Các phần sau trích từ "Kinh Dịch Đại Toàn" của cùng tác giả (được lấy từ trang http://nhantu.net) mang vào đây để phục vụ các bạn yêu thích học thuật phương đông :wub:
+++++++++++++++
Chương 1. Xuất xứ
Bất kỳ quyển Kinh Dịch nào cũng có hình vẽ Hà Đồ nơi đầu sách, như vậy đủ chứng minh Hà Đồ có liên quan mật thiết đến Kinh Dịch.
Nhưng đến khi giải thích Hà Đồ, thì thường các tác giả giải thích một cách sơ lược phiến diện, nên rút cuộc người đọc không nhận thức được những nghĩa lý sâu xa của Hà Đồ. Có hai lối giải thích Hà Đồ:
Một là lối học đường, khoa cử. Đó là đường lối Nho gia chọn.
Hai là lối siêu hình, đạo giáo, đó là đường lối Đạo gia theo.
Giải thích theo lối học đường, mới đầu xem ra có vẻ chính thống, lý sự nhưng cuối cùng chẳng giúp ta thêm kiến thức là bao. Giải thích theo lối siêu hình, đạo giáo, mới đầu tưởng như không được chính thống, nhưng thực ra giúp ta tháo gỡ được những then chốt, phanh phui được những huyền vi của Hà Đồ.
Muốn tìm lối giải thích văn học, ta chỉ việc đọc:
Dịch Kinh Đại Toàn,
Dịch Kinh Thể Chú,
Dịch Kinh Độc Bản v.v..
Muốn tìm lối giải thích siêu hình, đạo giáo, ta phải đọc:
Chu Dịch Xiển Chân (Lưu Nhất Minh),
Tinh Hoa Lục (Văn Đạo Tử),
Tham Đồng Khế (Ngụy Bá Dương).
Thiên khảo luận này sẽ bao quát cả hai lối giải thích đó.
XUẤT XỨ CỦA HÀ ĐỒ
Tục truyền, đời vua Phục Hi có con Long mã hiện ra nơi sông Mạnh Hà, trên lưng có mang một hình đồ, vì vậy gọi là Hà Đồ. [1]
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Hà xuất đồ, Lạc xuất Thư, Thánh nhân tắc chi. 河 出 圖 洛 出 書 聖 人 則 之.
— Dịch Kinh Bản Nghĩa, Mục Hà Đồ & Hệ Từ Thượng Truyện, chương 10.
Chương 2. Cấu tạo của Hà Đồ
Hà Đồ nguyên thủy chỉ có 55 điểm đen trắng phân phối như sau:
Các nhà Huyền Học Lão Giáo dần dà thêm vào cổ bản Hà Đồ:
1. Ngũ Hành, Thập Can
2. Ngũ Nguyên, ngũ Đức
3. Ngũ Tặc, Ngũ Vật
lập thành những Hà Đồ biến chế như sau:
A. Cổ Hà Đồ
B. Hậu Thiên Âm Ngũ Hành
C. Tiên Thiên Dương Ngũ Hành
D. Sinh Sơ Âm Dương Ngũ Hành Hỗn Hợp
Chương 3. Đại cương
A.- Hà Đồ gồm 55 điểm đen trắng chia thành chẵn lẻ, Âm Dương.
Dương số: 1 + 3 + 5 + 7 + 9 = 25
Âm số: 2 + 4 + 6 + 8 + 10 = 30
Tức là chẵn nhiều hơn lẻ, Âm nhiều hơn Dương, với ngụ ý:
Âm phải bao bọc cho Dương tôn quí ở bên trong, Âm ti tiện ở bên ngoài. Âm chính ra phải đóng vai bì phu, vỏ bọc, vai khách. Âm Dương mới là chủ động, cốt cán.
Tuy nhiên, nhìn vào Hà Đồ ta thấy:
Bên phía phải, các số lẻ 7 và 9 (Dương) lại ở bên ngoài, các số chẵn 2 và 4 (Âm) lại ở bên trong.
Ở bên trái, thì ngược lại: Các số lẻ 1, 3 (Dương) ở phía trong, các số chẵn 6, 8 (Âm) ở phía ngoài.[1]
Các nhà bình giải muốn thoát ngõ bí, mới đề nghị rằng: ở Hà Đồ phải coi các số sinh 1, 2, 3, 4 bên trong là Dương, các số thành 6, 7, 8, 9 bên ngoài là Âm.
Như vậy Dương sẽ ở bên trong, Âm sẽ ở bên ngoài, tượng trưng nhẽ Âm Dương giao thái. [2]
Giải thích rằng trong là chủ, ngoài là khách, thì
đúng. Nhưng nói trong là Dương, mà ngoài là Âm e chỉ đúng một nửa. Thực vậy, Kinh Dịch trước sau vốn chủ trương các số 1, 3, 5, 7, 9 là Dương số; 2, 4, 6, 8, 10 là Âm số. [3] Cho nên có lẻ, nên giải thích như sau:
Hà Đồ cũng như Dịch Kinh luôn chủ trương: Âm Dương bất trắc, Âm Dương hỗ vi kỳ căn, cho nên dĩ nhiên có hai chiều, hai mặt, hai chủ trương đối lập: [4]
Nửa phải: Âm chủ, Dương khách
Âm trầm, Dương phù
Tượng trưng: Âm Dương bất giao (Bĩ)
Nửa trái: Dương chủ, Âm khách
Dương trầm, Âm phù
Tượng trưng: Âm Dương tương giao (Thái)
Lối giải thích này cho ta thấy lối kết cấu Hà Đồ cũng y thức như vòng Dịch Tiên Thiên, Âm Dương đắp đổi ngôi vị chủ khách, phù trầm. Nó hợp với Dịch lý vì cho ta thấy đời tuy có hai chiều, hai mặt nhưng những con người biết suy tư phải biết Điên đảo Âm Dương phản cửu hoàn, xoay trở Âm Dương để trở về quê hương gốc gác. Nói cách khác, phải biết điên đảo để thu Dương Thần vào bên trong đừng để cho tinh thần phù phiếm tán loạn ra bên ngoài, bởi vì:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc Mệnh một đời tài hoa [5]
B.- Hà Đồ chuyên về thường, Lạc thư chuyên về biến.
Vì chuyên về thường, nên Hà Đồ cho ta thấy:
1. Bản thể chân thường, ngũ thập cư trung của vũ trụ.
2. Các tiêu chuẩn biến thiên tiến hóa bằng cách trình bày 4 trạng thái tương đối, tương phản nhau từng đôi một. Ý nói trong vòng biến thiên có những giai đoạn đối lập, đối đỉnh nhau, và cơ cấu vạn hữu cũng đã hàm tàng những mâu thuẫn nội tại. Cho nên thịnh suy thăng trầm là lẽ tự nhiên của Trời đất.
Nguyên lý đó được trình bày như sau:
Trong đó, Thủy Hỏa mâu thuẫn đối lập nhau, Kim Mộc mâu thuẫn xung khắc nhau. Hai đôi mâu thuẫn đó đã được đặt vào những phương vị đối xứng, đối đỉnh.
3. Hà Đồ chỉ sự toàn thiện, toàn bích, lúc chung cuộc nên có đủ 10 con số, và đem số 10 đặt lại vào Trung Cung, ý nói Thiên địa tuần hoàn chung nhi phục thủy. [6]
--------------------------------------------------------------------------------
CHÚ THÍCH
[1] Thái Cực chi tiên, Âm dựng hồ Dương, Thái Cực chi hậu, Dương thống hồ Âm. 太 極 之 先 陰 孕 乎 陽, 太 極 之 後 陽 統 乎 陰. — Đại Đỗng Chân Kinh, trang 19.
[2] Dĩ kỳ nội giả vi chủ, nhi tại ngoại giả thành chi dã. 以 其 內 者 為 主 而 在 外 者 成 之 也. — Dịch Kinh Đại Toàn, trang 19.
[3] Cf. Dịch Kinh Độc Bản, trang 1, chương Đồ thuyết. — Hệ Từ thượng, chương 8, trang 99.
[4] Hai chiều, hai mặt ấy được thể hiện bằng hai quan niệm sau đây: một là ngoại cảnh, hình hài, hỗ trợ nội giới tinh thần, hai là tâm thần nô lệ cho hình hài, ngoại cảnh.
a. Cố hữu vi vô chi cung, hình nãi thần chi thất. 故 有 為 無 之 宮 形 乃 神 之 室. — Chư Chân Ngữ Lục, trang 2
b. Thần vi tâm dịch, tâm vi vật khiên. 神 為 心 役 心 為 物 牽 . — Thái Thượng Lão Quân Thuyết Thường Thanh Tĩnh Kinh Chú, tr 2.
[5] Kiều.
[6] Thiên địa đồng lưu nhi định phân bất Dịch dã. Át kỳ toàn dĩ thị nhân, nhi đạo kỳ thường giả. Số chí thập nhi thủy toàn. Khuyết nhất tắc bất toàn hĩ. 天 地 同 流 而 定 分 不 易 也. 揭 其 全 以 示 人 而 道 其 常 者. 數 至 十 而 始 全. 缺 一 則 不 全 矣. — Dịch Kinh Đại Toàn, trang 21.
--------------------------------------------------------------------------------
Chương 4. Hà Đồ với khoa số học
Các Triết gia đời Tống cho rằng: Hà Đồ hình tròn tượng trưng cho thiên tượng, cho tinh tú.[1] Vì vậy các số trong Hà Đồ có thể dùng cho lịch số. Theo Chu Tử:
Số 1, 2 dùng để phân Âm Dương, Cương Nhu.
Số 5, 6 dùng để làm lịch số.
Số 9, 10 dùng để định chu kỳ tháng nhuận. [2]
Như vậy, Chu Tử đã đề cặp đến 3 vấn đề:
1. Vấn đề Nhất Thể Lưỡng Diện của vũ trụ
Theo Chu Tử, số 1 và 2 tượng trưng cho Dương và Âm tức là hai chiều hai mặt của vũ trụ. Vũ trụ luôn biến thiên theo hai chiều khác nhau, nhất phục nhất khởi, nhất tiêu nhất tức, như vậy biến hóa sẽ vô cùng tận.
Nếu vũ trụ chỉ biến hóa theo một chiều thì thế nào cũng có lúc tận thế.
Trong thế kỷ XIX, khoa học tưởng vũ trụ chỉ tiến hóa có một chiều hướng, theo nguyên lý II Carnot-Clausius. Theo nguyên lý này thì động lực ngày một tiêu hao, và có một lúc nào đó sẽ triệt tiêu. Khi ấy vũ trụ sẽ trở nên im lìm, tĩnh lãng, lạnh lùng. [3]
Nhưng sang thế kỷ XX, với quan niệm tương đối của Einstein, [4]nguyên lý bất định của Heisenberg, [5] phương trình phản phúc của Dirac, [6] quan niệm nhất thể lưỡng diện của Louis de Broglie, [7]nhiều nhà bác học – trong đó có Lecomte du Noüy [8] – đã nhận định phải có một chiều tiến hóa ngược lại với nguyên lý Carnot. Lecomte du Noüy chủ trương tinh thần và vật chất tiến hóa ngược chiều nhau, nên khi tinh thần lên đến cực điểm tinh hoa, thì vật chất sẽ triệt tiêu phá tán. [9]
Sở dĩ có hai chiều, hai hướng tiến hóa, biến thiên là vì tinh thần vật chất chẳng qua cũng chỉ là hai mặt của một thực thể duy nhất. [10]
Theo khoa học hiện đại, thì năng lực có thể biến thành vật chất, vật chất có thể biến thành năng lực. [11]
Thế là thuyết Âm Dương của Á Châu ngày nay đã được khoa học Âu Mỹ xác nhận.
2. Số 5 và số 6 với lịch số
Chúng ta hãy khảo sát ảnh hưởng của hai con số 5 và 6 trong lịch số.
Trên thực tế thì vì sự biến chuyển có hai chiều Âm Dương, nên số 5 và 6 thường được nhân 2 thành 10 và 12.
Xưa 10 là một tuần 10 ngày.
10 là Thập Can
12 là Lục Luật (Dương),và Lục Lã (Âm).
* Lục Luật (Dương) là: 1/ Hoàng chung (Do),
2/ Thái thốc (Re), 3/ Cô Tẩy (Mi), 4/ Nhụy tân (Fa#),
5/ Di tắc (Sol#), 6/ Vô Dịch (La#)
* Lục Lã (Âm) là: 1/ Đại Lã (Do#), 2/Giáp Chung (Re#), 3/ Trọng Lã (Fa), 4/Lâm Chung (Sol), 5/ Nam Lã (La), 6/ Ứng Chung (Si).
Theo Trung Hoa 12 là 12 giờ một ngày (2 giờ Trung Hoa xưa là 1 giờ Âu Châu)
Một năm có 360 ngày: (5 x 6) (6 x 2),
24 tiết (mỗi tiết là 15 ngày), 24 x 15 = 360)
72 hầu (mỗi hầu là 5 ngày (72 x = 360)
Cứ 60 năm (6 x 10 = 5 x 12 = 60) là một Hoa Giáp.
Mặt trời qua một cung Hoàng Đạo mất 2160 năm (360 x 6), đi một vòng 12 cung Hoàng Đạo mất 25920 năm (360 x 72).
Một Nguyên theo Trung Hoa là 129600 năm (360 x 360): Con số 129600 rất lạ vì:
129600 năm là một Nguyên (12 hội)
129600 tháng là một Hội (30 vận)
129600 ngày là một Vận (12 thế)
129600 giờ là một Thế Kỷ (30 năm)
129600 phân là một Năm (12 tháng)
129600 ly là một Tháng (30 ngày)
129600 hào là một Ngày (12 giờ)
129600 ti là một Giờ [12]
3. Số 19 (10+9) với phép tính Tháng Nhuận
Một năm Dương Lịch có 365 ngày 235/940.
Một năm Âm Lịch chỉ có 354 ngày 348/940.
Như vậy mỗi năm, Dương lịch và Âm lịch chênh nhau: 10 ngày 827/940
Vì vậy phải lập tháng nhuận cho Âm lịch.
Kinh nghiệm cho thấy, trong một vòng 19 năm nếu thêm vào Âm lịch 7 tháng nhuận, [13] thì sau 19 năm, Âm lịch và Dương lịch lại có cùng một ngày tháng như nhau. Đó là Chu kỳ Méton.
Ngoài ba trường hợp áp dụng Số học của Hà Đồ để đi tìm các định luật của trời đất kể trên, theo nhận định của Chu Tử, ta có thể dùng 10 con số Hà Đồ để tìm ra nhiều định luật vũ trụ khác. Đây chỉ xin dẫn thêm ít nhiều ví dụ:
1/. 18 năm (10 + 8) là Chu kỳ Saros (18 năm 11 ngày cho ta chu kỳ các Nhật thực, Nguyệt thực. Trong 18 năm có 70 lần Nhật thực, Nguyệt thực. Hết 18 năm lại trở lại như cũ.
2/. Ta có thể dùng cấp số nhân của 2 mà tính ra khoảng cách giữa các hành tinh và mặt trời theo như Định luật Bode. Ta viết:
0, 1, 2, 4, 8, 16, 32, 64, 128.
Đoạn nhân cho 3:
0, 3, 6, 12, 24, 48, 96, 192, 384.
Đoạn cộng với 4:
4, 7, 10, 16, 28, 52, 100, 196, 388.
Đoạn chia cho 10:
0, 4, 0, 7, 1, 1, 6, 2, 8, 5, 2, 10, 19, 6, 38, 8.
Ta có: [14]
Tên các hành tinh
Khoảng cách đại khái theo lối toán trên
Khoảng cách thật sự theo khoa học
Thủy tinh
Mercury
0,4
0,3871
Kim tinh
Venus
0,7
0,723
Trái đất
Terre
1
1
Hỏa tinh
Mars
1,6
1,523
Cérès
Cérès
2,8
2,77
Mộc tinh
Jupiter
5,2
5,202
Thổ tinh
Sature
10
9,554
Thiên vương tinh
Uranus
19,6
19,21
Hải vương tinh
Neptune
38,8
30,10
4. Tứ Tượng và Vũ trụ vạn vật
Hà Đồ dùng các con số 1, 2, 3, 4 để chỉ cơ cấu vạn vật 6, 7, 8, 9 để chỉ sự biến thiên của vạn vật.
Theo các nhà Huyền Học Âu Châu thì Tứ Tượng chỉ là biến thái của một thực thể duy nhất. [15]
Theo Pythagore, thì bốn con số 1, 2, 3, 4 đã đủ tượng trưng vũ trụ và sự vận chuyển của vạn hữu.
1, 2, 3, 4 là 4 trạng thái biểu dương sự phát hiện của Thượng Đế. Họ viết
Những chữ Do Thái ấy là:
Yod
Yod - He
Yod - He -Vau
Yod - He Vau - He [16]
Viết thành vòng tròn ta có:
mà Yod He Vau tức là YHVE (YAHVE, JEHOVAH).
Môn phái Pythgore gọi hình Tứ Tượng là Tétractys hay Tetragrammaton.
Và Tứ Tượng phân bá ra bốn phương có nghĩa là vũ trụ chuyển hóa không ngừng. [17]
Không đi sâu hơn vào vấn đế Số học, ta thấy rằng Hà Đồ với những con số có thể cho ta biết nhiều huyền cơ vũ trụ, hơn nữa ta cũng thấy rằng trên những vấn đề căn bản, Đông Tây chẳng khác chi nhau.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÚ THÍCH
[1] Thiệu tử viết: Viên giả tinh dã, lịch kỷ chi số kỳ triệu ư thử hồ. 邵 子 曰: 圓 者 星 也, 歷 紀 之 數 其 肇 於 此 乎.— Dịch Kinh Đại Toàn, trang 17.
[2] Dịch Kinh Đại Toàn, trang 17.
[3] La deuxième loi, celle de Carnot-Clausius permettait de comparer l'écoulement de l'énergie dans l'Univers à celui d'un fleuve dont le courant descend le plus aisément du monde, mais qu'il est plus difficile de remonter. — Pierre Rousseau, Histoire de la Science, p. 594.
[4] Théorie de relativité.
[5] Principe d'intéterminisme de Heisenberg.
[6] L'équation de Dirac pour la matière se trouve complètement réversible. — Lecomte du Noüy - L'homme devant la Science p. 109.
[7] Associer, dans tous les cas, l'onde à la particule, qu'il s'agisse de la lumière ou de la matière, telle fut l'idée géniale qui guida l'illustre savant (Louis de Broglie) et l'amena en quatre ans, à mettre debout la mécanique ondulatoire... La physique était unifiée, il n'y avait plus désormais qu'un seul code régissant l'univers, qu'une seule entité élémentaire dans la nature, entité à double face, qu'il était tantôt commode de baptiser onde tantôt plus commode de baptiser particule. — Pierre Rousseau, Histoire de la Science - page 777.
[8] Cf Lecomte du Noüy, L'Homme devant la Science, L'Avenir de l'Esprit, la Dignité Humaine, L'homme et sa Destinée.
[9] Ainsi la marche de l'univers physique dans la direction d'un chaos inerte et du néant serait compensée par la progression parallèle d'un univers impondérable, celui de l'esprit, dont l'ordre et la perfection naîtraient des cendres du monde matériel...
Finalement dans un univers refroidi, chaotique, anéanti où aucune action physique ne sera plus possible, existerait un ordre parfait, spirituel, affranchi de toutes chaînes matérielles, L'ordre du début, purement matériel aboutissant à un ordre de qualité plus haute pour finir...
Le fait curieux est que si l'on exprime par deux nombres les variations des deux processus contraires, leur produit est constant. — Lecomte du Nouy, L'homme devant Science - page 109.
[10] Matière et Esprit, écrit le P. Teilhard en 1950, non point deux choses mais deux états, deux faces d'une même étoffe cosmique suivant qu'on la regarde ou qu'on le prolonge dans le sens où elle se fait ou au contraire dans le sens suivant lequel elle se défait. — Jean Onimus, Pierre Teilhard de Chardin,- page 81.
[11] La masse était génératrice d'énergie, et celle-ci inversement, devait posséder une masse, autrement dit, la lumière, la chaleur, les rayons X devaient avoir un certain poids, c'est-à-dire encore qu'énergie et masse devaient être une seule et même chose, les deux faces d'une même médaille... — Pierre Rousseau, Histoire de la Science, page 756.
[12] Cf. Louis Chochod, Huế la Mystérieuse, trang 51.
Cf. Louis Raoul Auclair, Le Livre des Cycles, page 178.
[13] Tháng nhuận được thêm vào các năm thứ 3, 6, 9, 11, 14, 17, 19 của mỗi chu kỳ Méton. Như vậy 19 năm Âm lịch sẽ có 235 tháng.
[14] 1 là khoảng cách giữa trái đất và mặt trời khoảng 150,000,000 km. (149,500,000 km). — Cf. Astonomie Populaire, Flammarion, trang 664 - 665 và 299 - 300.
[15] Ce qu'ici-bas nous nommons par ces termes (Quatre éléments) sont les ressemblances et pour tout dire les vêtements dans le monde physique, de ces quatre Principes, de ces quatre Etats, de ces quatre Normes que sont les quatre Eléments. — Raoul Auclair, Le Livre des Cycles p. 143.
[16] Cf. Mackey's revised Encyclopedia of Freemasonry Volume 11, page 1033. Raoul Auclair, Le Livre des Cycles, page 175.
[17] Pythagoras having learned in Egypt the name of the true God, the Mysterious and Ineffable Name Jehovah, and finding that in the original tongue, it was composed of four letters translated it into his own language by the word Tetractys, and gave the true explanation of it, saying that it properly signified the source of nature that properly rolls along. (Dacier)...
... I swear it by Him who has transmitted into our soul the sacred Tetractys. The source of nature, whose course is eternal (Jamblichus - Life of Pythagoras)
Cf. Mackey's Revised Encyclopedia of Freemasonry - Volume II p. 1033.
--------------------------------------------------------------------------------
Chương 5. Liên lạc giữa hà Đồ, Bát Quái, và Lạc Thư
Hà Đồ
Bát Quái
Hà Đồ có đủ Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái.
Thái Cực = 5 + 10
Lưỡng Nghi = a) Dương Nghi: 1 + 3 + 7 + 9 = 20
B) Âm Nghi: 2 + 4 + 6 + 8 = 20
Tứ Tượng = 1 + 6; 2 + 7; 3 + 8; 4 + 9
Bát Quái = 7, 2, 8, 3, 6, 1, 9, 4
Muốn có Bát Quái ta chỉ việc đưa 4 con số bên trong vào 4 phương Bàng (Tứ Duy) theo chiều nghịch kim đồng hồ:
7
2
8 3 4 9
1
6
Càn
7
Đoài 2 4 Tốn
Ly 8 9 Khảm
Chấn 3 1 Cấn
6
Khôn
Muốn có Lạc Thư, ta:
1. bỏ số 10 ở Trung cung
2. đảo lộn 2 cặp số 4/9 và 2/7 với nhau
3. đặt các số chẵn vào bốn phương bàng (tứ duy) theo chiều nghịch kim đồng hồ. Ta sẽ có:
7
2
8 3 5/10 4 9
1
6
9
4
8 3 5 2 7
1
6
9
4 2
3 5 7
8 6
1
Thế là Kim Hỏa đổi ngôi, và chiều vận dụng của Lạc Thư sẽ theo chiều Ngũ Hành tương khắc.
Đó tức là chiều Âm của các vì sao trong Tử Vi.
Hà Đồ chủ sinh. Lạc Thư chủ khắc.
Hà Đồ vụ tu nội, mục đích giúp con người trở thành thần thánh.
Lạc Thư chủ trị ngoại, giúp con người sống an vui hạnh phúc. Các bậc Thánh vương đã nhân Lạc Thư làm ra Hồng Phạm Cửu Trù để dạy các bậc Đế vương phương pháp tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. (Xem quyển Khổng Học Tinh Hoa của tác giả.)
--------------------------------------------------------------------------------
Chương 6. Những vấn đề siêu hình tàng ẩn trong Hà Đồ
Trong Hà Đồ tàng ẩn nhiều bí quyết siêu hình, nhiều vấn đề triết lý, nhân sinh, đạo giáo.
Chúng ta sẽ lần lượt khảo cứu ít nhiều vấn đề then chốt sau đây:
1/. Trung Cung, Trung Điểm hay Bản Thể Vũ trụ.
2/. Chu Vi hay là Vạn Hữu với Nguyên Lý Diễn Dịch Tuần Hoàn.
3/. Quan niệm Âm Dương, hay Nhất Thể Lưỡng Diện.
4/. Nguyên tắc sinh thành hay là sự cộng tác của Âm Dương, của tinh thần vật chất, để thực hiện đại công của vũ trụ.
5/. Các hình thái hay các tầng lớp con người theo Hà Đồ.
6/. Quan niệm Thiên Nhân Tương Dữ theo Hà Đồ.
7/. Tạo hóa Qui Trung Chi Diệu theo Hà Đồ.
1. Trung Cung, Trung Điểm hay là Bản Thể của Vũ trụ
Kinh Dịch chỉ dùng có mấy đồ bản Hà Đồ, Lạc Thư và các họa bản Dịch mà đã mặc nhiên đề cập được hết các vấn đề:
a). - Căn Nguyên, Cùng đích của vạn vật
B). -Sự biến thiên: Các giai đoạn biến thiên, và chiều hướng biến thiên của vạn vật. [1]
Tất cả các họa bản đều diễn tả một chân lý siêu việt: Vạn vật từ một thực thể siêu vi sinh xuất, biến hóa muôn vàn, thi triển hết mọi khả năng, tận dụng mọi kết quả, rồi cuối cùng lại trở về Căn Nguyên bản thể.
Vũ trụ dẫu tán phân, phóng phát bao nhiêu chăng nữa rồi ra cũng qui về Đại thể siêu vi.
Phân tán thì chu lưu cùng vũ trụ, thâu liễm thì kết tụ trong tâm điểm tế vi. [2]
Có biết nhẽ: Nhất thể biến Vạn thù, Vạn thù qui Nhất thể, có biết nhẽ biến hóa tuần hoàn, phản phúc, phóng đãng, di lưu, rồi lại qui căn, phản bản, thì mới hiểu được vi ý của các họa bản Hà Đồ, Lạc Thư và Dịch.
Đại thể, Bản Thể Bất Khả Tư Nghị ấy các nhà Huyền Học Nho, Lão đã gượng ép mà đặt cho những tên Thái Cực Đạo và gượng ép tượng trưng bằng những số những hình.
Thái Cực trong Dịch
Ngũ trong Lạc Thư
Ngũ thập trong Hà Đồ.
Theo cùng khuôn mẫu ấy các khoa Thiên văn, Địa lý, Nhân sinh cũng chủ trương:
1. Trung tâm trời là Thiên Khu [3], Thiên Cực, Bắc Cực hay Tử Vi cung [4].
Trung Điểm đất theo quan niệm Trung Hoa là núi Côn Lôn [5].
Trung Điểm trong con người là: Nê Hoàn Cung, Côn Lôn, Cốc Thần hay Thiên Cốc v.v.. [6]
Như vậy ngũ thập cư trung trong Hà Đồ là bản thể, tức là Thái Cực. [7]
5 và 10 là số đại thành bao quát Âm Dương:
5 = 1 + 4
5 = 2 + 3
15 = 6 + 9
15 = 7 + 8
cũng như 5 và 10 phân tán ra tứ phương sẽ sinh ra các số Âm Dương bên ngoài, Thái Cực cũng sinh xuất muôn vật.
Cho nên bất kỳ trong một đồ bản nào, Trung Cung, Trung Điểm cũng tượng trưng cho Thái Cực, Căn nguyên sinh xuất muôn vật và cũng là nơi giao hội, qui hoàn của vạn vật:
Mới hay:
Con con cháu cháu vấn vương,
Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương hồi đầu.
Càn, Khôn, Ly, Khảm gặp nhau,
Hợp thành một khối, gót đầu chẳng phân.
Thế là thần khí qui căn,
Một lèo khinh khoát, băng chừng hư vô.
Âm Dương thông lý, hiệp hòa,
Sẽ cùng tạo hóa vào ra muôn đời. [8]
Cổ nhân dùng Trung Cung, Trung Điểm để tượng trưng cho Thái Cực, cho Bản Thể của vũ trụ là một sự kiện hiển nhiên được minh chứng chẳng những bằng Hà Đồ, mà còn bằng Lạc Thư, và các đồ bản của Dịch.
Cao tăng Diệu Hư viết:
Đãn đắc thử trung vô quải ngại.
Thiên nhiên bản thể tự hư không [9].
Tạm dịch:
Được Trung, là hết lôi thôi.
Thiên nhiên, Bản thể đất trời là Trung.
Đại Đổng Chân Kinh còn ghi: Tìm căn bản phải tìm nơi Thái Cực [10]
Hiểu được ngũ thập của Hà Đồ tức là đi sâu vào lòng sâu muôn vật, tìm ra vi diệu của Càn Khôn, hay Ngọc Châu của Tạo Hóa.
Cố khai phá Huyền nguyên tam ngũ
Mới tìm ra Tạo hóa khuê chương
Huyền cơ Trời ở trung ương,
Gần trong gang tấc, chẳng vương tượng hình. [11]
2. Chu vi Hà Đồ hay là Vạn hữu với Nguyên lý Diễn Dịch tuần hoàn
Hà Đồ chỉ mới có tứ chính mà không có tứ duy nên chính là một vòng tròn, mà vòng tròn là tượng trưng cho sự tuần hoàn biến Dịch.
Hà Đồ xét về phương diện ngũ hành có thể đơn giản hóa như sau:
Nam
Hỏa
Đông Mộc Thổ Kim Tây
Thủy
Bắc
Nhìn vào đồ bản này ta thấy hình chữ thập:
Trong đó Thủy Hỏa chống đối nhau như dưới với trên, như Nam với Bắc, Kim Mộc chống đối nhau như Tả với Hữu, như Đông với Tây. Tức là trong sự biến Dịch có tung hoành thuận nghịch, phải có thể đổi thành trái, dưới có thể đảo lên trên.
Trong trời đất, và trong xã hội ta cũng thấy đây những hiện tượng đối đãi, phản phúc: Đông mà sáng, thì Tây tối; Bắc lắm đất, Nam lắm biển; có lúc cá nhân được trọng, có khi đoàn thể được trọng; có thời, vua là trọng, có thời, dân mới quí; có nơi tinh thần được sùng thượng, có chỗ vật chất được suy tôn; tất cả đều tùy nơi, tùy thời.
Lẽ thuận nghịch (Tống), đối đãi (Thác ) của Hà
Đồ được tượng trưng bằng hai cặp mâu thuẫn:
Kim Mộc
Thủy Hỏa
và được Dịch kinh tượng trưng bằng:
28 cặp quẻ phản phúc (Tống)
4 cặp quẻ đối đãi (Thác) [12]
Ngay trong ngôn ngữ, từ ngữ cũng có nhiều chữ để chỉ, để gợi ra sự đối đãi, thuận nghịch.
Ví dụ: Lá mặt, lá trái;
Xoay xở, Lật lọng;
Đảo điên, Phản phúc.
hay cách nói lái trong tiếng Việt, các loại văn biền ngẫu, câu đối. Trong chữ Hán cũng có những loại chữ đảo điên, phản phúc, đối đãi.
Ví dụ: Cảo = Sáng sủa, Yểu = Mờ mịt
Thượng = Trên, Hạ = Dưới
Hữu = Phải, Tả = Trái
Diệt = Lồi, Ảo = Lõm
Tường = Nửa trái, Phiến = Nửa phải [13]
Suy ra muốn biến hóa phải biết nhẽ điên đảo, thuận nghịch. Áp dụng vào con người muốn có một đời sống lý tưởng, phải biết tùy như cầu, khuynh hướng, tùy thời gian, tuổi tác mà biết lúc nào phải trọng vật chất, lúc nào phải trọng tinh thần. Nói chung từ bé đến lớn, con người càng ngày càng hướng ngoại, đi tìm vật chất, tìm cơm áo địa vị, từ lớn đến già càng ngày càng hướng nội, đi tìm tinh thần, và các giá trị siêu nhiên.
Đó chính là chiều hướng biến hóa của Hà Đồ:
Tiến về vật chất trước (Thoái hóa)
Tiến về tinh thần sau (Tiến hóa) để rốt ráo trở về Trung Cung Thái Cực.[14]
Đó là tiến hóa theo chiều Dương, chiều Ngũ Hành tương sinh, chiều đi về hướng tinh thần ngược lại với chiều tiến hóa của Lạc Thư tức là chiều Âm, chiều Ngũ Hành tương khắc, chiều đi về vật chất, ngoại cảnh.
Nếu trời đất chỉ biến hóa một chiều thì sẽ có lúc cùng, nhưng vì luôn luôn biến hóa theo hai chiều, hai hướng cho nên lúc nào cũng có một bên tăng, một bên giảm, bên tiêu, bên tức, thành thử dẫu biến hóa mấy, toàn bích vẩn y nguyên, không vơi, không cạn.
Suy ra trong vũ trụ, sự biến hóa luôn có hai chiều hai hướng: Tinh tú vận chuyển theo hai chiều thuận nghịch, Đạo giáo và Chính trị theo đuổi những mục đích ngược nhau, con người có hướng ngoại, hướng nội, vật chất có tụ, có tán, v.v..
Trong chiều biến hóa của Lạc Thư, động lực ngày một giảm, hư lực ngày một tăng theo Nguyên lý Nhiệt lực II của Carnot-Clausius. [15]
Trong chiều biến hóa của Hà Đồ, động lực ngày một tăng, hư lực ngày một giảm.
3. Quan niệm Thái Cực, Âm Dương, hay Nhất Thể Lưỡng Diện
Sự biến hóa theo hai chiều hướng đối nghịch nhau, truy kỳ nguyên là vì cơ cấu vũ trụ đã được tổ chức theo hai hình thức đối nhau. Đó là quan niệm Thái Cực Lưỡng Nghi, Nhất Thể Lưỡng Diện của Dịch kinh. Hà Đồ tượng trưng quan niệm này bằng số như sau:
5 = 2 + 3
5 = 4 + 1
Dịch kinh viết:
Nhất Âm, nhất Dương chi vị Đạo.
Nếu viết thành phương trình ta sẽ có
Đạo = Âm + Dương
Thái Cực = Âm + Dương [16]
Muốn hiểu bí quyết Dịch, không được coi Âm, Dương là hai thực thể đối lập, mà là hai phương diện của một thực thể, hai chiều hướng của một vòng tuần hoàn.
Thúy Hư Thiên viết: Thực ra, hai chữ Âm Dương chỉ là một vật. [17] Cho nên Âm Dương chỉ là hai chiều hai mặt của một Thực thể là Thái Cực. Thái Cực tuy là Căn Nguyên của Âm Dương, nhưng Thái Cực siêu xuất trên Âm Dương, bao quát Âm Dương.
Số 5 là phi Âm, phi Dương vì bao quát Âm Dương: 5 = 2 + 3 = 1 + 4 [18]
Cổ nhân cho rằng Thái Cực tức là Thần, Thần
tức Thái Cực cho nên Thần cũng siêu xuất Âm Dương,
năng Âm, năng Dương, vì thế nên Hệ Từ viết: Âm Dương bất trắc chi vị Thần. [19]
Khoa học ngày nay đã tiến dần tới quan niệm nhất thể lưỡng diện, Thái Cực Âm Dương của Dịch kinh, và của Hà Đồ.
Thực vậy, theo thuyết tương đối của Einstein thì năng lực có thể biến thành vật chất, vật chất có thể biến thành năng lực theo phương trình.
E = mc2 [20]
Theo Teilhard de Chardin, vũ trụ được tạo dựng bởi một thực thể duy nhất, mà tinh thần, vật chất, chỉ là 2 phương diện tương đối. [21]
Tóm lại, vì thực thể, có hai mặt, hai bên, nên cuộc biến thiên tiến hóa cũng có hai chiều, hai hướng. Vũ trụ, dù xét về cơ cấu, hay xét về vận động, tiến hóa, luôn luôn theo định luật Âm Dương. Khoa học ngày nay đã chấp nhận quan điểm này khi cho rằng:
Thời gian là chiều kích thứ tư của không gian.
Tinh thần là biến thể của vật chất, vật chất là biến thể của tinh thần v.v..
Tóm lại không có gì có thể hoạt động riêng rẽ mà luôn luôn phải dựa dẫn vào nhau.
4). Hà Đồ với lẽ sinh thành.
Hà Đồ còn đưa ra một nguyên lý căn bản là bất kỳ cái gì không thể sinh ra mà đã trưởng thành, toàn hảo ngay, mà còn phải biến hóa qua nhiều giai đoạn, nhờ sự hỗ trợ của hoàn cảnh, chịu các ảnh hưởng tinh thần, vật chất mới trở nên thành toàn, hoàn hảo được.
Dương phải có Âm phụ bật mới thành tựu, Âm phải có Dương bổ sung mới toàn hảo. Suy ra tinh thần muốn khuếch sung, tiến triển phải nhờ hoàn cảnh vật chất hỗ trợ, vật chất muốn phát triển cần phải có tinh thần khai thác, điều động.
Âm Dương phải cộng tác với nhau, tinh thần vật chất phải hỗ trợ lẫn nhau, mới thực hiện được đại công vũ trụ.
Vì thế Hà Đồ mới chủ trương:
Thiên Nhất sinh thủy, Địa Lục thành chi
Địa Nhị sinh hỏa, Thiên Thất thành chi v.v...
5). Các hình thái, các tầng lớp con người theo Hà Đồ
Thay vì phân chia con người thành ba phương diện: Xác, Hồn, Thần hay Tinh, Khí, Thần, theo nguyên lý Tam Tài.
Hà Đồ, vì trọng nguyên tắc Âm Dương đối trĩ, nên lại phân chia tỉ mỉ hơn nữa, tức là:
phân Hồn thành A- Du Hồn (Dương)
B- Quỉ Phách (Âm)
Theo tài liệu của Lưu Nhất Minh, trong quyển Chu Dịch Xiển Chân, và quan niệm các nhà Huyền Học Âu Châu, ta áp dụng lời phân chia con người theo phương thức Ngũ Hành, Tứ Tượng như sau:
Du hồn (Dương), gần Thần minh hơn, ưa ánh sáng.
Quỉ phách (Âm), gần vật chất hơn, ưa bóng tối.
Các nhà Dưỡng Sinh Học, đã áp dụng quan niệm này vào công cuộc vệ sinh, và cho rằng nhà cửa không nên cao quá, sáng quá vì như vậy sẽ thương phách, không nên thấp quá, tối quá vì như vậy sẽ thương hồn và bệnh tật do đó sẽ sinh.[22]
Âu Châu cũng có quan niệm Hồn, Phách.
Theo các nhà Huyền Học Âu Châu thì Hồn, Phách, khác nhau cũng như khí với nước.
Lúc chết, Phách quanh quất bên xác, còn Hồn thì khinh phiêu cùng thần khí lãng du. Phách là cứ điểm của dục tình, ngã chấp lúc sống; và đến khi chết, Phách sẽ tan biến dần trong giòng sông quên lãng, y như xác
tan biến trong đất cát. Còn hồn là Khí, là xe của Thần theo từ ngữ Platon, đó là hạt giống Trường Sinh, mầm mộng Kim Thân, Thánh Thể...[23]
Đem những quan niệm trên đối chiếu với khoa Cơ Thể và Sinh Lý Học hiện đại ta có thể ức đoán:
Cứ điểm của Phách có thể ở trung khu não bộ (diencéphale), nơi thị tầng (thalamus ou couches optiques), hạ thị tầng (hypothalamus), [24]hoặc ở trong các Dung Dịch luân chuyển trong các xoang não tủy.
Còn Hồn thì lại liên hệ mật thiết đến các khí thể, lưu hành trong các xoang não bộ. Đó cũng là những quan điểm xa xưa của Galien và thánh Augustin. [25]
6). Quan niệm Thiên Nhân Tương Dữ trong Hà Đồ
Trong đạo Lão cũng như trong đạo Nho, vốn có quan niệm Thiên Nhân Tương Ứng[26], Thiên Nhân Tương Dữ. [27]
Ý nói Trời chẵng ở xa con người, mà đã ở ngay trong tâm khảm con người, để làm chủ chốt cho con người, ám trợ con người.[28]
Quan điểm này thực ra không phải của riêng một đạo nào, mà là gia tài của nhân loại. Đi sâu vào các Đạo giáo, các môn phái Huyền Học Đông, Tây, ta thấy quan điểm này thường được đề cập tới. [29]
Hà Đồ bày ra lẽ Âm Dương phối ngẫu theo nhau như bóng với hình. Các nhà Huyền Học Lão giáo dựa vào Hà Đồ, xiển minh nhẽ Trời người hợp nhất, Thiên Lý tại nhân tâm.
Theo quan niệm này ta có thể nói: Trời là Thần, là Chân Dương. Hồn con người là Khí, là Chân Âm[30]. Một bên hùng dũng chỉ lối đưa đường, một bên nhu thuận, tuân theo sự hướng dẫn, đúng như hai quẻ Kiền, Khôn trong Kinh Dịch.
Trời có:
1) Ngũ Nguyên:
a - Nguyên tính
b - Nguyên thần
c - Nguyên tình
d - Nguyên tinh
e - Nguyên khí
2) Ngũ Đức:
a - Nhân
b - Nghĩa
c - Lễ
d - Trí
e - Tín [31]
Người có:
1) Ngũ Vật:
a - Du hồn
b - Thức thần
c - Quỉ phách
d - Trọc tinh
e - Vọng ý
2) Ngũ Tặc:
a - Hỉ
b - Lạc
c - Nộ
d - Ai
e - Dục
Trời là Chân, Người là Giả, hai đàng như hình với bóng chẳng lìa nhau.[32]Người cần phải tuân phục Trời, thuận theo Mệnh lệnh Trời, mới có thể đi đến chổ Âm Dương hòa hợp, thái hòa trường cửu.[33]Trời, Người đều có thể làm chủ hay làm khách. [34]
Nhưng con người vì bản tính nông cạn, si mê, nếu tự động đóng vai chủ nhân, định đoạt mọi sự, thì chắc sẽ đi đến chỗ thất bại. Cho nên, hay hơn hết là nhường cho Trời làm chủ, cho lương tâm, lương tri làm chủ [35], còn mình chỉ biết tuân thuận theo, như vậy chắc chắn sẽ tốt đẹp. Đó là nhẽ Chủ, Khách trong Hà Đồ.
Vì thế các nhà Huyền Học Lão giáo mới nói: Nhường ngài làm Chủ, ta làm Khách. [36]
Hà Đồ lấy vị số mà chứng minh rằng:
Sâu là Chủ, Nông là Khách,
Trong là Chủ, Ngoài là Khách
Cho nên, nếu Thượng đế là chủ của ta, thì chắc chắn phải ở ngay trong tâm của ta.
Vì vậy người xưa cho rằng:
Tu hành phải biết nông sâu,
Nông sâu chẳng biết, tìm cầu luống công. [37]
7). Bí quyết Tạo Hóa Qui Trung Chi Diệu theo Hà Đồ
Dịch kinh cốt là để mô tả diễn Dịch một chân lý trọng đại. Muôn loài đều từ một Đại thể, từ một Căn Nguyên sinh xuất; biến thiên, tiến hóa tưởng là vô biên vô tận, nhưng kỳ thực chỉ theo định luật Âm Dương, theo hai chiều hướng ngoại, hướng nội; Vãng Lai theo định luật tuần hoàn, nên khi hết chu kỳ lại trở về Nguyên Bản. [38]
Lão tử cũng đã đề cao Nguyên lý ấy:
Đạo Đức Kinh viết:
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn Bản Nguyên,
Hoàn Bản Nguyên, an nhiên phục Mệnh,
Phục Mệnh rồi, trường vĩnh vô cùng. [39]
Hà Đồ cũng xiển minh nhẽ Vạn Vật Qui Trung bằng cách đặt lại số 10 vào Trung Cung.
Hơn nữa nếu ta bắt đầu từ Trung (Thổ) đi theo vòng Ngũ Hành tương sinh: Thổ( Kim( Thủy( Hỏa( Thổ thì hết một vòng biến Dịch ta lại trở về Trung (Thổ).
Vả lại nếu ta xếp lại các con số trong Hà Đồ theo phương thức dưới đây, ta sẻ thấy chiều hướng luân chuyển các con số là trở về Trung Cung, Trung Điểm. [40]
Ngụy Bá Dương viết:
Lấy con số 5 trung ương, tán phân ra tứ phương sẽ thành 6, 7, 8, 9 tức là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, đều dựa vào Thổ mới thành.
Lấy các số 1, 2, 3, 4 ở bốn phương thu về trung ương sẽ được 10, tức là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, đều Phản Bản Hoàn Nguyên, hội họp ở Trung thổ. Thực là vi diệu thay. [41]
Vi chỉ của Dịch thực là cao siêu, huyền diệu.
Mới đầu chỉ cho ta thấy Thái Cực, Đạo Thể biểu dương dần dà thành Số, Vị, Hình Tượng, Màu Sắc, Thể chất, Không gian, Thời gian, Vạn Vật, Vạn Hữu.
Sau đó, lại cho ta nhìn thấy những giai đoạn biến thiên, những yếu tố cấu tạo nên vạn vật, những then chốt biến hóa, từ Vạn Tượng rút lại về Ngũ Hành, về Tứ Tượng, Âm Dương rồi lại trở về Thái Cực, Vô Tượng, Vô Vị, Vô Số. Mới hay:
Tự Đạo phân chia, Số mới thành,
Ngũ Hành hình tượng: Đạo nha manh
Năm phương vũ trụ: Thần phân liệt,
Chất sắc năm mầu: Đạo tán sinh. [42]
Số từ vô số xuất sinh,
Trở về vô số, mới thành vãng lai.
Tượng từ vô tượng, phân bài,
Trở về vô tướng, trong ngoài ấm êm
Vị hoàn vô vị, mới nên,
Chất hoàn vô chất, tinh tuyền trước sau.
Chớ chia đạo thể nhiệm mầu,
Số kia bám víu vào đâu sinh thành.
Muốn trừ cho hết tượng hình,
Ngừng cơ biến hóa, mối manh tiêu liền.
Vị ngôi muốn hết dưới trên,
Thời đừng phân biệt Bản Nguyên làm gì.
Đạo không phát tán chia ly,
Thời thôi vật chất biến đi từ đời.
Đạo là vô số, vô ngôi,
Vô hình, vô chất, chia phôi nhẽ nào.
Đạo Trời vi diệu xiết bao...[43]
Hà Đồ với con số 15 viết ở Trung Cung, tức là cho ta thấy rằng căn bản hay cùng đích của vạn vật là ở tại Trung Cung, mà Trung Cung lại là Thái Cực, cho nên, theo Hà Đồ, thì Căn Nguyên và cùng đích của vũ trụ vẫn là Thượng Đế. Sách Đại Đỗng Chân Kinh viết: Căn bản vốn ở trung tâm điểm. [44]
Sách Nhập Dược Kính viết: Người nào biết Tạo hóa, sẽ tìm căn nguyên vũ trụ nơi Trung Cung (Chân Thổ). [45]
Mới hay:
Huyền cơ Trời ở Trung ương,
Gần trong gang tấc chẵng vương tượng hình. [46]
Như đã nói trên số 15 ở Trung Cung tượng trưng
Thái Cực. Lạ lùng thay, đối với các nhà Huyền Học Âu Châu, số 15 chỉ Thượng Đế. Và họ cho rằng Lạc Thư được quí trọng vì ngang dọc đều cộng thành 15, cho nên Lạc Thư là biểu dương của Thượng Đế. [47]
Đọc bài thơ trong sách Kim Liên Chính Tông Ký, ta càng nhận thấy rõ rằng Trung Cung, Trung điểm ở Hà Đồ chính là Nhất, là Thượng Đế, là Thủy Tổ Vũ Trụ, Càn Khôn.
Chân Nhất ở Trung Cung có Tứ Tượng, Tứ Sắc (đỏ, đen, xanh, trắng) bao quanh, được thi sĩ mô tả như là Thánh Mẫu ẩn thân trong thạch động mầu đỏ, [48]như Linh Thần ngự trên lầu giáng cung, [49], như Chân Cống, hay Kim Đơn chìm dưới làn sóng hồ màu biếc, [50] như đám mây bay trước ngọn núi Bạch Ngọc màu trắng [51].
Nguyên văn bài thơ như sau:
Nhất trung hữu Nhất, Nhất nan luân,
Tam cảnh nguyên tòng nhất xứ phân,
Xích thạch động trung tàng Thánh Mẫu,
Giáng cung đài thượng liệt Thần Tôn.
Bạch đàm ba nội chân chân cống,
Bạch ngọc phong tiền ải ải vân.
Cá thị càn khôn khai tịch tổ.
Thế gian ngu tục, khởi giao văn.[52]
Khi đã biết Trung Cung tượng trưng cho Thượng Đế Bất Khả Tư Nghị, Vô Số, Vô Vị, Vô Tượng, thì bí quyết trở về với Thượng Đế, về Trung Cung là phải biết vượt lên trên hết mọi ảnh tượng [53], chi ly, phiền tạp, phải biết thu nhiếp vạn thù, qui nhất bản.
Người xưa gọi thế là:
Toản thốc Ngũ Hành,
Hòa hợp Tứ Tượng
Tam hoa tụ đỉnh
Ngũ khí triều Nguyên
Tạo Hóa Qui Trung Chi Diệu. [54]
Nói một cách thiết thực hơn, muốn tìm về Trung cung, con người phải biết đâu là Chân Tâm trong con người.
Các nhà Huyền Học Lão giáo đã cho biết Nê Hoàn Cung, ở trung tâm não bộ chính là Chân Tâm, là Trung Cung, Trung Điểm nơi con người.
Mới hay:
Nê hoàn một khiếu, thấu cửa Trời
Ngọc Hoàng Thượng Đế, ấy tòa ngôi,
Thánh Hiền lui tới, duy đường ấy,
Cưỡi hạc băng chừng, thẳng tới nơi. [55]
Giai đoạn sau là thu thần, liễm khí cho qui tụ về óc não, sống đời sống nội tâm cho thật rồi rào, dùng hết tâm thần ý chí vào công cuộc chiêm ngưỡng Thượng Đế, sống hợp nhất với Thượng Đế. [56]
Đó là ý nghĩa những khẩu quyết:
Hoàn tinh bổ não
Tam hoa tụ đỉnh
Ngũ khí triều Nguyên [57]
hay:
Tử dục bất tử tu Côn Lôn [58]
Qui Trung tóm lại là:
Đem ngựa ý, qui về thần thất [59]
Bắt vượn tâm, giữ chắc động phòng. [60]
Tâm, Thần, Hồn, Phách, Ý qui trung. [61]
Nói theo từ ngữ Công giáo tức là muốn sống kết hợp với Thượng đế, phải kính mến Thượng đế hết lòng, hết sức tâm thần. [62]
Hiểu được ý nghĩa Trung Cung, biết được bí quyết Tạo Hóa Qui Trung Chi Diệu, con người mới có thể tìm ra được địa vị sang cả của mình [63] mà Định Mệnh con người là sống kết hợp với Thượng Đế. [64]
--------------------------------------------------------------------------------
CHÚ THÍCH
[1] Vạn vật tắc ngũ hành chi tử dã. 萬 物 則 五 行 之 子 也. — Âm Phù Kinh Sớ, trang 2.
[2] Phóng chi tắc di lục hạp, quyển chi tắc thoái tàng ư mật. 放 之 則 彌 六 合 卷 之 則 退 藏 於 密.— Trung Dung Tựa.
[3] Cổ nhân sở xưng đích thiên khu bất động. — Hiện Đại Đạo Gia Tu Luyện Bảo Điển, trang 113.
[4] Thiên cực nhất tinh danh Bắc cực vị tại trung ương, tứ phương sở thủ chính, cố danh trung cung. Viết: Thiên cực tức Bắc thần dã 天 極 一 星 名 北 極 位 在 中 央, 四 方 所 取 正, 故 名 中 宮. 曰 天 極 即 北 辰 也. (Khảo yếu). Thượng Đế Thái nhất thần tại Tử vi cung, thiên chi tối hiển dã. 上帝 太 一 神 在 紫 微 宮 天 之 最 顯 也. — Gustave Schlegel - L'Uranographie Chinoise, page 524. — J. Legge, the Shoo King, page 34 notes.
[5] Trung nguyên, Côn Lôn sơn, thiên địa tâm. 中 原 崑 崙 山 天 地 心.— Joseph Needham: Science et Civilisation in China, (Cambridge at the University Press) quyển 3, trang 566 - 567.
[6] Nê hoàn hựu xưng Bá hội... tức cổ nhân sở chỉ đích bách mạch tổng hội... Não xoang cổ nhân xưng vi Thiên cốc, nhi cư ư thử trung đích tinh thần tác dụng, khiếu tố Cốc Thần, giá thị Sinh Mệnh chi chân tể...hợp xưng vi Thiên khu. 泥 丸 又 稱 百 會 ... 即 古 人 所 指 的 百 脈 總 會 ... 腦 腔 古 人 稱 為 天 谷 而 居 此 中 的 精 神 作 用﹐ 叫 做 谷 神, 這 是 生 命 之 真 宰 合 稱 為 天 樞. — Hiện Đại Đạo Gia Tu Luyện Bảo Điển, trang 113.
[7] Hà Đồ ngũ thập hư trung nhi vi Thái Cực 河 圖 五 十 虛 中 為 太 極. — Địa Lý Chính Tông, trang 3.
[8] Chỉ huyền thiên vân: Miêu miêu duệ duệ miên miên lý, Nam Bắc Đông Tây tụ hợp lai. Thử Càn, Khôn, Khảm, Ly chi sở dĩ hiệp nhi vi nhất dã. Hợp nhi vi nhất, tắc thần khí qui căn, Kính nhập hư vô, yểu yểu minh minh, mạc tri kỳ sở dĩ nhiên hĩ. Đỗng hiểu Âm Dương, thông đạt Tạo hóa. 指 玄 天 云 : 描 描 裔 裔 綿 綿 裡. 南 北 東 西 聚 合 來. 此 乾 坤 坎 離 之 所 以 合 而 為 一 也. 合 而 為 一, 則 神 氣 歸 根, 涇 入 虛 無, 窈 窈 冥 冥, 莫 知 其 所 以 然 矣. 懂 曉 陰 陽, 通 達 造 化.— Chu Dịch Tham Đồng Khế, quyển Trung, trang 3.
[9] Đại Đỗng Chân Kinh, quyển Trung, trang 10b.
[10] Căn bản do lai Thái Cực tầm. 根本由來太極尋.— Đại Đỗng Chân Kinh, Quyển Thượng, trang 4b.
[11] Tạc phá huyền nguyên tam ngũ, bát khai Tạo hóa khuê chương. Hi Di diệu chỉ tại trung ương, chỉ xích vô danh võng tượng. 鑿 破 玄 元 三 五 拔 開 造 化 圭 璋. 希 夷 妙 旨 在 中 央 咫 尺 無 名 罔 象 .— Phục Mệnh Thiên, trang 4a.
[12] 28 cặp quẻ phản phúc như: Truân, Mông; Nhu, Tụng; Sư, Tỉ; Tiểu súc; Lý; Thái, Bĩ v.v...
4 cặp quẻ đối đãi là Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Đại Quá, Trung Phu, Tiểu Quá.
[13] Xem thêm Dịch Kinh Tân Chứng, trang 5, đoạn Phúc Tượng.
[14] Atteindre le Ciel par achèvement de la Terre (Teilhard de Chardin). — Cf. Jean Onimus, Teilhard de Chardin, page 65.
[15] La quantité d'énergie que l'on peut transformer en travail va sans cesse diminuant, l'énergie se dégrade et l'univers tend vers l'immobilité etc... Clausius paraît avoir été le premier à donner du principe de Carnot une définition satisfaisante en introduisant la notion d'Entropie. Le second principe est alors devenu le principe de l'accroissement de l'entropie ou principe de Carnot-Clausius...
En outre lorsqu'un système est en équilibre, son entropie est un maximum... C'est cette marche à sens unique, toujours dans le sens de la dégradation irréversible, qui justifie le nom de principe d'évolution par lequel on désigne souvent le principe d'évolution, le second principe de la thermodynamique. -- Lecomte du Noüy, L'homme devant la Science, page 94 - 95.
[16] Nhất Âm nhất Dương chi vị đạo, Thiên Âm thiên Dương chi vị tật. 一 陰 一 陽 之 謂 道, 偏 陰 偏 陽 之 謂 疾.-- Phục Mệnh Thiên, 1a.
[17] Kỳ thật, Âm Dương nhị tự thị giai nhất vật dã. 其 實 陰 陽 二 字 是 皆 一 物 也. —Thúy Hư Thiên, trang 2a.
[18] Nhược Đạo chi thể tắc vô Âm Dương, nhi vi Âm Dương chi căn... 若 道 之 體 則 無 陰 陽, 而 為 陰 陽 之 根. — Xướng Đạo Chân Ngôn, tr.8b.
[19] Có thể là Âm, có thể là Dương, bất kỳ bất trắc nên gọi là Thần (Hệ Từ).
[20] E = énergie (năng lực)
m = masse (khối lượng)
c2 = tốc độ ánh sáng lên bình phương.
[21] Matière et Esprit, écrit le P. Teilhard en 1950, non point deux choses mais deux états, deux faces d'une même étoffe cosmique suivant qu'on la regarde ou qu'on la prolonge dans le sens où elle se fait ou au contraire dans le sens suivant lequel il se défait... -- Jean Onimus, Pierre Teilhard ou La foi au Monde, page 80.
... L'Esprit, n'est ni un surimposé, ni un accessoire dans les cosmos, mais il représente tout simplement l'état supérieur pris en nous par la chose première indéfinissable... rien de plus mais aussi rien de moins. L'Esprit n'est ni un méta, ni un épiphénomène: il est le phénomène. — Ib. page 85.
[22] Thiên Ẩn Tử, Dưỡng Sinh Thư, trang 1b.
Si nous considérons les quatre Eléments dont le monde est composé: la Terre, l'Eau, l'Air et le Feu, le corps correspond à l'Elément Terre, l'Âme aux Eléments Eau et Air, l'Esprit à l'Elément Feu, et de même que dans le domaine physique, l'eau a le pouvoir de se mêler à la terre, l'air au feu, de même, une certaine Âme, l'Âme liquide est attachée au corps, à tout le moins demeure en son voisinage, même après la mort, l'autre Âme, l'Aérienne, rejoint l'Esprit. — Raoul Auclair, Le Livre des Cycles, page 143.
[23] Cette âme (l'âme liquide) est le siège de nos passions et de notre individualité présente, mais elle est destinée à se dissoudre dans Léthé comme le corps dans la Terre. L'autre Âme, c'est le Pneuma, le char de l'Esprit, ainsi que l'appelait Platon, le noyau, sans cesse grossi de l'immortalité de l'homme, l'embryon du corps glorieux. — Ib. page 144.
[24] Le Thalamus participe, enfin, par ses relations avec les corps striés et l'hypothalamus à l'expression des émotions. -- A. Fabre et G. Rougir, Physiologie Médicale, page 558.
[25] According to Galen, the natural spirit, the product of nutrition, passed from the liver and the gut to the heart and were there modified by the material from the lungs. A portion of the resultant product, known as the vital spirits was passed to the head. Here within the rich collection of blood vessels at the base of the brain, a watery distillate was recovered and mixed with air and supposedly entered the cranial cavity through the porous base of the skull above the nose. The psychic pneuma was then collected and circulated in the chambers of the brain.
By the fourth century A.D. this ingenious Galenic conception of the circulation of psychic pneuma within the chambers of the brain had been much modified. Saint Augustin (A.D. 354 - 430) among others held that the three ventricles of the brain contained psychic pneuma with special qualities. Indeed some of the Aristotelian faculties were identified with the watery contents of the respective chambers but not, with the substance of the brain...
Cf. Lyman Bryson, An Outline of Man's Knowledge of the Modern World, page 44.
[26] Thiên nhân tương ứng chi lý bị ư Xuân Thu... 天 人 相 應 之 理 備 於 春 秋. — Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Toản Nghĩa, trang 1.
Phù cổ ảnh hưởng chi lý: 桴 鼓 影 響 之 理 (Trời người như dùi với trống, như người với bóng, như âm thanh và tiếng vọng). — Thái Thượng Bảo Phiệt Đồ Thuyết, trang 6a.
[27] Đổng trọng Thư viết: Thiên nhân tương dữ chi tế, thậm khả úy dã. 董 仲 舒 曰 : 天 人 相 與 之 際, 甚 可 畏 也 .— Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Toản Nghĩa, trang 1a.
[28] Vô viết: Bỉ thương thậm diểu dã, nhất sự chi công tư, tức vi thiên địa sở thức lâm. Vô viết: nhĩ thất khả khi dã: Nhất niệm chi tà chính, tức vi quỉ thần sở chỉ trích. 毋 曰 彼 蒼 甚 渺 也 一 事 之 公 私 即 為 天 地 所 式 臨. 毋 曰 爾 室 可 欺 也. 一 念 之 邪 正 即 為 鬼 神 所 指 摘. — Thái Thượng Bảo Phiệt Đồ Thuyết
Dịch câu 53: Đừng nói: Xanh kia xa lắc: bất kỳ công việc gì dù công hay tư, đất trời đều hay biết; đừng nói: buồng kín có thể lừa đối được. Bất kỳ một ý niệm gì hoặc tà hoặc chính, đều được quỉ thần phê phán.
[29] Ne savez-vous pas que vous êtes un temple de Dieu, et que l'Esprit de Dieu habite en vous? Si quelqu'un détruit le temple de Dieu, celui-là, Dieu le détruira. Car le temple de Dieu est sacré, et ce temple c'est vous. -- I Corinthiens 3, 16, 17.
...Ou bien ne savez-vous pas que votre corps est un temple du Saint-Esprit, qui est en vous et que vous tenez de Dieu? Et que vous ne vous appartenez pas? Vous avez été bel et bien rachetés! Glorifiez donc Dieu et le portez dans votre corps. --I Corinthiens 6, 19, 20.
...In short, many see in the story of Solomon's Temple a symbolical representation of Man as the temple of God, with its Holy of Holies deep seated in the center of the human heart. -- Mackey's Revised Encyclopedia of Freemasonry, Tome II, page 961.
[30] Chân Âm Chân Dương thị Thần Khí. 真 陰 真 陽 是 神 氣. — Đơn Dương Chân Nhân Ngữ Lục - trang 5b.
[31] Xem Chu Dịch Xiển Chân, của Lưu nhất Minh - Chương Hà Đồ.
[32] Giả tá Chân tồn, Chân diệc tá Giả nhi lưu dã. 假 借 真存 真 亦 借 假 而 流 也.— Lưu nhất Minh, Chu Dịch Xiển Chân, Chương Hà Đồ.
[33] Âm Dương kết Thái nguyên. 陰 陽 結 太 元 .— Hoàn Nguyên Thiên, trang 1.
[34] Dĩ nhân hợp thiên. Dĩ thiên tòng nhân. 以 人 合 天 以 天 從 人.— Huyền Tông Chính Chỉ, trang 10.
[35] Vương Dương Minh tiên sinh thuyết: Lương tri tức Thượng Đế. 王 陽 明 先 生 說 良 知 即 上 帝.—Hiện Đại Đạo gia Tu Luyện Bảo Điển, trang 82.
[36] Nhiêu tha vi chủ ngã vi tân. 饒 他 為 主 我 為 賓.— Nhập Dược Kính - trang, 14b.
[37] Thức phù trầm, minh chủ khách, yếu tụ hội, mạc gián cách. 識 浮 沉 明 主 客 要 聚 會 莫 間 隔. — Nhập Dược Kính, trang 14a.
[38] Thủy chung như nhất. 始 終 如 一.— Đại Đỗng Chân Kinh, trang 7b.
[39] Đạo Đức Kinh, chương XVI.
[40] Xem đồ bản này, ta thấy chiều biến hóa là từ Dương dến Âm, rồi lại từ Âm trở về Dương trước khi trở về Trung Cung.
[41] Cổ dĩ Trung ương chi ngũ, tán ư tứ phương nhi thành 6, 7, 8, 9, tắc Thủy Hỏa Mộc Kim lại Thổ nhi thành. Nhược dĩ tứ phương chi nhất, nhị, tam, tứ qui ư trung ương nhi thành thập, tức Thủy Hỏa Mộc Kim giai phản bản hoàn nguyên nhi hội ư thổ trung dã. Hu huyền tai. 古 以 中 央 之 五, 散 於 四 方 而 成 六, 七, 八, 九, 則 水 火 木 金 賴 土 而 成. 若 以 四 方 之 一, 二, 三, 四 歸 於 中 央 而 成 十 即 水 火 木 金 皆 返 本 還 元 而 會 於 土 中 也. 吁 玄 哉.— Chu Dịch, Tham Đồng Khế Phát Huy, trang 24.
[42] Ngọc Thư viết: Nhất, tam, ngũ, thất, cửu, Đạo chi phân nhi hữu số. Kim mộc thủy hỏa thổ, Đạo chi biến nhi hữu tượng Đông Tây Nam Bắc Trung, Đạo chi liệt nhi hữu vị. Thanh, Bạch, Xích, Hoàng, Hắc, Đạo chi tán nhi hữu chất. 玉 書 曰 一, 二, 三, 五, 七, 九 道 之 分 而 有 數. 金 木 水 火 土 道 之 變 而 有 象. 東 西 南 北 中 道 之 列 而 有 位. 青 白 赤 黃 黑 道 之散 而 有 質.— Linh Bảo Tất Pháp, trang 12a.
[43] Số qui ư vô số, tượng phản ư vô tượng, vị chí ư vô vị, chất hoàn ư vô chất. Dục Đạo chi vô số, bất phân chi tắc vô số hĩ. Dục Đạo chi vô tượng, bất biến chi, tắc vô tượng hĩ. Dục Đạo chi vô vị, bất liệt chi tắc vô vị hĩ. Dục Đạo chi vô chất, bất tán chi tắc vô chất hĩ. Vô số Đạo chi nguyên dã, vô tượng Đạo chi bản dã, vô vị Đạo chi chân dã. 數 歸 於 無 數 象 反 於 無 象 位 至 於 無 位 質 還 於 無 質. 欲 道 之無 數 不 分 之 則 無 數 矣. 欲 道 之 無 象 不 變 之 則 無 象 矣 . 欲 道 之 無 位 不 列 之則 無 位 矣. 欲 道 之 無 質 不 散 之 則 無 質 矣. 無 數 道 之 元 也. 無 象 道 之 本 也. 無 位 道 之真 也.— Linh Bảo Tất Pháp, quyển Hạ, trang 12a.
[44] Căn bản nguyên do Trung. (Cứu kỳ căn bản, thật do ư trung, kiến hồ ngoại giả, bản hồ nội. Chiêu hồ dụng giả, do hồ thể dã). 根 本 原 由 中. 究 其 根 本 實 由 於 中. 見 乎 外 者 本 乎 內. 昭 乎 用 者 由 乎 體 也.— Đại Đổng Chân Kinh, trang 19.
[45] Thức Tạo hóa giả, tất ư Chân Thổ trung cầu căn đế yên. 識 造 化 者, 必 於 真 土 中 求 根 蒂 焉.— Nhập Dược Kính 4b.
[46] ... Le monde, pris dans son universalité, n'émane pas immédiatement de Dieu. Ce qui émane de Dieu, c'est un Etre unique, qui est le Principe de toutes les créatures. C'est une intelligence séparée, c'est-à-dire une substance qui existe par soi, qui est exempte de toute multiplicité, qui se conaît et connaît son principe (Averroès). — Illan de Casa, La Religion Essentielle, p. 122.
[47] For fifteen was a sacred number among the Orientals, because the letters of the holy name Jah jy were, in there numerical value, equivalent to fifteen, and hence a figure in which the nine digits were so disposed as to make fifteen either way when added together perpendicularly, horizontally, or diagonally, constituted one of their most sacred talismans. — Mackey's Revised Encyclopedia of Freemasonry,Vol. II, p. 1109.
...Thus in Hebrew, the name of God, Jah jy is equivalent to 15, because y =10 and j = 5 and 15 thus become a sacred number. — Ib. p. 722.
[48] Tượng trưng Nam Phương, Hỏa, Xích.
[49] Tượng trưng Bắc Phương, Thủy, Hắc.
[50] Tượng trưng Đông Phương, Mộc, Thanh.
[51] Tượng trưng Tây Phương, Kim, Bạch.
[52] Dung hợp vi nhất, thông quán vô gián, dữ Đạo vi thể, nhi hồn phách câu hóa, tứ đại giai không. Thất khí vô trệ Trạm tịch chân thành. Quán thông Vô Cực.融 合 為 一, 通 貫 無 間, 與 道 為 體, 而 魂 魄 俱 化, 四 大 皆 空, 七 氣 無 滯, 湛 寂 真 成, 貫 通 無 極 .— Đại Đỗng Chân Kinh, trang 23.
[53] Quả ư võng tượng vô hình xứ, Hữu cá trường sinh bất tử côn. 果 於 罔 象 無 形 處, 有 個 長 生 不 死 根. — Kim Đơn Đại Thành Tập, trang 10.
[54] ... Pour être satisfait par Dieu, il ne faut point se contenter de ce qui est ceci ou cela, mais de ce qui est Tout. Car Dieu est bien l'Un, et doit être l'Un, mais il est aussi Tout et doit être Tout...
Théologie Germanique. — Illan de Casa Fuerte, La Religion Essentielle, p.161.
[55] Nê hoàn nhất khiếu đạt Thiên môn, 泥 丸 一 竅 達 天 門
Trực thượng Hư Hoàng Ngọc Đế tôn 直 上 虛 皇 玉 帝 尊
Thử thị Chân Nhân lai vãng lộ 此 是 真 人 來 往 路
Thời thời khóa hạc khứ triều Nguyên. 時 時 跨 鶴 去 朝 元
— Nhập Dược Kinh, trang 10b.
[56] Thượng triều ngọc thanh, dữ Thiên vi nhất hĩ. 上 朝 玉 清 與 天 為 一 矣. — Đại Đỗng Chân Kinh, trang 7b.
[57] Cf. Hiện Đại Đạo Gia Tu Luyện Bảo Điển, trang 124.
[58] Nhập Dược Kính, trang 10b (Côn Lôn tượng trưng cho đầu não).
[59] Thần Thất tượng trưng cho xoang trung tâm trong óc.
[60] Động phòng là tên một xoang trong óc.
[61] Hoàn Nguyên Thiên Trang 1b.
[62] Tu aimeras ton Dieu de tout ton coeur, de toute ton âme, de tout ton esprit et de toute ta force. — L'Evangile selon St. Marc, 12, 30.
[63] Quân tử Hoàng Trung thông lý, chính vị cư thể. — Dịch Kinh Khôn Quải (Văn ngôn).
... Il (Pascal) sait, lui, que le tourment de l'homme tient à ce qu'il ne sait à quel rang se mettre, tendu qu'il est entre un infini de grandeur qui l'écrase et un infini de petitesse avec lequel il semble n'avoir aucune mesure... — Georges Cresp, De la Science à la Théologie (Essai sur Teilhard de Chardin), p. 13.
[64] Dĩ nhân hợp Thiên 以 人 合 天.— Huyền Thiên Chính Chỉ, trang 10.
--------------------------------------------------------------------------------
Bạt
Số, văn dụ Đạo, Đạo tài thông,
Hà, Lạc huyền vi tại chính trung
Luân chuyển, tuần hoàn quan trục cốc,
Biến thiên thăng giáng, hệ tâm cung
Căn chi, Bản mạt minh đoan đích,
Tụ tán, hiển vi thức thủy chung
Tri chỉ tức nhiên tri giải thoát
Phật, Tiên bất quá đắc Hoàn Trung. [1]
(Nhân tử chuyết đề)
Đạo cả siêu vi khó luận bàn,
Lấy lời, lấy số tả lan man.
Huyền vi Hà, Lạc nơi tâm điểm.
Trục chuyển vành xe, mới vẹn toàn.
Trục chuyển vành xe, mới vẹn toàn,
Trần hoàn biến chuyển, hệ tâm xoang
Ngọn ngành, gốc rễ, thông đầu cuối
Tụ tán, hiển vi, chẳng ngỡ ngàng.
Tụ tán, hiển vi, chẵng ngỡ ngàng
Đầu đuôi thông tỏ, hết đa đoan
Phật, Tiên, gặp gỡ nơi Trung Điểm [2]
Tìm được Hằng Tâm, thoát nhiễu nhương.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Hợp Thiên chi đạo tắc đắc kỳ hoàn trung. — Tinh Hoa Lục, trang 36.
[2] Văn Đạo Tử, Tinh Hoa Lục, trang 36
LẠC THƯ
Chương 1. Xuất xứ của Lạc Thư
Lạc Thư có một tầm ảnh hưởng rất lớn lao trong mọi lãnh vực tư tưởng, chính trị, đạo giáo Trung Hoa, vì vậy cần được khảo sát cho tường tận.
Theo Kinh Thư, sau khi trị thủy thành công, Vua Vũ đã được Trời ban cho Hồng Phạm Cửu Trù, tức là phép tắc cai trị xã hội, và định chế nhân luân.[1]
Tục truyền Trời cho thần qui hiện lên ở sông Lạc, mang trên lưng một hình vẽ. Vua Vũ nhân đấy làm ra Hồng Phạm với sự cộng tác sau này của Cơ tử. [2]
Sách Chính Nghĩa Xuân Thu Vĩ ghi:
Hà dĩ thông Kiền xuất thiên bào,
Lạc dĩ lưu Khôn thổ địa phù [3]
Câu đó rất quí báu, vì sẽ giúp ta hiểu rõ phạm vi và mục đích của Hà Đồ, Lạc Thư. Hà Đồ giúp ta hiểu Trời, Lạc Thư giúp ta hiểu Đất.
Hà Đồ giúp ta tu luyện tâm hồn, Qui Nguyên, Phản Bản. Lạc Thư chỉ vẽ cách thức an bang, tế thế; tổ chức đời sống xã hội và vật chất bên ngoài.
Vì lẽ đó, nên Hà Đồ hình tròn, còn Lạc Thư hình vuông. Tròn tượng Trời, vuông tượng Đất.
Hà Đồ, Lạc Thư hỗ trợ, bổ sung lẫn cho nhau, và có thể nói được là hai phương diện của một học thuyết duy nhất, đó là: nội thánh, ngoại vương chi đạo, y như tấm vải có sợi ngang sợi dọc, [4]như cuộc đời có hai chiều xuôi ngược, hai mặt trong ngoài.
Theo Từ nguyên, Lạc Thư dạy cách tổ chức xã hội trị quốc an bang. [5]Ta sẽ bằng cứ vào câu đó, để phanh phui cho ra các bí quyết của Lạc Thư.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÚ THÍCH
[1] Vũ nãi tự hưng, Thiên nãi tích Vũ Hồng Phạm Cửu Trù; di luân du tự. 禹 乃 自 興 天 乃 錫 禹 洪 範 九 疇 彝 倫 攸 敘.— Thư Kinh Hồng Phạm, tiết 2. Séraphin Couvreur, Les Annales de la Chine, page 196.
[2] Hệ Từ truyện viết: Hà xuất Đồ, Lạc xuất Thư; thánh nhân tắc chi. 繫 辭 傳 曰: 河 出 圖, 洛 出 書, 聖 人 則 之.— Chu Dịch Đại Toàn, Chương Đồ Thuyết, trang 17a.
[3] Chính nghĩa Xuân Thu vĩ viết: Hà dĩ thông Kiền xuất thiên bào; Lạc dĩ lưu Khôn thổ địa phù. 正 義 春 秋緯 曰 河 以 通 乾 出 天 笣 洛 以 流 坤 吐 地 符.— Uyên Giám Loại Hàm, Quyển 3, trang 3,366, Mục Chu Dịch III.
[4] Hà Đồ dữ Lạc Thư tương vi kinh vĩ, Bát quái, Cửu chương tương vi biểu lý. 河 圖 與 洛 書 相 為 經 緯, 八 卦 九 章 相 為 表 裡.— Chu Dịch Đại Toàn, trang 17b.
[5] Án Hồng Phạm Cửu Trù vi trị thiên hạ chi đại pháp. 案 洪 範 九 疇 為 治 天 下 之 大 法.— Cf. Từ Nguyên, nơi chữ Cửu Trù.
Chương 2. Cấu tạo của Lạc Thư
Lạc Thư được cấu tạo như sau:
Trong Chu Dịch Xiển Chân ta thấy có một hình Cổ Lạc Thư như sau:
Đồ hình này làm ta mường tưởng đến cách cấu tạo của nguyên tử với nhân ở chính giữa và các quĩ đạo điện tử ở bên ngoài. Nhưng dĩ nhiên hình này không phải là chính thống.
Ta vẽ lại sự diễn tiến từ Hà Đồ sang Lạc Thư như sau:
(a)
(B)
(Ta thấy các số chẵn sung vào bốn hướng phụ, còn 4 số lẻ ở bốn phương chính.)
© Hà Đồ biến chuyển theo chiều Dương, chiều Ngũ Hành tương sinh.
Chiều biến chuyển của Hà Đồ
(Ta có: Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ.)
Chương 3. Đại cương
Ta có thể nói được rằng Lạc Thư xuất phát từ Hà Đồ [1], nhưng có bốn điểm dị biệt quan trọng sau đây:
1. Mất số 10 ở giữa.
2. Âm Dương không còn hòa hợp, phối ngẫu mà đã phân kỳ, chia rẽ.
3. 2 cặp số 9/4 và 7/2 đổi chỗ lẫn cho nhau [2]
4. Ở Lạc Thư, Ngũ Hành tương khắc, vận chuyển theo chiều Âm. Ở Hà Đồ, Ngũ Hành tương sinh, vận chuyển theo chiều Dương.
Chiều biến chuyển của Lạc Thư.
(Ta có: Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc Mộc; Mộc khắc Thổ.)
Lạc thư vì thiếu số 10, nên chỉ còn có chín số; hơn nữa vì Âm Dương phân kỳ, Hỏa Kim điên đảo, nên Lạc Thư tượng trưng cho thế giới hữu hình, vạn tượng vạn hữu, thế giới thực tại, lấy nghịch cảnh biến thiên để đoàn luyện vạn vật.
Các số Lạc Thư tổng cộng là 45.
Các số Hà Đồ tổng cộng là 55.
Mà 45 + 55 = 100
Số 100 vốn tượng trưng vạn tượng, vạn hữu. [3]
Như vậy ta càng thấy rõ cả Hà Đồ lẫn Lạc Thư mới đủ tượng trưng cho vạn tượng vạn hữu, từ thế giới vô hình đến thế giới đến thế giới hữu hình.
Hà Đồ tượng trưng cho thế giới tâm thần, nội tâm, nội cảnh. Lạc Thư tượng trưng cho thế giới vật chất ngoại cảnh, cho xã hội bên ngoài.
Vì thế, các bậc tiên hiền nhiều khi lại vẽ Hà Đồ nằm bên trong, Lạc Thư bao bên ngoài.
Người xưa cho rằng Hà Đồ, Lạc Thư có ba điểm giống nhau và hai điểm khác nhau.
Ngọc Trai Hồ thị bình rằng:
3 điểm giống nhau:
1. Hà Đồ cũng như ở Lạc Thư số 1, số 6 đều ở phía Bắc.
2. Số 3 và 8 đều ở phía Đông
3. Số 5 đều ở Trung Cung
2 điểm khác nhau:
1. Ở Hà Đồ thì số 2 và 7 ở phía Nam, còn ở Lạc Thư thì số 2 và 7 lại ở phía Tây.
2. Ở Hà Đồ thì số 4 và 9 ở phía Tây. Ở Lạc Thư trái lại 4 và 9 ở phía Nam. [4]
Tóm lại, các số Dương 1, 3, 5 không đổi vị, chỉ có các số Âm 2 và 4 mới thay đổi, lộn lạo.[5] Hà Đồ và Lạc Thư mỗi bên theo một ngả đường.
Hà Đồ sinh Tiên Thiên Bát Quái.
Lạc Thư sinh Hậu Thiên Bát Quái.
Phục Hi nhân Hà Đồ vẽ ra Tiên Thiên Bát Quái.
(Cả hai hình đều có cùng một chiều diễn tiến)
Ở Hà Đồ ta thấy nửa bên phải, các số Dương lẻ đều ở bên ngoài, các số Âm chẵn đều ở bên trong.
Còn ở nửa bên trái, thì các số lẻ Dương lại ở bên trong, số chẵn Âm lại ở bên ngoài.
Ở Tiên Thiên Bát Quái, ta cũng thấy ở nửa bên phải các hào Âm ở bên trong, các hào Dương ở bên ngoài; Còn ở nửa bên trái, thì các hào Dương lại ở bên trong các hào Âm ở bên ngoài. Như vậy Hà Đồ và Tiên Thiên Bát Quái đã rập theo một khuôn mẫu.
Lạc Thư liên lạc mật thiết với Hậu Thiên Bát Quái:
Hậu Thiên Bát Quái đánh số các quẻ đúng theo thứ tự Lạc Thư.
Ở Hậu Thiên Bát Quái, các quẻ theo số thứ tự sau: Nhất Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, ngũ Trung, lục Càn, thất Đoài, bát Chấn, cửu Ly.
Thiệu khang Tiết cho rằng, người xưa nhân vòng tròn của Hà Đồ mà suy ra lịch kỷ, nhân hình vuông của Lạc Thư mà nghĩ ra cách chia châu, chia đất.
Ông nói: Tròn là hình sao, số của lịch kỷ có lẽ bắt đầu từ đó. Vuông là hình đất, những cách chia châu, chia đất có lẽ bắt chước từ đó chăng. [6]
Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này.
Cũng như ở Hà Đồ, số quan trọng nhất của Lạc Thư vẫn là số 5. Số 5 bao gồm Trời Đất, Âm Dương
Trời là 3, Đất là 2. Số 5 là số tam thiên lưỡng địa, nên chính là Thái Cực. [7]
Ngoài tâm điểm ra, Hà Đồ và Lạc Thư đều có:
Dương số: 1 + 3 + 7 + 9 = 20
Âm số: 2 + 4 + 6 + 8 = 20
Tổng cộng đều là 20
Như vậy là Âm Dương quân bình.
Lạc Thư xưa đến nay vẫn là một cái gì huyền vi, bí ẩn. Có nhiều lối cắt nghĩa Lạc Thư; nông có, sâu có tùy theo trình độ, tùy theo tâm trạng của mỗi người.
Thái Nguyên Định giải rằng: 9 số Lạc Thư tượng trưng cho các bộ phận của thần qui.
Ông viết:
Số cửu cung là:
Đội chín, đạp một
Tả ba, hữu bảy
Hai, bốn làm vai
Sáu, tám làm chân
Số năm ở giữa
Tượng hình lưng rùa. [8]
Cũng thấy có ca rằng:
Tải cửu lý nhất
Tả tam hữu thất
Nhị tứ vi kiên
Bát lục vi túc
Ngũ thập cư trung
Ỷ vu Khôn cục.
Có lẽ đó chỉ là phương pháp giúp ta nhớ phương vị các số trong Lạc Thư, chứ chưa giải thích được chi về Lạc Thư.
Một nhà bình giải Huỳnh đình Kinh cho rằng số 5 ở trung điểm là Thái Cực, Thái Nhất, 8 số bên ngoài là Bát Quái. Tất cả họp thành Cửu Cung.
Hội ý trên, ta có thể giải Lạc Thư như sau:
Số ngũ là Thái Cực. [9] Còn 8 số bên ngoài tượng trưng cho Bát Quái tức là Vạn Tượng Quần Sinh, là thế giới hiện tượng, hiện hữu.
Sự thay bậc, đổi ngôi giữa hai cặp số 9/4 (Kim) và 7/2 (Hỏa), gây nên thế bất quân bình, mà khi đã mất thế quân bình, chắc chắn biến thiên chuyển động sẽ phát sinh. Đó là một định luật khoa học. [10]
Kim Hỏa đổi ngôi gây nên điên đảo chuyển vận, cốt là dể đoàn luyện muôn vật cho nên tinh toàn, ý rằng Kim để rèn, mà Hỏa để luyện. [11] Âm Dương tương khắc cốt để gây nên biến thiên.
Lạc Thư với sự đảo điên, dịch vị của Kim, Hỏa,
sự tương khắc của Âm Dương là phản ảnh chân thực về thế giới hữu hình chúng ta, một thế giới đầy đảo điên, biến hóa. Y thức như Hóa công có ý dùng nghịch cảnh để phát huy tiềm năng, tiềm lực của vũ trụ, cũng như của con người, để vạn vật và con người càng ngày càng trở nên tinh thuần, cao khiết.
Hơn nữa, Lạc Thư tuy chú trọng đến biến hóa bên ngoài, nhưng vẫn không quên khu nữu, quên Thái Cực bên trong. Và như trong Trời Đất có Thái Cực làm chủ chốt để điều hòa mọi biến thiên chuyển động, thì trong một quốc gia cũng phải có một vị Đế Vương, một vị Nguyên Thủ cầm rường mối chỉ huy.
Vì vậy mà ở Trung điểm Lạc Thư có Thái Cực, trung điểm Hồng Phạm có Hoàng Cực. Thái Cực trong Lạc Thư tượng trưng cho Trời. Hoàng Cực trong Hồng Phạm tượng trưng cho vì Thiên Tử thay Trời trị dân.
Đằng khác, có ít nhiều vị chân tu đắc đạo băng qua được các lớp lang hình tướng của vạn hữu, sống kết hợp với Thái Cực, Thái Nhất, đã mượn vị số của Lạc Thư để nói lên sự đắc đạo của mình; đại khái rằng mình đã vào được tâm điểm hoàn võ, vào được trong lòng Tạo Hóa. Tung tầm mắt bao quát tám hướng, thì thấy vạn tượng, vạn hữu triều phục, hỗ trợ chung quanh y như tay chân, vai vế; chẳng khác nào 8 số Âm Dương bao quanh số 5 Thái Cực ở giữa.
Sách Chẩm Trung Kinh viết:
Ta ở đơn phòng
Bạn ta: Thái Nhất
Tả ba, hữu bảy,
Chín trước, một sau
Hai bốn đằng vai
Tám, sáu đằng chân
Ta ở chính giữa. [12]
Mới hay Lạc Thư đã chứa đựng cả một kho tàng văn hóa, chính trị và đạo giáo. [13]
--------------------------------------------------------------------------------
CHÚ THÍCH
[1] Tuy nhiên các học giả thường cho rằng Hà Đồ, Lạc Thư không có liên lạc gốc gác gì với nhau.
[2] Người xưa gọi thế là Kim (9/4) cư hỏa (7/2) vị. Hỏa (7/2) cư Kim (9/4) vị. — Chu Dịch Xiển Chân, trang 3b. Hay nói văn vẻ là: Kim thừa Hỏa vị, Hỏa nhập Kim hương. — Chu Dịch Đại Toàn, trang 27a.
[3] ... Hà Đồ chi số ngũ thập hữu ngũ...Lạc thư chi số, tứ thập hữu ngũ... tương hợp quát vi nhất bách chi số, vạn vật vạn tượng, chí vi, chí đại chi số, quân cùng ư thử hĩ. 河 圖 之 數 五 十 有 五... 洛 書 之 數 四 十 有 五... 相 合 适 為 一 百 之 數, 萬 物 萬 象, 至 微, 至 大 之 數, 均 窮 於 此 矣. — Nhiệm Ứng Thu - Âm Dương Ngũ Hành.
[4] Ngọc Trai Hồ thị viết: Tam đồng giả: Đồ Thư chi nhất, lục giai tại Bắc; tam bát giai tại Đông; Ngũ giả tại trung. Tam giả chi vị số giai đồng dã. Nhị dị giả: Đồ chi nhị thất tại Nam, nhi Thư tắc nhị thất tại Tây; Đồ chi tứ cửu tại Tây, nhi Thư tắc tứ, cửu tại Nam. Nhị giả chi vị số giai dị dã. 玉 齋 胡 氏 曰: 三 同 者: 圖 書 之 一, 六 皆 在 北; 三 八 皆 在 東; 五 者 在 中. 三 者 之 位 數 皆 同 也. 二 異 者: 圖 之 二 七 在 南, 而 書 則 二 七 在 西; 圖 之 四 九 在 西, 而 書 則 四 九 在 南. 二 者 之 位 數 皆 易 也 . — Chu Dịch Đại Toàn, trang 20b.
[5] Cái Dương bất khả dịch, nhi Âm khả dịch... 蓋 陽 不 可 易 而 陰 可 易 .— Chu Dịch Đại Toàn, trang 20b.
[6] Thiệu Tử viết: Viên giả tinh dã; lịch kỷ chi số kỳ triệu ư thử hồ? Phương giả thổ dã. Hoạch châu, tỉnh địa chi pháp kỳ phỏng ư thử hồ. 邵 子 曰: 圓 者 星 也; 歷 紀 之 數 其 兆 於 此 乎? 方 者 土 也. 畫 州, 井 地 之 法 其 倣 於 此 乎.— Chu Dịch Đại Toàn, trang 18a.
[7] Ta có thể nói được ở Hà Đồ thì Thái Cực là 5 + 10 = α + ω
Ở Lạc Thư thì Thái Cực là 5 = α
Còn số 10 sẽ có nhờ sự phối hợp Âm Dương bên ngoài vì:
1 + 9 = 10; 2 + 8 = 10
3 + 7 = 10; 4 + 6 = 10
Và sự thành tựu của vũ trụ chỉ có, khi nào hóa giải được hết các mâu thuẫn, đem lại được sự hòa hợp giữa mọi phần tử; chỉ khi ấy mới gọi được là 10 phân vẹn 10.
[8] Thái Nguyên định thuyết: 蔡 元 定 說
Cửu cung chi số 九 宮 之 數
Tải cửu lý nhất 載 九 履 一
Tả tam hữu thất 左 三 有 七
Nhị tứ vi khiên 二 四 為 肩
Lục bát vi túc, 六 八 為 足
Ngũ cư trung ương 五 居 中 央
Qui bối chi tượng dã. 龜 背 之 象 也
Dịch Tiết Đồ Thư dẫn, Nhiệm ứng Thu, Âm Dương Ngũ Hành, trang 48, (Phụ lục: Hà Đồ, Lạc Thư thiển thuyết)
[9] Trung ngũ hựu tượng Thái Cực. 中 五 又 象 太 極 .— Chu Dịch Xiển Chân (Lạc Thư).
[10] Đó là nguyên lý thứ II về nhiệt lực học của Carnot-Clausius: Nguyên lý này đại khái như sau: Năng lực chỉ có thể tác dụng khi biến động, tức là khi gặp một sự chênh lệch (gây nên bởi địa thế, nồng độ, mật độ, nhiệt độ v.v. Nói cách khác, muốn biến thiên chuyển dịch, cần mất thế thăng bằng, cần có sự chệch lệnh. Càng mất thăng bằng, càng biến thiên, càng tác động mạnh. Một động lực khi đã biến thiên tác dụng, không thể tự nhiên mà phục hồi được phong thái nguyên thủy... — Lecomte du Noüy và Học Thuyết Viễn Đích của tác giả, trang 113.
[11] Hỏa dĩ luyện chi, Kim dĩ hình chi, cố Kim cư Hỏa vị, Hỏa cư Kim vị. Kim Hỏa đồng cung, nhi vạn vật vô bất tạ lại đào dung thành tựu hĩ. 火 以 煉 之, 金 以 形 之, 故 金 居 火 位, 火 居 金 位. 金 火 同 宮, 而 萬 物 無 不 藉 賴 陶 熔 成 就 矣 .— Chu Dịch Xiển Chân, Lạc Thư, trang 3b.
[12] Ngô cư Đơn phòng. Thái Nhất vi ngô ngẫu. Tả tam hữu thất, Tải cửu lý nhất. Nhị tứ vi ngô kiên, lục bát vi ngô túc. Ngô cư trung cung, dĩ vi phúc thực. 吾 居 丹 房. 太 一 為 吾 偶. 左 三 右 七. 載 九 履 一. 二 四 為 吾 肩. 六 八 為 吾 足. 吾 居 中 宮. 以 為 腹 實 .— Chẩm Trung Kinh, trang 1.
[13] Le dialogue qui ouvre le Hong Fan exprime assurément l'idée que l'aménagement de l'Univers implique une répartition des choses et des hommes laquelle peut se traduire tout aussi bien par un arrangement en 9 Rubriques (Lạc Thư Hồng Phạm) que par une distribution en 5 Eléments (Hà Đồ). — Marcel Granet, La Pensée Chinoise, page 168.
... Quant au Lo Chou, le diagramme qui prétend le restituer, s'inspire des données formellement attestées dès l'époque des Han...Les 9 premiers nombres y sont disposés en carré magique (autour de 5), ainsi qu'on pourrait le prévoir pour un tableau du monde offert (par l'intermédiaire d'une tortue) à un Héros qui divisa la Terre (carrée) en 9 Régions. — Ib page 178.
--------------------------------------------------------------------------------
Chương 4. Ảnh hưởng Lạc Thư với các vấn đề
quốc gia, xã hội, học thuật Trung Quốc
Lạc Thư rất quan trọng, vì đã được đem áp dụng vào nhiều lãnh vực, khoa học, chính trị, đạo giáo Trung Hoa. Cửu Phong Thái thị nói:
Hà Đồ thể tròn mà dụng vuông,
Lạc Thư thể vuông mà dụng tròn. [1]
Hà Đồ sinh bát quái. Bát quái tượng Âm Dương nên phải chẵn mới phát biểu được ý nghĩa phối ngẫu và đối trĩ.
Lạc Thư sinh Cửu Trù, mà Cửu Trù là số Ngũ Hành biến hóa, nên phải lẻ để ngụ ý vận động. [2]
Cho nên mới có các chuyện kỳ lạ là Hà Đồ thì có nhiều liên lạc với con số 6, còn Lạc Thư lại gắn bó với con số 9. Trong thiên Hà Đồ chúng ta đã thấy tầm quan trọng của số 6 trong lịch số, nay chúng ta sẽ chứng minh tầm quan trọng của số 9 trong cách phân châu, phân dã ở Trung Hoa.
1. Lạc Thư có 9 số, tượng trưng 9 cung
Một ở Trung ương làm khu nữu, chủ chốt
Tám ở chung quanh hàm ngụ ý nghĩa biến thiên, phụ bật.
Tiên Hiền Trung Quốc đã nhân Lạc Thư mà tổ chức phân phối Trời, Đất, Người như sau:
Về thiên văn, vòm trời được chia làm 9 miền gọi là Cửu Cung, hay Cửu Dã như sau:
Dương thiên
Viêm thiên
Chu
thiên
Thương thiên
Quân thiên
Hạo
thiên
Biến thiên
Huyền thiên
U
thiên
[3]
2. Chia Trung Hoa thành 9 châu
Chiếu vào địa đồ, ta thấy vị trí các miền xưa đại khái như sau: [4]
Nhờ cách phân châu, phân dã trên Trời, dưới Đất thành 9 miền, nên các nhà Thiên Văn Học Trung Hoa định được chòm sao nào chiếu vào miền nào, và mỗi khi có hiện tượng lạ trên trời, sẽ biết được miền nào dưới đất chịu ảnh hưởng.
3. Đế đô Trung Quốc được chia thành chín vùng theo kiểu Lạc Thư như sau: [5]
Khu dân cư
Chợ
Khu dân cư
Dân cư
Vương cung
Xã miếu
Khu dân cư
Xã miếu Triều đình
Khu dân cư
4. Tòa Minh Đường của nhà vua được chia thành 9 phòng như sau: [6]
Cá
(là 1 khu vực)
Minh
Đường
Cá
(là 1 khu vực)
Thanh
Dương
Thái thất
Thái miếu
Tổng
chương
Cá
(là 1 khu vực)
Huyền
Đường
Cá
(là 1 khu vực)
5. Chia đất cho dân thành 9 khoảnh: Kỳ lạ hơn nữa là phép tỉnh điền tuy có từ thời vua Hoàng Đế (2697 - 2597), nhưng cũng rập theo khuôn mẫu Cửu Cung và được phân phối như sau:
Trăm
mẫu
Trăm
mẫu
Công
điền
Trăm
mẫu
Trăm
mẫu
Mỗi Tỉnh có tám nhà ở chung quanh; mỗi nhà được 100 mẫu ruộng; ở giữa là Công điền có giếng nước (Tỉnh). Tám nhà chung quanh phải góp sức làm 100 mẫu Công điền ở giữa để nộp cho nhà vua. Còn hoa lợi thì được hưởng cả. Đó là phép Triệt Điền.[7]
6. Chia não bộ con người thành 9 cung như sau: Thiên Đình, Cực Chân, Đơn Huyền; Minh Đường, Nê Hoàn: Thiên Tâm, Thái Hoàng; Động Phòng, Lưu Châu, Đế Ất. [8] Tính Mệnh Khuê Chỉ vẽ Cửu Cung trong đầu đại khái như sau: [9]
Có cái lạ là y học cổ Âu Châu cũng chia óc não và các xoang não bộ thành cung thất. Hiện nay ta còn thấy những chữ não thất 3 (3è ventricule), não thất 4 (4è ventricule) v.v... Hơn nữa chữ Thalamus theo từ nguyên cũng chính là Động Phòng. [10] Thế mới hay Cửu Cung của Lạc Thư đã trở thành nòng cốt cho công cuộc khảo sát Thiên Văn, Địa Lý, Nhân Sinh.
So lại các đồ bản: Lạc Thư, Thiên Văn, Địa Lý, Nhân Sinh, Cửu Cung, Cửu Dã, Minh Đường, Tỉnh Điền v.v..., ta thấy Trung Cung, Trung Điểm lúc nào cũng dành cho Thái Cực, hoặc là cho Thiên Tử, cho Vương Cung, Vương Điền; còn ở nơi con người thì Trung Cung tượng trưng cho Nê Hoàn hay Huyền Quan Nhất Khiếu. Như vậy Trung Điểm, Trung Cung thật là tối trọng. Suy ra, thì bất kỳ trên trời, dưới đất, trong người, đã có biến thiên, là phải có chủ chốt. Kinh Dịch cho rằng trên trời, dưới đất, trong người, chủ chốt huyền vi ấy chỉ có một: đó là Thái Cực...
--------------------------------------------------------------------------------
CHÚ THÍCH
[1] Cửu Phong Thái Thị viết: Hà Đồ thể viên nhi dụng phương, Lạc Thư thể phương nhi dụng viên. 九 峰蔡 氏 曰: 河 圖 體 圓 而 用 方, 洛 書 體 方 而 用 圓.— Chu Dịch Đại Toàn, trang 18a.
[2] Quải giả Âm Dương chi tượng dã. Trù giả Ngũ Hành chi số dã. 卦 者陰 陽 之 象 也. 疇 者 五 行 之 數 也. —Chu Dịch Đại Toàn, trang 18a.
[3] Xem Từ nguyên nơi chữ Cửu Thiên. Cửu Thiên này là theo tài liệu của Lã Thị Xuân Thu. Hoài Nam tử cũng chủ trương tương tự. Sách Thái Huyền hoặc Đại Đỗng Chân Kinh lại gọi Cửu Thiên bằng những tên khác. Đại Đỗng chú Cửu Thiên là: Thủy thanh, Thái thanh, Thủy đơn, Thái đơn, Thủy tố, Thái tố, Thủy huyền, Thái huyền, trung ương Đại Phạm... —Đại Đỗng Chân Kinh Thượng, trang 5.
[4] Cf. P. Angelo Zottoli S.I. Cursus Litteraturæ Sinicæ, Tabula 1a -Mappa ante Tcheou.
[5] Tài liệu của P. Angelo Zottoli S.J. trong quyển Cursus Litteraturæ Sinicæ,Tabula VI Agricultura.
[6] Minh Đường là nơi xưa vua ngự để thông cảm với thần minh, bắt chước vừng Dương vận chuyển để soi sáng cho trái đất, tuyên bố nguyệt lệnh, lịch kỷ v.v.. Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, vua tùy thời mặc phẩm phục xanh, đỏ, trắng, đen, luân phiên ngự tại các cung Thanh Dương, Minh Đường đến Tổng Chương, Huyền Đường. Sau Ngày Hạ chí, vua mặc áo Huỳnh bào, vào ngự tại trung cung Thái Miếu. Như vậy theo đúng chiều Ngũ Hành tương sinh: Thanh Dương (Mộc), Minh Đường (Hỏa), Thái Miếu (Thổ), Tổng Chương (Kim), và Huyền Đường (Thủy) v.v... — Marcel Granel, La Pensée Chinoise các đoạn: Le Temps et l'Es- pace (từ trang 86-114), và đoạn Les Nombres (từ trang 49 đến 208).
[7] Phép Tỉnh Điền đã được thiết lập từ thời Hoàng Đế (2697- 2597).
- Leon Wieger, Textes Historiques, Tome I, trang 2
- Angelo Zottoli, Cursus Litteraturæ Sinicæ, Tabula VI Agricultura.
-Séraphin Couvreur, Les Annales de la Chine, page 401.
[8] Đầu hữu cửu cung, trung hữu Nê hoàn. 頭 有九 宮, 中 有 泥 丸. —Đại Đỗng Chân Kinh, trang 7a.
[9] Xem Tính Mệnh Khuê Chỉ quyển Nguyên trang 8b.
[10] Constitutio Apostolica (Munificentissimus Deus) de Pie XII... Oportebat sponsam Quam Pater desponsaverat in thalamis coelestibus habitare (Il fallait que l'épouse que le Père avait épousée habitât dans la chambre nuptiale céleste. —C.J. Jung, Réponse à Job, page 216.
--------------------------------------------------------------------------------
Chương 5. Lạc Thư và Toán học
Các số Lạc Thư xếp vào Cửu Cung thành một ma phương (carré magique).
Gọi là ma phương, vì ngang dọc xuôi ngược, chéo, góc, phía nào cộng lại cũng đều thành 15, hơn nữa ma phương còn biến hóa ra nhiều hình thức mới, bằng cách hoán chuyển các con số. Ví dụ ma phương trên còn có thể biến hóa như sau:
2
7
6
4
3
8
2
9
4
9
5
1
9
5
1
7
5
3
4
3
8
2
7
6
6
1
8
8
3
4
6
7
2
6
1
8
1
5
9
1
5
9
7
5
3
6
7
2
8
3
4
2
9
4
8
1
6
3
5
7
4
9
2
Ma phương có nhiều loại:
3 x 3 = 9 ô
5 x 5 = 25 ô
hoặc có: 7 x 7 = 49 ô
9 x 9 = 81 ô
27 x 27 = 529 ô v.v...
4 x 4 = 16 ô
6 x 6 = 36 ô
hoặc có: 8 x 8 = 64 ô
10 x 10 = 100 ô v.v...
Người Âu Châu và người Trung Đông cũng rất trọng ma phương. Họ gọi ma phương 9 ô là ma phương Thổ tinh (Zahal) vì chín số trong ma phương cộng lại là 45, trị số của chữ Zahal trong mẫu tự Ả Rập.
Ma phương 4x4 = 16 ô là ma phương Mộc Tinh (Jupiter); ma phương 5x5 = 25 ô là ma phương Hỏa Tinh; ma phương 6x6 = 36 ô là ma phương Thái Dương; ma phương 7x7 = 49 ô là ma phương Kim Tinh; ma phương 8x8 = 64 ô là ma phương Thủy Tinh; ma phương 9x9 = 81 ô là ma phương Thái Âm v.v... [1]
Ví dụ vài ma phương thông thường, để độc giả tiện đường khảo sát:
Ma phương 4 x 4 ô Ma phương 5 x 5 ô
1
15
14
4
1
18
10
22
14
12
6
7
9
20
7
24
11
3
8
10
11
5
9
21
13
5
17
13
3
2
16
23
15
2
19
6
12
4
16
8
25
S = 34 S = 65
Ma phương 6 x 6 ô
1
35
4
33
32
6
12
8
28
27
11
25
24
17
15
16
20
19
13
23
21
22
14
18
30
26
9
10
29
7
31
2
34
3
5
36
S = 111
Ma phương 7 x 7 ô
46
1
2
3
42
41
40
45
35
13
14
32
31
5
44
34
28
21
26
16
6
7
17
23
25
27
33
43
11
20
24
29
22
30
39
12
19
37
36
18
15
38
10
49
48
47
8
9
4
S = 175
Ma phương 8 x 8 ô
1
63
62
4
5
59
58
8
56
10
11
53
52
14
15
49
48
18
19
45
44
22
23
41
25
39
38
28
29
35
34
32
33
31
30
36
37
27
26
40
24
42
43
21
20
46
47
17
16
50
51
13
12
54
55
9
57
7
6
60
61
3
2
64
S = 260
Người xưa coi ma phương như là linh phù và kính trọng ma phương 9 ô nhất. Người Ả Rập trọng ma phương này vì tổng số 9 ô là 1 + 2 + 3 + 4 + 5 + 6 + 7 + 8 + 0 = 45, mà 45 là trị số của chữ Zahal (Thổ Tinh) trong tiếng Ả Rập.
Những người Do Thái, chuyên khảo sách Talmud, trọng ma phương này vì số 15 là trị số của chữ JAH tức là Thượng Đế. [2]
Người Á Đông trọng ma phương này vì 5 và 15 đều tượng trưng cho Thái Cực, cho Trời. Vì vậy mà Lạc Thư hay ma phương 9 ô vẫn được coi là thần bí.
Các học giả Âu Châu cho rằng ma phương Lạc Thư có liên quan đến chữ Vạn vì:
4 + 9 + 5 + 1 + 6 = 25 2 + 9 + 5 + 1 + 8 = 25
2 + 7 + 5 + 3 + 8 = 25 4 + 3 + 5 + 7 + 6 = 25
Mà 25 chẳng qua là 52.
Cho nên dẫu Lạc Thư hay chữ Vạn, hai bên cũng đều chỉ bản thể và hiện tượng của vũ trụ. [3]
--------------------------------------------------------------------------------
CHÚ THÍCH
[1] Mackey's Revised Encyclopedia of Freemasonry. Vol. II, mục Magic, trang 611. -W.S. Andrews, Magic squares and cubes các trang 1, 2, 4, 13, 18, 20, 25, v.v...
[2] Mackey's Revised Encyclopedia of Freemasonry, Quyển II nơi chữ Magic trang 611.
[3] Cf. Marcel Granet, La Pensée Chinoise, page 197.
--------------------------------------------------------------------------------
Chương 6. Lạc Thư và chính trị
Lạc Thư đã giúp Đại Võ và Cơ tử lập ra Hồng Phạm Cửu Trù, một hiến chương dùng để trị quốc, an bang. Từ nguyên có ghi: Hồng Phạm Cửu Trù là phương pháp đại qui mô để cai trị thiên hạ.
Hồng Phạm Cửu Trù gồm 9 chương:
1. Ngũ Hành 4. Ngũ kỷ 7. Kê nghi
2. Ngũ sự 5. Hoàng cực 8. Thứ trưng
3. Bát chính 6. Tam đức 9. Ngũ phúc
Chín chương Hồng Phạm gồm tất cả 55 tiết, ứng với số 55 của Hà Đồ. Hồng Phạm Cửu Trù là hiến chương căn bản dạy đấng quân vương cách thay Trời trị dân.
Hình vẽ dưới đây giúp ta hiểu rõ liên lạc giữa Lạc Thư và Hồng Phạm Cửu Trù:
Ta có thể tóm tắt Hồng Phạm bằng những ngôn ngữ thông thường ngày nay như sau:
1. Ngũ Hành
Đấng quân vương phải am tường vật lý, phải biết khai thác hết tài nguyên của đất nước để lo cho dân no ấm.
2. Ngũ Sự
Đấng quân vương phải biết phương pháp tu thân.
a. Giáng điệu phải nghiêm trang, kính cẩn.
b. Nói năng phải hợp lý.
c. Trông nhìn phải cho sáng suốt.
d. Nghe ngóng phải cho tinh tế.
e. Nghĩ ngợi phải cho thấu triệt.
Được như vậy, đấng quân vương sẽ trang nghiêm, oai vệ, lý sự, đàng hoàng, khôn ngoan, sáng suốt, tinh tường, mưu lược, thánh thiện, đạo đức.
3. Bát chính
Đấng quân vương phải biết phương pháp trị dân. Cương lĩnh trị dân gồm 8 điểm, trị dân là lo cho dân:
1 - No ấm
2 - Sung túc, đủ tiện nghi
3 - Có lễ nghi, tế tự
4 - Có nhà cửa, đất đai
5 - Có một nền giáo hóa hẳn hoi
6 - Khỏi bị bọn gian ác, bất lương, quấy nhiễu.
7 - Biết đường tiếp nhân, xử thế
8 - Được bảo vệ tính mạng và tài sản, thoát nạn ngoại xâm nhờ binh hùng, tướng mạnh của nhà nước.
4. Ngũ Kỷ
Đấng quân vương phải am tường ý nghĩa của Năm; Tháng; Ngày; sự vận chuyển của Nhật Nguyệt,
tinh cầu; Lịch số. Như vậy, mới có thể dạy dân biết cách điều hòa công tác cho hợp thời, hợp tiết, để được ấm no, thịnh vượng; cho trời, đất, người cùng hòa tấu một bản nhã ca thanh bình, thái thịnh.
5. Hoàng Cực
Đấng quân vương sẽ ở ngôi Hoàng Cực thay Trời trị dân. Muốn được vậy, phải có đức hạnh tuyệt vời, siêu phàm, thoát tục, xứng đáng làm môi giới giữa Trời và muôn dân.
6. Tam Đức
Thuật trị dân phải dựa vào ba đức: Chính trực, Cương, và Nhu. Nói thế, tức là muốn trị dân, chính trực chưa đủ, còn phải biết cương, nhu, quyền biến, tùy thời.
7. Kê Nghi
Đấng quân vương phải biết suy nghĩ, bàn bạc, hỏi han khi gặp trường hợp nan giải. Đứng trước một công việc trọng đại, sẽ hội ý kiến của nhà vua, của khanh sĩ, thứ dân, của Trời (bằng cách bói thi, qui). Phối kiểm lại, sẽ biết thế nào là tốt, thế nào là xấu, và tìm ra được đường lối đẹp đẽ nhất để xử sự.
8. Bát Trưng
Đấng quân vương phải nhân các điềm Trời mà soát xét lại đường lối cai trị của mình; xem tuần tiết, độ lượng gió mưa, nóng lạnh của Trời mà suy ra mình đã cai trị hay, hay dở. Lý do là vì đấng quân vương, đúng danh hiệu, sẽ cảm ứng được với Đất Trời, và hiểu được tiếng nói thầm lặng của Đất Trời, qua các biến thiên của thời tiết.
Ví dụ: Nếu thấy quanh năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt rồi rào, thì biết cách cai trị dân nước đã khôn khéo, dân thịnh, nước yên. Nếu quanh năm, thời tiết gàng quải, lúa má hư hao, thì chắc là việc trị dân đã tối tăm, kém cỏi, dân suy, nước khổ.
9. Ngũ Phúc, Lục Cực
Đấng quân vương phải nhìn vào tình cảnh nhân dân để nhận định giá trị nền cai trị của mình.
Nếu cai trị hay, dân chúng sẽ hưởng được ngũ phúc: thọ, giàu, yên vui, ham chuộng nhân đức, chết già yên ổn.
Nếu cai trị dở, dân sẽ lao lung, tật bệnh, tảo vong, yểu tử, khổ sở, bất lương. Thế là lâm vòng lục cực: chết non, bệnh tật, lo buồn, nghèo khổ, tội ác, yếu ớt. Kinh Thư viết: Người xưa có lời rằng:
Con người chẳng những soi bóng nước,
Còn phải ngắm mình trước gương dân. [1]
Mục đích của nền Thiên trị theo Hồng Phạm Cửu Trù chính là để: Tạo cho mọi người dân một đời sống vật chất, đầy, đủ, một bảo đảm an ninh tối đa, một nền học vấn khả quan, một đời sống xã hội công bình trật tự, một nền giáo hóa hẳn hoi. Như vậy, mọi người đều có cơ hội và hoàn cảnh thuận tiện để tu luyện bản thân, trở nên thánh thiện, chẳng khác gì vị Thiên tử. [2]
Tổng kết lại, Hồng Phạm Cửu Trù thực là một hiến chương, một học thuyết chính trị có đầu đuôi, mạch lạc và đã được thực thi bởi các vị Thánh Vương Trung Quốc. Đó là Lạc Thư áp dụng vào phạm vi chính trị vậy. [3]
--------------------------------------------------------------------------------
CHÚ THÍCH
[1] Cổ hữu ngôn viết: Nhân vô ư thủy giám Đương ư dân giám. 古 有 言 曰 人 無 於 水 監 當 於 民 監. — Kinh Thư, Tiểu Cáo, tiết 12.
[2] Hội kỳ hữu cực, qui kỳ hữu cực. 會 其有 極 歸 其 有 極. — Kinh Thư Hồng Phạm.
[3] Xin đọc quyển Khổng Học Tinh Hoa của tác giả, trong đó đã bàn giải cặn kẽ về Hồng Phạm Cửu Trù.
--------------------------------------------------------------------------------
Chương 7. Lạc Thư và phương pháp khắc kỷ tu thân
qui nguyên phản bản của các Đạo gia
Các đạo gia vì chuyên lo tu luyện bản thân, nên nhân Lạc Thư mà suy ra những cơ cấu tâm linh cũng như các phương pháp hữu hiệu để sửa sang chếch mác, dở dang trong tâm hồn, ngỏ hầu qui nguyên phản bản.
Về phương diện nhận thức Triết học, các ngài dựa vào Hà Đồ, Lạc Thư, nhận định trong con người có hai phần Âm Dương. Ấy là Nhân tâm và Đạo tâm, ấy là Người và Trời.
Trời hay Đạo tâm gồm có:
1. Ngũ Nguyên: a. Nguyên tính, b. Nguyên thần, c. Nguyên tình, d. Nguyên tinh, e. Nguyên khí.
2. Ngũ Đức: a. Nhân, b. Nghĩa, c. Lễ, d. Trí, e. Tín.
Nhân tâm hay con Người gồm có:
1. Ngũ Vật: a. Du hồn, b. Thức thần, c. Quỉ phách, d. Trọc tinh, e. Vọng ý
2. Ngũ Tặc: a. Hỉ, b. Lạc, c. Nộ, d. Ái, e. Dục.
Ở Hà Đồ, 5 số chẵn bao giờ cũng kết đôi với 5 số lẻ. Các ngài suy ra rằng: trên bình diện lý tưởng, Nhân tâm và Thiên ý lúc nào cũng hợp nhất với nhau.
Tức là, Thiên nhân hợp nhất, chí thành chí thiện.
Ở Lạc Thư, trái lại các số Âm Dương, chẵn lẻ đều đứng riêng rẽ. Các ngài suy rằng: trên bình diện thực tế, nhân tâm thường xa cách với Thiên lý, gàng quải, chia phôi, y như phu thê phản mục, kẻ Nam người Bắc, quay lưng thay vì quay mặt lại với nhau.
Ở Lạc Thư, chúng ta thấy Âm Dương, Ngũ Hành tương khắc. Các ngài suy ra rằng: nhân tình, nhân dục thường chống đối, thường đi ngược lại với Thiên Chân, Thiên Lý, vì thế nên mới có cảnh đảo điên thác loạn trong trần hoàn cũng như con người.
Ở Lạc Thư, nếu chỉ quan sát vòng ngoài, ta thấy Âm khắc Dương. Các ngài suy ra rằng nhân tình, nhân dục trên bình diện thực tế đã lấn át, đã che lấp mất Thiên Lý, Thiên Chân, nên tính Trời không thể phát huy; Ngũ Nguyên, Ngũ Đức hầu như đã thoái vị, để cho Ngũ Tặc, Ngũ Vật nhảy ra chấp chính, rông rỡ làm càn. Các ngài mô tả sự rối loạn ấy bằng đồ bản Lạc Thư sau:
Tuy nhiên, các ngài chủ trương rằng sự thác loạn, đảo điên này vẫn có thể sửa chữa được. Ta vẫn có cách dẹp nhân tình, nhân dục, cho vừng dương thiên tính, thiên đức hiện ra với vầng hào quang ngũ sắc: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Làm sao khắc phục được nhân dục, nhân tình?
Muốn khắc phục nhân dục, nhân tình, các Đạo gia chủ trương chỉ cần áp dụng định luật Âm Dương tương khắc. Thay vì để cho Âm khắc Dương, Âm thắng Dương như trước, ta đảo lộn tình thế, nghĩa là làm sao cho Dương khắc Âm, Dương thắng Âm.
Muốn chế ngự Ngũ Tặc, Ngũ Vật, nhân dục nhân tình, để Ngũ Nguyên, Ngũ Đức hiển dương, ta có đường lối nhất định, tuần tự hẳn hoi.
Muốn Qui Nguyên Phản Bản, điều kiện tiên quyết là phải tin tưởng mãnh liệt rằng Thái Cực hay Trời ngự trị trong tâm khảm mình. Niềm tin sâu xa vững mạnh này sẽ làm tan biến hết mọi ưu tư sầu muộn, và làm cho thần trí trở nên sáng láng. [1]
Thần trí sáng láng sẽ giúp con người phân biệt dở hay, tháo gỡ được tục lụy, không còn đắm đuối trong những thú vui vật chất hạ đẳng, mà chỉ yêu chuộng những lạc thú tinh thần cao thượng.
Khi tâm hồn đã trở nên thanh khiết, thoát tục như minh nguyệt, thanh phong, con người sẽ uy nghi, trang trọng, phong thái thần tiên dần dần hiển lộ ra. [2]
Khi đã lễ nghi trang trọng, khi phong thái thần tiên đã hiển lộ ra, tâm thần sẽ trở nên bình thản, và những sự giận hờn sẽ không còn cơ hội phát sinh. Mọi hành vi cử chỉ con người nhất nhất sẽ hợp nghĩa lý. [3]
Đời sống khi đã khuôn theo nghĩa lý, con người sẽ trở nên nhân đức, hoàn thiện. [4]Đã nhân đức hoàn thiện, nhân dục sẽ tiêu ma và con người sẽ trở về Trung Cung, phối hợp cùng Thái Cực, cùng Thượng Đế.
Đó là lẽ Phản Bản, Qui Nguyên và các lớp lang, tuần tự để tu thân, tiến đức mà các Đạo gia đã suy diễn ra từ Lạc Thư.
Các ngài mô tả sự diễn tiến của công trình Khắc kỷ phục lễ, Qui Nguyên Phản Bản bằng đồ bản Lạc Thư với các lời chú thích sau đây:
Tóm lại, đối với Đạo gia, nguyên động lực mãnh liệt nhất có thể hoán cải tâm hồn con người, đó là niềm tin vững mạnh có Thượng Đế ngự trị đáy lòng.
Chỉ khi nào nhìn nhận ra có Thượng Đế, có Thái Cực ở trong tâm khảm mình, bấy giờ con người mới có thể thực sự vươn lên, thực sự hoán cải tâm hồn để trở về kết hợp cùng Thượng Đế.
Sau khi khảo sát quan niệm của Đạo gia về Lạc Thư và cách áp dụng Lạc Thư vào công cuộc khắc kỷ, tu thân, ta thấy quan niệm ấy hoàn toàn khác biệt với quan niệm Nho Gia và các chính trị gia Trung Quốc về Lạc Thư. Nhưng sự khác biệt này chỉ có lợi cho ta, giúp ta hiểu thêm về tâm hồn con người, cũng như về phương pháp tu thân của người xưa. Mới hay Lạc Thư thực là một ma phương biến hóa khôn cùng. Mà biến hóa thế nào theo chiều hướng nào cũng thấy đầy lý sự, thích thú.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÚ THÍCH
[1] Thử Tín nhất phục, Mậu Thổ phát hiện, nội hữu chủ tể, vạn duyên giai không, chư lự câu tức. Tắc bất ai nhi sinh trí. Thị Mậu Thổ khắc Quí Thủy, nhi Thủy phản Dương hĩ. 此 信一 復, 戊 土 發 現, 內 有 主 宰, 萬 緣 皆 空, 諸 慮 俱 息. 則 不 哀 而 生 智. 是 戊 土 剋 癸 水, 而 水 返 陽 矣.— Chu Dịch Xiển Chân, Lạc Thư.
[2] Trí bất Vọng dụng, vô tham vô cầu, tâm bình khí hòa, tắc lạc chân nhi hữu lễ. Trí trung xuất lễ, thị Nhâm Thủy khắc Đinh Hỏa, nhi Hỏa phản Dương hĩ. 智 不 忘 用, 無 貪 無 求,心 平 氣 和, 則 樂 真 而 有 禮. 智 中 出 禮, 是 任 水 剋 丁 火, 而 火 返 陽 矣 .— Chu Dịch Xiển Chân, Lạc Thư.
[3] Lễ bản ư trí, hòa nhi bất đồng, phi lễ bất lý, táo khí tất hóa, tắc bất nộ nhi thành nghĩa. Lễ trung xuất nghĩa, thị Bính Hỏa khắc Tân Kim, nhi Kim phản Dương hĩ. 禮 本於 智, 和 而 不 同, 非 禮 不 履, 燥 氣 悉 化, 則 不 怒 而 成 義. 禮 中 出 義, 是 丙 火 剋 辛 金, 而 金 返 陽 矣. — Chu Dịch Xiển Chân, Lạc Thư.
[4] Nghĩa bất quá thiên, thông quyền đạt biến, tuần qui đạo củ, tắc hỉ Thiện nhi tàng Nhân. Nghĩa trung sinh Nhân thị Canh Kim khắc Ất Mộc, nhi Kim phản Dương hĩ. 義 不過 偏, 通 權 達 變, 循 規 蹈 矩, 則 喜 善 而 藏 仁. 義 中 生 仁 是 庚 金 剋 乙 木, 而 金 返 陽 矣 .— Chu Dịch Xiển Chân, Lạc Thư.
--------------------------------------------------------------------------------
Chương 8. Ảnh hưởng Lạc Thư trong ít nhiều nước Á Âu
Lạc Thư được truyền thụ ở cả Á lẫn Âu, không phải dưới hình thức nguyên thủy, mà dưới hình thức ma phương.
Ở nhiều nơi, như ở Do Thái, ở các nước Ả Rập, ma phương này được coi như là một đạo linh phù. Nhiều học giả Âu Châu bình rằng số 15 sở dĩ được người Á Đông kính trọng vì số 15 là biểu tượng Thượng Đế. 15 = JAH
Trong Lạc Thư ta nhìn phía nào cũng được 15.[1] Ở Ba Tư người ta có những kiểu vườn gọi là vườn Trung Hoa. Trong vườn có một vọng đình, để chủ nhân ra trầm tư, mặc tưởng. Vọng đình trông ra một cảnh hồ nước. Giữa hồ có một hòn đảo hình thần qui mệnh danh là Vạn Phước Sơn; trên đó có trồng nhiều hàng thông theo các số của Lạc Thư.
Người ta chỉ có thể từ vọng đình, quan chiêm đảo Vạn Phước, nhưng không có phương tiện để đi vào. [2] René Grousset cho rằng số 5 ở chính giữa ma phương là một con số đã được cả người Trung Hoa lẫn người Hồi Giáo và Ba Tư lưu tâm khảo cứu. [3]
Ghazali cho rằng ma phương Lạc Thư là một kỳ quan mà ông đã gặp được trong đời.
Người Nhật cũng có loại vườn Trung Hoa này, nhưng lại bắc cầu để đi vào đảo. Thực ra, người Trung Hoa vốn nghĩ rằng đảo này không phải ai cũng có thể vào. Muốn bước chân lên đảo, con người phải có phong thái đặc biệt...
Nếu ta hiểu rằng số 5 là Thái Cực, là Trời, ma phương Lạc Thư với tổng số 15 là biểu tượng của Thượng Đế thì ta sẽ hiểu tại sao hòn đảo Vạn Phước Sơn có hình ma phương lại chỉ có thể ngồi xa mà lặng ngắm, chứ không thể tới gần, tại sao hòn đảo trong hồ này lại được mệnh danh là Vạn Phước Sơn.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÚ THÍCH
[1] For fifteen was a sacred number among the Orientals, because the letters of the holy name Jah jy were in their numerical value equivalent to fifteen, and hence a figure in which the nine digits were so disposed as to make fifteen either way when added together perpendicularly, horizontally, or diagonaly, constitute one of their most sacred talismans. — Mackey's Revised Encyclopedia of FreeMasonry, Vol. II . Nơi chữ Winding, page 1,109.
[2] Le plus ancien type de jardin est arrivé jusqu'en Perse, mais il venait de très loin: c'est le jardin chinois. Il consiste essentiellement en une perspective plongeante que la Chine a étudiée avec beaucoup de pénétration. Le maître du jardin est assis sur une terrasse devant un lac qui porte le nom de l'eau de l'éternelle aurore au millieu duquel s'élève une île inaccessible qui s'appelle La Sainte Montagne des mille béatitudes. Cette île est plantée de pins, en signe de longévité et elle a la forme d'une tortue car cet animal singulier représente dans la légende chinoise celui qui est sorti le premier de l'océan pour enseigner la science aux hommes au moyen d'un carré magique inscrit sur son dos par les rangées des pins. — René Grousset, Henri Massé, L'Âme de l'Iran, page 95 - 96.
[3] De plus il est assez amusant de remarquer que le chiffre 5 est situé au milieu; or le 5 a toujours beaucoup intéressé les Chinois, et l'Islam et les Persans aussi d'ailleurs. Nous savons quel rôle important il a joué pour les gnostiques schiites... Ib p. 96.
--------------------------------------------------------------------------------
Chương 9. Hà Đồ, Lạc Thư và hai chiều xuôi ngược
biến hóa của vũ trụ và của nhân loại
Như ta đã biết, Hà Đồ, Lạc Thư với một vài sự biến thiên, đảo lộn đã có hai chiều, hai hướng hoàn toàn đối nghịch với nhau.
Lạc Thư đi theo chiều nghịch kim đồng hồ mà ta có thể gọi là chiều vật chất, chiều Âm, chiều sa đọa của tinh thần, chiều thoái giảm của năng lực.
Hà Đồ đi theo chiều kim đồng hồ mà ta có thể gọi là chiều tinh thần, tức là chiều hóa giải, chiều thăng hoa . Con người lúc ấy sẽ bớt sa đọa.
Hà Đồ, Lạc Thư đã xác định một định luật quan trọng chi phối vũ trụ, quần sinh. Đó là Định luật tụ tán, tiến thoái, thăng trầm.
Suy ra:
1. Vũ trụ có tán (chiều Âm) có tụ (chiều Dương)
2. Vạn vật có thăng (chiều Dương) có giáng (chiều Âm) có hủy hoại rồi lại có tái sinh (chiều Dương).
3. Con người hoặc có thể tiến ra xã hội, ra ngoại cảnh để tổ chức, cải thiện xã hội ngoại cảnh, ra xác thân (chiều Âm), hoặc là có thể tiến sâu vào phía tâm thần để cải thiện, để tu luyện cho nên hoàn thiện, để tiến tới thần linh (chiều Dương).
4. Ta có thể coi chiều Lạc Thư là chiều Âm, chiều Vãng, chiều Hà Đồ là chiều Dương, chiều Lai, và như vậy vũ trụ sẽ mãi mãi tụ tán, lai vãng, vãng lai vô cùng, vô tận để chứng minh sự hiện hữu của một nguồn sinh bất diệt. Đó là lẽ vãng lai, phản phục của trời đất. Dịch kinh viết:
Vãng lai bất cùng chi vị thông;
Vô bình bất bí; Vô vãng bất phục.
cũng không ngoài ý đó. Nhân hai chiều hai hướng của Hà Đồ, Lạc Thư ta có thể phác họa lại con đường vãng lai, phản phục của vũ trụ như sau:
Như vậy, Hà Đồ, Lạc Thư giúp ta hiểu rõ chiều hướng biến hóa của vạn vật, vũ trụ, và có liên quan mật thiết đến Dịch Kinh.
Lạ lùng thay, từ ngàn xưa, các bậc Thánh Hiền đã nhìn thấy hai chiều hướng của vũ trụ, mà mãi đến thế kỷ 20 này các Khoa Học Gia mới dần dần nhìn nhận ra được Chân lý này.
Thực vậy, suốt thể kỷ 19, các nhà Khoa Học vẫn đinh ninh rằng vũ trụ chỉ có một chiều hướng tiến hóa, và chiều hướng tiến hóa này được chi phối bởi nguyên lý Carnot-Clausius.
Theo nguyên lý này thì vũ trụ chỉ tiến theo có một chiều duy nhất là chiều suy giảm phá tán của năng lực và của tinh thần, để dần dà đi đến chỗ suy vong, ù lì, tĩnh lãng. [1] Lecomte du Noüy là một trong những nhà Khoa Học gần đây đã trực giác được hai chiều, hai hướng của vũ trụ.
Trong Quyển Con Người Trước Khoa Học (L'homme devant la Science) và quyển Tương Lai Tinh Thần (L'avenir de l'Esprit) Ông đã cố chứng minh rằng Nguyên lý Carnot không hoàn toàn chi phối được các hiện tượng sinh lý. Ông chủ trương rằng vũ trụ phải có hai chiều, hai hướng, biến dịch, tiến hóa.
Một chiều biến hóa theo các định luật vật chất, theo nguyên lý Carnot, một ngày một tiến tới bất động, ù lì, tối tăm, lạnh lẽo, hỗn loạn.
Một chiều tiến hóa theo các định luật tinh thần, một ngày một tiến tới tinh vi, kỳ ảo linh động, sáng tươi, đẹp đẽ, hòa hợp. Khi tinh thần tiến tới tinh hoa tuyệt diệu, thì vật chất sẽ tiến tới giai đoạn hỗn loạn triệt tiêu. [2]
Ô. Y Normand cũng chủ trương rằng vũ trụ biến hóa không thể theo một chiều, một hướng.
Một chiều hướng rồi ra sẽ bế tắc, phải có hai hay nhiều chiều hướng thì chuyển dịch mới linh động được. [3] Ta có thể nói được rằng hai chiều, hai hướng biến hóa của vũ trụ ngày nay đã được các Khoa Học Gia thế kỷ 20 xác nhận với phương trình: E = mc2
Thế mới nay, nếu chúng ta biết cách phối kiểm nhận định của tiền nhân với các khám phá khoa học, và triết học tiên tiến ngày nay, ta sẽ thấy các khối óc siêu việt xưa và nay luôn gặp gỡ.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÚ THÍCH
[1] Rappelons que le Principe de Carnot traduit la tendance le l'énergie à se dégrader ou à se dissiper, ce qui entraîne une augmentation de l'entropie, c'est à dire de l'extension spatiale de l'énergie au cours de ses transformations. — André Lamouche, La Destinée Humaine, page 49, note 16.
... L'énergie se dégrade et l'univers tend vers l'immobilité.
... C'est cette marche à sens unique toujours dans le sens de dégradation, qui justifie le nom de principe d'évolution par lequel on désigne souvent le second principe de Carnot. — Ib. page 95.
[2] Ainsi la marche de l'univers physique dans la direction d'un chaos inerte et du néant sera compensée par la progression parallèle d'un univers impondérable, celui de l'Esprit dont l'ordre et la perfection naîtraient des cendres du monde matériel. — L'homme devant la Science - L'avenir de l'Esprit, page 293.
[3] La thermodynamique de Carnot Clausius nous apprend que tout système isolé tend vers l'homogène et le statique.
La biologie nous apprend que la conjugaison de deux ou plusieurs systèmes est la source unique de toutes les nouveautés, de toutes les naissances. Les deux messages ne sont pas contradictoires, ils sont complémentaires. Un système isolé est un système tué, il n'est pas étonnant de la voir évoluer en sens inverse des systèmes vivants. — Y. Normand (Paris) Science et Avenir Nc 237 Novembre 1966, page 780.
--------------------------------------------------------------------------------
Chương 10. Tổng luận
Khảo sát Lạc Thư, ta thấy nó có một địa vị quan trọng và một tầm ảnh hưởng lớn lao trong các lãnh vực văn hóa, chính trị, đạo giáo Trung hoa.
Các Học giả thì dựa vào Lạc Thư mà phân chia Trời Đất và đầu não con người thành 9 miền, khu, để xác định giá trị mỗi miền, và nghiên cứu ảnh hướng hỗ tương. Các bậc Thánh vương thì nhân Lạc Thư suy ra một đường lối lý tưởng để trị quốc, an bang.
Các Đạo gia thì từ Lạc thư lại suy ra được một đường lối Khắc kỷ, Tu thân, Qui Nguyên, Phản Bản.
Dựa vào các lý thuyết khoa học bây giờ, ta có thể cho rằng Hà Đồ và Lạc thư còn cho ta thấy được hai chiều, hai hướng tiến hóa xuôi ngược của hoàn võ.
Đứng về phương diện nhận thức siêu hình, Lạc Thư đã cho chúng ta thấy trong lòng vũ trụ biến thiên, điên đảo vẫn có Thái Cực, có Trời ẩn áo ngự trị, để điều khiển, hướng dẫn vạn sự vạn vật.
Như vậy, Lạc Thư đã mặc khải cho chúng ta những điều hiểu biết rất là quan trọng.
Sách Tham Khảo
Anh văn:
* Mackey's Revised Encyclopedia of FreeMasonry
* Magic Squares and Cubes — W.S. Andrews
* The Shoo King — James Legge
La tinh:
* Cursus Litteraturæ Sinicæ — P. Angelo Zottoli
Pháp văn:
* L'Âme de l'Iran — René Grousset
* Les Annales de la Chine — Séraphin Couvreur
* L'Avenir de l'Esprit — Lecomte du Noüy
* La Destinée Humaine — André Lamouche
* L'homme devant la Science — Lecomte du Noüy
* La Pensée Chinoise — Marcel Granet
* Réponse à Job — Carl J. Jung
* Textes Historiques — Léon Wieger
Hán văn:
* Âm Dương Ngũ Hành — Nhiệm Ứng Thu
* Chẩm Trung Kinh
* Chu Dịch Đại Toàn
* Chu Dịch Xiển Chân
* Kim Đơn Đại Thành
* Kinh Lạc Học Thuyết Giản Biên — Bắc kinh Trung Y học viện biên
* Tân Nguyên Đạo — Phùng Hữu Lan
* Tính Mệnh Khuê Chỉ
* Từ Nguyên
* Uyên Giám Loại Hàm
* Văn Đạo Tử Giảng Đạo Tinh Hoa Lục