VIETHA

Thử Giải “Tây Du Ký”

27 bài viết trong chủ đề này

Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org] “Tây Du Ký” từ khi ra đời đến nay vẫn luôn nhận được sự yêu mến của mọi người. Người ta không chỉ yêu thích các hình tượng nhân vật trong đó, tình tiết trong đó, mà cả tinh thần lạc quan hướng thiện thể hiện trong tác phẩm. Nhận thức của người Trung Quốc đối với tu luyện, Thần Phật, thế giới thiên quốc, yêu ma quỷ quái, rất nhiều đều có liên quan với “Tây Du Ký”. Về nội hàm và ý nghĩa chính của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau và phức tạp, khó có thể đưa ra được kết luận. Sau khi tu luyện, tôi đã có một tầng nhận thức tương đối sâu, hôm nay chỉnh lý lại, mong muốn chia sẻ cùng quý độc giả.

I. Quá trình tu luyện của Tôn Ngộ Không

1. Bản lai diện mục của Tôn Ngộ Không

Mở đầu Tây Du Ký là nói về xuất thân của Tôn Ngộ Không, do một tảng đá tiên hấp thụ linh khí của trời đất và tinh hoa của nhật nguyệt mà sinh ra, theo cách nói của Bồ Đề Lão Tổ thì là “Trời Đất sinh ra”. Mục đích tác giả viết về Thạch Hầu này cũng được nói rất rõ ràng, trong truyện có câu thơ như sau: “Tá noãn hóa hầu hoàn Đại Đạo, Giả tha danh tính phối đan thành.” Lại nói, “Lịch đại nhân nhân giai chúc thử, Xưng thánh xưng vương nhậm tung hoành.” Vậy nên từ góc độ này mà nói, tác giả viết về quá trình Thạch Hầu cầu Đạo và tu luyện, cũng là đang giảng giải về quá trình tu luyện của một người.

Mỹ Hầu Vương từ Đông Thắng Thần Châu, đi qua Nam Thiêm Bộ Châu, cuối cùng tìm được Tu Bồ Đề Tổ Sư ở Tây Ngưu Hạ Châu. Con đường xa xôi thế này dù sao cũng chỉ là quá trình một người cầu Đạo trải qua, nhưng cuối cùng tìm được Tổ Sư ở nơi nào? Trong truyện viết là, “Linh Đài Phương Thốn sơn, Tà Nguyệt Tam Tinh động”. Ý hai câu này là nói về một chữ “tâm”, từ xưa người ta thường nói tâm thành “Linh Đài”, còn “Phương Thốn” cũng là để chỉ tâm, “Tà Nguyệt Tam Tinh động” lại càng dễ hiểu hơn, “Tam Tinh” (ba ngôi sao) chính là ba nét chấm của chữ “tâm” (心), “Tà Nguyệt” (vầng trăng khuyết) chính là nét móc nằm ngang. Mỹ Hầu Vương trải qua bao nhiêu gian khổ nguy hiểm, cuối cùng trong tâm của mình đã tìm được “chân Pháp” để tu luyện.

Câu nói này rất phù hợp với cách nói của Phật gia, chính là “Phật tại tâm trung”, tức “tâm là Phật”. Nhưng không phải nói rằng trong tâm có ông Phật, mà là nói phải hướng nội mà tu, hướng vào trong tâm của mình mà tu, thì mới tu thành Phật được. Bước đường Mỹ Hầu Vương dù đi qua được bao nhiêu, trải qua bao nhiêu năm tháng, cuối cùng tự trong tâm mình đã ngộ được chân Pháp chân Đạo. Vậy sư phụ Tu Bồ Đề Tổ Sư của Tôn Ngộ không là ai? Ông lẽ nào lại có thể ở trong tim của Mỹ Hầu Vương?

Trong truyện viết về Tôn Ngộ Không, có rất nhiều chỗ đều nhắc đến chữ “tâm viên” (tâm viên – ví một người nông nổi, tâm trí bất an như loài khỉ loài vượn luôn chạy nhảy). Hồi thứ 7 “Bát Quái lư trung đào đại thánh, Ngũ Hành sơn hạ định tâm viên” còn một câu tụng nữa: “Viên hầu đạo thể giả nhân tâm, Tâm tức viên hầu ý tứ thâm.” Vậy thì, Tôn Ngộ Không là “tâm viên” của ai? Thực ra Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã, năm vị này hợp lại chính là một người. Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho cái tâm của Đường Tăng.

Xét về Tôn Ngộ Không không thể xét một cách đơn nhất riêng lẻ, Tôn Ngộ Không là những mảnh ghép tượng trưng cho nhiều hình tượng. Một mặt là thể hiện hình tượng hóa của cái tâm con người, mặt khác lại thể hiện ra một người trong tu luyện với ý chí và thân thể mạnh mẽ (cương dương), trong truyện dùng chữ “kim công” chính là để chỉ về Tôn Ngộ Không. “Kim công” là theo cách nói về ngũ hành đối ứng với ngũ tạng trong thân thể người; thỉnh thoảng còn dùng nó để nói về dục trong “lục dục”, ví dụ như, câu thơ mở đầu hồi thứ 17 viết: “Lục bàn thể tương lục bàn binh, Lục dạng hình hài lục dạng tình; Lục ác lục căn duyên lục dục, Lục môn lục đạo đổ thâu doanh”. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, và ba yêu ma khác chính là chỉ lục dục của con người. Khi Bồ Đề Lão Tổ đặt tên cho Tôn Ngộ Không, ông đã nói: “Tử giả, nhi nam dã; hệ giả, anh tế dã. Chính hợp anh nhân chi bổn luận. Giáo nhĩ tính ‘Tôn’ bãi”. Điều này xét từ góc độ khác có thể thấy rằng một người khi tu luyện đến một tầng thứ nhất định nào đó, thì nguyên anh được sinh ra tại đan điền. Đối với Hoa Quả sơn và Thủy Liêm động mà nói, đó chính là tượng trưng cho thân thể và trái tim của Tôn Ngộ Không. Thạch Hầu sau khi nhảy qua tấm màn bằng nước đã vào được trong Thủy Liêm động, Thủy Liêm được nhắc đến trong truyện, chính là, “Kiều hạ chi thủy, xung quán vu thạch khiếu chi gian, đảo quải lưu xuất khứ, già bế liễu kiều môn” (Nước dưới cây cầu, xông qua huyệt giữa núi đá, chảy ngược ra ngoài, che lấp đi cửa lên cầu), đây cũng là miêu tả hình tượng hóa chữ “tâm”. Tôn Ngộ Không sau khi ngộ Đạo và trong cuộc đại chiến với Thiên binh Thiên tướng, đã phong hai con Xích Khào Mã Hầu và hai con Thông Bối Viên Hầu làm kiện tướng, đó cũng là tứ chi của Tôn Ngộ Không. Cho nên trong khi đại chiến với các vị thần, 72 yêu vương đều có thể bị bắt đi, nhưng 4 kiện tướng này bao gồm cả bầy khỉ, không có một con nào bị bắt đi. Nhưng trước khi Tôn Ngộ Không bị bắt giữ, bốn kiện tướng và bầy khỉ đã bị làm cho phân tán rời rạc.

Tôn Ngộ Không là “tâm viên” của Đường Tăng, Tu Bồ Đề lại ở trong tâm của Tôn Ngộ Không, vậy rốt cuộc Đường Tăng và Tu Bồ Đề có quan hệ thế nào? Trong “Tây Du Ký” nói rằng Đường Tăng là đồ đệ thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni – Kim Thiền Tử – chuyển sinh. Nhưng trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni lại không có người nào tên Kim Thiền Tử, điều này nói rõ rằng tác giả dùng cái tên “Kim Thiền Tử” không có thật chỉ là để lấy ý trong “Kim Thiền thoát xác”. Mà trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni lại đúng có vị tên là “Tu Bồ Đề”. Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn khi đó là thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Từ khi Tôn Ngộ Không sinh ra đến khi sinh tâm học Đạo đã ở trong núi trải qua hơn 500 năm, rồi đến khi cầu Đạo học Đạo lại trải qua mấy chục năm, cứ tính như thế, thì Tôn Ngộ Không chính là sinh ra trong thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp. Từ một góc độ khác mà xét, Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn 500 năm, cũng vừa khớp với thời gian Đường Tăng tu hành 9 kiếp trước. Lai lịch nguyên gốc của Tôn Ngộ Không, Đường Tăng, Tu Bồ Đề là cùng một thời đại, thông qua miêu tả như trong truyện, ba vị này cũng có thể xem là một người.

Bồ Đề Lão Tổ dùng thước đánh vào đầu Ngộ Không ba cái, Ngộ Không liền ngộ được rằng Tổ Sư muốn bảo mình rằng sau canh ba đi học nghệ. Thực ra chuyện này xuất phát từ điển cố “Lục Tổ đàn kinh”, Lục tổ Huệ Năng từng làm bài kệ, “Bồ Đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài; Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nặc trần ai?” (Bồ Đề vốn chẳng phải cây, Gương sáng cũng chẳng phải đài; Xưa nay không có vật gì, Nơi nào không dính bụi trần?) Sau khi Ngũ tổ thấy được Huệ Năng đã có thể ngộ được bản tính, ông sợ Huệ Năng bị người khác hại, nên đã xóa bài kệ đi. Hôm sau, Ngũ tổ lặng lẽ tìm đến Huệ Năng, thấy Huệ Năng đang giã gạo, Ngũ tổ nói vài lời xong, rồi dùng thiền trượng gõ vào cối đá ba cái, đoạn rời đi. Lúc đó Huệ Năng đã hiểu được ý của Ngũ tổ, nên đến canh ba nửa đêm, ông lặng lẽ đến chỗ của Ngũ tổ; Ngũ tổ dùng áo cà sa che ánh sáng của ngọn đèn trước cửa sổ, và giải thích kinh “Kim Cương” cho Huệ Năng. Huệ Năng cuối cùng đã ngộ được hết vạn pháp, không rời tự tính. “Tự tính” ở đây chính là chỉ bản tính của con người, trong “Kim Cương Kinh”, “tự tính” được gọi là “Bồ Đề”. Tâm Bồ Đề được nói đến trong Phật giáo chính là để chỉ bản tính tiên thiên thuần khiết của con người.

Mà “Kim Cương Kinh” chính là ghi lại lời đối thoại của Phật Thích Ca Mâu Ni với tôn giả Tu Bồ Đề. Tu Bồ Đề vốn là đệ tử thứ mười của Phật Thích Ca, được gọi là “Giải không đệ nhất”, Bồ Đề Tổ Sư đặt tên cho Ngộ Không là “Ngộ Không” cũng là điều dễ hiểu. Thực ra từ góc độ khác mà nói, đây cũng là Ngộ Không tự đặt tên cho mình mà thôi. Ngay cả Đường Tăng cũng khen Tôn Ngộ Không, nói rằng “tâm không” mà Tôn Ngộ Không giải được là “vô ngôn ngữ văn tự, nãi thị chân giải” (không có lời nói chữ viết, chính là giải được thật sự). Đương nhiên, Kim Thiền Tử và Tu Bồ Đề có phải là một người hay không, chúng ta không cần phải đưa ra kết luận này. Đúng cũng được mà không đúng cũng được, họ chỉ là có mối quan hệ như vậy, Phật gia giảng chính là một chữ “không”, là cái gọi là “vạn Pháp không tướng”. Kỳ thực tác giả sắp đặt như vậy, còn có dụng ý sâu xa hơn nữa, chúng ta hãy từ từ bàn luận.

2. Sự tu luyện của Tôn Ngộ Không

Mấu chốt của tu luyện chính là tu tâm. Khi Bồ Đề Tổ Sư hỏi Ngộ Không tên là gì, Ngộ Không nói: “Ngã vô danh, nhân nhược mạ ngã, ngã dã bất não, nhược đả ngã, ngã dã bất sân, chỉ thị bồi cá lễ nhi tựu bài liễu. Nhất sinh vô tính” (Con không có danh tính. Nếu người khác chửi con, con không thấy phiền não; nếu người khác đánh con, con cũng không tức giận; chỉ là lấy lễ đáp lại là được. Một đời không có tên.) Điều này xem ra giống như vô ý đổi chủ đề, nói về Ngộ Không trong quá trình cầu Đạo cũng đã là đang tu tâm rồi. Chính vì có tâm tính cao như vậy, nên Ngộ Không mới có thể nhanh chóng ngộ Đạo.

Bồ Để Lão Tổ truyền thụ cho Ngộ Không “Hiển mật viên thông chân diệu quyết”, từ tên gọi mà nói, chính là gộp mật quyết tu luyện của cả hiển giáo và mật giáo trong Phật giáo làm một. Nhưng nội dung trong đó lại hoàn toàn là nội dung tu luyện của Đạo gia. Trong đó: “Nguyệt tàng ngọc thố nhật tàng ô, tự hữu quy xà tương bàn kết. Tương bàn kết, tính mệnh kiên, tức năng hỏa lý chủng kim liên. Toàn thốc ngũ hành điên đảo dụng, công hoàn tùy tác Phật hòa Tiên.” Ở đây bao hàm các thuật ngữ và quy luật tu luyện của Đạo gia. “Nguyệt tàng ngọc thố, nhật tàng ô” có ý là, khi chu thiên vận hành thì nước ở bể thận dâng lên, khí ở tim giáng xuống, từ đó mà đạt được thủy hỏa hòa hợp, cũng chính là nói thủy hỏa ký tế (ký tế – một quẻ trong Bát Quái). Bởi vì thủy thuộc quẻ Khảm trong Bát Quái, nên dùng chữ “nguyệt” (mặt trăng) để hình dung. Hình quẻ của quẻ Khảm (☵) là một hào dương ở giữa hai hào âm, “ngọc thố” chính là chỉ một hào dương kia. Tim trong ngũ hành thuộc về hỏa, nên dùng “nhật” (mặt trời) để ví, hỏa là quẻ Ly (☲), hình quẻ Ly là một hào âm ở giữa hai hào dương, một hào âm kia cũng chính là “ô” (con quạ). Quy xà tương bàn kết, là chỉ âm dương hòa hợp. “Ngũ hành điên đảo dụng” là chỉ thủy thăng hỏa giáng, mộc chìm xuống, kim nổi lên, mà lại dùng thổ (đất) để điều hòa. Điều này cũng là phù hợp với thuyết “hậu thiên trở về tiên thiên” trong tu luyện của Đạo gia. Kết hợp với điều nói ở phần sau của “Tây Du Ký” là “Linh Quy hấp tận Kim Ô huyết” thì có thể hiểu được ngay: Đạo gia cho rằng, con người trước khi sinh ra, thận tạng đối ứng với quẻ vị là Khôn (☷), tâm tạng đối ứng là Càn (☰), quẻ Khôn là ba hào âm tạo thành, quẻ Càn do ba hào dương tạo thành. Con người khi sinh ra, quẻ Khôn liền biến thành quẻ Khảm, quẻ Càn biến thành quẻ Ly. Từ đó quẻ Khảm lấy dương bổ sung vào trong quẻ Ly, quẻ Ly biến thành quẻ Càn. “Kim Ô huyết” trong cách nói “Linh Quy hấp tận Kim Ô huyết” là chỉ hào âm trong quẻ Ly, đặt trong quẻ Khảm, liền biến thành quẻ Khôn. Đây chính là thuyết hậu thiên quay trở về tiên thiên, cũng chính là ý trật tự ngũ hành thay đổi.

Kỳ thực, sau khi Bồ Đề Tổ Sư truyền thụ phương pháp tu luyện cho Tôn Ngộ Không, sư đồ Đường Tăng tu luyện trong khi đi thỉnh kinh, thì trên cơ bản chiểu theo phương pháp tu luyện này mà đi. Bồ Đề Tổ Sư truyền thụ cho Tôn Ngộ Không cách tránh “tam tai” trong “thiên lôi, âm hỏa, bị phong”, trong đó toàn là thuật ngữ tu luyện của Đạo gia. Trong truyện cũng nhiều lần nhắc đến Tôn Ngộ Không tu thành “Thái Ất tản tiên”.

Ngộ Không học Đạo trở về, việc làm đầu tiên chính là tiêu diệt “Hỗn thế ma vương”. Giới tu luyện giảng, con người có Phật tính, cũng có ma tính, tu luyện chính là quá trình trừ bỏ ma tính, củng cố Phật tính. Vậy Ngộ Không ngộ được bản tính, đương nhiên cần phải thanh trừ ma tính của chính mình. “Hỗn thế ma vương” này chính là tượng trưng cho ma tính của Ngộ Không. Thực ra từ chính mỗi người mà nói, ai mà không có tư tưởng và đặc trưng của hỗn thế (thế gian hỗn loạn). Trong truyện nói rằng Hỗn thế ma vương trú ở phía Bắc Hoa Quả sơn trong“Tam giới khảm nguyên sơn, Từ dưỡng ngũ hành thủy tạng động” thực ra chính là chỉ về bộ phận thận tạng. Thận tạng của thân thể con người trong ngũ hành là thuộc về tính thủy. Mà “Khảm” (☵) trong tám quẻ của Bát Quái lại là chỉ thủy, phương vị thuộc hướng Bắc. Từ chỗ này chúng ta có thể nhìn ra Hoa Quả sơn chính là tượng trưng cho thân thể của Tôn Ngộ Không. Tên hiệu của Hỗn thế ma vương kia và ma tính trong thân người cũng rất phù hợp với nhau. Cho nên, Ngộ Không tiêu diệt Hỗn thế ma vương cũng là một phương diện trong tu luyện của bản thân. Tiêu đề trong hồi này: “Ngộ triệt Bồ Đề chân diệu lý, Đoạn ma quy bản hợp nguyên thần”, chính là nói rõ về vấn đề này.

Quá trình Ngộ Không lấy của Long Vương cây Kim Cô bổng, miêu tả làm cho người ta cảm thấy như thân ở trong cảnh, kỳ thực đó cũng chỉ bất quá là tầng thứ tu luyện của Ngộ Không biểu hiện ra như ý mà thôi. Trong truyện nói Ngộ Không từ Thủy Liêm động dưới cầu Thiết Bản mà trực tiếp xuống đáy biển, dưới đáy biển nhìn thấy cây sắt “Định hải thần châm”, cũng gọi là “Như ý Kim Cô bổng”. Ở đây tác giả dùng một cách nói ẩn dụ, là chỉ về định lực và tầng thứ của Tôn Ngộ Không. Bình thường mà nói, thông thường gọi huyệt hội âm là đáy biển, Tôn Ngộ Không từ Thủy Liêm động nhảy trực tiếp xuống biển, đó là nói lên hình tượng hóa của Tôn Ngộ Không khi nhập định. Lại nói về cây sắt định hải thần châm, nó chính là định sự nông sâu của sông biển, làm binh khí cũng chính là thành gậy sắt như ý.

Tôn Ngộ Không được phong làm Bật Mã Ôn cũng là có dụng ý. Trong sách ví Tôn Ngộ Không là “tâm viên”, ví Bạch Long Mã thành “ý mã”, có câu thơ như thế này: “Mã viên hợp tác tâm hòa ý, Khẩn phược thuyên lao mạc ngoại tầm”. Trong câu tiêu đề khái quát nội dung của “Tây Du Ký” có câu, “Ý mã ức tâm viên”, cũng là đạo lý này. Tôn Ngộ Không ở trên trời trông nom thiên mã (ngựa trời), ý nghĩa chính là chỉ tâm của một người cần phải quản chắc cái ý của chính mình, không được để tâm mình suy nghĩ lung tung.

Sau khi Tôn Ngộ Không được phong làm Tề Thiên Đại Thánh, trong Tề Thiên Đại Thánh phủ còn thiết lập ra hai ti: một ti gọi là ‘An Tịnh ti’, một gọi là ‘Ninh Thần ti’. An tịnh và ninh thần chính là để cho Ngộ Không an tâm định thần. Từ một góc độ khác mà nói, Tôn Ngộ Không tự phong làm “Tề Thiên Đại Thánh” cũng có đạo lý. Đạo gia tu luyện coi thân thể người là một tiểu vũ trụ, sau khi người ta tu luyện đắc Đạo, chính từ tự thân mà nói, thì thọ mệnh của người đó sánh ngang với trời, hợp nhất với trời, gọi là Tề Thiên Đại Thánh cũng chính là chỉ ý này. Có điều “Tây Du Ký” là một tác phẩm văn học, là lấy hình thức văn nghệ để truyền tải nội dung, cho nên biểu hiện bề mặt viết rất hấp dẫn và phức tạp, thực chất biểu hiện ra lại là có dụng ý khác. Lại nói thêm, việc Tôn Ngộ Không tự đặt biệt hiệu cho mình, cũng là để cho bản tính kiêu ngạo được biểu hiện ra.

Tôn Ngộ Không sau khi bị bắt cho vào lò Bát Quái để luyện, đó cũng là biểu hiện của một loại hình thức tu luyện khác, Hỏa nhãn kim tinh (đôi mắt lửa sáng ánh kim), Đồng đầu thiết tý (đầu cứng như đồng, tay dẻo như thiếc), cũng là trải qua quá trình luyện trong lò Bát Quái mà thành.

Bảy hồi đầu của “Tây Du Ký” viết về xuất thân và quá trình tu luyện của Tôn Ngộ Không. Xem sự dũng mãnh và uy lực mạnh mẽ của Tôn Ngộ Không khi đại náo Thiên Cung, đó cũng là một hình thức biểu hiện của tu luyện. Trong toàn cuốn sách, phần này là hấp dẫn người đọc nhất, Thần tướng khắp trời mà không làm thế nào bắt được một con khỉ. Xem Tôn Ngộ Không học Đạo tiên, mượn binh khí, ăn đào tiên, uống ngự tửu, trộm tiên đan, đánh bại Na Tra, đại chiến Nhị Lang, trong lò Bát Quái luyện mắt vàng, chơi đùa hung dữ trong tay Phật Tổ, thật làm cho người ta hét lên khoái chí. Trong hình thức biểu hiện nhiều lần lặp lại tình huống, điều ẩn giấu chính là nội hàm của một người tu luyện.

Tu luyện Đạo gia coi thân thể người là một tiểu vũ trụ, sự tu luyện của Tôn Ngộ Không là hoàn thành chính trên thân thể mình. Thực ra, sự tu luyện của bất kỳ ai cũng là tu luyện thân và tâm của chính mình. Vậy Thiên Cung mà Tôn Ngộ Không đại náo nằm ở đâu? Đó chính là đầu của Tôn Ngộ Không, sau khi nhảy ra từ lò Bát Quái, Tôn Ngộ Không nói với Phật Như Lai rằng muốn ngồi ở Linh Tiêu Bảo Điện, thay thế Ngọc Hoàng Đại Đế. Linh Tiêu Bảo Điện nằm ở đâu? Chính là Nê Hoàn Cung của con người, chủ nguyên thần của người ta chính là ở đó. Tôn Ngộ Không muốn đuổi Ngọc Hoàng Đại Đế đi, làm sao được cơ chứ? Giống như một người, nếu không có chủ nguyên thần, thì những điều khác chẳng cần bàn tới nữa; chủ nguyên thần làm chủ và điều khiển hết thảy tâm và thân một người, sự ngông cuồng của Tôn Ngộ Không chính là tới mức không biết trời cao đất dày là gì, vậy thì đến lúc bị mắc kẹt dưới núi Ngũ Hành Sơn rồi.

3. Sự kiêu ngạo của Tôn Ngộ Không

Sự kiêu ngạo của Tôn Ngộ Không thật đáng để chúng ta bàn luận một chút. Tôn Ngộ Không xuất thân tại nước Ngạo Lai ở Đông Thắng Thần Châu, điều này nói rõ rằng Tôn Ngộ Không vốn sinh ra đã kiêu ngạo. Vào đến Thủy Liêm Động được bầy khỉ bái làm Vương. Bản thân là một con khỉ đá, lại tự xưng là “Mỹ Hầu Vương”. Trên Thiên Đình được phong làm Bật Mã Ôn, kiêm chức quan nhỏ, đại náo Thiên Cung, rồi tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh, cuối cùng cuồng vọng đến mức muốn đuổi cả Ngọc Hoàng Đại Đế đi, để ngồi thay vị trí của ông. Trong tay Phật Như Lai nhảy cân đẩu vân, cho rằng đã đến tận cuối trời, để lại ký hiệu cũng ghi là “Tề Thiên Đại Thánh đã đến nơi đây”, cái tâm ngạo mạn đã lộ rõ ra ngoài.

Thực ra cái tâm ngạo mạn của Tôn Ngộ Không cũng là ám chỉ và nhắc nhở con người thế gian. Con người sống ở thế gian, theo cách nói của tôn giáo thì đều là có “tội” cả. Nhưng mà, thế gian lại vốn là một không gian mê, con người lại không biết tất cả những gì của bản thân mình đều là do Thần Phật trông nom bảo hộ, một khi có được bản sự rồi, liền bắt đầu cho rằng mình là duy nhất. Đặc biệt trong tu luyện, sự ngạo mạn này chính là bất kính đối với Thần Phật. Với người tu luyện, tất cả mọi thứ của bản thân mình đều là do Thần Phật an bài, diễn hóa, chăm nom bảo hộ, cũng là nói bản thân mình chính là một sinh mệnh mà Thần Phật tạo ra. Một người có cái tâm kiêu ngạo rồi, lại không chỉ là kiêu ngạo đối với một sự việc nào đó thôi, mà là trong tất cả các hành vi của người đó đều thể hiện ra tâm ngạo mạn. Trong “Tây Du Ký” có nói, Đường Tăng là Kim Thiền Tử – đệ tử thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ vì khinh mạn Phật Pháp mà bị đọa xuống hạ giới. Kim Thiền Tử vì sao khinh mạn Phật Pháp, đó chẳng phải là ông có tâm kiêu ngạo mới dẫn đến việc ông dám khinh mạn Phật Pháp hay sao? Kết cục cuối cùng là bị đày xuống hạ giới, tu hành lại từ đầu. Sự cuồng ngạo của Tôn Ngộ Không cũng rơi vào kết cục là bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn trong 500 năm.

II. Thỉnh kinh và tu luyện

“Tây Du Ký” là truyện kể về thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, đúng hơn thì đây là một câu chuyện về tu luyện. Khó khăn và sự ma luyện trên đường đi thỉnh kinh, chính là những ma nạn mà một người trong quá trình tu luyện ắt phải trải qua. Tại sao lại nói là ma nạn ắt phải gặp? Ví như thất tình lục dục của một người, đó là điều mà ai ai cũng có, như trong “Tây Du Ký” dùng bảy con nhện tinh (thất tinh) để hình dung về thất tình. Những ma nạn này, bề mặt thì thấy là những nhân tố bên ngoài, nhưng rốt cuộc đều có liên quan đến tự thân, cũng chính là ma nạn của bản thân mỗi người. Trong giới tu luyện gọi việc trừ bỏ ma tính của bản thân là “luyện ma”. Tiêu trừ ma tính, chính là dựa vào Phật tính của chính mình, đây cũng là một trong những nguyên nhân ở bảy hồi đầu lại chú trong về miêu tả Tôn Ngộ Không, Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho Phật tính của Đường Tăng.

1. Ngũ vị nhất thể, trong đó ẩn chứa nhân tố tu luyện

Năm vị, gồm thầy trò Đường Tăng cùng với Bạch Long Mã, có thể coi như là một người, trong truyện cũng nhiều lần ám chỉ về điều này. Đoạn cuối cùng của tác phẩm khi viết đến “Ngũ Thánh thành chân” có một bài thơ nói rõ hơn về vấn đề này, trong đó bốn câu mở đầu là: “Nhất thể chân như chuyển lạc trần, Hợp hòa tứ tướng phục tu thân. Ngũ hành luận sắc không hoàn tịch, Bách quái hư danh tổng mạc luận.” “Nhất thể chân như” chính là chỉ một người; “hợp hòa tứ tướng”, là thuật ngữ trong tu luyện. Trong tu luyện của Đạo gia cổ xưa, thường lấy huyền vũ, chu tước, thanh long, bạch hổ để lần lượt chỉ thận, tim, gan, phổi. Trong ngũ hành chúng lần lượt thuộc thủy, hỏa, mộc, kim. Tương sinh trong ngũ hành, đó là mộc sinh hỏa, kim sinh thủy; trong “Tính Mệnh Khuê Chỉ” nói rằng, long mộc sinh hỏa, thuộc về tâm. Hổ kim sinh thủy, cùng một hệ với thân thể. Tâm không động, thì nguyên khí tụ lại; thân không động, thì tinh khí tụ lại. Tinh ngưng khí tụ, tức là chỉ kim mộc thủy hỏa trộn lẫn với nhau trong thổ (đất). “Hợp hòa tứ tướng” tức là chỉ về điều này.

Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã đối ứng với thuộc tính của ngũ hành lần lượt là thủy, kim, mộc, thổ, hỏa. Trong truyện thường dùng “kim công” để chỉ Tôn Ngộ Không, “mộc mẫu” để chỉ Trư Bát Giới. Đối ứng với “mẫu” và “công” cũng chính là âm và dương. Còn có một hàm ý nữa, bởi vì hỏa sinh kim, nên gọi là “kim chi công”, do đó “kim công” cũng là chỉ về hỏa; bởi vì thủy sinh mộc, nên gọi là “mộc chi mẫu”, cho nên “mộc mẫu” cũng hàm chứa thủy trong đó. Từ thuộc tính âm dương mà nói, mộc và thủy cùng thuộc âm, kim và hỏa lại đều thuộc về dương, âm dương hợp lại tất do thổ tương trợ, thổ tức chỉ Sa Hòa Thượng, còn được gọi là “hoàng bà”. Cho nên quá trình đi thỉnh kinh trong “Tây Du Ký”, đều là do ba vị – Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng – trảm yêu trừ ma. Quá trình trảm yêu trừ ma cũng chính là quá trình tu luyện.

Sự đối ứng từ trong nội tạng cho đến thân thể của thầy trò Đường Tăng cũng không chỉ là máy móc như trên. Đường Tăng thuộc thủy, ứng với thận tạng. Nhưng Đường Tăng là chủ nguyên thần của người, nơi trú ngụ của chủ nguyên thần chính là trong Nê Hoàn Cung của con người. Trư Bát Giới làm mộc mẫu, cũng là chỉ về thủy, ở vị trí thận tạng. Trong “Tây Du Ký” có mượn lời của Trư Bát Giới để thuyết minh, nói Trư Bát Giới được “Noãn Nhị Thư” kén làm rể. Vị Noãn Nhị Thư này chính là ví như hai quả thận của người ta vậy. Bộ phận tì tạng (lá lách) chính là đối ứng của Sa Hòa Thượng. Bởi vì tác dụng của tì tạng là vận hóa thủy cốc (chuyển hóa thức ăn), vận chuyển phân bố và vận hành thủy dịch. Do đó nơi ở Lưu Sa Hà của Sa Hòa Thượng mới là “Nga mao phiêu bất khởi, Hồ hoa định để trầm”. Tôn Ngộ Không ở bộ vị tâm tạng thì không cần nói nữa, Bạch Long Mã cũng ứng với chỗ này (tâm), bởi vì mã thuộc về hỏa, đối ứng với nội tạng là tâm tạng, lại nói rằng tâm và ý là cùng một thể.

Trong “Tây Du Ký”, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới luôn tranh đấu, đố kỵ, châm chọc không dứt, đó chính là âm dương giao phối trong quá trình tu luyện. Trong đó Sa Hòa Thượng đóng vai trò điều hòa. Mãi đến cuối cùng, ba vị này mới đạt đến trạng thái điều hòa một cách hài hòa nhất trí. Trong truyện còn có câu thơ như sau: “Ngũ hành tứ phối hợp thiên chân, Nhận đắc tòng tiền cựu chủ nhân. Luyện kỉ lập cơ vi diệu dụng, Biện minh tà chính kiến nguyên nhân. Kim lai quy tính hoàn đồng loại, Bản khứ cầu tình cộng phục luân. Nhị thổ toàn công thành tịch mịch, Điều hòa thủy hỏa một tiêm trần.”

Năm trăm năm trước Tôn Ngộ Không đã tu luyện thành Tiên, Đường Tăng cũng là người tu hành mười kiếp, vậy còn Bát Giới và Sa Tăng? Bát Giới từng kể với Ngộ Không về quà trình tu hành đời trước: “Đắc truyền cửu chuyển đại hoàn đan, Công phu trú dạ vô thời xuyết. Thượng chí đỉnh môn Nê Hoàn Cung, Hạ chí cước bản dũng tuyền huyệt. Chu lưu thận thủy nhập hóa trì, Đan điền bổ đắc ôn ôn nhiệt. Anh nhi sá nữ phối âm dương, Duyên hống tương đầu phân nhật nguyệt. Ly long khảm hổ dụng điều hòa, Linh quy hấp tận kim ô huyết. Tam hoa tụ đỉnh đắc quy căn, Ngũ khí chiêu nguyên thông thấu triệt.” Sa Tăng cũng đã từng bộc bạch rằng: “Nhân thử tài đắc ngẫu Chân Nhân, Dẫn khai đạo kim quang lượng. Tiên tương anh nhi sá nữ thụ, Minh đường thận thủy nhập hoa trì. Trọng lâu can hỏa đầu tâm trạng, Tam thiên công mãn bái thiên nham, Chí tâm chiêu lễ minh hòa hướng.”

Còn một vấn đề nữa cần phải nói rõ, đó chính là tại sao năm vị này lại bị đọa xuống hạ giới? Đường Tăng, Ngộ Không đều là vì ngạo mạn; Trư Bát Giới vì trêu ghẹo Hằng Nga; Sa Hòa Thượng vì lỡ tay làm vỡ chén lưu ly; Tiểu Bạch Long vì phóng hỏa đốt viên minh châu. Những tội này tại góc độ con người thế gian mà xét, xem ra cũng chưa là gì, nhưng ở một cảnh giới cao hơn mà xét, đó là vì những sinh mệnh này đã trở nên bất thuần. Từ góc độ tu luyện mà xét thì con người cần phải tu luyện đến vô lậu mới có thể viên mãn. Thế nào là vô lậu? Đó chính là không còn có bất kỳ tâm chấp trước nào, từng suy nghĩ đều là thuần chính, thì mới có thể đắc đạo thành Tiên thành Phật được. Tương ứng như vậy, những vị Tiên gia tu luyện thành tựu tại các quả vị khác nhau, tư tưởng cảnh giới của họ cũng đều là thuần chính cả. Chỉ cần có một chút sai sót thì cũng không thể ở tại tầng thứ đó nữa. Tội của Sa Hoà Thượng xem thì giống như một chút tội nhỏ, nhưng mà một chút tội nhỏ này lại là điều căn bản mà tại cảnh giới đó không được xảy ra. Tại sao lại lỡ tay được đây? Đó chẳng phải là thất thần rồi hay sao? Chẳng phải là trong tâm có tạp niệm hay sao? Từ góc độ này mà nhìn về tu luyện, thấy là việc vô cùng nghiêm túc.

Quan hệ nội tại của sư đồ Đường Tăng trong truyện cũng có ám chỉ: Đường Tăng là người tu hành mười kiếp; Tôn Ngộ Không là đồ đệ đời thứ mười của Bồ Đề Tổ Sư; ngay cả vòng đeo ở cổ của Sa Tăng cũng là chín cái đầu lâu của người đi thỉnh kinh.

Từ khía canh khác mà nói, bốn thầy trò Đường Tăng lần lượt nói rõ chi tiết về những phương diện của người tu luyện. Đường Tăng bề ngoài nhìn thì không có chút năng lực gì, yếu đuối lại còn nhát gan, nhưng có một niềm tin đi thỉnh kinh vững như bàn thạch; Tôn Ngộ Không là tâm viên, hoạt bát, thông minh lanh lợi, không bị bó buộc, có thể phân biệt rõ thật giả, lại có khả năng trảm yêu trừ ma; Bát Giới thì rất giống lợn, hay ăn không hay làm, lại còn háo sắc, thích an nhàn, muốn chiếm phần hơn, đố kỵ với người giỏi hơn mình; Sa Hòa Thượng biểu hiện cần cù, chăm chỉ, biết thân biết phận, làm tròn bổn phận, thanh tịnh mà lại nhân hậu; Bạch Long Mã tuy không miêu tả nhiều, nhưng cũng lại là một hình tượng âm thầm lặng lẽ, chỉ tiến về phía trước, không ngại gian khổ nguy hiểm.

2. Ngũ Hành Sơn, Lưỡng Giới Sơn và sự hạn chế thần thông của Tôn Ngộ Không

Tôn Ngộ Không bị Phật Như Lai đè dưới núi Ngũ Hành Sơn còn có một ẩn ý, Tôn Ngộ Không tượng trưng cho sự tu luyện Đại Đạo cũng đã hoàn thành quá trình tu luyện của mình (cùng Bồ Đề Tổ Sư) rồi. Theo Phật gia giảng, thì Tôn Ngộ Không đã “minh tâm kiến tính rồi” (tâm đã sáng tỏ, đã thấy được bản tính thật sự của mình); đương nhiên, sau khi “minh tâm kiến tính” chính là “kiến tính thành Phật” (thấy rõ được bản tính của mình thì thành Phật), nhưng đây lại không chỉ đơn giản giống như hai câu nói này. Sau khi Tôn Ngộ Không ngộ Đạo, trở về Hoa Quả Sơn tại sao cần phải thanh trừ Hỗn thế ma vương? Tại sao lại phải đại náo Thiên Cung? Ở trong lò Bát Quái tại sao lại còn phải tu luyện thêm nữa? Cho nên mới nói, mặc dù quá trình tu Đạo của Tôn Ngộ Không đã hoàn thành, nhưng vẫn cần phải tiếp tục tu luyện, để ma tính của bản thân (ví như tâm tự kiêu) phải hoàn toàn ma luyện cho mất đi, thì mới có thể chính thức tu luyện thành công được. Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn chính là để cho anh ta trải qua ma nạn.

Ngũ hành trong Ngũ Hành Sơn ý nói là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Cũng là nói, trước đây Tôn Ngộ Không tượng trưng cho người tu luyện Đại Đạo, hoàn toàn là là từ góc độ của “tâm viên” mà biểu hiện ra quá trình tu luyện của một người. Mà khi cuồng ngạo rồi bị đè dưới Ngũ Hành Sơn rồi, Tôn Ngộ Không cũng giống như bị chôn vùi nơi trần thế. Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không ra khỏi Ngũ Hành Sơn, nhưng không không phải là Tôn Ngộ Không đã thoát khỏi được nơi trần thế, mà là nói chủ thân thể đã bắt đầu tu luyện, tượng trưng cho cái tâm của Tôn Ngộ Không tự nhiên cũng hợp nhất với chủ nhân mà bắt đầu tu luyện. Trong đó vẫn còn một vấn đề nữa. Rất nhiều người tu Đạo đều hiểu rằng, trước khi một người tu luyện, nói không chừng đời trước của vị ấy, thậm chí đời đời kiếp kiếp vẫn còn đang trong tu luyện, đương nhiên người tu luyện kia, cũng giống với Tôn Ngộ Không ở bảy hồi trước đó, có thể có được những thần thông to lớn. Nhưng một khi người đó chuyển thế, thì ở đoạn thời gian không tu Đạo trước đó, người này giống như đang ngủ, hoàn toàn mê mờ trong người thường. Nếu như bắt đầu tu luyện, phía mặt bản tính của anh ta tỉnh ngộ, thì mới cố thể chân chính tu Đạo. Từ đó quay trở về, có người phải trải qua nhiều lần mới có thể tu luyện viên mãn được. Đường Tăng chính là người tu hành mười đời.

Đương nhiên, khi giới thiệu thế này, đã tiết lộ một vấn đề khác, đó là thần thông của Tôn Ngộ Không; tại sao trước khi đi thỉnh kinh cùng Đường Tăng, Thần tướng đầy khắp trời không làm được gì Tôn Ngộ Không, nhưng khi vừa đi cùng Đường Tăng, vì sao lại có nhiều việc không như ý. Đó chính là vì trước khi đi cùng Đường Tăng, biểu hiện của Tôn Ngộ Không hoàn toàn là tâm tính của một người tu luyện, do đó mới để cái tâm tu luyện biểu hiện ra hết, vậy đương nhiên có thể không có bất kỳ sự hạn chế nào trên trời dưới biển. Nhưng khi đi cùng Đường Tăng, cũng bằng như nhiều hơn một nhục thân, do đó thần thông của Tôn Ngộ Không cũng chịu sự hạn chế. Còn một vấn đề nữa, ma nạn trên đường đi thỉnh kinh, bề ngoài thì trông giống như nhắm vào Đường Tăng, nhưng trong tình huống tâm chấp trước của Đường Tăng chưa vứt bỏ, bản sự của Tôn Ngộ Không có lớn đến mấy cũng không thể thi triển ra được. Giống như trận chiến giữa Tôn Ngộ Không và Hồng Hài Nhi, Hồng Hài Nhi là tượng trưng cho tâm hỏa quá vượng của Đường Tăng, cũng có thuộc tính của tâm, thậm chí có thể nói là một bộ phận của tâm. Bởi vì Tôn Ngộ Không tượng trưng cho tâm nên làm sao một gậy có thể đánh chết được Hồng Hài Nhi? Bởi vậy phải đợi mời Bồ Tát đến, sau khi trừ bỏ tâm hỏa, thì tâm mới có thể quy chính được.

Ngũ Hành Sơn vì sao lại đổi thành Lưỡng Giới Sơn? Biểu hiện là giới tuyến quốc gia, nhưng thực chất là giới tuyến trước và sau của một người tu luyện.

3. Tám mươi mốt nạn từ đâu đến

Lúc đầu Đường Tăng đi thỉnh kinh, trên đường qua chùa Pháp Môn có nói: “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt.” Điều thấy được là tất cả ma nạn đều từ tâm của Đường Tăng mà sinh ra. Cách nói này rất đúng. Chỉ cần có nhân tâm, liền sinh ra ma nạn tương ứng. Ví dụ khi Đường Thái Tông ban cho Đường Tăng hai tùy tùng và ngựa, Đường Tăng rất vui mừng. Điều này lộ rõ một loại tâm ỷ lại, do đó, mãi vẫn loay hoay không ra được biên giới quốc gia, hai người tùy tùng kia liền bị bò tinh, gấu tinh, và hổ tinh ăn thịt. Cần biết rằng, khi qua chùa Pháp Môn ông có nói, “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt”, khi ấy hai người tùy tùng liền cùng đi cùng Đường Tăng. Cũng chính là nói, một người nếu tu luyện sẽ có rất nhiều tâm về căn bản không ý thức được. Tu luyện vốn là việc cá nhân, chỉ có thể hướng nội mà tu cái tâm của bản thân, làm sao có thể ỷ lại vào người khác đây?

Bởi vì Đường Tăng bắt đầu tu luyện từ người thường, ông không giống với những đồ đệ của mình, dù cho Ngộ Không có nói với ông là ma đang cản trở, ông cũng không tin. Ma tính của người ta ẩn giấu rất sâu, có một số ma tính khi sinh ra đã có rồi; cũng chính là nói, chỉ cần làm người, trước khi tu luyện đắc Đạo, thì đều có các loại ma tính. Ví dụ, khi Tôn Ngộ Không giết Bạch Cốt Tinh, Bạch Cốt Tinh lần lượt biến thành mỹ nữ, bà lão, ông lão, Đường Tăng làm sao biết được? Tuy nhiên Bạch Cốt Tinh này thì trong mỗi người đều có, gọi là “thây ma”. Đạo gia cho rằng, mỗi người đều có ba cái thây ma, cho nên mới có việc Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh.

Trong hồi thứ 50, Tôn Ngộ Không đi xin đồ ăn chay, người ta không cho, Tôn Ngộ Không liền múc trộm một bát cơm. Mà ở bên này, Bát Giới, Sa Tăng trong một nơi người ta bỏ hoang nhìn thấy áo lót bằng bông, hai người lấy mỗi người một cái, kết quả dẫn đến ma nạn, con yêu ma này lại lấy trộm cái Kim Cương Trác của Thái Thượng Lão Quân xuống nhân gian tác quái.

Ví dụ tiếp là Ngưu Ma Vương, có vợ có con, có bạn có bè, những yêu ma này từ đâu mà đến? Tôn Ngộ Không nói rất rõ ràng: “Tự đáo Tây phương vô đối đầu, Ngưu Vương bản thị tâm viên biến. Kim phiên chính hảo hội nguyên lưu, Đoạn yếu tương trì tá ngọc phiến.” Ngưu Ma Vương sao lại là do tâm của Ngộ Không biến hóa? Điều này không thể lý giải ở bề mặt được, ý nghĩa là Đường Tăng có tâm chấp trước, trong tâm tự nhiên liền sinh ra một con yêu ma như vậy. Vậy thì, Thiết Phiến công chúa, Hồng Hài Nhi, Như Ý chân tiên chẳng phải là do sự biến hóa của tâm viên sao?

Có tâm chấp trước nào thì chiêu mời ma nạn đúng như thế. Đường Tăng làm sư phụ, đây là một cái tâm. Tại nước Ô Kê, Sư Tử lông xanh bị dồn ép đến nỗi rất lo lắng, cũng biến thành một Đường Tăng. Ở huyện Ngọc Hoa nước Thiên Trúc, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng mỗi người nhận một hoàng tử để truyền thụ võ nghệ, kết quả cái tâm thích làm sư phụ của người khác lại dẫn họ đến một hang của Sư Tử.

Có những tâm chấp trước ẩn giấu rất sâu, người tu luyện thật không dễ mà phát giác được. Ví dụ, thầy trò Đường Tăng đi đến nước Thiên Trúc, Đường Tăng nghe nói công chúa nước Thiên Trúc đang ném tú cầu kén phò mã, liền nói với Ngộ Không: “Ta nghĩ người mẹ tục gia của ta cũng là nhờ ném tú cầu kén chồng mà gặp được duyên cũ, kết thành vợ chồng.” Điều này giống như một câu nói vô tình nhưng cũng là một chấp trước, kết quả đã chiêu mời ma nạn đến.

Đương nhiên những nạn này là tất nhiên phải xảy ra, cũng có thể nói là định sẵn rồi. Phần cuối “Tây Du Ký” viết về ba con tê giác tinh sau khi bắt Đường Tăng đi, Tôn Ngộ Không từng nói với vị hòa thượng, “sư phụ ta phải có những nạn này”. Hồi thứ 97, bốn thầy trò bị hiểu lầm nhốt vào trong ngục, Tôn Ngộ Không nghĩ: “Sư phụ phải có nạn một đêm trong tù này, cho nên lão Tôn không mở miệng tranh biện, không dùng pháp lực, bịt tai này lại không nghe nữa. Nay đã qua hết canh tư, tai nạn sắp hết, ta phải đi chuẩn bị, trời sáng còn ra khỏi nhà lao nữa.

Đường đi Tây Thiên ma nạn trùng trùng, cớ sao thầy trò Đường Tăng không chọn đi con đường khác? Khi gặp Hỏa Diệm Sơn cản đường đi của Đường Tăng, Bát Giới từng oán trách nói muốn quay trở về nhà vợ cho rồi. Nhưng Thổ Địa lại nói: “Dù có chuyển hướng đi, thì cũng phải vào cửa bên cạnh.” Lại nói, “Sư phụ ngài ngồi ngay ở đường chính, nóng lòng mong chờ các ngài thành công trở lại!

Bao gồm cả nạn bổ sung thứ 81, trở về đi qua sông Thông Thiên, lão rùa hỏi Đường Tăng về việc ông nhờ Đường Tăng hỏi Phật Như Lai đến khi nào ông mới đắc được thân người, Đường Tăng “không biết nói thế nào, lại không dám lừa dối, trầm ngâm một hồi không đáp lời”, kết quả bị lão rùa hất rơi xuống nước. Trong nạn này, biểu hiện của Đường Tăng chính là cái tâm hư danh đang nổi lên. Việc này cùng với lời nói của Đường Tăng khi qua sông Thông Thiên năm xưa, “Việc thế gian duy có danh lợi là coi trong nhất. Tựa như một người vì lợi, quên cả sống chết, đệ tử của tôi phụng chỉ toàn trung, cũng chỉ là vì danh, thì có khác gì với người kia chứ!” lại hoàn toàn khớp.

Tại sao lại có biết bao nhiêu yêu ma muốn ăn thịt Đường Tăng? Từ đây chúng ta có thể nhìn ra, bản thân sự tồn tại của yêu ma, khi một người không tu luyện, nó nằm ở trong thân thể người đó, sau khi người đó chết đi, nó liền rời khỏi thi thể người đó. Những ma này chính là khởi tác dụng này. Cho nên, “bệnh” cũng là ma, “chết” cũng là ma, ma tính của chính bản thân chính là ma. Tuy nhiên khi người ta muốn tu luyện một cách chân chính, thì cần phải trừ bỏ những ma chướng này, đương nhiên ma sẽ không chịu để nó bị tiêu trừ. Nó cũng biết, con người nếu tu luyện thành Thần Phật, thì thân thể người đó sẽ vĩnh viễn là thân thể bất hoại. Trong quá trình nhục thân của người thường chuyển hóa thành thân thể của Thần Phật thì bản thân ma tính cũng không chịu để yên, cho nên nó liều mạng ngăn cản người ta tu luyện. Khi thân thể con người chuyển hóa như vậy, những yêu ma kia lại không thật sự nghĩ để cho thân thể người chuyển hóa thành thân thể của Thần rồi mới ăn hay sao? Chúng ăn không được, bởi vì sau khi chuyển hóa xong thì đã là thân thể kim cương bất hoại rồi, yêu ma không thể động tới được, đây cũng là nguyên nhân Đường Tăng không bị ăn thịt. Thân thể trước lúc tu luyện chỉ là thân thể người thường, đó cũng là nơi mà yêu ma sống nhờ; thân thể sau khi tu luyện tốt đã được phong kín lại rồi. Đây là hiểu biết thông thường trong giới tu luyện.

II. Thỉnh kinh và tu luyện

“Tây Du Ký” là truyện kể về thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, đúng hơn thì đây là một câu chuyện về tu luyện. Khó khăn và sự ma luyện trên đường đi thỉnh kinh, chính là những ma nạn mà một người trong quá trình tu luyện ắt phải trải qua. Tại sao lại nói là ma nạn ắt phải gặp? Ví như thất tình lục dục của một người, đó là điều mà ai ai cũng có, như trong “Tây Du Ký” dùng bảy con nhện tinh (thất tinh) để hình dung về thất tình. Những ma nạn này, bề mặt thì thấy là những nhân tố bên ngoài, nhưng rốt cuộc đều có liên quan đến tự thân, cũng chính là ma nạn của bản thân mỗi người. Trong giới tu luyện gọi việc trừ bỏ ma tính của bản thân là “luyện ma”. Tiêu trừ ma tính, chính là dựa vào Phật tính của chính mình, đây cũng là một trong những nguyên nhân ở bảy hồi đầu lại chú trong về miêu tả Tôn Ngộ Không, Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho Phật tính của Đường Tăng.

1. Ngũ vị nhất thể, trong đó ẩn chứa nhân tố tu luyện

Năm vị, gồm thầy trò Đường Tăng cùng với Bạch Long Mã, có thể coi như là một người, trong truyện cũng nhiều lần ám chỉ về điều này. Đoạn cuối cùng của tác phẩm khi viết đến “Ngũ Thánh thành chân” có một bài thơ nói rõ hơn về vấn đề này, trong đó bốn câu mở đầu là: “Nhất thể chân như chuyển lạc trần, Hợp hòa tứ tướng phục tu thân. Ngũ hành luận sắc không hoàn tịch, Bách quái hư danh tổng mạc luận.” “Nhất thể chân như” chính là chỉ một người; “hợp hòa tứ tướng”, là thuật ngữ trong tu luyện. Trong tu luyện của Đạo gia cổ xưa, thường lấy huyền vũ, chu tước, thanh long, bạch hổ để lần lượt chỉ thận, tim, gan, phổi. Trong ngũ hành chúng lần lượt thuộc thủy, hỏa, mộc, kim. Tương sinh trong ngũ hành, đó là mộc sinh hỏa, kim sinh thủy; trong “Tính Mệnh Khuê Chỉ” nói rằng, long mộc sinh hỏa, thuộc về tâm. Hổ kim sinh thủy, cùng một hệ với thân thể. Tâm không động, thì nguyên khí tụ lại; thân không động, thì tinh khí tụ lại. Tinh ngưng khí tụ, tức là chỉ kim mộc thủy hỏa trộn lẫn với nhau trong thổ (đất). “Hợp hòa tứ tướng” tức là chỉ về điều này.

Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã đối ứng với thuộc tính của ngũ hành lần lượt là thủy, kim, mộc, thổ, hỏa. Trong truyện thường dùng “kim công” để chỉ Tôn Ngộ Không, “mộc mẫu” để chỉ Trư Bát Giới. Đối ứng với “mẫu” và “công” cũng chính là âm và dương. Còn có một hàm ý nữa, bởi vì hỏa sinh kim, nên gọi là “kim chi công”, do đó “kim công” cũng là chỉ về hỏa; bởi vì thủy sinh mộc, nên gọi là “mộc chi mẫu”, cho nên “mộc mẫu” cũng hàm chứa thủy trong đó. Từ thuộc tính âm dương mà nói, mộc và thủy cùng thuộc âm, kim và hỏa lại đều thuộc về dương, âm dương hợp lại tất do thổ tương trợ, thổ tức chỉ Sa Hòa Thượng, còn được gọi là “hoàng bà”. Cho nên quá trình đi thỉnh kinh trong “Tây Du Ký”, đều là do ba vị – Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng – trảm yêu trừ ma. Quá trình trảm yêu trừ ma cũng chính là quá trình tu luyện.

Sự đối ứng từ trong nội tạng cho đến thân thể của thầy trò Đường Tăng cũng không chỉ là máy móc như trên. Đường Tăng thuộc thủy, ứng với thận tạng. Nhưng Đường Tăng là chủ nguyên thần của người, nơi trú ngụ của chủ nguyên thần chính là trong Nê Hoàn Cung của con người. Trư Bát Giới làm mộc mẫu, cũng là chỉ về thủy, ở vị trí thận tạng. Trong “Tây Du Ký” có mượn lời của Trư Bát Giới để thuyết minh, nói Trư Bát Giới được “Noãn Nhị Thư” kén làm rể. Vị Noãn Nhị Thư này chính là ví như hai quả thận của người ta vậy. Bộ phận tì tạng (lá lách) chính là đối ứng của Sa Hòa Thượng. Bởi vì tác dụng của tì tạng là vận hóa thủy cốc (chuyển hóa thức ăn), vận chuyển phân bố và vận hành thủy dịch. Do đó nơi ở Lưu Sa Hà của Sa Hòa Thượng mới là “Nga mao phiêu bất khởi, Hồ hoa định để trầm”. Tôn Ngộ Không ở bộ vị tâm tạng thì không cần nói nữa, Bạch Long Mã cũng ứng với chỗ này (tâm), bởi vì mã thuộc về hỏa, đối ứng với nội tạng là tâm tạng, lại nói rằng tâm và ý là cùng một thể.

Trong “Tây Du Ký”, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới luôn tranh đấu, đố kỵ, châm chọc không dứt, đó chính là âm dương giao phối trong quá trình tu luyện. Trong đó Sa Hòa Thượng đóng vai trò điều hòa. Mãi đến cuối cùng, ba vị này mới đạt đến trạng thái điều hòa một cách hài hòa nhất trí. Trong truyện còn có câu thơ như sau: “Ngũ hành tứ phối hợp thiên chân, Nhận đắc tòng tiền cựu chủ nhân. Luyện kỉ lập cơ vi diệu dụng, Biện minh tà chính kiến nguyên nhân. Kim lai quy tính hoàn đồng loại, Bản khứ cầu tình cộng phục luân. Nhị thổ toàn công thành tịch mịch, Điều hòa thủy hỏa một tiêm trần.”

Năm trăm năm trước Tôn Ngộ Không đã tu luyện thành Tiên, Đường Tăng cũng là người tu hành mười kiếp, vậy còn Bát Giới và Sa Tăng? Bát Giới từng kể với Ngộ Không về quà trình tu hành đời trước: “Đắc truyền cửu chuyển đại hoàn đan, Công phu trú dạ vô thời xuyết. Thượng chí đỉnh môn Nê Hoàn Cung, Hạ chí cước bản dũng tuyền huyệt. Chu lưu thận thủy nhập hóa trì, Đan điền bổ đắc ôn ôn nhiệt. Anh nhi sá nữ phối âm dương, Duyên hống tương đầu phân nhật nguyệt. Ly long khảm hổ dụng điều hòa, Linh quy hấp tận kim ô huyết. Tam hoa tụ đỉnh đắc quy căn, Ngũ khí chiêu nguyên thông thấu triệt.” Sa Tăng cũng đã từng bộc bạch rằng: “Nhân thử tài đắc ngẫu Chân Nhân, Dẫn khai đạo kim quang lượng. Tiên tương anh nhi sá nữ thụ, Minh đường thận thủy nhập hoa trì. Trọng lâu can hỏa đầu tâm trạng, Tam thiên công mãn bái thiên nham, Chí tâm chiêu lễ minh hòa hướng.”

Còn một vấn đề nữa cần phải nói rõ, đó chính là tại sao năm vị này lại bị đọa xuống hạ giới? Đường Tăng, Ngộ Không đều là vì ngạo mạn; Trư Bát Giới vì trêu ghẹo Hằng Nga; Sa Hòa Thượng vì lỡ tay làm vỡ chén lưu ly; Tiểu Bạch Long vì phóng hỏa đốt viên minh châu. Những tội này tại góc độ con người thế gian mà xét, xem ra cũng chưa là gì, nhưng ở một cảnh giới cao hơn mà xét, đó là vì những sinh mệnh này đã trở nên bất thuần. Từ góc độ tu luyện mà xét thì con người cần phải tu luyện đến vô lậu mới có thể viên mãn. Thế nào là vô lậu? Đó chính là không còn có bất kỳ tâm chấp trước nào, từng suy nghĩ đều là thuần chính, thì mới có thể đắc đạo thành Tiên thành Phật được. Tương ứng như vậy, những vị Tiên gia tu luyện thành tựu tại các quả vị khác nhau, tư tưởng cảnh giới của họ cũng đều là thuần chính cả. Chỉ cần có một chút sai sót thì cũng không thể ở tại tầng thứ đó nữa. Tội của Sa Hoà Thượng xem thì giống như một chút tội nhỏ, nhưng mà một chút tội nhỏ này lại là điều căn bản mà tại cảnh giới đó không được xảy ra. Tại sao lại lỡ tay được đây? Đó chẳng phải là thất thần rồi hay sao? Chẳng phải là trong tâm có tạp niệm hay sao? Từ góc độ này mà nhìn về tu luyện, thấy là việc vô cùng nghiêm túc.

Quan hệ nội tại của sư đồ Đường Tăng trong truyện cũng có ám chỉ: Đường Tăng là người tu hành mười kiếp; Tôn Ngộ Không là đồ đệ đời thứ mười của Bồ Đề Tổ Sư; ngay cả vòng đeo ở cổ của Sa Tăng cũng là chín cái đầu lâu của người đi thỉnh kinh.

Từ khía canh khác mà nói, bốn thầy trò Đường Tăng lần lượt nói rõ chi tiết về những phương diện của người tu luyện. Đường Tăng bề ngoài nhìn thì không có chút năng lực gì, yếu đuối lại còn nhát gan, nhưng có một niềm tin đi thỉnh kinh vững như bàn thạch; Tôn Ngộ Không là tâm viên, hoạt bát, thông minh lanh lợi, không bị bó buộc, có thể phân biệt rõ thật giả, lại có khả năng trảm yêu trừ ma; Bát Giới thì rất giống lợn, hay ăn không hay làm, lại còn háo sắc, thích an nhàn, muốn chiếm phần hơn, đố kỵ với người giỏi hơn mình; Sa Hòa Thượng biểu hiện cần cù, chăm chỉ, biết thân biết phận, làm tròn bổn phận, thanh tịnh mà lại nhân hậu; Bạch Long Mã tuy không miêu tả nhiều, nhưng cũng lại là một hình tượng âm thầm lặng lẽ, chỉ tiến về phía trước, không ngại gian khổ nguy hiểm.

2. Ngũ Hành Sơn, Lưỡng Giới Sơn và sự hạn chế thần thông của Tôn Ngộ Không

Tôn Ngộ Không bị Phật Như Lai đè dưới núi Ngũ Hành Sơn còn có một ẩn ý, Tôn Ngộ Không tượng trưng cho sự tu luyện Đại Đạo cũng đã hoàn thành quá trình tu luyện của mình (cùng Bồ Đề Tổ Sư) rồi. Theo Phật gia giảng, thì Tôn Ngộ Không đã “minh tâm kiến tính rồi” (tâm đã sáng tỏ, đã thấy được bản tính thật sự của mình); đương nhiên, sau khi “minh tâm kiến tính” chính là “kiến tính thành Phật” (thấy rõ được bản tính của mình thì thành Phật), nhưng đây lại không chỉ đơn giản giống như hai câu nói này. Sau khi Tôn Ngộ Không ngộ Đạo, trở về Hoa Quả Sơn tại sao cần phải thanh trừ Hỗn thế ma vương? Tại sao lại phải đại náo Thiên Cung? Ở trong lò Bát Quái tại sao lại còn phải tu luyện thêm nữa? Cho nên mới nói, mặc dù quá trình tu Đạo của Tôn Ngộ Không đã hoàn thành, nhưng vẫn cần phải tiếp tục tu luyện, để ma tính của bản thân (ví như tâm tự kiêu) phải hoàn toàn ma luyện cho mất đi, thì mới có thể chính thức tu luyện thành công được. Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn chính là để cho anh ta trải qua ma nạn.

Ngũ hành trong Ngũ Hành Sơn ý nói là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Cũng là nói, trước đây Tôn Ngộ Không tượng trưng cho người tu luyện Đại Đạo, hoàn toàn là là từ góc độ của “tâm viên” mà biểu hiện ra quá trình tu luyện của một người. Mà khi cuồng ngạo rồi bị đè dưới Ngũ Hành Sơn rồi, Tôn Ngộ Không cũng giống như bị chôn vùi nơi trần thế. Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không ra khỏi Ngũ Hành Sơn, nhưng không không phải là Tôn Ngộ Không đã thoát khỏi được nơi trần thế, mà là nói chủ thân thể đã bắt đầu tu luyện, tượng trưng cho cái tâm của Tôn Ngộ Không tự nhiên cũng hợp nhất với chủ nhân mà bắt đầu tu luyện. Trong đó vẫn còn một vấn đề nữa. Rất nhiều người tu Đạo đều hiểu rằng, trước khi một người tu luyện, nói không chừng đời trước của vị ấy, thậm chí đời đời kiếp kiếp vẫn còn đang trong tu luyện, đương nhiên người tu luyện kia, cũng giống với Tôn Ngộ Không ở bảy hồi trước đó, có thể có được những thần thông to lớn. Nhưng một khi người đó chuyển thế, thì ở đoạn thời gian không tu Đạo trước đó, người này giống như đang ngủ, hoàn toàn mê mờ trong người thường. Nếu như bắt đầu tu luyện, phía mặt bản tính của anh ta tỉnh ngộ, thì mới cố thể chân chính tu Đạo. Từ đó quay trở về, có người phải trải qua nhiều lần mới có thể tu luyện viên mãn được. Đường Tăng chính là người tu hành mười đời.

Đương nhiên, khi giới thiệu thế này, đã tiết lộ một vấn đề khác, đó là thần thông của Tôn Ngộ Không; tại sao trước khi đi thỉnh kinh cùng Đường Tăng, Thần tướng đầy khắp trời không làm được gì Tôn Ngộ Không, nhưng khi vừa đi cùng Đường Tăng, vì sao lại có nhiều việc không như ý. Đó chính là vì trước khi đi cùng Đường Tăng, biểu hiện của Tôn Ngộ Không hoàn toàn là tâm tính của một người tu luyện, do đó mới để cái tâm tu luyện biểu hiện ra hết, vậy đương nhiên có thể không có bất kỳ sự hạn chế nào trên trời dưới biển. Nhưng khi đi cùng Đường Tăng, cũng bằng như nhiều hơn một nhục thân, do đó thần thông của Tôn Ngộ Không cũng chịu sự hạn chế. Còn một vấn đề nữa, ma nạn trên đường đi thỉnh kinh, bề ngoài thì trông giống như nhắm vào Đường Tăng, nhưng trong tình huống tâm chấp trước của Đường Tăng chưa vứt bỏ, bản sự của Tôn Ngộ Không có lớn đến mấy cũng không thể thi triển ra được. Giống như trận chiến giữa Tôn Ngộ Không và Hồng Hài Nhi, Hồng Hài Nhi là tượng trưng cho tâm hỏa quá vượng của Đường Tăng, cũng có thuộc tính của tâm, thậm chí có thể nói là một bộ phận của tâm. Bởi vì Tôn Ngộ Không tượng trưng cho tâm nên làm sao một gậy có thể đánh chết được Hồng Hài Nhi? Bởi vậy phải đợi mời Bồ Tát đến, sau khi trừ bỏ tâm hỏa, thì tâm mới có thể quy chính được.

Ngũ Hành Sơn vì sao lại đổi thành Lưỡng Giới Sơn? Biểu hiện là giới tuyến quốc gia, nhưng thực chất là giới tuyến trước và sau của một người tu luyện.

3. Tám mươi mốt nạn từ đâu đến

Lúc đầu Đường Tăng đi thỉnh kinh, trên đường qua chùa Pháp Môn có nói: “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt.” Điều thấy được là tất cả ma nạn đều từ tâm của Đường Tăng mà sinh ra. Cách nói này rất đúng. Chỉ cần có nhân tâm, liền sinh ra ma nạn tương ứng. Ví dụ khi Đường Thái Tông ban cho Đường Tăng hai tùy tùng và ngựa, Đường Tăng rất vui mừng. Điều này lộ rõ một loại tâm ỷ lại, do đó, mãi vẫn loay hoay không ra được biên giới quốc gia, hai người tùy tùng kia liền bị bò tinh, gấu tinh, và hổ tinh ăn thịt. Cần biết rằng, khi qua chùa Pháp Môn ông có nói, “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt”, khi ấy hai người tùy tùng liền cùng đi cùng Đường Tăng. Cũng chính là nói, một người nếu tu luyện sẽ có rất nhiều tâm về căn bản không ý thức được. Tu luyện vốn là việc cá nhân, chỉ có thể hướng nội mà tu cái tâm của bản thân, làm sao có thể ỷ lại vào người khác đây?

Bởi vì Đường Tăng bắt đầu tu luyện từ người thường, ông không giống với những đồ đệ của mình, dù cho Ngộ Không có nói với ông là ma đang cản trở, ông cũng không tin. Ma tính của người ta ẩn giấu rất sâu, có một số ma tính khi sinh ra đã có rồi; cũng chính là nói, chỉ cần làm người, trước khi tu luyện đắc Đạo, thì đều có các loại ma tính. Ví dụ, khi Tôn Ngộ Không giết Bạch Cốt Tinh, Bạch Cốt Tinh lần lượt biến thành mỹ nữ, bà lão, ông lão, Đường Tăng làm sao biết được? Tuy nhiên Bạch Cốt Tinh này thì trong mỗi người đều có, gọi là “thây ma”. Đạo gia cho rằng, mỗi người đều có ba cái thây ma, cho nên mới có việc Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh.

Trong hồi thứ 50, Tôn Ngộ Không đi xin đồ ăn chay, người ta không cho, Tôn Ngộ Không liền múc trộm một bát cơm. Mà ở bên này, Bát Giới, Sa Tăng trong một nơi người ta bỏ hoang nhìn thấy áo lót bằng bông, hai người lấy mỗi người một cái, kết quả dẫn đến ma nạn, con yêu ma này lại lấy trộm cái Kim Cương Trác của Thái Thượng Lão Quân xuống nhân gian tác quái.

Ví dụ tiếp là Ngưu Ma Vương, có vợ có con, có bạn có bè, những yêu ma này từ đâu mà đến? Tôn Ngộ Không nói rất rõ ràng: “Tự đáo Tây phương vô đối đầu, Ngưu Vương bản thị tâm viên biến. Kim phiên chính hảo hội nguyên lưu, Đoạn yếu tương trì tá ngọc phiến.” Ngưu Ma Vương sao lại là do tâm của Ngộ Không biến hóa? Điều này không thể lý giải ở bề mặt được, ý nghĩa là Đường Tăng có tâm chấp trước, trong tâm tự nhiên liền sinh ra một con yêu ma như vậy. Vậy thì, Thiết Phiến công chúa, Hồng Hài Nhi, Như Ý chân tiên chẳng phải là do sự biến hóa của tâm viên sao?

Có tâm chấp trước nào thì chiêu mời ma nạn đúng như thế. Đường Tăng làm sư phụ, đây là một cái tâm. Tại nước Ô Kê, Sư Tử lông xanh bị dồn ép đến nỗi rất lo lắng, cũng biến thành một Đường Tăng. Ở huyện Ngọc Hoa nước Thiên Trúc, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng mỗi người nhận một hoàng tử để truyền thụ võ nghệ, kết quả cái tâm thích làm sư phụ của người khác lại dẫn họ đến một hang của Sư Tử.

Có những tâm chấp trước ẩn giấu rất sâu, người tu luyện thật không dễ mà phát giác được. Ví dụ, thầy trò Đường Tăng đi đến nước Thiên Trúc, Đường Tăng nghe nói công chúa nước Thiên Trúc đang ném tú cầu kén phò mã, liền nói với Ngộ Không: “Ta nghĩ người mẹ tục gia của ta cũng là nhờ ném tú cầu kén chồng mà gặp được duyên cũ, kết thành vợ chồng.” Điều này giống như một câu nói vô tình nhưng cũng là một chấp trước, kết quả đã chiêu mời ma nạn đến.

Đương nhiên những nạn này là tất nhiên phải xảy ra, cũng có thể nói là định sẵn rồi. Phần cuối “Tây Du Ký” viết về ba con tê giác tinh sau khi bắt Đường Tăng đi, Tôn Ngộ Không từng nói với vị hòa thượng, “sư phụ ta phải có những nạn này”. Hồi thứ 97, bốn thầy trò bị hiểu lầm nhốt vào trong ngục, Tôn Ngộ Không nghĩ: “Sư phụ phải có nạn một đêm trong tù này, cho nên lão Tôn không mở miệng tranh biện, không dùng pháp lực, bịt tai này lại không nghe nữa. Nay đã qua hết canh tư, tai nạn sắp hết, ta phải đi chuẩn bị, trời sáng còn ra khỏi nhà lao nữa.

Đường đi Tây Thiên ma nạn trùng trùng, cớ sao thầy trò Đường Tăng không chọn đi con đường khác? Khi gặp Hỏa Diệm Sơn cản đường đi của Đường Tăng, Bát Giới từng oán trách nói muốn quay trở về nhà vợ cho rồi. Nhưng Thổ Địa lại nói: “Dù có chuyển hướng đi, thì cũng phải vào cửa bên cạnh.” Lại nói, “Sư phụ ngài ngồi ngay ở đường chính, nóng lòng mong chờ các ngài thành công trở lại!

Bao gồm cả nạn bổ sung thứ 81, trở về đi qua sông Thông Thiên, lão rùa hỏi Đường Tăng về việc ông nhờ Đường Tăng hỏi Phật Như Lai đến khi nào ông mới đắc được thân người, Đường Tăng “không biết nói thế nào, lại không dám lừa dối, trầm ngâm một hồi không đáp lời”, kết quả bị lão rùa hất rơi xuống nước. Trong nạn này, biểu hiện của Đường Tăng chính là cái tâm hư danh đang nổi lên. Việc này cùng với lời nói của Đường Tăng khi qua sông Thông Thiên năm xưa, “Việc thế gian duy có danh lợi là coi trong nhất. Tựa như một người vì lợi, quên cả sống chết, đệ tử của tôi phụng chỉ toàn trung, cũng chỉ là vì danh, thì có khác gì với người kia chứ!” lại hoàn toàn khớp.

Tại sao lại có biết bao nhiêu yêu ma muốn ăn thịt Đường Tăng? Từ đây chúng ta có thể nhìn ra, bản thân sự tồn tại của yêu ma, khi một người không tu luyện, nó nằm ở trong thân thể người đó, sau khi người đó chết đi, nó liền rời khỏi thi thể người đó. Những ma này chính là khởi tác dụng này. Cho nên, “bệnh” cũng là ma, “chết” cũng là ma, ma tính của chính bản thân chính là ma. Tuy nhiên khi người ta muốn tu luyện một cách chân chính, thì cần phải trừ bỏ những ma chướng này, đương nhiên ma sẽ không chịu để nó bị tiêu trừ. Nó cũng biết, con người nếu tu luyện thành Thần Phật, thì thân thể người đó sẽ vĩnh viễn là thân thể bất hoại. Trong quá trình nhục thân của người thường chuyển hóa thành thân thể của Thần Phật thì bản thân ma tính cũng không chịu để yên, cho nên nó liều mạng ngăn cản người ta tu luyện. Khi thân thể con người chuyển hóa như vậy, những yêu ma kia lại không thật sự nghĩ để cho thân thể người chuyển hóa thành thân thể của Thần rồi mới ăn hay sao? Chúng ăn không được, bởi vì sau khi chuyển hóa xong thì đã là thân thể kim cương bất hoại rồi, yêu ma không thể động tới được, đây cũng là nguyên nhân Đường Tăng không bị ăn thịt. Thân thể trước lúc tu luyện chỉ là thân thể người thường, đó cũng là nơi mà yêu ma sống nhờ; thân thể sau khi tu luyện tốt đã được phong kín lại rồi. Đây là hiểu biết thông thường trong giới tu luyện.

(còn tiếp…)

Share this post


Link to post
Share on other sites

4. Luân hồi và nhân quả

Đường Tăng tu hành mười kiếp, đương nhiên là trong luân hồi chuyển sinh thành người mười lần để tu hành. Đường Thái Tông sau khi từ địa phủ trở về, ông thấy được con người đều có sinh tử luân hồi. Đường Thái Tông khi ở địa phủ còn đến nơi gọi là “Lục đạo luân hồi”, trong truyện nói về lục đạo luân hồi như sau: “Người hành thiện được thăng hoa lên Tiên đạo, người tận trung siêu sinh vào Quý đạo, người có hiếu tái sinh vào Phúc đạo, người công bằng vẫn được sinh vào Nhân đạo, người tích đức chuyển sinh vào Phú đạo, kẻ ác độc phải vào Quỷ đạo”.

Nói về luân hồi, ắt phải bàn về nhân quả, các ví dụ về phương diện này trong truyện có rất nhiều. Đường Tăng vì khinh mạn Phật Pháp, nên phải trải qua tu hành mười kiếp. Trong hồi thứ 81 “Trấn Hải tự tâm viên tri quái, Hắc Tùng lâm tam chúng tầm sư” có nói rằng, bởi vì Đường Tăng không nghe Phật giảng Pháp mà lại ngủ gật, nên lỡ chân dẫm phải một hạt gạo, do đó mới bị ốm ba ngày. Tôn Ngộ Không năm xưa nhảy từ lò Bát Quái ra, đạp đổ lò luyện đan, những mảnh vỡ vẫn còn dư hỏa rơi xuống hạ giới biến thành Hỏa Diệm Sơn.

Thầy trò Đường Tăng gặp trở ngại ở nước Ô Kê, vua nước Ô Kê nhờ làm việc thiện bố thí đồ ăn chay cho tăng nhân nên Phật tổ Như Lai phái Văn Thù Bồ Tát độ ông về Tây. Bồ Tát liền biến thành một tăng nhân, nói vài câu để khảo nghiêm ông, nhưng lại bị ông trói lại, bị ngâm ba ngày ba đêm trong sông Ngự Thủy. Cho nên mới có nạn quốc vương nước Ô Kê ở dưới nước ba năm. Quận Phượng Tiên nước Thiên Trúc, ba năm không có mưa, người dân phải bán cả con cái đi, cuộc sống cùng cực không biết nói sao. Nguyên nhân là do quận hầu của quận Phượng Tiên đem đồ chay cúng Trời đổ cho chó ăn, bị Ngọc Đế nhìn thấy, Ngài lập ra một ngọn núi gạo cao 10 trượng, để cho một con gà mổ từng hạt; một núi bột cao 20 trượng, để cho một con chó nhỏ liếm từng chút một; treo một cái khóa vàng, dùng một ngọn lửa đốt cái chốt khóa. Đợi đến khi gà nhặt hết gạo, chó liếm hết bột, đèn đốt đứt chốt khóa, mới cho phép có mưa. Sau này, Thiên Sư nói với Ngộ Không cách thiện giải, vị quận hầu kia một mặt quy y Phật môn; một mặt mời các thầy tu bản xứ lập đàn làm chay đốt hương kính Phật, tạ ơn trời đất, tự mình chịu trách nhiệm vì đã gây ra tội; mặt khác lại bảo người dân đốt hương niệm phật. Chỉ một niệm như thế, mà làm cho núi gạo núi bột đều biến mất và chốt khóa cũng đứt, và quận Phượng Tiên đã có mưa lớn.

5. Tu luyện và bệnh tật

Tôn giáo hiện đại đã sớm loạn từ lâu rồi, dùng nhận thức của bản thân mà giải thích loạn kinh Phật. Có những người sống ở thế gian nhất tâm hướng Đạo, từ lâu cũng không biết không cảm thấy rằng đã tự trộn lẫn bản thân mình vào trong người thường rồi. Ví như nói về cứu độ chúng sinh, vốn là để cho người ta tu luyện, từ đó mà đạt được sự giải thoát của sinh mệnh. Nhưng có nhiều người lại coi việc trị bệnh cho người khác là cứu độ chúng sinh. Một ví dụ nữa đó là thái độ đối với bệnh tật, người thường có bệnh đương nhiên cần phải uống thuốc, nhưng là một người tu luyện, chính là người vượt khỏi người thường rồi. Về việc người tu luyện đối đãi như thế nào với bệnh tật, trong “Tây Du Ký” đã nói rất rõ ràng.

Hồi thứ 21 “Hộ Pháp thiết trang lưu Đại Thánh, Tu Di linh cát định phong ma”, Tôn Ngộ Không bị chuột lông vàng Hoàng Phong thổi gió làm cho đau mắt, nước mắt cứ chảy ra; khi nhìn thấy người do Già Lam hộ Pháp hóa thành, lúc xin thuốc trị mắt Ngộ Không còn nói: “Không giấu chi ngài, thầy tôi bảo rằng, người xuất gia chúng ta trước giờ không có bệnh, không biết sao lại đau mắt.

Hồi thứ 55 “Sắc tà dâm hí Đường Tam Tạng, Tính chính tu trì bất hoại thân”, Bát Giới bị con bọ cạp chích độc, Tôn Ngộ Không mời Mão Nhật Tinh Quân đến hàng yêu. Trư Bát Giới nói với Tinh Quân: “Thứ lỗi thứ lỗi! Thân tôi mắc bệnh, không thể hành lễ.” Tinh Quân nói: “Ngài là người tu hành, mắc bệnh gì chứ?”

Hồi thứ 81 “Trấn Hải tự tâm viên tri quái, Hắc Tùng lâm tam chúng tầm sư”, Đường Tăng cảm thấy “hoa mắt đầu choáng váng, xương cốt toàn thân đau nhức”. Ngộ Không hỏi Đường Tăng bị sao, ông nói: “Lúc nửa đêm, ta dậy đi tiểu quên không đội mũ, chắc là bị trúng gió.” Trong ba ngày đó, Đường Tăng cảm thấy bệnh tình càng ngày càng nặng, muốn viết “di thư” cho vua Đường. Tôn Ngộ Không nói ra căn nguyên của bệnh: “Chỉ vì sư phụ khinh mạn Phật Pháp, nên mới có đại nạn này.” Ba ngày sau, Đường Tăng không còn chứng bệnh gì nữa.

Ba ví dụ kể trên đã nói rõ một vấn đề, đó chính là người chân chính tu luyện thì không có bệnh. Dẫu có xuất hiện những cái gọi là “chứng bệnh” gì đi nữa, đối với người tu luyện mà nói, thì hoặc là để hoàn trả tội nghiệp, hoặc là do sư phụ an bài để khảo nghiệm sự kiên định đối với tu luyện. Nhưng một số người thường không tu luyện lại không hiểu được việc người tu luyện có biểu hiện của bệnh mà không uống thuốc. Thực ra đây chẳng phải cũng là một khảo nghiệm hay sao? Người cổ đại có một kiểu nhận thức tương đối chính diện đối với việc tu luyện, nhưng ngày nay trong môi trường như thế này, người ta không cách nào lý giải được người tu luyện không uống thuốc. Thậm chí một số phương tiện truyền thông bị chính phủ thao túng lại càng tuyên truyền vu cáo một cách không có trách nhiệm. Cho nên với con người ngày nay, đặc biệt là người tu luyện trong thế tục, những khảo nghiệm gặp phải lại càng nhiều càng khó.

6. Thiện ác nhất niệm, Phật ở trong tâm

Khi Tôn Ngộ Không nhảy ra từ lò Bát Quái và xảy ra cuộc đại chiến với chúng thần, trong “Tây Du Ký” miêu tả Ngộ Không như thế này: “Có thể thiện, cũng có thể ác, thiện ác trước mắt do mình gây ra. Khi thiện thành Phật thành Tiên, chỗ ác không lông cũng cắm sừng”. Khi Ngộ Không hướng thiện, tiêu dao tự tại ở Thiên Cung, được các thần xưng huynh gọi đệ, chính là một tản tiên; khi làm việc ác, thú tính bộc lộ ra hết, rất ngông cuồng ngạo mạn, chính là một con khỉ hung ác.

Trước khi Quan Âm Bồ Tát phụng pháp chỉ của Phật Như Lai tìm người đi thỉnh kinh, Phật Như Lai đưa cho Bồ Tát ba cái vòng và nói: “Bảo vật này gọi là “Khẩn cô nhi” (vòng dùng lúc khẩn cấp), mặc dù là ba cái giống nhau, nhưng cách dùng khác nhau. Ta có ba bài chú ngữ của “Kim khẩn cấm”. Nếu như trên đường gặp phải yêu ma thần thông quảng đại, con phải khuyên nó học hỏi điều tốt, làm đệ tử người đi thỉnh kinh. Nếu nó không nghe, có thể đeo cái vòng này lên đầu nó. Vòng này tự sẽ bám chặt vào đầu. Kẻ bị niệm chú ngữ, mắt sưng, đầu đau như muốn nứt ra. Để quản giáo nó bước vào Phật môn.” Trong ba chiếc vòng này thì một cái ở trên đầu Tôn Ngộ Không, nhìn thấy rất rõ, chính là để Tôn Ngộ Không nghe lời Đường Tăng. Bởi vì Ngộ Không tượng trưng cho tâm của Đường Tăng, nên phải quản chắc cái tâm của mình mới được, do đó Ngộ Không đeo một cái “Khẩn cô nhi”. Khi Bồ Tát thu phục Hắc Hùng Tinh (gấu tinh màu đen), Ngài đeo lên đầu nó lại là một cái “Cấm cô nhi”. Câu chuyện thu phục gấu tinh được ví như người tu luyện cần phải giữ gìn ‘chân tinh nguyên khí’ của chính mình. Trong ngũ hành, màu sắc mà thận tạng đối ứng là màu đen, tinh dịch tồn tại ở thận của con người, dùng Hắc Hùng Tinh để chỉ tinh dịch của người tu luyện, cho nên cần phải “cấm”. Trước khi thu phục Hắc Hùng Tinh, Bồ Tát đã biến thành một yêu quái, Ngộ Không nhìn thấy liền nói: “Tuyệt quá! Tuyệt quá! Là yêu tinh Bồ Tát hay Bồ Tát yêu tinh đây?” Bồ Tát cười nói: “Ngộ Không, Bồ Tát hay yêu tinh, âu chỉ là một niệm. Nếu luận về nguồn gốc, thì đều thuộc về không có.”

Bồ Tát nói rõ rằng, Bồ Tát và yêu tinh chỉ sai biệt ở một niệm. Đối với người tu luyện mà nói, chính là khiến những tà niệm vọng niệm bất chính, bất hảo từ bản chất mà biến thành thiện niệm, chính là tu bỏ từng niệm từng niệm, thì người tu luyện tự nhiên sẽ tu thành chính quả. Như vậy, từ khía cạnh này mà nói, Bồ Tát cũng chính là thể hiện của tiên thiên chính giác khi Ngộ Không hướng tâm tu. Do đó, Hắc Hùng Tinh bị Bồ Tát thu phục mang đi, đó chỉ là thủ pháp nghệ thuật tượng trưng của tác giả, thực ra là chỉ rằng Đường Tăng đã đạt đến cảnh giới “cấm dục”. Khi Bồ Tát thu phục Hồng Hài Nhi, chiếc vòng cuối cùng Ngài dùng là “Kim cô nhi”. Hồng Hài Nhi được ví von là hình tượng hóa cho tâm hỏa quá vượng của Tôn Ngộ Không. Thầy trò Đường Tăng muốn qua được quan này, đương nhiên cần phải dập tắt tâm hỏa. Trong truyện khi nói về Tôn Ngộ Không có dùng từ “kim công”, cũng là dùng để chỉ cái tâm, bởi vì tâm thuộc tính hỏa, hỏa khắc kim, Hồng Hài Nhi cũng nhiều lần dùng lửa thiêu Tôn Ngộ Không. Từ góc độ khác mà nói, Hồng Hài Nhi cũng lại là thể hiện của “xích tử chi tâm”, tu luyện Đạo gia giảng rằng tu luyện “phục quy vu anh nhi” (quay trở về hình hài trẻ sơ sinh), một khi anh nhi bị thu phục, cũng chính là chỉ tâm hư hỏa (lửa giả) đã tu bỏ đi rồi, mà một bộ phần tâm tu thành cũng đã là “kim thân bất hoại” rồi, cho nên “Kim cô nhi” mới được đeo trên đầu của Hồng Hài Nhi. Rõ ràng Hắc Hùng Tinh, Hồng Hài Nhi đều đi theo Bồ Tát, thực ra đều ở trên thân của Đường Tăng. Hắc Hùng Tinh ở sau núi Lạc Già, chỗ này là chỉ mặt lưng thận tạng của thân thể người, Hồng Hài Nhi theo gót Bồ Tát, chính là chỉ trong tâm của Đường Tăng.

Chương nói về Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không ra khỏi núi Ngũ Hành Sơn, phần mở đầu viết rằng “Phật tức tâm hề tâm tức Phật”; trong hồi thứ 85 “Tâm viên đố mộc mẫu, Ma chủ kế thôn thiền”, Ngộ Không nói với Đường Tăng: “Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu, Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu. Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp, Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu.” (Phật tại Linh Sơn không cầu đâu xa, Linh Sơn chính ở trong tâm của thầy. Mỗi người đều có một tháp Linh Sơn, Hướng vào tháp Linh Sơn ấy mà tu). Đường Tăng nói: “Đệ tử, sao ta không biết? Nếu dựa vào bốn câu này, thiên kinh vạn điển, cũng chỉ là tu tâm.” Cho nên từ góc độ này mà nói, Linh Sơn và Linh Đài Phương Thốn sơn có gì khác biệt? Phật Như Lai ở Linh Sơn xa xôi, lại nằm ngay tại trong tâm của chính bản thân mình. Đường Tăng trải qua mười vạn tám ngàn dặm, một cân đẩu vân của Ngộ Không cũng là mười vạn tám ngàn dặm. Với Tôn Ngộ Không mà nói việc đến Linh Sơn cũng chỉ là một niệm. Trong truyện cũng có câu: “Nếu có thể một niệm hợp với chân tu, diệt tận biết bao tội nghiệp dơ bẩn; còn có một niệm thiện từ, làm chấn động trời cao; trở về trời chỉ giống như một niệm.”

Là một tác phẩm văn học mà nói, chỉ có viết dài dòng như thế này thì mới có thể triển hiện ra quá trình cùng sự tuyệt vời sinh động của tu luyện. Tôn Ngộ Không tranh đấu với Lục Nhĩ Mi Hầu (khỉ sáu tai), thực ra chính là chân ngã và giả ngã đấu tranh với nhau. Bản tính tiên thiên đó là tự kỷ thuần chính, nhưng con người nơi trần thế hình thành các loại quan niệm và cảm thụ, nó cấu thành tự kỷ, nhưng được gọi là tự kỷ hậu thiện. Đối với một việc tốt và xấu, người ta thường cân nhắc đắn đo, đây cũng là quá trình tự kỷ tiên thiên và tự kỷ hậu thiên đang thuyết phục nhau. Với người mà quan niệm hậu thiên quá mạnh, người đó đã hoàn toàn bị quan niệm hậu thiên che đậy rồi, cũng chính là đã đánh mất tự kỷ hậu thiên rồi, loại người này về cơ bản không tin vào tu luyện. Người ta trong quá trình tu luyện chính là phải trừ bỏ tất cả những quan niêm hậu thiên hình thành. Nhưng có khi quan niêm hậu thiên lại ngoan cố chiếm cứ tư tưởng của người đó. Chỉ khi nào bản thân hoàn toàn tĩnh lặng lại, bản tính tiên thiên mới có thể trừ bỏ quan niệm hậu thiên. Cho nên Lục Nhĩ Mi Hầu và Tôn Ngộ Không đại chiến tới mức không phân được thật giả, chỉ có thể dưới sự giám chiếu của bản tính đại giác mới có thể phân biệt ra được. Lúc này Phật Như Lai xuất hiện, cũng có thể coi là sự thể hiện chân thực Phật tính của Tôn Ngộ Không.

(còn tiếp…)

Share this post


Link to post
Share on other sites

7. Sự an bài các ma nạn và nguyên do

Thầy trò Đường Tăng trải qua 81 nạn mới đến được Tây Thiên. Sự an bài những ma nạn này nhìn bề ngoài là đi qua những nơi nào đó, gặp phải những ma nạn như thế nào đó, nhưng các an bài này lại đều không phải là không có căn cứ, mà là căn cứ vào sự tu luyện của con người và việc tu luyện tâm tính mà an bài. Những nơi đi qua và các ma nạn gặp phải đều có liên quan đến tâm tính của bản thân và nội tạng hoặc huyệt vị của thân thể. Lấy một vài ví dụ từ khi Tôn Ngộ Không quy thuận Đường Tăng trở về sau thì có thể thấy được rất rõ ràng.

Ngộ Không thuộc tâm, một khi tâm quy chính, tự nhiên sẽ cần phải thanh trừ lục căn, cho nên mới gọi là “lục căn thanh tịnh”. Lục căn trong Phật giáo là chỉ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Trong truyện lần lượt dùng tên của sáu tên cướp (lục tặc) để hình dung lục căn, đó là: Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bổn Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn). Ngộ Không đánh chết sáu tên cướp này, thực ra là miêu tả hình tượng hóa về cách làm cho lục căn được thanh tịnh.

Ngộ Không làm “tâm viên” đương nhiên phải chịu sự quản thúc của chủ nguyên thần là Đường Tăng, cho nên Đường Tăng mới được Bồ Tát truyền thụ cho “Khẩn cô nhi chú” (thần chú xiết chặt), “Khẩn cô nhi chú” này cũng được gọi là “Định tâm chân ngôn”, hiển nhiên là nhắm vào Tôn Ngộ Không. Khóa chắc được tâm viên rồi, tiếp theo là thu phục Bạch Long Mã. Đề mục của hồi này có câu “Ý mã thu cương”. Khóa chắc được tâm thì cũng là nắm được ý rồi, chính là “tỏa tâm viên thuyên ý mã” (khóa tâm vượn, buộc ý ngựa). Ý chịu sự quản thúc của tâm, Tôn Ngộ Không trước kia xuất thân là chức quản mã (Bật Mã Ôn), tâm ý tương hợp, tự nhiên như một.

Sau khi tâm ý tương hợp, cả Tôn Ngộ Không và Bạch Long Mã cùng chủ nhân (Đường Tăng) đi Tây Thiên thỉnh kinh, cũng là bắt đầu chân chính tu luyện. Vậy thì lúc này điều phải làm được là cấm dục, đây cũng là dụng ý của việc đeo “Cấm cô chú” (thần chú vòng cấm) cho Hắc Hùng Tinh. Cấm được dục rồi, đương nhiên phải thu phục việc tham luyến mỹ sắc của Trư Bát Giới. Người ta khi chiểu theo giới luật mà tu luyện, thì tâm tính tự nhiên sẽ được nâng cao, khi này Đường Tăng cũng đã đến lúc chiểu theo điều cốt lõi trong kinh điển Phật giáo, tức “Tâm Kinh” mà tu trì bản thân rồi.

Phần trước đã nói, tu luyện trên đường đi thỉnh kinh, rất nhiều đều là dựa vào lý luận tu luyện của Đạo gia. Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới đại biểu cho sự hòa hợp của âm dương trong cơ thể, là không rời khỏi tác dụng của tì tạng, Sa Hòa Thượng chính là khởi tác dụng của tì tạng. Bởi vì tì (lá lách) trong ngũ hành thuộc về thổ, màu sắc là màu vàng, thêm nữa Sa Hòa Thượng về thuộc tính lại là nhân hậu và hài hòa, ông còn được gọi là ‘hoàng bà’, tức có ý là ‘người mai mối’. Trước khi thu phục Sa Hòa Thượng, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới hợp tác cùng đại chiến với Hoàng Phong quái, bởi vì ‘kim công’ và ‘mộc mẫu’ thiếu mất sự điều hòa của ‘hoàng bà’, nên mới có trận đại chiến với Hoàng Phong quái. Yêu quái Hoàng Phong bị thu phục rồi, cũng là đến lúc thu phục Sa Hòa Thượng.

Thầy trò Đường Tăng và Bạch Long Mã, năm vị tập hợp đầy đủ rồi, thì bắt đầu quan khảo nghiệm đầu tiên của việc chân chính tu luyện, cũng là khảo nghiệm về tâm sắc dục, đây chính là nguồn gốc của “Tứ thánh thí thiện tâm” (thử thiện tâm của bốn vị thánh tăng). Quan ải này qua rồi, ngũ tạng của thân thể cũng tự nhiên an định yên ổn; đối với người tu luyện mà nói, tại tầng thứ này đã bắt đầu xuất nguyên anh. “Ngũ Trang” trong “Ngũ Trang quán” thực chất là chỉ ngũ tạng trong thân thể người. Quả nhân sâm có hình dáng giống như đứa trẻ, chính là nói về nguyên anh. Bởi vì nguyên anh được sinh ra ở bộ vị đan điền khi người ta tu luyện đến một tầng thứ nhất định, là thứ thuộc về tiên thiên, cho nên nói rằng thuộc tính của nguyên anh và ngũ hành là thuộc tính tương úy (thuật ngữ trong Trung y, chỉ độc tố hoặc tác dụng phụ của một vị thuốc có thể hạ thấp hoặc loại bỏ bởi một vị thuốc khác).

Trong Phật gia nguyên anh được gọi là Phật thể, cũng được gọi là thân kim cương bất hoại. Sau khi nguyên anh được sinh ra, tự nhiên cần phải thanh trừ thây ma trên người, đó chính là chương tiết nói về ba lần đánh chết Bạch Cốt Tinh.

Ở trên nói về những lý luận trong tu luyện của Phật gia, những lý luận của Đạo gia còn có nhiều hơn. Đạo gia tu luyện giảng về thông chu thiên, chu thiên của Đạo gia cũng được gọi là “hà xa chu thiên” (chạy xe vòng quanh sông), trong “Tây Du Ký” cũng có thể hiện (chẳng hạn đoạn nói về đấu phép tại Xa Trì quốc). Khi Ngộ Không đến Nam Hải mời Bồ Tát đi hàng phục Hồng Hài Nhi, Ô Quy hành lễ với Bồ Tát, Bồ Tát nói không cho Thiện Tài Long Nữ và Ngộ Không cầm bình tịnh thủy đi cùng nhau, bởi vì Long Nữ tướng mạo xinh đẹp, Bồ Tát sợ Ngộ Không khởi tà niệm, Ngộ Không nói: “Từ trước đến nay không làm việc như vậy”. Sau đó Bồ Tát cho Ngộ Không đi trước, Ngộ Không nói: “Đệ tử không dám trổ tài trước mặt Bồ Tát. Nếu lộn cân đầu vân, lộ ra thân thể, sợ Bồ Tát mắng con bất kính.” Những lời này làm cho người đọc không nhịn được cười, nhưng lại ẩn chứa thời gian thông chu thiên, hiện tượng dương khởi khi chân khí đi qua âm bộ. Đồng thời cũng thuyết minh rằng, chỗ Bồ Tát ở chỉ có Thiện Tài Long Nữ, để lại “phục bút” cho việc thu Hồng Hài Nhi làm Thiện Tài Đồng Tử sau này.

Tiếp theo là bắt Đà Long tại sông Hắc Thủy, chính là nói về quá trình nguyên khí đi qua mệnh môn. Bởi vì màu sắc đối ứng với thận tạng trong ngũ hành là màu đen, mệnh môn ở giữa hai thận, thầy trò Đường Tăng đi qua sông Hắc Thủy cũng chính là đi qua huyệt mệnh môn. Do mạch đốc thuộc dương, khí hậu được miêu tả trong truyện cũng là “tam dương chuyển vận, mãn thiên minh mị khai đồ họa” (ba mạch dương vận chuyển, khắp trời mở ra đẹp đẽ như tranh vẽ). Tiếp theo là qua quan giáp tích. Vị trí của giáp tích là ở phía lưng hai bên cột sống, từ mỏm gai đốt sống cổ thứ nhất đến mỏm gai đốt sống lưng thứ năm, mỗi mỏm gai đều sang hai bên khoảng một đốt ngón tay. Trong truyện dùng ‘tiểu lộ’ (con đường nhỏ) để ví về huyệt giáp tích, nói rằng tiểu lộ nằm ở giữa hai cửa ải lớn, đường ở dưới ải đều là dốc thẳng đứng, 500 vị hòa thượng không kéo được chiếc xe chở đầy ngói qua. Tôn Ngộ Không dùng thần thông, kéo chiếc xe qua hai cửa ải, xuyên qua huyệt giáp tích.

Khi qua quan này, ba con yêu quái Hổ Lực Đại Vương, Lộc Lực Đại Vương và Dương Lực Đại Vương đấu phép thuật cùng Tôn Ngô Không và bị diệt trừ, điều này nói lên ý nghĩa thực sự, đó là: khi chu thiên vận hành qua huyệt giáp tích, không thể dùng ngoại lực, dùng ý quá nhanh, quá mạnh, quá yếu đều không được, mà chỉ căn cứ một niệm của bản tính, tự nhiên sẽ qua. Nếu không sẽ nhập sang bàng môn.

Qua được huyệt giáp tích, theo đường đi của chu thiên thì sẽ tiếp tục đi lên, trong truyện miêu tả là đến sông Thông Thiên. Sông Thông Thiên ý nói là huyệt bách hội trên đỉnh đầu, tả về sông Thông Thiên trong truyện có câu thơ “Trường lưu quán bách xuyên” (dòng chảy dài thông suốt trăm con sông), mà huyệt bách hội trên thân thể chính là nơi kinh mạch giao hội, huyệt vị này lại nằm ở ngay trên đỉnh đầu, có thể nói đây là nơi tương thông với trời. Nê Hoàn Cung lại là nơi đối ứng với huyêt bách hội trong đại não, cũng chính là nơi chủ nguyên thần trú ngụ, tên của yêu quái kia là “Linh Cảm Đại Vương” cũng đã nói rõ hơn về điểm này. Đến sông Thông Thiên, thì con đường thỉnh kinh đi được một nửa rồi, tức là đã đi được năm vạn bốn nghìn dặm. Nơi này lại chính là đỉnh đầu của con người, cũng chính là điểm giao hội của hai mạch nhâm và đốc. Bên bờ sông Thông Thiên có Trần Gia trang, có anh em Trần Trừng và Trần Thanh; Trần Trừng có một cô con gái tám tuổi tên Nhất Xứng Kim; Trần Thanh có một cậu con trai bảy tuổi tên là Trần Quan Bảo. Thầy trò Đường Tăng cứu được cũng chính là đôi trai gái này. Đương nhiên, đây cũng là một cách ví von, một nam một nữ này chính là chỉ “anh nhi sá nữ phối âm dương”. Trương Tam Phong từng có câu: “Hoàng bà dẫn khứ anh nhi, thượng nê hoàn, thấu huyền quan, anh nhi sá nữ lưỡng đoàn viên”. Còn có người nói: “Huyệt giáp tích trên thân người, ví như sông Ngân trên trời. Sông Ngân ngăn cách nhưng lại có Linh Thước làm cầu, còn có cách nói là bắc cầu Hỉ Thước. Lưỡi của người cũng gọi là cầu Hỉ Thước. Phàm khi tạo đan, thì lấy hoàng bà dẫn nguyên anh lên nê hoàn, cùng sá nữ giao hội, nên cũng nói là lên cầu Hỉ Thước.”

Khi qua quan này, có chương tiết nói về Linh Cảm Đại Vương dùng thần thông làm tuyết rơi đông cứng sông Thông Thiên. Trong “Cửu chuyển kim đan tu luyện pháp”, khi tu luyện đến bước xuất nguyên anh này, trong định sẽ phát hiện vùng nê hoàn cho đến bách hội giống như là khoảng trống hư không, nhưng lại có cảnh tượng nhiều hoa tuyết bay. Trong “Tây Du Ký” nhiều lần nhắc đến tu luyện “Cửu chuyển kim đan thuật”, ví dụ, sau khi Tôn Ngộ Không lấy trộm kim đan của Thái Thượng Lão Quân, Lão Quân nói với Ngọc Đế: “Trong Đạo cung của Thần, luyện được một ít ‘cửu chuyển kim đan’, để Bệ Hạ làm ‘Đan nguyên đại hội’, không ngờ bị kẻ trộm lấy mất.” Ngay cả Trư Bát Giới tự kể lại với Tôn Ngộ Không về kiếp trước của mình cũng nói: “Đắc truyền cửu chuyển đại hoàn đan, Công phu trú dạ vô thời khuyết”; Tôn Ngộ Không còn nói khoác về Kim Cô bổng của mình: “Bổng thị cửu chuyển tấn thiết luyện, Lão Quân thân thủ lư trung đoàn” (gậy sắt là thép tinh luyện qua chín lần, do đích thân Lão Quân luyện trong lò). Cuối cùng một nạn bổ sung thêm cho Đường Tăng cũng là tại sông Thông Thiên, có câu thơ như sau: “Bỉnh chứng tam thừa túy xuất nhập, Đan thành cửu chuyển nhâm chu toàn”.

Qua được sông Thông Thiên rồi, Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng vì tâm trộm cắp nên mới dẫn đến tai họa. Yêu quái là con trâu xanh của Lão Quân đã trộm Kim Cương trác của ông rồi xuống nhân gian tác quái. Kim Cương trác này cũng là vật Thiên Linh Cái năm xưa Lão Quân dùng để đánh Ngộ Không; vật này xuất hiện ở đây, chính là ý nói chu thiên cần phải thông qua đỉnh đầu rồi.

Độc giả khi đọc đến đoạn Tôn Ngộ Không đại náo Thiên Cung đều biết, Thần tướng khắp trời nhưng không làm gì được Ngộ Không, đó là biểu hiện hình tượng hóa một người khi tu luyện đến bộ phận đầu, tại vị trí này cần thông khiếu quá quan (thông huyệt vị). Ví dụ “Minh Thiên cổ” (đánh trống trời) trong tu luyện truyền thống, chính là dùng hai tay bịt kín hai tai lại, ngón tay đặt tại huyệt ngọc chẩm gõ nhẹ; mà Lôi phủ trong Thiên Cung chính là chỉ mũi người. Nơi ở “cung Đâu Suất” của Thái Thượng Lão Quân là ở bên trên ba mươi ba tầng trời. Khi xưa Tôn Ngộ Không tại nơi đây đã bị đẩy vào lò Bát Quái, về bản chất là chỉ đỉnh đầu của con người. Tê Giác Đại Vương cản trở thầy trò Đường Tăng là do con Thanh Ngưu (trâu xanh) của Thái Thượng Lão Quân biến hóa thành, nơi ở của nó là động Kim Đâu thuộc núi Kim Đâu, có thể coi là tên gọi khác của cung Đâu Suất. Tôn Ngộ Không mời Thiên Vương, Lôi Công, Hỏa Đức, Thủy Bá, gặp Phật Như Lai, mời thập bát La Hán, giống như năm xưa Ngộ Không đại náo Thiên Cung, thực chất là miêu tả hình tượng hóa khi chu thiên vận hành quá quan thông khiếu. Cuối cùng Lão Quân dùng Kim Cương trác xỏ mũi trâu xanh và chế phục được nó, việc này được ví von như khi chu thiên vận hành đến mũi vậy.

Trên đường thỉnh kinh đi qua Tây Lương nữ quốc, bởi vì Đường Tăng và Bát Giới đã uống nước sông Tử Mẫu mà có thai khí, đây là chỉ trong tu luyện đã nhập bàng môn. Đường Tăng và Bát Giới trong ngũ hành đều thuộc tính thủy, thuật ngữ trong tu luyện gọi là ‘hống’ (thủy ngân), Tôn Ngộ Không là “kim công”, thuật ngữ trong tu luyện cũng gọi là ‘diên’ (chì). “Chân diên hợp chân hống” (chì tinh khiết kết hợp với thủy ngân tinh khiết), tự nhiên sẽ sinh ra tiên đan. Nhưng Đường Tăng và Bát Giới lại uống nước, cho nên mới có tà thai. Có tà thai rồi thì làm thế nào? Chính là dùng nước suối Lạc Thai ở động Phá Nhi núi Giải Dương để phá giải. Nước suối này chính là chỉ nước bọt của người, thuật ngữ trong tu luyện gọi là ‘kim tân ngọc dịch’. Động Phá Nhi bị Như Ý chân tiên đổi tên thành Tụ Tiên am. Am là nơi cư trú của ni cô, Như Ý chân tiên là thân nam, cớ sao lại đổi tên như vậy? Bởi vì thủy trong Bát Quái có quẻ tượng đối ứng là Khảm (☵) với một hào dương ở giữa hai hào âm, chính là ý nói trong am có một thân thể nam cư trú. Tôn Ngộ Không vì sao không dùng phân thân để chống lại Như Ý chân tiên, để chân thân đi lấy nước? Bởi vì ‘chân diên chân hống’ bắt buộc phải qua sự điều hòa của thổ mẫu, do đó ắt phải là Sa Hòa Thượng đi lấy nước mới giải được tà thai. Trong “Tây Du Ký” có câu thơ viết: “Chân diên nhược luyện tu chân thủy, Chân thủy điều hòa chân hống can. Chân hống chân diên vô mẫu khí, Linh sa linh dược thị tiên đan. Anh nhi uổng kết thành thai tượng, Thổ mẫu thi công bất phí nan. Thôi đảo bàng môn tông chính giáo, Tâm quân đắc ý tiếu dung hoàn.”

Hai nạn theo sau của thầy trò Đường Tăng ở Nữ Nhi quốc xem ra có liên quan đến việc vượt qua quan sắc, đương nhiên đây cũng chỉ là một phương diện, thực chất lại là sự miêu tả hình tượng hóa khi chu thiên vận hành đến bộ vị tâm tạng.

Tình tiết câu chuyện Tôn Ngộ Không ba lần mượn quạt Ba Tiêu rất hấp dẫn người đọc, nếu đặt trong kết cấu chỉnh thể của “Tây Du Ký” và sự sự an bài việc tu luyện thân thể người, thì đó chẳng qua chỉ là thông qua điều tức để đạt được sự điều chỉnh của các tạng trong thân thể. Uy lực của quạt Ba Tiêu lớn như thế, miêu tả như vậy kỳ thực cũng là chỉ bộ phận lưỡi của người. Trong tu luyện truyền thống, có một cách hô hấp nạp thải khí gọi là “lục tự ca quyết”, sáu chữ này lần lượt là “hư, ha, hô, xi, suy, hi”, ứng với tạng phủ kinh lạc lần lượt là ‘can, tâm, tì, phế, thận, tam tiêu’. Khi tu luyện yêu cầu mũi hít vào mồm thở ra. Sáu chữ này dường như hoàn toàn tương đồng với khẩu quyết của bà La Sát dùng để biến lớn quạt Ba Tiêu là “xi, hư, a, hấp, hi, suy, hô”. Trong tu luyện đều cần phải “đáp Thước Kiều” (nối cầu Hỉ Thước), chính là lưỡi đặt hàm trên. Lúc thổ nạp hô hấp, khi hít khí vào lưỡi chạm hàm trên, khi thở khí ra bởi vì phải làm khẩu hình tương ứng với âm thanh phát ra, nên đầu lưỡi tự nhiên cũng rời khỏi vị trí hàm trên. Đây cũng là nguyên do dẫn đến việc Tôn Ngộ Không ba lần mượn quạt Ba Tiêu. Mà lưỡi lại là ‘tâm chi miêu’ (gốc của tâm), trong ngũ hành thuộc tâm, thuộc tính hỏa, do đó nói dùng quạt Ba Tiêu quạt tắt ngọn lửa Hỏa Diệm Sơn chính là mượn điều tức để đạt đến ‘bình tức tâm hỏa’ (khiến lửa giận lắng lại).

Ngộ Không nói “Ngưu Vương bản thị tâm viên biến” (Ngưu Ma Vương vốn do tâm viên biến thành); con trai Ngưu Ma Vương là Hồng Hài Nhi cũng tượng trưng cho tâm hỏa; vợ của Ngưu Ma Vương là La Sát phu nhân giữ Hỏa Diệm Sơn cũng là chỉ về tâm hỏa. Có thể thấy gia đình nhà Ngưu Ma Vương đều có liên qua đến tâm. Dùng quạt Ba Tiêu để quạt nước mưa dập tắt lửa Hỏa Diêm Sơn, điều này lại vừa phù hợp với câu nói trong tu luyện của Đạo gia là “thủy hỏa ký tế” (nước lửa đã xong). Cho nên khi câu chuyện này kết thúc, trong “Tây Du Ký” có viết rằng: “Bốn thầy trò Đường Tam Tạng đi riêng một con đường, nước lửa đã cứu xong, tiết trời trở nên mát lạnh, mượn được quạt quý thuần âm, quạt hơi lửa nóng để qua núi.

Câu chuyện này còn có ngụ ý khác nữa, đó chính là chu thiên trong khi vận hành đi qua “tam tiêu”. Tam tiêu phân chia thành thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu, dường như bao gồm tất cả lục phủ ngũ tạng của thân thể người. Tam tiêu là một phủ đặc thù, nó là con đường thủy cốc trong thân thể, có đường nước khai thông, có tác dụng vận hành thủy dịch. Tam tiêu trong ngũ hành thuộc về hỏa. Nhưng đối ứng với mật quyết điều tức của bà La Sát cũng không chỉ để chỉ tâm. Trong truyện cũng nhiều lần nhắc đến, nói rằng chỉ có dùng quạt Ba Tiêu quạt tắt ngọn lửa, quạt đến khi có mưa, mới có thể trồng trọt có thu hoạch, từ đó mới có được ngũ cốc để dưỡng sinh.

Tác giả rất chú ý đến việc sắp xếp tình tiết câu chuyện, phần trước có nói đến người tu luyện tu đến tầng thứ nhất định sẽ xuất nguyên anh, sau đó mấy phần tiếp đều viết về những gì có liên quan tới nguyên anh hoặc liên quan đến tâm, cho đến khi viết về thông chu thiên. Tiếp về sau, phần cuối lại viết về thất tình. Bởi vì không thỏa mãn được tình, liền sinh ra hận. Rồi lại viết về lục dục. Những điều này đều là có quy luật tuần hoàn.

Khi chu thiên vận hành, lúc thầy trò Đường Tăng lần đầu tiên vượt quan về tâm, chính là dùng Hồng Hài Nhi; lần thứ hai là mẹ của Hồng Hài Nhi – Thiết Phiến công chúa; từ đó về sau, khi vượt qua mỗi quan thì trong tiêu đề đều dùng “sá nữ cầu dương”. Từ nam đến nữ, từ già đến trẻ, trong tu luyện thì càng ngày càng trở nên thuần tịnh.

Có thể thấy sự sắp xếp tình tiết trong “Tây Du Ký” là vô cùng độc đáo, không chỉ là chu thiên vận hành, mà một số bộ phận đặc thù của thân thể cũng cần phải luyện, ngay cả thân thể cũng cần phải thanh lý. Ví dụ hồi 65 và hồi 66 viết về Hoàng Mi quái, chính là chỉ hệ sinh sản của con người. ‘Đoản nhuyễn lang nha bổng’ (gậy răng sói mềm ngắn) mà Hoàng Mi quái sử dụng chính là chỉ dương vật của nam giới, bảo bối ‘đáp bao’ (túi đắp) mà hắn sử dụng rõ ràng chính là âm nang người. Phật Di Lặc nói đây là “Hậu thiên đại tử, tục danh hoán tố nhân chủng đại” (cái túi của sau này, tục danh gọi là túi đựng giống người). Phật Di Lặc bảo Tôn Ngộ Không dụ Hoàng Mi quái ra, “Ngài viết lên lòng bàn tay của Hành Giả một chữ ‘cấm’, bảo Hành Giả nắm tay lại, nhìn thấy yêu tinh hãy giơ tay trước mặt nó, nó liền đi theo.” Ý nghĩa của chữ ‘cấm’ này, với chữ ‘cấm’ ở phần trước nói về việc đeo ‘Cấm cô chú’ cho Hắc Hùng Tinh là giống nhau.

Hồi thứ 67, trong truyện viết về hẻm Hi Thị (con đường nhỏ có nhiều hồng rụng bị thối nát) ở Đà La trang (thôn Đà La), thực ra chính là chỉ ruột người, gọi là ‘Hi Thị’ chẳng qua là đồng âm với ‘hi thỉ’ (phân lỏng). Trong hẻm Hi Thị có Hồng Lân Đại Mãng (con mãng xà lớn có vảy màu đỏ), chính là nói về hồi trùng (giun sán trong ruột người). Đương nhiên cần phải giết chết nó. Qua quan này may là nhờ Bát Giới biến thành cái đầu lợn lớn đi trước ủi để mở đường mới qua được.

Đến cuối cùng, tới được Linh Sơn rồi, còn phải qua bến đò Lăng Vân. Khi Ngộ Không đẩy Đường Tăng lên thuyền không đáy, thân thể nơi trần thế (nhục thân) của đường Tăng liền tự nhiên thoát rơi ra, chính là ứng với ý “Kim Thiền thoát xác”.

8. Những câu thơ, hồi mục và ẩn dụ hình tượng hóa tiết lộ nội hàm tu luyện

Nhiều người đọc “Tây Du Ký” chỉ chú trọng tình tiết, gặp thơ từ liền bỏ qua, gặp tiêu đề mỗi hồi cũng bỏ qua không chú ý. Thực ra trong đó thật sự tiết lộ mối liên hệ giữa câu chuyện và đạo lý tu luyện. Hồi thứ 14 “Tâm viên quy chính, Lục tặc vô tung” (Lòng vượn theo đường chính, Sáu giặc mất tăm hơi), chỉ Tôn Ngộ Không là tâm đã quay trở về trong tâm của chủ nhân, “lục tặc” là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đã bị đoạn đứt gốc rễ. Hồi thứ 72 “Bàn Tơ động thất tình mê bản, Trạc Cấu tuyền Bát Giới vong hình” (Động Bàn Tơ bảy tình mê gốc, Suối Trạc Cấu Bát Giới mất hình). Trong hồi này viết về bảy con nhện tinh, tác giả dùng bảy con nhện tinh (thất tinh) để ví thất tình của của con người. Câu kết hồi thứ 40 “Vị luyện anh nhi tà hỏa thắng, Tâm viên mộc mẫu cộng phù trì”, ở đây dùng ‘tâm viên’ mà lại không dùng ‘kim công’ để đối ứng với ‘mộc mẫu’, bởi vì mộc khắc kim, Hồng Hài Nhi đại biểu cho tâm hỏa (lửa giận, tâm oán hận), tâm hỏa đang vượng, cho nên không dùng ‘kim công’ mà dùng ‘tâm viên’ để chỉ Tôn Ngộ Không. Câu “cộng phù trì” nói rất hay, nhưng không phải là trừ dứt Hồng Hài Nhi không cần nữa, mà là cần phải giúp đỡ Hồng Hài Nhi quy chính, bởi vì Hồng Hài Nhi cũng là một phần tâm của người tu luyện.

Hồi thứ 55 viết về một con bọ cạp độc trêu đùa dâm dục Đường Tăng, bị Tôn Ngộ Không mời Mão Nhật Tinh Quân đến tiêu diệt. Tiếp theo, hồi thứ 56 có bài thơ mở đầu, “Linh Đài vô vật vị chi thanh, Tịch mịch toàn vô nhất niệm sinh. Viên mã lao thu viên phóng đãng, Tinh thần cẩn thận mạc tranh vinh. Trừ lục tặc, ngộ tam thừa, Vạn duyên đô bãi tự phân minh. Sắc tà vĩnh diệt siêu chân giới, Tọa hưởng Tây phương Cực Lạc thành.” Sau khi thầy trò nhận sắc phong của Phật Như Lai có câu thơ thế này: “Nhất thể chân như chuyển lạc trần, Hợp hòa tứ tướng phục tu thân. Ngũ hành luận sắc không hoàn tịch, Bách quái hư danh tổng mạc luận. Chính quả chiên đàn quy Đại Giác, Hoàn thành phẩm chức thoát trầm luân. Kinh truyền thiên hạ ân quang khoát, Ngũ thánh cao cư bất nhị môn.”

Tôn Ngộ Không đánh chết mấy tên cướp, Đường Tăng liền đuổi Ngộ Không đi. Dẫn đến cuộc tranh đấu giữa Lục Nhĩ Mi Hầu và Tôn Ngộ Không, thực chất là cuộc tranh đấu giữa chân ngã và giả ngã. Sau khi Lục Nhĩ Mi Hầu bị đánh chết, có câu thơ như thế này: “Trung đạo phân ly loạn ngũ hành, Hàng yêu tụ hội hợp nguyên minh. Thần quy tâm xá thiền phương định, Lục thức khư hàng đan tự thành”. Lời mở đầu hồi tiếp theo là một bài tụng, viết rằng: “Tam Tạng vâng lệnh Bồ Tát, thu nhận Hành Giả, cùng Bát Giới Sa Tăng cắt đứt ‘nhị tâm’, khóa chặt viên mã, đồng tâm hiệp lực, nhanh bước đến Tây Thiên.” Chỗ này người đọc có thể hiểu được, hơn nữa cách nói ‘nhị tâm’ trong câu đề mục ở hồi này “Nhị tâm giảo loạn đại càn khôn, Nhất thể nan tu chân tịch diệt” đã nói rất rõ ràng ‘nhị tâm’ là thế nào.

Những điều được ví von trong “Tây Du Ký” có rất nhiều, từ đầu truyện đến cuối truyện đều có. Viết về yêu quái, có rất nhiều là dùng để ví tâm chấp trước của con người, chẳng hạn dùng sợi tơ nhện để ví về sợi tơ tình của con người, dùng Lục Nhĩ Mi Hầu để ví về các quan niệm hậu thiên hình thành nên nhân tâm của con người. Ngay cả nơi ở của yêu tinh phần lớn cũng được dùng để ví von, ví như động Bàn Tơ, thôn Đà La, động Ba Tiêu ở Hỏa Diệm Sơn, động Không Đáy ở núi Hãm Không, động Ba Nguyệt ở núi Uyển Tử, v.v.

(còn tiếp…)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bố nào rãnh viết mấy cái chuyện phân tích tào lao, tào đế vậy trời. Phân tích kiểu vậy thì tác giả Ngô Thừa Ân chính là chuyển luân thánh vương rồi đó. Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bố nào rãnh viết mấy cái chuyện phân tích tào lao, tào đế vậy trời. Phân tích kiểu vậy thì tác giả Ngô Thừa Ân chính là chuyển luân thánh vương rồi đó. Posted Image

Phân tích hay và rất hợp lý đó, Như Thông à.

Người phân tích bài này phải là cao thủ hàng thượng thừa về Phật pháp. Mình xem và đối chiếu, so sánh cũng tiếp thu được kiến thức liên quan.

Tây Du ký là một kỳ thư. Bởi vậy, khi tác phẩm hoàn thành, một người bà con của Ngô Thừa Ân phải nói rằng: Tinh hoa phát tiết ra ngoài hết. tác giả chắc chẳng sống lâu được. Quả nhiên Ngô Thừa Ân sau đó ....viên tịch.

Cá nhân chú cảm ơn Vietha vì bài viết này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

III. Hiểu “Tây Du Ký” từ nhiều góc độ khác nhau

Bài trước phân tích về “Tây Du Ký” là dựa trên cơ sở người tu luyện thuần túy mà tiến hành phá giải. Cũng chính là nói, bề ngoài viết về cuộc chiến giữa thầy trò Đường Tăng và yêu ma quỷ quái, nhưng thực chất lại là đang thanh trừ ma tính của chính bản thân mình. Đây là giải ở góc độ tu nội thuần túy. Phân tích như vậy cũng đủ để vén bức màn bí ẩn về nội hàm của “Tây Du Ký”, đằng sau sự ly kỳ hấp dẫn này chính là quá trình một người tu tâm đoạn dục.

Nhưng người tu luyện chân chính vẫn có một góc độ quan sát nữa. Người chân tu biết rằng, nếu muốn chân chính tu luyện mà không có sư phụ chỉ dạy, không có sư phụ dẫn dắt, thì về cơ bản là không tu thành được. Mà vị sư phụ này ắt phải là một Giác Giả có trí huệ và thần thông to lớn. Đương nhiên người tu luyện thông thường, căn cơ không đủ, tâm cầu Đạo không kiên trì, trong khi đọc kinh sách mà tu luyện, thì có hay không có sư phụ cũng không sao cả. Bởi vì tu luyện môn nào thì sư phụ của môn đó liền biết ngay, ông thấy người này cần đề cao tầng thứ rồi, liền ở phía sau giúp đỡ một chút. Người này thật sự có thể tu luyện được, thì ông liền giúp đỡ. Bởi vì Giác Giả độ nhân không nói điều kiện. Nhưng những người như thế này thật sự quá ít, quan niệm của người thường lại quá nhiều quá phức tạp, khi tu luyện hễ gặp khó khăn ma nạn liền dùng nhân tâm mà đối đãi, họ cũng sẽ bị đình trệ ngay ở ma nạn đó. Do đó từ góc độ này mà xét, người chân tu hướng nội tu là một phương diện, cũng là một phương diện chủ yếu, nhưng không tách rời khỏi sự bảo hộ của sư phụ, khi cần thiết thật sự phải có sư phụ đến giúp đỡ.

Chân tu ắt phải có sư phụ, đường đời của người chân tu đã được sư phụ an bài và thay đổi rồi, từng nạn đều là nhắm vào chấp trước của người tu luyện mà an bài. Điều này cũng được thể hiện ngay trong “Tây Du Ký”. Ví dụ khi Tôn Ngộ Không thu phục Kim Giác Đại Vương và Ngân Giác Đại Vương, Thái Thượng Lão Quân nói: “Vật này Hải Thượng Bồ Tát đã hỏi mượn ta ba lần, lần này đưa cho ngài ấy hóa thành yêu ma, để thử xem thầy trò ngươi có thật sự muốn đi Tây Thiên thỉnh kinh hay không.”

Chúng ta nói các nạn mà Đường Tăng trải qua là nạn của bản thân ông, điều này đương nhiên là đúng. Tuy nhiên an bài có thứ tự, từng bước từng bước lại không phải là ông tự an bài cho mình. Trong truyện nói rõ rằng có những ma nạn là do Phật Thích Ca Mâu Ni an bài; vị Phật Thích Ca Mâu Ni này lại không phải giống như phân tích ở phần trước là chỉ ở trong tâm người ta, mà Ngài ở tại thế giới của Ngài; chỉ cần có người thật sự tu luyện theo kinh mà Ngài truyền, Ngài đương nhiên sẽ biết, và đương nhiên sẽ quản người đó; cách giúp đỡ của Ngài là an bài sẵn con đường để người đó tu luyện. Trên con đường Ngài đã an bài, vào mọi thời khắc Ngài đều đang chăm nom bảo hộ người đó. Đương nhiên người ta trong tu luyện, khi đối chiếu với kinh Phật để hướng nội mà tu, mặt bản tính của chính mình, cũng chính là phía mặt tu thành kia đã biết phải làm thế nào rồi. Nhưng chỉ biết được làm thế nào thì vẫn chưa đủ, đó là quan niệm hậu thiên hình thành, ở không gian khác mà nhìn, đó là những vật chất vô cùng ngoan cố, không có sự giúp đỡ của sư phụ thì về cơ bản không thể nào trừ bỏ đi được. Chúng ta hãy lấy một ví dụ, tại sao một số người xấu muốn học điều tốt lại khó như vậy? Đó là vì họ không vứt bỏ được quan niệm mà họ đã hình thành, quan niệm đó là tự kỷ hậu thiên, nó ngăn cản con đường người ta phản bổn quy chân. Đây cũng là một nguyên nhân chủ yếu mà người hiện đại ngày nay khó có thể tu luyện. Đương nhiên, nếu xét từ góc độ này, kết hợp thêm tại góc độ người tu luyện thuần túy để hiểu “Tây Du Ký”, thì sẽ toàn diện hơn.

Sau khi tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, từ trong Pháp Sư phụ Lý Hồng Chí giảng rằng con người có chủ nguyên thần, phó nguyên thần, trong khi đọc “Tây Du Ký”, tôi phát hiện rằng từ góc độ này mà hiểu về thầy trò Đường Tăng thì vô cùng hợp lý. Đường Tăng đương nhiên là chủ nguyên thần; Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng, Bạch Long Mã chính là các phó nguyên thần. Tu luyện là lấy chủ nguyên thần làm chủ, chủ nguyên thần mê trong nhân thế, nếu muốn tu luyện vượt ra khỏi chốn hồng trần, thì đương nhiên sẽ có nhiều nạn, sẽ có nhiều khổ, nhưng càng như vậy, sẽ tu luyện được càng cao. Phó nguyên thần điều gì cũng biết, đương nhiên sẽ dễ tu hơn một chút. Cho nên, năm vị tuy cùng một thể, nhưng lại đều có thể tu đến quả vị tương ứng của bản thân.

Có một vị tu luyện khai mở thiên mục ở tầng thứ rất cao khi chia sẻ đã nói: “Câu chuyện Đường Tăng thỉnh kinh là có thật, hình tượng thầy trò Đường Tăng cũng là sự thật, chẳng qua là ở tại không gian khác mà thôi.” Như vậy từ góc độ này mà nói, “Tây Du Ký” là một câu chuyện tu luyện phát sinh tại không gian khác, trải qua gia công chỉnh lý đã trở thành bộ tác phẩm mà chúng ta thấy như hiện nay.

Đương nhiên dùng tư tưởng của người thường thì không lý giải nổi sự an bài của các sinh mệnh cao tầng đối với sự việc này. Đối với những sinh mệnh cao tầng tham dự trong đó mà nói, không phải là họ muốn diễn giải câu chuyện như thế nào thì liền có thể làm như thế. Lấy Trư Bát Giới làm ví dụ, xét từ góc độ người thường, có ai muốn làm Trư Bát Giới? Nhưng nếu từ góc độ lưu lại văn hóa Thần truyền chính thống cho nhân loại và trải thảm cho tu luyện chính Pháp của đời sau mà nói, đó là công lao và thành tích vĩnh viễn bất diệt trong vũ trụ, là điều mà bao vị Thần ngày nay đều ngưỡng mộ. Nói thẳng ra, không phải sinh mệnh nào muốn diễn vai diễn này thì liền được phép diễn.

Từ truyện mà xét, các ma nạn thầy trò Đường Tăng trải qua, những người tham dự trong các ma nạn đó rất nhiều đều là có lai lịch, có những nạn là do Phật Như Lai và Bồ Tát trực tiếp an bài. Người tu luyện thông thường cũng không xứng có những ma nạn như thế này. Theo cách nói của Phật Di Lặc thì: “Là do thầy trò ngươi chưa hết nạn, cho nên nhiều loài hạ thế đón đường, khiến các ngươi chịu ma nạn.”

(còn tiếp…)

Share this post


Link to post
Share on other sites

III. Hiểu “Tây Du Ký” từ nhiều góc độ khác nhau

....

Sau khi tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, từ trong Pháp Sư phụ Lý Hồng Chí giảng rằng con người có chủ nguyên thần, phó nguyên thần, trong khi đọc “Tây Du Ký”, tôi phát hiện rằng từ góc độ này mà hiểu về thầy trò Đường Tăng thì vô cùng hợp lý. Đường Tăng đương nhiên là chủ nguyên thần; Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng, Bạch Long Mã chính là các phó nguyên thần. Tu luyện là lấy chủ nguyên thần làm chủ, chủ nguyên thần mê trong nhân thế, nếu muốn tu luyện vượt ra khỏi chốn hồng trần, thì đương nhiên sẽ có nhiều nạn, sẽ có nhiều khổ, nhưng càng như vậy, sẽ tu luyện được càng cao. Phó nguyên thần điều gì cũng biết, đương nhiên sẽ dễ tu hơn một chút. Cho nên, năm vị tuy cùng một thể, nhưng lại đều có thể tu đến quả vị tương ứng của bản thân.

...

Đường Tăng là Thầy của Tôn Ngộ Không, vậy tức là Tầng Cao hơn.

Đường Tăng là Chủ Nguyên Thần

Ngộ Không là Phật Tính của Đường Tăng

Vậy Nguyên Thần cao tầng hơn Phật Tính Posted Image. đại để có cái tôi cao siêu hơn cả bản thể chân tâm phật tính.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đường Tăng là Thầy của Tôn Ngộ Không, vậy tức là Tầng Cao hơn.

Đường Tăng là Chủ Nguyên Thần

Ngộ Không là Phật Tính của Đường Tăng

Vậy Nguyên Thần cao tầng hơn Phật Tính Posted Image. đại để có cái tôi cao siêu hơn cả bản thể chân tâm phật tính.

Căn cứ vào đâu để xác định Ngộ Không là Phật tính của Đường tăng? Tự chủ quan gán cho Ngộ Không là Phật tinh của Đường Tăng rồi bào nó sai?! Không hiểu?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sau khi tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, từ trong Pháp Sư phụ Lý Hồng Chí giảng rằng con người có chủ nguyên thần, phó nguyên thần, trong khi đọc “Tây Du Ký”, tôi phát hiện rằng từ góc độ này mà hiểu về thầy trò Đường Tăng thì vô cùng hợp lý. Đường Tăng đương nhiên là chủ nguyên thần; Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng, Bạch Long Mã chính là các phó nguyên thần. Tu luyện là lấy chủ nguyên thần làm chủ, chủ nguyên thần mê trong nhân thế, nếu muốn tu luyện vượt ra khỏi chốn hồng trần, thì đương nhiên sẽ có nhiều nạn, sẽ có nhiều khổ, nhưng càng như vậy, sẽ tu luyện được càng cao. Phó nguyên thần điều gì cũng biết, đương nhiên sẽ dễ tu hơn một chút. Cho nên, năm vị tuy cùng một thể, nhưng lại đều có thể tu đến quả vị tương ứng của bản thân.

Nếu các thầy trò Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng và Bạch Long Mã mà chúng ta không biết đặc trưng cho cái gì của mỗi con người thì hết sức khó khăn khi phân tích. C. Jung - nhà phân tâm học người Đức nổi tiếng thế giới ca ngợi rằng: "Tây du ký phải do một vị Phật sáng tác".

Nguyên thần: ???

Phó nguyên thần: ???

Phật tính: ???

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, BạchLong Mã đối ứng với thuộc tính của ngũ hành lần lượt là thủy, kim, mộc, thổ,hỏa. Trong truyện thường dùng “kim công” để chỉ Tôn Ngộ Không, “mộc mẫu” để chỉTrư Bát Giới. Đối ứng với “mẫu” và “công” cũng chính là âm và dương. Còn có mộthàm ý nữa, bởi vì hỏa sinh kim, nên gọi là “kim chi công”, do đó “kim công”cũng là chỉ về hỏa; bởi vì thủy sinh mộc, nên gọi là “mộc chi mẫu”, cho nên“mộc mẫu” cũng hàm chứa thủy trong đó. Từ thuộc tính âm dương mà nói, mộc vàthủy cùng thuộc âm, kim và hỏa lại đều thuộc về dương, âm dương hợp lại tất dothổ tương trợ, thổ tức chỉ Sa Hòa Thượng, còn được gọi là “hoàng bà”. Cho nênquá trình đi thỉnh kinh trong “Tây Du Ký”, đều là do ba vị – Tôn Ngộ Không, TrưBát Giới, Sa Hòa Thượng – trảm yêu trừ ma. Quá trình trảm yêu trừ ma cũng chínhlà quá trình tu luyện.

======

Theo TG nên đổi lại:

Đường Tăng - Hỏa

Tôn Ngô Không - Thổ

Trư Bát Giới - Thủy

Sa Hòa Thượng - Mộc

Bạch Long Mã - Kim

Share this post


Link to post
Share on other sites

Căn cứ vào đâu để xác định Ngộ Không là Phật tính của Đường tăng? Tự chủ quan gán cho Ngộ Không là Phật tinh của Đường Tăng rồi bào nó sai?! Không hiểu?

Cái nội dung nó đây chú ạ:

Tác giả: Đàn Trần

II. Thỉnh kinh và tu luyện

“Tây Du Ký” là truyện kể về thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, đúng hơn thì đây là một câu chuyện về tu luyện. Khó khăn và sự ma luyện trên đường đi thỉnh kinh, chính là những ma nạn mà một người trong quá trình tu luyện ắt phải trải qua. Tại sao lại nói là ma nạn ắt phải gặp? Ví như thất tình lục dục của một người, đó là điều mà ai ai cũng có, như trong “Tây Du Ký” dùng bảy con nhện tinh (thất tinh) để hình dung về thất tình. Những ma nạn này, bề mặt thì thấy là những nhân tố bên ngoài, nhưng rốt cuộc đều có liên quan đến tự thân, cũng chính là ma nạn của bản thân mỗi người. Trong giới tu luyện gọi việc trừ bỏ ma tính của bản thân là “luyện ma”. Tiêu trừ ma tính, chính là dựa vào Phật tính của chính mình, đây cũng là một trong những nguyên nhân ở bảy hồi đầu lại chú trong về miêu tả Tôn Ngộ Không, Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho Phật tính của Đường Tăng.

"Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho Phật tính của Đường Tăng"

Share this post


Link to post
Share on other sites

7. Sự an bài các ma nạn và nguyên do

...

Đến cuối cùng, tới được Linh Sơn rồi, còn phải qua bến đò Lăng Vân. Khi Ngộ Không đẩy Đường Tăng lên thuyền không đáy, thân thể nơi trần thế (nhục thân) của đường Tăng liền tự nhiên thoát rơi ra, chính là ứng với ý “Kim Thiền thoát xác”.

...

Trong Phật giáo, cây cầu ví cho sự giác ngộ. Cầu này trơn trượt, rất khó đi qua.

Thuyền Bát Nhã không đáy, tức là trí tuệ về Không tính của các pháp và Không tướng của chân tâm. Đi trong biển sinh tử, độ chúng sinh, chúng sinh càng tu càng lùi nên nếu không cẩn thận Bồ tát có thể bị khủng bố đến mức đầu nổ tung thành nhiều mảnh...Phật đã biến những mảnh đầu vỡ đó của bồ tát thành nhiều đầu chồng lên nhau và khuyến khích Bồ tát tiếp tục phát nguyện độ sinh và Phật đưa ra pháp Quán Tự Tại trí tuệ về Không tính và Không tướng-Thuyền Bát Nhã Rỗng Không-để Bồ Tát vượt qua khủng bố tiếp tục độ sinh.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cái nội dung nó đây chú ạ:

"Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho Phật tính của Đường Tăng"

Vậy thì tác giả sai.

Share this post


Link to post
Share on other sites

"Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho Phật tính của Đường Tăng"

Tôn Ngộ Không là biểu tượng cho "cái trí " hay tư duy liên tục của con người.

Nếu như trên, vậy phải định nghĩa "Phật tính" như thế nào?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phật tính hay Thiên tính là một trong những thuộc tính phổ quát của muôn vật từ bé đến lớn, trong số đó có mọi sinh vật và đặc biệt là con người. Ở đây là một bài thuyết giảng của Đạo Sư Osho - một vị Phật - về Phật tính hay vị Phật là gì? Dĩ nhiên, để hiểu được vấn đề này không phải đơn giản!

PHẬT TÍNH LÀ GÌ?

Vị Phật là ai? Hay Phật tính là gì? Chừng nào bạn còn chưa có quan niệm rõ ràng về điều đó, sẽ khó mà hiểu được lời của Phật. Để hiểu những lời này, bạn sẽ phải hiểu cội nguồn từ đâu chúng nảy sinh. Để hiểu hoa, bạn sẽ phải hiểu rễ. Chừng nào bạn còn chưa hiểu rễ, bạn có thể ca ngợi hoa, nhưng bạn sẽ không có khả năng hiểu nó.

Vị Phật là ai? Hay Phật tính là gì? Từ 'Phật' nghĩa là nhận biết thuần khiết, trạng thái của nhận biết tuyệt đối. Vị Phật không phải là người mà là một trạng thái - trạng thái tối thượng, việc nở hoa tối thượng. Phật chẳng có liên quan gì tới Phật Thích Ca. Trước Phật Thích Ca đã có nhiều chư Phật, và sau Phật Thích Ca cũng đã có nhiều chư phật. Phật Thích Ca chỉ là một người đã đạt tới tâm thức tối thượng đó.

Từ 'Phật' cũng giống như từ “Christ”. Jesus chỉ là một trong các Christ - những người đã đạt tới việc nở hoa tối thượng. Đã có nhiều Christ và sẽ có nhiều. Hãy nhớ điều đó - rằng Phật tính không phải là theo bất kì con đường nào được hạn chế bởi Phật Thích Ca. Ngài chỉ là một ví dụ về Phật tính là gì.

Bạn thấy một bông hồng. Nó không phải là bông hồng, nó chỉ là một trong các bông hồng. Hàng triệu bông đã tồn tại trước đó, hàng triệu bông đang tồn tại ngay bây giờ, hàng triệu bông sẽ tồn tại trong tương lai. Nó đơn giản là một đại diện. Bông hồng này đơn giản là một đại diện của tất cả các bông hồng đã từng, đang và sẽ có.

Vị Phật không được xác định bởi cá tính của Ngài. Ngài được xác định bởi trạng thái tối thượng của bản thể Ngài, cái vượt ra ngoài cá tính. Và khi vị Phật nói, Ngài không nói như một người. Ngài nói qua nhận biết tối thượng của mình. Người ta nói rằng Ngài nói là không đúng. Không có ai để nói, không có cái ngã trong ngài để nói. Và thực tế Ngài chẳng có gì để nói cả. Ngài đơn giản đáp ứng. Cũng như bạn đi và bắt đầu hát trong thung lũng, thung lũng đáp lại. Thung lũng đơn giản vọng lại bạn.

Khi bạn tới vị Phật, Ngài đơn giản soi gương bạn. Bất kì điều gì Ngài nói cũng chỉ là sự phản chiếu. Nó là câu trả lời cho bạn, nhưng Ngài chẳng có gì để nói về mình. Nếu vị Phật khác tới Ngài, họ cả hai sẽ vẫn còn tuyệt đối im lặng, hai tấm gương đối diện nhau... chẳng cái gì sẽ được phản chiếu. Các tấm gương sẽ phản chiếu lẫn nhau, nhưng không cái gì sẽ được phản chiếu. Hai tấm gương - hãy nghĩ về hai tấm gương đối diện nhau. Nếu Christ tới gặp Phật, hay Phật ở đâu đó trên các nẻo đường cuộc sống mà bắt gặp Lão Tử, họ sẽ tuyệt đối im lặng - sẽ không có tiếng vọng.

Cho nên khi Phật nói, hãy nhớ điều đó. Ngài không nói gì đặc biệt. Ngài đơn giản phản chiếu mọi người. Đó là lí do tại sao vị Phật không bao giờ có thể rất nhất quán. Triết gia có thể rất nhất quán. Ông ta có cái gì đó để nói. Ông ta nhớ điều đó, ông ta bám vào điều đó, ông ta chưa bao giờ nói cái gì đi ngược lại điều đó... Ông ta xoay xở. Vị Phật nhất định là mâu thuẫn bởi vì mỗi lần ai đó đối diện với Ngài, cái gì đó khác sẽ nảy sinh. Điều đó sẽ tuỳ thuộc vào người đối diện với Ngài.

Điều đó cũng giống như tấm gương. Nếu bạn tới trước tấm gương, nó là khuôn mặt của bạn. Ai đó khác tới, thế thì nó là khuôn mặt của người đó. Khuôn mặt sẽ cứ thay đổi. Bạn không thể nói với tấm gương, “Anh rất không nhất quán. Lúc thì anh hiện khuôn mặt đàn bà, lúc thì hiện khuôn mặt đàn ông, lúc thì khuôn mặt đẹp, lúc thì khuôn mặt xấu”. Tấm gương sẽ đơn giản giữ im lặng thôi. Nó có thể làm gì được? Nó đơn giản phản chiếu. Nó phản chiếu bất kì cái gì đang đó.

Cho nên lời Phật là rất mâu thuẫn. Jesus mâu thuẫn, Phật mâu thuẫn, Krishna mâu thuẫn, Lão Tử cực kì mâu thuẫn. Hegel không mâu thuẫn, Kant không mâu thuẫn, Russell không mâu thuẫn, Khổng Tử không mâu thuẫn, Manu không mâu thuẫn. Họ có giáo điều nào đó. Họ không phản chiếu bạn. Họ có cái gì đó để nói. Họ cứ nói. Họ không như tấm gương, họ giống như ảnh chụp. Nó chẳng bận tâm bạn là ai; nó vẫn còn như vậy. Nó chết. Nó có định nghĩa và hình dạng rõ ràng.

Phật tính là nhận biết vô hình dạng. Hãy nhớ điều đó, bằng không nhiều lần bạn sẽ bắt gặp mâu thuẫn và bạn sẽ không có khả năng hình dung ra cái gì đang xảy ra.

Khi Phật chết, lập tức có nhiều tranh cãi, và các tín đồ chia thành nhiều giáo phái. Bởi vì ai đó đã nghe Phật nói điều này, và ai đó đã nghe điều gì đó tuyệt đối mâu thuẫn với nó. Cho nên không có khả năng nào. Làm sao một người có thể nói được tất cả những điều đó? Cho nên, ai đó phải nói dối... và mọi người bắt đầu phân chia ra. Họ phân chia ra thành nhiều trường phái. Phật bị cắt xén. Ai đó mang tay Ngài, ai đó mang đầu Ngài, ai đó mang chân Ngài - nhưng Ngài không còn là hiện tượng sống nữa.

Bây giờ, những triết lí này rất nhất quán... rất nhất quán, rất logic - nhưng chết. Vị Phật không phải là triết gia, Ngài không phải là người hệ thống hoá. Vị Phật không logic theo bất kì cách nào. Ngài đơn giản sống động, và Ngài phản chiếu mọi thứ đang đó.

Cho nên khi bạn tới một vị Phật, Ngài trả lời bạn. Ngài không có câu trả lời cố định để trao cho bạn, Ngài trả lời bạn. Ngài không có khuôn mặt công cộng. Mọi khuôn mặt của Ngài đều riêng tư và chúng phụ thuộc vào bạn. Nếu bạn mang khuôn mặt đẹp tới cho Ngài, bạn sẽ thấy khuôn mặt riêng của mình được phản chiếu. Và nếu bạn tới mà không có khuôn mặt nào... thuần khiết, tựa tấm gương... chẳng cái gì sẽ được phản chiếu. Thế thì Phật biến mất, Ngài chẳng có gì để nói cả.

Những người đã sống cùng Phật, họ biết. Khi họ có tâm trí riêng của mình, những tâm trí đó được phản chiếu trong Ngài. Khi tâm trí họ bị loại bỏ, họ thực sự trở thành thiền nhân, và khi họ nhìn vào Phật chẳng có ai cả... chỉ cái trống rỗng, thung lũng, im lặng thuần khiết, hồn nhiên nguyên thuỷ - nhưng không có ai ở đó cả.

Những lời này được thu thập lại, được biên soạn, bởi trường phái nào đó. Chúng rất nhất quán. Nhiều lời đã bị loại bỏ, những lời dường như mâu thuẫn. Nhiều lời đã không được đưa vào, những lời mơ hồ. Những lời này đã được thu thập lại bởi một trường phái đặc biệt. Về sau tôi sẽ thảo luận về các nguồn khác, và nhiều lần bạn sẽ bắt gặp những mâu thuẫn. Hãy nhớ điều đó.

Và những người ở gần tôi, họ phải hiểu điều này, tuyệt đối rõ ràng, bởi vì tôi sẽ tự mâu thuẫn mọi ngày. Điều đó tuỳ thuộc vào bầu khí hậu. Điều đó còn tuỳ... Nếu thời tiết nhiều mây, tôi nhiều mây. Nếu mặt trời chiếu sáng và trong trẻo, tôi là cách đó.

Bạn không chỉ tới tôi với những câu hỏi, bạn còn tới với những câu trả lời. Có thể câu trả lời còn chưa được biết tới với bạn, có thể câu trả lời còn bị giấu kín trong vô thức của bạn, ẩn núp đâu đó trong bóng tối của linh hồn bạn. Câu hỏi là ý thức, câu trả lời là vô ý thức. Chức năng của tôi là làm cho câu trả lời của bạn thành hiển nhiên rõ ràng cho bạn, đem nó ra ánh sáng. Tôi nhất định phải mâu thuẫn.

Tôi không phải là người công cộng. Tôi không quan tâm tới đám đông. Tôi chỉ quan tâm tới các đệ tử và người say mê. Điều đó nghĩa là tôi chỉ quan tâm tới mối quan hệ thân thiết. Tôi quan tâm tới bạn, và bất kì cái gì tôi nói với bạn đều được nói cho bạn và không liên quan tới người khác. Khi tôi nói một cách cá nhân, thế thì tôi đang nói với một người đặc biệt. Với người khác điều đó có thể không liên quan. Cho dù là cùng người đó, điều đó không liên quan vào ngày mai, bởi vì người đó sẽ thay đổi.

Cuộc sống liên tục thay đổi. Và tôi chỉ nhất quán với cuộc sống chứ không cái gì khác. Cho nên tôi nhất định mâu thuẫn. Cho nên nếu đôi khi bạn bắt gặp mâu thuẫn, đừng vội vã, và đừng cố gắng hình dung ra bằng cách nào đó, và đừng cố gắng sửa lại chúng. Cứ để chúng như chúng vậy.

Một người như Phật phải mâu thuẫn. Ngài phải chứa tất cả mọi mâu thuẫn bởi vì Ngài chứa tất cả các khả năng của nhân loại. Ngài chứa tất cả mọi câu hỏi có thể có và mọi câu trả lời có thể có. Ngài chứa tất cả bề mặt có thể có và tất cả các pha có thể có. Ngài chứa toàn thể quá khứ của nhân loại, hiện tại và tương lai.

Đó là nghĩa khi Phật nói, “Khi ông đã tới nhà, kho bản thể bên trong nhất của ông chói sáng, tất cả sẽ được biết - tất mọi điều quá khứ, hiện tại và tương lai. Không cái gì còn lại không được biết. Trong việc biết đó mọi thứ đều được hiển lộ”. Nhưng mọi thứ... và các thứ đều không nhất quán.

Đó là cái đẹp của thế giới - rằng mọi sự đều không nhất quán. Mọi thứ đều có phẩm chất khác nhau, cá tính khác nhau. Mọi thứ đều là sự hiện hữu theo cách riêng của chúng, và Phật đơn giản phản chiếu... sự phản chiếu, tấm gương.

Những lời này bao giờ cũng bắt đầu bởi Phật nói. Hãy nhớ điều đó. Khi điều đó được Phật nói, điều đó đơn giản nghĩa là Ngài chẳng có gì để nói cả. Ngài phản xạ, Ngài phản xạ lại bạn. Ngài đơn giản biểu lộ cho bạn, bạn là ai. Ngài hiển lộ bạn cho bản thân bạn. Ngài đem bạn về trung tâm riêng của bạn.

(Theo “Phật và chứng ngộ” của Osho)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên đó là khai ngộ cho chúng sinh giải ngộ phật tính. Đại sự này đồng thời cũng phải hiểu rằng Phật tính phải được chỉ thẳng và nhận thẳng, phải được truyền thừa, phải có Thầy truyền pháp. Không phải cứ giải ngộ rồi được vào cửa Phật đâu.

Do ngày nay, Phật tính được nói toạc ra khiến nhiều khi người giải ngộ không còn tôn Phật, không còn biết ơn Phật. Họ có thể nói pháp thao thao song đó cũng chỉ là đếm của báu cho người để nhiều người khác xem. Vì thế chớ có nên tôn một người nào đó kiểu một vị Phật. Chỉ như thế thì mới có thể nói lời chân thật, và phân biệt được đâu là chân sư đâu không phải chân sư.

Phật tính hay Thiên tính là một trong những thuộc tính phổ quát của muôn vật từ bé đến lớn, trong số đó có mọi sinh vật và đặc biệt là con người. Ở đây là một bài thuyết giảng của Đạo Sư Osho - một vị Phật - về Phật tính hay vị Phật là gì? Dĩ nhiên, để hiểu được vấn đề này không phải đơn giản!

Gọi một người là một vị Phật ư ! Phải xem vị đó có tôn Phật hay không ! Một vị Phật thì phải được mười phương các Đức Phật tán thán và tán thán mười phương các Đức Phật.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Như Lai là gì?

Câu hỏi thứ hai: Như Lai (Tathagata) là gì?

Một trong các cái tên của Phật là Như Lai (Tathagata). Chúng ta có nhiều tên cho Phật, chỉ để biểu thị các phẩm chất khác nhau của phật tính. Một trong các tên được dùng nhiều nhất là Như Lai; bản thân Phật đã dùng nó. Ông ấy hiếm khi dùng từ tôi, ông ấy dùng Như Lai. Ông ấy sẽ nói, "Như Lai cư ngụ trong vườn nào đó, và thế rồi điều này xảy ra." "Như Lai đang trên đường, đi vào thành phố nào đó, thế rồi điều này xảy ra." Ông ấy sẽ dùng từ 'Như Lai' thường xuyên hơn là ông ấy dùng từ tôi.

Câu hỏi là: Như Lai (Tathagata) là gì?

Về từ ngữ nó có nghĩa là 'người tới như gió và đi như gió', 'thoắt tới, thoắt đi'. Đó là nghĩa từ nguyên của từ Như Lai: chỉ là làn gió thoảng chợt đến. Nó đã không có đó một khoảnh khắc trước và thế rồi nó có đó, và thế rồi khoảnh khắc tiếp nó mất rồi. Và nó không để lại dấu vết nào đằng sau. Bạn không thể thấy được làn gió, bạn chỉ có thể cảm nó. Bạn không thể thấy được phật, bạn chỉ có thể cảm thấy ông ấy. Do đó những người tới nhìn phật sẽ đi với tay trống rỗng, bởi vì bất kì cái gì họ sẽ thấy đều không là phật.

Thấy thân thể tôi không phải là thấy phật. Thân thể chỉ là ngôi nhà nơi phật cư ngụ. Thấy nhà không phải là thấy người đang ngụ bên trong nó. Bạn không thể thấy được người đang cư ngụ trong ngôi nhà, bạn chỉ có thể cảm thấy người đó. Do đó những người tới với tâm trí suy nghĩ đều bỏ lỡ. Những người tới với trái tim cảm nhận lập tức cảm động, xúc động, được biến đổi.

Nó giống như gió: bạn không thể thấy được nó nhưng bạn có thể cảm được nó. Bạn có thể cảm cái chạm của nó, cái mát mẻ của nó. Nó làm tươi mát thế, nó làm sảng khoái thế, nó làm cho bạn sống động thế!

Ở trong phật trường là ở trong trường nơi gió này thổi thường xuyên. Nó có thể được thấy chỉ bởi các đệ tử. Với 'thấy' tôi ngụ ý nó có thể được cảm chỉ bởi đệ tử. Đó là cách nó phải được thấy. Và nó có thể được thở vào và thở ra bởi những người sùng kính. Đệ tử cảm thấy nó chạm vào thân thể mình, chơi với tóc mình, lay động quần áo mình. Người đó cảm thấy nó, người đó suy diễn rằng nó có đó. Nhưng người sùng kính thở trong nó; nó luân chuyển trong bản thể người đó, nó trở thành một phần của bản thể người đó.

Học trò tới để nhìn, đệ tử tới để cảm, người sùng kính tới để hiện hữu.

Bồ đề đạt ma nói:

Người biết rằng mình không tới từ đâu cả và không đi từ đâu.

Gió này tới từ đâu và nó đi đâu? Nó không có điểm đích... nó không có động cơ. Nó không đi bất kì đâu và không tới từ bất kì đâu; nó bao giờ cũng ở đây.

Swami Ramateertha thường kể một chuyện ngụ ngôn:

Có một người vô thần lớn. Trong phòng khách của mình ông ấy đã viết lên dòng chữ lớn: God is nowhere - Thượng đế không có ở đâu cả.

Một hôm đứa con nhỏ của ông ấy đang chơi đùa khi ông ấy đang đọc báo. Cậu bé đang học đọc, cho nên nó thử đọc câu viết trên tường: God is nowhere - Thượng đế không ở đâu cả. Nhưng 'nowhere' là từ lớn, cho nên nó chia từ này ra làm đôi. Nó đọc, "God is now here - Thượng đế là bây giờ ở đây."

Ông bố choáng - ông ấy chưa bao giờ đọc câu này theo cách đó. Toàn thể động thái đã đổi: "God is nowhere - Thượng đế không có ở đâu cả," và đứa con đã đọc là, "God is now here - Thượng đế là bây giờ ở đây." Có khác biệt lớn giữa 'không đâu cả' và 'bây giờ ở đây'! Lần đầu tiên ông ấy đọc câu đó với cái nhìn của đứa trẻ, với sự hồn nhiên của đứa trẻ.

Chuyện kể rằng kể từ ngày đó ông ấy không thể đọc được câu cũ theo cách cũ nữa: "God is nowhere - Thượng đế không có ở đâu cả." Bất kì khi nào ông ấy nhìn ông ấy đều phải đọc, "Thượng đế là bây giờ ở đây." Nó trở thành cái gì đó cố định - tác động của đứa trẻ đến mức đó.

Vị phật bao giờ cũng ở đây. Bạn bao giờ cũng ở đây. Bạn không tới từ bất kì chỗ nào và bạn không đi chỗ nào đó khác. Toàn thể vũ trụ này chứa bạn; chúng ta là một phần của nó.

Bồ đề đạt ma nói:

Như Lai là người biết rằng mình không tới từ đâu cả và không đi từ đâu.

Đọc 'nowhere-không đâu cả' là 'now here - ở đây bây giờ'. Như Lai là người bây giờ ở đây và biết rằng ông ấy bao giờ cũng bây giờ ở đây. Ông ấy đã không tới và ông ấy không đi.

Ramana Maharshi sắp chết, và một đệ tử hỏi, "Bhagwan, thầy sẽ đi đâu?"

Ông ấy mở mắt ra và cười. Đó là không phải là lúc cười chút nào. Ông ấy sắp chết, cái chết của ông ấy là tuyệt đối chắc chắn - ông ấy chết vì ung thư - đau đớn lắm. Dầu vậy ông ấy vẫn cười và ông ấy nói, "Ông ngu thì có! Cả đời mình ta đã từng nói với ông rằng không có đâu mà đi cả, chúng ta bao giờ cũng ở đây. Cho nên ta có thể đi đâu được? Ta sẽ ở đây thôi! Thân thể sẽ mất đi, cát bụi trở về với cát bụi, nhưng ta có thể đi đâu được? Ta sẽ là một phần của vũ trụ này như ta đang là một phần của nó bây giờ. Bây giờ thân thể cho ông ý tưởng rằng ta tách rời - đó là ý tưởng của ông, không phải của ta. Với ta, thân thể của ta không tách rời khỏi sự tồn tại mà bắc cầu với ta."

Bạn có thấy khác biệt giữa người dốt nát và người trí huệ không? Cùng thân thể đó với người dốt nát là bức tường phân tách bạn với sự tồn tại. Cùng thân thể đó với người trí huệ, với người chứng ngộ, là chiếc cầu; nó nối bạn với sự tồn tại.

Quan sát thân thể bạn và bạn sẽ nhận biết về nó. Thân thể bạn liên tục thở không khí vào và ra - không chỉ qua mũi mà còn qua mọi lỗ chân lông của thân thể bạn đang thở vào và ra. Các nhà khoa học nói rằng nếu mọi lỗ chân lông của thân thể bạn bị bít lại, nếu thân thể bạn bị sơn dầy và mọi lỗ chân lông bị bít lại và chất đầy với sơn nhưng mũi được để cho vẫn thở, bạn sẽ chết trong vòng ba giờ, vì chỉ mũi là không đủ. Mọi phần của thân thể bạn đều cần việc thở riêng của nó.

Bạn liên tục trong trao đổi với sự tồn tại. Nếu mặt trời không mọc ngày mai, tất cả chúng ta sẽ chết. Chúng ta sẽ không có khả năng sống chút nào, thậm chí không sống được vài phút, vì không có mặt trời toàn thể hơi ấm sẽ biến mất. Và không có hơi ấm, cuộc sống là không thể có được. Chúng ta sẽ trở nên lạnh, đông cứng tới mức cái chết nhất định xảy ra. Chúng ta liên tục trong trao đổi với sự tồn tại. Chúng ta không tách rời, chúng ta là một.

Và nếu điều này là như vậy với thân thể, với tâm thức bên trong thì sao? Tâm thức bên trong đó không bị phân chia chút nào. Sân trong của bạn được bao quanh bởi một bức tường, nhưng sân trong của bạn vẫn thuộc về bầu trời, là một phần của bầu trời.

Cũng giống điều đó, người biết rằng mình không tới từ đâu cả và không đi từ đâu, người đó là Như Lai. Người đó bao giờ cũng giống như làn gió mát thoảng qua. Những người có thể hiểu được điều này, họ sẽ được làm tươi lại bởi làn gió thoảng này. Họ sẽ nhảy múa trong gió thoảng của vị phật, trong ánh mặt trời của ông ấy. Họ sẽ cười cùng vị phật, họ sẽ nhảy múa cùng vị phật.

Trở thành Thượng đế

Tôi cảm thấy tôi ở trong quên lãng: không trong thế giới này không trong thế giới kia, không là chó không là thượng đế. Làm sao bước ra khỏi nó?

Nếu bạn bước ra khỏi nó bạn sẽ trở thành chó. Nếu bạn bị mất hút, mất hút hoàn toàn - không ai còn lại người có thể bước ra khỏi nó - bạn sẽ trở thành thượng đế. Cho nên đừng hỏi tôi cách bước ra khỏi nó. Đây là bản ngã đang hỏi cách bước ra khỏi nó. Bạn ở trong quên lãng sao? Hay đấy, tốt đấy. Mất hút thêm chút nữa đi - trở thành việc quên lãng đi. Thêm mất hút chút nữa đi! Bạn mất hút một chút rồi: nửa con chó bị mất rồi.

Ở Ấn Độ chúng ta có chuyện ngụ ngôn hay về toàn thể con đường của nhân loại. Một trong những câu chuyện có nghĩa và biểu tượng nhất là về hoá thân của Thượng đế được biết tới là Narsinha - nửa người / nửa sư tử. Một trong các hoá thân của thượng đế của người Hindu là Narsinha - nửa người /nửa sư tử. Đây là trạng thái của quên lãng. Khi bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn là nửa chó/nửa thượng đế; khi bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn không là thượng đế không là chó, mọi thứ bị mất hút, các biên giới bị mờ đi; khi bạn cảm thấy bản thân bạn ở giữa cầu; đây là trạng thái của Narsinha: nửa người /nửa sư tử.

Nếu bạn cố gắng thoát ra khỏi nó, bạn sẽ là sư tử đầy đủ, bởi vì thế thì bạn sẽ bị cô đặc lại. Bạn sẽ rơi trở lại sau. Thoát ra khỏi nó nghĩa là rơi ra khỏi nó, rơi trở lại sau. Điều đó sẽ không phải là tiến bộ, trưởng thành. Không cần. Cứ ngày càng mất hút hơn đi. Tại sao bạn sợ quên lãng thế? Bởi vì bạn cảm thấy mất hút chút ít, danh tính không còn rõ ràng; bạn không thể thấy được hình ảnh riêng của bạn một cách hoàn hảo, các biên giới mờ đi; mặt bạn không còn cố định. Cuộc sống của bạn đã trở thành linh động hơn. Nó không còn giống như đá nữa. Nó giống nước nhiều hơn, không có hình dạng nào, vô dạng. Bạn sợ.

Người sợ bên trong bạn là chó, bởi vì nếu bạn đi thêm vài bước nữa thì chó sẽ mất hút hoàn toàn.

Đầu tiên, khi người ta bắt đầu vào cuộc hành trình, người ta giống như nước đông cứng, băng, lạnh, tựa đá. Khi người ta di chuyển, đông cứng tan ra, băng trở thành nước. Đây là trạng thái của quên lãng, trạng thái của Narsinha, nửa đường. Nếu bạn đi xa thêm lên trước bạn sẽ bay hơi. Không chỉ có việc bạn sẽ là nước lỏng, bạn sẽ trở nên bay hơi. Bạn sẽ không còn được thấy nữa; bạn sẽ đơn giản biến mất. Nếu bạn trở nên sợ việc biến mất, bạn sẽ rơi trở lại. Bạn sẽ cố gắng để được đông cứng lại để cho bạn có thể có hình, có dạng, có tên - namarupa: tên và dạng. Người Hindus đã gọi thế giới này là thế giới của namarupa, tên và dạng. Thế thì bạn sẽ có căn cước; bạn sẽ biết bạn là ai.

Chỉ chó mới biết nó là ai - mọi thứ được lắng đọng, thảnh thơi. Nếu bạn đi trên đường, mọi thứ là rối tinh - núi không còn là núi, sông không còn là sông. Lẫn lộn lớn nảy sinh, hỗn độn; nhưng nhớ lấy, chỉ từ hỗn độn, các vì sao nhảy múa được sinh ra. Nhớ lấy, chỉ từ hỗn độn Thượng đế mới được tìm ra. Thế thì, trạng thái thứ ba là: bay hơi, biến mất hoàn toàn không để lại dấu vết đằng sau. Thậm chí không một dấu chân để lại. Bạn không ở đâu cả. Bạn đã trở thành không đâu cả - và đây là trạng thái tôi gọi là trạng thái của Thượng đế.

Đó là lí do tại sao bạn không thể thấy được Thượng đế. Bạn cứ đi tìm và kiếm: bạn sẽ bị mất hút một ngày nào đó, và đó sẽ là cách Thượng đế được tìm thấy. Thượng đế sẽ không được tìm thấy đâu. Bạn sẽ không bắt gặp Thượng đế đứng ở đâu đó, bởi vì ai sẽ bắt gặp? Nếu bạn vẫn có đó để bắt gặp, Thượng đế là không thể có được. Khi bạn không còn đó ai sẽ bắt gặp? Bạn sẽ không bắt gặp Thượng đế như một đối thể đâu. Bạn sẽ bắt gặp ngài như cốt lõi bên trong nhất của bạn. Nhưng điều đó là có thể chỉ khi bạn chảy ra, bạn trở thành linh động như nước, thế rồi bạn bay hơi - bạn trở thành mây bay trên trời, không địa chỉ, không tên, không dạng, đám mây ẩn kín, ở đâu chẳng biết.

Đó là nỗi sợ: bởi vì nó là cái chết lớn lao. Nó là việc chết đi của toàn thể quá khứ. Mọi điều bạn đang vậy đều phải bị bỏ lại, bị đóng đinh. Chết đi trước cái chết, đó là cách duy nhất để trở thành thượng đế. Đừng sợ trạng thái của quên lãng; bằng không bạn có thể rơi trở lại sau. Bạn sẽ kết tinh lại lần nữa như băng. Bạn sẽ có namarupa, tên-dạng, căn cước, nhưng bạn đã bỏ lỡ.

Cái gì còn lại sau chứng ngộ

Thầy đã nói chứng ngộ là có tính cá nhân, nhưng tính cá nhân có còn lại sau chứng ngộ không?

Không. Tính cá nhân không còn lại sau chứng ngộ, nhưng chứng ngộ có tính cá nhân. Bạn sẽ phải hiểu điều đó. Sông rơi vào đại dương. Khi nó đã rơi vào, sông đã biến mất - không có tính cá nhân của sông còn lại, nhưng chỉ riêng một sông rơi vào trongđại dương. Bạn rơi vào trong đại dương của chứng ngộ như một cá nhân: bạn không thể đem vợ bạn đi cùng bạn được hay bạn của bạn đi cùng bạn - không có cách nào. Bạn đi một mình. Không ai có thể đem được bất kì ai.

Làm sao bạn có thể đem được bất kì ai? Khi bạn thiền bạn thiền một mình. Khoảnh khắc bạn nhắm mắt lại và bạn trở nên im lặng, mọi người đã biến mất - vợ, bạn, con. Cái gần nhất cũng không còn gần; cái gần nhất bây giờ là xa nhất. Trong im lặng sâu của bạn, bình thản bên trong, bạn tồn tại một mình. Một mình này sẽ rơi vào trong đại dương.

Cho nên, chứng ngộ có tính cá nhân. Tất nhiên sau chứng ngộ tính cá nhân biến mất; không có tính cá nhân. Cho nên nhớ điều này: bạn không thể đi theo đám đông được; bạn không thể đi như một tổ chức được; bạn không thể đi như một giáo phái. Bạn không thể nói, "Mọi người Ki tô giáo lại đây," hay "Mọi người Hindus lại đây. Tôi sắp chứng ngộ và tôi sẽ đem mọi người Hindus cùng tôi." Không ai có thể đem được bất kì ai khác. Nó tuyệt đối là một mình. Và đó là cái đẹp của nó, thuần khiết của nó. Trong tính một mình tuyệt đối của bạn, bạn rơi vào trong niết bàn đại dương. Mới khoảnh khắc trước, bạn còn là dòng sông; mới khoảnh khắc trước, bạn còn là một cá nhân - chính đỉnh của tính cá nhân, vị phật - và chỉ một khoảnh khắc sau đó chẳng cái gì tồn tại. Bạn không còn là sông nữa; bạn đã trở thành đại dương. Bây giờ bạn thậm chí không thể nói, "tôi đây." Đại dương hiện hữu; sông đã biến mất.

Bạn có thể nói điều đó theo hai cách: rằng sông đã biến mất - một cách, cách của Phật tử; hay bạn có thể nói sông đã trở thành đại dương - cách kia, cách của Vedanta. Nhưng cả hai là một. "Sông đã trở thành đại dương," hay, "Sông đã biến mất; chỉ đại dương hiện hữu," chỉ là các cách nói cho cùng một điều.

Trích từ "Yoga: Alpha và Omega - Tập 5"

Người chứng ngộ có tự đầy đủ không?

Câu hỏi

Người ta có thể sống và vận hành trong thế giới trong trạng thái của chứng ngộ hay vô trí không? Liệu người đã chứng ngộ có tự đầy đủ trong thế giới không?

Đáp

Trạng thái của chứng ngộ không phải là trạng thái của cá nhân. Không có người trong nó. Người chứng ngộ là chứng ngộ chỉ bởi vì người đó không có; không có ai để vận hành. Vận hành tiếp tục, nhưng không có ai làm nó. Vận hành tiếp tục, nhưng không có ai vận hành nó. Thế thì nó tiếp tục theo cách riêng của nó... cũng như các vì sao cứ di chuyển và mùa vụ , và mặt trời mọc, và mặt trăng tới, và thuỷ triều, và biển cả, và dòng sông.

Người chứng ngộ là một với cái toàn thể; cái toàn thể vận hành qua người đó. Vận hành của người đó là hoàn hảo bởi vì người đó không có đó để bóp méo nó. Người đó giống hệt cây trúc hổng - bất kì bài hát nào cái toàn thể chọn để hát qua người đó, nó đều được hát lên. Không có người nào cản trở, không có người nào gây chướng ngại.

Người chứng ngộ là cái trống rỗng chứng ngộ... Cái trống rỗng chói sáng. Người đó đã biến mất. Nếu bạn tin vào khái niệm thượng đế, nếu bạn dùng thuật ngữ đó, thế thì bạn có thể nói thượng đế vận hành qua người đó. Nếu bạn không thích thuật ngữ đó, thế thì bạn có thể nói cái toàn thể vận hành qua người đó. Nhưng người đó không vận hành ở đó.

Khi bạn vận hành bạn tạo ra lo âu. Tất cả việc vận hành theo một cách nào đó đều là một loại xung đột với cái toàn thể. Nó là cuộc đấu tranh; có động cơ, có ham muốn, có tham vọng. Khi bạn có đó, tất cả mọi ốm yếu có đó. Khi bạn có đó, chứng loạn thần kinh có đó - bản ngã là loạn thần kinh. Nó cố gắng áp đặt mục đích riêng của nó lên cái toàn thể - điều không thể được. Nó cố gắng làm điều không thể được làm, do đó mới nhận ngày càng nhiều thất vọng hơn, đi ngày một sâu hơn vào địa ngục và khốn khổ.

Người chứng ngộ đơn giản cho phép; bất kì điều gì xảy ra đều là việc xảy ra. Rất khó quan niệm điều đó bởi vì nó không phải của tâm trí. Rất khó hiểu điều đó bởi vì không có kinh nghiệm. Bạn có thể hiểu điều đó chỉ khi bạn đã tan biến, khi bạn đã trở thành cái đó.

Không có cách nào để hiểu vị phật trừ phi bạn trở thành vị phật - bởi vì đó là một chiều hướng hoàn toàn khác của sự tồn tại. Chúng ta chưa bao giờ nếm trải điều đó. Tâm trí đơn giản không thể nào quan niệm nổi, bởi vì tâm trí vận hành qua động cơ: phải có ham muốn, phải có mục đích, phải có người làm. Tâm trí nói nếu bạn không làm, làm sao điều đó sẽ xảy ra?

Nhưng hàng triệu điều đang xảy ra mà không có ai làm chúng cả. Ai đang làm cho các vì sao chuyển động? Việc vận hành của chúng chẳng tuyệt đối hoàn hảo đó sao? Cái gì lỡ? Cái gì thiếu? Ai đang xô những dòng sông này ra đại dương? Ai cứ điều khiển triều lên triều xuống? Ai cứ duy trì cái vô hạn này, cái mênh mông này? Chẳng có ai cả. Bởi vì không có ai cả, đó là lí do tại sao nó lại đẹp thế. Bởi vì không có ai cả, đó là lí do tại sao nó lại tuyệt đối hoàn hảo thế. Nếu ai đó có đó, thì có khả năng lỗi lầm. Nếu ai đó có đó, thì có khả năng sai lầm.

Không có ai cả - nó là từ cái trống rỗng.

Hạt mầm cứ nhú ra. Từng khoảnh khắc đều là phép màu, bởi vì từng khoảnh khắc sự tồn tại tới từ cái không. Từng khoảnh khắc hoa xuất hiện ra từ trời xanh. Không ai ép buộc nó, không ai kéo nó lên. Không có ai mở nụ; nó mở ra theo cách riêng của nó. Đây là điều Phật gọi là pháp, là luật, là luật tối thượng của cuộc sống.

Người chứng ngộ không còn trong xung đột với luật tối thượng; người đó đã buông xuôi. Người đó nổi, người đó chảy cùng dòng sông. Người đó gần như trở thành con sóng trong dòng sông, người đó không tồn tại một cách tách biệt.

Người ta có thể sống và vận hành trong thế giới trong trạng thái của chứng ngộ hay vô trí không? Có chứ, người ta có thể vận hành. Người ta đã vận hành. Phật sống bốn mươi hai năm sau khi ngài trở nên chứng ngộ. Mahavira sống bốn mươi năm sau khi ngài trở nên chứng ngộ. Họ vận hành hoàn toàn tốt. Và vậy mà, cái đẹp hiện hữu, sự vĩ đại hiện hữu, điều không có ai làm nó cả.

Nó là phép màu từ khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Nó là điều tuyệt đối không thể nào tin được, điều lạ thường là nó vận hành từ cái không, vận hành từ không mục đích, vận hành từ vô trí. Chỉ vận hành mà không có trung tâm, không có cái ngã.

Người chứng ngộ là tự nhiên, tự phát. Người đó không có giải thích tại sao người đó lại đang vận hành. Người đó sẽ nhún vai nếu bạn hỏi câu hỏi 'Tại sao?' Người đó không thể giải thích được điều đó, người đó nhiều nhất có thể nói, 'Nó là cách nó thế. Nó là cách nó đang xảy ra.' Người đó sẽ nói, 'Tôi không biết, bởi vì không có ai để biết điều đó.' Nó là một vận hành bí ẩn.

Tất nhiên việc vận hành sẽ là khác toàn bộ với việc vận hành của bạn. Từ vận hành của bạn, lo âu nảy sinh, căng thẳng. Từ vận hành của bạn, nỗi sợ nảy sinh. Nỗi sợ - bạn sẽ thành công hay không? Căng thẳng - bởi vì có cạnh tranh, xung đột; người khác cũng xô về cùng mục đích. Bạn sẽ có khả năng trở nên giầu không? Bạn sẽ có khả năng trở thành cái bạn muốn không? Điều đó dường như là dễ dàng.

Mulla Nasruddin một hôm nói với tôi, 'Khi tôi mười bốn tuổi tôi đã quyết định rằng tôi sẽ trở thành người giầu nhất trên thế giới, bằng bất kì giá nào.'

Thế là tôi hỏi anh ta, 'Thế rồi điều gì đã xảy ra? Anh chưa bao giờ trở thành người giầu nhất thế giới. Anh có thể là người nghèo nhất. Vậy thì điều gì đã xảy ra?'

Anh ta nói, 'Vào lúc tôi hai mươi mốt tuổi tôi nghĩ dễ thay đổi tâm trí mình hơn và trở thành người giầu nhất trên thế giới. Thay đổi tâm trí dễ dàng hơn.'

Mọi người đều muốn trở thành người giầu nhất thế giới. Mọi người đều muốn là người quyền lực nhất trên thế giới. Mọi người đều muốn là người mạnh nhất, đẹp nhất, thông minh nhất, nổi tiếng nhất trên thế giới. Tất nhiên nhiều lo âu đã được tạo ra. Trong lo âu đó bạn ở trong một loại ốm yếu liên tục, không thoải mái, bồn chồn, lên cơn sốt, trong đó bạn cứ liên tục run rẩy. Và mọi khoảnh khắc đều có thất vọng chờ đợi bạn.

Do đó mọi người nói, 'Con người đề nghị và thượng đế quyết định.' Thượng đế chưa bao giờ quyết định cái gì cả. Trong chính đề nghị của mình bạn đang quyết định thượng đế, do đó bạn lâm vào rắc rối. Bởi vì tự nhiên có cách riêng của nó, Đạo có cách riêng của nó; nó có định mệnh riêng của nó. Cứ dường như bộ phận đang cố gắng đi con đường riêng của nó, bỏ cái toàn thể đằng sau. Điều đó là không thể được - bộ phận phải đi cùng với cái toàn thể. Cái đuôi phải đi cùng với con voi. Nếu cái đuôi bắt đầu đi theo cách riêng của nó ngược với voi, tách rời khỏi voi, thế thì sẽ có rắc rối - cái đuôi sẽ phát điên. Và thực tế nó sẽ phải lôi theo con voi; không có cách khác.

Cho nên chỉ có hai kiểu người trên thế giới. Một kiểu, những người có mục đích riêng tư - họ cảm thấy họ đang bị kéo lê; họ cảm thấy con người đề nghị, thượng đế quyết định. Thế rồi có kiểu người khác trên thế giới - rất ít, hiếm hoi, xa xôi, xa xăm và ít ở giữa, rất ít - những người đã vứt bỏ tất cả những đề nghị của mình. Họ không kéo lê, họ nhảy múa. Họ nhảy múa, bởi vì bất kì điều gì thượng đế đề nghị họ đều chấp nhận. Và họ không có đề nghị riêng tư nào, họ không có ham muốn nào của riêng mình.

Đó là điều Jesus nói trên cây thánh giá, đó là thông điệp cuối cùng của ngài cho thế giới - 'Vương quốc của ngài tới, ý chí của ngài sẽ được thực hiện'. Chỉ một khoảnh khắc trước ngài còn ngần ngại chút ít, ngay khoảnh khắc trước ngài đã kêu lên và nói, 'Sao ngài đã từ bỏ con? Tại sao? Tại sao ngài lại cho con xem tất cả những điều này?'

Bạn không thể phàn nàn Jesus được - điều đó nữa cũng là tự nhiên và con người. Ngài mới chỉ ba mươi ba tuổi, ngài còn chưa già, ngài vẫn còn trẻ, ngài chưa thấy toàn thể cuộc sống, ngài còn chưa nếm trải, ngài còn chưa sống - và bỗng nhiên ngài thấy bản thân mình trên cây thánh giá, kì quặc, bị lăng mạ, bị bác bỏ bởi chính người của mình. Và điều đó là tự nhiên khi ngài kêu lên với thượng đế, 'Sao ngài lại từ bỏ con? Sao ngài lại cho con xem tất cả những điều này?' - mang tính con người, rất con người.

Nhưng lập tức ngài trở nên nhận biết về điều đó. Điều đó phải đã vô tình buột ra - việc kêu lên phản đối thượng đế - vào khoảnh khắc của vô nhận biết. Nỗi đau có thể đã quá nhiều, khốn khổ quá nhiều. Cái chết kề ngay bên cạnh; ngài đã bị sốc. Nhưng ngài đã lấy lại cân bằng. Ngài đã định đề nghị điều gì đó. Ngài đơn giản nói, 'Vương quốc của ngài tới, ý chí của ngài sẽ được thực hiện.' Ngài đã buông xuôi. Ngài chết như Christ.

Trong một khoảnh khắc ngài không còn là Jesus nữa, ngài đã là Christ. Trong một khoảnh khắc ngài không còn là con người nữa, ngài là siêu nhân. Lỗ hổng là rất nhỏ. Đó là lí do tại sao Phật nói, 'Bỏ lỡ nó chỉ một li thôi, hay một khoảnh khắc thôi, và các ông bị ném đi xa hàng triệu dặm.' Chỉ một li là khác biệt giữa hai câu này - không có mấy lỗ hổng, có thể chỉ một hơi thở. Nhưng ngài đã là người thường khi ngài kêu lên phản đối thượng đế - con người, yếu đuối. Ngay một khoảnh khắc sau đó ngài đã được hoà giải; đã không có vấn đề nào. Nếu đây là cách thượng đế muốn nó xảy ra, thế thì đây là cách nó phải xảy ra. Ngài đã chấp nhận.

Nụ cười phải đã tới cho khuôn mặt ngài, và không chỉ cho khuôn mặt ngài mà còn cho cả trái tim ngài nữa. Trong khoảnh khắc đó ngài phải đã mở rộng. Bây giờ không có gì để co lại, để vẫn còn khép kín. Ngay cả cái chết cũng được chấp nhận. Khi bạn chấp nhận cái chết, bạn đã chấp nhận thượng đế. Mọi người đều ham muốn cuộc sống. Khi bạn chấp nhận cuộc sống bạn không chấp nhận nhiều. Khi bạn chấp nhận cái chết bạn đã chấp nhận tất cả.

Người chứng ngộ là người đã không chỉ chấp nhận cái chết, người đã thực sự chết. Người đó không còn đó nữa, ngôi nhà tuyệt đối trống rỗng. Hay người đó là sự trống rỗng ấy. Sự trống rỗng ấy là chói sáng, đầy ánh sáng. Bây giờ người đó đi tay trong tay với thượng đế. Bây giờ bất kì chỗ nào thượng đế đưa người đó tới, bất kì mảnh đất nào - chưa lên bản đồ, chưa vẽ bản đồ - người đó vẫn đi, nhảy múa. Người đó không bị kéo lê.

Nếu bạn bị cuộc sống kéo lê đi, thế thì bạn phải tranh đấu với nó. Nếu bạn bị cuộc sống làm cho chán chường, thế thì bạn phải tranh đấu với nó. Nếu bạn bị cuộc sống làm cho thất vọng, bạn phải tranh đấu với nó. Đây là những chỉ báo rằng bạn không được hoà giải với cuộc sống, rằng bạn vẫn chưa trở nên đủ chín chắn để buông xuôi; bạn vẫn còn trẻ con, bạn đang trong cơn cáu kỉnh trẻ con.

Người thực sự chín chắn không có ý chí của riêng mình. Người đó nói, 'Ý chí của ngài sẽ được thực hiện.' Chỉ tâm trí chưa chín chắn mới cứ mang ý chí riêng của mình, và tất nhiên họ khổ sở. Ý chí đem tới khổ sở, ý chí là con đường tới địa ngục. Bạn đem vào đau khổ, bạn là con đường tới địa ngục. Bạn tạo ra đau khổ.

Tất nhiên, người chứng ngộ vận hành hoàn toàn khác. Bản thân người đó không biết mình đang đi đâu, và người đó không lo nghĩ về nó. Người đó không nghĩ về nó - nơi người đó đi. Người đó tin cậy: bất kì chỗ nào người đó đi, nó đều tốt. Sự tin cậy của người đó là toàn bộ và vô hạn.

Người đó tin cậy vào cuộc sống, người đó tin cậy vào bản thân mình. Người đó tin cậy vào cái toàn thể, bạn tin cậy vào bộ phận tí hon. Người đó tin cậy vào cái mênh mông, cái vô hạn, bạn tin cậy vào tâm trí con người tầm thường. Tin cậy của người đó làm cho người đó thành trí huệ, tin cậy của bạn làm cho bạn thành ngu xuẩn. Bạn hoài nghi cái toàn thể và bạn tin cậy vào bản thân mình. Người đó đã vứt bỏ bản thân mình và người đó tin cậy vào cái toàn thể. Người đó không bao giờ bị thất vọng, người đó không nuối tiếc. Người đó không bao giờ nhìn lại sau, bởi vì bất kì cái gì có, đều đã có - và bất kì cái gì có, đều tốt.

Và đó không chỉ là điều tâm trí. Người đó cảm thấy nó, toàn thể sự tồn tại của người đó được rạng ngời với 'có!' Người đó nói 'có' với cuộc sống, bạn cứ nói 'không'. Nói không tạo ra bản ngã, nói có vứt bỏ bản ngã, giúp cho bản ngã được vứt bỏ và biến mất.

Người chứng ngộ là 'có' tuyệt đối, vô điều kiện. Rất khó hiểu điều đó trừ phi bạn đã nếm trải cái gì đó của nó. Đó là cách duy nhất để biết về nó.

Liệu người chứng ngộ có tự đầy đủ trong thế giới không? Đó là lí do tại sao tôi nói bạn có thể hiểu nó chỉ nếu bạn đã biết nó, nếu bạn đã trở thành nó. Bằng không bạn sẽ cứ hỏi những câu hỏi chẳng liên quan. Chẳng hạn: Liệu người chứng ngộ có tự đầy đủ trong thế giới không?

Người đó không có cái ngã, cho nên làm sao người đó có thể là tự đầy đủ được? Người đó không có cái ngã, cho nên làm sao người đó có thể là tự đầy đủ theo bất kì cách nào được? Tôi không nói rằng người đó không hài lòng. Tôi không nói rằng người đó không được thoả mãn, và tôi không nói rằng người đó không đầy đủ. Tôi đơn giản nói rằng người đó không thể tự đầy đủ được bởi vì người đó không có cái ngã.

Người chứng ngộ đi tới biết rằng độc lập là không thể được, phụ thuộc cũng không thể được. Thực tại thì không phụ thuộc không độc lập; thực tại là liên thuộc. Chúng ta cùng tồn tại với nhau. Và khi tôi nói 'chúng ta', cây cối cũng được bao hàm, núi non cũng được bao hàm, bầu trời cũng được bao hàm. Khi tôi nói 'chúng ta', mọi thứ đều được bao hàm, không cái gì bị loại trừ. Chúng ta cùng tồn tại với nhau. Chúng ta cùng hiện hữu với nhau. Chính hiện hữu của chúng ta là sự cùng nhau. Không ai là tự đầy đủ.

Đó là điều thông thường chúng ta cố gắng để trở thành - tự đầy đủ. Đó là toàn thể cuộc tranh đấu của chúng ta - để cho chúng ta không còn phụ thuộc vào bất kì ai. Những thử nghĩ mà xem: liệu có thể tự đầy đủ được không? Và nếu điều đó là có thể cho con người trở thành tự đầy đủ, người đó có còn sống động không? Người đó sẽ chết. Chỉ khi bạn trong nấm mồ thì bạn mới tự đầy đủ. Bằng không bạn sẽ phải thở chứ - và bạn không thể là tự đầy đủ về điều đó được. Bạn sẽ phải lấy hơi thở, sinh lực, prana. Bạn sẽ phải đợi để mặt trời làm bạn ấm. Bạn sẽ phải ăn quả của cây để cho nước quả trở thành máu bạn. Bạn sẽ cần cả tỉ thứ. Làm sao bạn có thể là tự đầy đủ được? Chính ý tưởng này là ngu xuẩn.

Nhưng có những người, cái gọi là thánh nhân - người cứ dạy bạn 'trở nên tự đầy đủ'. Đó là việc đề cao lòng tự trọng. Tự đầy đủ không thể có được trong bản chất của mọi vật bởi vì cái ngã là giả. Cái ngã chỉ là một ý tưởng, nó không có thực tại nào, cho nên làm sao bạn có thể tạo ra sự đầy đủ quanh một ý tưởng giả tạo? Cái ngã trong bản thân nó là mang tính không tồn tại, cho nên làm sao bạn có thể tạo ra sự đầy đủ xung quanh cái gì đó không tồn tại?

Người chứng ngộ là người nhìn vào cuộc sống và đi tới biết rằng 'Mình không có, chỉ thượng đế có, chân lí có. Chân lí là tự đầy đủ, cái toàn thể là tự đầy đủ. Làm sao mình có thể là tự đầy đủ được?' Chúng ta được nối với mọi thứ khác, và việc nối này thực sự phức tạp. Tôi không chỉ được nối với bạn, bạn không chỉ được nối với những cây này, bạn không chỉ được nối với mặt trời hôm nay - bạn được nối với tất cả mọi người đã từng sống trên trái đất. Nếu cha mẹ bạn mà không có đó thì bạn đã không có ở đây rồi. Nếu ông bà bạn mà không có đó thì bạn đã không có ở đây rồi. Hãy đi ngược lại, đi lùi lại - nếu Adam và Eve mà không có đó thì bạn đã không có ở đây rồi.

Cho nên không chỉ chúng ta được nối với sự tồn tại đương đại, chúng ta được nối với toàn thể quá khứ - không chỉ với nhân loại, mà với toàn thể vũ trụ. Điều này là dễ hiểu - rằng chúng ta được nối với toàn thể quá khứ - bằng không thì làm sao chúng ta có thể hiện hữu được? Chúng ta là một phần của cuộc diễu hành, một phần của dòng sông, dòng sông đang tiếp diễn. Bạn cũng được nối với tương lai. Có chút ít khó khăn hơn bởi vì chúng ta nghĩ rằng có thể điều đó là đúng - chúng ta được nối với quá khứ - nhưng làm sao chúng ta lại được nối với tương lai?

Dòng sông có đôi bờ. Nó không thể chảy chỉ với một bờ, bằng không nó sẽ chẳng bao giờ đạt tới đại dương. Bờ bên kia có thể bị ẩn kín trong sương mù dày đặc, bạn có thể không có khả năng thấy nó, nó có thể ở rất xa xăm. Bạn không thể thấy được nó - nó ở bên ngoài đường chân trời - nhưng dầu vậy bạn vẫn có thể nghĩ rằng nó phải có đó. Quá khứ là bờ này của dòng sông thời gian, tương lai là bờ kia. Không có tương lai, quá khứ không thể tồn tại được; và không có quá khứ và tương lai thì hiện tại không thể tồn tại được. Hiện tại là dòng sông, quá khứ là bờ này, tương lai là bờ kia.

Chúng ta không chỉ được nối với quá khứ, chúng ta đang được nối với tương lai nữa. Bạn không chỉ được nối với cha mẹ mình, bạn được nối với con cái mình nữa - con cái còn chưa được sinh ra. Bạn không chỉ là một với quá khứ đã từng ở đây, mà cả với tương lai sẽ diễn ra ở đây. Bạn được nối với hôm qua và ngày mai - bằng không thì hôm nay không thể tồn tại được. Nó phải tồn tại giữa hôm qua và ngày mai - những hôm qua và những ngày mai. Hôm nay chỉ là bước chuyển ở giữa.

Nếu bạn nhìn theo cách đó, thế thì trong không gian chúng ta được nối với mọi thứ. Nếu mặt trời chết hôm nay chúng ta tất cả đều sẽ chết. Nó ở xa thế; ánh sáng mất mười phút để tới chúng ta. Mười phút chẳng có vẻ gì là thời gian lớn cả, nhưng để ánh sáng đi ngần đó thời gian thì thực sự là lớn, bởi vì ánh sáng đi nhanh thế - ba trăm nghìn ki lô mét một giây.

Mặt trời ở xa mười phút. Nhưng nếu nó chết, bỗng nhiên bạn sẽ thấy những cái cây này chết, bỗng nhiên bạn sẽ thấy bản thân mình co lại và chết. Bỗng nhiên bạn sẽ thấy toàn thể cái đẹp biến mất khỏi trái đất, bởi vì toàn thể hơi ấm biến mất khỏi trái đất. Hơi ấm là cuộc sống. Chính sự đập rộn ràng của trái tim là được nối với mặt trời đấy. Nhưng các nhà khoa học nói bản thân mặt trời lại được nối với nguồn ánh sáng nào đó, vẫn còn chưa được phát hiện ra. Ở đâu đó tại chính trung tâm của toàn thể sự tồn tại phải có một nguồn mà mặt trời được nối vào.

Mọi thứ đều được nối. Bạn đã từng quan sát mạng nhện chưa? Chạm vào nó ở bất kì đâu và cả cái mạng rung lên. Đích xác theo cách đó là cuộc sống. Chạm vào nó ở bất kì đâu... chạm vào cái một nhành cỏ và bạn đã chạm vào tất cả các vì sao, bởi vì mọi thứ được liên nối thế. Không có biên giới - chúng ta không là những hòn đảo, chúng ta là lục địa. Không cái gì định nghĩa bạn cả. Tất cả mọi định nghĩa đều nhân tạo. Tất cả mọi định nghĩa đều giống như hàng rào quanh nhà bạn - nó không phân chia trái đất. Tất cả các biên giới đều giống như trên bản đồ - nó không phân chia trái đất, nó không phân chia đại dương, nó không phân chia bầu trời. Nó chỉ là trên bản đồ.

Người chứng ngộ là người đã vứt bỏ mọi lằn ranh; không là người Ki tô giáo, không là người Hindu, không là người Mô ha mét giáo, không là Phật tử, không là người cộng sản, không là người phát xít, không là đàn ông, không là đàn bà, không là thanh niên, không là người già - người đã vứt bỏ tất cả mọi đường ranh giới, người sống không có định nghĩa. Sống không định nghĩa là sống một cách vô hạn, bởi vì mọi định nghĩa đều là điều hữu hạn. Định nghĩa tức là làm thành hữu hạn.

Người chứng ngộ là người không định nghĩa được, vô hạn. Người đó không có ranh giới.

Ai đó hỏi Bokuju, một Thiền sư, 'Thưa thầy, thầy nói mọi thứ đều là một. Thế thì con chó cũng là vị phật sao?' Đó là cách thức hỏi của Thiền, 'Chó cũng là thượng đế được không?' Bokuju không trả lời bằng miệng; ông ấy nhảy trên bốn chi và bắt đầu sủa. Ông ấy đã là vị phật, một người chứng ngộ. Ông ấy đơn giản chỉ ra rằng, 'Có chứ. Trông đây - đây là con chó sủa, và đây cũng là vị phật.' Chó không là gì ngoài thượng đế đảo ngược. Cứ đọc ngược nó lại mà xem (dog - god); đó là sự khác biệt duy nhất.

Mọi thứ đều thiêng liêng và mọi thứ đều là một.

Người chứng ngộ không là tự đầy đủ. Người đó là đầy đủ, chắc chắn - nhưng không tự đầy đủ. Đầy đủ bởi vì không có vấn đề với người đó - cái toàn thể có sẵn cho người đó. Cái toàn thể cứ cung cấp cho người đó cho dù không được hỏi. Cái toàn thể chăm nom. Người đó đã tan biến vào trong cái toàn thể; bây giờ cái toàn thể chịu trách nhiệm. Cái toàn thể chăm nom người đó. Người đó được bảo vệ bởi cái toàn thể, người đó được che chở bởi cái toàn thể. Người đó ở nhà trong cái toàn thể. Bất kì cái gì xảy ra cũng đều được đón chào, bởi vì nó đang xảy ra qua cái toàn thể. Làm sao nó có thể sai được? 'Ý chí của ngài sẽ được thực hiện, vương quốc của ngài tới.' Người đó chỉ là con số không.

Cho nên tôi không thể nói người đó là tự đầy đủ được. Người đó là cực kì đầy đủ, nhưng không tự đầy đủ. Sự đầy đủ của người đó không tới từ cái ngã của người đó, sự đầy đủ của người đó tới bởi vì người đó đã vứt bỏ cái ngã của mình. Người đó là đầy đủ bởi vì người đó là cùng với cái toàn thể - bây giờ làm sao người đó có thể thiếu được cái gì? Không thể nào thiếu được cái gì cả. Mặt trời cùng với người đó, mặt trăng cùng với người đó, cây cối, dòng sông, đại dương - người đó không còn nghèo nàn nữa.

Người chứng ngộ là người giầu nhất có thể có, nhưng cái giầu của người đó tới từ việc buông xuôi, không từ tranh đấu. Người đó không tranh đấu... người đó không có xung đột gì với cái toàn thể. Người đó đã rơi vào trong hài hoà, người đó là sự hài hoà.

_________________

Herenow-Consciousness-Alert

Share this post


Link to post
Share on other sites

Như Lai là gì?

Câu hỏi thứ hai: Như Lai (Tathagata) là gì?

Một trong các cái tên của Phật là Như Lai (Tathagata). Chúng ta có nhiều tên cho Phật, chỉ để biểu thị các phẩm chất khác nhau của phật tính. Một trong các tên được dùng nhiều nhất là Như Lai; bản thân Phật đã dùng nó. Ông ấy hiếm khi dùng từ tôi, ông ấy dùng Như Lai. Ông ấy sẽ nói, "Như Lai cư ngụ trong vườn nào đó, và thế rồi điều này xảy ra." "Như Lai đang trên đường, đi vào thành phố nào đó, thế rồi điều này xảy ra." Ông ấy sẽ dùng từ 'Như Lai' thường xuyên hơn là ông ấy dùng từ tôi.

Câu hỏi là: Như Lai (Tathagata) là gì?

Về từ ngữ nó có nghĩa là 'người tới như gió và đi như gió', 'thoắt tới, thoắt đi'. Đó là nghĩa từ nguyên của từ Như Lai: chỉ là làn gió thoảng chợt đến. Nó đã không có đó một khoảnh khắc trước và thế rồi nó có đó, và thế rồi khoảnh khắc tiếp nó mất rồi. Và nó không để lại dấu vết nào đằng sau. Bạn không thể thấy được làn gió, bạn chỉ có thể cảm nó. Bạn không thể thấy được phật, bạn chỉ có thể cảm thấy ông ấy. Do đó những người tới nhìn phật sẽ đi với tay trống rỗng, bởi vì bất kì cái gì họ sẽ thấy đều không là phật.

Thấy thân thể tôi không phải là thấy phật. Thân thể chỉ là ngôi nhà nơi phật cư ngụ. Thấy nhà không phải là thấy người đang ngụ bên trong nó. Bạn không thể thấy được người đang cư ngụ trong ngôi nhà, bạn chỉ có thể cảm thấy người đó. Do đó những người tới với tâm trí suy nghĩ đều bỏ lỡ. Những người tới với trái tim cảm nhận lập tức cảm động, xúc động, được biến đổi.

Nó giống như gió: bạn không thể thấy được nó nhưng bạn có thể cảm được nó. Bạn có thể cảm cái chạm của nó, cái mát mẻ của nó. Nó làm tươi mát thế, nó làm sảng khoái thế, nó làm cho bạn sống động thế!

Ở trong phật trường là ở trong trường nơi gió này thổi thường xuyên. Nó có thể được thấy chỉ bởi các đệ tử. Với 'thấy' tôi ngụ ý nó có thể được cảm chỉ bởi đệ tử. Đó là cách nó phải được thấy. Và nó có thể được thở vào và thở ra bởi những người sùng kính. Đệ tử cảm thấy nó chạm vào thân thể mình, chơi với tóc mình, lay động quần áo mình. Người đó cảm thấy nó, người đó suy diễn rằng nó có đó. Nhưng người sùng kính thở trong nó; nó luân chuyển trong bản thể người đó, nó trở thành một phần của bản thể người đó.

Học trò tới để nhìn, đệ tử tới để cảm, người sùng kính tới để hiện hữu.

Bồ đề đạt ma nói:

Người biết rằng mình không tới từ đâu cả và không đi từ đâu.

Gió này tới từ đâu và nó đi đâu? Nó không có điểm đích... nó không có động cơ. Nó không đi bất kì đâu và không tới từ bất kì đâu; nó bao giờ cũng ở đây.

Swami Ramateertha thường kể một chuyện ngụ ngôn:

Có một người vô thần lớn. Trong phòng khách của mình ông ấy đã viết lên dòng chữ lớn: God is nowhere - Thượng đế không có ở đâu cả.

Một hôm đứa con nhỏ của ông ấy đang chơi đùa khi ông ấy đang đọc báo. Cậu bé đang học đọc, cho nên nó thử đọc câu viết trên tường: God is nowhere - Thượng đế không ở đâu cả. Nhưng 'nowhere' là từ lớn, cho nên nó chia từ này ra làm đôi. Nó đọc, "God is now here - Thượng đế là bây giờ ở đây."

Ông bố choáng - ông ấy chưa bao giờ đọc câu này theo cách đó. Toàn thể động thái đã đổi: "God is nowhere - Thượng đế không có ở đâu cả," và đứa con đã đọc là, "God is now here - Thượng đế là bây giờ ở đây." Có khác biệt lớn giữa 'không đâu cả' và 'bây giờ ở đây'! Lần đầu tiên ông ấy đọc câu đó với cái nhìn của đứa trẻ, với sự hồn nhiên của đứa trẻ.

Chuyện kể rằng kể từ ngày đó ông ấy không thể đọc được câu cũ theo cách cũ nữa: "God is nowhere - Thượng đế không có ở đâu cả." Bất kì khi nào ông ấy nhìn ông ấy đều phải đọc, "Thượng đế là bây giờ ở đây." Nó trở thành cái gì đó cố định - tác động của đứa trẻ đến mức đó.

Vị phật bao giờ cũng ở đây. Bạn bao giờ cũng ở đây. Bạn không tới từ bất kì chỗ nào và bạn không đi chỗ nào đó khác. Toàn thể vũ trụ này chứa bạn; chúng ta là một phần của nó.

Bồ đề đạt ma nói:

Như Lai là người biết rằng mình không tới từ đâu cả và không đi từ đâu.

Đọc 'nowhere-không đâu cả' là 'now here - ở đây bây giờ'. Như Lai là người bây giờ ở đây và biết rằng ông ấy bao giờ cũng bây giờ ở đây. Ông ấy đã không tới và ông ấy không đi.

Ramana Maharshi sắp chết, và một đệ tử hỏi, "Bhagwan, thầy sẽ đi đâu?"

Ông ấy mở mắt ra và cười. Đó là không phải là lúc cười chút nào. Ông ấy sắp chết, cái chết của ông ấy là tuyệt đối chắc chắn - ông ấy chết vì ung thư - đau đớn lắm. Dầu vậy ông ấy vẫn cười và ông ấy nói, "Ông ngu thì có! Cả đời mình ta đã từng nói với ông rằng không có đâu mà đi cả, chúng ta bao giờ cũng ở đây. Cho nên ta có thể đi đâu được? Ta sẽ ở đây thôi! Thân thể sẽ mất đi, cát bụi trở về với cát bụi, nhưng ta có thể đi đâu được? Ta sẽ là một phần của vũ trụ này như ta đang là một phần của nó bây giờ. Bây giờ thân thể cho ông ý tưởng rằng ta tách rời - đó là ý tưởng của ông, không phải của ta. Với ta, thân thể của ta không tách rời khỏi sự tồn tại mà bắc cầu với ta."

Bạn có thấy khác biệt giữa người dốt nát và người trí huệ không? Cùng thân thể đó với người dốt nát là bức tường phân tách bạn với sự tồn tại. Cùng thân thể đó với người trí huệ, với người chứng ngộ, là chiếc cầu; nó nối bạn với sự tồn tại.

Quan sát thân thể bạn và bạn sẽ nhận biết về nó. Thân thể bạn liên tục thở không khí vào và ra - không chỉ qua mũi mà còn qua mọi lỗ chân lông của thân thể bạn đang thở vào và ra. Các nhà khoa học nói rằng nếu mọi lỗ chân lông của thân thể bạn bị bít lại, nếu thân thể bạn bị sơn dầy và mọi lỗ chân lông bị bít lại và chất đầy với sơn nhưng mũi được để cho vẫn thở, bạn sẽ chết trong vòng ba giờ, vì chỉ mũi là không đủ. Mọi phần của thân thể bạn đều cần việc thở riêng của nó.

Bạn liên tục trong trao đổi với sự tồn tại. Nếu mặt trời không mọc ngày mai, tất cả chúng ta sẽ chết. Chúng ta sẽ không có khả năng sống chút nào, thậm chí không sống được vài phút, vì không có mặt trời toàn thể hơi ấm sẽ biến mất. Và không có hơi ấm, cuộc sống là không thể có được. Chúng ta sẽ trở nên lạnh, đông cứng tới mức cái chết nhất định xảy ra. Chúng ta liên tục trong trao đổi với sự tồn tại. Chúng ta không tách rời, chúng ta là một.

Và nếu điều này là như vậy với thân thể, với tâm thức bên trong thì sao? Tâm thức bên trong đó không bị phân chia chút nào. Sân trong của bạn được bao quanh bởi một bức tường, nhưng sân trong của bạn vẫn thuộc về bầu trời, là một phần của bầu trời.

Cũng giống điều đó, người biết rằng mình không tới từ đâu cả và không đi từ đâu, người đó là Như Lai. Người đó bao giờ cũng giống như làn gió mát thoảng qua. Những người có thể hiểu được điều này, họ sẽ được làm tươi lại bởi làn gió thoảng này. Họ sẽ nhảy múa trong gió thoảng của vị phật, trong ánh mặt trời của ông ấy. Họ sẽ cười cùng vị phật, họ sẽ nhảy múa cùng vị phật.

Trở thành Thượng đế

Tôi cảm thấy tôi ở trong quên lãng: không trong thế giới này không trong thế giới kia, không là chó không là thượng đế. Làm sao bước ra khỏi nó?

Nếu bạn bước ra khỏi nó bạn sẽ trở thành chó. Nếu bạn bị mất hút, mất hút hoàn toàn - không ai còn lại người có thể bước ra khỏi nó - bạn sẽ trở thành thượng đế. Cho nên đừng hỏi tôi cách bước ra khỏi nó. Đây là bản ngã đang hỏi cách bước ra khỏi nó. Bạn ở trong quên lãng sao? Hay đấy, tốt đấy. Mất hút thêm chút nữa đi - trở thành việc quên lãng đi. Thêm mất hút chút nữa đi! Bạn mất hút một chút rồi: nửa con chó bị mất rồi.

Ở Ấn Độ chúng ta có chuyện ngụ ngôn hay về toàn thể con đường của nhân loại. Một trong những câu chuyện có nghĩa và biểu tượng nhất là về hoá thân của Thượng đế được biết tới là Narsinha - nửa người / nửa sư tử. Một trong các hoá thân của thượng đế của người Hindu là Narsinha - nửa người /nửa sư tử. Đây là trạng thái của quên lãng. Khi bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn là nửa chó/nửa thượng đế; khi bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn không là thượng đế không là chó, mọi thứ bị mất hút, các biên giới bị mờ đi; khi bạn cảm thấy bản thân bạn ở giữa cầu; đây là trạng thái của Narsinha: nửa người /nửa sư tử.

Nếu bạn cố gắng thoát ra khỏi nó, bạn sẽ là sư tử đầy đủ, bởi vì thế thì bạn sẽ bị cô đặc lại. Bạn sẽ rơi trở lại sau. Thoát ra khỏi nó nghĩa là rơi ra khỏi nó, rơi trở lại sau. Điều đó sẽ không phải là tiến bộ, trưởng thành. Không cần. Cứ ngày càng mất hút hơn đi. Tại sao bạn sợ quên lãng thế? Bởi vì bạn cảm thấy mất hút chút ít, danh tính không còn rõ ràng; bạn không thể thấy được hình ảnh riêng của bạn một cách hoàn hảo, các biên giới mờ đi; mặt bạn không còn cố định. Cuộc sống của bạn đã trở thành linh động hơn. Nó không còn giống như đá nữa. Nó giống nước nhiều hơn, không có hình dạng nào, vô dạng. Bạn sợ.

Người sợ bên trong bạn là chó, bởi vì nếu bạn đi thêm vài bước nữa thì chó sẽ mất hút hoàn toàn.

Đầu tiên, khi người ta bắt đầu vào cuộc hành trình, người ta giống như nước đông cứng, băng, lạnh, tựa đá. Khi người ta di chuyển, đông cứng tan ra, băng trở thành nước. Đây là trạng thái của quên lãng, trạng thái của Narsinha, nửa đường. Nếu bạn đi xa thêm lên trước bạn sẽ bay hơi. Không chỉ có việc bạn sẽ là nước lỏng, bạn sẽ trở nên bay hơi. Bạn sẽ không còn được thấy nữa; bạn sẽ đơn giản biến mất. Nếu bạn trở nên sợ việc biến mất, bạn sẽ rơi trở lại. Bạn sẽ cố gắng để được đông cứng lại để cho bạn có thể có hình, có dạng, có tên - namarupa: tên và dạng. Người Hindus đã gọi thế giới này là thế giới của namarupa, tên và dạng. Thế thì bạn sẽ có căn cước; bạn sẽ biết bạn là ai.

Chỉ chó mới biết nó là ai - mọi thứ được lắng đọng, thảnh thơi. Nếu bạn đi trên đường, mọi thứ là rối tinh - núi không còn là núi, sông không còn là sông. Lẫn lộn lớn nảy sinh, hỗn độn; nhưng nhớ lấy, chỉ từ hỗn độn, các vì sao nhảy múa được sinh ra. Nhớ lấy, chỉ từ hỗn độn Thượng đế mới được tìm ra. Thế thì, trạng thái thứ ba là: bay hơi, biến mất hoàn toàn không để lại dấu vết đằng sau. Thậm chí không một dấu chân để lại. Bạn không ở đâu cả. Bạn đã trở thành không đâu cả - và đây là trạng thái tôi gọi là trạng thái của Thượng đế.

Đó là lí do tại sao bạn không thể thấy được Thượng đế. Bạn cứ đi tìm và kiếm: bạn sẽ bị mất hút một ngày nào đó, và đó sẽ là cách Thượng đế được tìm thấy. Thượng đế sẽ không được tìm thấy đâu. Bạn sẽ không bắt gặp Thượng đế đứng ở đâu đó, bởi vì ai sẽ bắt gặp? Nếu bạn vẫn có đó để bắt gặp, Thượng đế là không thể có được. Khi bạn không còn đó ai sẽ bắt gặp? Bạn sẽ không bắt gặp Thượng đế như một đối thể đâu. Bạn sẽ bắt gặp ngài như cốt lõi bên trong nhất của bạn. Nhưng điều đó là có thể chỉ khi bạn chảy ra, bạn trở thành linh động như nước, thế rồi bạn bay hơi - bạn trở thành mây bay trên trời, không địa chỉ, không tên, không dạng, đám mây ẩn kín, ở đâu chẳng biết.

Đó là nỗi sợ: bởi vì nó là cái chết lớn lao. Nó là việc chết đi của toàn thể quá khứ. Mọi điều bạn đang vậy đều phải bị bỏ lại, bị đóng đinh. Chết đi trước cái chết, đó là cách duy nhất để trở thành thượng đế. Đừng sợ trạng thái của quên lãng; bằng không bạn có thể rơi trở lại sau. Bạn sẽ kết tinh lại lần nữa như băng. Bạn sẽ có namarupa, tên-dạng, căn cước, nhưng bạn đã bỏ lỡ.

Cái gì còn lại sau chứng ngộ

Thầy đã nói chứng ngộ là có tính cá nhân, nhưng tính cá nhân có còn lại sau chứng ngộ không?

Không. Tính cá nhân không còn lại sau chứng ngộ, nhưng chứng ngộ có tính cá nhân. Bạn sẽ phải hiểu điều đó. Sông rơi vào đại dương. Khi nó đã rơi vào, sông đã biến mất - không có tính cá nhân của sông còn lại, nhưng chỉ riêng một sông rơi vào trongđại dương. Bạn rơi vào trong đại dương của chứng ngộ như một cá nhân: bạn không thể đem vợ bạn đi cùng bạn được hay bạn của bạn đi cùng bạn - không có cách nào. Bạn đi một mình. Không ai có thể đem được bất kì ai.

Làm sao bạn có thể đem được bất kì ai? Khi bạn thiền bạn thiền một mình. Khoảnh khắc bạn nhắm mắt lại và bạn trở nên im lặng, mọi người đã biến mất - vợ, bạn, con. Cái gần nhất cũng không còn gần; cái gần nhất bây giờ là xa nhất. Trong im lặng sâu của bạn, bình thản bên trong, bạn tồn tại một mình. Một mình này sẽ rơi vào trong đại dương.

Cho nên, chứng ngộ có tính cá nhân. Tất nhiên sau chứng ngộ tính cá nhân biến mất; không có tính cá nhân. Cho nên nhớ điều này: bạn không thể đi theo đám đông được; bạn không thể đi như một tổ chức được; bạn không thể đi như một giáo phái. Bạn không thể nói, "Mọi người Ki tô giáo lại đây," hay "Mọi người Hindus lại đây. Tôi sắp chứng ngộ và tôi sẽ đem mọi người Hindus cùng tôi." Không ai có thể đem được bất kì ai khác. Nó tuyệt đối là một mình. Và đó là cái đẹp của nó, thuần khiết của nó. Trong tính một mình tuyệt đối của bạn, bạn rơi vào trong niết bàn đại dương. Mới khoảnh khắc trước, bạn còn là dòng sông; mới khoảnh khắc trước, bạn còn là một cá nhân - chính đỉnh của tính cá nhân, vị phật - và chỉ một khoảnh khắc sau đó chẳng cái gì tồn tại. Bạn không còn là sông nữa; bạn đã trở thành đại dương. Bây giờ bạn thậm chí không thể nói, "tôi đây." Đại dương hiện hữu; sông đã biến mất.

Bạn có thể nói điều đó theo hai cách: rằng sông đã biến mất - một cách, cách của Phật tử; hay bạn có thể nói sông đã trở thành đại dương - cách kia, cách của Vedanta. Nhưng cả hai là một. "Sông đã trở thành đại dương," hay, "Sông đã biến mất; chỉ đại dương hiện hữu," chỉ là các cách nói cho cùng một điều.

Trích từ "Yoga: Alpha và Omega - Tập 5"

Người chứng ngộ có tự đầy đủ không?

Câu hỏi

Người ta có thể sống và vận hành trong thế giới trong trạng thái của chứng ngộ hay vô trí không? Liệu người đã chứng ngộ có tự đầy đủ trong thế giới không?

Đáp

Trạng thái của chứng ngộ không phải là trạng thái của cá nhân. Không có người trong nó. Người chứng ngộ là chứng ngộ chỉ bởi vì người đó không có; không có ai để vận hành. Vận hành tiếp tục, nhưng không có ai làm nó. Vận hành tiếp tục, nhưng không có ai vận hành nó. Thế thì nó tiếp tục theo cách riêng của nó... cũng như các vì sao cứ di chuyển và mùa vụ , và mặt trời mọc, và mặt trăng tới, và thuỷ triều, và biển cả, và dòng sông.

Người chứng ngộ là một với cái toàn thể; cái toàn thể vận hành qua người đó. Vận hành của người đó là hoàn hảo bởi vì người đó không có đó để bóp méo nó. Người đó giống hệt cây trúc hổng - bất kì bài hát nào cái toàn thể chọn để hát qua người đó, nó đều được hát lên. Không có người nào cản trở, không có người nào gây chướng ngại.

Người chứng ngộ là cái trống rỗng chứng ngộ... Cái trống rỗng chói sáng. Người đó đã biến mất. Nếu bạn tin vào khái niệm thượng đế, nếu bạn dùng thuật ngữ đó, thế thì bạn có thể nói thượng đế vận hành qua người đó. Nếu bạn không thích thuật ngữ đó, thế thì bạn có thể nói cái toàn thể vận hành qua người đó. Nhưng người đó không vận hành ở đó.

Khi bạn vận hành bạn tạo ra lo âu. Tất cả việc vận hành theo một cách nào đó đều là một loại xung đột với cái toàn thể. Nó là cuộc đấu tranh; có động cơ, có ham muốn, có tham vọng. Khi bạn có đó, tất cả mọi ốm yếu có đó. Khi bạn có đó, chứng loạn thần kinh có đó - bản ngã là loạn thần kinh. Nó cố gắng áp đặt mục đích riêng của nó lên cái toàn thể - điều không thể được. Nó cố gắng làm điều không thể được làm, do đó mới nhận ngày càng nhiều thất vọng hơn, đi ngày một sâu hơn vào địa ngục và khốn khổ.

Người chứng ngộ đơn giản cho phép; bất kì điều gì xảy ra đều là việc xảy ra. Rất khó quan niệm điều đó bởi vì nó không phải của tâm trí. Rất khó hiểu điều đó bởi vì không có kinh nghiệm. Bạn có thể hiểu điều đó chỉ khi bạn đã tan biến, khi bạn đã trở thành cái đó.

Không có cách nào để hiểu vị phật trừ phi bạn trở thành vị phật - bởi vì đó là một chiều hướng hoàn toàn khác của sự tồn tại. Chúng ta chưa bao giờ nếm trải điều đó. Tâm trí đơn giản không thể nào quan niệm nổi, bởi vì tâm trí vận hành qua động cơ: phải có ham muốn, phải có mục đích, phải có người làm. Tâm trí nói nếu bạn không làm, làm sao điều đó sẽ xảy ra?

Nhưng hàng triệu điều đang xảy ra mà không có ai làm chúng cả. Ai đang làm cho các vì sao chuyển động? Việc vận hành của chúng chẳng tuyệt đối hoàn hảo đó sao? Cái gì lỡ? Cái gì thiếu? Ai đang xô những dòng sông này ra đại dương? Ai cứ điều khiển triều lên triều xuống? Ai cứ duy trì cái vô hạn này, cái mênh mông này? Chẳng có ai cả. Bởi vì không có ai cả, đó là lí do tại sao nó lại đẹp thế. Bởi vì không có ai cả, đó là lí do tại sao nó lại tuyệt đối hoàn hảo thế. Nếu ai đó có đó, thì có khả năng lỗi lầm. Nếu ai đó có đó, thì có khả năng sai lầm.

Không có ai cả - nó là từ cái trống rỗng.

Hạt mầm cứ nhú ra. Từng khoảnh khắc đều là phép màu, bởi vì từng khoảnh khắc sự tồn tại tới từ cái không. Từng khoảnh khắc hoa xuất hiện ra từ trời xanh. Không ai ép buộc nó, không ai kéo nó lên. Không có ai mở nụ; nó mở ra theo cách riêng của nó. Đây là điều Phật gọi là pháp, là luật, là luật tối thượng của cuộc sống.

Người chứng ngộ không còn trong xung đột với luật tối thượng; người đó đã buông xuôi. Người đó nổi, người đó chảy cùng dòng sông. Người đó gần như trở thành con sóng trong dòng sông, người đó không tồn tại một cách tách biệt.

Người ta có thể sống và vận hành trong thế giới trong trạng thái của chứng ngộ hay vô trí không? Có chứ, người ta có thể vận hành. Người ta đã vận hành. Phật sống bốn mươi hai năm sau khi ngài trở nên chứng ngộ. Mahavira sống bốn mươi năm sau khi ngài trở nên chứng ngộ. Họ vận hành hoàn toàn tốt. Và vậy mà, cái đẹp hiện hữu, sự vĩ đại hiện hữu, điều không có ai làm nó cả.

Nó là phép màu từ khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Nó là điều tuyệt đối không thể nào tin được, điều lạ thường là nó vận hành từ cái không, vận hành từ không mục đích, vận hành từ vô trí. Chỉ vận hành mà không có trung tâm, không có cái ngã.

Người chứng ngộ là tự nhiên, tự phát. Người đó không có giải thích tại sao người đó lại đang vận hành. Người đó sẽ nhún vai nếu bạn hỏi câu hỏi 'Tại sao?' Người đó không thể giải thích được điều đó, người đó nhiều nhất có thể nói, 'Nó là cách nó thế. Nó là cách nó đang xảy ra.' Người đó sẽ nói, 'Tôi không biết, bởi vì không có ai để biết điều đó.' Nó là một vận hành bí ẩn.

Tất nhiên việc vận hành sẽ là khác toàn bộ với việc vận hành của bạn. Từ vận hành của bạn, lo âu nảy sinh, căng thẳng. Từ vận hành của bạn, nỗi sợ nảy sinh. Nỗi sợ - bạn sẽ thành công hay không? Căng thẳng - bởi vì có cạnh tranh, xung đột; người khác cũng xô về cùng mục đích. Bạn sẽ có khả năng trở nên giầu không? Bạn sẽ có khả năng trở thành cái bạn muốn không? Điều đó dường như là dễ dàng.

Mulla Nasruddin một hôm nói với tôi, 'Khi tôi mười bốn tuổi tôi đã quyết định rằng tôi sẽ trở thành người giầu nhất trên thế giới, bằng bất kì giá nào.'

Thế là tôi hỏi anh ta, 'Thế rồi điều gì đã xảy ra? Anh chưa bao giờ trở thành người giầu nhất thế giới. Anh có thể là người nghèo nhất. Vậy thì điều gì đã xảy ra?'

Anh ta nói, 'Vào lúc tôi hai mươi mốt tuổi tôi nghĩ dễ thay đổi tâm trí mình hơn và trở thành người giầu nhất trên thế giới. Thay đổi tâm trí dễ dàng hơn.'

Mọi người đều muốn trở thành người giầu nhất thế giới. Mọi người đều muốn là người quyền lực nhất trên thế giới. Mọi người đều muốn là người mạnh nhất, đẹp nhất, thông minh nhất, nổi tiếng nhất trên thế giới. Tất nhiên nhiều lo âu đã được tạo ra. Trong lo âu đó bạn ở trong một loại ốm yếu liên tục, không thoải mái, bồn chồn, lên cơn sốt, trong đó bạn cứ liên tục run rẩy. Và mọi khoảnh khắc đều có thất vọng chờ đợi bạn.

Do đó mọi người nói, 'Con người đề nghị và thượng đế quyết định.' Thượng đế chưa bao giờ quyết định cái gì cả. Trong chính đề nghị của mình bạn đang quyết định thượng đế, do đó bạn lâm vào rắc rối. Bởi vì tự nhiên có cách riêng của nó, Đạo có cách riêng của nó; nó có định mệnh riêng của nó. Cứ dường như bộ phận đang cố gắng đi con đường riêng của nó, bỏ cái toàn thể đằng sau. Điều đó là không thể được - bộ phận phải đi cùng với cái toàn thể. Cái đuôi phải đi cùng với con voi. Nếu cái đuôi bắt đầu đi theo cách riêng của nó ngược với voi, tách rời khỏi voi, thế thì sẽ có rắc rối - cái đuôi sẽ phát điên. Và thực tế nó sẽ phải lôi theo con voi; không có cách khác.

Cho nên chỉ có hai kiểu người trên thế giới. Một kiểu, những người có mục đích riêng tư - họ cảm thấy họ đang bị kéo lê; họ cảm thấy con người đề nghị, thượng đế quyết định. Thế rồi có kiểu người khác trên thế giới - rất ít, hiếm hoi, xa xôi, xa xăm và ít ở giữa, rất ít - những người đã vứt bỏ tất cả những đề nghị của mình. Họ không kéo lê, họ nhảy múa. Họ nhảy múa, bởi vì bất kì điều gì thượng đế đề nghị họ đều chấp nhận. Và họ không có đề nghị riêng tư nào, họ không có ham muốn nào của riêng mình.

Đó là điều Jesus nói trên cây thánh giá, đó là thông điệp cuối cùng của ngài cho thế giới - 'Vương quốc của ngài tới, ý chí của ngài sẽ được thực hiện'. Chỉ một khoảnh khắc trước ngài còn ngần ngại chút ít, ngay khoảnh khắc trước ngài đã kêu lên và nói, 'Sao ngài đã từ bỏ con? Tại sao? Tại sao ngài lại cho con xem tất cả những điều này?'

Bạn không thể phàn nàn Jesus được - điều đó nữa cũng là tự nhiên và con người. Ngài mới chỉ ba mươi ba tuổi, ngài còn chưa già, ngài vẫn còn trẻ, ngài chưa thấy toàn thể cuộc sống, ngài còn chưa nếm trải, ngài còn chưa sống - và bỗng nhiên ngài thấy bản thân mình trên cây thánh giá, kì quặc, bị lăng mạ, bị bác bỏ bởi chính người của mình. Và điều đó là tự nhiên khi ngài kêu lên với thượng đế, 'Sao ngài lại từ bỏ con? Sao ngài lại cho con xem tất cả những điều này?' - mang tính con người, rất con người.

Nhưng lập tức ngài trở nên nhận biết về điều đó. Điều đó phải đã vô tình buột ra - việc kêu lên phản đối thượng đế - vào khoảnh khắc của vô nhận biết. Nỗi đau có thể đã quá nhiều, khốn khổ quá nhiều. Cái chết kề ngay bên cạnh; ngài đã bị sốc. Nhưng ngài đã lấy lại cân bằng. Ngài đã định đề nghị điều gì đó. Ngài đơn giản nói, 'Vương quốc của ngài tới, ý chí của ngài sẽ được thực hiện.' Ngài đã buông xuôi. Ngài chết như Christ.

Trong một khoảnh khắc ngài không còn là Jesus nữa, ngài đã là Christ. Trong một khoảnh khắc ngài không còn là con người nữa, ngài là siêu nhân. Lỗ hổng là rất nhỏ. Đó là lí do tại sao Phật nói, 'Bỏ lỡ nó chỉ một li thôi, hay một khoảnh khắc thôi, và các ông bị ném đi xa hàng triệu dặm.' Chỉ một li là khác biệt giữa hai câu này - không có mấy lỗ hổng, có thể chỉ một hơi thở. Nhưng ngài đã là người thường khi ngài kêu lên phản đối thượng đế - con người, yếu đuối. Ngay một khoảnh khắc sau đó ngài đã được hoà giải; đã không có vấn đề nào. Nếu đây là cách thượng đế muốn nó xảy ra, thế thì đây là cách nó phải xảy ra. Ngài đã chấp nhận.

Nụ cười phải đã tới cho khuôn mặt ngài, và không chỉ cho khuôn mặt ngài mà còn cho cả trái tim ngài nữa. Trong khoảnh khắc đó ngài phải đã mở rộng. Bây giờ không có gì để co lại, để vẫn còn khép kín. Ngay cả cái chết cũng được chấp nhận. Khi bạn chấp nhận cái chết, bạn đã chấp nhận thượng đế. Mọi người đều ham muốn cuộc sống. Khi bạn chấp nhận cuộc sống bạn không chấp nhận nhiều. Khi bạn chấp nhận cái chết bạn đã chấp nhận tất cả.

Người chứng ngộ là người đã không chỉ chấp nhận cái chết, người đã thực sự chết. Người đó không còn đó nữa, ngôi nhà tuyệt đối trống rỗng. Hay người đó là sự trống rỗng ấy. Sự trống rỗng ấy là chói sáng, đầy ánh sáng. Bây giờ người đó đi tay trong tay với thượng đế. Bây giờ bất kì chỗ nào thượng đế đưa người đó tới, bất kì mảnh đất nào - chưa lên bản đồ, chưa vẽ bản đồ - người đó vẫn đi, nhảy múa. Người đó không bị kéo lê.

Nếu bạn bị cuộc sống kéo lê đi, thế thì bạn phải tranh đấu với nó. Nếu bạn bị cuộc sống làm cho chán chường, thế thì bạn phải tranh đấu với nó. Nếu bạn bị cuộc sống làm cho thất vọng, bạn phải tranh đấu với nó. Đây là những chỉ báo rằng bạn không được hoà giải với cuộc sống, rằng bạn vẫn chưa trở nên đủ chín chắn để buông xuôi; bạn vẫn còn trẻ con, bạn đang trong cơn cáu kỉnh trẻ con.

Người thực sự chín chắn không có ý chí của riêng mình. Người đó nói, 'Ý chí của ngài sẽ được thực hiện.' Chỉ tâm trí chưa chín chắn mới cứ mang ý chí riêng của mình, và tất nhiên họ khổ sở. Ý chí đem tới khổ sở, ý chí là con đường tới địa ngục. Bạn đem vào đau khổ, bạn là con đường tới địa ngục. Bạn tạo ra đau khổ.

Tất nhiên, người chứng ngộ vận hành hoàn toàn khác. Bản thân người đó không biết mình đang đi đâu, và người đó không lo nghĩ về nó. Người đó không nghĩ về nó - nơi người đó đi. Người đó tin cậy: bất kì chỗ nào người đó đi, nó đều tốt. Sự tin cậy của người đó là toàn bộ và vô hạn.

Người đó tin cậy vào cuộc sống, người đó tin cậy vào bản thân mình. Người đó tin cậy vào cái toàn thể, bạn tin cậy vào bộ phận tí hon. Người đó tin cậy vào cái mênh mông, cái vô hạn, bạn tin cậy vào tâm trí con người tầm thường. Tin cậy của người đó làm cho người đó thành trí huệ, tin cậy của bạn làm cho bạn thành ngu xuẩn. Bạn hoài nghi cái toàn thể và bạn tin cậy vào bản thân mình. Người đó đã vứt bỏ bản thân mình và người đó tin cậy vào cái toàn thể. Người đó không bao giờ bị thất vọng, người đó không nuối tiếc. Người đó không bao giờ nhìn lại sau, bởi vì bất kì cái gì có, đều đã có - và bất kì cái gì có, đều tốt.

Và đó không chỉ là điều tâm trí. Người đó cảm thấy nó, toàn thể sự tồn tại của người đó được rạng ngời với 'có!' Người đó nói 'có' với cuộc sống, bạn cứ nói 'không'. Nói không tạo ra bản ngã, nói có vứt bỏ bản ngã, giúp cho bản ngã được vứt bỏ và biến mất.

Người chứng ngộ là 'có' tuyệt đối, vô điều kiện. Rất khó hiểu điều đó trừ phi bạn đã nếm trải cái gì đó của nó. Đó là cách duy nhất để biết về nó.

Liệu người chứng ngộ có tự đầy đủ trong thế giới không? Đó là lí do tại sao tôi nói bạn có thể hiểu nó chỉ nếu bạn đã biết nó, nếu bạn đã trở thành nó. Bằng không bạn sẽ cứ hỏi những câu hỏi chẳng liên quan. Chẳng hạn: Liệu người chứng ngộ có tự đầy đủ trong thế giới không?

Người đó không có cái ngã, cho nên làm sao người đó có thể là tự đầy đủ được? Người đó không có cái ngã, cho nên làm sao người đó có thể là tự đầy đủ theo bất kì cách nào được? Tôi không nói rằng người đó không hài lòng. Tôi không nói rằng người đó không được thoả mãn, và tôi không nói rằng người đó không đầy đủ. Tôi đơn giản nói rằng người đó không thể tự đầy đủ được bởi vì người đó không có cái ngã.

Người chứng ngộ đi tới biết rằng độc lập là không thể được, phụ thuộc cũng không thể được. Thực tại thì không phụ thuộc không độc lập; thực tại là liên thuộc. Chúng ta cùng tồn tại với nhau. Và khi tôi nói 'chúng ta', cây cối cũng được bao hàm, núi non cũng được bao hàm, bầu trời cũng được bao hàm. Khi tôi nói 'chúng ta', mọi thứ đều được bao hàm, không cái gì bị loại trừ. Chúng ta cùng tồn tại với nhau. Chúng ta cùng hiện hữu với nhau. Chính hiện hữu của chúng ta là sự cùng nhau. Không ai là tự đầy đủ.

Đó là điều thông thường chúng ta cố gắng để trở thành - tự đầy đủ. Đó là toàn thể cuộc tranh đấu của chúng ta - để cho chúng ta không còn phụ thuộc vào bất kì ai. Những thử nghĩ mà xem: liệu có thể tự đầy đủ được không? Và nếu điều đó là có thể cho con người trở thành tự đầy đủ, người đó có còn sống động không? Người đó sẽ chết. Chỉ khi bạn trong nấm mồ thì bạn mới tự đầy đủ. Bằng không bạn sẽ phải thở chứ - và bạn không thể là tự đầy đủ về điều đó được. Bạn sẽ phải lấy hơi thở, sinh lực, prana. Bạn sẽ phải đợi để mặt trời làm bạn ấm. Bạn sẽ phải ăn quả của cây để cho nước quả trở thành máu bạn. Bạn sẽ cần cả tỉ thứ. Làm sao bạn có thể là tự đầy đủ được? Chính ý tưởng này là ngu xuẩn.

Nhưng có những người, cái gọi là thánh nhân - người cứ dạy bạn 'trở nên tự đầy đủ'. Đó là việc đề cao lòng tự trọng. Tự đầy đủ không thể có được trong bản chất của mọi vật bởi vì cái ngã là giả. Cái ngã chỉ là một ý tưởng, nó không có thực tại nào, cho nên làm sao bạn có thể tạo ra sự đầy đủ quanh một ý tưởng giả tạo? Cái ngã trong bản thân nó là mang tính không tồn tại, cho nên làm sao bạn có thể tạo ra sự đầy đủ xung quanh cái gì đó không tồn tại?

Người chứng ngộ là người nhìn vào cuộc sống và đi tới biết rằng 'Mình không có, chỉ thượng đế có, chân lí có. Chân lí là tự đầy đủ, cái toàn thể là tự đầy đủ. Làm sao mình có thể là tự đầy đủ được?' Chúng ta được nối với mọi thứ khác, và việc nối này thực sự phức tạp. Tôi không chỉ được nối với bạn, bạn không chỉ được nối với những cây này, bạn không chỉ được nối với mặt trời hôm nay - bạn được nối với tất cả mọi người đã từng sống trên trái đất. Nếu cha mẹ bạn mà không có đó thì bạn đã không có ở đây rồi. Nếu ông bà bạn mà không có đó thì bạn đã không có ở đây rồi. Hãy đi ngược lại, đi lùi lại - nếu Adam và Eve mà không có đó thì bạn đã không có ở đây rồi.

Cho nên không chỉ chúng ta được nối với sự tồn tại đương đại, chúng ta được nối với toàn thể quá khứ - không chỉ với nhân loại, mà với toàn thể vũ trụ. Điều này là dễ hiểu - rằng chúng ta được nối với toàn thể quá khứ - bằng không thì làm sao chúng ta có thể hiện hữu được? Chúng ta là một phần của cuộc diễu hành, một phần của dòng sông, dòng sông đang tiếp diễn. Bạn cũng được nối với tương lai. Có chút ít khó khăn hơn bởi vì chúng ta nghĩ rằng có thể điều đó là đúng - chúng ta được nối với quá khứ - nhưng làm sao chúng ta lại được nối với tương lai?

Dòng sông có đôi bờ. Nó không thể chảy chỉ với một bờ, bằng không nó sẽ chẳng bao giờ đạt tới đại dương. Bờ bên kia có thể bị ẩn kín trong sương mù dày đặc, bạn có thể không có khả năng thấy nó, nó có thể ở rất xa xăm. Bạn không thể thấy được nó - nó ở bên ngoài đường chân trời - nhưng dầu vậy bạn vẫn có thể nghĩ rằng nó phải có đó. Quá khứ là bờ này của dòng sông thời gian, tương lai là bờ kia. Không có tương lai, quá khứ không thể tồn tại được; và không có quá khứ và tương lai thì hiện tại không thể tồn tại được. Hiện tại là dòng sông, quá khứ là bờ này, tương lai là bờ kia.

Chúng ta không chỉ được nối với quá khứ, chúng ta đang được nối với tương lai nữa. Bạn không chỉ được nối với cha mẹ mình, bạn được nối với con cái mình nữa - con cái còn chưa được sinh ra. Bạn không chỉ là một với quá khứ đã từng ở đây, mà cả với tương lai sẽ diễn ra ở đây. Bạn được nối với hôm qua và ngày mai - bằng không thì hôm nay không thể tồn tại được. Nó phải tồn tại giữa hôm qua và ngày mai - những hôm qua và những ngày mai. Hôm nay chỉ là bước chuyển ở giữa.

Nếu bạn nhìn theo cách đó, thế thì trong không gian chúng ta được nối với mọi thứ. Nếu mặt trời chết hôm nay chúng ta tất cả đều sẽ chết. Nó ở xa thế; ánh sáng mất mười phút để tới chúng ta. Mười phút chẳng có vẻ gì là thời gian lớn cả, nhưng để ánh sáng đi ngần đó thời gian thì thực sự là lớn, bởi vì ánh sáng đi nhanh thế - ba trăm nghìn ki lô mét một giây.

Mặt trời ở xa mười phút. Nhưng nếu nó chết, bỗng nhiên bạn sẽ thấy những cái cây này chết, bỗng nhiên bạn sẽ thấy bản thân mình co lại và chết. Bỗng nhiên bạn sẽ thấy toàn thể cái đẹp biến mất khỏi trái đất, bởi vì toàn thể hơi ấm biến mất khỏi trái đất. Hơi ấm là cuộc sống. Chính sự đập rộn ràng của trái tim là được nối với mặt trời đấy. Nhưng các nhà khoa học nói bản thân mặt trời lại được nối với nguồn ánh sáng nào đó, vẫn còn chưa được phát hiện ra. Ở đâu đó tại chính trung tâm của toàn thể sự tồn tại phải có một nguồn mà mặt trời được nối vào.

Mọi thứ đều được nối. Bạn đã từng quan sát mạng nhện chưa? Chạm vào nó ở bất kì đâu và cả cái mạng rung lên. Đích xác theo cách đó là cuộc sống. Chạm vào nó ở bất kì đâu... chạm vào cái một nhành cỏ và bạn đã chạm vào tất cả các vì sao, bởi vì mọi thứ được liên nối thế. Không có biên giới - chúng ta không là những hòn đảo, chúng ta là lục địa. Không cái gì định nghĩa bạn cả. Tất cả mọi định nghĩa đều nhân tạo. Tất cả mọi định nghĩa đều giống như hàng rào quanh nhà bạn - nó không phân chia trái đất. Tất cả các biên giới đều giống như trên bản đồ - nó không phân chia trái đất, nó không phân chia đại dương, nó không phân chia bầu trời. Nó chỉ là trên bản đồ.

Người chứng ngộ là người đã vứt bỏ mọi lằn ranh; không là người Ki tô giáo, không là người Hindu, không là người Mô ha mét giáo, không là Phật tử, không là người cộng sản, không là người phát xít, không là đàn ông, không là đàn bà, không là thanh niên, không là người già - người đã vứt bỏ tất cả mọi đường ranh giới, người sống không có định nghĩa. Sống không định nghĩa là sống một cách vô hạn, bởi vì mọi định nghĩa đều là điều hữu hạn. Định nghĩa tức là làm thành hữu hạn.

Người chứng ngộ là người không định nghĩa được, vô hạn. Người đó không có ranh giới.

Ai đó hỏi Bokuju, một Thiền sư, 'Thưa thầy, thầy nói mọi thứ đều là một. Thế thì con chó cũng là vị phật sao?' Đó là cách thức hỏi của Thiền, 'Chó cũng là thượng đế được không?' Bokuju không trả lời bằng miệng; ông ấy nhảy trên bốn chi và bắt đầu sủa. Ông ấy đã là vị phật, một người chứng ngộ. Ông ấy đơn giản chỉ ra rằng, 'Có chứ. Trông đây - đây là con chó sủa, và đây cũng là vị phật.' Chó không là gì ngoài thượng đế đảo ngược. Cứ đọc ngược nó lại mà xem (dog - god); đó là sự khác biệt duy nhất.

Mọi thứ đều thiêng liêng và mọi thứ đều là một.

Người chứng ngộ không là tự đầy đủ. Người đó là đầy đủ, chắc chắn - nhưng không tự đầy đủ. Đầy đủ bởi vì không có vấn đề với người đó - cái toàn thể có sẵn cho người đó. Cái toàn thể cứ cung cấp cho người đó cho dù không được hỏi. Cái toàn thể chăm nom. Người đó đã tan biến vào trong cái toàn thể; bây giờ cái toàn thể chịu trách nhiệm. Cái toàn thể chăm nom người đó. Người đó được bảo vệ bởi cái toàn thể, người đó được che chở bởi cái toàn thể. Người đó ở nhà trong cái toàn thể. Bất kì cái gì xảy ra cũng đều được đón chào, bởi vì nó đang xảy ra qua cái toàn thể. Làm sao nó có thể sai được? 'Ý chí của ngài sẽ được thực hiện, vương quốc của ngài tới.' Người đó chỉ là con số không.

Cho nên tôi không thể nói người đó là tự đầy đủ được. Người đó là cực kì đầy đủ, nhưng không tự đầy đủ. Sự đầy đủ của người đó không tới từ cái ngã của người đó, sự đầy đủ của người đó tới bởi vì người đó đã vứt bỏ cái ngã của mình. Người đó là đầy đủ bởi vì người đó là cùng với cái toàn thể - bây giờ làm sao người đó có thể thiếu được cái gì? Không thể nào thiếu được cái gì cả. Mặt trời cùng với người đó, mặt trăng cùng với người đó, cây cối, dòng sông, đại dương - người đó không còn nghèo nàn nữa.

Người chứng ngộ là người giầu nhất có thể có, nhưng cái giầu của người đó tới từ việc buông xuôi, không từ tranh đấu. Người đó không tranh đấu... người đó không có xung đột gì với cái toàn thể. Người đó đã rơi vào trong hài hoà, người đó là sự hài hoà.

_________________

Herenow-Consciousness-Alert

Các cụ đã dạy: Nói nhiều thành nói dại.

Gạo đương nhiên có thể nấu thành cơm chứ cát không thể nấu thành cơm. Osho dạy người ta nấu cát.

( http://vi.wikipedia....Shree_Rajneesh) )

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dạo này Diễn đàn nhiều thứ tào lao quá, cứ viết (past) tràn lan, đầu tư suy nghĩ ít, tính học thuật thấp.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dạo này Diễn đàn nhiều thứ tào lao quá, cứ viết (past) tràn lan, đầu tư suy nghĩ ít, tính học thuật thấp.

Nhưng xóa bài thì người ta lại bảo thiếu dân chủ. Bởi vậy.Cũng may là nó chỉ giới hạn ở vài topic thôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

IV. Ngụ ý và ý nghĩa của “Tây Du Ký”

Kết cấu và bố cục của “Tây Du Ký” đồ sộ mà lại nghiêm ngặt. Mở đầu là Bàn Cổ khai thiên lập địa, Tam Hoàng Ngũ Đế trị thế. Được phân làm hai phần: phần đầu là bảy chương tiết đầu lấy Tôn Ngộ Không làm chủ thể; phần hai là lấy thỉnh kinh làm chủ thể. Cuối cùng là năm thầy trò mỗi người đều đắc quả vị, được sự kính trọng và ca tụng của chư Phật và Bồ Tát.

Trong “Tây Du Ký” một số từ ngữ có ẩn ý tương đối sâu xa, nhưng chỉ cần đứng tại góc độ người tu luyện mà xét, thì có thể thấy được đầu mối, chỉ là có những điều ẩn giấu quá sâu mà thôi. Ví dụ: Bồ Đề Tổ Sư dạy Ngộ Không phép biến hóa tránh tam tai, trong đó nhắc tới ba lần 500 năm, cũng chính là 1.500 năm, nếu nhân với 72 phép biến hóa của Tôn Ngộ Không, thì chính là 10.800, đó chính là quãng đường mười vạn tám nghìn dặm mà Đường Tăng đi thỉnh kinh. Nếu nhân với số dương lớn nhất là 9, bởi vì vật cực tắc phản, cho nên 9 là con số lớn nhất, thì được 13.500, vừa khớp với trọng lượng Kim cô bổng của Tôn Ngộ Không. Mà con số này lại ngầm hợp với điều nói trong “Hoàng Đế bát thập nhất nạn kinh” là “nhân trú dạ hô hấp nhất vạn tam thiên ngũ bách tức” (trong một ngày đêm người ta hô hấp 13.500 lần).

Đường Tăng thỉnh kinh trải qua 80 nạn, đến được Linh Sơn rồi, bởi vì còn thiếu một nạn nữa, nên phải bổ sung thêm. Tổng cộng trải qua 14 năm, theo lịch cũ thì một năm có 360 ngày mà tính, tổng cộng mất 5.040 ngày. Nhưng còn thiếu 8 ngày nữa so với ẩn số, lại vừa khớp với một nạn bổ sung 8 ngày, hợp thành con số 5.048 bí ẩn, con số bí ẩn này lại là con số giống với trọng lượng binh khí của Bát Giới và Sa Tăng.

Nói về một nạn bổ sung thêm cho Đường Tăng, trong truyện tác giả đã sớm để lại “phục bút” rồi. Bề ngoài là lão rùa trắng Bạch Ngoan hỏi Đường Tăng là khi nào lão mới thoát xác để đắc được thân người, thực chất biểu hiện ra là Đường Tăng đã thoát khỏi thân người đắc được Phật thể rồi. Ngoài ra, nạn này chính là khi Đường Tăng đã trải qua hơn một nửa con đường mười vạn tám nghìn dặm, cũng chính là tại vị trí huyệt bách hội của con người, mà nơi đây lại chính là nơi sở tại của Nê Hoàn Cung, trong giới tu luyện Nê Hoàn Cung cũng được coi là nơi trú ngụ của chủ nguyên thần. Tại nơi đây họ đã cứu được Trần Quan Bảo và Nhất Xứng Kim. Thực ra ngụ ý trong đó chúng ta cũng dễ dàng có thể thấy được: người trong thôn có cùng họ Trần với Đường Tăng, có thể coi là phản bổn quy chân; năm đó bởi vì đi được nửa đoạn đường, sá nữ và anh nhi đại biểu cho âm dương lúc hòa hợp. Trần Quan Bảo 7 tuổi và Nhất Kim Bình 8 tuổi cộng lại là 15, chính là một nửa của ba mươi cân. Cái tên “Quan Bảo” được đóng lại và được bảo vệ ở bên trong Nê Hoàn. Ai là người bảo vệ đây? Đương nhiên chính là Nhất Xứng Kim. Trong Phật giáo coi ‘Trượng lục kim thân’ là một trong ba thân thể của Phật, là thân thể nhỏ trong thân thể biến hóa của Phật. Trong tu luyện Toàn Chân Đạo có khẩu quyết kim đan như thế này: “Nội hữu kim đan thập lục lưỡng, Tống tại tây nam khôn địa thượng. Thùy tri thử vật thị hoàn đan, Chỉ tại Nê Hoàn Cung lý dưỡng.” Lưỡng và xích ở đây nếu tính là ngang nhau, thì kim đan chính là chỉ kim thân. Nhất Xứng Kim ở đây chính là chỉ kim thân của Đường Tăng sau khi ông tu thành.

Lúc trước khi Đường Tăng thỉnh kinh đến sông Thông Thiên, bị yêu ma đóng băng sông Thông Thiên, sau đó Đường Tăng bị bắt đi. Bát Giới nói Đường Tăng, “Đừng gọi là Tam Tạng nữa, mà nên đổi thành Trần Đáo Để” (lối chơi chữ, nghĩa là “Trầm Đáo Để”, chìm đến đáy). Đường Tăng rốt cuộc chìm đến nơi nào? Trong truyện nói là chìm đến “Thủy ngoan chi đệ” (phủ đệ của lão rùa), thực ra đây là Nê Hoàn của con người. Từ huyệt bách hội hướng xuống vào trong đại não, là vị trí sở tại của Nê Hoàn, Nê Hoàn cũng được gọi là ‘Tổ khiếu’, cũng là thể tùng quả mà y học hiện đại nhận thức được. Nó cũng là nơi trú ngụ của chủ nguyên thần của con người. Mà lần này, Bạch Ngoan (lão rùa trắng) muốn hất Đường Tăng xuống nước, thân thể của Đường Tăng đã là thân thể đắc Đạo, cho nên có thể ở trong chân không được và ở dưới nước được.

Ngoài ra, từ thọ mệnh của Bạch Ngoan cũng có thể thấy được mối quan hệ giữa Bạch Ngoan và Đường Tăng. Bạch Ngoan nhờ Đường Tăng hỏi Phật Như Lai xem khi nào ông mới thoát xác, ông nói rằng bản thân ông “đã tu hành hơn một ngàn ba trăm năm”. Hơn một ngàn ba trăm năm này, nếu tính theo thời gian trước khi Đường Tăng đi thỉnh kinh, thì chính là thời đại mà Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp, đương nhiên cũng là thời đại Tu Bồ Đề hay Kim Thiền Tử còn tại thế.

Vậy thì Lão Ngoan này là ai? Đó chẳng qua chỉ là một bộ phận của nhục thân, là vật chất cấu thành từ ngũ hành mà thôi, có thể nói là một tải thể của Kim Thiền Tử tại nhân gian. Trong truyện dùng Lão Ngoan thực chất là nói về bản lai diện mục của Đường Tăng, cũng tức là ý nói “hoàn nguyên” (“ngoan” [鼋] với “nguyên” [元] là đồng âm), đây cũng chính là câu thơ trong truyện: “Bất nhị môn trung Pháp áo huyền, Chư ma chiến thoái thức nhân Thiên. Bản lai diện mục kim phương kiến, Nhất thể nguyên nhân thủy đắc toàn. Bỉnh chứng tam thừa tùy xuất nhập, Đan thành cửu chuyển nhậm chu toàn. Khiêu bao phi trượng thông hưu giảng, Hạnh hỉ hoàn nguyên ngộ Lão Ngoan.”

“Ma ha bàn nhược ba la mật đa tâm kinh” gọi tắt là “Tâm kinh”, là kinh sách kinh điển trong Phật giáo. Năm xưa khi Ô Sào Thiền Sư truyền thụ cho Đường Tăng, lại nói là “Đa tâm kinh”, về sau khi Đường Tăng gặp ma nạn hay có chấp trước trong tâm của bản thân, mặc dù nói là niệm “Tâm kinh”, nhưng tác giả lại viết thành “Đa tâm kinh”. Ví dụ trong hồi thứ 20 “Hoàng Phong lĩnh Đường Tăng hữu nạn, Bán sơn trung Bát Giới tranh tiên”, khi Bát Giới và Ngộ Không đại chiến với hổ quái, trong truyện có viết: “Tam Tạng ngồi xuống, sợ đến rét run lập cập, miệng niệm‘Đa tâm kinh’ mà không lên tiếng.” Trong tâm nếu sợ hãi như thế này, đương nhiên là tâm sợ hãi rồi, Đương Tăng niệm cũng chỉ có thể là “Đa tâm kinh” thôi. Mãi đến lúc sau khi đến nước Thiên Trúc, tâm chấp trước của Đường Tăng về cơ bản đã trừ sạch rồi, lúc này tác giả mới viết rằng Đường Tăng niệm chính là “Tâm kinh” .

Từ đây có thể thấy, khi sáng tác “Tây Du Ký” là tương đối khắt khe, tuyệt không phải là nghĩ lung tung từ không thành có mà viết ra. Trong việc bố trí tình tiết và dùng từ dùng câu, miêu tả hình tượng nhân vật cũng là như vậy. Hình tượng thầy trò Đường Tăng ai ai cũng thích, và đã đi sâu vào lòng người. Thực ra tác giả đã viết ra tính chất chung của của con người, cũng chính là tâm lý và tính tình thuần khiết của con người; từ hình tượng Tôn Ngộ Không, người ta có thể nhìn thấy được sự thông minh, hoạt bát, cơ trí, tinh nghịch, tâm lý không bị gò bó cho đến sự hướng về của chính mình. Từ hình tượng Trư Bát Giới người ta có thể nhìn ra mặt lười biếng, đố kỵ, tham lam, vụng về mà lại đáng yêu của bản thân; từ hình tượng của Sa Hòa Thượng có thể nhìn thấy mặt nội tâm an định, không oán hận, nhẫn nhượng, sạch sẽ của bản thân; từ hình tượng của Đường Tăng, chúng ta nhìn thấy được sự kiên định vì đi tìm chân lý mà không bao giờ bỏ cuộc của bản thân.

Là một bộ trường thiên tiểu thuyết, tuy tác giả miêu tả nhân vật chính không nhiều, nhưng điều viết ra lại là tính chất chung của con người, đạt được sự đồng cảm về tâm lý của mọi người. Đương nhiên, tác giả miêu tả về đặc trưng của các vị thần tiên, cho đến việc miêu tả hình thể dung mạo khác thường của yêu ma quỷ quái cũng đều có những nét độc đáo; miêu tả về sự mỹ hảo, thù thắng tráng lệ của Thiên Cung, cho đến địa phủ và động phủ của yêu ma làm cho độc giả cảm thấy chân thực đáng tin. Những điều này rất khó để miêu tả được, nó mở ra cho con người sự tưởng tượng vô hạn về không gian và cảm thụ, làm cho người ta có sự tưởng tượng thiết thực mà có thể cảm nhận được về không gian và trải nghiệm bản thân đối với thế giới thiên quốc. Đương nhiên, đây cũng là tác giả viết về những thể hiện chân thực tại không gian khác, thì mới có tác dụng như thế.

Mỗi một hình tượng trong “Tây Du Ký” đều được đưa vào đó nội hàm tu luyện, cho dù là một tiểu yêu, cũng là thể hiện suy nghĩ của người tu luyện. Khi người ta xem “Tây Du Ký”, bao gồm tác phẩm điện ảnh, phim truyền hình, kịch, sách bình luận văn học, các cố sự, đều không tránh được việc hòa những nhân tố tu luyện vào nơi sâu thẳm trong tư tưởng của bản thân. Cho nên, đối với người Trung Quốc mà nói, nhắc tới tu luyện, Thần Phật, thần thông, Pháp thân, Pháp khí, thiên quốc, long cung, địa phủ, yêu ma, v.v. trong đầu họ đều có những nội hàm tương ứng, mà những điều này đều là chính diện. Không giống như câu chuyện về Pháp Hải hòa thượng trấn áp Bạch Xà, vốn là truyền thuyết mang theo nội hàm tu luyện chính diện, nhưng lại bị người ta diễn dịch thành câu chuyện tình đúng-sai lẫn lộn. Người đời khi hứng thú và chú tâm xem, hoặc nghe, hoặc kể về “Tây Du Ký”, thì nhân tố tu luyện đã dần dần đi vào và thay đổi một cách vô tri vô giác tư tưởng cùng nhận thức của họ. Do đó từ góc độ nhận thức, về phương diện phổ cập văn hóa tu luyện thì “Tây Du Ký” có tác dụng không gì sánh bằng!

Vậy điều này có chỗ tốt nào? Người tu luyện chân chính đều biết rằng, con người đến thế gian, không phải vì để làm người, mà là vì để phản bổn quy chân. Đây là điều các tôn giáo trên thế giới đều giảng. Đặc biệt là trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc, nhân tố tu luyện có thể nói là không nơi nào không có. Ngôi nhà thật sự của con người không phải là nơi thế gian, mà là ở các thiên quốc khác nhau. Con người đến thế gian này là vì để đắc được Chính Pháp để tu luyện quay trở về, từ đó thoát khỏi sự đau khổ trong luân hồi sinh tử. Về điểm này, trong “Tây Du Ký” cũng có thể hiện. Ví dụ như hồi thứ 64 “Kinh Cức lĩnh Ngộ Năng nỗ lực, Mộc Tiên am Tam Tạng đàm thơ” Đường Tăng nói: “Phu nhân thân nan đắc, Trung Thổ nan sinh, chính Pháp nan ngộ; toàn thử tam giả, hạnh mạc đại yên” (Thân người khó được, Trung Thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp; nếu được cả ba điều, thì may mắn lắm thay!) Hồi thứ 91 “Kim Bình phủ nguyên dạ quan đăng, Huyền Anh động Đường Tăng cung trạng”, một vị hòa thượng nghe thấy Đường Tăng đến từ Trung Hoa, liền cúi người xuống bái, chắp tay mà nói: “Tôi đây là người hướng thiện, đọc kinh niệm Phật, cũng chỉ mong tu luyện để được thác sinh đến đất Trung Hoa của ngài.”

Trong truyền thuyết lịch sử xa xưa, Đông Thổ là nơi mà thế nhân hướng về, không chỉ là văn minh Trung Hoa cổ xưa thu hút con người trên khắp thế giới, mà có dự ngôn thế này: “Nhân loại thời kỳ mạt kiếp sẽ có Chuyển Luân Thánh Vương lấy hình tượng Phật Di Lặc tại Đông Thổ truyền chính Pháp mà cứu độ thế nhân”. Trong “Tây Du Ký” cũng có ẩn dụ về điều này. Trong truyện, Phật Di Lặc được gọi là “Đông Lai Phật Tổ” (Phật Tổ đến từ phương Đông). Mà khi Phật Di Lặc thu phục Hoàng Mi quái đã nói với Tôn Ngộ Không, bảo bối ‘đáp bao’ (túi đắp) mà yêu tinh sử dụng chính là “nhân chủng đại” (túi đựng giống người). Điểm này ở bài viết trước đã nói rồi. Vậy thì túi “nhân chủng đại” này nói lên điều gì? Bởi vì Phật Di Lặc cần đến nhân gian để độ nhân, nên phải có mối quan hệ thế nào đó với nhân loại. Trong Phật gia mối quan hệ này được gọi là “duyên phận”. Nếu không có duyên phận, đến thời kỳ mạt pháp mạt kiếp thì những người không có duyên sẽ không thể được cứu độ. Người trong giới tu luyện giảng, trong lịch sử Phật Di Lặc tại thế gian, từ mấy lần lịch sử văn minh nhân loại xa xôi lần trước rồi Ngài đã đến rồi. Thời kỳ mới bắt đầu nền văn minh nhân loại lần này, Ngài đã từng đến nhân gian rồi. Sau đó Ngài dùng các phân thân khác nhau chuyển sinh đến các nơi khác nhau tại các thời kỳ khác nhau, cùng người thế gian tạo nên các loại duyên phận. Mục đích chính là đợi đến khi chính Pháp khai truyền, người có duyên phận sẽ đắc được chính Pháp. Ở Trung Quốc, Phật Di Lặc được gọi là “Vị lai Phật” (vị Phật tương lai), chính là vị Phật Tổ trong tương lai sẽ cứu độ nhân loại. Thậm chí trên tượng Phật Di Lặc người ta còn khắc lên đó 18 tiểu hài tử (gọi là “Di Lặc thập bát tử”), dùng để ẩn dụ rằng tương lai Phật Di Lặc đến nhân gian truyền Pháp sẽ lấy họ là họ “Lý” (“thập bát tử” [十八子] ghép lại thành chữ “Lý” [李]).

Thực ra rất nhiều người trong các tôn giáo cũng như nhiều người trong giới tu luyện đều biết rằng xã hội nhân loại hiện nay chính là đang trong thời kỳ mạt pháp mạt kiếp. Đạo đức nhân loại hiện nay đã bại hoại đến mức độ xưa nay chưa từng có, nhân tâm đã hoàn toàn bại hoại rồi, hơn nữa ở Trung Quốc lại là đang trong thời kỳ một đảng chính trị theo thuyết vô thần cai trị. Cái đảng này tàn hại thế nhân, bức hại người tu luyện đến mức cực kỳ nghiêm trọng. Cho nên sau khi chính Pháp được truyền xuất, cũng gặp phải sự bức hại của ác đảng này. Đương nhiên, đây đều là sự an bài của lịch sử. Nếu ai đắc được chính Pháp trong thời kỳ lịch sử này, hơn nữa lại bước qua được giai đoạn này, thì người đó thật vô cùng may mắn. Mặc dù điều này không được tiết lộ trong “Tây Du Ký”, nhưng trong ý nghĩa hàm ẩn của nó lại có điều này.

Kỳ thực, trong “Tây Du Ký” vẫn còn ẩn chứa một thiên cơ nữa chưa được người ta tiết lộ ra. Khi Tôn Ngộ Không học Đạo, Bồ Đề Tổ Sư vừa giảng về Đạo lại vừa giảng về Thiền, Phật và Đạo này vốn không thể trộn lẫn mà cùng tu luyện. Chính là nói một người, nếu người đó tu Phật thì là tu Phật, tu Đạo thì chính là tu Đạo, tuyệt đối không thể trộn lẫn vào mà tu. Bởi vì tu luyện Phật gia và Đạo gia thì công trên thân thể đều có hình thức tu luyện diễn hóa của bản thân, mà điều này lại đều là do sư phụ giúp đỡ diễn hóa cho. Ví dụ, Đạo gia tu luyện giảng tiểu chu thiên đại chu thiên, là chỉ việc đả thông hai mạch nhâm đốc, ba mạch âm ba mạch dương nơi tay, ba mạch âm ba mạch dương nơi chân. Nhưng mạch trong Phật gia lại chạy theo cách khác. Lấy mạch trong Mật tông mà nói, trong Đạo gia cơ bản không có cách nói này, cũng không tìm được căn cứ về phương diện này, vậy họ luyện như thế nào? Hơn nữa Phật Thích Ca Mâu Ni cơ bản không hề giảng về bộ phận công, mà bảo người tu luyện ngay cả thân thể cũng đều vứt bỏ.

Trong lịch sử Trung Quốc quả thực có một số người muốn kết hợp tu luyện Nho giáo, Thích giáo, Đạo giáo; có một số người còn làm cái gì là đội mũ của Đạo sỹ, mặc áo cà sa của Phật giáo, chân đi giầy của Nho sinh, nhưng không đạt được thành tựu gì, cũng không hình thành nổi, càng không cần nói đến có những người như thế này có thể tu thành Phật hoặc thành Đạo. Đây chỉ là biểu hiện của tâm công danh lợi lộc mà thôi. Văn hóa của Nho gia, Phật gia, Đạo gia trong lịch sử phát triển không thể tránh khỏi có một số điều bị dung hợp, nhưng người tu luyện chân chính lại không thể trộn lẫn vào để cùng tu luyện. Vậy làm sao trong “Tây Du Ký” lại có thể dung hợp cả ba nhà lại, đặc biệt là dung hợp Phật và Đạo lại để sáng tác? Đây không chỉ là yêu cầu suy xét đến tình tiết để sắp xếp kết cấu theo trình tự, mà là dự ngôn ở mức độ tương đối lớn, về việc Đại Pháp của vũ trụ truyền ra trong tương lai bao hàm cả Phật gia và Đạo gia. Sau khi tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, mới nhận thức được một cách chân chính rằng những câu chuyện tu luyện được kể đến trong “Tây Du Ký” là vì để trải thảm sẵn cho Pháp Luân Đại Pháp.

Trong phần đầu của loạt bài viết này chúng ta đã nói về Tu Bồ Đề, Tôn Ngộ Không, Đường Tăng; đó chỉ là cách nói về cùng một người. Bây giờ chúng ta thảo luận về nội dung được ẩn giấu trong truyện, khi Tôn Ngộ Không ‘minh tâm kiến tính’, Tu Bồ Đề (Bồ Đề Tổ Sư) dạy Tôn Ngộ Không là nội dung tu luyện của Đạo gia. Điều này thuyết minh rằng, sau khi Tu Bồ Đề tu luyện Phật Pháp nhưng rốt cuộc lại không vứt bỏ được những thứ của Đạo gia, cho nên mới có sự ngạo mạn khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp, cũng từ đó mà bị đọa xuống hạ giới, tu luyện lại từ đầu. Vì sao Tu Bồ Đề không cho Ngộ Không nhắc đến ông? Bởi bản thân ông là đệ tử của Phật, nhưng trong tâm lại không vứt bỏ được những thứ của Đạo gia, do đó ông cố hết sức giấu kín việc này.

Ở đây lại có một vấn đề đưa ra là, Phật Thích Ca Mâu Ni quản chính là đệ tử chân tu trong Pháp môn của Ngài, người tu Đạo về cơ bản là không thể quản được. Vậy tại sao trong “Tây Du Ký” thầy trò Đường Tăng lại tu thành? Đạo gia giảng âm dương ngũ hành; coi kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là yếu tố cơ bản cấu thành nên vạn sự vạn vật trong vụ trụ; Phật giáo giảng tứ đại: đất, nước, lửa, gió cấu thành nên vạn sự vạn vật. Lý luận tu luyện về cơ bản là khác nhau. Điều này chỉ có thể nói rõ một vấn đề, việc an bài quá trình tu luyện của thầy trò Đường Tăng là do một vị Phật cao hơn Phật Thích Ca Mâu Ni an bài tất cả. Chỉ là trong lịch sử Ngài không tạo ra ảnh hưởng gì, nói ra thì tư tưởng của người ta cũng không tiếp thu được, cho nên mới mượn danh nghĩa là Phật Thích Ca Mâu Ni an bài cho thầy trò Đường Tăng tu luyện.

Do đó từ góc độ này mà nói, Bồ Đề Tổ Sư che giấu thân phận tu Đạo của bản thân mình không chỉ là vấn đề ông kiêng kỵ. Ông đang chờ đợi, chờ đợi khi Đại Pháp chân chính của vũ trụ khai truyền sẽ có thể làm cho người ta hiểu được nỗi khổ tâm của ông. Ông biết rằng, Đại Pháp chân chính của vũ trụ sẽ bao hàm cả Phật gia và Đạo gia mà tu luyện. Con đường tu luyện nơi trần thế của ông là để làm bằng chứng cho việc đắc chính Pháp trong tương lai. Đó chính là, tu Đạo cũng vậy mà tu Phật cũng vậy, nếu tu luyện trong Đại Pháp của vũ trụ thì đều có thể giữ lại những thứ vốn có của chính mình, từ đó tiến tới tu luyện trở về bản chất tiên thiên của sinh mệnh bản thân, và có thể đạt được đến tầng thứ cao hơn.

Một nạn được bổ sung thêm cho Đường Tăng, có thể nói là Đường Tăng “hạnh hỉ hoàn nguyên ngộ Lão Ngoan” (may mắn trở lại gặp lão rùa), ý nghĩa trong đó là nói Đường Tăng trải qua tu luyện thì vẫn là trở về bản nguyên của chính mình, nhưng “nguyên” trong hoàn nguyên lại là cùng tuổi với Lão Ngoan, chỉ là mới có lịch sử hơn 1.200 năm, cũng chính là bản nguyên của Kim Thiền Tử hạ xuống phàm gian. Bởi vì Đường Tăng đã trở về trạng thái bản tính lúc mới đến nhân gian, đương nhiên cũng là tu luyện viên mãn rồi, cũng là điều mà Phật giáo giảng “kiến tính thành Phật”.

Sư phụ Lý Hồng Chí trong “Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2007” đã giảng: “Miễn là chư vị đến nơi người đây, ai cũng không lên được thiên thượng; đó là tuyệt đối, chưa có ai từng có thể lên thiên thượng.” “Nói cách khác, ai tiến nhập vào tam giới, ai đã đến [cõi] người nơi đây rồi, thì là đã rớt xuống rồi, chính là không thể lại quay trở về trên nữa, vì nhân loại quá khứ không có chân Pháp có thể khiến con người quay về thiên thượng.” Vậy thì những sinh mênh tầng thứ cao như vậy vì sao lại đến nhân gian? Là họ đang chờ đợi, chờ đợi đến khi Đại Pháp của vũ trụ khai truyền, thì họ sẽ lại đến nhân gian để tu luyện theo Đại Pháp của vũ trụ. Chỉ có như thế này thì họ mới có thể thật sự vượt khỏi tam giới để trở về nơi thế giới của chính mình. Điều này cũng phù hợp với điều Đường Tăng nói: “Thân người khó được, Trung Thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp; nếu được cả ba điều, thì may mắn lắm thay!” Đường Tăng đắc được thân người, lại là người Trung Thổ, vậy tại sao ông còn đi Tây Thiên thỉnh kinh? Hiển nhiên là vì chính Pháp của vũ trụ vẫn chưa được truyền xuất. Thế thì thầy trò Đường Tăng giờ ở nơi đâu. Có vị tu luyện có thiên mục khai mở ở tầng thứ rất cao nói rằng, họ hiện giờ đều đang tu luyện Pháp Luân Đại Pháp.

Người ta nhất thời không thể nào tiếp thu được cách nói này. Thực ra chỉ cần chúng ta thay đổi góc nhìn thì sẽ minh bạch ngay thôi, Phật Thích Ca Mâu Ni giảng, tu luyện có tám vạn bốn nghìn pháp môn. Ở Trung Quốc có rất nhiều pháp lớn của Phật gia lưu truyền trong dân gian, đơn truyền qua các thời đại khác nhau, Phật cao hơn Phật Thích Ca Mâu Ni đương nhiên cũng đếm không xuể. Đây là điều ẩn chứa trong “Tây Du Ký” nhưng lại có thể tiết lộ một bí mật khác.

“Tây Du Ký” có kết cấu vô cùng đồ sộ, mở đầu là nói về nguồn gốc của trời, đất, con người. Nói “Số của trời đất, là 12 vạn 9 nghìn 6 trăm tuổi làm một nguyên” (một nguyên là 129.600 năm). Sự hình thành và xuất hiện của trời, đất, con người cũng chỉ là theo chu kỳ mấy vạn năm lịch sử. Nhưng trong truyện nói rằng Ngọc Hoàng Đại Đế đã trải qua 1.750 kiếp, mỗi kiếp là 129.600 năm. Hiển nhiên là Ngọc Hoàng Đại Đế tồn tại trước cả trời đất. Trong “Tây Du Ký” nói rằng Bồ Đề Tổ Sư cũng là “Lịch kiếp minh tâm Đại Pháp Sư”. Nhưng không nói ông đã trải qua bao nhiêu kiếp, cũng là trải qua bao lần thành-trụ-hoại-diệt của trời đất và con người, cũng giống như Bồ Đề Tổ Sư đã tồn tại trước cả trời đất. Thực ra nhiều chính giáo trên thế giới đều giảng về lịch sử của Thần Sáng Thế, con người là do Thần tạo ra. Mục đích tạo ra con người là để Thần nơi thượng giới xuống đến phàm gian mà hoàn trả tội nghiệp của họ, đồng thời chờ đợi Đại Pháp của vũ trụ khai truyền ở tầng thấp nhất trong vũ trụ – nhân gian, để có cơ duyên đồng hóa với Chính Pháp, từ đó làm cho chúng sinh nơi thiên thể mà họ đại biểu có thể được đắc cứu trong Chính Pháp của vũ trụ. Con người sinh ra là nhờ cha mẹ, cũng chỉ là một phương thức tồn tại và sinh sôi mà Thần thiết đặt ra cho con người mà thôi. Thần đến thế gian thì cũng chỉ có thể lấy phương thức sinh tồn thế này mà thôi. Tôn Ngộ Không lấy hình thức con khỉ sinh ra từ tảng đá là muốn nói với thế nhân rằng, con người có tiên thiên, có thông linh, bản tính tiên thiên của con người cùng với vũ trụ không có sự khác biệt. Thế còn tiên thiên của con người là gì? Có miêu tả thế nào cũng không thể miêu tả được rõ ràng. Lấy Tu Bồ Đề mà nói, ông là vị Đại Pháp Sư trải qua bao nhiêu kiếp, trước khi đến nhân gian ông đã tồn tại rồi. Nhưng một sinh mệnh cao cấp thế này, khi đến nhân gian cũng phải lấy hình tượng của con người để xuất hiện. Mà khi sáng tác “Tây Du Ký” yêu cầu bản tính tiên thiên của con người phải có hình thức sinh mệnh tồn tại để con người có thể tiếp thu được, lại lấy hình thức sinh ra đến thế gian này mà con người có thể tiếp thu thì mới được, đây chính là nguyên do Tôn Ngộ Không sinh ra từ tảng đá.

Nói về con người trên thế giới ngày nay, rất nhiều người họ không biết được rằng đã luân hồi chuyển sinh tại thế gian bao nhiêu lần rồi. Có lẽ nguồn gốc sinh mệnh của người đó đến từ tầng thứ rất cao, ban đầu chỉ có một mục đích duy nhất khi xuống nhân gian này, đó chính là để đắc được Đại Pháp của vũ trụ. Nhưng trải qua sự luân hồi dài đằng đẵng, họ đã bị mê mờ nơi nhân gian rồi. Không để cho nhân loại bị mê mờ đi chính là mục đích mà “Tây Du Ký” được truyền ra cho thế nhân, đó là vì để lưu lại cho con người thế gian một cơ hội khai mở bản tính khi Đại Pháp vũ trụ khai truyền, vì sự hồng truyền của Đại Pháp vụ trụ nơi thế gian mà đặt định nền móng. Trong “Chuyển Pháp Luân” bài giảng thứ chín có giảng: “Người ta nói: ‘Ta đến xã hội người thường, giống như đến khách sạn, tá túc vài ngày, rồi vội rời đi’. Một số người cứ lưu luyến nơi này mãi, quên cả nhà của bản thân mình.”

Miêu tả về Bồ Đề Tổ Sư trong “Tây Du Ký” thực ra chính là sự tái hiện bản tính của con người: “Không tịch tự nhiên tùy biến hóa, chân như bản tính nhậm vi chi; Dữ thiên đồng thọ trang nghiêm thể, lịch kiếp minh tâm Đại Pháp Sư.” Người đắc đạo chân chính thì bản tính và thân thể hoàn toàn hợp nhất.

Nói đến đây, còn có một vấn đề nữa đã vô cùng rõ ràng, đó chính là mối quan hệ giữa Ngọc Hoàng Đại Đế cùng Tôn Ngộ Không, Bồ Đề Tổ Sư, và Đường Tăng. Từ góc độ tự thân tu luyện mà nói, họ là cùng một thân thể, bởi vì Ngọc Hoàng Đại Đế là chủ tể của thân thể, thì có chỗ nào khác với Đường Tăng? Như vậy thì số kiếp mà Bồ Đề Tổ Sư trải qua cũng chính là 1.750 kiếp mà Ngọc Hoàng Đại Đế trải qua.

Đây là chúng ta đứng từ góc độ tu luyện cá nhân mà nói. Đứng ở góc độ toàn nhân loại mà nói, tam giới là có tồn tại, Thiên Cung cũng là có tồn tại, Ngọc Đế tồn tại trong tam giới và Ngọc Đế trong tu luyện của Tôn Ngộ Không là không thể xem như tương đồng. Sự tu luyện cá nhân của Ngọc Đế nói là thật cũng được mà nói là hư cấu cũng được, rất nhiều là hình tượng hóa một cách ví von, trong “Tây Du Ký” có cách xử lý thế này, đó là từ góc độ truyền tải một tư tưởng đạo lý nhất định và sự giáo hóa của tác phẩm nghệ thuật mà suy xét cân nhắc. Tuy nhiên Thiên Cung và Ngọc Hoàng cùng chư Thần trong tam giới nữa, họ lại tồn tại thật sự, trong “Tây Du Ký” là mượn dùng từ góc độ tu luyện cá nhân để miêu tả. Cho nên nếu không nhìn từ góc độ tu luyện cá nhân, thì thắng cảnh nơi thiên quốc, chư Thần, Phật, Bồ Tát, cũng là độc lập không liên quan.

Văn hóa Trung Quốc là văn hóa Thần truyền, dường như những an bài trong lịch sử có biết bao ‘Thiên ý’ ở trong đó! Trung Quốc thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, mà hướng Nam đối ứng trong ngũ hành thuộc về hỏa. Theo quan hệ tương sinh tương khắc trong ngũ hành, mộc sinh hỏa, gọi là ‘mộc chi tử’, mộc (木) và tử (子) hợp lại chính là một chữ Lý (李), điều này cùng với điều tiết lộ ở phần đầu bài về danh tính của Phật Di Lặc đến thế thế gian truyền chính Pháp vào thời mạt pháp mạt kiếp là hoàn toàn giống nhau. Vào thời Đường, kinh mà Đường Tăng thỉnh là cho người dân triều Đường, danh tính của Đường Thái Tông là Lý Thế Dân đã bao hàm yếu tố này rồi.

Con người thế gian tiếp thu “Tây Du Ký” mà không có trở ngại nào. Điều này làm cho tôi nghĩ đến những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, bề ngoài thì người ở tất cả các tầng lớp đều có, từ những giáo sư đại học, quan viên chính phủ, người giàu có, cho đến công nhân, nông dân, trẻ nhỏ, rồi có những người lớn tuổi không biết chữ, đều có thể tiếp thu những Pháp lý mà Sư phụ Lý Hồng Chí giảng mà không có chút trở ngại nào. Trong Pháp Luân Đại Pháp xác thực là có những điều của Đạo gia như kinh mạch, âm dương, ngũ hành. Pháp Luân Đại Pháp là công pháp lấy Phật gia là chủ đạo, nhưng bề ngoài cơ bản không có liên quan đến ‘tứ đại’ giảng trong Phật giáo, điều này là nhất trí với “Tây Du Ký”. Đoàn Nghệ thuật Thần Vận (Shen Yun Performing Arts) do những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp thành lập, được mệnh danh là “chương trình đệ nhất thế giới”, liên tiếp mấy năm liền đều lấy những nội dung trong “Tây Du Ký” để diễn. Trong vở múa “Kim Hầu xuất thế” năm 2012, hình tượng vị Phật nắm Tôn Ngộ Không trong lòng bàn tay chính là hình tượng người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp – Ngài Lý Hồng Chí. Hàm ý trong đó làm cho người ta phải nghĩ sâu xa hơn.

Mở màn chương trình dạ hội Thần Vận năm 2014 càng làm chấn động người ta hơn, tiết lộ một cách sâu xa hơn về bản tính của sinh mệnh. Nơi thiên quốc, Sáng Thế Chủ mở lời ở trên đỉnh của đại khung vũ trụ: “Ai nguyện theo ta hạ thế Chính Pháp?” Mà trải khắp khung thể vũ trụ từ nơi cao nhất cho đến nơi thấp nhất lại là từng tầng từng tầng thiên thê (thang lên trời), tầng tiếp cận gần với thế gian nhất là bốn chữ vàng: ‘địa, thủy, hỏa, phong’. Điều này thuyết minh rằng, Sáng Thế Chủ khi đến nhân gian đã sớm đặt định cơ sở để con người trong tương lai có thể đắc Pháp, tất cả lịch sử đều là vì Sáng Thế Chủ xuống nhân gian và sự trở về của nhân loại tương lai mà làm những chuẩn bị.

‘Đất, nước, lửa, gió’ là những vật chất cơ bản cấu tạo nên thế giới được giảng trong Phật giáo. Phật giáo truyền vào Trung Quốc trong những năm đầu thời Đông Hán. Trên vũ đài của Thần Vận, Thần Phật hạ xuống thế gian chuyển sinh thành người, người ta vừa hát vừa nhảy múa, trên các ngọn cờ tung bay trong gió có một chữ “Hán”, điều này nói rõ chính là triều Hán. Sau khi bài hát “Giá thị chân âm” (Đây là lời chân thật) kết thúc, tiếp theo là vở múa “Hán phong khởi lệ” (Cảnh sắc tươi đẹp triều Hán). Đối chiếu với việc chúng ta giải “Tây Du Ký”, kết hợp với lịch sử Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc, thì có thể nhìn ra, trong mười đời chuyển sinh của Kim Thiền Tử, lần chuyển sinh đầu tiên cũng chính là thời kỳ Phật giáo bắt đầu truyền nhập vào Trung Quốc. Nét đẹp của “Tây Du Ký” không thể diễn tả bằng lời. Chúng sinh của biết bao thế giới thiên quốc đã vì sự hồng truyền của Đại Pháp ngày hôm nay mà đặt định cơ sở từ rất lâu rồi!

Chúng ta cùng xem lại ca từ của bài hát “Đây là lời chân thật”: “Tôi không biết bạn là ai, cho dù bạn ở nơi góc phố nào, tôi biết rằng con người thế gian phần lớn là đến từ Thiên thượng, vì để chờ đợi Sáng Thế Chủ, Ngài giúp bạn trừ bỏ tội nghiệp thì bạn mới có thể trở về nơi Thiên Đường. Thần Phật đến thế gian ma quỷ tất sẽ trở nên điên cuồng, chớ có tin những lời dối trá của con ma đỏ, vì nó không cho bạn nối lại Thánh duyên, mau tìm đệ tử Đại Pháp để hiểu rõ sự thật, đó là điều mà bạn chờ đợi hàng nghìn vạn năm, đó là hy vọng cuối cùng của bạn.” Những lời ca của bài hát này chính là đang khai mở Phật tính bị chôn giấu sâu thẳm trong tâm hồn con người.

Cuối cùng, tôi tin rằng đoạn Pháp sau đây trong cuốn “Chuyển Pháp Luân” của Sư phụ Lý Hồng Chí có thể giúp bạn phá mê: “Bởi vì công của chúng ta luyện được rất lớn; [điều] luyện được tương đương với cả vũ trụ. Như vậy mọi người thử nghĩ xem, trong vũ trụ này có hai ‘gia’ lớn là Phật gia và Đạo gia, loại trừ đi bất kỳ ‘gia’ nào cũng không cấu thành nên vũ trụ hoàn chỉnh được, không thể nói là vũ trụ hoàn chỉnh được; do đó chúng ta ở đây cũng có những điều trong Đạo gia.”

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Đường Tăng là Thầy của Tôn Ngộ Không, vậy tức là Tầng Cao hơn.

Đường Tăng là Chủ Nguyên Thần

Ngộ Không là Phật Tính của Đường Tăng

Vậy Nguyên Thần cao tầng hơn Phật Tính Posted Image. đại để có cái tôi cao siêu hơn cả bản thể chân tâm phật tính.

Khi mot nguoi co mong muon tu luyen thi duoc xac nhan la phat tinh da xuat lai. nguoi ta chi noi den ham nghia nay thoi. con cac bac tu cho no la cao hay thap . Phat tinh la tam mong muon tu luyen la phan bon quy chan . tu con khi da ma co mong muon tu luyen thif khong the hien la phat tinh la gi

Edited by DUCTHAI

Share this post


Link to post
Share on other sites

Khi mot nguoi co mong muon tu luyen thi duoc xac nhan la phat tinh da xuat lai. nguoi ta chi noi den ham nghia nay thoi. con cac bac tu cho no la cao hay thap . Phat tinh la tam mong muon tu luyen la phan bon quy chan . tu con khi da ma co mong muon tu luyen thif khong the hien la phat tinh la gi

DUC THAI cố gắng viết có dấu . Chẳng hiểu viết cái gì?!

Share this post


Link to post
Share on other sites

IV. Ngụ ý và ý nghĩa của “Tây Du Ký”

Kỳ thực, trong “Tây Du Ký” vẫn còn ẩn chứa một thiên cơ nữa chưa được người ta tiết lộ ra. Khi Tôn Ngộ Không học Đạo, Bồ Đề Tổ Sư vừa giảng về Đạo lại vừa giảng về Thiền, Phật và Đạo này vốn không thể trộn lẫn mà cùng tu luyện. Chính là nói một người, nếu người đó tu Phật thì là tu Phật, tu Đạo thì chính là tu Đạo, tuyệt đối không thể trộn lẫn vào mà tu. Bởi vì tu luyện Phật gia và Đạo gia thì công trên thân thể đều có hình thức tu luyện diễn hóa của bản thân, mà điều này lại đều là do sư phụ giúp đỡ diễn hóa cho. Ví dụ, Đạo gia tu luyện giảng tiểu chu thiên đại chu thiên, là chỉ việc đả thông hai mạch nhâm đốc, ba mạch âm ba mạch dương nơi tay, ba mạch âm ba mạch dương nơi chân. Nhưng mạch trong Phật gia lại chạy theo cách khác. Lấy mạch trong Mật tông mà nói, trong Đạo gia cơ bản không có cách nói này, cũng không tìm được căn cứ về phương diện này, vậy họ luyện như thế nào? Hơn nữa Phật Thích Ca Mâu Ni cơ bản không hề giảng về bộ phận công, mà bảo người tu luyện ngay cả thân thể cũng đều vứt bỏ.

...

Cuối cùng, tôi tin rằng đoạn Pháp sau đây trong cuốn “Chuyển Pháp Luân” của Sư phụ Lý Hồng Chí có thể giúp bạn phá mê: “Bởi vì công của chúng ta luyện được rất lớn; [điều] luyện được tương đương với cả vũ trụ. Như vậy mọi người thử nghĩ xem, trong vũ trụ này có hai ‘gia’ lớn là Phật gia và Đạo gia, loại trừ đi bất kỳ ‘gia’ nào cũng không cấu thành nên vũ trụ hoàn chỉnh được, không thể nói là vũ trụ hoàn chỉnh được; do đó chúng ta ở đây cũng có những điều trong Đạo gia.”

Cứ ăn thịt Đường tăng thì khỏi phải Phật gia với Đạo gia gì gì. Có sinh mà không lão bệnh tử Posted Image.

Sao không phân tích được tình tiết này ta ? Mất hết nghiêm túc.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ý muốn nói Pháp Luân Đại Pháp do thầy Lý Hồng Chí truyền giảng là Đại pháp bao trùm cả Đạo tiên và Phật pháp thì quả là chủ quan. Và thứ 2 cho rằng Phật Di Lặc sẽ đầu thai vào họ Lý thì cũng chủ quan nốt, đây gọi là cuồng tín.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay