amouruniversel

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    156
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by amouruniversel

  1. Lịch sử và văn hóa là cái gốc của một quốc gia, việc tìm hiểu và phát huy thành công sử/văn hóa Việt có thể sẽ làm chấn hưng nước nhà, khiến cho VN có thể ngẩng cao đầu và tự hào trước các quốc gia khác, cũng như khẳng định chủ quyền của VN trong khu vực. Tuy nhiên, công việc tìm hiểu lịch sử/văn hoá qua mấy ngàn năm là một công việc vô cùng khó, đòi hỏi phải có tâm huyết vô cùng lớn. Qua đó thấy được tấm lòng của các nhà nghiên cứu chủ đề này thật đáng quý thay. Trong nghiên cứu thì trăm hoa đua nở, mà chuyện nhiều ý kiến khác nhau là thường tình. Theo cháu thấy thì không riêng gì người Á Châu mình hay có tính "thấy người sang bắt quàng làm họ", mà trên thế giới ở đâu cũng thế - âu cũng là lẽ thường tình. Huống chi cũng chưa ai chắc được là cái gì là của ai, nên chăng, các nhà nghiên cứu có tâm huyết cứ nghiên cứu theo hướng mình thấy đúng, tạm thời chấp nhận các sự khác biệt trong tư tưởng của người khác, cho phép có sự khác biệt sẽ tạo nên sự phong phú trong học thuật, rồi từ đó khơi trong gạn đục, từ từ sẽ có kết quả tốt. Giới trẻ bọn cháu nếu được kế thừa nền tảng học thuật của các bậc tiền bối đi trước thì thật là quý hoá. Mong các chú bác đóng góp bài viết để tụi cháu được học hỏi. Ps. nhân có được cơ may gặp chú/bác Nhân Vô Minh cùng chú Thiên sứ trong topic này, cháu có thắc mắc về hệ thống Can/Chi (đã post bài theo link sau: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...howtopic=12779) xin mạn phép nhờ 2 chú/bác giải thích giúp cho: ++++++++++++ Kính thưa các chú bác, ACE trên diễn đàn, Trong quá trình tìm hiểu học thuật, amour có "thắc mắc không biết hỏi ai" về hệ thống 10 thiên can và 12 địa chi. Can/chi là những đơn vị rất quen thuộc với người Á Đông, được dùng trong hệ thống lịch pháp và các học thuật khác. Tuy nhiên, nguồn gốc của Can và Chi thì không rõ ràng, vì vậy Amour lập ra topic này để các bậc tiền bối vào dạy bảo, cũng như để cho các ACE quan tâm cùng thảo luận. Amour trước tiên xin mở vấn đề này qua các câu hỏi sau: 1. Định nghĩa Can/Chi là gì? 2. Nguồn gốc của Can/Chi? Can chi dựa vào cái gì mà lập thành? (Hà đồ, lạc thư, âm dương,ngũ hành vvv?) 3. Trong sách lục nhâm và hiệp kỷ biện phương thư có nói về số của Can/Chi như sau: CAN CHI SỐ Giáp,Kỷ Tý, Ngọ 9 Ất, Canh Sửu, Mùi 8 ... Dần, Thân 7 Đinh, Nhâm Mão, Dậu 6 Mậu, Quý Thìn, Tuất 5 ... Tị, Hợi 4 tại sao lại có những số nói trên? ***********
  2. Thời tiết VN 2010 rất nhiều biến động! Các nhà khoa học cảnh báo, năm 2010 nắng nóng bất thường, mưa trái mùa, bão lũ đến sớm… có thể diễn ra với cường độ mạnh và tính dị thường thể hiện rất rõ. Sự “đỏng đảnh” của thời tiết thể hiện rõ nhất vào thời điểm giáp Tết Nguyên đán vừa qua. Đáng ra, vào thời điểm này, nền nhiệt độ ở các tỉnh khu vực Bắc và Trung bộ rét hoặc rét đậm, nhưng nắng nóng như mùa hè đã diễn ra, thậm chí kéo dài gần 10 ngày. Năm của thời tiết dị thường Tình hình thời tiết trong thời gian này khá đúng với nhận định của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương đưa ra khi thống kê số liệu quan trắc. Theo đó, các chuyên gia nhận định, nền nhiệt độ năm 2010 vẫn duy trì ở mức cao hơn trung bình nhiều năm 1 - 2 độ C. Tiến sĩ Nguyễn Lan Châu, Phó giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương, giải thích: do thời tiết của Việt Nam bị ảnh hưởng của hiện tượng El Nino nên sẽ nóng và ít mưa hơn. Cụ thể, nhiệt độ trung bình tháng 2 năm nay cao hơn, mưa ít hơn so với trung bình nhiều năm và ít rét đậm hơn mọi năm (hầu như tháng 2/2010 không có đợt rét đậm nào cả, trong khi thời điểm này các năm trước có 1 - 2 đợt rét đậm). Ảnh: Biến đổi khí hậu khiến thời tiết trở nên thất thường. Tiến sĩ Nguyễn Lan Châu cho biết thêm, nhận định thời tiết của các nhà khoa học Việt Nam khá tương đồng với một số trung tâm khí tượng thủy văn thế giới. Nếu như nhận định này đúng thì năm 2010 sẽ là năm nóng nhất trong lịch sử thế giới. Nhiệt độ trung bình trong những năm tới sẽ cao hơn nhiệt độ của năm 1998 - năm nóng nhất trong lịch sử thế giới cho tới thời điểm này. Tuy nhiên, các đợt nắng nóng ở Việt Nam không kéo dài, ít gay gắt, chủ yếu xảy ra cục bộ, nhưng nhiệt độ lại cao (nhiệt độ cao nhất trong các đợt nắng nóng năm 2009 là 40,4 độ C, xảy ra ở Hương Khê, Hà Tĩnh, nhưng năm 2010 nhiệt độ có thể đạt tới 41 - 42 độ C). Trong Diễn đàn nhận định khí hậu mùa lần 2 được tổ chức tại Hà Nội cuối tháng 1/2010, nhiều nhà khoa học cho biết năm 2010 sẽ chứng kiến thời tiết dị thường. Nhận định này đúng khi mở đầu năm 2010 bằng hàng loạt hiện tượng thời tiết hiếm gặp: áp thấp nhiệt đới xuất hiện ở Nam bộ vào 18/1 (mùa bão ở Nam bộ thường kết thúc cuối tháng 11 hằng năm), đợt mưa to kéo dài từ 19 - 21/1/2010 (thông thường vào tháng 1/2010, lượng mưa ở Hà Nội chỉ đạt từ 18 - 20mm), nắng nóng bất thường dịp giáp Tết… Thiếu nước và khô hạn nghiêm trọng Giáo sư Lê Đình Quang, Trung tâm Nghiên cứu khí tượng thủy văn và môi trường - Liên hiệp các Hội KH&KT VN - bình luận: Sự bất thường của thời tiết năm nào cũng xảy ra và gặp nhiều nơi trên thế giới, không riêng gì Việt Nam. Trước đây, những biến động này thường nhỏ và diễn ra rất nhanh nên người dân ít cảm nhận được. Nhưng đầu năm 2010, việc có mùa hè giữa mùa đông là dấu hiệu rõ nhất về biến đổi khí hậu. Trong khi đó, Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương cho biết, các tháng trong vụ Đông - Xuân năm nay thời kỳ El Nino hoạt động mạnh, khô hạn và thiếu nước chắc chắn xảy ra. Các nhà khoa học cho biết, từ tháng 2 - 4.2010, dòng chảy trên các sông từ thượng lưu cho tới hạ lưu tiếp tục ở mức rất thấp và thấp hơn trung bình nhiều năm từ 45 - 70%. Dòng chảy trung bình trên sông Hồng tại Hà Nội từ tháng 2 - 4 ở mức 450 - 500 m3/s (bằng một nửa so với trung bình nhiều năm). Tình trạng này cũng xuất hiện tại Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ. Các chuyên gia cảnh báo từ nay tới tháng 4 – 5.2010 tiếp tục đề phòng tình trạng khô hạn trên diện rộng ở Bắc Bộ và hiện tượng xâm nhập mặn ở Nam Bộ. Theo www.baodatviet.vn http://www.nchmf.gov.vn/website/vi-VN/43/4/Default.aspx#
  3. Đã có hiện tượng bất thường về thời tiết xảy ra: http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/30450/ ************* Phi Tuấn (TBKTSG Online) - Bà Lê Thị Xuân Lan, phó phòng dự báo Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ cho biết, chưa bao giờ thời tiết lại thay đổi bất thường trên diện rộng như hiện nay. Nhiệt độ đo được trên các vùng miền cả nước trung bình khoảng từ 35 độ trở lên, như ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh nhiệt độ từ 36 độ. Ở miền Nam, khu vực Đồng Xoài ở Bình Phước, nhiệt độ ngày 25 tháng 2 năm 2010 đo được 37 độ C, còn khu vực Tây Ninh và Đồng Nai đều từ 35 đến 36 độ C. Riêng TPHCM, ngày 25 tháng 2 nhiệt độ đo được là 34,2 độ C, nhưng ngày hôm nay, đã lên tới hơn 35 độ C. Theo bà Lan, hiện nay, chỉ mới cuối tháng 2, mà áp suất nóng phía tây đã bao trùm lên cả khu vực Đông Dương. Đây là một sự phát triển mạnh mẽ của áp thấp nóng phía tây khá đặc biệt, vì thông thường với dạng như vậy phải cuối tháng 3, còn năm nay diễn ra sớm hơn khoảng 1 tháng. Áp thấp này khiến cho cả ba khu vực Bắc – Trung – Nam đều nóng, một hiện tượng bất thường về thời tiết. Trong hai ngày tới, thêm một áp cao từ lục địa Trung Quốc tràn tới, đẩy áp thấp nóng sâu về phía Nam, nên thời tiết của cả nước sẽ vẫn còn duy trì tình trạng nắng nóng, thậm chí còn tăng thêm 1 đến 2 độ C. Nắng nóng sẽ gay gắt từ sáng đến chiều tối, với hơn 10 giờ chiếu sáng, và nhiệt độ tăng khoảng 36-37, có nơi cao hơn, độ ẩm sẽ giảm xuống, như ở miền Nam hiện chỉ còn 60 - 65%. Theo dự báo của Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ, trong những ngày tới, sẽ không có mưa trên diện rộng, nếu có thì cũng chỉ có vài cơn mưa rào nhanh, nhẹ, cục bộ, vì thế ở khu vực có mưa thời tiết chỉ thêm oi nồng hơn. Đến cuối tháng 3, đầu tháng 4, cao điểm của nắng nóng, nhiệt độ sẽ còn tăng cao nữa, dự kiến khu vực TPHCM và các tỉnh lân cận nhiệt độ sẽ lên đến 38-39 độ, thậm chí có những ngày lên 40 độ. Nóng nhất sẽ là vùng từ Thanh Hóa, đến Quảng Trị, với nhiệt độ sẽ lên tới hơn 40 độ C, thậm chí 41, 42 độ C. Diễn biến nắng nóng năm nay khác thường, vì trước đây, khoảng thời gian từ tháng 3 và tháng 4, hiện tượng nắng nóng, khô hạn và xâm nhập mặn chỉ xảy ra chủ yếu ở miền Nam, nhưng năm nay, chỉ mới tháng 2 cả nước đều đã chịu ảnh hưởng. Miền Bắc sau đợt rét lại là đợt nắng nóng, và hiện đang gánh chịu cơn hạn, khi nước sông Hồng gần như trơ đáy, và sẽ chịu sự xâm nhập mặn khi triều cường dâng lên. Miền Trung, tháng sau tết thường có thời tiết dễ chịu, có mưa và trời mát dịu, không khô hạn, nhưng năm nay mùa khô đã đến sớm và trời nắng nóng. Nhưng năm nay, mới tháng 3 nhiệt độ đã 36 độ C, vì thế cao điểm mùa khô hạn tháng 7 và 8 nhiệt độ ở đây sẽ lên đến hơn 40 độ C và phải đối mặt với nguy cơ cháy rừng và đại hạn. Điều khác thường nữa là khi miền Bắc đón đợt rét, thời tiết miền Nam thường dịu mát, nhưng số liệu ghi nhận thời gian qua, hiện tượng này không xảy ra theo quy luật, mà miền Bắc chịu rét trong khi thời tiết miền Nam vẫn nóng. Sự bất thường của thời tiết, theo bà Lan, là do biến đổi khí hậu, vì kỳ El Nino này chỉ ở cường độ trung bình, không mạnh như những kỳ trước đây vào các năm 1982-83, 1991-92 và 1997-98.
  4. .
  5. Kính thưa các chú bác, ACE trên diễn đàn, Trong quá trình tìm hiểu học thuật, amour có "thắc mắc không biết hỏi ai" về hệ thống 10 thiên can và 12 địa chi. Can/chi là những đơn vị rất quen thuộc với người Á Đông, được dùng trong hệ thống lịch pháp và các học thuật khác. Tuy nhiên, nguồn gốc của Can và Chi thì không rõ ràng, vì vậy Amour lập ra topic này để các bậc tiền bối vào dạy bảo, cũng như để cho các ACE quan tâm cùng thảo luận. Amour trước tiên xin mở vấn đề này qua các câu hỏi sau: 1. Định nghĩa Can/Chi là gì? 2. Nguồn gốc của Can/Chi? Can chi dựa vào cái gì mà lập thành? (Hà đồ, lạc thư, âm dương,ngũ hành vvv?) 3. Trong sách lục nhâm và hiệp kỷ biện phương thư có nói về số của Can/Chi như sau: CAN CHI SỐ Giáp,Kỷ Tý, Ngọ 9 Ất, Canh Sửu, Mùi 8 ... Dần, Thân 7 Đinh, Nhâm Mão, Dậu 6 Mậu, Quý Thìn, Tuất 5 ... Tị, Hợi 4 tại sao lại có những số nói trên? *********** Tìm trên mạng cũng có nhiều nơi bàn về Can Chi như sau" 1) Từ Điển Cao Đài: Thập Thiên Can - Thập nhị Địa Chi: 十天干 - 十二地支 A: Ten Heavenly Stems - Twelve Earthly Branches. P: Dix Troncs Célestes - Douze Branches Terrestres. Thập: Mười, hoàn toàn. Thập nhị: 12. Thiên can: Can của Trời. Địa Chi: Chi của Đất.■ Thập Thiên Can là 10 Can Trời, gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. ■ Thập nhị Địa Chi là 12 Chi Đất, gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi được đặt ra là để tính thời gian và để làm lịch. Thời gian thì có: Hội, Chuyển, Nguơn, Kỷ, Năm, tháng, ngày, giờ. Làm lịch thì người xưa căn cứ chu kỳ quay của Mặt trăng, nên gọi là Âm lịch, xác định các mùa và tiết trong năm. Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi được đặt ra vào thời vua Hiên Viên Huỳnh Đế. Vua Huỳnh Đế sai ông Đại Nhiễu chế ra Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi để tính thời gian mà làm lịch cho dân dùng. ■ Tại sao dùng con số 10 để chế ra Thập Thiên Can? Bởi vì trước thời vua Huỳnh Đế là vua Phục Hy tìm ra được Hà đồ, do quan sát các chấm đen trắng trên lưng con Long Mã xuất hiện ở sông Hoàng Hà mà lập thành. Nhờ đó, vua Phục Hy chế ra Tiên Thiên Bát Quái. Trên Hà đồ có tất cả 10 con số chia ra đứng theo Ngũ Hành. Do đó, người xưa dùng con số 10 để chế ra Thập Thiên Can. ■ Tại sao dùng con số 12 để chế ra Thập nhị Địa Chi? Bởi vì khoa Thiên văn thời xưa nhận thấy Mặt trời quay xung quanh Trái đất giáp một chu kỳ gọi là 1 năm, Mặt trăng quay chung quanh Trái đất giáp một chu kỳ là một tháng. Một năm có 12 tháng, tức là một năm có 12 chu kỳ quay của Mặt trăng. Do đó, người xưa dùng số 12 chế ra Thập nhị Địa Chi để gọi tên của 12 tháng. Khi đã có Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi rồi thì người xưa cho phối hợp lại để tính năm, tháng, ngày, giờ. Sự phối hợp khởi đầu là: GIÁP TÝ, tức là lấy 2 chữ đầu của Can và Chi ghép lại. Ghép tiếp theo là: Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão,.......... Ghép như thế thì sau 60 lần sẽ trở lại chữ: GIÁP TÝ. Vậy chu kỳ phối hợp Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi là 60. Theo lịch của nhà Hạ (vua Hạ Võ) qui định đặt tên cho tháng Giêng là tháng Dần, gọi là Kiến Dần, bởi vì làm lịch là để cho dân dùng biết mùa màng thời tiết gieo trồng, mà Nhơn sanh ư Dần nên lấy chữ Dần làm tháng giêng đầu năm. Kế tiếp, tháng 2 là tháng Mão, tháng ba là Thìn,......, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu. Tháng giêng năm sau là Dần.... *********************** 2) http://www.thienvanvietnam.org/Thienvanhoc...Hanh_CanChi.htm NGŨ HÀNH VÀ CAN CHI Thiên văn thời cổ thường gắn liền với thần thánh. Tuy nhiên người Trung Hoa đã khái quát cao hơn, khi gắn thiên văn với những tư tưởng mang tính triết học, mà Ngũ hành là một minh chứng. Tư tưởng cấu tạo vật chất của thế giới từ 5 yếu tố không phải là chỉ của riêng người Trung Hoa. Thần thoại Hy Lạp kể rằng thế giới được sinh ra từ Vực thẳm Khaox (Chaos - Hỗn mang) thể hiện thành 5 nguyên lý: Đất Gaia, Tối tăm Vĩnh cửu Erèbe, Đêm tối Nix, Địa ngục Tartar, và Tình yêu Erox. Triêt gia Aristole cho rằng 5 nguyên tố cơ bản của thế giới là Nước, Lửa, Đất, Không khí, Ánh sáng,... Nhưng có lẽ không bộ 5 yếu tố nào lại có tính triết lý cao như Ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ của Trung Hoa. Bộ 5 này được hình thành có lẽ từ 5 ngón tay của con người, cũng tựa như cơ số 10 trong hệ đếm. Thuyết này xuất hiện từ đời nhà Tần (200 TCN), được củng cố phát triển trong thời Tây Hán. Lúc đầu 5 yếu tố là cấu tạo cụ thể, với các tính chất cụ thể: Kim: kim loại, cứng rắn, lạnh, cương mãnh, bền chắc Mộc: gỗ, cây, sống, tăng trưởng, dẻo dai, chịu đựng Thủy: nước, mềm mại, nhu thuận, sâu hiểm Hỏa: lửa, nóng, sáng, linh hoạt, sáng tạo Thổ: đất, đầy đặn, chịu đựng, nguồn của sinh sôi Nhưng rồi chúng được Triết lý hóa, trở thành Ngũ hành – 5 nguyên lý cơ bản của vật chất, gắn kết với mọi trạng thái triết lý từ Vật chất đến tinh thần Hành Kim: màu Trắng phương Tây mùa thu Mũi Phế (phổi) Hành Mộc: màu Xanh phương Đông mùa xuân Mắt Can (gan) Hành Thủy: màu Đen phương Bắc mùa đông Tai Thận Hành Hỏa: màu Đỏ phương Nam mùa hạ Lưỡi Tâm (tim) Hành Thổ: màu Vàng phương Trung ương (không) Miệng Tỳ Việc gắn phương hướng với các mùa và với Ngũ hành liên quan nhiều đến Thiên Văn. Người Trung hoa nhận thấy vào mùa Xuân thì đuôi của chòm sao Bắc Đẩu chỉ về phía Đông, mùa Thu chỉ về phía Tây, nên tương ứng mùa và phương. Như vậy chòm Bắc Đẩu thất tinh không phải chỉ là xác định phía Bắc, mà còn là sao chỉ phương và mùa trong văn hóa Trung Hoa. Hai quy luật tương tác biến dịch quan trọng là tương sinh và tương khắc trở thành nền tư duy cho nhiều học thuyết (tuy nhiên sẽ không xét kỹ ở đây, mà chỉ đi vào khía cạnh Thiên văn) Tương Sinh: Mộc sinh Hỏa - Hỏa sinh Thổ - Thổ sinh Kim - Kim sinh Thủy - Thủy sinh Mộc. Tương Khắc: Mộc khắc Thổ - Thổ khắc Thủy - Thủy khắc Hỏa - Hỏa khắc Kim - Kim khắc Mộc Về sau tư tưởng Ngũ hành được gán cho rất nhiều ý nghĩa, đi rất xa với tư tưởng gốc ban đầu. Cứ bộ 5 nào cũng thành Ngũ hành hết, chẳng hạn lý thuyết: Cái sinh Ta, cái Khắc Ta, Ta, cái Ta sinh, cái Ta khắc,… Dựa trên tư tưởng Ngũ hành, năm sắc độ sáng của các ngôi sao được phân chia (từ nguội đến nóng) là Đen – Đỏ - Vàng – Trắng – Xanh. Trên thực tế, các ngôi sao có màu sắc gần đúng như cách phân chia này: Nhiệt độ bề mặt dưới 2000 độ C, sao màu đỏ tối, chỉ phát bức xạ, gần như không nhìn thấy Nhiệt độ bề mặt 2000-5000 độ C, sao màu đỏ Nhiệt độ bề mặt 6000-9000 độ C, sao màu vàng Nhiệt độ bề mặt 10,000-15,000 độ C, sao màu trắng Nhiệt độ cao hơn nữa, hơn 20,000 độ C, màu xanh Mặt trời của chúng ta là ngôi sao trung bình màu vàng, nhiệt độ bề mặt khoảng 6500 độ, ứng với màu của hành Thổ Trong Thiên Quan thư, Tư Mã Thiên viết: “Muốn xem sắc trắng của tinh tú, hãy nhìn sao Thiên Lang; muốn xem sắc đỏ, hãy nhìn sao Tâm, muốn xem sắc vàng, hãy nhìn sao Sâm Tả, xem sắc xanh hãy nhìn sao Sâm Hữu, sắc đen thì nhìn sao Khuê“ Cách phân chia đó khá đúng về màu sắc: Sao Thiên Lang (sao Sirius - chòm Canis Major), là ngôi sao đôi sáng chói nhất bầu trời Sao Tâm hay sao Thương (sao Antares – chòm Scorpius) có quang phổ M0, màu đỏ rất rõ Sao bên phải sao sao Sâm (sao Rigel - b chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 7 bầu trời, quang phổ B2 màu xanh. Sao Khuê (sao d - chòm Andromeda) quang phổ M0 đỏ tối, trong con mắt Tư Mã Thiên là đen. Sao Antares chòm Scorpius (sao Tâm Tú trong chòm Tâm, khu vực Thần Nông), ngôi sao có ánh sáng đỏ rực không kém gì Sao Hỏa. Sao Sirius trong Canis Major (sao Thiên Lang), ngôi sao có ánh trắng xanh, sáng nhất bầu trời. Tư Mã Thiên lấy ánh sáng này đại diện cho sắc trắng. Chòm Orion (tương ứng với Chủy và Sâm). Sao Betelgeuse phía trên bên trái, sau 2000 năm đã chuyển từ sắc vàng sang đỏ. Sao Rigel phía dưới bên phải tượng trưng cho sắc xanh. Chỉ có Sao bên trái sao Sâm (sao Betelgeuse – a chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 10 trên bầu trời, và là một trong thiên thể lớn nhất bầu trời quan sát thấy, mà dưới thời Tư Mã Thiên là màu vàng, thì ngày nay là ngôi sao rất lớn màu đỏ. Nghĩa là sau 2000 năm, ngôi sao đó đã nguội đi. Đó là hiện tượng nguội sao duy nhất mà loài người quan sát được trong lịch sử.Và người Trung Hoa dùng Ngũ hành để đặt tên cho các hành tinh mà họ quan sát được, theo thứ tự từ mặt trời ra ngoài là Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thổ tinh. Chính các hành tinh này và chu kì chuyển động của chúng là cơ sở tạo nên hệ đếm Can Chi. Thiên Can Địa Chi Can Chi chủ yếu dùng trong Lịch pháp, nhưng cũng có cơ sở từ quan sát Thiên Văn. Có lẽ do nằm ở vĩ độ cao, ngày Hạ chí mặt trời không thẳng đứng trên đỉnh đầu, cùng với việc canh tác nông nghiệp ít liên quan đến mặt trời hơn, nên Lịch pháp Trung hoa dựa vào Mặt trăng là chính. Việc dùng Can Chi tính ngày tháng đã xuất hiện vào cuối đời Thương (TK 12 TCN), việc gán tên con vật vào thì phải đến đầu công nguyên mới thực hiện. Khi quan sát quĩ đạo các hành tinh, họ lấy Bắc thiên cực làm gốc, rồi dựa theo 8 cung Bát quái (1) để xác định tọa độ. Sau rất nhiều năm quan sát và ghi chép lại, họ đưa ra các nhận xét của mình. Một số nhận xét về chu kỳ (trở về vị trí cũ trên bầu trời) của các Hành tinh như sau: Sao Thủy: khoảng ¼ năm Sao Kim khoảng 0,6 năm Sao Hỏa khoảng 2 năm Sao Mộc khoảng 12 năm Sao Thổ khoảng 30 năm. Các nhà làm lịch đã dùng 3 hành tinh là Hỏa, Mộc, Thổ làm chuẩn, bội số chung nhỏ nhất là 60, hay phải sau khoảng 60 năm, các hành tinh trên mới có được vị trí (tương đối với nhau) gần giống như cũ. Sao Hỏa sau 1 năm lại chuyển sang vị trí đối diện, rồi 1 năm sau lại về vị trí cũ, trở thành sao làm chuẩn cho chu kì 1 năm Âm 1 năm Dương. Sao Mộc có chu kỳ 12 năm được lấy làm chuẩn để tính năm, nên gọi là Tuế Tinh. Sao Thổ lâu nhất, gọi là Thiên Can. Sau khi kết hợp cả thuyết Ngũ hành và Âm Dương, thì con số 5 được chia 2, thành 10 Can, ứng với Ngũ hành, mỗi hành 1 Âm 1 Dương, còn 12 năm của Tuế Tinh thành Chi. Can Chi ra đời còn muộn hơn Ngũ hành, và càng muộn hơn thuyết Âm Dương, mãi khoảng đầu công nguyên mới có. Can (cán – thân cây) gồm: Giáp – Ất – Bính – Đinh – Mậu – Kỷ - Canh – Tân – Nhâm – Quý Chi (cành cây), gồm: Tí – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tỵ – Ngọ - Mùi – Thân – Dậu – Tuất – Hợi Trong đó: Giáp + Ất là là hành Mộc, Bính + Đinh là Hỏa, Mậu + Kỷ là Thổ, Canh + Tân là Kim, Nhâm + Quý là Thủy, cứ 1 âm 1 dương đổi nhau. Bản thân các từ của Can và Chi đều là quá trình sinh trưởng và phát triển của Cây cối: 12 Chi (Con Giáp) theo vòng từ Tý đến Hợi (I). Giáp : nẩy mầm (II). Ất : nhú lên mặt đất (III). Bính : đón ánh mặt trời (IV).Đinh : trưởng thành khỏe mạnh (V). Mậu : rậm rạp (VI). Kỉ : dấu hiệu hoa trái (VII). Canh : thay đổi (VIII). Tân : hoa quả mới (IX). Nhâm : thai nghén cho mùa sau (X). Quý : mầm đang chuyển hóa (1). Tý : mầm hút nước (2). Sửu : nẩy mầm trong đất (3). Dần : đội đất lên (4). Mão : rậm tốt (5). Thìn : tăng trưởng (6). Tỵ : phát triển (7). Ngọ : sung mãn hoàn toàn (8). Mùi : có quả chín (9). Thân : thân thể bắt đầu suy (10). Dậu : co lại (11).Tuất : khô úa héo tàn (12). Hợi : chết đi. Như vậy nguyên thủy các chi không phải là các con vật như mọi người vẫn nghĩ. Đến khoảng đầu Công nguyên, người Trung Hoa gán các chi với các con vật. Nguồn gốc của việc gán con vật không hoàn toàn rõ ràng. Có thuyết cho rằng nó gắn với truyền thuyết Phật giáo, thứ tự của 12 con vật là những loài đã đến từ biệt khi Phật Thích ca nhập Niết Bàn, và mới gọi là các con giáp, lần lượt là: Tí: Thử: Chuột Sửu: Ngưu: Trâu Dần: Hổ: Cọp Mão: Thố: Thỏ* Thìn: Long: Rồng Tỵ: Xà: Rắn Ngọ: Mã: Ngựa Mùi: Dương Dê Thân: Hầu Khỉ Dậu: Kê Gà Tuất: Khuyển Chó Hợi: Trư Lợn *Riêng chi Mão thì ở Việt Nam là mèo chứ không phải thỏ Chi Ngọ đứng ở vị trí giữa, trong lịch pháp ứng với thời điểm giữa trưa. Ngọ môn mang hàm nghĩa là Sung mãn, trọn vẹn. Tại sao lại là 12 con vật này với 12 cung giờ trong ngày, có thuyết gắn với thời điểm loài vật hoạt động mạnh nhất. Có nhận xét cũng thú vị dựa vào số móng của các con vật, cứ một chắn đi kèm với một lẻ. Khi đó Can gọi là Hoa, Chi gọi là Giáp, nên Can Chi còn gọi là Hoa Giáp. Từ điểm bắt đầu là Giáp Tí (I.1) cho đến hết vòng là Quý Hợi (X.12), chỉ có số chẵn đi với chẵn, lẻ đi với lẻ, nên không thể có Giáp Sửu hay Quý Tuất. Trong thiên văn, khu vực của 12 cung còn ứng với 12 nước thời Xuân thu chiến quốc: Tí : Tề - Sửu: Ngô Việt - Dần: Yên – Mão: Tống – Thìn: Trịnh – Tỵ: Sở - Ngọ: Chu – Mùi: Tần – Thân: Vệ - Dậu: Triệu – Tuất: Tấn – Hợi 12 Chi có ý nghĩa rất quan trọng trong tính Lịch pháp (thực chất là Âm-dương lịch) và thời tiết. Trong 1 năm chia ra 12 tháng, có 24 ngày tiết khí, cứ 1 tháng 2 ngày. Cùng với Ngũ hành, Can chi hay Hoa Giáp đã tạo thành một tư tưởng khép kín về chu kỳ vận động của Vũ trụ, với chu kỳ 60. Các thước đo thời gian đều được gắn với Can chi. Một ngày chia làm 12 giờ, một năm 12 tháng; 12 năm là một chu kỳ ngắn, 60 năm là một vòng “Lục thập Hoa giáp”, 3600 năm là một chu kỳ lớn của Vũ trụ. Khi viết năm, họ chỉ dùng can chi, nên phải thêm triều đại cai trị tương ứng mới đủ. Không chỉ thế, phương vị trên bầu trời cũng được chia ra 12 cung, khi xác định vị trí ngôi sao thì nói nó nằm trong cung nào. Sau khi hoàn chỉnh hệ Can Chi với chu kỳ 60 năm, người Trung Hoa gán cách tính lịch pháp này cho Hoàng Đế - vị vua thái cổ huyền thoại, người đặt ra các quy tắc cho con người, và lấy năm 2636 TCN làm năm đầu của chu kỳ này, gọi là Đại Nguyên niên, cho đến nay đã được 78 chu kỳ, hơn một Chu kỳ lớn (60 chu kỳ nhỏ).
  6. do bài post bị lỗi, Amour xin post lại các bài tham khảo sau (xin bộ phận kỹ thuật của diễn đàn chỉnh lại giúp cho): NGŨ HÀNH VÀ CAN CHI Thiên văn thời cổ thường gắn liền với thần thánh. Tuy nhiên người Trung Hoa đã khái quát cao hơn, khi gắn thiên văn với những tư tưởng mang tính triết học, mà Ngũ hành là một minh chứng. Tư tưởng cấu tạo vật chất của thế giới từ 5 yếu tố không phải là chỉ của riêng người Trung Hoa. Thần thoại Hy Lạp kể rằng thế giới được sinh ra từ Vực thẳm Khaox (Chaos - Hỗn mang) thể hiện thành 5 nguyên lý: Đất Gaia, Tối tăm Vĩnh cửu Erèbe, Đêm tối Nix, Địa ngục Tartar, và Tình yêu Erox. Triêt gia Aristole cho rằng 5 nguyên tố cơ bản của thế giới là Nước, Lửa, Đất, Không khí, Ánh sáng,... Nhưng có lẽ không bộ 5 yếu tố nào lại có tính triết lý cao như Ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ của Trung Hoa. Bộ 5 này được hình thành có lẽ từ 5 ngón tay của con người, cũng tựa như cơ số 10 trong hệ đếm. Thuyết này xuất hiện từ đời nhà Tần (200 TCN), được củng cố phát triển trong thời Tây Hán. Lúc đầu 5 yếu tố là cấu tạo cụ thể, với các tính chất cụ thể: Kim: kim loại, cứng rắn, lạnh, cương mãnh, bền chắc Mộc: gỗ, cây, sống, tăng trưởng, dẻo dai, chịu đựng Thủy: nước, mềm mại, nhu thuận, sâu hiểm Hỏa: lửa, nóng, sáng, linh hoạt, sáng tạo Thổ: đất, đầy đặn, chịu đựng, nguồn của sinh sôi Nhưng rồi chúng được Triết lý hóa, trở thành Ngũ hành – 5 nguyên lý cơ bản của vật chất, gắn kết với mọi trạng thái triết lý từ Vật chất đến tinh thần Hành Kim: màu Trắng phương Tây mùa thu Mũi Phế (phổi) Hành Mộc: màu Xanh phương Đông mùa xuân Mắt Can (gan) Hành Thủy: màu Đen phương Bắc mùa đông Tai Thận Hành Hỏa: màu Đỏ phương Nam mùa hạ Lưỡi Tâm (tim) Hành Thổ: màu Vàng phương Trung ương (không) Miệng Tỳ Việc gắn phương hướng với các mùa và với Ngũ hành liên quan nhiều đến Thiên Văn. Người Trung hoa nhận thấy vào mùa Xuân thì đuôi của chòm sao Bắc Đẩu chỉ về phía Đông, mùa Thu chỉ về phía Tây, nên tương ứng mùa và phương. Như vậy chòm Bắc Đẩu thất tinh không phải chỉ là xác định phía Bắc, mà còn là sao chỉ phương và mùa trong văn hóa Trung Hoa. Hai quy luật tương tác biến dịch quan trọng là tương sinh và tương khắc trở thành nền tư duy cho nhiều học thuyết (tuy nhiên sẽ không xét kỹ ở đây, mà chỉ đi vào khía cạnh Thiên văn) Tương Sinh: Mộc sinh Hỏa - Hỏa sinh Thổ - Thổ sinh Kim - Kim sinh Thủy - Thủy sinh Mộc. Tương Khắc: Mộc khắc Thổ - Thổ khắc Thủy - Thủy khắc Hỏa - Hỏa khắc Kim - Kim khắc Mộc Về sau tư tưởng Ngũ hành được gán cho rất nhiều ý nghĩa, đi rất xa với tư tưởng gốc ban đầu. Cứ bộ 5 nào cũng thành Ngũ hành hết, chẳng hạn lý thuyết: Cái sinh Ta, cái Khắc Ta, Ta, cái Ta sinh, cái Ta khắc,… Dựa trên tư tưởng Ngũ hành, năm sắc độ sáng của các ngôi sao được phân chia (từ nguội đến nóng) là Đen – Đỏ - Vàng – Trắng – Xanh. Trên thực tế, các ngôi sao có màu sắc gần đúng như cách phân chia này: Nhiệt độ bề mặt dưới 2000 độ C, sao màu đỏ tối, chỉ phát bức xạ, gần như không nhìn thấy Nhiệt độ bề mặt 2000-5000 độ C, sao màu đỏ Nhiệt độ bề mặt 6000-9000 độ C, sao màu vàng Nhiệt độ bề mặt 10,000-15,000 độ C, sao màu trắng Nhiệt độ cao hơn nữa, hơn 20,000 độ C, màu xanh Mặt trời của chúng ta là ngôi sao trung bình màu vàng, nhiệt độ bề mặt khoảng 6500 độ, ứng với màu của hành Thổ Trong Thiên Quan thư, Tư Mã Thiên viết: “Muốn xem sắc trắng của tinh tú, hãy nhìn sao Thiên Lang; muốn xem sắc đỏ, hãy nhìn sao Tâm, muốn xem sắc vàng, hãy nhìn sao Sâm Tả, xem sắc xanh hãy nhìn sao Sâm Hữu, sắc đen thì nhìn sao Khuê“ Cách phân chia đó khá đúng về màu sắc: Sao Thiên Lang (sao Sirius - chòm Canis Major), là ngôi sao đôi sáng chói nhất bầu trời Sao Tâm hay sao Thương (sao Antares – chòm Scorpius) có quang phổ M0, màu đỏ rất rõ Sao bên phải sao sao Sâm (sao Rigel - b chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 7 bầu trời, quang phổ B2 màu xanh. Sao Khuê (sao d - chòm Andromeda) quang phổ M0 đỏ tối, trong con mắt Tư Mã Thiên là đen. Sao Antares chòm Scorpius (sao Tâm Tú trong chòm Tâm, khu vực Thần Nông), ngôi sao có ánh sáng đỏ rực không kém gì Sao Hỏa. Sao Sirius trong Canis Major (sao Thiên Lang), ngôi sao có ánh trắng xanh, sáng nhất bầu trời. Tư Mã Thiên lấy ánh sáng này đại diện cho sắc trắng. Chòm Orion (tương ứng với Chủy và Sâm). Sao Betelgeuse phía trên bên trái, sau 2000 năm đã chuyển từ sắc vàng sang đỏ. Sao Rigel phía dưới bên phải tượng trưng cho sắc xanh. Chỉ có Sao bên trái sao Sâm (sao Betelgeuse – a chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 10 trên bầu trời, và là một trong thiên thể lớn nhất bầu trời quan sát thấy, mà dưới thời Tư Mã Thiên là màu vàng, thì ngày nay là ngôi sao rất lớn màu đỏ. Nghĩa là sau 2000 năm, ngôi sao đó đã nguội đi. Đó là hiện tượng nguội sao duy nhất mà loài người quan sát được trong lịch sử. Và người Trung Hoa dùng Ngũ hành để đặt tên cho các hành tinh mà họ quan sát được, theo thứ tự từ mặt trời ra ngoài là Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thổ tinh. Chính các hành tinh này và chu kì chuyển động của chúng là cơ sở tạo nên hệ đếm Can Chi. Thiên Can Địa Chi Can Chi chủ yếu dùng trong Lịch pháp, nhưng cũng có cơ sở từ quan sát Thiên Văn. Có lẽ do nằm ở vĩ độ cao, ngày Hạ chí mặt trời không thẳng đứng trên đỉnh đầu, cùng với việc canh tác nông nghiệp ít liên quan đến mặt trời hơn, nên Lịch pháp Trung hoa dựa vào Mặt trăng là chính. Việc dùng Can Chi tính ngày tháng đã xuất hiện vào cuối đời Thương (TK 12 TCN), việc gán tên con vật vào thì phải đến đầu công nguyên mới thực hiện. Khi quan sát quĩ đạo các hành tinh, họ lấy Bắc thiên cực làm gốc, rồi dựa theo 8 cung Bát quái (1) để xác định tọa độ. Sau rất nhiều năm quan sát và ghi chép lại, họ đưa ra các nhận xét của mình. Một số nhận xét về chu kỳ (trở về vị trí cũ trên bầu trời) của các Hành tinh như sau: Sao Thủy: khoảng ¼ năm Sao Kim khoảng 0,6 năm Sao Hỏa khoảng 2 năm Sao Mộc khoảng 12 năm Sao Thổ khoảng 30 năm. Các nhà làm lịch đã dùng 3 hành tinh là Hỏa, Mộc, Thổ làm chuẩn, bội số chung nhỏ nhất là 60, hay phải sau khoảng 60 năm, các hành tinh trên mới có được vị trí (tương đối với nhau) gần giống như cũ. Sao Hỏa sau 1 năm lại chuyển sang vị trí đối diện, rồi 1 năm sau lại về vị trí cũ, trở thành sao làm chuẩn cho chu kì 1 năm Âm 1 năm Dương. Sao Mộc có chu kỳ 12 năm được lấy làm chuẩn để tính năm, nên gọi là Tuế Tinh. Sao Thổ lâu nhất, gọi là Thiên Can. Sau khi kết hợp cả thuyết Ngũ hành và Âm Dương, thì con số 5 được chia 2, thành 10 Can, ứng với Ngũ hành, mỗi hành 1 Âm 1 Dương, còn 12 năm của Tuế Tinh thành Chi. Can Chi ra đời còn muộn hơn Ngũ hành, và càng muộn hơn thuyết Âm Dương, mãi khoảng đầu công nguyên mới có. Can (cán – thân cây) gồm: Giáp – Ất – Bính – Đinh – Mậu – Kỷ - Canh – Tân – Nhâm – Quý Chi (cành cây), gồm: Tí – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tỵ – Ngọ - Mùi – Thân – Dậu – Tuất – Hợi Trong đó: Giáp + Ất là là hành Mộc, Bính + Đinh là Hỏa, Mậu + Kỷ là Thổ, Canh + Tân là Kim, Nhâm + Quý là Thủy, cứ 1 âm 1 dương đổi nhau. Bản thân các từ của Can và Chi đều là quá trình sinh trưởng và phát triển của Cây cối: 12 Chi (Con Giáp) theo vòng từ Tý đến Hợi (I). Giáp : nẩy mầm (II). Ất : nhú lên mặt đất (III). Bính : đón ánh mặt trời (IV).Đinh : trưởng thành khỏe mạnh (V). Mậu : rậm rạp (VI). Kỉ : dấu hiệu hoa trái (VII). Canh : thay đổi (VIII). Tân : hoa quả mới (IX). Nhâm : thai nghén cho mùa sau (X). Quý : mầm đang chuyển hóa (1). Tý : mầm hút nước (2). Sửu : nẩy mầm trong đất (3). Dần : đội đất lên (4). Mão : rậm tốt (5). Thìn : tăng trưởng (6). Tỵ : phát triển (7). Ngọ : sung mãn hoàn toàn (8). Mùi : có quả chín (9). Thân : thân thể bắt đầu suy (10). Dậu : co lại (11).Tuất : khô úa héo tàn (12). Hợi : chết đi. Như vậy nguyên thủy các chi không phải là các con vật như mọi người vẫn nghĩ. Đến khoảng đầu Công nguyên, người Trung Hoa gán các chi với các con vật. Nguồn gốc của việc gán con vật không hoàn toàn rõ ràng. Có thuyết cho rằng nó gắn với truyền thuyết Phật giáo, thứ tự của 12 con vật là những loài đã đến từ biệt khi Phật Thích ca nhập Niết Bàn, và mới gọi là các con giáp, lần lượt là: Tí: Thử: Chuột Sửu: Ngưu: Trâu Dần: Hổ: Cọp Mão: Thố: Thỏ* Thìn: Long: Rồng Tỵ: Xà: Rắn Ngọ: Mã: Ngựa Mùi: Dương Dê Thân: Hầu Khỉ Dậu: Kê Gà Tuất: Khuyển Chó Hợi: Trư Lợn *Riêng chi Mão thì ở Việt Nam là mèo chứ không phải thỏ Chi Ngọ đứng ở vị trí giữa, trong lịch pháp ứng với thời điểm giữa trưa. Ngọ môn mang hàm nghĩa là Sung mãn, trọn vẹn. Tại sao lại là 12 con vật này với 12 cung giờ trong ngày, có thuyết gắn với thời điểm loài vật hoạt động mạnh nhất. Có nhận xét cũng thú vị dựa vào số móng của các con vật, cứ một chắn đi kèm với một lẻ. Khi đó Can gọi là Hoa, Chi gọi là Giáp, nên Can Chi còn gọi là Hoa Giáp. Từ điểm bắt đầu là Giáp Tí (I.1) cho đến hết vòng là Quý Hợi (X.12), chỉ có số chẵn đi với chẵn, lẻ đi với lẻ, nên không thể có Giáp Sửu hay Quý Tuất. Trong thiên văn, khu vực của 12 cung còn ứng với 12 nước thời Xuân thu chiến quốc: Tí : Tề - Sửu: Ngô Việt - Dần: Yên – Mão: Tống – Thìn: Trịnh – Tỵ: Sở - Ngọ: Chu – Mùi: Tần – Thân: Vệ - Dậu: Triệu – Tuất: Tấn – Hợi 12 Chi có ý nghĩa rất quan trọng trong tính Lịch pháp (thực chất là Âm-dương lịch) và thời tiết. Trong 1 năm chia ra 12 tháng, có 24 ngày tiết khí, cứ 1 tháng 2 ngày. Cùng với Ngũ hành, Can chi hay Hoa Giáp đã tạo thành một tư tưởng khép kín về chu kỳ vận động của Vũ trụ, với chu kỳ 60. Các thước đo thời gian đều được gắn với Can chi. Một ngày chia làm 12 giờ, một năm 12 tháng; 12 năm là một chu kỳ ngắn, 60 năm là một vòng “Lục thập Hoa giáp”, 3600 năm là một chu kỳ lớn của Vũ trụ. Khi viết năm, họ chỉ dùng can chi, nên phải thêm triều đại cai trị tương ứng mới đủ. Không chỉ thế, phương vị trên bầu trời cũng được chia ra 12 cung, khi xác định vị trí ngôi sao thì nói nó nằm trong cung nào. Sau khi hoàn chỉnh hệ Can Chi với chu kỳ 60 năm, người Trung Hoa gán cách tính lịch pháp này cho Hoàng Đế - vị vua thái cổ huyền thoại, người đặt ra các quy tắc cho con người, và lấy năm 2636 TCN làm năm đầu của chu kỳ này, gọi là Đại Nguyên niên, cho đến nay đã được 78 chu kỳ, hơn một Chu kỳ lớn (60 chu kỳ nhỏ). Thập: Mười, hoàn toàn. Thập nhị: 12. Thiên can: Can của Trời. Địa Chi: Chi của Đất. ■ Thập Thiên Can là 10 Can Trời, gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. ■ Thập nhị Địa Chi là 12 Chi Đất, gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi được đặt ra là để tính thời gian và để làm lịch. Thời gian thì có: Hội, Chuyển, Nguơn, Kỷ, Năm, tháng, ngày, giờ. Làm lịch thì người xưa căn cứ chu kỳ quay của Mặt trăng, nên gọi là Âm lịch, xác định các mùa và tiết trong năm. Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi được đặt ra vào thời vua Hiên Viên Huỳnh Đế. Vua Huỳnh Đế sai ông Đại Nhiễu chế ra Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi để tính thời gian mà làm lịch cho dân dùng. ■ Tại sao dùng con số 10 để chế ra Thập Thiên Can? Bởi vì trước thời vua Huỳnh Đế là vua Phục Hy tìm ra được Hà đồ, do quan sát các chấm đen trắng trên lưng con Long Mã xuất hiện ở sông Hoàng Hà mà lập thành. Nhờ đó, vua Phục Hy chế ra Tiên Thiên Bát Quái. Trên Hà đồ có tất cả 10 con số chia ra đứng theo Ngũ Hành. Do đó, người xưa dùng con số 10 để chế ra Thập Thiên Can. ■ Tại sao dùng con số 12 để chế ra Thập nhị Địa Chi? Bởi vì khoa Thiên văn thời xưa nhận thấy Mặt trời quay xung quanh Trái đất giáp một chu kỳ gọi là 1 năm, Mặt trăng quay chung quanh Trái đất giáp một chu kỳ là một tháng. Một năm có 12 tháng, tức là một năm có 12 chu kỳ quay của Mặt trăng. Do đó, người xưa dùng số 12 chế ra Thập nhị Địa Chi để gọi tên của 12 tháng. Khi đã có Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi rồi thì người xưa cho phối hợp lại để tính năm, tháng, ngày, giờ. Sự phối hợp khởi đầu là: GIÁP TÝ, tức là lấy 2 chữ đầu của Can và Chi ghép lại. Ghép tiếp theo là: Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão,.......... Ghép như thế thì sau 60 lần sẽ trở lại chữ: GIÁP TÝ. Vậy chu kỳ phối hợp Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi là 60. Theo lịch của nhà Hạ (vua Hạ Võ) qui định đặt tên cho tháng Giêng là tháng Dần, gọi là Kiến Dần, bởi vì làm lịch là để cho dân dùng biết mùa màng thời tiết gieo trồng, mà Nhơn sanh ư Dần nên lấy chữ Dần làm tháng giêng đầu năm. Kế tiếp, tháng 2 là tháng Mão, tháng ba là Thìn,......, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu. Tháng giêng năm sau là Dần. Mỗi một Địa Chi được tượng trưng bằng một con vật rất gần gũi với con người, kể ra: Tháng giêng gọi là tháng Dần, tượng trưng: con Cọp. Tháng hai gọi là tháng Trâu, tượng trưng: con Mèo. Tháng ba gọi là tháng Thìn, tượng trưng: con Rồng. Tháng tư gọi là tháng Tỵ, tượng trưng: con Rắn. Tháng năm gọi là tháng Ngọ, tượng trưng: con Ngựa. Tháng sáu gọi là tháng Mùi, tượng trưng: con Dê. Tháng bảy gọi là tháng Thân, tượng trưng: con Khỉ. Tháng tám gọi là tháng Dậu, tượng trưng: con Gà. Tháng chín gọi là tháng Tuất, tượng trưng: con Chó. Tháng mười gọi là tháng Hợi, tượng trưng: con Heo. Tháng 11 gọi là tháng Tý, tượng trưng: con Chuột. Tháng 12 gọi là tháng Sửu, tượng trưng: con Trâu.
  7. HÀ ĐỒ & LẠC THƯ 河 圖 洛 書 Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ Bủu Minh Ðàn Trang Web Phục Vụ Nhơn Sanh Miễn Phí do Trương Ngọc An thực hiện Trong các sách Dịch, bao giờ cũng có những hình mô tả Hà Đồ, Lạc Thư, nhưng bàn về Hà, Lạc thì lại hết sức vắn gọn. Chúng ta cần phải khai triển cho rõ ràng hơn. Hà Đồ, và Lạc Thư đều bàn về lẽ sinh thành của vũ trụ quần sinh, đều chủ trương lẽ Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể, và Nhất Thể tán vạn thù, Vạn thù qui Nhất Thể, đều chủ trương Vạn vật phát xuất từ một Tâm Điểm, phóng phát ra ngoài, rồi cuối cùng lại qui hướng về Tâm Điểm ấy. Tục truyền đời vua Phục Hi 伏 羲, có con Long Mã, hiện ra nơi sông Mạnh Hà, trên lưng có mang một hình đồ, và vì vậy gọi là Hà Đồ. Hà Đồ nguyên thuỷ có 55 điểm đen trắng , phân phối như sau: Vua Phục Hi, nhân đó tạo ra Tiên Thiên Bát Quái và Lục Thập Tứ Quái. Lạc Thư, theo Kinh Thư, thời sau khi vua Đại Võ trị thuỷ thành công đã được Trời ban Lạc Thư cho, và nhân đó vua sáng chế ra Hồng Phạm Cửu Trù 洪 範 九 疇 tức là phép cai trị xã hội nhân quần.Văn Vương 文 王 nhân đó tạo ra Hậu Thiên Bát Quái. Sau này các Đạo Gia nghiên cứu thêm và cho rằng Lạc Thư cũng còn dạy lẽ Qui Nguyên Phản Bản. Lạc thư nguyên thuỷ được trình bày như sau: Hà Đồ sinh Tiên Thiên Bát Quái, đi theo chiều thuận. Lạc Thư sinh Hậu Thiên Bát Quái, đi theo chiều nghịch. Thuận là Thuận chiều kim đồng hồ, Âm Dương không bao giờ chống đối lẫn nhau, lấy Tình Thương yêu, nhân nghĩa làm tiêu chuẩn. Nghịch là ngược chiều kim đồng hồ, lấy mâu thuẫn, ghen ghét kình chống nhau làm căn bản. Khi Trời sinh ra con người đã trao cho hai sứ mạng: 1. Làm người. 2. Làm Trời, Phật, Thánh, Tiên. Sứ mạng thứ 2, hay hạng người thứ 2 hiện nay rất hiếm, vì con người đã dần dần làm mất Lương Tâm, mất Tiên Cách của mình. Hạng người này theo Tiên Thiên, sống hồn nhiên, tiêu sái, vô tư vô dục, thương yêu lẫn nhau, coi người như mình. Các Đạo lớn trong thiên hạ đều dạy con người tìm lại Thiên Đạo này để mà theo, mà giữ. Đạo này vốn hằng hữu trong ta không cần nhập cảng. Chính vì thế mà Trung Dung viết: Đạo bất khả tu du li dã 道 不 可 須 臾 離 也 (Đạo không rời ta một phút giây). Đó là Đạo Tiên Thiên dạy ta đi theo chiều Thuận, nghĩa là phải Thuận Thiên, sống theo ý Trời như vậy mới có thể PHỐI THIÊN (Trung Dung chương 26, ĐĐK, chương 68, Nirvana (phối Thiên). Ta có đi theo chiều kim đồng hồ, thì mới theo được đúng thời giờ, mới Qui Nguyên Phản Bản được. Như vậy chúng ta sẽ tiến hoá về Nguyên Bản, về Trời. Thật là vô cùng qúi giá. Còn làm người thì dĩ nhiên là ai cũng làm được, khác nhau ở chỗ làm hay hoặc làm dở. Làm người là sống trong Hậu Thiên, trong dở dang chếch mác, trong phóng túng dục tình, trong mê loạn, trong vô thường. Sống trong Hậu Thiên là chỉ lo giải quyết công việc, giải quyết vấn đề, thích ứng với hoàn cảnh, chứ ít khi chịu tiến hoá thêm. Vì đi ngược chiều kim đồng hồ nên càng ngày càng xa trời và đến lúc chung cuộc chỉ nắm được Hư vô mà thôi.Như vậy: Hà Đồ là Tiên Thiên, là Vô Vi. Lạc thư là Hậu Thiên, là Hữu Vi. Có thể chia cuộc đời ta thành hai: Nửa đời trước để lo làm người, kiếm cơm áo, danh vọng. Nửa đời sau lo làm Thần Phật Thánh tiên. Khi khảo về Công Giáo, tôi có bình đại luận về con người của Thánh Paul trong 1 Cor. 44- 49) như sau: Thánh phàm 2 nét ghép thành Nhân Phàm ấy Nhân Tâm, Thánh ấy Thần (1 Cor. 44) Tâm hình hiện trước, Thần kế tiếp (1 Cor. 46) Thần: Trời, Tâm Đất, lẽ tương phân (1 Cor. 47, 48) Tâm Đất dĩ nhiên vương sinh diệt, (1 Cor 49) Thần Trời, nên mới thoát chuyển luân (1 Cor 44) Tâm Đất tử vong đành số kiếp (1 Cor 49) Bất tử trường sinh chỉ có Thần (1 Cor 44) Con người có Phàm Tâm sống theo Lạc Thư, Có Thiên Tâm sống theo Hà Đồ. Chỉ có Thiên Tâm mới bất tử, Còn Phàm Tâm sống trong luân hồi sinh diệt. Có cái lạ là Phàm Tâm hiện ra trước, Thiên Tâm hiện ra sau, cho nên con người phần nhiều, lúc cuối đời mới lo tu tỉnh. Sống theo Thiên Tâm là sống theo con người mới (Eph. 4, 24; Col 3, 10). Sống theo Phàm Tâm là sống theo con người cũ (Éph 4, 22; Col. 3, 9). Cái Phàm Tâm trong ta gồm thất tình lục dục, chính là cái Tiểu Ngã biến Thiên của Nhà Phật, cái Nhân Dục của Khổng, Cái Tâm của Đạo Lão, vì Đạo Lão dạy TÂM TỬ THẦN HOẠT 心 死 神 活 (Cái hồn phải chết đi cho cái Thần sống động). Chung qui Đạo nào cũng dạy bỏ cái biến thiên mà trở về với cái bất biến. Bỏ biến thiên là Đạo của Lạc Thư. Về với bất biến là Đạo của Hà Đồ. Đó là Đại Đạo trong thiên hạ. Ví dụ ta coi vũ trụ này là một vòng tròn, thì Tâm Điểm của vòng tròn đó là Trời, là Đạo. Chiều đi từ tâm điểm Vòng Tròn ra bên ngoài là chiều đi ra, là chiều Hướng ngoại là chiều Lạc Thư, là chiều sinh nhân, sinh vật. Chiều đi từ vòng tròn bên ngoài vào Tâm Điểm là chiều hướng nội, là chiều sinh thánh, sinh thần la chiều quy nguyên phản bản. Đi Theo chiều thuận là hướng Ngoại, là xoay lưng lại với Trời, là Bối Thiên, là lo chuyện vật chất. Đó là chiều Âm. Đi theo chiều Nghịch, là hướng Nội, là đi theo Trời. Đó là chiều Dương. Chiều Âm đi trước, chiều Dương đi sau. Cho nên Dịch Kinh mới nói: Nhất Âm, nhất Dương chi vị Đạo, kế chi giả Thiện dã Thành chi giả, tính dã 一 陰 一 陽 之 謂 道 繼 之 者 善 也 成 之 者 性 也 (Âm Dương đắp đổi Đạo Trời, Theo thời tốt đẹp, suốt thời toàn chân.) Theo được con đường tiến hoá ấy đã là tốt đẹp, đi tới cùng đừng tiến hoá ấy, sẽ thực hiện được Thiên Tính của mình. Như vậy chúng ta đã từ Trung Cung, Thiên Đình mà đi ra, rồi dần đà lại tìm về Trung Cung, Thiên Đình đó. Trung Cung đó hay Trung dung chính là Tâm Điểm tâm hồn của chúng ta. Thánh hiền xưa gọi đó là Trung, là Nhất. Trung hay Nhất chính là Trời, hay là Tinh Hoa của con người. Khi sinh ra con người, thì trời cũng phú cho chúng ta cái Trung, cái Nhất ấy. Khi là Trung Cung, thì chữ Hán viết là Trung (中), khi truyền xuống con người thì chữ Hán viết là Trung (忠 hay 衷) nghĩa là Trời hay Thái Cực cũng đã xuống theo vào lòng chúng ta, (chữ Trung 中 và chữ tâm 心); Chữ Trung sau có chữ Trung và chữ Y 衣 là áo bị xé ra làm 2 mảnh ôm lấy chữ Trung ở giữa, nghĩa là: Trời ở trong ta và cũng mặc áo xống như chúng ta. Chính vì thế mà Kinh Thư viết: «Duy Hoàng Thượng Đế giáng Trung vu hạ dân, nhược hữu hằng tính.» 惟 皇 上 帝 降 衷 于 下 民 若 有 恆 性 (Chỉ có Thượng đế ban cho con người một chữ Trung, để cho con người có tính hằng cửu.) Trung này chính là Trời và là chữ Trung nằm gọn trong 2 mảnh chữ Y 衣. Chính vì vậy mà con người có tính hằng cửu, bất biến. Vì Trung là hoàn thiện, nên con người phải sống hoàn thiện, hợp lẽ tự nhiên, theo đúng bản năng bản tính của mình. Vì Trung là Tâm điểm vũ trụ, tâm điểm vòng Dịch, và Tâm điểm con người, nên bao giờ cũng không thiên lệch bên nào, ứng nghiệm từng giờ, từng phút mọi cử động của trời đất. Vạn vật nhờ đó mà sống trong quân bình. Nó là cái hiện thời mà ứng với mỗi thời nên gọi là Trung, là Trúng, là đúng tiết hợp duyên. Trung cũng là giữa, là nơi phát xuất và qui nạp. Chính vì thế mà triết lý Âu Châu xưa nói: Alpha= Omega, và Dịch thì nói: Nguyên thuỷ phản chung. Trung có thể nói là Thiên lý lưu hành, nhưng cũng là Trung điểm bất biến của hai đồ biểu Hà Đồ và Lạc Thư. Vì Trung là Tâm điểm vũ trụ, nên nó cũng là Nhất. Nhất hay Trung là Nguyên Nhân cho cuộc tạo hoá, sinh thành. Bây giờ ta trở lại 2 đồ biểu. Cái quan yếu của Tu Hành là chữ Trung và chữ Nhất. Trung là Tâm điểm của 2 đồ. Trung này chính là Thái cực, Nguyên Lý của vũ trụ, Càn Khôn, Đạo Lão gọi đó là Huyền Tẫn chi môn 玄 牝 之 門, là Cánh cửa Âm (Tẫn), Dương (Huyền), hay Huỳnh Đình 黃 庭 (Huỳnh là màu vàng, màu của Trung Thổ), hay Mậu Kỷ Thổ 戊 己 土. Mậu thổ 戊 土 là Dương 陽, là Khảm 坎, là Long 龍, là Hống 汞, là Thần 神, là Tính 性, là Đạo tâm 道 心. Kỷ Thổ 己 土 là Âm 陰, là Ly 離, là Hổ 虎, là Diên 鉛, là Hồn 魂, là Mệnh 命, là Tinh 精. Ở Trung Cung Mậu Kỷ này Khảm Ly phải hợp nhất, đó là Thủ Khảm điền Ly biến Ly thành Kiền 取 坎 填 離 變 離 成 乾, Long Hổ phải hợp nhất; Diên Hống phải hợp nhất, Thần Hồn phải hợp nhất, Tính Mệnh phải hợp Nhất, Đạo Tâm, Nhân Tâm phải hợp Nhất, như vậy Đan luyện mới thành, như vậy mới là Phản Bản Hoàn Nguyên. Đại Đơn chính là dạy con người đạo: Qui Nguyên Phản Bản vậy. Như vậy người xưa dạy phải tìm cho ra Trung Điễm vũ trụ, Trung điểm Tâm Hồn để làm nơi tu luyện vì nơi đó là Chỗ Trời Người gặp gỡ. Ngoài ra công phu tu luyện còn xoay quanh mấy chữ Trung, chữ Nhất: Đạo Nho dạy: Nhân tâm duy nguy, 人 心 唯 危 Đạo tâm duy vi. 道 心 唯 微 Duy Tinh, duy Nhất, 唯 精 唯 一 Doãn chấp quyết Trung. 允 執 厥 中 Lòng của Trời siêu vi huyền ảo, Lòng con người điên đảo, ngả nghiêng Tinh ròng chuyên nhất ngày đêm, Ra công ra sức giữ nguyên lòng Trời. Đạo Lão dạy: Thủ trung bão nhất 守 中 抱 一. Chúng ta phải tiến tới Trung, tới Nhất, tức là tới Tinh Hoa Toàn Thiện, phải tiến tới Trời, tức là tới Bản Thể siêu vi, thuần khiết của mình. Lạc Thư và phương pháp khắc kỷ, tu thân, qui nguyên phản bản của các Đạo gia. Các Đạo gia vì chuyên lo tu luyện bản thân, nên theo Lạc Thư mà suy ra những cơ cấu tâm linh, cũng như các phương pháp hữu hiệu để sửa sang chếch mác, dở dang trong tâm hồn, ngõ hầu Qui Nguyên Phản bản 歸 元 返 本. Về phương diện Triết Học, các Ngài dựa vào Hà Đồ, Lạc Thư mà nhận định rằng trong con người có 2 phần Âm Dương: ấy là Nhân Tâm (Âm) và Đạo Tâm (Dương); Ấy là Người (Âm) và Trời (Dương). Trời hay Đạo Tâm gồm có: 1. Ngũ nguyên 五 元: a) Nguyên Tính 元 性, :) Nguyên Thần 元 神, c) Nguyên Tình 元 情, d) Nguyên Tinh 元 精, e) Nguyên Khí 元 氣. Trời Hay Đạo Tâm ở Trung Ương và ở Tứ Chính 四 正 (Bốn phương chính). 2. Ngũ Đức 五 德: a) Nhân 仁, :( Nghĩa 義, c) Lễ 禮, d) Trí 智, e) Tín 信. Nhân Tâm hay con người gồm có: 1. Ngũ vật 五 物: a) Du Hồn 游 魂, :( Thức Thần 識 神, c) Quỉ Phách 鬼 魄, d) Trọc Tinh濁 精, e) Vọng Ý 妄 意. 1. Ngũ tặc 五 賊: a) Hỉ 喜, :) Lạc 樂, c) Nộ 怒, d) Ái 愛, e) Dục 欲. Ngũ vật, Ngũ Tặc ở bốn phương bàng (Tứ Duy 四 維). Tuy nhiên Vọng ý và Dục không có sở cư vì đã phân tán ra bên ngoài và gây nhiễu loạn ở đó. Ở Hà Đồ, 5 số chẵn bao giờ cũng kết đôi với 5 số lẻ. Các Ngài suy ra: Trên bình diện Lý Tưởng, Nhân Tâm và Thiên Ýbao giờ cũng hoà hợp nhau. Tức là Thiên Nhân hợp Nhất, chí thành, chí Thiện. Ở Lạc Thư , trái lại, các số Âm Dương, chẵn lẻ đều đứng riêng rẽ. Các ngài suy ra: Trên bình diện thực tế, Nhân Tâm thường xa cách Thiên Tâm, xa cách với Thiên Lý, thương gàng quải, chia phôi với nhau, y như «Phu Thê phản mục», kẻ Nam người Bắc quay lưng, thay vì quay mặt lại với nhau. Ở Lạc Thư, chúng ta thấy Âm Dương, Ngũ hành tương khắc. Các Ngài suy ra rằng: Nhân tình, Nhân dục thường chống đối, thường đi ngược với Thiên Chân, Thiên Lý vì thế mới có cảnh đảo điên, thác loạn trong trần hoàn, cũng như trong con người. Ở Lạc Thư, nếu chỉ quan sát vòng ngoài, thì ta thấy Âm khắc Dương. Các Ngài suy ra rằng: Nhân tình, Nhân dục trên bình diện thực tế, đã lấn át, đã che lấp mất Thiên Lý, Thiên Chân, nên Tính Trời không thể phát huy; Ngũ Nguyên, Ngũ Đức hầu như thoái vị, để cho Ngũ tặc, Ngũ vật nhảy ra chấp chính, rông rỡ làm càn. Các ngài mô tà sự rối loạn ấy bằng bản đồ Lạc Thư sau: Tuy nhiên, các Ngài chủ trương rằng: sự thác loạn, đảo điên này vẫn có thể sửa chữa được. Ta vẫn có cách dẹp nhân tình, nhân dục, cho vừng dương Thiên Tính, Thiên đức hiện ra với vầng hào quang ngũ sắc: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Làm sao khắc phục dược Nhân Dục, Nhân Tình? Muốn khắc phục được Nhân Dục, Nhân Tình, các Đạo Gia chủ trương chỉ cần áp dụng định luật Âm Dương tương khắc. Thay vì để cho Âm khắc Dương, Âm thắng Dương như trước, ta đảo lộn tình thế, nghĩa là làm sao cho Dương khắc Âm, Dương thắng Âm. Muốn chế ngự Ngũ Tặc, Ngũ vật, nhân dục, nhân tình, để Ngũ Nguyên, Ngũ Đức hiển dương, ta phải có đường lối nhất định hẳn hoi. - Muốn qui nguyên phản bản, điều kiện tiên quyết là phải tin tưởng mãnh liệt rằng: Thái Cực hay Trời luôn ngự trị trong tâm khảm mình. Niềm tin sâu xa vững mạnh này sẽ làm tan biến hết mọi ưu tư sầu muộn (lục quí Thuỷ, Trọc Tinh Ai), và làm cho thần trí trở nên sáng láng (Nhất Nhâm Thuỷ, Nguyên Tinh Trí) Thần trí trở nên sáng láng sẽ giúp con người tháo gỡ được tục luỵ, không còn đắm đuối trong những thú vui vật chất hạ đẳng, mà chỉ yêu chuộng những lạc thú tinh thần cao thượng. (Nhị Đinh Hoả, Thức Thần Lạc) - Khi tâm hồn đã trở nên thanh khiết, thoát tục như Minh Nguyệt Thanh Phong, con người sẽ uy nghi, trang trọng, phong thái Thần Tiên sẽ dần dần hiển lộ ra. (Thất Bính Hoả, Nguyên Thần Lễ) - Khi đã lễ nghi trang trọng, khi phong thái Thần Tiên đã hiển lộ ra, Tâm thần sẽ trở nên bình thản, và những sự giận hờn sẽ không còn cơ hội phát sinh. (Tứ Tân Kim, Quỉ phách Nộ). Mọi hành vi, cử chỉ con người nhất nhất sẽ hợp nghĩa lý. (Cửu canh Kim, Nguyên tình Nghĩa) -Đời sống khi đã khuôn theo nghĩa lý, con người sẽ trở nên nhân đức, hoàn thiện. Đã nhân đức hoàn thiện, nhân dục sẽ tiêu ma, (Tam Giáp Mộc, Nguyên Tính Nhân, Khắc Dục Phản Tín) và con người sẽ trở về Trung Cung, phối hợp cùng Thái Cực, cùng Thượng Đế (Mậu Nguyên Khí). - Đó là lẽ Phản Bản, Qui Nguyên và các lớp lang, tuần tự để tu thân, tiến đức mà các Đạo gia suy diễn ra từ Lạc Thư. Các Ngài mô tả sự diễn tiến của công trình Khắc Kỷ Phục Lễ, Qui Nguyên Phản Bản bằng đồ bản Lạc Thư với các lời chú thích sau đây: Tóm lại, đối với Đạo Gia, nguyên động lực mãnh liệt nhất có thể hoán cải tâm hồn con người , đó là niềm tin vững mạnh có Thượng Đế đáy lòng. Chỉ khi nào nhìn nhận ra có Thượng Đế, có Thái Cực ở trong tâm khảm mình, bấy giờ con người mới thực sự vươn lên, thực sự hoán cải tâm hồn để trở về kết hợp cùng Thượng Đế. Thiệu Khang Tiết viết: Vạn vật tòng Trung nhi khởi, tòng Trung nhi chung. (Vạn vật khởi đầu từ Trung và kết thúc ở Trung). Cho nên nhìn nhận ra Thái Cực, hay Trời, hay Chân Tâm, hay Đạo ở trong ta là bí quyết then chốt cho chúng ta qui Nguyên, phản Bản, cho chúng ta làm Thần, Phật, Thánh Tiên. Các đạo giáo gọi lúc mình tìm ra Trời, ra bản lai diện mục của mình là lúc Giác Ngộ. Dịch Kinh cho rằng Con Người giác ngộ, khi học quẻ Phục. Thoán truyện quẻ Phục viết: Phục kỳ kiến Thiên Địa chi tâm hồ? 復 其 見 天 地 之 心 乎 (Phục rồi được thấy Thiên tâm). Mà thấy Thiên Tâm chính là thấy Đạo, thấy Trời. Con người chỉ có thể quay về với Đạo, với Trời vào lúc 35, 36 tuổi, khi đã sống và đã làm bổn phận con người. Kinh Dịch tả khi con người hồi phục là lúc nửa đêm, ngày Đông Chí, tháng 11 ta, là lúc Nhất Dương lai phục, khi lòng con người hết sức vắng lặng. Khi ấy mặt trời đi vào chòm sao Hư, mà Hư chính là Hư Cực Tĩnh Đốc. Tuy nhiên sau này, các Đạo gia cho rằng Giác ngộ không nhất thiết là phải vào lúc nửa Đêm, ngày Đông Chí, nên đã gọi lúc Giác Ngộ là Hoạt Tí. Có thể nói rằng Giác Ngộ hay Hồi Phục đó là điều kiện tiên quyết để làm Thánh Hiền, Tiên Phật. Đó chính là lúc con người vứt bỏ phàm tâm, mà mặc lấy Thiên Tâm. Công giáo không nói xác quyết về điểm này, mà chỉ nói đại khái: «Các ngươi hãy tỉnh thức vì không biết ngày nào chúa chúng ta đến.» (Mat. 24, 42; 25, 23; 26, 38; 26, 41; Marc 14, 34; 14, 38; Luc 12, 37) Đạo Lão dạy phải dùng Chân ý, mà Chân Ý chính là Nhất Tức sinh cơ 一 息 生 機, hay Minh Thiện phục Sơ 明 善 復 初, hay Nhất Dương lai phục 一 陽 來 復 trong đơn thư. Các bậc giác ngộ thường hay làm thơ khi giác ngộ, như trong quẻ Phục có bài thơ của Chu Hi và của Thiệu Khang Tiết. Chúng ta tóm tắt Hà Đồ bằng mấy bài thơ sau: Hiểu Thông chữ Nhất, được Kim Đan. Nhìn kỹ Hà Đồ tỏ lối đàng. Vượt tượng, vượt hình tìm diệu quyết, Băng qua ngoại cảnh , thấy Tiên Ban. Băng qua ngoại cảnh, thấy Tiên Ban, Vào nơi Chính Vị, vận Trần hoàn, Đẩu bính, Tuyền Ki hằng với biến, Biến Hằng trông tỏ nhẽ Tuần hoàn. Biến Hằng trông tỏ nhẽ Tuần Hoàn, Âm ngoài bao bọc lấy Dương quang, Hoà Hợp Âm Dương nơi Thái Cực, Mới hay trời đất chẳng ly tan. (Phỏng dịch bài thơ vịnh Cổ Hà Đồ trong Phục Mệnh Thiên, tr. 3) Ba năm một mối mấy ai hay, Thu gọn 3, 5 , đức mới dày. 2, 3 cộng lại thành 5 chẵn, 4, 1 gom vào cũng Ngũ ngay. Hoà hợp 4 phương đều Ngũ cả, Tiềm tàng Tâm Điểm sẵn 5 bày. Ba 5 hợp lại thành Chân Nhất, Chân Nhất Kim Đơn ấy Thánh Thai. (Phỏng dịch 1 đoạn văn trong Ngộ Chân trực chỉ). Phanh phui ba lớp Đất, Người, Trời, Châu ngọc Hoá Công mở thử coi, Bí quyết Hi Di vùi chính giữa, Tấc gang mà vẫn biệt tăm hơi, Biệt tăm tuy thị chẳng xa xôi, Cố gắng rồi ra sẽ được Trời. Chớ tưởng Bồng Lai là ảo vọng, Bồng Lai, Tiên cảnh tại lòng người. (Phỏng dịch bài thơ trong Phục Mệnh Thiên, tr, 4) Chúng ta có thể tổng luận về Lạc Thư bằng những vần thơ sau: Hà Đồ rồi đến Lạc Thư, Vuông tròn vẹn lẽ doanh hư đất trời. Hà Đồ là đạo của Trời, Lạc Thư là đạo của người chẳng sai Một xuôi, một ngược chia hai, Nhưng mà sinh xuất, phản hồi mhư nhau. Một tâm biến hoá nhiệm mầu. Vành ngoài biến ảo, tầng sâu như thường. Lạc thư mà rõ Trung ương, Số 5, Thái cực hiển dương khác nào. Lạc thư hãy xét tiêu hao, Âm Dương điên đảo thấp cao mấy hồi. Trước là Kim Hoả đổi ngôi, Phải rèn, phải luyện, phải tôi mới thành. Âm Dương bày tám chung quanh, Dương thời Tứ Chính, Âm đành Tứ Duy. Âm Dương, chẵn lẻ hai bề, Dưới trên ngang dọc, đề huề 15, Bốn phương tám hướng tương dung, Từng đôi hợp lại, cộng chung đều 10. Vì đâu thác loạn, rối bời, Bóng Âm những muốn dập vùi ánh Dương, Trọc Tinh dở thói ngông cuồng, Nguyên Thần do đó ra tuồng hư hao. Sầu bi nổi sóng rạt rào, Còn chi lễ độ thanh cao ban đầu. Thức thần tính toán nông sâu, Nguyên Tình vì vậy ra mầu tổn thương. Mải mê lạc thú tầm thường, Mà quên nghĩa cả, buông tuồng nghêng ngang, Rồi ra Quỉ Phách đa đoan, Làm cho Nguyên Tính bàng hoàng suy vong. Giận hờn nổi sóng đùng đùng Còn gì Nhân Đạo mà mong xót vời. Du Hồn táp cánh xa chơi, Làm cho Nguyên Khí hao vơi tán loàn. Mảng vui giữa chốn trần hoàn, Há cần Tín Nghĩa, há màng Trung Trinh? Vọng tâm, vọng ý đành hanh, Làm cho tiêu tán Nguyên Tinh mới là. Biển lòng sóng dục nhấp nhô, Thần hôn, trí loạn, cơ đồ còn chi. Biết bao điên đảo suy vi, Chẳng qua là đã mất đi Tính Trời, Điểm Trung đã mất thời thôi, Con tim vô chủ, đường đời lao lung. Đông tây xuôi ngược lung tung, Chạy theo vật dục uổng công tháng ngày. Trời kia âu cũng thương Người, Qui Nguyên bày lẽ phản hồi Thiên Lương. Sự đời phiền loạn nhiễu nhương, Nhưng mà vẫn có mối rường ở trong, Ngỡ là thác loạn rối tung, Nào ngờ trật tự ung dung thường kề. Hoàng lương muốn tỉnh giấc mê, Tơ lòng phải rõ đoan nghê tỏ tường, Lạc thư phải thấu Trung Hoàng, Phải tin, phải biết Tâm xoang có Trời, Tâm đà có chủ thời thôi, Muôn điều rắc rối, tức thời phạt quang. Xua Âm đã có Ánh Dương, VừngDương vừa hiện, muôn phương sáng ngời. Ngũ Trung Thái Cực hiện rồi, Trọc Tinh, Quí Thuỷ tức thời tiêu ma. Hết buồn Thần Trí sáng loà, Nguyên tinh chủ chốt, điều hoà từ đây. Trí tâm chẳng bợn trần ai, Thức Thần êm ả liệu bài rút lui. Chẳng còn sinh sự mua vui, Uy nghi, lễ độ tuyệt với phong quang. Nguyên Thần hiển lộ rỡ ràng, Thời thôi quỉ phách kiếm đàng ẩn thân, Còn đâu phẫn nộ, dữ dằn. Một niềm trọng Nghĩa, mười phân vẹn mười Nguyên tình thư thái, thảnh thơi,<H3 align=center>Du Hồn sực tỉnh biết nơi tìm về,</H3> Hết còn hoan hỉ, đam mê, Đường nhân, nẻo đức thoả thuê tháng ngày. Quang huy Nguyên Tính phơi bày, Mây mờ dục vọng , đó đây tan dần, Thế là Vọng phản thành chân, Tín thành hiệp với Thiên Quân chẳng rời. Thế là Nguyên Khí phục hồi, Bản lai diện mục sáng ngời như xưa Mê thời thác loạn lià xa,Ngộ thời tề chỉnh vào ra cửa Trời. Trọng Âm đời sẽ pha phôi Trọng Dương đời sẽ sáng ngời hào quang. <H3 align=center>Có tường Nhất Điểm Trung Hoàng</H3>Rồi ra biết nhẽ lai hoàn bản nguyên, Lạc Thư rất mực thâm uyên, Chỉ vài con số khải huyền, xiển chân, Mới hay chí Đạo cũng gần, Lạc, Hà tạc sẵn trong Tâm mọi người. CHÚ THÍCH Xem Bác Sĩ Nguyền văn Thọ, Dịch Kinh đại toàn, tập III, Hệ Từ thượng chương IV, tr. 440. Xem Dịch Kinh Đại Toàn quyển I của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ, tr. 370. Lạc Thư khác Hà Đồ ờ chỗ Kim Hoả đổi ngôi, Xem Dịch Kinh Đại toàn, q. I, tr. 323.
  8. Các phần sau trích từ "Kinh Dịch Đại Toàn" của cùng tác giả (được lấy từ trang http://nhantu.net) mang vào đây để phục vụ các bạn yêu thích học thuật phương đông :wub: +++++++++++++++ Chương 1. Xuất xứ Bất kỳ quyển Kinh Dịch nào cũng có hình vẽ Hà Đồ nơi đầu sách, như vậy đủ chứng minh Hà Đồ có liên quan mật thiết đến Kinh Dịch. Nhưng đến khi giải thích Hà Đồ, thì thường các tác giả giải thích một cách sơ lược phiến diện, nên rút cuộc người đọc không nhận thức được những nghĩa lý sâu xa của Hà Đồ. Có hai lối giải thích Hà Đồ: Một là lối học đường, khoa cử. Đó là đường lối Nho gia chọn. Hai là lối siêu hình, đạo giáo, đó là đường lối Đạo gia theo. Giải thích theo lối học đường, mới đầu xem ra có vẻ chính thống, lý sự nhưng cuối cùng chẳng giúp ta thêm kiến thức là bao. Giải thích theo lối siêu hình, đạo giáo, mới đầu tưởng như không được chính thống, nhưng thực ra giúp ta tháo gỡ được những then chốt, phanh phui được những huyền vi của Hà Đồ. Muốn tìm lối giải thích văn học, ta chỉ việc đọc: Dịch Kinh Đại Toàn, Dịch Kinh Thể Chú, Dịch Kinh Độc Bản v.v.. Muốn tìm lối giải thích siêu hình, đạo giáo, ta phải đọc: Chu Dịch Xiển Chân (Lưu Nhất Minh), Tinh Hoa Lục (Văn Đạo Tử), Tham Đồng Khế (Ngụy Bá Dương). Thiên khảo luận này sẽ bao quát cả hai lối giải thích đó. XUẤT XỨ CỦA HÀ ĐỒ Tục truyền, đời vua Phục Hi có con Long mã hiện ra nơi sông Mạnh Hà, trên lưng có mang một hình đồ, vì vậy gọi là Hà Đồ. [1] -------------------------------------------------------------------------------- [1] Hà xuất đồ, Lạc xuất Thư, Thánh nhân tắc chi. 河 出 圖 洛 出 書 聖 人 則 之. — Dịch Kinh Bản Nghĩa, Mục Hà Đồ & Hệ Từ Thượng Truyện, chương 10. Chương 2. Cấu tạo của Hà Đồ Hà Đồ nguyên thủy chỉ có 55 điểm đen trắng phân phối như sau: Các nhà Huyền Học Lão Giáo dần dà thêm vào cổ bản Hà Đồ: 1. Ngũ Hành, Thập Can 2. Ngũ Nguyên, ngũ Đức 3. Ngũ Tặc, Ngũ Vật lập thành những Hà Đồ biến chế như sau: A. Cổ Hà Đồ B. Hậu Thiên Âm Ngũ Hành C. Tiên Thiên Dương Ngũ Hành D. Sinh Sơ Âm Dương Ngũ Hành Hỗn Hợp Chương 3. Đại cương A.- Hà Đồ gồm 55 điểm đen trắng chia thành chẵn lẻ, Âm Dương. Dương số: 1 + 3 + 5 + 7 + 9 = 25 Âm số: 2 + 4 + 6 + 8 + 10 = 30 Tức là chẵn nhiều hơn lẻ, Âm nhiều hơn Dương, với ngụ ý: Âm phải bao bọc cho Dương tôn quí ở bên trong, Âm ti tiện ở bên ngoài. Âm chính ra phải đóng vai bì phu, vỏ bọc, vai khách. Âm Dương mới là chủ động, cốt cán. Tuy nhiên, nhìn vào Hà Đồ ta thấy: Bên phía phải, các số lẻ 7 và 9 (Dương) lại ở bên ngoài, các số chẵn 2 và 4 (Âm) lại ở bên trong. Ở bên trái, thì ngược lại: Các số lẻ 1, 3 (Dương) ở phía trong, các số chẵn 6, 8 (Âm) ở phía ngoài.[1] Các nhà bình giải muốn thoát ngõ bí, mới đề nghị rằng: ở Hà Đồ phải coi các số sinh 1, 2, 3, 4 bên trong là Dương, các số thành 6, 7, 8, 9 bên ngoài là Âm. Như vậy Dương sẽ ở bên trong, Âm sẽ ở bên ngoài, tượng trưng nhẽ Âm Dương giao thái. [2] Giải thích rằng trong là chủ, ngoài là khách, thì đúng. Nhưng nói trong là Dương, mà ngoài là Âm e chỉ đúng một nửa. Thực vậy, Kinh Dịch trước sau vốn chủ trương các số 1, 3, 5, 7, 9 là Dương số; 2, 4, 6, 8, 10 là Âm số. [3] Cho nên có lẻ, nên giải thích như sau: Hà Đồ cũng như Dịch Kinh luôn chủ trương: Âm Dương bất trắc, Âm Dương hỗ vi kỳ căn, cho nên dĩ nhiên có hai chiều, hai mặt, hai chủ trương đối lập: [4] Nửa phải: Âm chủ, Dương khách Âm trầm, Dương phù Tượng trưng: Âm Dương bất giao (Bĩ) Nửa trái: Dương chủ, Âm khách Dương trầm, Âm phù Tượng trưng: Âm Dương tương giao (Thái) Lối giải thích này cho ta thấy lối kết cấu Hà Đồ cũng y thức như vòng Dịch Tiên Thiên, Âm Dương đắp đổi ngôi vị chủ khách, phù trầm. Nó hợp với Dịch lý vì cho ta thấy đời tuy có hai chiều, hai mặt nhưng những con người biết suy tư phải biết Điên đảo Âm Dương phản cửu hoàn, xoay trở Âm Dương để trở về quê hương gốc gác. Nói cách khác, phải biết điên đảo để thu Dương Thần vào bên trong đừng để cho tinh thần phù phiếm tán loạn ra bên ngoài, bởi vì: Anh hoa phát tiết ra ngoài, Nghìn thu bạc Mệnh một đời tài hoa [5] B.- Hà Đồ chuyên về thường, Lạc thư chuyên về biến. Vì chuyên về thường, nên Hà Đồ cho ta thấy: 1. Bản thể chân thường, ngũ thập cư trung của vũ trụ. 2. Các tiêu chuẩn biến thiên tiến hóa bằng cách trình bày 4 trạng thái tương đối, tương phản nhau từng đôi một. Ý nói trong vòng biến thiên có những giai đoạn đối lập, đối đỉnh nhau, và cơ cấu vạn hữu cũng đã hàm tàng những mâu thuẫn nội tại. Cho nên thịnh suy thăng trầm là lẽ tự nhiên của Trời đất. Nguyên lý đó được trình bày như sau: Trong đó, Thủy Hỏa mâu thuẫn đối lập nhau, Kim Mộc mâu thuẫn xung khắc nhau. Hai đôi mâu thuẫn đó đã được đặt vào những phương vị đối xứng, đối đỉnh. 3. Hà Đồ chỉ sự toàn thiện, toàn bích, lúc chung cuộc nên có đủ 10 con số, và đem số 10 đặt lại vào Trung Cung, ý nói Thiên địa tuần hoàn chung nhi phục thủy. [6] -------------------------------------------------------------------------------- CHÚ THÍCH [1] Thái Cực chi tiên, Âm dựng hồ Dương, Thái Cực chi hậu, Dương thống hồ Âm. 太 極 之 先 陰 孕 乎 陽, 太 極 之 後 陽 統 乎 陰. — Đại Đỗng Chân Kinh, trang 19. [2] Dĩ kỳ nội giả vi chủ, nhi tại ngoại giả thành chi dã. 以 其 內 者 為 主 而 在 外 者 成 之 也. — Dịch Kinh Đại Toàn, trang 19. [3] Cf. Dịch Kinh Độc Bản, trang 1, chương Đồ thuyết. — Hệ Từ thượng, chương 8, trang 99. [4] Hai chiều, hai mặt ấy được thể hiện bằng hai quan niệm sau đây: một là ngoại cảnh, hình hài, hỗ trợ nội giới tinh thần, hai là tâm thần nô lệ cho hình hài, ngoại cảnh. a. Cố hữu vi vô chi cung, hình nãi thần chi thất. 故 有 為 無 之 宮 形 乃 神 之 室. — Chư Chân Ngữ Lục, trang 2 b. Thần vi tâm dịch, tâm vi vật khiên. 神 為 心 役 心 為 物 牽 . — Thái Thượng Lão Quân Thuyết Thường Thanh Tĩnh Kinh Chú, tr 2. [5] Kiều. [6] Thiên địa đồng lưu nhi định phân bất Dịch dã. Át kỳ toàn dĩ thị nhân, nhi đạo kỳ thường giả. Số chí thập nhi thủy toàn. Khuyết nhất tắc bất toàn hĩ. 天 地 同 流 而 定 分 不 易 也. 揭 其 全 以 示 人 而 道 其 常 者. 數 至 十 而 始 全. 缺 一 則 不 全 矣. — Dịch Kinh Đại Toàn, trang 21. -------------------------------------------------------------------------------- Chương 4. Hà Đồ với khoa số học Các Triết gia đời Tống cho rằng: Hà Đồ hình tròn tượng trưng cho thiên tượng, cho tinh tú.[1] Vì vậy các số trong Hà Đồ có thể dùng cho lịch số. Theo Chu Tử: Số 1, 2 dùng để phân Âm Dương, Cương Nhu. Số 5, 6 dùng để làm lịch số. Số 9, 10 dùng để định chu kỳ tháng nhuận. [2] Như vậy, Chu Tử đã đề cặp đến 3 vấn đề: 1. Vấn đề Nhất Thể Lưỡng Diện của vũ trụ Theo Chu Tử, số 1 và 2 tượng trưng cho Dương và Âm tức là hai chiều hai mặt của vũ trụ. Vũ trụ luôn biến thiên theo hai chiều khác nhau, nhất phục nhất khởi, nhất tiêu nhất tức, như vậy biến hóa sẽ vô cùng tận. Nếu vũ trụ chỉ biến hóa theo một chiều thì thế nào cũng có lúc tận thế. Trong thế kỷ XIX, khoa học tưởng vũ trụ chỉ tiến hóa có một chiều hướng, theo nguyên lý II Carnot-Clausius. Theo nguyên lý này thì động lực ngày một tiêu hao, và có một lúc nào đó sẽ triệt tiêu. Khi ấy vũ trụ sẽ trở nên im lìm, tĩnh lãng, lạnh lùng. [3] Nhưng sang thế kỷ XX, với quan niệm tương đối của Einstein, [4]nguyên lý bất định của Heisenberg, [5] phương trình phản phúc của Dirac, [6] quan niệm nhất thể lưỡng diện của Louis de Broglie, [7]nhiều nhà bác học – trong đó có Lecomte du Noüy [8] – đã nhận định phải có một chiều tiến hóa ngược lại với nguyên lý Carnot. Lecomte du Noüy chủ trương tinh thần và vật chất tiến hóa ngược chiều nhau, nên khi tinh thần lên đến cực điểm tinh hoa, thì vật chất sẽ triệt tiêu phá tán. [9] Sở dĩ có hai chiều, hai hướng tiến hóa, biến thiên là vì tinh thần vật chất chẳng qua cũng chỉ là hai mặt của một thực thể duy nhất. [10] Theo khoa học hiện đại, thì năng lực có thể biến thành vật chất, vật chất có thể biến thành năng lực. [11] Thế là thuyết Âm Dương của Á Châu ngày nay đã được khoa học Âu Mỹ xác nhận. 2. Số 5 và số 6 với lịch số Chúng ta hãy khảo sát ảnh hưởng của hai con số 5 và 6 trong lịch số. Trên thực tế thì vì sự biến chuyển có hai chiều Âm Dương, nên số 5 và 6 thường được nhân 2 thành 10 và 12. Xưa 10 là một tuần 10 ngày. 10 là Thập Can 12 là Lục Luật (Dương),và Lục Lã (Âm). * Lục Luật (Dương) là: 1/ Hoàng chung (Do), 2/ Thái thốc (Re), 3/ Cô Tẩy (Mi), 4/ Nhụy tân (Fa#), 5/ Di tắc (Sol#), 6/ Vô Dịch (La#) * Lục Lã (Âm) là: 1/ Đại Lã (Do#), 2/Giáp Chung (Re#), 3/ Trọng Lã (Fa), 4/Lâm Chung (Sol), 5/ Nam Lã (La), 6/ Ứng Chung (Si). Theo Trung Hoa 12 là 12 giờ một ngày (2 giờ Trung Hoa xưa là 1 giờ Âu Châu) Một năm có 360 ngày: (5 x 6) (6 x 2), 24 tiết (mỗi tiết là 15 ngày), 24 x 15 = 360) 72 hầu (mỗi hầu là 5 ngày (72 x = 360) Cứ 60 năm (6 x 10 = 5 x 12 = 60) là một Hoa Giáp. Mặt trời qua một cung Hoàng Đạo mất 2160 năm (360 x 6), đi một vòng 12 cung Hoàng Đạo mất 25920 năm (360 x 72). Một Nguyên theo Trung Hoa là 129600 năm (360 x 360): Con số 129600 rất lạ vì: 129600 năm là một Nguyên (12 hội) 129600 tháng là một Hội (30 vận) 129600 ngày là một Vận (12 thế) 129600 giờ là một Thế Kỷ (30 năm) 129600 phân là một Năm (12 tháng) 129600 ly là một Tháng (30 ngày) 129600 hào là một Ngày (12 giờ) 129600 ti là một Giờ [12] 3. Số 19 (10+9) với phép tính Tháng Nhuận Một năm Dương Lịch có 365 ngày 235/940. Một năm Âm Lịch chỉ có 354 ngày 348/940. Như vậy mỗi năm, Dương lịch và Âm lịch chênh nhau: 10 ngày 827/940 Vì vậy phải lập tháng nhuận cho Âm lịch. Kinh nghiệm cho thấy, trong một vòng 19 năm nếu thêm vào Âm lịch 7 tháng nhuận, [13] thì sau 19 năm, Âm lịch và Dương lịch lại có cùng một ngày tháng như nhau. Đó là Chu kỳ Méton. Ngoài ba trường hợp áp dụng Số học của Hà Đồ để đi tìm các định luật của trời đất kể trên, theo nhận định của Chu Tử, ta có thể dùng 10 con số Hà Đồ để tìm ra nhiều định luật vũ trụ khác. Đây chỉ xin dẫn thêm ít nhiều ví dụ: 1/. 18 năm (10 + 8) là Chu kỳ Saros (18 năm 11 ngày cho ta chu kỳ các Nhật thực, Nguyệt thực. Trong 18 năm có 70 lần Nhật thực, Nguyệt thực. Hết 18 năm lại trở lại như cũ. 2/. Ta có thể dùng cấp số nhân của 2 mà tính ra khoảng cách giữa các hành tinh và mặt trời theo như Định luật Bode. Ta viết: 0, 1, 2, 4, 8, 16, 32, 64, 128. Đoạn nhân cho 3: 0, 3, 6, 12, 24, 48, 96, 192, 384. Đoạn cộng với 4: 4, 7, 10, 16, 28, 52, 100, 196, 388. Đoạn chia cho 10: 0, 4, 0, 7, 1, 1, 6, 2, 8, 5, 2, 10, 19, 6, 38, 8. Ta có: [14] Tên các hành tinh Khoảng cách đại khái theo lối toán trên Khoảng cách thật sự theo khoa học Thủy tinh Mercury 0,4 0,3871 Kim tinh Venus 0,7 0,723 Trái đất Terre 1 1 Hỏa tinh Mars 1,6 1,523 Cérès Cérès 2,8 2,77 Mộc tinh Jupiter 5,2 5,202 Thổ tinh Sature 10 9,554 Thiên vương tinh Uranus 19,6 19,21 Hải vương tinh Neptune 38,8 30,10 4. Tứ Tượng và Vũ trụ vạn vật Hà Đồ dùng các con số 1, 2, 3, 4 để chỉ cơ cấu vạn vật 6, 7, 8, 9 để chỉ sự biến thiên của vạn vật. Theo các nhà Huyền Học Âu Châu thì Tứ Tượng chỉ là biến thái của một thực thể duy nhất. [15] Theo Pythagore, thì bốn con số 1, 2, 3, 4 đã đủ tượng trưng vũ trụ và sự vận chuyển của vạn hữu. 1, 2, 3, 4 là 4 trạng thái biểu dương sự phát hiện của Thượng Đế. Họ viết Những chữ Do Thái ấy là: Yod Yod - He Yod - He -Vau Yod - He Vau - He [16] Viết thành vòng tròn ta có: mà Yod He Vau tức là YHVE (YAHVE, JEHOVAH). Môn phái Pythgore gọi hình Tứ Tượng là Tétractys hay Tetragrammaton. Và Tứ Tượng phân bá ra bốn phương có nghĩa là vũ trụ chuyển hóa không ngừng. [17] Không đi sâu hơn vào vấn đế Số học, ta thấy rằng Hà Đồ với những con số có thể cho ta biết nhiều huyền cơ vũ trụ, hơn nữa ta cũng thấy rằng trên những vấn đề căn bản, Đông Tây chẳng khác chi nhau. -------------------------------------------------------------------------------- CHÚ THÍCH [1] Thiệu tử viết: Viên giả tinh dã, lịch kỷ chi số kỳ triệu ư thử hồ. 邵 子 曰: 圓 者 星 也, 歷 紀 之 數 其 肇 於 此 乎.— Dịch Kinh Đại Toàn, trang 17. [2] Dịch Kinh Đại Toàn, trang 17. [3] La deuxième loi, celle de Carnot-Clausius permettait de comparer l'écoulement de l'énergie dans l'Univers à celui d'un fleuve dont le courant descend le plus aisément du monde, mais qu'il est plus difficile de remonter. — Pierre Rousseau, Histoire de la Science, p. 594. [4] Théorie de relativité. [5] Principe d'intéterminisme de Heisenberg. [6] L'équation de Dirac pour la matière se trouve complètement réversible. — Lecomte du Noüy - L'homme devant la Science p. 109. [7] Associer, dans tous les cas, l'onde à la particule, qu'il s'agisse de la lumière ou de la matière, telle fut l'idée géniale qui guida l'illustre savant (Louis de Broglie) et l'amena en quatre ans, à mettre debout la mécanique ondulatoire... La physique était unifiée, il n'y avait plus désormais qu'un seul code régissant l'univers, qu'une seule entité élémentaire dans la nature, entité à double face, qu'il était tantôt commode de baptiser onde tantôt plus commode de baptiser particule. — Pierre Rousseau, Histoire de la Science - page 777. [8] Cf Lecomte du Noüy, L'Homme devant la Science, L'Avenir de l'Esprit, la Dignité Humaine, L'homme et sa Destinée. [9] Ainsi la marche de l'univers physique dans la direction d'un chaos inerte et du néant serait compensée par la progression parallèle d'un univers impondérable, celui de l'esprit, dont l'ordre et la perfection naîtraient des cendres du monde matériel... Finalement dans un univers refroidi, chaotique, anéanti où aucune action physique ne sera plus possible, existerait un ordre parfait, spirituel, affranchi de toutes chaînes matérielles, L'ordre du début, purement matériel aboutissant à un ordre de qualité plus haute pour finir... Le fait curieux est que si l'on exprime par deux nombres les variations des deux processus contraires, leur produit est constant. — Lecomte du Nouy, L'homme devant Science - page 109. [10] Matière et Esprit, écrit le P. Teilhard en 1950, non point deux choses mais deux états, deux faces d'une même étoffe cosmique suivant qu'on la regarde ou qu'on le prolonge dans le sens où elle se fait ou au contraire dans le sens suivant lequel elle se défait. — Jean Onimus, Pierre Teilhard de Chardin,- page 81. [11] La masse était génératrice d'énergie, et celle-ci inversement, devait posséder une masse, autrement dit, la lumière, la chaleur, les rayons X devaient avoir un certain poids, c'est-à-dire encore qu'énergie et masse devaient être une seule et même chose, les deux faces d'une même médaille... — Pierre Rousseau, Histoire de la Science, page 756. [12] Cf. Louis Chochod, Huế la Mystérieuse, trang 51. Cf. Louis Raoul Auclair, Le Livre des Cycles, page 178. [13] Tháng nhuận được thêm vào các năm thứ 3, 6, 9, 11, 14, 17, 19 của mỗi chu kỳ Méton. Như vậy 19 năm Âm lịch sẽ có 235 tháng. [14] 1 là khoảng cách giữa trái đất và mặt trời khoảng 150,000,000 km. (149,500,000 km). — Cf. Astonomie Populaire, Flammarion, trang 664 - 665 và 299 - 300. [15] Ce qu'ici-bas nous nommons par ces termes (Quatre éléments) sont les ressemblances et pour tout dire les vêtements dans le monde physique, de ces quatre Principes, de ces quatre Etats, de ces quatre Normes que sont les quatre Eléments. — Raoul Auclair, Le Livre des Cycles p. 143. [16] Cf. Mackey's revised Encyclopedia of Freemasonry Volume 11, page 1033. Raoul Auclair, Le Livre des Cycles, page 175. [17] Pythagoras having learned in Egypt the name of the true God, the Mysterious and Ineffable Name Jehovah, and finding that in the original tongue, it was composed of four letters translated it into his own language by the word Tetractys, and gave the true explanation of it, saying that it properly signified the source of nature that properly rolls along. (Dacier)... ... I swear it by Him who has transmitted into our soul the sacred Tetractys. The source of nature, whose course is eternal (Jamblichus - Life of Pythagoras) Cf. Mackey's Revised Encyclopedia of Freemasonry - Volume II p. 1033. -------------------------------------------------------------------------------- Chương 5. Liên lạc giữa hà Đồ, Bát Quái, và Lạc Thư Hà Đồ Bát Quái Hà Đồ có đủ Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái. Thái Cực = 5 + 10 Lưỡng Nghi = a) Dương Nghi: 1 + 3 + 7 + 9 = 20 B) Âm Nghi: 2 + 4 + 6 + 8 = 20 Tứ Tượng = 1 + 6; 2 + 7; 3 + 8; 4 + 9 Bát Quái = 7, 2, 8, 3, 6, 1, 9, 4 Muốn có Bát Quái ta chỉ việc đưa 4 con số bên trong vào 4 phương Bàng (Tứ Duy) theo chiều nghịch kim đồng hồ: 7 2 8 3 4 9 1 6 Càn 7 Đoài 2 4 Tốn Ly 8 9 Khảm Chấn 3 1 Cấn 6 Khôn Muốn có Lạc Thư, ta: 1. bỏ số 10 ở Trung cung 2. đảo lộn 2 cặp số 4/9 và 2/7 với nhau 3. đặt các số chẵn vào bốn phương bàng (tứ duy) theo chiều nghịch kim đồng hồ. Ta sẽ có: 7 2 8 3 5/10 4 9 1 6 9 4 8 3 5 2 7 1 6 9 4 2 3 5 7 8 6 1 Thế là Kim Hỏa đổi ngôi, và chiều vận dụng của Lạc Thư sẽ theo chiều Ngũ Hành tương khắc. Đó tức là chiều Âm của các vì sao trong Tử Vi. Hà Đồ chủ sinh. Lạc Thư chủ khắc. Hà Đồ vụ tu nội, mục đích giúp con người trở thành thần thánh. Lạc Thư chủ trị ngoại, giúp con người sống an vui hạnh phúc. Các bậc Thánh vương đã nhân Lạc Thư làm ra Hồng Phạm Cửu Trù để dạy các bậc Đế vương phương pháp tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. (Xem quyển Khổng Học Tinh Hoa của tác giả.) -------------------------------------------------------------------------------- Chương 6. Những vấn đề siêu hình tàng ẩn trong Hà Đồ Trong Hà Đồ tàng ẩn nhiều bí quyết siêu hình, nhiều vấn đề triết lý, nhân sinh, đạo giáo. Chúng ta sẽ lần lượt khảo cứu ít nhiều vấn đề then chốt sau đây: 1/. Trung Cung, Trung Điểm hay Bản Thể Vũ trụ. 2/. Chu Vi hay là Vạn Hữu với Nguyên Lý Diễn Dịch Tuần Hoàn. 3/. Quan niệm Âm Dương, hay Nhất Thể Lưỡng Diện. 4/. Nguyên tắc sinh thành hay là sự cộng tác của Âm Dương, của tinh thần vật chất, để thực hiện đại công của vũ trụ. 5/. Các hình thái hay các tầng lớp con người theo Hà Đồ. 6/. Quan niệm Thiên Nhân Tương Dữ theo Hà Đồ. 7/. Tạo hóa Qui Trung Chi Diệu theo Hà Đồ. 1. Trung Cung, Trung Điểm hay là Bản Thể của Vũ trụ Kinh Dịch chỉ dùng có mấy đồ bản Hà Đồ, Lạc Thư và các họa bản Dịch mà đã mặc nhiên đề cập được hết các vấn đề: a). - Căn Nguyên, Cùng đích của vạn vật B). -Sự biến thiên: Các giai đoạn biến thiên, và chiều hướng biến thiên của vạn vật. [1] Tất cả các họa bản đều diễn tả một chân lý siêu việt: Vạn vật từ một thực thể siêu vi sinh xuất, biến hóa muôn vàn, thi triển hết mọi khả năng, tận dụng mọi kết quả, rồi cuối cùng lại trở về Căn Nguyên bản thể. Vũ trụ dẫu tán phân, phóng phát bao nhiêu chăng nữa rồi ra cũng qui về Đại thể siêu vi. Phân tán thì chu lưu cùng vũ trụ, thâu liễm thì kết tụ trong tâm điểm tế vi. [2] Có biết nhẽ: Nhất thể biến Vạn thù, Vạn thù qui Nhất thể, có biết nhẽ biến hóa tuần hoàn, phản phúc, phóng đãng, di lưu, rồi lại qui căn, phản bản, thì mới hiểu được vi ý của các họa bản Hà Đồ, Lạc Thư và Dịch. Đại thể, Bản Thể Bất Khả Tư Nghị ấy các nhà Huyền Học Nho, Lão đã gượng ép mà đặt cho những tên Thái Cực Đạo và gượng ép tượng trưng bằng những số những hình. Thái Cực trong Dịch Ngũ trong Lạc Thư Ngũ thập trong Hà Đồ. Theo cùng khuôn mẫu ấy các khoa Thiên văn, Địa lý, Nhân sinh cũng chủ trương: 1. Trung tâm trời là Thiên Khu [3], Thiên Cực, Bắc Cực hay Tử Vi cung [4]. Trung Điểm đất theo quan niệm Trung Hoa là núi Côn Lôn [5]. Trung Điểm trong con người là: Nê Hoàn Cung, Côn Lôn, Cốc Thần hay Thiên Cốc v.v.. [6] Như vậy ngũ thập cư trung trong Hà Đồ là bản thể, tức là Thái Cực. [7] 5 và 10 là số đại thành bao quát Âm Dương: 5 = 1 + 4 5 = 2 + 3 15 = 6 + 9 15 = 7 + 8 cũng như 5 và 10 phân tán ra tứ phương sẽ sinh ra các số Âm Dương bên ngoài, Thái Cực cũng sinh xuất muôn vật. Cho nên bất kỳ trong một đồ bản nào, Trung Cung, Trung Điểm cũng tượng trưng cho Thái Cực, Căn nguyên sinh xuất muôn vật và cũng là nơi giao hội, qui hoàn của vạn vật: Mới hay: Con con cháu cháu vấn vương, Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương hồi đầu. Càn, Khôn, Ly, Khảm gặp nhau, Hợp thành một khối, gót đầu chẳng phân. Thế là thần khí qui căn, Một lèo khinh khoát, băng chừng hư vô. Âm Dương thông lý, hiệp hòa, Sẽ cùng tạo hóa vào ra muôn đời. [8] Cổ nhân dùng Trung Cung, Trung Điểm để tượng trưng cho Thái Cực, cho Bản Thể của vũ trụ là một sự kiện hiển nhiên được minh chứng chẳng những bằng Hà Đồ, mà còn bằng Lạc Thư, và các đồ bản của Dịch. Cao tăng Diệu Hư viết: Đãn đắc thử trung vô quải ngại. Thiên nhiên bản thể tự hư không [9]. Tạm dịch: Được Trung, là hết lôi thôi. Thiên nhiên, Bản thể đất trời là Trung. Đại Đổng Chân Kinh còn ghi: Tìm căn bản phải tìm nơi Thái Cực [10] Hiểu được ngũ thập của Hà Đồ tức là đi sâu vào lòng sâu muôn vật, tìm ra vi diệu của Càn Khôn, hay Ngọc Châu của Tạo Hóa. Cố khai phá Huyền nguyên tam ngũ Mới tìm ra Tạo hóa khuê chương Huyền cơ Trời ở trung ương, Gần trong gang tấc, chẳng vương tượng hình. [11] 2. Chu vi Hà Đồ hay là Vạn hữu với Nguyên lý Diễn Dịch tuần hoàn Hà Đồ chỉ mới có tứ chính mà không có tứ duy nên chính là một vòng tròn, mà vòng tròn là tượng trưng cho sự tuần hoàn biến Dịch. Hà Đồ xét về phương diện ngũ hành có thể đơn giản hóa như sau: Nam Hỏa Đông Mộc Thổ Kim Tây Thủy Bắc Nhìn vào đồ bản này ta thấy hình chữ thập: Trong đó Thủy Hỏa chống đối nhau như dưới với trên, như Nam với Bắc, Kim Mộc chống đối nhau như Tả với Hữu, như Đông với Tây. Tức là trong sự biến Dịch có tung hoành thuận nghịch, phải có thể đổi thành trái, dưới có thể đảo lên trên. Trong trời đất, và trong xã hội ta cũng thấy đây những hiện tượng đối đãi, phản phúc: Đông mà sáng, thì Tây tối; Bắc lắm đất, Nam lắm biển; có lúc cá nhân được trọng, có khi đoàn thể được trọng; có thời, vua là trọng, có thời, dân mới quí; có nơi tinh thần được sùng thượng, có chỗ vật chất được suy tôn; tất cả đều tùy nơi, tùy thời. Lẽ thuận nghịch (Tống), đối đãi (Thác ) của Hà Đồ được tượng trưng bằng hai cặp mâu thuẫn: Kim Mộc Thủy Hỏa và được Dịch kinh tượng trưng bằng: 28 cặp quẻ phản phúc (Tống) 4 cặp quẻ đối đãi (Thác) [12] Ngay trong ngôn ngữ, từ ngữ cũng có nhiều chữ để chỉ, để gợi ra sự đối đãi, thuận nghịch. Ví dụ: Lá mặt, lá trái; Xoay xở, Lật lọng; Đảo điên, Phản phúc. hay cách nói lái trong tiếng Việt, các loại văn biền ngẫu, câu đối. Trong chữ Hán cũng có những loại chữ đảo điên, phản phúc, đối đãi. Ví dụ: Cảo = Sáng sủa, Yểu = Mờ mịt Thượng = Trên, Hạ = Dưới Hữu = Phải, Tả = Trái Diệt = Lồi, Ảo = Lõm Tường = Nửa trái, Phiến = Nửa phải [13] Suy ra muốn biến hóa phải biết nhẽ điên đảo, thuận nghịch. Áp dụng vào con người muốn có một đời sống lý tưởng, phải biết tùy như cầu, khuynh hướng, tùy thời gian, tuổi tác mà biết lúc nào phải trọng vật chất, lúc nào phải trọng tinh thần. Nói chung từ bé đến lớn, con người càng ngày càng hướng ngoại, đi tìm vật chất, tìm cơm áo địa vị, từ lớn đến già càng ngày càng hướng nội, đi tìm tinh thần, và các giá trị siêu nhiên. Đó chính là chiều hướng biến hóa của Hà Đồ: Tiến về vật chất trước (Thoái hóa) Tiến về tinh thần sau (Tiến hóa) để rốt ráo trở về Trung Cung Thái Cực.[14] Đó là tiến hóa theo chiều Dương, chiều Ngũ Hành tương sinh, chiều đi về hướng tinh thần ngược lại với chiều tiến hóa của Lạc Thư tức là chiều Âm, chiều Ngũ Hành tương khắc, chiều đi về vật chất, ngoại cảnh. Nếu trời đất chỉ biến hóa một chiều thì sẽ có lúc cùng, nhưng vì luôn luôn biến hóa theo hai chiều, hai hướng cho nên lúc nào cũng có một bên tăng, một bên giảm, bên tiêu, bên tức, thành thử dẫu biến hóa mấy, toàn bích vẩn y nguyên, không vơi, không cạn. Suy ra trong vũ trụ, sự biến hóa luôn có hai chiều hai hướng: Tinh tú vận chuyển theo hai chiều thuận nghịch, Đạo giáo và Chính trị theo đuổi những mục đích ngược nhau, con người có hướng ngoại, hướng nội, vật chất có tụ, có tán, v.v.. Trong chiều biến hóa của Lạc Thư, động lực ngày một giảm, hư lực ngày một tăng theo Nguyên lý Nhiệt lực II của Carnot-Clausius. [15] Trong chiều biến hóa của Hà Đồ, động lực ngày một tăng, hư lực ngày một giảm. 3. Quan niệm Thái Cực, Âm Dương, hay Nhất Thể Lưỡng Diện Sự biến hóa theo hai chiều hướng đối nghịch nhau, truy kỳ nguyên là vì cơ cấu vũ trụ đã được tổ chức theo hai hình thức đối nhau. Đó là quan niệm Thái Cực Lưỡng Nghi, Nhất Thể Lưỡng Diện của Dịch kinh. Hà Đồ tượng trưng quan niệm này bằng số như sau: 5 = 2 + 3 5 = 4 + 1 Dịch kinh viết: Nhất Âm, nhất Dương chi vị Đạo. Nếu viết thành phương trình ta sẽ có Đạo = Âm + Dương Thái Cực = Âm + Dương [16] Muốn hiểu bí quyết Dịch, không được coi Âm, Dương là hai thực thể đối lập, mà là hai phương diện của một thực thể, hai chiều hướng của một vòng tuần hoàn. Thúy Hư Thiên viết: Thực ra, hai chữ Âm Dương chỉ là một vật. [17] Cho nên Âm Dương chỉ là hai chiều hai mặt của một Thực thể là Thái Cực. Thái Cực tuy là Căn Nguyên của Âm Dương, nhưng Thái Cực siêu xuất trên Âm Dương, bao quát Âm Dương. Số 5 là phi Âm, phi Dương vì bao quát Âm Dương: 5 = 2 + 3 = 1 + 4 [18] Cổ nhân cho rằng Thái Cực tức là Thần, Thần tức Thái Cực cho nên Thần cũng siêu xuất Âm Dương, năng Âm, năng Dương, vì thế nên Hệ Từ viết: Âm Dương bất trắc chi vị Thần. [19] Khoa học ngày nay đã tiến dần tới quan niệm nhất thể lưỡng diện, Thái Cực Âm Dương của Dịch kinh, và của Hà Đồ. Thực vậy, theo thuyết tương đối của Einstein thì năng lực có thể biến thành vật chất, vật chất có thể biến thành năng lực theo phương trình. E = mc2 [20] Theo Teilhard de Chardin, vũ trụ được tạo dựng bởi một thực thể duy nhất, mà tinh thần, vật chất, chỉ là 2 phương diện tương đối. [21] Tóm lại, vì thực thể, có hai mặt, hai bên, nên cuộc biến thiên tiến hóa cũng có hai chiều, hai hướng. Vũ trụ, dù xét về cơ cấu, hay xét về vận động, tiến hóa, luôn luôn theo định luật Âm Dương. Khoa học ngày nay đã chấp nhận quan điểm này khi cho rằng: Thời gian là chiều kích thứ tư của không gian. Tinh thần là biến thể của vật chất, vật chất là biến thể của tinh thần v.v.. Tóm lại không có gì có thể hoạt động riêng rẽ mà luôn luôn phải dựa dẫn vào nhau. 4). Hà Đồ với lẽ sinh thành. Hà Đồ còn đưa ra một nguyên lý căn bản là bất kỳ cái gì không thể sinh ra mà đã trưởng thành, toàn hảo ngay, mà còn phải biến hóa qua nhiều giai đoạn, nhờ sự hỗ trợ của hoàn cảnh, chịu các ảnh hưởng tinh thần, vật chất mới trở nên thành toàn, hoàn hảo được. Dương phải có Âm phụ bật mới thành tựu, Âm phải có Dương bổ sung mới toàn hảo. Suy ra tinh thần muốn khuếch sung, tiến triển phải nhờ hoàn cảnh vật chất hỗ trợ, vật chất muốn phát triển cần phải có tinh thần khai thác, điều động. Âm Dương phải cộng tác với nhau, tinh thần vật chất phải hỗ trợ lẫn nhau, mới thực hiện được đại công vũ trụ. Vì thế Hà Đồ mới chủ trương: Thiên Nhất sinh thủy, Địa Lục thành chi Địa Nhị sinh hỏa, Thiên Thất thành chi v.v... 5). Các hình thái, các tầng lớp con người theo Hà Đồ Thay vì phân chia con người thành ba phương diện: Xác, Hồn, Thần hay Tinh, Khí, Thần, theo nguyên lý Tam Tài. Hà Đồ, vì trọng nguyên tắc Âm Dương đối trĩ, nên lại phân chia tỉ mỉ hơn nữa, tức là: phân Hồn thành A- Du Hồn (Dương) B- Quỉ Phách (Âm) Theo tài liệu của Lưu Nhất Minh, trong quyển Chu Dịch Xiển Chân, và quan niệm các nhà Huyền Học Âu Châu, ta áp dụng lời phân chia con người theo phương thức Ngũ Hành, Tứ Tượng như sau: Du hồn (Dương), gần Thần minh hơn, ưa ánh sáng. Quỉ phách (Âm), gần vật chất hơn, ưa bóng tối. Các nhà Dưỡng Sinh Học, đã áp dụng quan niệm này vào công cuộc vệ sinh, và cho rằng nhà cửa không nên cao quá, sáng quá vì như vậy sẽ thương phách, không nên thấp quá, tối quá vì như vậy sẽ thương hồn và bệnh tật do đó sẽ sinh.[22] Âu Châu cũng có quan niệm Hồn, Phách. Theo các nhà Huyền Học Âu Châu thì Hồn, Phách, khác nhau cũng như khí với nước. Lúc chết, Phách quanh quất bên xác, còn Hồn thì khinh phiêu cùng thần khí lãng du. Phách là cứ điểm của dục tình, ngã chấp lúc sống; và đến khi chết, Phách sẽ tan biến dần trong giòng sông quên lãng, y như xác tan biến trong đất cát. Còn hồn là Khí, là xe của Thần theo từ ngữ Platon, đó là hạt giống Trường Sinh, mầm mộng Kim Thân, Thánh Thể...[23] Đem những quan niệm trên đối chiếu với khoa Cơ Thể và Sinh Lý Học hiện đại ta có thể ức đoán: Cứ điểm của Phách có thể ở trung khu não bộ (diencéphale), nơi thị tầng (thalamus ou couches optiques), hạ thị tầng (hypothalamus), [24]hoặc ở trong các Dung Dịch luân chuyển trong các xoang não tủy. Còn Hồn thì lại liên hệ mật thiết đến các khí thể, lưu hành trong các xoang não bộ. Đó cũng là những quan điểm xa xưa của Galien và thánh Augustin. [25] 6). Quan niệm Thiên Nhân Tương Dữ trong Hà Đồ Trong đạo Lão cũng như trong đạo Nho, vốn có quan niệm Thiên Nhân Tương Ứng[26], Thiên Nhân Tương Dữ. [27] Ý nói Trời chẵng ở xa con người, mà đã ở ngay trong tâm khảm con người, để làm chủ chốt cho con người, ám trợ con người.[28] Quan điểm này thực ra không phải của riêng một đạo nào, mà là gia tài của nhân loại. Đi sâu vào các Đạo giáo, các môn phái Huyền Học Đông, Tây, ta thấy quan điểm này thường được đề cập tới. [29] Hà Đồ bày ra lẽ Âm Dương phối ngẫu theo nhau như bóng với hình. Các nhà Huyền Học Lão giáo dựa vào Hà Đồ, xiển minh nhẽ Trời người hợp nhất, Thiên Lý tại nhân tâm. Theo quan niệm này ta có thể nói: Trời là Thần, là Chân Dương. Hồn con người là Khí, là Chân Âm[30]. Một bên hùng dũng chỉ lối đưa đường, một bên nhu thuận, tuân theo sự hướng dẫn, đúng như hai quẻ Kiền, Khôn trong Kinh Dịch. Trời có: 1) Ngũ Nguyên: a - Nguyên tính b - Nguyên thần c - Nguyên tình d - Nguyên tinh e - Nguyên khí 2) Ngũ Đức: a - Nhân b - Nghĩa c - Lễ d - Trí e - Tín [31] Người có: 1) Ngũ Vật: a - Du hồn b - Thức thần c - Quỉ phách d - Trọc tinh e - Vọng ý 2) Ngũ Tặc: a - Hỉ b - Lạc c - Nộ d - Ai e - Dục Trời là Chân, Người là Giả, hai đàng như hình với bóng chẳng lìa nhau.[32]Người cần phải tuân phục Trời, thuận theo Mệnh lệnh Trời, mới có thể đi đến chổ Âm Dương hòa hợp, thái hòa trường cửu.[33]Trời, Người đều có thể làm chủ hay làm khách. [34] Nhưng con người vì bản tính nông cạn, si mê, nếu tự động đóng vai chủ nhân, định đoạt mọi sự, thì chắc sẽ đi đến chỗ thất bại. Cho nên, hay hơn hết là nhường cho Trời làm chủ, cho lương tâm, lương tri làm chủ [35], còn mình chỉ biết tuân thuận theo, như vậy chắc chắn sẽ tốt đẹp. Đó là nhẽ Chủ, Khách trong Hà Đồ. Vì thế các nhà Huyền Học Lão giáo mới nói: Nhường ngài làm Chủ, ta làm Khách. [36] Hà Đồ lấy vị số mà chứng minh rằng: Sâu là Chủ, Nông là Khách, Trong là Chủ, Ngoài là Khách Cho nên, nếu Thượng đế là chủ của ta, thì chắc chắn phải ở ngay trong tâm của ta. Vì vậy người xưa cho rằng: Tu hành phải biết nông sâu, Nông sâu chẳng biết, tìm cầu luống công. [37] 7). Bí quyết Tạo Hóa Qui Trung Chi Diệu theo Hà Đồ Dịch kinh cốt là để mô tả diễn Dịch một chân lý trọng đại. Muôn loài đều từ một Đại thể, từ một Căn Nguyên sinh xuất; biến thiên, tiến hóa tưởng là vô biên vô tận, nhưng kỳ thực chỉ theo định luật Âm Dương, theo hai chiều hướng ngoại, hướng nội; Vãng Lai theo định luật tuần hoàn, nên khi hết chu kỳ lại trở về Nguyên Bản. [38] Lão tử cũng đã đề cao Nguyên lý ấy: Đạo Đức Kinh viết: Muôn loài sinh hóa đa đoan, Rồi ra cũng phải lai hoàn Bản Nguyên, Hoàn Bản Nguyên, an nhiên phục Mệnh, Phục Mệnh rồi, trường vĩnh vô cùng. [39] Hà Đồ cũng xiển minh nhẽ Vạn Vật Qui Trung bằng cách đặt lại số 10 vào Trung Cung. Hơn nữa nếu ta bắt đầu từ Trung (Thổ) đi theo vòng Ngũ Hành tương sinh: Thổ( Kim( Thủy( Hỏa( Thổ thì hết một vòng biến Dịch ta lại trở về Trung (Thổ). Vả lại nếu ta xếp lại các con số trong Hà Đồ theo phương thức dưới đây, ta sẻ thấy chiều hướng luân chuyển các con số là trở về Trung Cung, Trung Điểm. [40] Ngụy Bá Dương viết: Lấy con số 5 trung ương, tán phân ra tứ phương sẽ thành 6, 7, 8, 9 tức là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, đều dựa vào Thổ mới thành. Lấy các số 1, 2, 3, 4 ở bốn phương thu về trung ương sẽ được 10, tức là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, đều Phản Bản Hoàn Nguyên, hội họp ở Trung thổ. Thực là vi diệu thay. [41] Vi chỉ của Dịch thực là cao siêu, huyền diệu. Mới đầu chỉ cho ta thấy Thái Cực, Đạo Thể biểu dương dần dà thành Số, Vị, Hình Tượng, Màu Sắc, Thể chất, Không gian, Thời gian, Vạn Vật, Vạn Hữu. Sau đó, lại cho ta nhìn thấy những giai đoạn biến thiên, những yếu tố cấu tạo nên vạn vật, những then chốt biến hóa, từ Vạn Tượng rút lại về Ngũ Hành, về Tứ Tượng, Âm Dương rồi lại trở về Thái Cực, Vô Tượng, Vô Vị, Vô Số. Mới hay: Tự Đạo phân chia, Số mới thành, Ngũ Hành hình tượng: Đạo nha manh Năm phương vũ trụ: Thần phân liệt, Chất sắc năm mầu: Đạo tán sinh. [42] Số từ vô số xuất sinh, Trở về vô số, mới thành vãng lai. Tượng từ vô tượng, phân bài, Trở về vô tướng, trong ngoài ấm êm Vị hoàn vô vị, mới nên, Chất hoàn vô chất, tinh tuyền trước sau. Chớ chia đạo thể nhiệm mầu, Số kia bám víu vào đâu sinh thành. Muốn trừ cho hết tượng hình, Ngừng cơ biến hóa, mối manh tiêu liền. Vị ngôi muốn hết dưới trên, Thời đừng phân biệt Bản Nguyên làm gì. Đạo không phát tán chia ly, Thời thôi vật chất biến đi từ đời. Đạo là vô số, vô ngôi, Vô hình, vô chất, chia phôi nhẽ nào. Đạo Trời vi diệu xiết bao...[43] Hà Đồ với con số 15 viết ở Trung Cung, tức là cho ta thấy rằng căn bản hay cùng đích của vạn vật là ở tại Trung Cung, mà Trung Cung lại là Thái Cực, cho nên, theo Hà Đồ, thì Căn Nguyên và cùng đích của vũ trụ vẫn là Thượng Đế. Sách Đại Đỗng Chân Kinh viết: Căn bản vốn ở trung tâm điểm. [44] Sách Nhập Dược Kính viết: Người nào biết Tạo hóa, sẽ tìm căn nguyên vũ trụ nơi Trung Cung (Chân Thổ). [45] Mới hay: Huyền cơ Trời ở Trung ương, Gần trong gang tấc chẵng vương tượng hình. [46] Như đã nói trên số 15 ở Trung Cung tượng trưng Thái Cực. Lạ lùng thay, đối với các nhà Huyền Học Âu Châu, số 15 chỉ Thượng Đế. Và họ cho rằng Lạc Thư được quí trọng vì ngang dọc đều cộng thành 15, cho nên Lạc Thư là biểu dương của Thượng Đế. [47] Đọc bài thơ trong sách Kim Liên Chính Tông Ký, ta càng nhận thấy rõ rằng Trung Cung, Trung điểm ở Hà Đồ chính là Nhất, là Thượng Đế, là Thủy Tổ Vũ Trụ, Càn Khôn. Chân Nhất ở Trung Cung có Tứ Tượng, Tứ Sắc (đỏ, đen, xanh, trắng) bao quanh, được thi sĩ mô tả như là Thánh Mẫu ẩn thân trong thạch động mầu đỏ, [48]như Linh Thần ngự trên lầu giáng cung, [49], như Chân Cống, hay Kim Đơn chìm dưới làn sóng hồ màu biếc, [50] như đám mây bay trước ngọn núi Bạch Ngọc màu trắng [51]. Nguyên văn bài thơ như sau: Nhất trung hữu Nhất, Nhất nan luân, Tam cảnh nguyên tòng nhất xứ phân, Xích thạch động trung tàng Thánh Mẫu, Giáng cung đài thượng liệt Thần Tôn. Bạch đàm ba nội chân chân cống, Bạch ngọc phong tiền ải ải vân. Cá thị càn khôn khai tịch tổ. Thế gian ngu tục, khởi giao văn.[52] Khi đã biết Trung Cung tượng trưng cho Thượng Đế Bất Khả Tư Nghị, Vô Số, Vô Vị, Vô Tượng, thì bí quyết trở về với Thượng Đế, về Trung Cung là phải biết vượt lên trên hết mọi ảnh tượng [53], chi ly, phiền tạp, phải biết thu nhiếp vạn thù, qui nhất bản. Người xưa gọi thế là: Toản thốc Ngũ Hành, Hòa hợp Tứ Tượng Tam hoa tụ đỉnh Ngũ khí triều Nguyên Tạo Hóa Qui Trung Chi Diệu. [54] Nói một cách thiết thực hơn, muốn tìm về Trung cung, con người phải biết đâu là Chân Tâm trong con người. Các nhà Huyền Học Lão giáo đã cho biết Nê Hoàn Cung, ở trung tâm não bộ chính là Chân Tâm, là Trung Cung, Trung Điểm nơi con người. Mới hay: Nê hoàn một khiếu, thấu cửa Trời Ngọc Hoàng Thượng Đế, ấy tòa ngôi, Thánh Hiền lui tới, duy đường ấy, Cưỡi hạc băng chừng, thẳng tới nơi. [55] Giai đoạn sau là thu thần, liễm khí cho qui tụ về óc não, sống đời sống nội tâm cho thật rồi rào, dùng hết tâm thần ý chí vào công cuộc chiêm ngưỡng Thượng Đế, sống hợp nhất với Thượng Đế. [56] Đó là ý nghĩa những khẩu quyết: Hoàn tinh bổ não Tam hoa tụ đỉnh Ngũ khí triều Nguyên [57] hay: Tử dục bất tử tu Côn Lôn [58] Qui Trung tóm lại là: Đem ngựa ý, qui về thần thất [59] Bắt vượn tâm, giữ chắc động phòng. [60] Tâm, Thần, Hồn, Phách, Ý qui trung. [61] Nói theo từ ngữ Công giáo tức là muốn sống kết hợp với Thượng đế, phải kính mến Thượng đế hết lòng, hết sức tâm thần. [62] Hiểu được ý nghĩa Trung Cung, biết được bí quyết Tạo Hóa Qui Trung Chi Diệu, con người mới có thể tìm ra được địa vị sang cả của mình [63] mà Định Mệnh con người là sống kết hợp với Thượng Đế. [64] -------------------------------------------------------------------------------- CHÚ THÍCH [1] Vạn vật tắc ngũ hành chi tử dã. 萬 物 則 五 行 之 子 也. — Âm Phù Kinh Sớ, trang 2. [2] Phóng chi tắc di lục hạp, quyển chi tắc thoái tàng ư mật. 放 之 則 彌 六 合 卷 之 則 退 藏 於 密.— Trung Dung Tựa. [3] Cổ nhân sở xưng đích thiên khu bất động. — Hiện Đại Đạo Gia Tu Luyện Bảo Điển, trang 113. [4] Thiên cực nhất tinh danh Bắc cực vị tại trung ương, tứ phương sở thủ chính, cố danh trung cung. Viết: Thiên cực tức Bắc thần dã 天 極 一 星 名 北 極 位 在 中 央, 四 方 所 取 正, 故 名 中 宮. 曰 天 極 即 北 辰 也. (Khảo yếu). Thượng Đế Thái nhất thần tại Tử vi cung, thiên chi tối hiển dã. 上帝 太 一 神 在 紫 微 宮 天 之 最 顯 也. — Gustave Schlegel - L'Uranographie Chinoise, page 524. — J. Legge, the Shoo King, page 34 notes. [5] Trung nguyên, Côn Lôn sơn, thiên địa tâm. 中 原 崑 崙 山 天 地 心.— Joseph Needham: Science et Civilisation in China, (Cambridge at the University Press) quyển 3, trang 566 - 567. [6] Nê hoàn hựu xưng Bá hội... tức cổ nhân sở chỉ đích bách mạch tổng hội... Não xoang cổ nhân xưng vi Thiên cốc, nhi cư ư thử trung đích tinh thần tác dụng, khiếu tố Cốc Thần, giá thị Sinh Mệnh chi chân tể...hợp xưng vi Thiên khu. 泥 丸 又 稱 百 會 ... 即 古 人 所 指 的 百 脈 總 會 ... 腦 腔 古 人 稱 為 天 谷 而 居 此 中 的 精 神 作 用﹐ 叫 做 谷 神, 這 是 生 命 之 真 宰 合 稱 為 天 樞. — Hiện Đại Đạo Gia Tu Luyện Bảo Điển, trang 113. [7] Hà Đồ ngũ thập hư trung nhi vi Thái Cực 河 圖 五 十 虛 中 為 太 極. — Địa Lý Chính Tông, trang 3. [8] Chỉ huyền thiên vân: Miêu miêu duệ duệ miên miên lý, Nam Bắc Đông Tây tụ hợp lai. Thử Càn, Khôn, Khảm, Ly chi sở dĩ hiệp nhi vi nhất dã. Hợp nhi vi nhất, tắc thần khí qui căn, Kính nhập hư vô, yểu yểu minh minh, mạc tri kỳ sở dĩ nhiên hĩ. Đỗng hiểu Âm Dương, thông đạt Tạo hóa. 指 玄 天 云 : 描 描 裔 裔 綿 綿 裡. 南 北 東 西 聚 合 來. 此 乾 坤 坎 離 之 所 以 合 而 為 一 也. 合 而 為 一, 則 神 氣 歸 根, 涇 入 虛 無, 窈 窈 冥 冥, 莫 知 其 所 以 然 矣. 懂 曉 陰 陽, 通 達 造 化.— Chu Dịch Tham Đồng Khế, quyển Trung, trang 3. [9] Đại Đỗng Chân Kinh, quyển Trung, trang 10b. [10] Căn bản do lai Thái Cực tầm. 根本由來太極尋.— Đại Đỗng Chân Kinh, Quyển Thượng, trang 4b. [11] Tạc phá huyền nguyên tam ngũ, bát khai Tạo hóa khuê chương. Hi Di diệu chỉ tại trung ương, chỉ xích vô danh võng tượng. 鑿 破 玄 元 三 五 拔 開 造 化 圭 璋. 希 夷 妙 旨 在 中 央 咫 尺 無 名 罔 象 .— Phục Mệnh Thiên, trang 4a. [12] 28 cặp quẻ phản phúc như: Truân, Mông; Nhu, Tụng; Sư, Tỉ; Tiểu súc; Lý; Thái, Bĩ v.v... 4 cặp quẻ đối đãi là Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Đại Quá, Trung Phu, Tiểu Quá. [13] Xem thêm Dịch Kinh Tân Chứng, trang 5, đoạn Phúc Tượng. [14] Atteindre le Ciel par achèvement de la Terre (Teilhard de Chardin). — Cf. Jean Onimus, Teilhard de Chardin, page 65. [15] La quantité d'énergie que l'on peut transformer en travail va sans cesse diminuant, l'énergie se dégrade et l'univers tend vers l'immobilité etc... Clausius paraît avoir été le premier à donner du principe de Carnot une définition satisfaisante en introduisant la notion d'Entropie. Le second principe est alors devenu le principe de l'accroissement de l'entropie ou principe de Carnot-Clausius... En outre lorsqu'un système est en équilibre, son entropie est un maximum... C'est cette marche à sens unique, toujours dans le sens de la dégradation irréversible, qui justifie le nom de principe d'évolution par lequel on désigne souvent le principe d'évolution, le second principe de la thermodynamique. -- Lecomte du Noüy, L'homme devant la Science, page 94 - 95. [16] Nhất Âm nhất Dương chi vị đạo, Thiên Âm thiên Dương chi vị tật. 一 陰 一 陽 之 謂 道, 偏 陰 偏 陽 之 謂 疾.-- Phục Mệnh Thiên, 1a. [17] Kỳ thật, Âm Dương nhị tự thị giai nhất vật dã. 其 實 陰 陽 二 字 是 皆 一 物 也. —Thúy Hư Thiên, trang 2a. [18] Nhược Đạo chi thể tắc vô Âm Dương, nhi vi Âm Dương chi căn... 若 道 之 體 則 無 陰 陽, 而 為 陰 陽 之 根. — Xướng Đạo Chân Ngôn, tr.8b. [19] Có thể là Âm, có thể là Dương, bất kỳ bất trắc nên gọi là Thần (Hệ Từ). [20] E = énergie (năng lực) m = masse (khối lượng) c2 = tốc độ ánh sáng lên bình phương. [21] Matière et Esprit, écrit le P. Teilhard en 1950, non point deux choses mais deux états, deux faces d'une même étoffe cosmique suivant qu'on la regarde ou qu'on la prolonge dans le sens où elle se fait ou au contraire dans le sens suivant lequel il se défait... -- Jean Onimus, Pierre Teilhard ou La foi au Monde, page 80. ... L'Esprit, n'est ni un surimposé, ni un accessoire dans les cosmos, mais il représente tout simplement l'état supérieur pris en nous par la chose première indéfinissable... rien de plus mais aussi rien de moins. L'Esprit n'est ni un méta, ni un épiphénomène: il est le phénomène. — Ib. page 85. [22] Thiên Ẩn Tử, Dưỡng Sinh Thư, trang 1b. Si nous considérons les quatre Eléments dont le monde est composé: la Terre, l'Eau, l'Air et le Feu, le corps correspond à l'Elément Terre, l'Âme aux Eléments Eau et Air, l'Esprit à l'Elément Feu, et de même que dans le domaine physique, l'eau a le pouvoir de se mêler à la terre, l'air au feu, de même, une certaine Âme, l'Âme liquide est attachée au corps, à tout le moins demeure en son voisinage, même après la mort, l'autre Âme, l'Aérienne, rejoint l'Esprit. — Raoul Auclair, Le Livre des Cycles, page 143. [23] Cette âme (l'âme liquide) est le siège de nos passions et de notre individualité présente, mais elle est destinée à se dissoudre dans Léthé comme le corps dans la Terre. L'autre Âme, c'est le Pneuma, le char de l'Esprit, ainsi que l'appelait Platon, le noyau, sans cesse grossi de l'immortalité de l'homme, l'embryon du corps glorieux. — Ib. page 144. [24] Le Thalamus participe, enfin, par ses relations avec les corps striés et l'hypothalamus à l'expression des émotions. -- A. Fabre et G. Rougir, Physiologie Médicale, page 558. [25] According to Galen, the natural spirit, the product of nutrition, passed from the liver and the gut to the heart and were there modified by the material from the lungs. A portion of the resultant product, known as the vital spirits was passed to the head. Here within the rich collection of blood vessels at the base of the brain, a watery distillate was recovered and mixed with air and supposedly entered the cranial cavity through the porous base of the skull above the nose. The psychic pneuma was then collected and circulated in the chambers of the brain. By the fourth century A.D. this ingenious Galenic conception of the circulation of psychic pneuma within the chambers of the brain had been much modified. Saint Augustin (A.D. 354 - 430) among others held that the three ventricles of the brain contained psychic pneuma with special qualities. Indeed some of the Aristotelian faculties were identified with the watery contents of the respective chambers but not, with the substance of the brain... Cf. Lyman Bryson, An Outline of Man's Knowledge of the Modern World, page 44. [26] Thiên nhân tương ứng chi lý bị ư Xuân Thu... 天 人 相 應 之 理 備 於 春 秋. — Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Toản Nghĩa, trang 1. Phù cổ ảnh hưởng chi lý: 桴 鼓 影 響 之 理 (Trời người như dùi với trống, như người với bóng, như âm thanh và tiếng vọng). — Thái Thượng Bảo Phiệt Đồ Thuyết, trang 6a. [27] Đổng trọng Thư viết: Thiên nhân tương dữ chi tế, thậm khả úy dã. 董 仲 舒 曰 : 天 人 相 與 之 際, 甚 可 畏 也 .— Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Toản Nghĩa, trang 1a. [28] Vô viết: Bỉ thương thậm diểu dã, nhất sự chi công tư, tức vi thiên địa sở thức lâm. Vô viết: nhĩ thất khả khi dã: Nhất niệm chi tà chính, tức vi quỉ thần sở chỉ trích. 毋 曰 彼 蒼 甚 渺 也 一 事 之 公 私 即 為 天 地 所 式 臨. 毋 曰 爾 室 可 欺 也. 一 念 之 邪 正 即 為 鬼 神 所 指 摘. — Thái Thượng Bảo Phiệt Đồ Thuyết Dịch câu 53: Đừng nói: Xanh kia xa lắc: bất kỳ công việc gì dù công hay tư, đất trời đều hay biết; đừng nói: buồng kín có thể lừa đối được. Bất kỳ một ý niệm gì hoặc tà hoặc chính, đều được quỉ thần phê phán. [29] Ne savez-vous pas que vous êtes un temple de Dieu, et que l'Esprit de Dieu habite en vous? Si quelqu'un détruit le temple de Dieu, celui-là, Dieu le détruira. Car le temple de Dieu est sacré, et ce temple c'est vous. -- I Corinthiens 3, 16, 17. ...Ou bien ne savez-vous pas que votre corps est un temple du Saint-Esprit, qui est en vous et que vous tenez de Dieu? Et que vous ne vous appartenez pas? Vous avez été bel et bien rachetés! Glorifiez donc Dieu et le portez dans votre corps. --I Corinthiens 6, 19, 20. ...In short, many see in the story of Solomon's Temple a symbolical representation of Man as the temple of God, with its Holy of Holies deep seated in the center of the human heart. -- Mackey's Revised Encyclopedia of Freemasonry, Tome II, page 961. [30] Chân Âm Chân Dương thị Thần Khí. 真 陰 真 陽 是 神 氣. — Đơn Dương Chân Nhân Ngữ Lục - trang 5b. [31] Xem Chu Dịch Xiển Chân, của Lưu nhất Minh - Chương Hà Đồ. [32] Giả tá Chân tồn, Chân diệc tá Giả nhi lưu dã. 假 借 真存 真 亦 借 假 而 流 也.— Lưu nhất Minh, Chu Dịch Xiển Chân, Chương Hà Đồ. [33] Âm Dương kết Thái nguyên. 陰 陽 結 太 元 .— Hoàn Nguyên Thiên, trang 1. [34] Dĩ nhân hợp thiên. Dĩ thiên tòng nhân. 以 人 合 天 以 天 從 人.— Huyền Tông Chính Chỉ, trang 10. [35] Vương Dương Minh tiên sinh thuyết: Lương tri tức Thượng Đế. 王 陽 明 先 生 說 良 知 即 上 帝.—Hiện Đại Đạo gia Tu Luyện Bảo Điển, trang 82. [36] Nhiêu tha vi chủ ngã vi tân. 饒 他 為 主 我 為 賓.— Nhập Dược Kính - trang, 14b. [37] Thức phù trầm, minh chủ khách, yếu tụ hội, mạc gián cách. 識 浮 沉 明 主 客 要 聚 會 莫 間 隔. — Nhập Dược Kính, trang 14a. [38] Thủy chung như nhất. 始 終 如 一.— Đại Đỗng Chân Kinh, trang 7b. [39] Đạo Đức Kinh, chương XVI. [40] Xem đồ bản này, ta thấy chiều biến hóa là từ Dương dến Âm, rồi lại từ Âm trở về Dương trước khi trở về Trung Cung. [41] Cổ dĩ Trung ương chi ngũ, tán ư tứ phương nhi thành 6, 7, 8, 9, tắc Thủy Hỏa Mộc Kim lại Thổ nhi thành. Nhược dĩ tứ phương chi nhất, nhị, tam, tứ qui ư trung ương nhi thành thập, tức Thủy Hỏa Mộc Kim giai phản bản hoàn nguyên nhi hội ư thổ trung dã. Hu huyền tai. 古 以 中 央 之 五, 散 於 四 方 而 成 六, 七, 八, 九, 則 水 火 木 金 賴 土 而 成. 若 以 四 方 之 一, 二, 三, 四 歸 於 中 央 而 成 十 即 水 火 木 金 皆 返 本 還 元 而 會 於 土 中 也. 吁 玄 哉.— Chu Dịch, Tham Đồng Khế Phát Huy, trang 24. [42] Ngọc Thư viết: Nhất, tam, ngũ, thất, cửu, Đạo chi phân nhi hữu số. Kim mộc thủy hỏa thổ, Đạo chi biến nhi hữu tượng Đông Tây Nam Bắc Trung, Đạo chi liệt nhi hữu vị. Thanh, Bạch, Xích, Hoàng, Hắc, Đạo chi tán nhi hữu chất. 玉 書 曰 一, 二, 三, 五, 七, 九 道 之 分 而 有 數. 金 木 水 火 土 道 之 變 而 有 象. 東 西 南 北 中 道 之 列 而 有 位. 青 白 赤 黃 黑 道 之散 而 有 質.— Linh Bảo Tất Pháp, trang 12a. [43] Số qui ư vô số, tượng phản ư vô tượng, vị chí ư vô vị, chất hoàn ư vô chất. Dục Đạo chi vô số, bất phân chi tắc vô số hĩ. Dục Đạo chi vô tượng, bất biến chi, tắc vô tượng hĩ. Dục Đạo chi vô vị, bất liệt chi tắc vô vị hĩ. Dục Đạo chi vô chất, bất tán chi tắc vô chất hĩ. Vô số Đạo chi nguyên dã, vô tượng Đạo chi bản dã, vô vị Đạo chi chân dã. 數 歸 於 無 數 象 反 於 無 象 位 至 於 無 位 質 還 於 無 質. 欲 道 之無 數 不 分 之 則 無 數 矣. 欲 道 之 無 象 不 變 之 則 無 象 矣 . 欲 道 之 無 位 不 列 之則 無 位 矣. 欲 道 之 無 質 不 散 之 則 無 質 矣. 無 數 道 之 元 也. 無 象 道 之 本 也. 無 位 道 之真 也.— Linh Bảo Tất Pháp, quyển Hạ, trang 12a. [44] Căn bản nguyên do Trung. (Cứu kỳ căn bản, thật do ư trung, kiến hồ ngoại giả, bản hồ nội. Chiêu hồ dụng giả, do hồ thể dã). 根 本 原 由 中. 究 其 根 本 實 由 於 中. 見 乎 外 者 本 乎 內. 昭 乎 用 者 由 乎 體 也.— Đại Đổng Chân Kinh, trang 19. [45] Thức Tạo hóa giả, tất ư Chân Thổ trung cầu căn đế yên. 識 造 化 者, 必 於 真 土 中 求 根 蒂 焉.— Nhập Dược Kính 4b. [46] ... Le monde, pris dans son universalité, n'émane pas immédiatement de Dieu. Ce qui émane de Dieu, c'est un Etre unique, qui est le Principe de toutes les créatures. C'est une intelligence séparée, c'est-à-dire une substance qui existe par soi, qui est exempte de toute multiplicité, qui se conaît et connaît son principe (Averroès). — Illan de Casa, La Religion Essentielle, p. 122. [47] For fifteen was a sacred number among the Orientals, because the letters of the holy name Jah jy were, in there numerical value, equivalent to fifteen, and hence a figure in which the nine digits were so disposed as to make fifteen either way when added together perpendicularly, horizontally, or diagonally, constituted one of their most sacred talismans. — Mackey's Revised Encyclopedia of Freemasonry,Vol. II, p. 1109. ...Thus in Hebrew, the name of God, Jah jy is equivalent to 15, because y =10 and j = 5 and 15 thus become a sacred number. — Ib. p. 722. [48] Tượng trưng Nam Phương, Hỏa, Xích. [49] Tượng trưng Bắc Phương, Thủy, Hắc. [50] Tượng trưng Đông Phương, Mộc, Thanh. [51] Tượng trưng Tây Phương, Kim, Bạch. [52] Dung hợp vi nhất, thông quán vô gián, dữ Đạo vi thể, nhi hồn phách câu hóa, tứ đại giai không. Thất khí vô trệ Trạm tịch chân thành. Quán thông Vô Cực.融 合 為 一, 通 貫 無 間, 與 道 為 體, 而 魂 魄 俱 化, 四 大 皆 空, 七 氣 無 滯, 湛 寂 真 成, 貫 通 無 極 .— Đại Đỗng Chân Kinh, trang 23. [53] Quả ư võng tượng vô hình xứ, Hữu cá trường sinh bất tử côn. 果 於 罔 象 無 形 處, 有 個 長 生 不 死 根. — Kim Đơn Đại Thành Tập, trang 10. [54] ... Pour être satisfait par Dieu, il ne faut point se contenter de ce qui est ceci ou cela, mais de ce qui est Tout. Car Dieu est bien l'Un, et doit être l'Un, mais il est aussi Tout et doit être Tout... Théologie Germanique. — Illan de Casa Fuerte, La Religion Essentielle, p.161. [55] Nê hoàn nhất khiếu đạt Thiên môn, 泥 丸 一 竅 達 天 門 Trực thượng Hư Hoàng Ngọc Đế tôn 直 上 虛 皇 玉 帝 尊 Thử thị Chân Nhân lai vãng lộ 此 是 真 人 來 往 路 Thời thời khóa hạc khứ triều Nguyên. 時 時 跨 鶴 去 朝 元 — Nhập Dược Kinh, trang 10b. [56] Thượng triều ngọc thanh, dữ Thiên vi nhất hĩ. 上 朝 玉 清 與 天 為 一 矣. — Đại Đỗng Chân Kinh, trang 7b. [57] Cf. Hiện Đại Đạo Gia Tu Luyện Bảo Điển, trang 124. [58] Nhập Dược Kính, trang 10b (Côn Lôn tượng trưng cho đầu não). [59] Thần Thất tượng trưng cho xoang trung tâm trong óc. [60] Động phòng là tên một xoang trong óc. [61] Hoàn Nguyên Thiên Trang 1b. [62] Tu aimeras ton Dieu de tout ton coeur, de toute ton âme, de tout ton esprit et de toute ta force. — L'Evangile selon St. Marc, 12, 30. [63] Quân tử Hoàng Trung thông lý, chính vị cư thể. — Dịch Kinh Khôn Quải (Văn ngôn). ... Il (Pascal) sait, lui, que le tourment de l'homme tient à ce qu'il ne sait à quel rang se mettre, tendu qu'il est entre un infini de grandeur qui l'écrase et un infini de petitesse avec lequel il semble n'avoir aucune mesure... — Georges Cresp, De la Science à la Théologie (Essai sur Teilhard de Chardin), p. 13. [64] Dĩ nhân hợp Thiên 以 人 合 天.— Huyền Thiên Chính Chỉ, trang 10. -------------------------------------------------------------------------------- Bạt Số, văn dụ Đạo, Đạo tài thông, Hà, Lạc huyền vi tại chính trung Luân chuyển, tuần hoàn quan trục cốc, Biến thiên thăng giáng, hệ tâm cung Căn chi, Bản mạt minh đoan đích, Tụ tán, hiển vi thức thủy chung Tri chỉ tức nhiên tri giải thoát Phật, Tiên bất quá đắc Hoàn Trung. [1] (Nhân tử chuyết đề) Đạo cả siêu vi khó luận bàn, Lấy lời, lấy số tả lan man. Huyền vi Hà, Lạc nơi tâm điểm. Trục chuyển vành xe, mới vẹn toàn. Trục chuyển vành xe, mới vẹn toàn, Trần hoàn biến chuyển, hệ tâm xoang Ngọn ngành, gốc rễ, thông đầu cuối Tụ tán, hiển vi, chẳng ngỡ ngàng. Tụ tán, hiển vi, chẵng ngỡ ngàng Đầu đuôi thông tỏ, hết đa đoan Phật, Tiên, gặp gỡ nơi Trung Điểm [2] Tìm được Hằng Tâm, thoát nhiễu nhương. -------------------------------------------------------------------------------- [1] Hợp Thiên chi đạo tắc đắc kỳ hoàn trung. — Tinh Hoa Lục, trang 36. [2] Văn Đạo Tử, Tinh Hoa Lục, trang 36 LẠC THƯ Chương 1. Xuất xứ của Lạc Thư Lạc Thư có một tầm ảnh hưởng rất lớn lao trong mọi lãnh vực tư tưởng, chính trị, đạo giáo Trung Hoa, vì vậy cần được khảo sát cho tường tận. Theo Kinh Thư, sau khi trị thủy thành công, Vua Vũ đã được Trời ban cho Hồng Phạm Cửu Trù, tức là phép tắc cai trị xã hội, và định chế nhân luân.[1] Tục truyền Trời cho thần qui hiện lên ở sông Lạc, mang trên lưng một hình vẽ. Vua Vũ nhân đấy làm ra Hồng Phạm với sự cộng tác sau này của Cơ tử. [2] Sách Chính Nghĩa Xuân Thu Vĩ ghi: Hà dĩ thông Kiền xuất thiên bào, Lạc dĩ lưu Khôn thổ địa phù [3] Câu đó rất quí báu, vì sẽ giúp ta hiểu rõ phạm vi và mục đích của Hà Đồ, Lạc Thư. Hà Đồ giúp ta hiểu Trời, Lạc Thư giúp ta hiểu Đất. Hà Đồ giúp ta tu luyện tâm hồn, Qui Nguyên, Phản Bản. Lạc Thư chỉ vẽ cách thức an bang, tế thế; tổ chức đời sống xã hội và vật chất bên ngoài. Vì lẽ đó, nên Hà Đồ hình tròn, còn Lạc Thư hình vuông. Tròn tượng Trời, vuông tượng Đất. Hà Đồ, Lạc Thư hỗ trợ, bổ sung lẫn cho nhau, và có thể nói được là hai phương diện của một học thuyết duy nhất, đó là: nội thánh, ngoại vương chi đạo, y như tấm vải có sợi ngang sợi dọc, [4]như cuộc đời có hai chiều xuôi ngược, hai mặt trong ngoài. Theo Từ nguyên, Lạc Thư dạy cách tổ chức xã hội trị quốc an bang. [5]Ta sẽ bằng cứ vào câu đó, để phanh phui cho ra các bí quyết của Lạc Thư. -------------------------------------------------------------------------------- CHÚ THÍCH [1] Vũ nãi tự hưng, Thiên nãi tích Vũ Hồng Phạm Cửu Trù; di luân du tự. 禹 乃 自 興 天 乃 錫 禹 洪 範 九 疇 彝 倫 攸 敘.— Thư Kinh Hồng Phạm, tiết 2. Séraphin Couvreur, Les Annales de la Chine, page 196. [2] Hệ Từ truyện viết: Hà xuất Đồ, Lạc xuất Thư; thánh nhân tắc chi. 繫 辭 傳 曰: 河 出 圖, 洛 出 書, 聖 人 則 之.— Chu Dịch Đại Toàn, Chương Đồ Thuyết, trang 17a. [3] Chính nghĩa Xuân Thu vĩ viết: Hà dĩ thông Kiền xuất thiên bào; Lạc dĩ lưu Khôn thổ địa phù. 正 義 春 秋緯 曰 河 以 通 乾 出 天 笣 洛 以 流 坤 吐 地 符.— Uyên Giám Loại Hàm, Quyển 3, trang 3,366, Mục Chu Dịch III. [4] Hà Đồ dữ Lạc Thư tương vi kinh vĩ, Bát quái, Cửu chương tương vi biểu lý. 河 圖 與 洛 書 相 為 經 緯, 八 卦 九 章 相 為 表 裡.— Chu Dịch Đại Toàn, trang 17b. [5] Án Hồng Phạm Cửu Trù vi trị thiên hạ chi đại pháp. 案 洪 範 九 疇 為 治 天 下 之 大 法.— Cf. Từ Nguyên, nơi chữ Cửu Trù. Chương 2. Cấu tạo của Lạc Thư Lạc Thư được cấu tạo như sau: Trong Chu Dịch Xiển Chân ta thấy có một hình Cổ Lạc Thư như sau: Đồ hình này làm ta mường tưởng đến cách cấu tạo của nguyên tử với nhân ở chính giữa và các quĩ đạo điện tử ở bên ngoài. Nhưng dĩ nhiên hình này không phải là chính thống. Ta vẽ lại sự diễn tiến từ Hà Đồ sang Lạc Thư như sau: (a) (B) (Ta thấy các số chẵn sung vào bốn hướng phụ, còn 4 số lẻ ở bốn phương chính.) © Hà Đồ biến chuyển theo chiều Dương, chiều Ngũ Hành tương sinh. Chiều biến chuyển của Hà Đồ (Ta có: Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ.) Chương 3. Đại cương Ta có thể nói được rằng Lạc Thư xuất phát từ Hà Đồ [1], nhưng có bốn điểm dị biệt quan trọng sau đây: 1. Mất số 10 ở giữa. 2. Âm Dương không còn hòa hợp, phối ngẫu mà đã phân kỳ, chia rẽ. 3. 2 cặp số 9/4 và 7/2 đổi chỗ lẫn cho nhau [2] 4. Ở Lạc Thư, Ngũ Hành tương khắc, vận chuyển theo chiều Âm. Ở Hà Đồ, Ngũ Hành tương sinh, vận chuyển theo chiều Dương. Chiều biến chuyển của Lạc Thư. (Ta có: Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc Mộc; Mộc khắc Thổ.) Lạc thư vì thiếu số 10, nên chỉ còn có chín số; hơn nữa vì Âm Dương phân kỳ, Hỏa Kim điên đảo, nên Lạc Thư tượng trưng cho thế giới hữu hình, vạn tượng vạn hữu, thế giới thực tại, lấy nghịch cảnh biến thiên để đoàn luyện vạn vật. Các số Lạc Thư tổng cộng là 45. Các số Hà Đồ tổng cộng là 55. Mà 45 + 55 = 100 Số 100 vốn tượng trưng vạn tượng, vạn hữu. [3] Như vậy ta càng thấy rõ cả Hà Đồ lẫn Lạc Thư mới đủ tượng trưng cho vạn tượng vạn hữu, từ thế giới vô hình đến thế giới đến thế giới hữu hình. Hà Đồ tượng trưng cho thế giới tâm thần, nội tâm, nội cảnh. Lạc Thư tượng trưng cho thế giới vật chất ngoại cảnh, cho xã hội bên ngoài. Vì thế, các bậc tiên hiền nhiều khi lại vẽ Hà Đồ nằm bên trong, Lạc Thư bao bên ngoài. Người xưa cho rằng Hà Đồ, Lạc Thư có ba điểm giống nhau và hai điểm khác nhau. Ngọc Trai Hồ thị bình rằng: 3 điểm giống nhau: 1. Hà Đồ cũng như ở Lạc Thư số 1, số 6 đều ở phía Bắc. 2. Số 3 và 8 đều ở phía Đông 3. Số 5 đều ở Trung Cung 2 điểm khác nhau: 1. Ở Hà Đồ thì số 2 và 7 ở phía Nam, còn ở Lạc Thư thì số 2 và 7 lại ở phía Tây. 2. Ở Hà Đồ thì số 4 và 9 ở phía Tây. Ở Lạc Thư trái lại 4 và 9 ở phía Nam. [4] Tóm lại, các số Dương 1, 3, 5 không đổi vị, chỉ có các số Âm 2 và 4 mới thay đổi, lộn lạo.[5] Hà Đồ và Lạc Thư mỗi bên theo một ngả đường. Hà Đồ sinh Tiên Thiên Bát Quái. Lạc Thư sinh Hậu Thiên Bát Quái. Phục Hi nhân Hà Đồ vẽ ra Tiên Thiên Bát Quái. (Cả hai hình đều có cùng một chiều diễn tiến) Ở Hà Đồ ta thấy nửa bên phải, các số Dương lẻ đều ở bên ngoài, các số Âm chẵn đều ở bên trong. Còn ở nửa bên trái, thì các số lẻ Dương lại ở bên trong, số chẵn Âm lại ở bên ngoài. Ở Tiên Thiên Bát Quái, ta cũng thấy ở nửa bên phải các hào Âm ở bên trong, các hào Dương ở bên ngoài; Còn ở nửa bên trái, thì các hào Dương lại ở bên trong các hào Âm ở bên ngoài. Như vậy Hà Đồ và Tiên Thiên Bát Quái đã rập theo một khuôn mẫu. Lạc Thư liên lạc mật thiết với Hậu Thiên Bát Quái: Hậu Thiên Bát Quái đánh số các quẻ đúng theo thứ tự Lạc Thư. Ở Hậu Thiên Bát Quái, các quẻ theo số thứ tự sau: Nhất Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, ngũ Trung, lục Càn, thất Đoài, bát Chấn, cửu Ly. Thiệu khang Tiết cho rằng, người xưa nhân vòng tròn của Hà Đồ mà suy ra lịch kỷ, nhân hình vuông của Lạc Thư mà nghĩ ra cách chia châu, chia đất. Ông nói: Tròn là hình sao, số của lịch kỷ có lẽ bắt đầu từ đó. Vuông là hình đất, những cách chia châu, chia đất có lẽ bắt chước từ đó chăng. [6] Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này. Cũng như ở Hà Đồ, số quan trọng nhất của Lạc Thư vẫn là số 5. Số 5 bao gồm Trời Đất, Âm Dương Trời là 3, Đất là 2. Số 5 là số tam thiên lưỡng địa, nên chính là Thái Cực. [7] Ngoài tâm điểm ra, Hà Đồ và Lạc Thư đều có: Dương số: 1 + 3 + 7 + 9 = 20 Âm số: 2 + 4 + 6 + 8 = 20 Tổng cộng đều là 20 Như vậy là Âm Dương quân bình. Lạc Thư xưa đến nay vẫn là một cái gì huyền vi, bí ẩn. Có nhiều lối cắt nghĩa Lạc Thư; nông có, sâu có tùy theo trình độ, tùy theo tâm trạng của mỗi người. Thái Nguyên Định giải rằng: 9 số Lạc Thư tượng trưng cho các bộ phận của thần qui. Ông viết: Số cửu cung là: Đội chín, đạp một Tả ba, hữu bảy Hai, bốn làm vai Sáu, tám làm chân Số năm ở giữa Tượng hình lưng rùa. [8] Cũng thấy có ca rằng: Tải cửu lý nhất Tả tam hữu thất Nhị tứ vi kiên Bát lục vi túc Ngũ thập cư trung Ỷ vu Khôn cục. Có lẽ đó chỉ là phương pháp giúp ta nhớ phương vị các số trong Lạc Thư, chứ chưa giải thích được chi về Lạc Thư. Một nhà bình giải Huỳnh đình Kinh cho rằng số 5 ở trung điểm là Thái Cực, Thái Nhất, 8 số bên ngoài là Bát Quái. Tất cả họp thành Cửu Cung. Hội ý trên, ta có thể giải Lạc Thư như sau: Số ngũ là Thái Cực. [9] Còn 8 số bên ngoài tượng trưng cho Bát Quái tức là Vạn Tượng Quần Sinh, là thế giới hiện tượng, hiện hữu. Sự thay bậc, đổi ngôi giữa hai cặp số 9/4 (Kim) và 7/2 (Hỏa), gây nên thế bất quân bình, mà khi đã mất thế quân bình, chắc chắn biến thiên chuyển động sẽ phát sinh. Đó là một định luật khoa học. [10] Kim Hỏa đổi ngôi gây nên điên đảo chuyển vận, cốt là dể đoàn luyện muôn vật cho nên tinh toàn, ý rằng Kim để rèn, mà Hỏa để luyện. [11] Âm Dương tương khắc cốt để gây nên biến thiên. Lạc Thư với sự đảo điên, dịch vị của Kim, Hỏa, sự tương khắc của Âm Dương là phản ảnh chân thực về thế giới hữu hình chúng ta, một thế giới đầy đảo điên, biến hóa. Y thức như Hóa công có ý dùng nghịch cảnh để phát huy tiềm năng, tiềm lực của vũ trụ, cũng như của con người, để vạn vật và con người càng ngày càng trở nên tinh thuần, cao khiết. Hơn nữa, Lạc Thư tuy chú trọng đến biến hóa bên ngoài, nhưng vẫn không quên khu nữu, quên Thái Cực bên trong. Và như trong Trời Đất có Thái Cực làm chủ chốt để điều hòa mọi biến thiên chuyển động, thì trong một quốc gia cũng phải có một vị Đế Vương, một vị Nguyên Thủ cầm rường mối chỉ huy. Vì vậy mà ở Trung điểm Lạc Thư có Thái Cực, trung điểm Hồng Phạm có Hoàng Cực. Thái Cực trong Lạc Thư tượng trưng cho Trời. Hoàng Cực trong Hồng Phạm tượng trưng cho vì Thiên Tử thay Trời trị dân. Đằng khác, có ít nhiều vị chân tu đắc đạo băng qua được các lớp lang hình tướng của vạn hữu, sống kết hợp với Thái Cực, Thái Nhất, đã mượn vị số của Lạc Thư để nói lên sự đắc đạo của mình; đại khái rằng mình đã vào được tâm điểm hoàn võ, vào được trong lòng Tạo Hóa. Tung tầm mắt bao quát tám hướng, thì thấy vạn tượng, vạn hữu triều phục, hỗ trợ chung quanh y như tay chân, vai vế; chẳng khác nào 8 số Âm Dương bao quanh số 5 Thái Cực ở giữa. Sách Chẩm Trung Kinh viết: Ta ở đơn phòng Bạn ta: Thái Nhất Tả ba, hữu bảy, Chín trước, một sau Hai bốn đằng vai Tám, sáu đằng chân Ta ở chính giữa. [12] Mới hay Lạc Thư đã chứa đựng cả một kho tàng văn hóa, chính trị và đạo giáo. [13] -------------------------------------------------------------------------------- CHÚ THÍCH [1] Tuy nhiên các học giả thường cho rằng Hà Đồ, Lạc Thư không có liên lạc gốc gác gì với nhau. [2] Người xưa gọi thế là Kim (9/4) cư hỏa (7/2) vị. Hỏa (7/2) cư Kim (9/4) vị. — Chu Dịch Xiển Chân, trang 3b. Hay nói văn vẻ là: Kim thừa Hỏa vị, Hỏa nhập Kim hương. — Chu Dịch Đại Toàn, trang 27a. [3] ... Hà Đồ chi số ngũ thập hữu ngũ...Lạc thư chi số, tứ thập hữu ngũ... tương hợp quát vi nhất bách chi số, vạn vật vạn tượng, chí vi, chí đại chi số, quân cùng ư thử hĩ. 河 圖 之 數 五 十 有 五... 洛 書 之 數 四 十 有 五... 相 合 适 為 一 百 之 數, 萬 物 萬 象, 至 微, 至 大 之 數, 均 窮 於 此 矣. — Nhiệm Ứng Thu - Âm Dương Ngũ Hành. [4] Ngọc Trai Hồ thị viết: Tam đồng giả: Đồ Thư chi nhất, lục giai tại Bắc; tam bát giai tại Đông; Ngũ giả tại trung. Tam giả chi vị số giai đồng dã. Nhị dị giả: Đồ chi nhị thất tại Nam, nhi Thư tắc nhị thất tại Tây; Đồ chi tứ cửu tại Tây, nhi Thư tắc tứ, cửu tại Nam. Nhị giả chi vị số giai dị dã. 玉 齋 胡 氏 曰: 三 同 者: 圖 書 之 一, 六 皆 在 北; 三 八 皆 在 東; 五 者 在 中. 三 者 之 位 數 皆 同 也. 二 異 者: 圖 之 二 七 在 南, 而 書 則 二 七 在 西; 圖 之 四 九 在 西, 而 書 則 四 九 在 南. 二 者 之 位 數 皆 易 也 . — Chu Dịch Đại Toàn, trang 20b. [5] Cái Dương bất khả dịch, nhi Âm khả dịch... 蓋 陽 不 可 易 而 陰 可 易 .— Chu Dịch Đại Toàn, trang 20b. [6] Thiệu Tử viết: Viên giả tinh dã; lịch kỷ chi số kỳ triệu ư thử hồ? Phương giả thổ dã. Hoạch châu, tỉnh địa chi pháp kỳ phỏng ư thử hồ. 邵 子 曰: 圓 者 星 也; 歷 紀 之 數 其 兆 於 此 乎? 方 者 土 也. 畫 州, 井 地 之 法 其 倣 於 此 乎.— Chu Dịch Đại Toàn, trang 18a. [7] Ta có thể nói được ở Hà Đồ thì Thái Cực là 5 + 10 = α + ω Ở Lạc Thư thì Thái Cực là 5 = α Còn số 10 sẽ có nhờ sự phối hợp Âm Dương bên ngoài vì: 1 + 9 = 10; 2 + 8 = 10 3 + 7 = 10; 4 + 6 = 10 Và sự thành tựu của vũ trụ chỉ có, khi nào hóa giải được hết các mâu thuẫn, đem lại được sự hòa hợp giữa mọi phần tử; chỉ khi ấy mới gọi được là 10 phân vẹn 10. [8] Thái Nguyên định thuyết: 蔡 元 定 說 Cửu cung chi số 九 宮 之 數 Tải cửu lý nhất 載 九 履 一 Tả tam hữu thất 左 三 有 七 Nhị tứ vi khiên 二 四 為 肩 Lục bát vi túc, 六 八 為 足 Ngũ cư trung ương 五 居 中 央 Qui bối chi tượng dã. 龜 背 之 象 也 Dịch Tiết Đồ Thư dẫn, Nhiệm ứng Thu, Âm Dương Ngũ Hành, trang 48, (Phụ lục: Hà Đồ, Lạc Thư thiển thuyết) [9] Trung ngũ hựu tượng Thái Cực. 中 五 又 象 太 極 .— Chu Dịch Xiển Chân (Lạc Thư). [10] Đó là nguyên lý thứ II về nhiệt lực học của Carnot-Clausius: Nguyên lý này đại khái như sau: Năng lực chỉ có thể tác dụng khi biến động, tức là khi gặp một sự chênh lệch (gây nên bởi địa thế, nồng độ, mật độ, nhiệt độ v.v. Nói cách khác, muốn biến thiên chuyển dịch, cần mất thế thăng bằng, cần có sự chệch lệnh. Càng mất thăng bằng, càng biến thiên, càng tác động mạnh. Một động lực khi đã biến thiên tác dụng, không thể tự nhiên mà phục hồi được phong thái nguyên thủy... — Lecomte du Noüy và Học Thuyết Viễn Đích của tác giả, trang 113. [11] Hỏa dĩ luyện chi, Kim dĩ hình chi, cố Kim cư Hỏa vị, Hỏa cư Kim vị. Kim Hỏa đồng cung, nhi vạn vật vô bất tạ lại đào dung thành tựu hĩ. 火 以 煉 之, 金 以 形 之, 故 金 居 火 位, 火 居 金 位. 金 火 同 宮, 而 萬 物 無 不 藉 賴 陶 熔 成 就 矣 .— Chu Dịch Xiển Chân, Lạc Thư, trang 3b. [12] Ngô cư Đơn phòng. Thái Nhất vi ngô ngẫu. Tả tam hữu thất, Tải cửu lý nhất. Nhị tứ vi ngô kiên, lục bát vi ngô túc. Ngô cư trung cung, dĩ vi phúc thực. 吾 居 丹 房. 太 一 為 吾 偶. 左 三 右 七. 載 九 履 一. 二 四 為 吾 肩. 六 八 為 吾 足. 吾 居 中 宮. 以 為 腹 實 .— Chẩm Trung Kinh, trang 1. [13] Le dialogue qui ouvre le Hong Fan exprime assurément l'idée que l'aménagement de l'Univers implique une répartition des choses et des hommes laquelle peut se traduire tout aussi bien par un arrangement en 9 Rubriques (Lạc Thư Hồng Phạm) que par une distribution en 5 Eléments (Hà Đồ). — Marcel Granet, La Pensée Chinoise, page 168. ... Quant au Lo Chou, le diagramme qui prétend le restituer, s'inspire des données formellement attestées dès l'époque des Han...Les 9 premiers nombres y sont disposés en carré magique (autour de 5), ainsi qu'on pourrait le prévoir pour un tableau du monde offert (par l'intermédiaire d'une tortue) à un Héros qui divisa la Terre (carrée) en 9 Régions. — Ib page 178. -------------------------------------------------------------------------------- Chương 4. Ảnh hưởng Lạc Thư với các vấn đề quốc gia, xã hội, học thuật Trung Quốc Lạc Thư rất quan trọng, vì đã được đem áp dụng vào nhiều lãnh vực, khoa học, chính trị, đạo giáo Trung Hoa. Cửu Phong Thái thị nói: Hà Đồ thể tròn mà dụng vuông, Lạc Thư thể vuông mà dụng tròn. [1] Hà Đồ sinh bát quái. Bát quái tượng Âm Dương nên phải chẵn mới phát biểu được ý nghĩa phối ngẫu và đối trĩ. Lạc Thư sinh Cửu Trù, mà Cửu Trù là số Ngũ Hành biến hóa, nên phải lẻ để ngụ ý vận động. [2] Cho nên mới có các chuyện kỳ lạ là Hà Đồ thì có nhiều liên lạc với con số 6, còn Lạc Thư lại gắn bó với con số 9. Trong thiên Hà Đồ chúng ta đã thấy tầm quan trọng của số 6 trong lịch số, nay chúng ta sẽ chứng minh tầm quan trọng của số 9 trong cách phân châu, phân dã ở Trung Hoa. 1. Lạc Thư có 9 số, tượng trưng 9 cung Một ở Trung ương làm khu nữu, chủ chốt Tám ở chung quanh hàm ngụ ý nghĩa biến thiên, phụ bật. Tiên Hiền Trung Quốc đã nhân Lạc Thư mà tổ chức phân phối Trời, Đất, Người như sau: Về thiên văn, vòm trời được chia làm 9 miền gọi là Cửu Cung, hay Cửu Dã như sau: Dương thiên Viêm thiên Chu thiên Thương thiên Quân thiên Hạo thiên Biến thiên Huyền thiên U thiên [3] 2. Chia Trung Hoa thành 9 châu Chiếu vào địa đồ, ta thấy vị trí các miền xưa đại khái như sau: [4] Nhờ cách phân châu, phân dã trên Trời, dưới Đất thành 9 miền, nên các nhà Thiên Văn Học Trung Hoa định được chòm sao nào chiếu vào miền nào, và mỗi khi có hiện tượng lạ trên trời, sẽ biết được miền nào dưới đất chịu ảnh hưởng. 3. Đế đô Trung Quốc được chia thành chín vùng theo kiểu Lạc Thư như sau: [5] Khu dân cư Chợ Khu dân cư Dân cư Vương cung Xã miếu Khu dân cư Xã miếu Triều đình Khu dân cư 4. Tòa Minh Đường của nhà vua được chia thành 9 phòng như sau: [6] Cá (là 1 khu vực) Minh Đường Cá (là 1 khu vực) Thanh Dương Thái thất Thái miếu Tổng chương Cá (là 1 khu vực) Huyền Đường Cá (là 1 khu vực) 5. Chia đất cho dân thành 9 khoảnh: Kỳ lạ hơn nữa là phép tỉnh điền tuy có từ thời vua Hoàng Đế (2697 - 2597), nhưng cũng rập theo khuôn mẫu Cửu Cung và được phân phối như sau: Trăm mẫu Trăm mẫu Công điền Trăm mẫu Trăm mẫu Mỗi Tỉnh có tám nhà ở chung quanh; mỗi nhà được 100 mẫu ruộng; ở giữa là Công điền có giếng nước (Tỉnh). Tám nhà chung quanh phải góp sức làm 100 mẫu Công điền ở giữa để nộp cho nhà vua. Còn hoa lợi thì được hưởng cả. Đó là phép Triệt Điền.[7] 6. Chia não bộ con người thành 9 cung như sau: Thiên Đình, Cực Chân, Đơn Huyền; Minh Đường, Nê Hoàn: Thiên Tâm, Thái Hoàng; Động Phòng, Lưu Châu, Đế Ất. [8] Tính Mệnh Khuê Chỉ vẽ Cửu Cung trong đầu đại khái như sau: [9] Có cái lạ là y học cổ Âu Châu cũng chia óc não và các xoang não bộ thành cung thất. Hiện nay ta còn thấy những chữ não thất 3 (3è ventricule), não thất 4 (4è ventricule) v.v... Hơn nữa chữ Thalamus theo từ nguyên cũng chính là Động Phòng. [10] Thế mới hay Cửu Cung của Lạc Thư đã trở thành nòng cốt cho công cuộc khảo sát Thiên Văn, Địa Lý, Nhân Sinh. So lại các đồ bản: Lạc Thư, Thiên Văn, Địa Lý, Nhân Sinh, Cửu Cung, Cửu Dã, Minh Đường, Tỉnh Điền v.v..., ta thấy Trung Cung, Trung Điểm lúc nào cũng dành cho Thái Cực, hoặc là cho Thiên Tử, cho Vương Cung, Vương Điền; còn ở nơi con người thì Trung Cung tượng trưng cho Nê Hoàn hay Huyền Quan Nhất Khiếu. Như vậy Trung Điểm, Trung Cung thật là tối trọng. Suy ra, thì bất kỳ trên trời, dưới đất, trong người, đã có biến thiên, là phải có chủ chốt. Kinh Dịch cho rằng trên trời, dưới đất, trong người, chủ chốt huyền vi ấy chỉ có một: đó là Thái Cực... -------------------------------------------------------------------------------- CHÚ THÍCH [1] Cửu Phong Thái Thị viết: Hà Đồ thể viên nhi dụng phương, Lạc Thư thể phương nhi dụng viên. 九 峰蔡 氏 曰: 河 圖 體 圓 而 用 方, 洛 書 體 方 而 用 圓.— Chu Dịch Đại Toàn, trang 18a. [2] Quải giả Âm Dương chi tượng dã. Trù giả Ngũ Hành chi số dã. 卦 者陰 陽 之 象 也. 疇 者 五 行 之 數 也. —Chu Dịch Đại Toàn, trang 18a. [3] Xem Từ nguyên nơi chữ Cửu Thiên. Cửu Thiên này là theo tài liệu của Lã Thị Xuân Thu. Hoài Nam tử cũng chủ trương tương tự. Sách Thái Huyền hoặc Đại Đỗng Chân Kinh lại gọi Cửu Thiên bằng những tên khác. Đại Đỗng chú Cửu Thiên là: Thủy thanh, Thái thanh, Thủy đơn, Thái đơn, Thủy tố, Thái tố, Thủy huyền, Thái huyền, trung ương Đại Phạm... —Đại Đỗng Chân Kinh Thượng, trang 5. [4] Cf. P. Angelo Zottoli S.I. Cursus Litteraturæ Sinicæ, Tabula 1a -Mappa ante Tcheou. [5] Tài liệu của P. Angelo Zottoli S.J. trong quyển Cursus Litteraturæ Sinicæ,Tabula VI Agricultura. [6] Minh Đường là nơi xưa vua ngự để thông cảm với thần minh, bắt chước vừng Dương vận chuyển để soi sáng cho trái đất, tuyên bố nguyệt lệnh, lịch kỷ v.v.. Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, vua tùy thời mặc phẩm phục xanh, đỏ, trắng, đen, luân phiên ngự tại các cung Thanh Dương, Minh Đường đến Tổng Chương, Huyền Đường. Sau Ngày Hạ chí, vua mặc áo Huỳnh bào, vào ngự tại trung cung Thái Miếu. Như vậy theo đúng chiều Ngũ Hành tương sinh: Thanh Dương (Mộc), Minh Đường (Hỏa), Thái Miếu (Thổ), Tổng Chương (Kim), và Huyền Đường (Thủy) v.v... — Marcel Granel, La Pensée Chinoise các đoạn: Le Temps et l'Es- pace (từ trang 86-114), và đoạn Les Nombres (từ trang 49 đến 208). [7] Phép Tỉnh Điền đã được thiết lập từ thời Hoàng Đế (2697- 2597). - Leon Wieger, Textes Historiques, Tome I, trang 2 - Angelo Zottoli, Cursus Litteraturæ Sinicæ, Tabula VI Agricultura. -Séraphin Couvreur, Les Annales de la Chine, page 401. [8] Đầu hữu cửu cung, trung hữu Nê hoàn. 頭 有九 宮, 中 有 泥 丸. —Đại Đỗng Chân Kinh, trang 7a. [9] Xem Tính Mệnh Khuê Chỉ quyển Nguyên trang 8b. [10] Constitutio Apostolica (Munificentissimus Deus) de Pie XII... Oportebat sponsam Quam Pater desponsaverat in thalamis coelestibus habitare (Il fallait que l'épouse que le Père avait épousée habitât dans la chambre nuptiale céleste. —C.J. Jung, Réponse à Job, page 216. -------------------------------------------------------------------------------- Chương 5. Lạc Thư và Toán học Các số Lạc Thư xếp vào Cửu Cung thành một ma phương (carré magique). Gọi là ma phương, vì ngang dọc xuôi ngược, chéo, góc, phía nào cộng lại cũng đều thành 15, hơn nữa ma phương còn biến hóa ra nhiều hình thức mới, bằng cách hoán chuyển các con số. Ví dụ ma phương trên còn có thể biến hóa như sau: 2 7 6 4 3 8 2 9 4 9 5 1 9 5 1 7 5 3 4 3 8 2 7 6 6 1 8 8 3 4 6 7 2 6 1 8 1 5 9 1 5 9 7 5 3 6 7 2 8 3 4 2 9 4 8 1 6 3 5 7 4 9 2 Ma phương có nhiều loại: 3 x 3 = 9 ô 5 x 5 = 25 ô hoặc có: 7 x 7 = 49 ô 9 x 9 = 81 ô 27 x 27 = 529 ô v.v... 4 x 4 = 16 ô 6 x 6 = 36 ô hoặc có: 8 x 8 = 64 ô 10 x 10 = 100 ô v.v... Người Âu Châu và người Trung Đông cũng rất trọng ma phương. Họ gọi ma phương 9 ô là ma phương Thổ tinh (Zahal) vì chín số trong ma phương cộng lại là 45, trị số của chữ Zahal trong mẫu tự Ả Rập. Ma phương 4x4 = 16 ô là ma phương Mộc Tinh (Jupiter); ma phương 5x5 = 25 ô là ma phương Hỏa Tinh; ma phương 6x6 = 36 ô là ma phương Thái Dương; ma phương 7x7 = 49 ô là ma phương Kim Tinh; ma phương 8x8 = 64 ô là ma phương Thủy Tinh; ma phương 9x9 = 81 ô là ma phương Thái Âm v.v... [1] Ví dụ vài ma phương thông thường, để độc giả tiện đường khảo sát: Ma phương 4 x 4 ô Ma phương 5 x 5 ô 1 15 14 4 1 18 10 22 14 12 6 7 9 20 7 24 11 3 8 10 11 5 9 21 13 5 17 13 3 2 16 23 15 2 19 6 12 4 16 8 25 S = 34 S = 65 Ma phương 6 x 6 ô 1 35 4 33 32 6 12 8 28 27 11 25 24 17 15 16 20 19 13 23 21 22 14 18 30 26 9 10 29 7 31 2 34 3 5 36 S = 111 Ma phương 7 x 7 ô 46 1 2 3 42 41 40 45 35 13 14 32 31 5 44 34 28 21 26 16 6 7 17 23 25 27 33 43 11 20 24 29 22 30 39 12 19 37 36 18 15 38 10 49 48 47 8 9 4 S = 175 Ma phương 8 x 8 ô 1 63 62 4 5 59 58 8 56 10 11 53 52 14 15 49 48 18 19 45 44 22 23 41 25 39 38 28 29 35 34 32 33 31 30 36 37 27 26 40 24 42 43 21 20 46 47 17 16 50 51 13 12 54 55 9 57 7 6 60 61 3 2 64 S = 260 Người xưa coi ma phương như là linh phù và kính trọng ma phương 9 ô nhất. Người Ả Rập trọng ma phương này vì tổng số 9 ô là 1 + 2 + 3 + 4 + 5 + 6 + 7 + 8 + 0 = 45, mà 45 là trị số của chữ Zahal (Thổ Tinh) trong tiếng Ả Rập. Những người Do Thái, chuyên khảo sách Talmud, trọng ma phương này vì số 15 là trị số của chữ JAH tức là Thượng Đế. [2] Người Á Đông trọng ma phương này vì 5 và 15 đều tượng trưng cho Thái Cực, cho Trời. Vì vậy mà Lạc Thư hay ma phương 9 ô vẫn được coi là thần bí. Các học giả Âu Châu cho rằng ma phương Lạc Thư có liên quan đến chữ Vạn vì: 4 + 9 + 5 + 1 + 6 = 25 2 + 9 + 5 + 1 + 8 = 25 2 + 7 + 5 + 3 + 8 = 25 4 + 3 + 5 + 7 + 6 = 25 Mà 25 chẳng qua là 52. Cho nên dẫu Lạc Thư hay chữ Vạn, hai bên cũng đều chỉ bản thể và hiện tượng của vũ trụ. [3] -------------------------------------------------------------------------------- CHÚ THÍCH [1] Mackey's Revised Encyclopedia of Freemasonry. Vol. II, mục Magic, trang 611. -W.S. Andrews, Magic squares and cubes các trang 1, 2, 4, 13, 18, 20, 25, v.v... [2] Mackey's Revised Encyclopedia of Freemasonry, Quyển II nơi chữ Magic trang 611. [3] Cf. Marcel Granet, La Pensée Chinoise, page 197. -------------------------------------------------------------------------------- Chương 6. Lạc Thư và chính trị Lạc Thư đã giúp Đại Võ và Cơ tử lập ra Hồng Phạm Cửu Trù, một hiến chương dùng để trị quốc, an bang. Từ nguyên có ghi: Hồng Phạm Cửu Trù là phương pháp đại qui mô để cai trị thiên hạ. Hồng Phạm Cửu Trù gồm 9 chương: 1. Ngũ Hành 4. Ngũ kỷ 7. Kê nghi 2. Ngũ sự 5. Hoàng cực 8. Thứ trưng 3. Bát chính 6. Tam đức 9. Ngũ phúc Chín chương Hồng Phạm gồm tất cả 55 tiết, ứng với số 55 của Hà Đồ. Hồng Phạm Cửu Trù là hiến chương căn bản dạy đấng quân vương cách thay Trời trị dân. Hình vẽ dưới đây giúp ta hiểu rõ liên lạc giữa Lạc Thư và Hồng Phạm Cửu Trù: Ta có thể tóm tắt Hồng Phạm bằng những ngôn ngữ thông thường ngày nay như sau: 1. Ngũ Hành Đấng quân vương phải am tường vật lý, phải biết khai thác hết tài nguyên của đất nước để lo cho dân no ấm. 2. Ngũ Sự Đấng quân vương phải biết phương pháp tu thân. a. Giáng điệu phải nghiêm trang, kính cẩn. b. Nói năng phải hợp lý. c. Trông nhìn phải cho sáng suốt. d. Nghe ngóng phải cho tinh tế. e. Nghĩ ngợi phải cho thấu triệt. Được như vậy, đấng quân vương sẽ trang nghiêm, oai vệ, lý sự, đàng hoàng, khôn ngoan, sáng suốt, tinh tường, mưu lược, thánh thiện, đạo đức. 3. Bát chính Đấng quân vương phải biết phương pháp trị dân. Cương lĩnh trị dân gồm 8 điểm, trị dân là lo cho dân: 1 - No ấm 2 - Sung túc, đủ tiện nghi 3 - Có lễ nghi, tế tự 4 - Có nhà cửa, đất đai 5 - Có một nền giáo hóa hẳn hoi 6 - Khỏi bị bọn gian ác, bất lương, quấy nhiễu. 7 - Biết đường tiếp nhân, xử thế 8 - Được bảo vệ tính mạng và tài sản, thoát nạn ngoại xâm nhờ binh hùng, tướng mạnh của nhà nước. 4. Ngũ Kỷ Đấng quân vương phải am tường ý nghĩa của Năm; Tháng; Ngày; sự vận chuyển của Nhật Nguyệt, tinh cầu; Lịch số. Như vậy, mới có thể dạy dân biết cách điều hòa công tác cho hợp thời, hợp tiết, để được ấm no, thịnh vượng; cho trời, đất, người cùng hòa tấu một bản nhã ca thanh bình, thái thịnh. 5. Hoàng Cực Đấng quân vương sẽ ở ngôi Hoàng Cực thay Trời trị dân. Muốn được vậy, phải có đức hạnh tuyệt vời, siêu phàm, thoát tục, xứng đáng làm môi giới giữa Trời và muôn dân. 6. Tam Đức Thuật trị dân phải dựa vào ba đức: Chính trực, Cương, và Nhu. Nói thế, tức là muốn trị dân, chính trực chưa đủ, còn phải biết cương, nhu, quyền biến, tùy thời. 7. Kê Nghi Đấng quân vương phải biết suy nghĩ, bàn bạc, hỏi han khi gặp trường hợp nan giải. Đứng trước một công việc trọng đại, sẽ hội ý kiến của nhà vua, của khanh sĩ, thứ dân, của Trời (bằng cách bói thi, qui). Phối kiểm lại, sẽ biết thế nào là tốt, thế nào là xấu, và tìm ra được đường lối đẹp đẽ nhất để xử sự. 8. Bát Trưng Đấng quân vương phải nhân các điềm Trời mà soát xét lại đường lối cai trị của mình; xem tuần tiết, độ lượng gió mưa, nóng lạnh của Trời mà suy ra mình đã cai trị hay, hay dở. Lý do là vì đấng quân vương, đúng danh hiệu, sẽ cảm ứng được với Đất Trời, và hiểu được tiếng nói thầm lặng của Đất Trời, qua các biến thiên của thời tiết. Ví dụ: Nếu thấy quanh năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt rồi rào, thì biết cách cai trị dân nước đã khôn khéo, dân thịnh, nước yên. Nếu quanh năm, thời tiết gàng quải, lúa má hư hao, thì chắc là việc trị dân đã tối tăm, kém cỏi, dân suy, nước khổ. 9. Ngũ Phúc, Lục Cực Đấng quân vương phải nhìn vào tình cảnh nhân dân để nhận định giá trị nền cai trị của mình. Nếu cai trị hay, dân chúng sẽ hưởng được ngũ phúc: thọ, giàu, yên vui, ham chuộng nhân đức, chết già yên ổn. Nếu cai trị dở, dân sẽ lao lung, tật bệnh, tảo vong, yểu tử, khổ sở, bất lương. Thế là lâm vòng lục cực: chết non, bệnh tật, lo buồn, nghèo khổ, tội ác, yếu ớt. Kinh Thư viết: Người xưa có lời rằng: Con người chẳng những soi bóng nước, Còn phải ngắm mình trước gương dân. [1] Mục đích của nền Thiên trị theo Hồng Phạm Cửu Trù chính là để: Tạo cho mọi người dân một đời sống vật chất, đầy, đủ, một bảo đảm an ninh tối đa, một nền học vấn khả quan, một đời sống xã hội công bình trật tự, một nền giáo hóa hẳn hoi. Như vậy, mọi người đều có cơ hội và hoàn cảnh thuận tiện để tu luyện bản thân, trở nên thánh thiện, chẳng khác gì vị Thiên tử. [2] Tổng kết lại, Hồng Phạm Cửu Trù thực là một hiến chương, một học thuyết chính trị có đầu đuôi, mạch lạc và đã được thực thi bởi các vị Thánh Vương Trung Quốc. Đó là Lạc Thư áp dụng vào phạm vi chính trị vậy. [3] -------------------------------------------------------------------------------- CHÚ THÍCH [1] Cổ hữu ngôn viết: Nhân vô ư thủy giám Đương ư dân giám. 古 有 言 曰 人 無 於 水 監 當 於 民 監. — Kinh Thư, Tiểu Cáo, tiết 12. [2] Hội kỳ hữu cực, qui kỳ hữu cực. 會 其有 極 歸 其 有 極. — Kinh Thư Hồng Phạm. [3] Xin đọc quyển Khổng Học Tinh Hoa của tác giả, trong đó đã bàn giải cặn kẽ về Hồng Phạm Cửu Trù. -------------------------------------------------------------------------------- Chương 7. Lạc Thư và phương pháp khắc kỷ tu thân qui nguyên phản bản của các Đạo gia Các đạo gia vì chuyên lo tu luyện bản thân, nên nhân Lạc Thư mà suy ra những cơ cấu tâm linh cũng như các phương pháp hữu hiệu để sửa sang chếch mác, dở dang trong tâm hồn, ngỏ hầu qui nguyên phản bản. Về phương diện nhận thức Triết học, các ngài dựa vào Hà Đồ, Lạc Thư, nhận định trong con người có hai phần Âm Dương. Ấy là Nhân tâm và Đạo tâm, ấy là Người và Trời. Trời hay Đạo tâm gồm có: 1. Ngũ Nguyên: a. Nguyên tính, b. Nguyên thần, c. Nguyên tình, d. Nguyên tinh, e. Nguyên khí. 2. Ngũ Đức: a. Nhân, b. Nghĩa, c. Lễ, d. Trí, e. Tín. Nhân tâm hay con Người gồm có: 1. Ngũ Vật: a. Du hồn, b. Thức thần, c. Quỉ phách, d. Trọc tinh, e. Vọng ý 2. Ngũ Tặc: a. Hỉ, b. Lạc, c. Nộ, d. Ái, e. Dục. Ở Hà Đồ, 5 số chẵn bao giờ cũng kết đôi với 5 số lẻ. Các ngài suy ra rằng: trên bình diện lý tưởng, Nhân tâm và Thiên ý lúc nào cũng hợp nhất với nhau. Tức là, Thiên nhân hợp nhất, chí thành chí thiện. Ở Lạc Thư, trái lại các số Âm Dương, chẵn lẻ đều đứng riêng rẽ. Các ngài suy rằng: trên bình diện thực tế, nhân tâm thường xa cách với Thiên lý, gàng quải, chia phôi, y như phu thê phản mục, kẻ Nam người Bắc, quay lưng thay vì quay mặt lại với nhau. Ở Lạc Thư, chúng ta thấy Âm Dương, Ngũ Hành tương khắc. Các ngài suy ra rằng: nhân tình, nhân dục thường chống đối, thường đi ngược lại với Thiên Chân, Thiên Lý, vì thế nên mới có cảnh đảo điên thác loạn trong trần hoàn cũng như con người. Ở Lạc Thư, nếu chỉ quan sát vòng ngoài, ta thấy Âm khắc Dương. Các ngài suy ra rằng nhân tình, nhân dục trên bình diện thực tế đã lấn át, đã che lấp mất Thiên Lý, Thiên Chân, nên tính Trời không thể phát huy; Ngũ Nguyên, Ngũ Đức hầu như đã thoái vị, để cho Ngũ Tặc, Ngũ Vật nhảy ra chấp chính, rông rỡ làm càn. Các ngài mô tả sự rối loạn ấy bằng đồ bản Lạc Thư sau: Tuy nhiên, các ngài chủ trương rằng sự thác loạn, đảo điên này vẫn có thể sửa chữa được. Ta vẫn có cách dẹp nhân tình, nhân dục, cho vừng dương thiên tính, thiên đức hiện ra với vầng hào quang ngũ sắc: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Làm sao khắc phục được nhân dục, nhân tình? Muốn khắc phục nhân dục, nhân tình, các Đạo gia chủ trương chỉ cần áp dụng định luật Âm Dương tương khắc. Thay vì để cho Âm khắc Dương, Âm thắng Dương như trước, ta đảo lộn tình thế, nghĩa là làm sao cho Dương khắc Âm, Dương thắng Âm. Muốn chế ngự Ngũ Tặc, Ngũ Vật, nhân dục nhân tình, để Ngũ Nguyên, Ngũ Đức hiển dương, ta có đường lối nhất định, tuần tự hẳn hoi. Muốn Qui Nguyên Phản Bản, điều kiện tiên quyết là phải tin tưởng mãnh liệt rằng Thái Cực hay Trời ngự trị trong tâm khảm mình. Niềm tin sâu xa vững mạnh này sẽ làm tan biến hết mọi ưu tư sầu muộn, và làm cho thần trí trở nên sáng láng. [1] Thần trí sáng láng sẽ giúp con người phân biệt dở hay, tháo gỡ được tục lụy, không còn đắm đuối trong những thú vui vật chất hạ đẳng, mà chỉ yêu chuộng những lạc thú tinh thần cao thượng. Khi tâm hồn đã trở nên thanh khiết, thoát tục như minh nguyệt, thanh phong, con người sẽ uy nghi, trang trọng, phong thái thần tiên dần dần hiển lộ ra. [2] Khi đã lễ nghi trang trọng, khi phong thái thần tiên đã hiển lộ ra, tâm thần sẽ trở nên bình thản, và những sự giận hờn sẽ không còn cơ hội phát sinh. Mọi hành vi cử chỉ con người nhất nhất sẽ hợp nghĩa lý. [3] Đời sống khi đã khuôn theo nghĩa lý, con người sẽ trở nên nhân đức, hoàn thiện. [4]Đã nhân đức hoàn thiện, nhân dục sẽ tiêu ma và con người sẽ trở về Trung Cung, phối hợp cùng Thái Cực, cùng Thượng Đế. Đó là lẽ Phản Bản, Qui Nguyên và các lớp lang, tuần tự để tu thân, tiến đức mà các Đạo gia đã suy diễn ra từ Lạc Thư. Các ngài mô tả sự diễn tiến của công trình Khắc kỷ phục lễ, Qui Nguyên Phản Bản bằng đồ bản Lạc Thư với các lời chú thích sau đây: Tóm lại, đối với Đạo gia, nguyên động lực mãnh liệt nhất có thể hoán cải tâm hồn con người, đó là niềm tin vững mạnh có Thượng Đế ngự trị đáy lòng. Chỉ khi nào nhìn nhận ra có Thượng Đế, có Thái Cực ở trong tâm khảm mình, bấy giờ con người mới có thể thực sự vươn lên, thực sự hoán cải tâm hồn để trở về kết hợp cùng Thượng Đế. Sau khi khảo sát quan niệm của Đạo gia về Lạc Thư và cách áp dụng Lạc Thư vào công cuộc khắc kỷ, tu thân, ta thấy quan niệm ấy hoàn toàn khác biệt với quan niệm Nho Gia và các chính trị gia Trung Quốc về Lạc Thư. Nhưng sự khác biệt này chỉ có lợi cho ta, giúp ta hiểu thêm về tâm hồn con người, cũng như về phương pháp tu thân của người xưa. Mới hay Lạc Thư thực là một ma phương biến hóa khôn cùng. Mà biến hóa thế nào theo chiều hướng nào cũng thấy đầy lý sự, thích thú. -------------------------------------------------------------------------------- CHÚ THÍCH [1] Thử Tín nhất phục, Mậu Thổ phát hiện, nội hữu chủ tể, vạn duyên giai không, chư lự câu tức. Tắc bất ai nhi sinh trí. Thị Mậu Thổ khắc Quí Thủy, nhi Thủy phản Dương hĩ. 此 信一 復, 戊 土 發 現, 內 有 主 宰, 萬 緣 皆 空, 諸 慮 俱 息. 則 不 哀 而 生 智. 是 戊 土 剋 癸 水, 而 水 返 陽 矣.— Chu Dịch Xiển Chân, Lạc Thư. [2] Trí bất Vọng dụng, vô tham vô cầu, tâm bình khí hòa, tắc lạc chân nhi hữu lễ. Trí trung xuất lễ, thị Nhâm Thủy khắc Đinh Hỏa, nhi Hỏa phản Dương hĩ. 智 不 忘 用, 無 貪 無 求,心 平 氣 和, 則 樂 真 而 有 禮. 智 中 出 禮, 是 任 水 剋 丁 火, 而 火 返 陽 矣 .— Chu Dịch Xiển Chân, Lạc Thư. [3] Lễ bản ư trí, hòa nhi bất đồng, phi lễ bất lý, táo khí tất hóa, tắc bất nộ nhi thành nghĩa. Lễ trung xuất nghĩa, thị Bính Hỏa khắc Tân Kim, nhi Kim phản Dương hĩ. 禮 本於 智, 和 而 不 同, 非 禮 不 履, 燥 氣 悉 化, 則 不 怒 而 成 義. 禮 中 出 義, 是 丙 火 剋 辛 金, 而 金 返 陽 矣. — Chu Dịch Xiển Chân, Lạc Thư. [4] Nghĩa bất quá thiên, thông quyền đạt biến, tuần qui đạo củ, tắc hỉ Thiện nhi tàng Nhân. Nghĩa trung sinh Nhân thị Canh Kim khắc Ất Mộc, nhi Kim phản Dương hĩ. 義 不過 偏, 通 權 達 變, 循 規 蹈 矩, 則 喜 善 而 藏 仁. 義 中 生 仁 是 庚 金 剋 乙 木, 而 金 返 陽 矣 .— Chu Dịch Xiển Chân, Lạc Thư. -------------------------------------------------------------------------------- Chương 8. Ảnh hưởng Lạc Thư trong ít nhiều nước Á Âu Lạc Thư được truyền thụ ở cả Á lẫn Âu, không phải dưới hình thức nguyên thủy, mà dưới hình thức ma phương. Ở nhiều nơi, như ở Do Thái, ở các nước Ả Rập, ma phương này được coi như là một đạo linh phù. Nhiều học giả Âu Châu bình rằng số 15 sở dĩ được người Á Đông kính trọng vì số 15 là biểu tượng Thượng Đế. 15 = JAH Trong Lạc Thư ta nhìn phía nào cũng được 15.[1] Ở Ba Tư người ta có những kiểu vườn gọi là vườn Trung Hoa. Trong vườn có một vọng đình, để chủ nhân ra trầm tư, mặc tưởng. Vọng đình trông ra một cảnh hồ nước. Giữa hồ có một hòn đảo hình thần qui mệnh danh là Vạn Phước Sơn; trên đó có trồng nhiều hàng thông theo các số của Lạc Thư. Người ta chỉ có thể từ vọng đình, quan chiêm đảo Vạn Phước, nhưng không có phương tiện để đi vào. [2] René Grousset cho rằng số 5 ở chính giữa ma phương là một con số đã được cả người Trung Hoa lẫn người Hồi Giáo và Ba Tư lưu tâm khảo cứu. [3] Ghazali cho rằng ma phương Lạc Thư là một kỳ quan mà ông đã gặp được trong đời. Người Nhật cũng có loại vườn Trung Hoa này, nhưng lại bắc cầu để đi vào đảo. Thực ra, người Trung Hoa vốn nghĩ rằng đảo này không phải ai cũng có thể vào. Muốn bước chân lên đảo, con người phải có phong thái đặc biệt... Nếu ta hiểu rằng số 5 là Thái Cực, là Trời, ma phương Lạc Thư với tổng số 15 là biểu tượng của Thượng Đế thì ta sẽ hiểu tại sao hòn đảo Vạn Phước Sơn có hình ma phương lại chỉ có thể ngồi xa mà lặng ngắm, chứ không thể tới gần, tại sao hòn đảo trong hồ này lại được mệnh danh là Vạn Phước Sơn. -------------------------------------------------------------------------------- CHÚ THÍCH [1] For fifteen was a sacred number among the Orientals, because the letters of the holy name Jah jy were in their numerical value equivalent to fifteen, and hence a figure in which the nine digits were so disposed as to make fifteen either way when added together perpendicularly, horizontally, or diagonaly, constitute one of their most sacred talismans. — Mackey's Revised Encyclopedia of FreeMasonry, Vol. II . Nơi chữ Winding, page 1,109. [2] Le plus ancien type de jardin est arrivé jusqu'en Perse, mais il venait de très loin: c'est le jardin chinois. Il consiste essentiellement en une perspective plongeante que la Chine a étudiée avec beaucoup de pénétration. Le maître du jardin est assis sur une terrasse devant un lac qui porte le nom de l'eau de l'éternelle aurore au millieu duquel s'élève une île inaccessible qui s'appelle La Sainte Montagne des mille béatitudes. Cette île est plantée de pins, en signe de longévité et elle a la forme d'une tortue car cet animal singulier représente dans la légende chinoise celui qui est sorti le premier de l'océan pour enseigner la science aux hommes au moyen d'un carré magique inscrit sur son dos par les rangées des pins. — René Grousset, Henri Massé, L'Âme de l'Iran, page 95 - 96. [3] De plus il est assez amusant de remarquer que le chiffre 5 est situé au milieu; or le 5 a toujours beaucoup intéressé les Chinois, et l'Islam et les Persans aussi d'ailleurs. Nous savons quel rôle important il a joué pour les gnostiques schiites... Ib p. 96. -------------------------------------------------------------------------------- Chương 9. Hà Đồ, Lạc Thư và hai chiều xuôi ngược biến hóa của vũ trụ và của nhân loại Như ta đã biết, Hà Đồ, Lạc Thư với một vài sự biến thiên, đảo lộn đã có hai chiều, hai hướng hoàn toàn đối nghịch với nhau. Lạc Thư đi theo chiều nghịch kim đồng hồ mà ta có thể gọi là chiều vật chất, chiều Âm, chiều sa đọa của tinh thần, chiều thoái giảm của năng lực. Hà Đồ đi theo chiều kim đồng hồ mà ta có thể gọi là chiều tinh thần, tức là chiều hóa giải, chiều thăng hoa . Con người lúc ấy sẽ bớt sa đọa. Hà Đồ, Lạc Thư đã xác định một định luật quan trọng chi phối vũ trụ, quần sinh. Đó là Định luật tụ tán, tiến thoái, thăng trầm. Suy ra: 1. Vũ trụ có tán (chiều Âm) có tụ (chiều Dương) 2. Vạn vật có thăng (chiều Dương) có giáng (chiều Âm) có hủy hoại rồi lại có tái sinh (chiều Dương). 3. Con người hoặc có thể tiến ra xã hội, ra ngoại cảnh để tổ chức, cải thiện xã hội ngoại cảnh, ra xác thân (chiều Âm), hoặc là có thể tiến sâu vào phía tâm thần để cải thiện, để tu luyện cho nên hoàn thiện, để tiến tới thần linh (chiều Dương). 4. Ta có thể coi chiều Lạc Thư là chiều Âm, chiều Vãng, chiều Hà Đồ là chiều Dương, chiều Lai, và như vậy vũ trụ sẽ mãi mãi tụ tán, lai vãng, vãng lai vô cùng, vô tận để chứng minh sự hiện hữu của một nguồn sinh bất diệt. Đó là lẽ vãng lai, phản phục của trời đất. Dịch kinh viết: Vãng lai bất cùng chi vị thông; Vô bình bất bí; Vô vãng bất phục. cũng không ngoài ý đó. Nhân hai chiều hai hướng của Hà Đồ, Lạc Thư ta có thể phác họa lại con đường vãng lai, phản phục của vũ trụ như sau: Như vậy, Hà Đồ, Lạc Thư giúp ta hiểu rõ chiều hướng biến hóa của vạn vật, vũ trụ, và có liên quan mật thiết đến Dịch Kinh. Lạ lùng thay, từ ngàn xưa, các bậc Thánh Hiền đã nhìn thấy hai chiều hướng của vũ trụ, mà mãi đến thế kỷ 20 này các Khoa Học Gia mới dần dần nhìn nhận ra được Chân lý này. Thực vậy, suốt thể kỷ 19, các nhà Khoa Học vẫn đinh ninh rằng vũ trụ chỉ có một chiều hướng tiến hóa, và chiều hướng tiến hóa này được chi phối bởi nguyên lý Carnot-Clausius. Theo nguyên lý này thì vũ trụ chỉ tiến theo có một chiều duy nhất là chiều suy giảm phá tán của năng lực và của tinh thần, để dần dà đi đến chỗ suy vong, ù lì, tĩnh lãng. [1] Lecomte du Noüy là một trong những nhà Khoa Học gần đây đã trực giác được hai chiều, hai hướng của vũ trụ. Trong Quyển Con Người Trước Khoa Học (L'homme devant la Science) và quyển Tương Lai Tinh Thần (L'avenir de l'Esprit) Ông đã cố chứng minh rằng Nguyên lý Carnot không hoàn toàn chi phối được các hiện tượng sinh lý. Ông chủ trương rằng vũ trụ phải có hai chiều, hai hướng, biến dịch, tiến hóa. Một chiều biến hóa theo các định luật vật chất, theo nguyên lý Carnot, một ngày một tiến tới bất động, ù lì, tối tăm, lạnh lẽo, hỗn loạn. Một chiều tiến hóa theo các định luật tinh thần, một ngày một tiến tới tinh vi, kỳ ảo linh động, sáng tươi, đẹp đẽ, hòa hợp. Khi tinh thần tiến tới tinh hoa tuyệt diệu, thì vật chất sẽ tiến tới giai đoạn hỗn loạn triệt tiêu. [2] Ô. Y Normand cũng chủ trương rằng vũ trụ biến hóa không thể theo một chiều, một hướng. Một chiều hướng rồi ra sẽ bế tắc, phải có hai hay nhiều chiều hướng thì chuyển dịch mới linh động được. [3] Ta có thể nói được rằng hai chiều, hai hướng biến hóa của vũ trụ ngày nay đã được các Khoa Học Gia thế kỷ 20 xác nhận với phương trình: E = mc2 Thế mới nay, nếu chúng ta biết cách phối kiểm nhận định của tiền nhân với các khám phá khoa học, và triết học tiên tiến ngày nay, ta sẽ thấy các khối óc siêu việt xưa và nay luôn gặp gỡ. -------------------------------------------------------------------------------- CHÚ THÍCH [1] Rappelons que le Principe de Carnot traduit la tendance le l'énergie à se dégrader ou à se dissiper, ce qui entraîne une augmentation de l'entropie, c'est à dire de l'extension spatiale de l'énergie au cours de ses transformations. — André Lamouche, La Destinée Humaine, page 49, note 16. ... L'énergie se dégrade et l'univers tend vers l'immobilité. ... C'est cette marche à sens unique toujours dans le sens de dégradation, qui justifie le nom de principe d'évolution par lequel on désigne souvent le second principe de Carnot. — Ib. page 95. [2] Ainsi la marche de l'univers physique dans la direction d'un chaos inerte et du néant sera compensée par la progression parallèle d'un univers impondérable, celui de l'Esprit dont l'ordre et la perfection naîtraient des cendres du monde matériel. — L'homme devant la Science - L'avenir de l'Esprit, page 293. [3] La thermodynamique de Carnot Clausius nous apprend que tout système isolé tend vers l'homogène et le statique. La biologie nous apprend que la conjugaison de deux ou plusieurs systèmes est la source unique de toutes les nouveautés, de toutes les naissances. Les deux messages ne sont pas contradictoires, ils sont complémentaires. Un système isolé est un système tué, il n'est pas étonnant de la voir évoluer en sens inverse des systèmes vivants. — Y. Normand (Paris) Science et Avenir Nc 237 Novembre 1966, page 780. -------------------------------------------------------------------------------- Chương 10. Tổng luận Khảo sát Lạc Thư, ta thấy nó có một địa vị quan trọng và một tầm ảnh hưởng lớn lao trong các lãnh vực văn hóa, chính trị, đạo giáo Trung hoa. Các Học giả thì dựa vào Lạc Thư mà phân chia Trời Đất và đầu não con người thành 9 miền, khu, để xác định giá trị mỗi miền, và nghiên cứu ảnh hướng hỗ tương. Các bậc Thánh vương thì nhân Lạc Thư suy ra một đường lối lý tưởng để trị quốc, an bang. Các Đạo gia thì từ Lạc thư lại suy ra được một đường lối Khắc kỷ, Tu thân, Qui Nguyên, Phản Bản. Dựa vào các lý thuyết khoa học bây giờ, ta có thể cho rằng Hà Đồ và Lạc thư còn cho ta thấy được hai chiều, hai hướng tiến hóa xuôi ngược của hoàn võ. Đứng về phương diện nhận thức siêu hình, Lạc Thư đã cho chúng ta thấy trong lòng vũ trụ biến thiên, điên đảo vẫn có Thái Cực, có Trời ẩn áo ngự trị, để điều khiển, hướng dẫn vạn sự vạn vật. Như vậy, Lạc Thư đã mặc khải cho chúng ta những điều hiểu biết rất là quan trọng. Sách Tham Khảo Anh văn: * Mackey's Revised Encyclopedia of FreeMasonry * Magic Squares and Cubes — W.S. Andrews * The Shoo King — James Legge La tinh: * Cursus Litteraturæ Sinicæ — P. Angelo Zottoli Pháp văn: * L'Âme de l'Iran — René Grousset * Les Annales de la Chine — Séraphin Couvreur * L'Avenir de l'Esprit — Lecomte du Noüy * La Destinée Humaine — André Lamouche * L'homme devant la Science — Lecomte du Noüy * La Pensée Chinoise — Marcel Granet * Réponse à Job — Carl J. Jung * Textes Historiques — Léon Wieger Hán văn: * Âm Dương Ngũ Hành — Nhiệm Ứng Thu * Chẩm Trung Kinh * Chu Dịch Đại Toàn * Chu Dịch Xiển Chân * Kim Đơn Đại Thành * Kinh Lạc Học Thuyết Giản Biên — Bắc kinh Trung Y học viện biên * Tân Nguyên Đạo — Phùng Hữu Lan * Tính Mệnh Khuê Chỉ * Từ Nguyên * Uyên Giám Loại Hàm * Văn Đạo Tử Giảng Đạo Tinh Hoa Lục
  9. Như vậy em giống anh rồi, hồi anh đang tuổi dậy thì cũng hay mơ như vậy, cảm giác rất kỳ quái, trong lúc mơ mọc răng và rụng răng thì cảm giác hai bên hàm tê cứng. Theo kinh nghiệm của anh thì khi cơ thể rất mệt mỏi và tâm lý không ổn định sẽ mơ như vậy. Cố gắng giữ sức khỏe ổn định, cơ địa vững vàng thì sẽ hết thôi. Nếu em có thể luyện bát đoạn cẩm, thái cực quyền, yoga vvv thì có thể xử lý triệt để vấn đề mơ mộng đó. Cheers!
  10. Đang sẵn dòng về Âm phù kinh, Amour thấy bài "Lữ tổ bách tự bi" cũng cùng nói về chủ đề "Đạo" nên đem vào đây chung: ----------------- LỮ TỔ BÁCH TỰ BI Tác giả: Lữ Động Tânchú: Trương Tam Phong Giải: Lục Tây Tinh Lữ Động Tân hiệu là Thuần Dương, là một trong Bát Tiên. Đây là bài được Lữ Thuần Dương dùng kiếm khí khắc trên vách đá Lư Sơn, tóm tắc diệu đạo tu chân,để quảng độ kẻ hữu duyên. PHẦN CHÁNH VĂN: Dưỡng khí vong ngôn thủ,Giáng tâm vi bất vi. Động tỉnh tri tông tổ, Vô sự cánh tầm thùy. Chân thường tu ứng vật, Ứng vật bất khả mê. Bất mê tính tự trú, Tính trú khí tự hồi. Khí hồi đan tự kết, Hồ trung phối khảm ly. Âm dương sinh phản phục, Phổ hoá nhất thanh bi. Bạch vân triều đỉnh thượng, Cam lộ sái Tu Di. Tự ẩm trường sinh tửu, Tiêu dao thùy đắc tri. Tọa thính vô huyền khúc, Minh thông tạo hóa cơ (ky). Đô lai thập nhị cú, Đoan đích thượng thiên thê. PHẦN CHÚ GIẢI: 1 “Dưỡng khí vong ngôn thủ,2 Giáng tâm vi bất vi.” CHÚ: Phàm người tu hành, trước nên dưỡng khí. Chú trọng ở chỗ quên nói và thủ nhất; quên nói thì khí không tán, thủ nhất thì thần không xuất. Khẩu quyết là chặn lấy cái lưỡi, im lặng không nói thì giữ được thần định tĩnh.Phàm tâm người ta khuấy động không ngừng. Người tu hành cần nhập tỉnh quý ở chế phục đôi mắt, vì mắt là cửa ngõ của tâm, nên buông mi nhắm lại. Câu quyết là lấy mắt nhìn mũi, lấy mũi nhìn rốn, trên dưới chặt chẽ, tâm và hơi thở theo nhau, để ý huyền quang, thì có thể giáng phục được tư lự. GIẢI: Người học đạo tu tiên lúc nhập môn nên lý hội hai chữ tính mạng. Tính có tính nguyên. mạng có mạng đế (đế là cuống). Tính nguyên cần thanh tĩnh, mạng đế cần kiên cố. Mạng đế vững thì nguyên khí xung, nguyên khí xung thì tinh tự dấy. Tính nguyên thanh thì nguyên thần định, thần định thì khí tự linh vậy.Cái gì là mạng đế? Đó là chân tức. Cái gì là nguyên tinh? Đó là tâm địa. Thầy ta dạy dưỡng khí giáng tâm, mà giữ quên nói tức là chân quyết dưỡng khí vậy. Chính ra “vong ngôn” không phải là bịt miệng lại không cho nói, mà là giữ tinh thần yên ổn, trầm lặng trước mọi tình cảnh. Nói “thủ” là giữ, mà giữ đây là giữ khí. Giữ ở đâu? Đạo Đức Kinh viết : “Nói nhiều nói hay cũng không bằng thủ trung” trung đây là nơi thần khí quy phục vậy. Đó gọi là khí huyệt, ngưng thần vào khí huyệt là “vong ngôn thủ trung”, là quy căn; đạo trường sinh bắt đầu từ chỗ đó.Còn “giáng tâm” là giáng phục cái vọng tâm. Người ta vốn chỉ có một tâm, nhưng vì có mê có giác mà chia ra vọng tâm và chân tâm. Người sinh ra mà tĩnh là tính của trời, cảm ở vật mà động là ham muốn của tình; đã có tham dục thì theo tình cảnh mà chuyển chân thành vọng. Vọng vốn không có hình thể, vốn do chân tâm mê hoặc mà ra, cho nên nay mà vô vi thì tất có chân kiến. Xem các pháp hữu vi đều như mộng, huyển, bào ảnh, hợp tan vô thường, nếu mà quên chúng được thì đó là tu chân trừ vọng vậy.3 “Động tĩnh tri tông tổ, 4 Vô sự cánh tầm thùy” CHÚ: Động tĩnh là một âm, một dương. Tông tổ là nơi sinh ra thân. Hành giã nên như lúc trước khi cha mẹ chưa sinh tức là huyền tẩn, trước khi trời đất chưa phân ra tức là Thái cực vậy.Động tĩnh là điều hòa chân khí, an lý chân nguyên. Thở ra là tiếp thiên căn, hít vào là tiếp địa căn; đóng là khôn, mở là kiền, thở thì rồng ngâm mây bốc, hít thì hỗ khiếu gió sinh; một đóng một mở, một động một tĩnh, quy ở tâm ý bất động, mặc cho hơi thở qua lại miên miên, đến khi kết thành phiến thì thần ngưng đan kết. “Vô sự phải cầu chi” là dưỡng khí quên nói, giáng phục thân tâm, thần vế khí huyệt, chú ý như gà ấp trứng, như rồng nuôi châu, nghĩ ở dó giây phút không rời, lâu ngày tự nhiên hiện ra hạt châu bằng hạt gạo, sáng lóe như mặt trời. GIẢI: Trên nói dưỡng khí giáng tâm là đạo vô vi, lại sợ người đời không biết ngoài ra còn có cái hữu tác, tức là thuật kéo dài mạng sống, cho nên khẩn thiết nêu ra hai chữ động tĩnh, cho người ta biết tông nhận tổ. Trong việc luyện đan, thái dược trong cái động, luyện đan trong cái tĩnh; nếu chỉ biết động mà không biết tĩnh thì nền tảng không dựng, không tích lũy tinh khí; còn nếu chỉ biết tĩnh mà không biết động thì thiên cơ không hợp, mất ý nghĩa luyện thuốc. Tóm lại , động là Tông, tịnh là Tổ. Tổ là tổ của tính, Tông là Tông của mạng, không động là không dựng được. Biết Tổ tính mà không tu định ở cung Ly, biết Tông mạng mà không cầu huyền ở cung Khảm. Biết cả hai mới là cứu cánh. Đã vô sự, vong ngôn mặc thủ, im bặt sự cơ, không nghĩ không làm, tịch nhiên bất động, thái nhiên đại định là thôi, lại còn tìm chi? Thầy ta nói tới đây đã đem gan ruột phơi bày rành rẽ đường lối luyện công, mà sao người đời không lĩnh ngộ, chỉ đọc phớt qua, thật là đáng tiếc!5 “Chân thường tu ứng vật 6 Ứng vật yếu bất mê” CHÚ: Học đạo chân thường khi tiếp ứng với sự vật, sẽ dễ bị mê hoặc, cho nên nếu phải tiếp vật thì đừng mê việc trần. Việc đến thì ứng, việc qua chẳng lưu, quang minh chính đạo, chân tính thanh tĩnh, nguyên thần ngưng kết. Khẩu quyết là: “Trước ý đầu đầu lẫn, Vô vi lại lạc không”. GIẢI: Cái gì gọi là chân thường? Đó là Tính tổ. Lấy cái gì để sáng? Phàm đã có tướng đều là hư vọng, sẽ có biến diệt chứ không lâu dài. Cho nên chân thường không phải là cái cùng đến với vật, không phải là cái cùng lìa với vật, mà là hay tĩnh hay ứng, thường tĩnh thường ứng mà thường không mê, đã chẳng mê thì ứng vật mới không mê mà chân tính hiện vậy. Đó là “luyện mình thuần thục thì đạo hữu vi mới có thể làm được”.7 “Bất mê tính tự trú 8 Tính trú khí tự hồi” CHÚ: Phàm thất tình như mừng, giận, buồn, thương, ghét, muốn, sợ đều biến thái vô thường, nhưng có xúc động nên phát sinh vọng tưởng, khó tĩnh được tính. Tất phải yên cơn giận thì hỏa mới giáng, ít ham muốn cho thủy được thăng. Thân không động là luyện tinh, luyện tinh thì hỗ khiếu, nguyên thần ngưng kết. Tâm không động là luyện khí, luyện khí là long ngâm, nguyên khí tồn thủ. Ý không động là luyện thần, luyện thần thì 2 khí tương giao, tam nguyên hỗn hợp, nguyên khí tự hồi. Tam nguyên đây là tinh, khí, thần. Nhị khí đây là âm dương. Hành giả ứng vật không mê thì nguyên khí tự qui, bản tính tự trú; tính trú tức khí tiên thiên tự về. Phục mạng qui căn có gì là khó đâu! Quyết rằng: “Hồi quang phản chiếu, Nhất tâm tự tồn. Nội tưởng bất xuất, Ngoại tưởng bất nhập.” GIẢI: Đối cảnh quên tình mới là đại định, cho nên nói “chẳng mê tính tự trú”. Tính trú mới có thể cầu diên, cho nên nói “tính trú khí tự hồi. Hồi nghĩa là quay về vậy. Tham Đồng Khế viết: “Kim trở về tính sơ mới được gọi là hoàn đan”. 9 “Khí hồi đan tự kết10 Hồ trung phối khảm ly” CHÚ: Hành giả tính không mê luyến việc trần thì khí tự hồi, bấy giờ khí thăng giáng trong cung, âm dương phối hợp ở đan đỉnh, chợt cảm thấy một luồng nóng ở trong thận xung lên tâm, tình trở về tính như vợ chồng phối hợp, như say, như si, 2 khí quyến luyến, kết thành đan chất, trong khí huyệt thủy hỏa tương giao, tuần hoàn không ngừng, bấy giờ thần ngự khí, khí lưu hình, bất tất dùng tạp thuật, tự nhiên được trường sinh. Quyết rằng: Tai, mắt, miệng tam bảo Vít chặt đừng khai thông Chân nhân lặng vực sâu Bơi lội giữa qui trung Suốt tới khí đầy đan điền Kết thành đao khuê vậy. GIẢI: Khí từ ngoài về, đan từ trong kết. Trong hồ là nơi đan dược ngưng kết. Khảm ly là quẻ tượng âm dương hỗ tàng. Diên, hống là tên riêng của thủy hỏa. Đan pháp lấy Ô (con quạ biểu tượng mặt trời), Thố (con thỏ biểu tượng mặt trăng) làm dược, tất phải lấy khảm điền ly, lấy diên đầu vào hống, hai thứ quân bình phối hợp vào trung cung, rồi long ngâm hỗ khiếu mà sản sinh huyền châu ở chính vị. Nói tự trú, tự hồi, tự kết, chủ yếu là diệu dụng tự nhiên, nếu dây vào tư ý tà ngụy là cách xa đạo vậy. 11 “Âm dương sinh phản phục, 12 Phổ hóa nhất thanh lôi” CHÚ: Công phu tới đây, thần không ngoại trì, khí không ngoại tiết; thần về khí huyệt, Ly Khảm đã giao, càng thêm mãnh liệt tiên tiến, trí hư tới cực, thủ tịnh rất bền. Thân tĩnh ở nơi diệu minh, tâm lắng ở nơi vô hà hữu, thì chân tức tự trú, bách mạch tự thông, nhật nguyệt ngưng chiếu, hoàn cơ không chạy. Thái cực tĩnh sinh động. Dương sản sinh ở Tây Nam Khôn vị, Khôn là bụng. Tất nhiên 1 điểm linh quang to bằng hạt gạo nếp, đó là tin tức báo điềm dược sinh, rực rỡ ánh sáng suốt thận, bàng quang như nước sôi, trong bụng như lữa đốt, như gió gào, như sấm dậy. Tức là quẻ Phục, thiên căn hiện vậy. Lúc này khí kim mạnh bức kim lưu hành qua Vĩ lư, nhẹ nhẹ vận chuyển, lẳng lặng đưa lên, một đoàn hỏa khí như sấm dậy thăng lên Nê hoàn. Tức quẻ Thiên phong cấu. Vòng qua Ấn đường, lọt ra nguyên quang. Thái cực động mà sinh âm, hoá thành thần thủy cam lộ. Trong có hạt châu bằng hạt gạo rơi vào Huỳnh đình, điểm vào linh hống ở cung Ly, kết thành Thánh thai, lưu hành hỏa hậu châu thiên một độ, phanh luyện thành linh đan tự kết vậy. GIẢI: Mười chữ này kỳ diệu không thể nói hết. “Âm dương phản phục” là đại ý luyện đan. “Phổ hóa lôi thanh” là bí quyết luyện đan, thiên cơ bí mật chính là đây. Kìa đan pháp của thần tiên đều do âm dương phản phục mà thành. Thiệu tử viết: Hốt nhiên tiếng sấm nửa đêm vang, Cửa ngõ lần lượt mở mở toan. Biết được trong vô hàm có hữu, Cho ai mắt thấy phục cơ sang. Chính vì trong đất có sấm, là quẻ Phục, một dương lai phục là giờ hào động, là ngày Đông chí trong mình, là lúc trời đất đều thành thất bảo cho nên nói là “phổ hóa”. Tiếng sấm vang ý là nói về khí khởi thủy vậy. 13 “Bạch vân triều đảnh thượng, 14 Cam lộ sái Tu Di” CHÚ: Tới giai đoạn này, 2 khí kết thành đao khuê, quan khiếu khai thông, hỏa giáng thủy thăng, nhất khí chu lưu qua huyền cốc quan, thăng 24 đốt sống đến thiên cốc quan, vòng qua trán sinh mỹ vị thơm ngon, rớt xuống trùng lâu, không nghĩ, không ngừng gọi là “Cam lộ rưới Tu Di”. Quyết rằng: Dĩ mục tống chi (Lấy ý tống đi) Dĩ ý nghinh chi (Lấy ý đón đấy) Tống hạ đan phủ (Đẩy xuống đan phủ) Ngưng kết nguyên khí (Nguyên khí kết lại) Mặc dĩ dưỡng chi (Lặng lẽ nuôi đấy) GIẢI: Đây là nói về khí hồi, chính cái khí thiên sinh ở hào độngl, lúc này đi suốt Vĩ Lư theo mạch Đốc lên Nê Hoàn, cảm thấy đùn đùn, ngút ngút như án mây trên đỉnh núi, rồi hóa thành nước ngọt, chảy xuống cổ họng, vào trung cung, đó là “Khí hồi đan tự kết”. Kinh Hoàng Đình viết: Hái rồi uống đấy chưa đầy khắc Trắng phau một đạo xung Nê Hoàn Hóa thành một đạo trôi vào miệng Thơm ngọt, thanh lương lưỡi thấm chân. 15 Tự ẩm trường sinh tửu 16 Tiêu dao thùy đắc tri CHÚ: Dưỡng khí tới đây, cốt tiết đã mở, thần thủy không trú mà qua lại không ngừng, luôn nuốt xuống. Đó là rượu trường sinh. Quyết rằng: Lưu châu quan dưỡng linh căn tính Tu hành chi nhân tri bất tri. GIẢI: Khí hóa thành nước ngọt, ngon không gì bằng, nên tùy nghi gọi là Ngọc Dịch, Quỳnh Tương. Kinh Ngộ Chân viết: Trưởng nam chợt uống rượu Tây Phương Tuyết sơn một vị đề hồ tốt Diên mạng rượu kia hồ ngọc rót Phản hồn rượu ấy đỉnh vàng thu Đó là rượu trường sinh, riêng ta độc đắc, không ai được hưởng cùng, cho nên nói là “tự ẩm”; “tiêu dao”, ngụ ý khoái lạc tự đắc vậy. Kìa! rượu đã không có ai cùng vui thì nào ai đã biết. 17 Tọa thính vô huyền khúc 18 Minh thông tạo hóa cơ. CHÚ: Công phu đến đây nghe nhạc tiên có nhịp điệu chuông trống, ngũ khí triều nguyên, tam hoa tụ đỉnh, như trạng thái quạ chiều về đậu, tâm điền mở sáng, trí tuệ tự sinh, thông hiểu kinh sách, mặc ngộ tam giáo, biết trước vị lai, đại địa sơn hà trong bàn tay, mắt nhìn ngìn dặm, tinh diệu lục thông, đó là thực hữu vậy. Nếu ta nói hư ngụy để lầm lỡ cho kẻ hậu học thì trời sẽ tru diệt. Không gặp được thấy thì việc này khó biết. GIẢI: Kinh Thái Thượng Nhật Dụng viết: Khúc vô huyền không nói mà tự có tiếng, không gãy mà tự kêu, chính là đan dược ở trong mình đầy dẫy. Thế nên mắt có thần quang, tai có linh hưởng, miệng có nước ngọt, mũi có dị hương là lý tất nhiên, không có gì lạ cả.19 Đô lai nhị thập cú 20 Đoan đích thượng thiên thê. CHÚ: Cả 20 câu đều không có mảy may hư ngụy, là bậc thang lên trời của hành giả vậy. Người ngộ được quyết này, nên gấp rút thực hành, đừng lãng phí thời giờ quí báu. GIẢI: Một trăm chữ của thầy ta là cái thang, chiếc bè lên cõi Tiên. Học giả ai cũng đọc được, nhưng tìm được người dung hội quán thông để hiểu ý mà tu hành, thật cũng không nhiều vậy. Tinh tôi đây vụn về, không có văn chương, được gia sư dìu dắt lâu năm, nêm tạm tiếm làm bài giải thích để tế độ, mở mắt cho người đời, thật là cuồng đãn, không chối được tội. Song hướng cho người học đạo có cơ sở thì không phụ công giáo huấn của thầy ta vậy. Hết bài “Lữ Tổ Bách Tự Bi”
  11. chúc toàn thể bà con, cô chú, anh chị em diễn đàn năm Canh Dần nhiều may mắn + :P PHÚ - QUÝ - THỌ - KHANG - NINH :P <object width="445" height="364"><param name="movie" value="http://www.youtube-nocookie.com/v/YWciZzPKQ5g&hl=en_US&fs=1&border=1"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube-nocookie.com/v/YWciZzPKQ5g&hl=en_US&fs=1&border=1" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="445" height="364"></embed></object>
  12. Ôi trời, cháu tưởng topic của cháu bị bỏ quên rồi nên lâu không vào trả lời. Cháu xin update thông tin như sau: - Mẹ mất tháng 2 âm lịch năm Mậu Tý - Ngoại hình: da đúng là trắng, tại sống miền Nam lâu rồi nên nó đã đen bớt. - Ám tật: cháu đi khám tổng quát chưa thấy gì, đau lưng thì chỉ khi nào quá "đuối" do lao động, tình cảm xáo động lớn thì mới bị, còn bình thường cũng rất tốt. - Không thông minh: cháu trí nhớ chuối lắm ạ, số tel là không bao giờ nhớ - Năm 08 - 09: bố cháu không ốm nặng, chỉ cảm cúng xoàng xoàng thôi. Chào VIETHA, cám ơn anh đã quan tâm! Amour năm Mậu Tý 2008 mẹ mất, tức là năm 33 tuổi. Amour lúc còn nhỏ nói rất nhiều, nhưng khi đã cứng tuổi rồi thì trầm tính, ít khi bày tỏ tình cảm ra ngoài. chào Chú Thiên Sứ, cám ơn chú đã quan tâm, ngày mẹ cháu mất chính xác là 28 tháng 2 năm Mậu Tý (Lịch Âm). Amour gửi cái file hình để các chú bác, ACE đối chiếu tướng mạo với lá số: http://www.mediafire.com/imageview.php?quickkey=dzzzt4mzqgj
  13. Chúc bạn Giaback năm Canh Dần nhiều may mắn! :(
  14. chào chú Thiên sứ, Cám ơn chú đã quan tâm. Cháu râu tóc thưa chứ không nhiều, cháu gửi chú cái hình để tham khảo thêm tướng mạo. <a href="http://www.mediafire.com/imageview.php?quickkey=dzzzt4mzqgj" target="_blank"><img src="http://www.mediafire.com/imgbnc.php/927320fbdb9e50097e8b1a1e45aef62d2g.jpg" border="0" alt="Unlimited Free Image and File Hosting at MediaFire"></a> http://www.mediafire.com/imageview.php?quickkey=dzzzt4mzqgj Chúc chú năm mới cát tường!
  15. Thưa bác Hà Uyên, Trong Âm phù kinh có giải thích, theo cháu hiểu đại ý là "Tự nhiên" được đề cập trong Âm phù kinh là "Đạo", mà Đạo thì là nơi sinh ra trời đất, mà đạo thì tĩnh, là gốc sinh ra trời đất chuyển vần (tức là động). Cháu hiểu như vậy không biết có đúng ý kinh chưa? mong bác giải thích cho.
  16. ..........
  17. [2. Tôi chi tập trung tìm hiểu: tại sao ? Cơ sở nào lại dùng Nguyệt tướng ? Mà không dùng Nguyệt lệnh !. Mặt Trăng chỉ có một, vậy thì "lệnh" và "tướng" phản ánh cho chúng ta biết điều gì đây ?] Thú thực với bác, cháu cũng không biết tại sao. Nhưng khoa học ngày nay hay nói "Hệ mặt trời" chứ không ai nói "Hệ mặt trăng", vả lại Nguyệt lệnh được lập dựa vào hướng của đuôi sao Bắc đẩu chỉ vào cung hoàng đạo nào, chứ không phải là mặt trăng? (phần này cháu không rõ lắm, mong các cao thủ biết thiên văn chỉ giáo cho). Ngoài ra, mặt trăng là vệ tinh của trái đất, trái đất là vệ tinh của mặt trời. Có lẽ vì vậy lấy mặt trời (Nguyệt tướng) làm chủ của quẻ cũng thể hiện điều này chăng?
  18. cháu chào bác Hà Uyên, cháu diễn dịch câu hỏi của bác là "Tại sao trong môn Lục nhâm lại dùng Nguyệt tướng để lập thành quẻ? và Nguyệt tướng là gì?" Hiểu câu hỏi của bác như trên, cháu nghĩ được tới đâu thì nói tới đó: 1. Con người sống trong vũ trụ, vì vậy khi vũ trụ vận hành sẽ ảnh hưởng tới con người. Vì vậy, ta dùng môn Lục nhâm để tái hiện lại bối cảnh vũ trụ lúc đương thời nhằm tìm ra những ảnh hưởng đó. Dịch nói "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu", vì vậy một người khi có chuyện cần hỏi bói thì anh ta đang tuân theo quy luật này vậy: nếu "vận khí" của anh ta đồng với chuyện tốt, thì quẻ ứng chuyện tốt (và ngược lại). Lão tử cũng có nói trong Đạo đức kinh (chương 25): [Hữu vật hỗn thành , tiên thiên địa sinh . Tịch hề liêu hề , độc lập nhi bất cải , chu hành nhi bất đãi , khả dĩ vi thiên địa mẫu . Ngô bất tri kì danh , tự chi viết đạo , cưỡng vị chi danh viết đại . Đại viết thệ , thệ viết viễn , viễn viết phản . Cố đạo đại , thiên đại , địa đại , nhân diệc đại . Vực trung hữu tứ đại , nhi nhân cư kì nhất yên . Nhân pháp địa , địa pháp thiên , thiên pháp đạo , đạo pháp tự nhiên . Có một vật hôn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết nó là gì, tạm đặt tên nó là đạo, miễn cưỡng gọi nó là lớn (vô cùng). Lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa, đi xa thì trở về (qui căn). Cho nên đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.] 2. Như đã nói ở điểm 1, quẻ Lục nhâm được lập nên nhằm mô phỏng lại vũ trụ lúc hiện thời, thông qua các bước sau đây: + bước 1, an tứ bản: bao gồm Can ngày, Chi ngày, Bản mệnh vấn nhân, Hành niên vấn nhân lên địa bàn. Qua bước này, ta đã xác định được thời gian hiện thời trên quả đất và vị trí thời gian/không gian của Vấn nhân trên trái đất. + bước 2, an thiên bàn: ta dùng Nguyệt tướng gia lên Nhật thời (giờ xem) nhằm xác định vị trí của quả đất (thể hiện bằng địa bàn) trong vũ trụ lúc bấy giờ. + bước 3: thông qua bước 1, 2 ta đã có thể an tiếp các thần sát như vòng Quý nhân, vòng Thái tuế, Độn can (theo giờ), Vòng trường sinh, các thần sát khác. Qua 3 bước nói trên, ta đã lập nên bản đồ sơ bộ nhưng khá chính xác về vũ trụ, qua đó định vị không gian và thời gian của vạn vận, cũng như mối quan hệ của vấn nhân đối với vũ trụ. Bởi vì: Trong môn thiên văn chia tinh cầu (bầu trời đối với trái đất) ra làm 12 cung, đồng thời quả đất cũng được chia ra 12 cung (Tý - Sửu - Dần - Mão - Thìn - Tị - Ngọ - Mùi - Thân - Dậu - Tuất - Hợi) Trong đó: * Nhật thời: là thời gian mặt trời (theo múi giờ từng vùng) chiếu lên khu vực của người coi bói * Nguyệt kiến: theo Hiệp kỷ biện phương thư thì "người cổ đại theo mặt đất phân thành 12 phương vị, sử dụng 12 địa chi để biểu thị sự phân biệt (thời gian)... Dần của tháng giêng (xác định bằng cách) vào lúc cuối hoàng hôn, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ Đông Bắc là phương Dần, vì vậy gọi là "kiến Dần", mỗi tháng cứ như vậy di chuyễn một vị (tạo thành 12 kiến, hay nguyệt kiến). * Nguyệt tướng: Thời gian xác định vị trí của mặt trời ở cung nào thì cung đó là Nguyệt tướng: - Cung Sửu: Capricornus - Con Dê (22/12-20/1); - Cung Tý: Aquarius - Người Mang Nước (21/1-19/2); - Cung Hợi: Pisces - Song Ngư (20/2-20/3). - Cung Tuất: Aries - Cừu Đực (21/3-20/4) - Cung Dậu: Taurus - Bò Đực (21/4-21/5); - Cung Thân: Gemini - Song Sinh (22/5-21/6); - Cung Mùi: Cancer - Con Cua (22/6-23/7); - Cung Ngọ: Leo - Sư Tử (24/7-23/8); - Cung Tị: Virgo - Xử Nữ (24/8-23/9); - Cung Thìn: Libra - Thiên Bình (24/9-23/10); - Cung Mão: Scorpio - Bọ Cạp (24/10-22/11); - Cung Dần: Sagittarius - Nhân Mã (23/11-21/12); *********************************************************** PHẦN SAU TƯƠNG TỰ COPY CỦA ANH VINHL: Vũ Thũy, 330 : Sun enters Pisces, Song Ngư - Nguyệt Tướng Hợi, Nguyệt Tú: Thất Bích, Thất Hỏa Trư là Hợi Kinh Trập, 345 : Midpoint of Pisces Xuân Phân, 0: Sun enters Aries, Miên Dương - Nguyệt Tướng Tuất, Tú: Khuê Lâu, Lâu Kim Cẩu là Tuất Thanh Minh, 15 : Midpoint of Aries Cốc Vũ, 30 : Sun enters Taurus, Kim Ngưu - Nguyệt Tướng Dậu, Tú: Vị Mão Tất, Mão Nhật Kê là Dậu Lập Hạ, 45 : Midpoint of Taurus Tiểu Mãn, 60 : Sun enters Gemini, Song Nam - Nguyệt Tướng Thân, Tú: Chủy Sâm, Chủy Hỏa Hầu là Thân Mang Chủng, 75 : Midpoint of Gemini Hạ Chí, 90 : Sun enters Cancer, Bắc Giải - Nguyệt Tướng Mùi, Tú: Tỉnh Quỷ, Quỷ Kim Dương là Mùi Tiểu Thử, 105 : Midpoint of Cancer Đại Thử, 120 : Sun enters Leo, Sử Tử - Nguyệt Tướng Ngọ, Tú: Liễu Tinh Trương, Tinh Nhật Mã là Ngọ Lập Thu, 135 : Midpoint of Leo Xử Thử, 150 : Sun enters Virgo, Xử Nữ - Nguyệt Tướng Tỵ, Tú: Dực Chẩn, Dực Hỏa Xà là Tỵ Bạch Lộ, 165 : Midpoint of Virgo Thu Phân, 180 : Sun enters Libra, Thiên Xứng - Nguyệt Tướng Thìn, Tú: Giác Cang, Cang Kim Long là Thìn Hàn Lộ, 195 : Midpoint of Libra Sưong Giáng, 210 : Sun enters Scorpio, Hổ Cáp - Nguyệt Tướng Mão, Tú: Đê Phòng Tâm, Phòng Nhật Thố là Mão Lập Đông, 225 : Midpoint of Scorpio Tiểu Tuyết, 240 : Sun enters Sagittarius, Nhân Mã - Nguyệt Tướng Dần, Tú: Vĩ Cơ, Vĩ Hỏa Hổ là Dần Đại Tuyết, 255 : Midpoint of Sagittarius Đông Chí, 270 : Sun enters Capricorn, Ma Kiết - Nguyệt Tướng Sửu, Tú: Đẩu Ngưu, Ngưu Kim Ngưu là Sửu Tiểu Hàn, 285 : Midpoint of Capricorn, Đại Hàn, 300 : Sun enters Aquarius, Bảo Bình - Nguyệt Tướng Tý, Tú: Nữ Hư Nguy, Hư Nhật Thử là Tý **************************************************************
  19. Nhật trầm thủy bể là hình ảnh ví von trong môn Tử vi, khi có sao Thái dương đóng tại cung Hợi, sao Thái dương = mặt trời, cung Hợi địa là quẻ Càn/hành thủy nên ví như biển nước. Vì vậy mới gọi là "Nhật trầm thủy bể". Bạn Tuấn dương nói là do người xưa thấy bóng Nhật/Nguyệt in trên mặt nước mà đo thời gian thì e rằng chưa được xác đáng. Hoan nghênh bạn Tuấn dương đã đề cập tới vấn đề cốt lõi của số học, đó là Hà đồ và Lạc thư. Mình thực chưa tìm hiểu nhiều về hai Đồ/Thư này nên rất mong muốn được nghe phân tích. Trước tiên, xin đặt ra những câu hỏi sau để bạn Tuấn dương giải thích rõ hơn giúp: 1. Từ đâu mà ta có được các con số mà bác Hà Uyên đã trình bày phần trước? Có phải từ Hà đồ hay Lạc thư không? 2. Bác Hà uyên và bạn Tuấn dương có nói về các "nhịp", xin cho định nghĩa và giải thích nguyên lý "nhịp"? 3. Bạn Tuấn dương có nói về trục tung và trục hoành, xin hỏi là trục tung trục hoành của cái gì? dựa vào đâu mà có? 4. "Lấy Hà đồ phối hậu thiên" là sao? cách làm như thế nào? Nếu được, nhờ bạn Tuấn dương vẽ hình minh họa luôn. Trân trọng!
  20. Nhân phía trên nói về vòng tràng sinh, ta thấy đạo phật cũng nói pháp MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN, nay mượn vào đây để so sánh cái ta gọi là "tồn tại" theo quan điểm Phật giáo như sau: Cái này có nên cái kia có, Cái này sinh nên cái kia sinh; Cái này không nên cái kia không; Cái này diệt nên cái kia diệt. http://thientam.vn/index.php?nv=News&a...cle&sid=790 ******************************* 1- Vô minh (Avijjà): sự mê mờ, cuổng si của tâm thức; hay nói cách khác là sự không hiểu biết như thật về hiện hữu là duyên sinh, vô thường và không có một tự thể độc lập, bất biến. 2- Hành (Sankhàra): động lực, ý chí hành động tạo tác (ý hành) của thân, miệng và ý. 3- Thức (Vinnana): tri giác của con người về thế giới thông qua các cơ quan chức năng như mắt (nhãn thức), tai (nhĩ thức), mũi (tỉ thức), lưỡi (thiệt thức), thân (thân thức) và ý (ý thức). 4- Danh sắc (Nàma - rùpa): sắc là phần vật lý và sinh lý, danh là phần tâm lý. Với con người, sắc là cơ thể vật chất, các giác quan và chức năng của chúng; danh là các tâm phụ thuộc (tâm sở), như xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư. 5- Lục nhập (Chabbithàna): có nơi gọi là sáu xứ, là sự tương tác giữa 6 căn (= 6 nội xứ: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và đối tượng của chúng là 6 trần (= 6 ngoại xứ: hình thể, âm thanh, hương vị, mùi vị, xúc chạm và ý tưởng - pháp). 6- Xúc (Phassa): sự gặp gỡ, tiếp xúc, giao thoa giữa các căn (chủ thể) và trần (đối tượng). Nói rõ hơn, xúc chính là sự tiếp xúc giữa con người và thế giới thông qua 6 cơ quan tri giác. Lưu ý là, khi có thức phát sinh do mắt tiếp xúc với hình thể (sắc trần), thì sự nhận biết đó mới gọi là nhãn thức... Vậy, xúc là sự gặp gỡ, giao thoa giữa căn, trần và thức. 7- Thọ (Vedanà): sự cảm thọ. Nói khác đi là các phản ứng tâm lý phát sinh khi mắt tiếp xúc với hình thể, tai tiếp xúc với âm thanh... ý tiếp xúc với ý tưởng (pháp). Cảm thọ có ba loại: cảm thọ dễ chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khỗ thọ) và cảm thọ trung tính (phi khỗ phi lạc). Ðây là chất liệu mà con người thường lấy để xây dựng những giá trị gọi tên là hạnh phúc và khỗ đau, bất hạnh. Thực ra, chúng là do duyên sinh, luôn thay đỗi, không hề có một tự tính cố định. 8- Ái (Tanhà): gọi đủ là ái dục hay khát ái: sự vướng mắc, yêu thích, tham luyến; gồm có dục ái, sắc ái và vô sắc ái. 9- Thủ (Upadàna): gọi đủ là chấp thủ: sự kẹt vào, bám víu, đeo chặt của tâm thức vào một đối tượng. 10- Hữu (Bhava): tiến trình tương duyên để hình thành, gồm dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu. 11- Sinh (Jati): sự ra đời, tạo nên, xuất hiện. Sinh ở đây không phải là sự sinh ra em bé, mà là sự thành tựu các bộ phận cấu thành (năm uẩn), thành tựu các xứ (các cơ quan tri giác và chức năng của chúng). 12- Lão tử (Jaramrana): sự suy nhược, tàn lụi, tuỗi thọ lớn, tan rã, tiêu mất, tử vong. Với sinh mạng con người, lão tử được biểu hiện dưới các hiện tượng: răng lung, tóc bạc, da nhăn, các cơ quan tri giác suy yếu và chết. ********************************** http://www.phatviet.net/index.php?option=c...m&Itemid=55Khí thế gian là mọi sự kiện hiện hữu và tồn tại hoàn toàn về vật lý. Tình thế gian là mọi sự kiện hiện hữu và tồn tại gồm đủ cả tâm lý và vật lý, cũng có khi tồn tại thuần về tâm lý. Tính Duyên khởi đối với tình thế gian, hay nói gọn lại nơi con người là Mười hai Duyên khởi, gồm có Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Sáu xứ, Sáu xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão tử. Mười hai Duyên khởi này làm nhân làm duyên cho nhau, sinh khởi liên tục trong vòng nhân quả, khiến con người bị đắm chìm trong sinh tử luân hồi. Và nhân quả của 12 Duyên khởi này cứ tiếp tục sinh khởi khắp cả ba thời gian tạo thành cả một dòng sông vô tận.
  21. Không dám chỉ bảo bạn, chỉ là cùng nhau chia xẻ và trao đổi những ý nghĩ/học thuật mà thôi
  22. Bạn Tuấn Dương thân mến, Theo mình thì bạn hiểu như trên cũng không sai. Tuy nhiên mình nghĩ là tất cả các đơn vị không gian và thời gian được thành lập theo từng cấp độ - thành lập chẳng qua là giả lập - dùng để miêu tả sự vật/việc tùy thuộc vào bối cảnh sử dụng. Thực ra chẳng có âm dương, cũng không có ngũ hành, mà chỉ có một duy nhất đó là đạo hay vô cực/thái cực/vũ trụ, khi đạo/vô cực/thái cực này vận hành thì ta phải có gì để miêu tả nó, vì vậy tạm đặt ra các đơn vị không gian và thời gian để miêu tả sự vận hành (hay là "Dịch"). Các đơn vị được giả lập nên cũng tùy vào mục đích sử dụng và cấp độ sử dụng: Cấp độ I: tạm phân ra âm dương, mà dương thì (giả lập) là một nét liền, âm thì (giả lập) là 2 nét đứt, 2 nét cơ bản này chính là lưỡng nghi. Cấp độ II: tạm phân ra bát quái, bát quái là gì? là các nét âm dương xếp chồng lên nhau: + 2 nét âm dương lần lượt xếp chồng lên nhau (1 nét chồng lên 1 nét) thì gọi là tứ tượng + 3 nét âm dương lần lượt xếp chồng lên nhau tạo thành bát quái Cấp độ III: âm dương được giả lập thành bát quái rồi, thì phải miêu tả được sự tương tác của chúng, vì vậy mới lập ra ngũ hành. Cấp độ IV: dựa trên ngũ hành, lại lập thêm ra 10 can và 12 chi để miêu tả các quá trình rất phức tạp mà hai khí âm dương (được thể hiện qua bát quái, và miêu tả sự tương tác của các quái đó bằng quy tắc ngũ hành) vận chuyển. 10 can và 12 chi này khi ghép với nhau sẽ thành được các đơn vị năm tháng ngày giờ = lục thập hoa giáp. Muốn miêu tả không gian thì ta có thể dùng riêng 10 can, 12 chi riêng hoặc tổng hợp với nhau, ví dụ: ta có thể dùng 10 can để đặt tên cho 10 phương, hoặc dùng 12 chi để phân không gian ra thành 12 cung khác nhau (như vòng hoàng đạo, trái đất vvv). Qua sự vận chuyển của 10 can và 12 chi đã thể hiện được các hiện tượng về không gian thời gian như sau: a. Vòng tràng sinh: vật này sinh ra ở giai đoạn này, lớn mạnh ở giai đoạn này và chết đi ở giai đoạn kia... tất cả có 12 giai đoạn của sự vật sự việc (Sinh ra, non yếu, lớn lên, trưởng thành, thịnh vượng, suy, bệnh, chết, thu tàng (mộ), bắt đầu chuyển hóa qua dạng khác (tuyệt), mầm mống khác (thai), mầm mống khác lớn lên (dưỡng). Như vậy, quả là không có gì tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi, nó chỉ chuyển hóa về lượng và chất mà thôi. b. các quy tắc: hình, hại, xung phá và "vượng, tướng, hưu, tù, tử" chính là để miêu tả quan hệ giữa các địa chi và thiên can với nhau. c. lục hào: là để phân chia ngôi vị dựa trên quy tắc ngũ hành, nhằm để "phăng" ra cương vị thực tế của từng vật, từng việc e.Các thần sát: là một hình thức "đặt tên" cho các quy tắc nói trên nhằm đơn giản hóa quá trình phân tích cho người sử dụng. Ví dụ về quy tắc của sao Dịch mã (dùng trong môn Lục nhâm) được đặt ra như sau: [Dần = Công tào (dịch mã của Thủy cục), Thân = Truyền tống (dịch mã của Hỏa cục), Tị = Địa hộ (dịch mã của Mộc cục), Hợi = Thiên môn (dịch mã của Kim cục) đều có tượng là đường xá/xe cộ/di chuyển, và: Thuỷ cục gồm Thân, Tý Thìn trải qua ba giai đoạn Sinh - Vượng - Mộ, tới Dần là bệnh của thuỷ cục. Nhưng Dần hành mộc tác hào tử tôn là cứu thần của thuỷ. Mộc cục gồm Hợi, Mão, Mùi trải qua ba giai đoạn Sinh - Vượng - Mộ, tới Tị là bệnh của thuỷ cục, nhưng Tị lại là trường sinh của Kim là nơi sinh thuỷ nhằm cứu mộc. Hoả cục Dần, Ngọ, Tuất trải qua ba giai đoạn Sinh Vượng Mộ, tới Thân là bệnh của Hoả cục, nhưng Thân lại là trường sinh của Thuỷ là nơi sinh Mộc cứu hoả Kim cục Tị, Dậu, Sửu trải qua ba giai đoạn Sinh Vượng Mộ, tới Hợi là bệnh của Kim, nhưng Hợi tác hào tử tôn là cứu thần của Kim. Đã gặp nơi gần tuyệt, lại có tượng phải di chuyển, đây chính là nguyên tắc "vật cùng tắc biến", "tuyệt xứ phùng sinh" của đạo Dịch. Vì vậy gọi là Dịch mã (còn gọi là Thiên hậu). Thời điểm này thích hợ cho việc phong tặng quan tước, ban mệnh lệnh cho công khnh, đi xa, nhậm chức, di chuyển, dời đổi chỗ ở. Cũng phù hợp cho việc cầu thầy chữa bệnh, cầu phúc, tế thần]
  23. Thưa bác Hà Uyên, Cháu thực không hiểu bản chất của Can Chi là gì, cháu cũng đã tìm đọc trong vài cuốn sách nhưng chỉ nói Can là thân cây, chi là cành cây, hoàn toàn không nói rõ bản chất của chúng. Theo cháu hiểu thô thiển như sau: 1. Kinh Dịch là một cuốn sách miêu tả bản chất cơ bản của Vũ trụ, bao gồm không gian và thời gian, khi không gian và thời gian xuất hiện thì sẽ có sự vận hành, vận hành tức là biến đổi --> sự biến đổi đó được đặt tên là "Dịch". Trong Dịch kinh có dùng hệ thống các đơn vị sau: a. Âm, Dương b. Bát quái: đơn vị nhỏ hơn để miêu tả hiện tượng Âm, Dương c. Ngũ hành: miêu tả quan hệ, mối tương tác của Bát Quái d. Can, Chi: vì ngũ hành còn chưa đủ chi tiết để diễn giải mọi việc nên phải đặt ra hệ thống khả dĩ có thể miêu tả rất chi tiết sự vận hành của không gian và thời gian. 2. Ý nghĩa của hệ thống Can, Chi (theo cháu hiểu) như sau: Thập Can (10 Can) gồm: Giáp = dương mộc Ất = âm mộc vậy Giáp Ất là hành mộc phân ra lưỡng cực âm dương Bính = dương hoả Đinh = âm hoả vậy Bính, Đinh là hành hỏa phân ra lưỡng cực âm dương Mậu = dương thổ Kỷ = âm thổ Mậu, Kỷ chính là hành thổ phân ra lưỡng cực âm dương Canh = dương kim Tân = âm kim Canh, Tân chính là hành kim phân ra lưỡng cực âm dương Nhâm = dương thuỷ Quý = âm thuỷ Nhâm, Quý chính là hành thủy phân ra lưỡng cực âm dương. Cháu nói "phân ra lưỡng cực âm dương" chẳng qua là cách nói, bởi vì dù là vật gì cũng ẩn tàng trong nó cả âm và dương. Vì vậy nói cách khác là "Nhâm và Quý là cực âm và cực dương của hành thuỷ". Các phần trên cũng nói như vậy. 12 địa chi nhằm miêu tả kỹ hơn sự vận hành/biến đổi của ngũ hành. 12 địa chi có nhiệm vụ cơ bản là: - miêu tả không gian - miêu tả thời gian - thể hiện 12 giai đoạn tương tác/biến đổi của không gian và thời gian. Qua 12 địa chi ta có được vòng trường sinh là 12 giai đoạn biến đổi của Âm Dương, Ngũ Hành. Trong Phật giáo cũng miêu tả 12 nhân duyên để miêu tả sự vận hành của thế giới này. Rồi một loạt các hệ thống "định danh" khác được lập ra để miêu tả kỹ hơn nữa, ví dụ như: 1. Quy tắc vượng tướng hưu tù thể hiện bởi 12 địa chi 2. Quy tắc lục hào qua 12 địa chi/10 Thiên can nhằm xác định quan hệ chủ khách vv 3. Quy tắc vòng trường sinh, và quy tắc tam hợp Sinh - Vượng - Mộ để lập 12 thành từng nhóm vvv. Cháu chỉ biết có thế, không biết đúng sai thế nào, mong bác giải thích cho.