tuổi thì ít có tiếng động trong đầu từ những lo lắng—con cái, công việc, chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện tiền bạc, chuyện nợ nần… và (2) 12 tuổi thí ít có kiến thức lý luận để mà có thành kiến “Làm sao một tay mà phát ra tiếng vỗ được? Vô lý!” Tức là nếu cái tâm ta càng nhẹ nhàng, giản dị, và không cố chấp, như trẻ thơ, thì ra sẽ thiền dễ hơn và đạt giác ngộ dễ hơn. Muốn vào được thiên đàng thì hãy như trẻ thơ. (Trần Đình Hoành dịch và bình) .