Công Minh
Hội viên-
Số nội dung
284 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
4
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Công Minh
-
Ấy! mình đâu dám nói xấu, mà chỉ phản ánh một hiện thực khách quan. Thế thì may mắn cho nghệ thuật ẩm thực Việt Nam ta quá và "xui" cho CM tôi rồi. Ấy chết, ai lại làm thế ! Chỉ cần làm một lượt là biết ngay. CM tôi con muỗi bay qua thì chưa biết con đực con cái nên phải bấm quẻ , chứ nhìn các người đẹp vẩy rau thì chỉ một lần là biết anh tài ngay. ;) Với lại phải chuẩn bị đủ 100 rổ rau cho Trangphan vẩy thì bằng đánh đố tôi rồi. Chí ít cũng phải chở mất một góc chợ đầu mối bằng xe tải nhẹ. Trong thời buổi " rau châu gạo quế" này, người ta lại gán cho tội đầu cơ tàng trữ rau xanh thì tội chết. :lol: Trangphan vẩy rau khéo như vậy, thì nấu ăn chắc phải giỏi lắm ? Có lời chúc mừng đến phu quân của trangphan nhé ! Ngày nào Trangphan hồi hương, tôi sẽ đi chợ mua "đồ mồi" này, mua rau sống này. Khi về tôi sẽ rửa rau, còn em vẩy rau và vào bếp. :lol: a - Trường hợp TP thắng cuộc : Đầu tiên chúng ta " nhậu " để tận hưởng chiến lợi phẩm ngon lành đó đã. Sau đó tôi sẽ mất cho TP : 99 rổ rau còn lại. b - Trường hợp em chưa thắng được : Đầu tiên tôi sẽ vẩy lại thay TP. Và cũng lại nhậu trước đã, cũng để tận hưởng chiến lợi phẩm tương đối ngon lành đó ( vì rau có rơi ra ta nhặt vô rửa sạch lại, vẩy tiếp ). Sau đó TP phải tiếp tục..... vẩy 101 rổ rau cho đến khi thành thục. Và sau đó phải đảm nhận vai trò là đại sứ cho văn hoá ẩm thực VN từ nghệ thuật vẩy rau trên..... trường quốc tế. Nhất trí !? Hôm tới chúng ta sẽ ký hợp đồng qui tắc. :lol: Chào và chúc TP vui vẻ. Công Minh
-
THỬ LÝ GIẢI MỘT SỐ TẬP TỤC TRONG DÂN GIAN ( Kính báo cáo Sư phụ Thiên Sứ - như món quà Trung thu muộn ) I - BỎ NHỎ Một tối nọ tôi được anh B, người anh con bác kéo qua nhà chơi. Chị B mới sinh cậu con trai được gần 1 tháng. Hai anh em tính bàn chuyện tổ chức đầy tháng cho cháu. Vừa về tới cổng đã nghe tiếng thằng cu con khóc ngằn ngặt trong nhà. Chị dâu thì bồng thằng bé đi cùng khắp nhà trên xuống nhà dưới mà nựng, mồ hôi toát ra như tắm. Còn bác gái ( bà nội của bé ) tay cầm tờ báo đốt lửa hơ hoắng khắp nhà. Ông anh vứt xe nhào vô, cuống qúyt : « Bé bị sao, hay cho đi viện ”. Bà nội cháu lườm một cái và nói : « Anh cứ để đấy cho tôi, chả phải nhà thương bệnh viện gì sất hết » Còn ong anh tôi cứ cuống lên không biết đường nào mà lần. Tôi kéo cô con gái lớn của anh ra hỏi : “Nhà mới có khách phải không con”. ” Vâng ! chập tối có mấy cô ở cơ quan ba cháu ghé chơi thăm mẹ và em cháu” À ra thế lại chạm vía rồi đây. Không biết cô nào mà vía dữ thế nhỉ ? Khoảng muơi phút sau, thằng bé hết khóc và và chịu ngủ. Hai anh em kéo nhau lên gác làm bình trà ngồi tác dóc. Lúc sau bác gái lên theo. Bà ngồi thuyết cho ông anh một hồi : - Tôi đã bảo với anh rồi. Cháu tôi lúc còn trong cữ, không phải phiền anh cho báo cho người lạ đến thăm. Các anh các chị có muốn chúc tụng gì nhau, thì mời ra quán nhậu. Còn muốn thăm hỏi thì để hết cữ. Đấy chiều nay, cái cô H, cô K cơ quan anh đến chơi đấy. Người đâu mà vô ý vố tứ, cứ khen lấy khen để thằng bé . Mà mấy cái cô trông đẹp đẽ, thanh tú thế mà cái vía nó dữ vậy. Làm thằng bé khóc hết nước mắt. Tôi đốt lửa mà muốn bỏng tay, nó mới yên. Nặng vía như mấy cô này sáng ra có mua mở hàng cho ai thì người đó ế đến chiều. Các anh là lãnh đạo mà bố trí cái người này đi giao dịch hay khởi việc mới thì việc đó rồi cũng chẳng ra sao, không vướng này thì cũng mắc nọ. Các anh cứ đừng tưởng giám đốc với tổng giám đốc, học bằng này bằng nọ là đã biết hết việc đời đấy phỏng. Không biết nhìn người, dùng người cho nó chính thì có mà ….. Đợi bà cụ đi xuống. Anh B mới khều tôi hỏi : - Anh thì chả tin mấy cái chuyện này lắm. Lúc nãy thằng cu khóc quá mình cũng sốt ruột, hỏi mẹ nó thì mẹ nó bảo không có biểu hiện gì bất thường ( chị dâu tôi vốn là bác sĩ ) mà không hiểu tại sao nó dữ khóc thế. Không biết bà cụ làm thể có tác dụng thật hay chó ngáp phải ruồi. Bữa nay bị vố thế này, bữa tới đầy tháng bà cụ không cho tổ chức rình rang gì đâu. Chắc anh em mình phải đổi gió thôi. Mà bà cụ lại lôi chuyện cơ quan của mình vào nữa chứ . Trong tổ chức công việc của cơ quan thì anh không dễ bị ảnh hưởng bởi ý kiến gia đình. Nhưng với cô H anh đang cất nhắc lên làm trưởng phòng kinh doanh, còn cô K là trợ lý của anh. Toàn là đối tượng thân cận, mà bà cụ có ấn tượng như vậy rồi, biết đâu lại tác động đến chị chú nữa. E là lúc nào không ý tứ dễ làm thất thố đến người ta. Rắc rối quá. Thấy chú cũng lọ mọ nghiên cứu về lý học, chú có ý kiến gì về việc này. !? Lúc đó tôi cũng không có gì để giải thích cho anh hơn là : Ngày xưa các cụ quan niệm và làm như thế. Anh em trao đổi thêm một chút rồi kết thúc câu chuyện. Ra về rồi mà lòng cứ băn khoăn mãi : Hồn và Vía là cái gì mà có lúc rắc rối và nghiêm trọng vậy nhỉ. Nhớ ngày tôi còn nhỏ. Mỗi sáng mồng một Tết , Mẹ tôi đều nhắc và cấm : Không được vào nhà ai chơi vào buổi sáng như những ngày thường. Khi đó chỉ biết đơn giản như vậy và tuân lệnh. Sau này lớn lên một chút biết chuyện xông nhà xông đất đầu năm. Tôi mới hỏi Mẹ: Tại sao Mẹ lại cấm con như vậy. Bà bảo : Tại mày nặng vía, mồng một đầu năm sơ ý mà đến “xông” đất nhà người ta, năm đó nếu gia đình người ta có chuyện gì xấu hay làm ăn trục trặc người ta chửi cho. Là do năm tôi lên 6 tuổi . Sáng mồng một Tết năm đó, theo thói quen hàng ngày tôi chạy thẳng sang nhà bà hàng xóm để chơi với lũ con cháu bà ta như thường ngày. Rồi chả hiểu nhà hàng xóm đó làm ăn làm sao. Nhưng bà cụ già chủ nhà thì cứ mỗi chiều, đều ra sân chửi đổng vọng sang. Ban đầu cha mẹ tôi cũng không biết. Sau thấy lạ quá , bèn đem chuyện đó hỏi một người hàng xóm khác. Họ mới cho biết. Bà cụ kia chửi mỗi chiều không phải chửi đổng đâu. Mà là chửi cái thằng tôi, vía nặng sáng mồng một Tết lại chạy vô “xông” nhà người ta , làm gia đình người ta làm ăn không được. Và cha mẹ tôi đã phải nghe chửi cả một năm thay tôi. Thế mới cay nghiệt chứ. Lại còn chuyện mua mở hàng mỗi sáng sớm. Mẹ tôi bảo : Ba và Mẹ tôi rất được nhiều người bán tạp hoá gần nhà nhờ mua mở hàng buổi sáng. Họ gặp mẹ tôi đều nhờ, sáng mai có đi làm thì ghé mua mở hàng giúp, vía ông ấy may măn bán hàng đắt lắm. Do hay mua mở hàng lên ông bà hay mùa được đồ rẻ. Vì ai nỡ bán đắt cho ân nhân bao giờ. Đôi khi tôi cũng được thơm lây, vì chiều về bà hàng hay gọi lại cho cái bánh hay vài cái kẹo và nhắn nhủ : Về nói với Mẹ mai ra mua mở hàng cho bà nhé. Còn riêng cái thằng tôi thì bị Mẹ cấm tịt chuyện mua mở hàng cho ai đó, vì nặng vía. Bởi vậy thời còn niên thiếu, khi biết mình có “thế mạnh” này, vì lý do nào đó mà tôi ghét bà hàng nào, thì sáng hôm đó tôi dậy thật sớm , khều vài hào trong con lợn đất tiết kiệm tiền mừng tuổi và hùng dũng đến mua mở hàng của bà đó để “ trả thù”.Chả biết có tác dụng gì không nhưng lúc đó lấy làm khoái chí lắm. Sau này lớn lên, có ý thức tôi thường tránh mua mở hàng cho ai đó buổi sáng. Rồi thói quen này dần dà tự nhập vào vô thức cho đến tận bây giờ. Ngày xưa nhà tôi có nuôi chó mèo cái ( Nên sẽ có cảnh chó đẻ và mèo đẻ). Hồi đó gần nhà tôi có bà L, bà này tính hơi " đồng bóng" - (vui giận bất thường ). Có 2 lần, khi con mèo nhà tôi sanh, thì bà ta tới chơi. Sau khi bà ta về là có chuyện : Con mèo mẹ cắn cổ chết hết mấy mèo con. Nó còn gầm gừ hung tợn như một con hổ đói. Mẹ tôi bảo đó là do bà L " vía" dữ quá. Những người vía dữ đến nhà có chó mèo mới sanh, chó thì thì tha con dời ổ. Mèo thì nhẹ cũng vậy, nặng thì nó cắn cổ mấy con con chết tươi - các cụ bảo là chạm ví mèo ăn thịt con!!!? Điểm qua những chuyện trên, tôi lẩn mẫn dò tìm hồn và vía là cái gì mà nó “gớm” thế. Tìm lại trong ngôn từ sinh hoạt đời thường thì Hồn – Vía xuất hiện kha khá. Dò tim trên mạng Internet, ở một số nơi có kiến giải về Hồn và Vía nhưng tôi thấy chưa thoả đáng cho lắm và e có nhầm lẫn hoặc bị hiểu “nghiêng đi một góc” . Càng lần mò vào thì càng phát giác ra nhiều điều thú vị trong ngôn ngữ và tập tục dân gian xung quanh Hồn - Vía. Tự coi như một sự thử giải mã. Trước là một sự đóng góp nho nhỏ cho sinh hoạt thường kỳ của Trung tâm nghiên cứu lý học Đông Phương. Sau là sự góp vui cho đến các thành viên đang sinh hoạt trên diễn đàn vanhienlacviet.org lúc tửu hậu trà dư. Trong quá trình biên soạn ít nhiều có những sơ xuất về kiến thức. Phần nữa là do bận “cày cuốc” mưu sinh lên thời gian đánh máy và biên tập có nhiều hạn chế . Do vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót về ngữ pháp, văn phạm…. Rất mong được các bậc tri túc vui lòng chỉ giáo. CÔNG MINH Tháng 8 năm Mậu Tí . Viết trong không khí chưa đến trung thu mà bánh trung thu được bày bán rầm rầm ngoài đường từ đầu tháng 7 âm lịch.
-
Cám ơn Phoenix đã quan tâm theo dõi. Do nay mai phải đi công tác xa. Ngày về tôi sẽ tiếp tục với những phát hiện khác nữa. Công Minh
-
Ok ! Hôm đó chúng ta tổ chức mừng sinh nhật SP luôn. Gọi là sinh nhật dã ngoại. Bầu Thiên Đồng làm tổng thư ký cho chương trình này. Công Minh
-
Tại sao lại nói Hồn xiêu Phách tán...?
-
4/Tại sao lại là đốt vía chứ không phải rửa vía ? Như lý giải ở trên, nhà có trẻ sơ sinh, sau khi có người vía "dữ" tới thăm bị chạm vía, thường khóc không thôi, có khi phát sốt phát rét. Trong trường hợp này, người nhà phải đốt vía. Hay những người buôn bán, vào đầu buổi sáng, nếu có người "nặng" vía mua mở hàng, hay vào hỏi han trả giá rồi đi. Để tránh bị ế ẩm suốt ngày đó, người chủ hàng cũng thường đốt vía. Tại sao không rửa mà lại đốt ? Chu Tử toàn thư nói : “ Hồn thuộc Mộc, Phách thuộc Kim” . Theo Ngũ hành sinh khắc muốn khắc chế Kim thì phải dùng Hoả. Bởi vậy muốn đuổi vía dữ, vía xấu thì tất phải dùng lửa. Bởi vậy mới có hiện tượng đốt vía chứ không phải là rửa vía. Theo dân gian, phép đốt vía cho trẻ khi bị chạm ví dữ như sau : Đơn giản thì dùng một mồi lửa hơ hơ khắp khu vực. "Truyền thống" hơn thì dùng 1 miếng nón lá cũ rách, 1 miếng giẻ quần hoặc gấu quần rách, bôi vào ít vôi tôi. Rồi quấn lại với nhau mà đốt. Tay khua mồi lửa đuổi vía đi, miệng thì đọc chú vài lần : "Đốt vía đốt vái, con giai đốt ..ái, con gái đốt ..ồn, ba hồn chín vía. Vía lành thì ở, vía dữ thì đi. Còn thắc mắc gì, tao thì tao …. đốt. Đốt vía đốt vái … " Có thể do quan niệm : Nón rách, giẻ quần và vôi tôi là những thứ cũ, bẩn và có tính khắc sát. Kết hợp với lửa cháy phừng phừng khiến vía dữ kinh hãi mà bỏ đi.
-
3/ Tại sao lại phải ”trộm vía” khi nói về trẻ con. Thế nào là chạm vía ? Trong tập tục kiêng kỵ dân gian, chê đứa bé xấu xí thi người ta thường tránh vì lý do tế nhị và lịch sự. Còn khen ngợi những cái tốt của đứa trẻ, nhất là trẻ sơ sinh người ta thường tránh (kiêng) khen trước mặt chúng thậm chi trước mặt bố mẹ chúng. Nếu buộc phải nói hay lỡ nói thì người ta dùng kèm câu « trộm vía ». Ví dụ : - Nói trộm vía chứ thằng cu nó ..............!!! Sao không nói là ” trộm hồn” mà lại là ” trộm vía” ? Theo Chương Lễ Tế ký ( trong Lễ Lý) nói : ” Khí là sự thịnh vượng của thần. Phách là sự thịnh vượng của qủy. Khí tức ý của hồn, cổ nhân thường hợp Hồn và khí làm một để nói ” Bởi vậy trong hình minh hoạ hồn phách của bộ Hùynh Đình Kinh (dẫn ở trên) mô tả 3 hồn là những hình người đạo mạo, nghiêm túc. Còn 7 phách là một lũ « đầu trâu mặt ngựa » hình thù cổ quái. Hồn xuất khỏi xác chỉ ngao du. Phách xuất khỏi xác thì lưu đãng, giao thông với quỉ mị. Cũng sách Lễ ký trong Chương Lễ Tế Nghĩa nói : ” Tri giác của con người thuộc Hồn, hình thể con người thuộc Phách ” Với tính hồn là dương thì giáng nên trầm ổn . Phách là âm thì thăng nên linh động. Như vậy có thể hiểu hồn có tính chín chắn, nghiêm túc … khó bị tác động. Còn phách thì lông bông,hời hợt … dễ bị tác động và còn thích tác động. Nói 7 Phách là thất tình (Hỷ - Nộ - Ái - Ố - Ai – Lạc - Dục ) là chưa đúng. Nhưng 7 Phách thích( muốn, dựa theo) thất tình thì phù hợp hơn. Bởi thế nên phần hồn khó ”chạm”, phần Phách thì dễ ”chạm” hơn. Nên chỉ chạm vía chứ không có chạm hồn. • Chạm vía là thế nào ? Là những trường hợp không thuận lợi, không hay xảy cho một đối tượng ( thường là người hay con chó con mèo…. như nói ở trên, ngoài ra còn có vật nữa ) khi có sự xuất kiện của người có vía dữ (vía nặng). Người ta ai thì cũng có vía rồi, nhưng ở một số người do bản chất cá nhân, hay do ảnh hưởng bởi môt vấn đề sức khoẻ nào đó cái Vía nó (dễ ) ” hung” lên, ”cuồng” lên bốc lên hăng hơn cả bản chất của nó. Trong môi trường nhạy cảm, hay trước môt đối tượng nhạy cảm, sức phản kháng yếu ( như trẻ sơ sinh, mèo chó mới đẻ, người chuẩn bị đi xa….) thì cái Vía ”hung” đó sẽ tác động không hay lên đối tượng thông qua Khí ( trường khí môi trường) , khiến đối tượng thấy khó chịu từ đó khiến đối tượng biểu hiện hoặc phản ứng bằng cách khóc thét ( trẻ con sơ sinh) ; mất khả năng kiểm soát trở lên hung bạo ( mèo mẹ cắn chết mèo con) hoặc chấp nhận sự thất bại ( hũ tương ) – Trong tập tục kiêng kỵ dân gianm, các cụ xưa thường không cho phụ nữ đến kỳ kinh vào tương ( bỏ đỗ tương lên men vào hũ ngâm thành tương hột, tương bần…) vì nếu như vậy chắc chắn các hũ tương đó đều bị thối. Ngoài ra người phụ nữ đến kỳ bẩn người còn bị kiêng nhiều việc khác nữa. Có thể là do người phụ nữ khi ở thời điểm này, cái Vía ( phách) trong người có sự biến động theo xu hướng tiêu cực. Từ đó khi tham gia vào các việc có tính nhạy cảm, cái Vía đó dễ làm hỏng việc. • Trộm vía : Do cái tính Vía ham vui, lông bông … như vậy nên trẻ con khi còn nhỏ Hồn, Ý và Trí chưa đủ lớn mà kiểm soát, chế ngự cái Vía. Khi người lớn khen ngợi thì : 1 – Cái vía dữ của người lớn dễ theo đó mà phát ra ”trường khí ” xấu tác động lên chúng. 2 - Bản thể cái Vía trong chúng (đứa bé) lại “ rạo rực ” lên trước cái khen ngợi đó. Tất cả hai yếu tố đều làm ảnh hưởng đến sự ổn định của đứa trẻ. Khiến nó khó chịu, khó ở, khó mau ăn chóng lớn …. Đúc rút từ các biểu hiện trong đời sống dân gian kết hợp với kiến thức Đạo giáo, người xưa thường kiêng khen điều gì hay ở những đứa trẻ. Hoặc có nói thì phải kèm " trộm vía' ( ý là nói lén, nói trộm, nói sau lưng.) Ngày nay, chuyện nói « trộm vía » vẫn khá lưu hành. Người miền Nam hay nói “ngược” khi khen ngợi trẻ con như : trông ghét thế, dễ ghét không. Thiết nghĩ ngoài cách nói lái, thì đây là cách nói tránh cũng hay. Thậm chí nhiều người dù khen , chê gì không biết nhưng cứ nói đến trẻ nít đều dùng trạng ngữ « trộm vía » còn rất kỹ lưỡng. Là vì ngày nay sinh sản hạn chế , trẻ con qúi như vàng (Ấy chết, nói trộm vía qúi như …ứt mới đúng :) ) 4/Tại sao lại là đốt vía chứ không phải rửa vía ? ( còn nữa )
-
2/ Tại sao nói là ba chìm, bảy nổi : Thành ngữ ba chìm , bảy nổi thường được dùng để chỉ (ví) tình trạng, hoàn cảnh không ổn định, vất vả, lên xuống ( thăng trầm) của con người hay một đối tượng nào đó. Có lời giải thích ba chìm bảy nổi là : Ba và bảy là hai số đếm. Khi tham gia tổ hợp, chúng biểu tượng số lượng không phải một, cũng không phải ba hay bảy cụ thể …. Vậy tại sao không là năm chìm bảy nổi hay bốn chìm sáu nổi ….? Cũng là số lượng không phải là một, cũng là không phải là bốn hay sáu cụ thể ? Thật ra đây là ẩn ngữ cho trạng thái âm dương của Hồn Vía ( Phách) mà thôi. Như đã nói ở trên 3 Hồn là Dương – Dương giáng( trầm), nên gọi là 3 chìm. 7 Phách là âm – Âm thăng, nên gọi là nổi. Xem bức tranh minh hoạ sau ta sẽ thấy rõ ẩn ý đó Tam hồn thất phách Rồi cũng do cách quan niệm nam 7 vía , nữ 9 vía như đã phân tích ở trên lên mới có trạng thái : chín lênh đênh nữa ( lênh đênh là nửa chìm nửa nổi ) Phải chăng vì cái chín lênh đênh này mà người xưa có trường hợp kiêng kỵ : Khi xuất hành rất kiêng trường hợp ra ngõ gặp gái. ? “ Xui quá! Sáng nay ra ngõ gặp gái chả được cái việc gì” Không phải là ngày xửa ngày xưa nữa, mà ngày nay không thiếu người trước khi xuất hành ra khỏi ngõ đi xa, đều phải cử người nhà ra chông chừng khi nào không thấy đàn bà con gái xuất hiện trưíơc ngõ mới hú lên gọi người trong nhà bước ra. Rõ : Ba chìm, bảy nổi chín lênh đênh ??? ( còn tiếp)
-
II – HỒN VÍA ( PHÁCH ) !!! Xuất phát từ Đạo gia (Đạo Lão ) Đạo của những người tu tiên. Khái niệm hồn phách xâm nhập cuộc sống dân gian. Vía chính là Phách theo cách gọi của người Việt. 1/ Hồn vía (phách) là gì ? Tại sao nam ba hồn bảy vía, nữ ba hồn chín vía ? Đạo gia quan niệm con người ta khi còn sống có thân (xác) trú trong thân xác đó có thần, hồn, phách, ý và trí. Vụ Thành Tử chú ”Thái Vi Linh Thư ” viết : Người ta hồn có ba, là : Sảng Linh 爽 靈, Thai Quang 胎 光, và U Tinh 幽 精. Mỗi tháng cứ ngày mồng 3, 13, 23 là hồn lìa thân xác đi chơi, phải biết phép nhiếp hồn. Tam hồn Phách có bảy, là: Thi Cẩu 尸 苟 Phục Thỉ 伏 矢, Tước Âm 雀 陰, Thôn Tặc 吞 賊, Phi Độc 非 毒, Trừ Uế 除 穢, và Xú Phế 臭 肺. Mỗi tháng các ngày Sóc 朔 (Mồng 1), Vọng 望 (15) Hối 晦 (30), là phách lưu đãng, giao thông với quỉ mị, cần phải biết phép hoàn phách. Thất phách Hồn là Dương thần, Phách là âm thần cư trú trong cơ thể con người. Sách Nội kinh nói : “ Hồn Phách đầy đủ mới thành hình người ”. Tiết Bạch Sinh chú : “ Khí và hình thịnh thì hồn phách thịnh; Khí và hồn suy thì Hồn Phách suy. Hồn là sự rạng rỡ của Phách, Phách là gốc gác của hồn. Phách là âm chủ về tiếp nhận và cất trữ, nên Phách có thể ghi nhận sự việc. Hồn thì dương chủ về sử dụng, nên Hồn có động tác và phát huy. Cả hai Hồn và Phách không thể xa lìa nhau. Tinh tụ thì Phách tụ; Khí tụ thì Hồn tụ, tạo thành cơ thể con người. Đến khi tinh kiệt thì Phách giáng, khí tán thì Hồn rong chơi bên ngoài ( thân thể ) mà không biết nơi nào …” Chu Tử nói : “ Không có Hồn thì Phách không thể tự tại, khiến người ta đa tư lự. Hồn nóng Phách lạnh, Hồn động Phách tĩnh “ Và như giải thích của Đào Duy Anh : Hồn là cái linh phụ vào phần khí của người, là phần khinh thanh, người ta chết thì bay lên không; còn phách là cái linh phụ vào phần hình của người, là phần trọng trọc, khi người ta chết thì tiêu xuống đất. Ngoài ra trong Tiên học diệu tú của Lý Lạc Cầu đã cho đến 10 thuyết khác nhau về hồn phách. Tuỳ theo mỗi ngữ cảnh cụ thể mà khái niệm hồn phách khác nhau. Tóm lại có thể hiểu nôm na là : Hồn và Phách( Vía) là hai dạng thần thể cư ngụ trong thân xác con người ta. Khi còn sống Hồn Phách còn, khi chết đi Hồn bay lên( thăng) phiêu du đâu đó. Còn Xác thân và Phách thì tiêu tan. Vì vậy trong dân gian mới có hiện tượng lên đồng gọi hồn, cầu hồn người chết chứ không có gọi phách, cầu phách người chết bao giờ. Từ khái niệm Hồn có ba (Sảng Linh, Thai Quang, và U Tinh) và Phách có bảy ( Thi Cẩu, Phục Thỉ, Tước Âm, Thôn Tặc, Phi Độc, Trừ Uế, và Xú Phế ) mới nói người ta có ba hồn bảy vía l à như vậy . Một thuyết nữa là theo Chu Tử toàn thư nói : “ Hồn thuộc Mộc, Phách thuộc Kim” cho nên nói tam hồn thất phách là vì đó là độ số của Mộc và Kim? Còn nói Nam có ba hồn và bảy vía do phụ vào thất khiếu, Nữ có ba hồn và chín vía do phụ vào cửu khiếu. Thì dò tìm trong các tài liệu về Đạo gia chưa thấy khái niệm như vậy. Giả thuyết được đặt ra là. Các đạo sĩ phần đa ( hầu như toàn bộ) là nam giới, nên họ chỉ khám phá con người nam giới. Còn con người của nữ giới bị bỏ ngỏ. Và các cụ nhà ta phát giác ra điều này ? Theo nhận định của người viết thì người xưa có nhầm lẫn ở chỗ này. Trên cái thân con người có Cửu khiếu ( 2 mắt, 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi , 1 miệng, lỗ sinh dục và hậu môn ) đó là cửa ngõ của ngũ tạng và thân thể giao thông với bên ngoài. Vụ Thành Tử chú : “ Thái Vi Linh Thư “ đọan về hoàn Phách như sau : Vào nửa đêm các ngày mồng một và rằm của mỗi tháng , 7 Phách lêu lổng bên ngoài thân ta, chơi bời với bọn qủy mị . Cách kiểm soát, chế ngự và gọi Phách về ( hoàn Phách) là vào những đêm đó phải nằm ngửa , duỗi chân, hai bàn tay che bít hai lỗ tai và để các ngón tay tiếp xúc với gáy, bế hơi thở 7 lần, gõ răng vào nhau 7 lần, tập trung tư tưởng vào đầu mũi. Luồng khí trắng lớn bằng hạt đậu nhỏ , rồi lớn dần dần che kín thân thề trên dưới 9 lần. Khí này bỗng nhiên biến thành 2 con rồng xanh ở 2 mắt và hai cọp trắng ở 2 lỗ mũi, tất cả đều hướng ra ngoài. [ và khí này cũng] biến thành con chim đỏ ở trên tim hướng ra ngoài cửa miệng người ta …….. Sao lại như vậy ? Do Hồn là Dương, Phách là âm. Theo quy luật Âm thăng Dương giáng lên Phách ( Vía) khi muốn xuất nhập ra ngoài cơ thể phải thông qua 7 khiếu bên trên. Chứng kiến một người ở trạng thái Hồn xiêu Phách tán sẽ thấy : Thân thể đờ ra, hai mắt thất thần trợn ra không chớp hoặc nhắm tịt lại đồng tử không động đậy, mồm miệng há hốc hoặc ngậm cứng ngắc, hai lỗ mũi trơ ra như không thở hoặc thở rất yếu, tai ù điếc đặc chẳng nghe thấy gì ( nhiều người quật ra mà y học gọi là ngất xỉu ) Với người nam chỉ có như vậy. Còn đối với người nữ có một biểu hiện nữa là hai núm vú teo cứng và thâm lại. Cách quan niệm 9 vía của người Nữ do phụ thêm 2 khiếu bên dưới ( lỗ sinh dục và hậu môn ) không thuyết phục bằng quan niệm thất khiếu cộng 2 núm vú ( mặc dù là nhầm lẫn ). Vì thứ nhất người nam cũng có 2 khiếu đó ( mà nam mới đúng là 9 lỗ, còn nữ đúng ra là 10 lỗ chứ không phải là 9 ) Thứ 2 theo qui luật âm thăng dương giáng , nếu khi Phách mà tán xuống dưới, đó là ngược qui luật thì chỉ có chết. Chu tử Toàn Thư nói :” Lúc người ta sắp chết hơi nóng đi lên gọi là Hồn thăng. Còn dưới thân thể dần dần lạnh, đó là Phách giáng” Người chết thân xác lạnh từ chân lạnh dần lên, bởi vậy các cụ ta xưa nói sống từ trên sống xuống, chết từ dưới chết lên là như thế. Do từ xưa Đạo giáo( Đạo Lão) dù vào nước ta nhưng không xâm nhập nhiều vào đời sống nhân dân. Những người biết đến đạo Lão thường là phần nhiều các bậc Nho học vậy. Ý tứ của Nho thì thâm xa, nhân dân dễ hiểu một cách phập phù. Từ đó dẫn đến những nhầm tưởng từ biểu hiện , từ hiện tượng dễ quy hành bản chất, nên nhầm giữa “cửa ngõ lưu thông” và biểu hiện lúc Phách tán như nói ở trên mà cho rằng 7 vía của nam là phụ vào thất khiếu bảy vía của nữ phụ thuộc vào thất khiếu + 2 núm vú là như vậy. Riết rồi thành thói quen rồi thành "thật" là như vậy. Thậm chí có quan điểm cho là : Bảy vía chính là bảy trạng thái Thất tình ( hỉ nộ ái ố ....) của con người. ??? Giống như ở thời nay, người dân ta quen miệng hay gọi tất cả những xe gắn máy đều là xe HonDa. Là vì xe gắn máy hiệu Honda có một thời kỳ quá phổ biến và quen thuộc trong đời sống nhân dân. Và tất cả xe hiệu Yamaha hay Suzuki đều được gọi là xe HonDa tuốt. Ở miền nam Việt Nam, có một thời kỳ người dân gọi bia là La-zde. Bởi vì hãng bia nhãn con cọp hiệu Lareu vào miền nam đầu tiên và rất phổ biến hồi đó. Người ta không gọi cái thứ dung dịch quyến rũ đúng tên là bia mà là la-zde. Lâu dần thành quen “chiều nay anh em ta đi lai rai vài chai Laser …..Sài Gòn đỏ hử ” !!! Theo tôi thì ngừơi ta Nam như Nữ chỉ có 3 Hồn Và 7 Vía thôi. CÔNG MINH
-
HÔN VÀ VÍA I - "HỒN" VÀ "VÍA" TRONG ĐỜI SỐNG : Theo phong tục Việt Nam, người xưa quan niệm người ta sinh ra có thể xác thì có hồn vía, đàn ống ba hồn bảy vía, đàn bà ba hồn chín vía. Trẻ sơ sinh khi có người vía dữ tới thăm thì khóc không thôi, có khi phát sốt phát rét. Trong trường hợp này, người nhà phải đốt vía. Có khi vì quá sợ hãi bất thần như bị ngã, bị kinh động… đứa trẻ có thể bị mất vía, hoá ra ngớ ngẩn, lúc ngủ hay giật mình. Muốn đứa bé trở lại bình thường, phải làm lễ chuộc vía. Một số nơi khi gia đình có người chết, trước khi nhập quan phải cử người nhà cầm áo người chết leo lên mái nhà đi lối đằng trước hú vía : “ ba hồn bảy vía ông … ở đâu, về với con “ hay “ Ba hồn chín vía bà … đâu, về với con. Đoạn trèo xuống lối đằng sau, cầm áo ấy phủ lên thây. Một phần có ý cầu cho người ấy sống lại. Phần để kiểm tra lần cuối xem đã đúng là chết thật chưa, thì mới cho tiến hành thủ tục tẩm liệm. Trong tản văn NGUYỄN VIẾT CHỘP của nhà thơ Trần Đăng Khoa, có miêu tả rất sinh động hình ảnh này “….Ông cụ thân sinh lão Chộp có đến 5 người con, ba trai, hai gái, trong cứ đều thau tháu, đẹp như tranh vẽ. Chúng chỉ bị đậu mùa nhì nhằng. Vậy mà rồi ai ngờ, chúng cũng lại cướp công cha mẹ, chúng theo nhau đi hết. "Hú ba hồn chín vía cái Gái ở đâu thì về...". "Hú ba hồn bảy vía thằng B… Khoăm ở đ âu thì về với chị, với em nhớ...". "Hú ba hồn chín vía...". Đêm nào, làng cũng cồn lên những tiếng hú hồn như thế. Tiếng hú eo éo, rờn rợn trên những tán cau, bụi chuối đen ngòm, vọng từ cổng đồng vào đến từng ngõ xóm tối sẫm, hun hút mưa phùn gió bấc và rông rốc tiếng chó sủa, rồi lại từ ngõ xóm vòng ra ngoài cổng đồng. Những người đàn bà lớn tiếng, cả hơi đều được sung vào đội quân hú hồn. Thỉnh thoảng cũng có đứa tỉnh lại. Ấy là hồn chưa đi xa, chưa bị lú đường, còn nghe được tiếng hú gọi mà lần về nhập vào xác. Còn nhiều đứa hồn đã lìa, mà không kịp gọi ngay là coi như đi đứt. Chúng đã bị Giời bắt. Bà đồng Hỷ khoát tay quả quyết vậy.” Đấy là thời xưa còn thời nay thi sao.? Thỉnh thoảng trong giao tiếp chúng ta thường bắt gặp những câu chuyện nói về những đúa trẻ mới sinh. Một số người có câu cửa miệng là “trộm via” như : “ trộm vía thằng bé, nó ngoan lắm bác ạ” hay “ trộm vía con bé, chứ nó giống mẹ như đúc da cứ trắng bóc như trứng gà bà ạ “. Trong giao tiếp hay bắt gặp câu đe nẹt : Liệu hồn , giờ hồn, liệu cái thần hồn..... VD: Cô giáo bảo học sinh : " các cô các cậu đi về lớp đi, còn đứng đó láo nháo làm mất trật tự thì cứ liệu " hồn " đấy ! " Còn chuyện đốt vía thì đủ kiểu : Đốt vía dữ cho trẻ nhỏ như câu chuyện đã kể ở trên. Trên webtretho có một topic của các bà mẹ trẻ trao đổi về chuyện đốt vía cho con, một nick tên là S.. có lời tâm sự rất “thú vị ” : “ Mình cũng (định) chả tin vụ này đâu nhưng mà mấy lần con nó khóc dữ quá, dỗ thế nào cũng không được, gọi điện cho đứa bạn cũng có con nhỏ, chồng lại là bác sĩ nhi, nó bảo: không đói, bỉm sạch thì chả có gì phải lo, cứ đốt vía, hơ, hóa ra chồng là bác sĩ nhi mà vợ vẫn đốt vía khi con khóc đấy. Mình làm theo, cu cậu nín thật, chắc 1 phần cũng tại nhìn thấy lửa lạ lạ nên mải tập trung vào chuyên môn nhìn quên mất chuyên môn khóc “ Nếu có thời gian rảnh, vào các buổi sáng thử rảo qua các chợ, chúng ta dễ bắt gặp cảnh các bà, các cô cầm tờ báo đốt lửa hua hua khắp gian hàng của mình. Họ đốt vía người mở hàng hoặc người vào trả giá rồi không mua, khiến cửa hàng của họ bị ế ẩm. Trong văn học chúng ta cũng dễ bắt gặp thành ngữ kinh hồn bạt vía hay hồn xiêu phách tán, hồn vía lên mây ….. để miêu tả cái sự hoảng sợ của con người. “Đánh trận một hồn xiêu phách tán Đánh trận hai tan tác chim muông Trận ba thân thể … trần truồng ” (ý là không còn mảnh giáp ) Hồn vía đôi khi còn được sử dụng ví von như cái tinh tuý của một người, một đối tượng nào đó “ Những câu thơ vừa nhặt nhạnh được trên đây theo tôi là những "câu thơ hồn vía" của Lê Khánh Mai. Và tôi tin rằng đó là những câu thơ hay của Lê Khánh Mai và của thơ hiện nay ” - T.V.S(TC Sông Hương số 155 tháng 01/2002) “ Trong những năm tháng xa quê, Tấn vẫn luôn lưu giữ hình ảnh Nhuận Thổ với vẻ đẹp tươi sáng của tuổi thơ hay chính là lưu giữ hình ảnh quê hương. Nó là vùng sáng quê hương, hồn vía quê hương” – ( Trường trung học cơ sở thái thịnh - Chào mừng các thầy cô về dự hội giảng giáo viên giỏi năm học 2006-2007- Giáo viên thực hiện: Phạm Thị Linh- Cùng Tập thể : Học sinh lớp 9A Mục kiểm tra bài cũ ) Vây hồn vía hay hồn phách là gì mà gớm ghê thế nhỉ ? */ Theo Đào Duy Anh trong "Việt Nam văn hóa sử cương", (xuất bản 1938), Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Tháp (tái bản năm 1998) , thì : Hồn là cái linh phụ vào phần khí của người, là phần khinh thanh, người ta chết thì bay lên không; còn phách là cái linh phụ vào phần hình của người, là phần trọng trọc, khi người ta chết thì tiêu xuống đất. Đàn ông có ba hồn phụ vào tam tiêu và bảy phách (vía) phụ vào thất khiếu, đàn bà thì có chín phách (vía) phụ vào cửu khiếu. Và chú thích: + Tam tiêu là miền miệng trên dạ dày gọi là thượng tiêu, miền giữa dạ dày gọi là trung tiêu, miền trên bàng quang là g ọi l à hạ tiêu. + Thất khiếu là bảy cái lỗ trên mặt: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, và miệng. + Cửu khiếu là thất khiếu với hai khiếu: lỗ sinh thực khí và hậu môn */ Theo Hoàng Quốc Hải "Văn hóa phong tục", Nhà xuất bản Phụ Nữ, 2005. chương "Việc tang việc hiếu" ghi rằng: Theo quan niệm cổ xưa, con người có 7 lỗ (thất khiếu) để hấp thụ vật chất, tinh thần mà trưởng thành. Bảy lỗ đó là : hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi và miệng. Đàn bà có thêm lỗ vú và lỗ sinh dục để đẻ và nuôi con. Khi hết chức năng sinh đẻ lại trở về thất khiếu (Phật giáo phân biệt các động vật cao cấp, hễ đã có cửu khiếu (9 lỗ) đều có thể tu Phật. Vì vậy, trong lịch sử có Tôn Hành giả gốc từ con khỉ. Cửu khiếu trong trường hợp này kể cả đàn ông và đàn bà tính theo thế ổn định : 2 lỗ tai, 2 lỗ mắt, hai lỗ mũi, miệng, lỗ sinh dục, lỗ bài tiết). */ Còn có quan niệm cho rằng con người ta, cả đàn ông và đàn bà, được coi là có chín cửa (cửu khiếu) để giao hòa với đại vũ trụ. Khi sống, cả 9 khiếu đều đóng hay mở theo những thời điểm phù hợp để con người hòa hợp được với đại vũ trụ, nhưng khi chết thì cả chín khiếu phải đóng lại để hồn có thể thoát ra từ trên đỉnh đầu lên trời (trở về với đại vũ trụ hay siêu thoát), tức là giúp cho hồn không bị siêu tán (tản mạn, phân tán), nhằm sau này có thể đầu thai trở lại làm người. Đàn ông được coi là dương, có tính chất thăng (lên cao) nhiều hơn nên phần hồn có lẽ tập trung ở phía trên nhiều hơn so với đàn bà là âm có tính chất giáng (trầm lắng) nhiều hơn. Do vậy, theo quan niệm của người xưa, khi người ta chết, đối với nam chỉ cần đóng 7 khiếu trên để hồn có thể bốc lên. Bảy khiếu của đàn ông đều ở phần trên của cơ thể nên đôi khi gọi là thất khiếu dương, còn đối với nữ phải là cả 9 khiếu, trong đó có 2 khiếu ở phía dưới (khiếu âm). */ Có cách giải thích nữa là : Xưa nay, người bình dân chỉ quan niệm giản đơn rằng, người ta sống là do có tinh thần tức là “hồn vía” nhập vào thể xác. Khi hồn vía lìa khỏi xác thể thì cũng là lúc con người từ bỏ thế giới này mà về nơi “chín suối” với tổ tiên. Tất cả cái tinh anh khí phách của người đàn ông hợp thành ba hồn bảy vía, còn tất cả cái khôn ngoan tháo vát ở người đàn bà hợp thành ba hồn chín vía. Chính vì thế, ở dân tộc Kinh, mỗi khi có người ốm “thập tử nhất sinh” hoặc bị tai nạn “bất tỉnh nhân sự”, tính mạng bị đe dọa thì người ta thường trèo lên mái nhà hoặc chạy ra ngã bảy, ngã ba mà vừa đi về và vừa gọi hồn vía người bị nạn để mong cho họ đừng “bỏ đi” xuống “suối vàng”. Hoặc giả, nếu họ có chết thì hồn khỏi bị lạc đường, bơ vơ dễ sa vào bàn tay bọn ma quỷ “vô lại”, làm công cụ để hại người lương thiện. Sự gọi hồn ấy, tuỳ theo người bị nạn là nam hay nữ mà gọi ba hồn bảy vía hay ba hồn chín vía. Đồng bào dân tộc thiểu số cũng có quan niệm về hồn vía như trên, có điều hồn vía được phân biệt thêm là có vía lành, vía dữ. Khi chết, vía lìa khỏi xác và hồn đi sau cùng. Người Tày, Nùng không gọi hồn như người Kinh, người ta tổ chức hát then, cúng tế để gọi hồn người chết về. Nhưng nguyên do của ba hồn bảy vía và ba hồn chín vía là ở đâu? Tại sao đàn ông lại chỉ có “bảy vía” mà đàn bà lại “chín vía”? Đó là những câu hỏi không dễ giải thích ngọn ngành, chỉ biết rằng từ xưa người Việt đã có quan niệm và xử sự như vậy. Tìm về với tôn giáo, chúng ta thấy sáng rõ được nguồn gốc của quan niệm trên. Thật ra, đó là xuất phát từ quan điểm duy tâm của Đạo Giáo. Theo kinh sách của Lão Tử, hồn là cái linh, thuộc vào phần khí của con người, phách (vía) là cái linh, phụ thuộc vào phần hình của con người. Hồn là phần khinh thanh (nhẹ) phách là phần trọng trọc (nặng). Vì vậy, khi nguời ta chết, hồn bay về trời, còn phách thì tiêu xuống đất theo thể xác. Hồn thì tồn tại mãi mãi, phách và xác thì sẽ tiêu tan. Đàn ông và đàn bà đều có ba hồn phụ vào tam tiêu (tam tiêu là ba miền thượng tiêu là phần trên dạ dày, trung tiêu là miền giữa dạ dày và hạ tiêu là miền trên bàng quan), song chỗ khác nhau giữa đàn ông và đàn bà là: Đàn ông có ba hồn và bảy phách phụ vào thất khiếu (thất khiếu là bảy lỗ trên mặt: hai mắt, hai tay, hai mũi và miệng), còn đàn bà có ba hồn và chín phách phụ vào cửa khiếu là thất khiếu + lỗ sinh dục và hậu môn). Quan niệm về hồn vía ở trên, không ai khác, chính là do các bậc nho học truyền bá và ảnh huởng sâu rộng trong dân gian đến mức người ta chỉ còn biết cái ngọn của nó và tin theo, làm theo. */ Theo Bạch Liên trong bộ “ Con người là ai xuống cõi trần làm chi “ Nhà xuất bản Tùng thơ năm 1949 lại phân con người gồm có Xác thân, cái hồn, cái vía,cái phách,cái trí . Trong đó cái Vía và cái Phách được mô tả như một trường sinh học bao phủ xung quanh con người ……. */ Trong cuốn "Bí Ẩn Sau Cõi Chết " ông Ðoàn Văn Thông có giải thích và ghi chú tại sao "nam thất nữ cửu," nghĩa là đàn ông chỉ có bảy vía mà đàn bà lại có đủ chín vía? Nếu ta chấp nhận theo ý nghĩa xưa - không hẳn đúng với sinh lý học (physiology) hay giải phẫu học (anatomy) ngày nay vì lẽ dễ hiểu khoa học chính xác chỉ mới có 5, 10 thế kỷ gần đây - những khí hay hơi, hay vía, hay phách phải thoát ra từ những lỗ (chữ Nho là khiếu) thì con người có cửu khiếu, chín lỗ hổng, đó là: hai mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi, một miệng, một lỗ tiểu, và một hậu môn. Vậy tại sao nam chỉ có bảy và nữ lại đến chín? Nơi đây một lần nữa, ta coi chừng ý nghĩa của từ và lối dùng từ (với nhiều nghĩa tương đồng) của văn hóa Trung Hoa (và Việt Nam), chẳng hạn khi dùng số 5, có khi 5 không phải là số lượng, 1, 2, 3, 4, 5, mà có thể là thổ, đất hay trung tâm v.v... và chẳng có gì nghịch lý (theo lối suy nghĩ này) là 10 cũng là thổ v.v... Với thời gian và thói quen, người ta dùng lầm chữ này qua chữ khác, như khi nói nam, ta dịch ra là đàn ông, nói nữ dịch ra là đàn bà, phụ nữ, quên là trong bối cảnh nhất định, nam là dương, nữ là âm. Thay vì nói: nam bảy vía, nữ chín vía; ta đặt lại: bảy vía dương, chín vía trong đó có hai vía âm, chúng ta có thể hiểu "câu thai" ấy. Nói người đàn ông không cò và lỗ thì thật là nghịch lý đời, nhưng ta có thể chấp nhận: có thất khiếu thuộc dương vì ở trên đầu (phía trên), vì hướng lên (mắt, tai, mũi, miệng) và hai khiếu kia thuộc âm (không phải chỉ thuộc phụ nữ) là ở dưới thấp, hướng xuống dưới. Một nhà nghiên cứu Dịch học tạm thời chấp nhận giải thích trên. Cũng có thể có những lối giải thích khác rõ ràng và thực tế hơn. (Theo giải thích của học giả Cung Giũ Nguyên). Những cách giải thích trên theo tôi chỉ mới miêu tả hiện tượng dân gian, còn thiếu sót và đơn giản trong cách giải thích. Lại có những phần lại tự “đặt” vì mục đích khác. Vậy hồn vía hay hồn phách là gì ? Tại sao nam ba hồn bảy vía, nữ ba hồn chín vía ? Tại sao lại có thành ngữ : Ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh ? Tại sao lại nói ” trộm vía” và chạm vía ? Tại sao lại là đốt vía chứ không phải rửa vía ? Tại sao lại có Hồn Xiêu Phách tán Tại sao lại nói to gan lớn mật và ngược lại là nhát gan ? Tại sao có thành ngữ thần hồn nát thần tính ? Và nhiều abc khác .... CÔNG MINH
-
Cụ tinh thật. Còn bộ đồ mới cáu chưa một lần được giặt ô - mô nữa. Đây là chủ đề " Tân cổ giao duyên" Cụ ạ. Ngày xưa, CM có hiến kế cho anh bạn sáng tác bức : " Điệu múa miền quê ". Đó là hình một cô gái vẩy rau sống. Rau sống ở ngoài Bắc trước khi ăn người ta thường vẩy cho khô nước, chứ ko để ướt rượt như trong Nam. Vẩy rau là cả một ...kỹ mỹ thuật. Từ tư thế đứng , động tác nghiêng mình, vươn tay.... khéo lắm. Đảm bảo các cô gái phố cho vẩy rau, thì sẵn sàng cho mọi người ăn lẩu với đất và cát ngay. Chọn một em gái quê chính hiệu, dáng đẹp như người mẫu, ăn mặc đúng chất để vào vai. Ảnh được chụp ở tốc độ chậm. Ngoài tư thế động tác như múa, thì khi cô gái vung tay vẩy rổ rau lên, có cả một vạt nước hắt vòng cầu lên trời. Gặp ánh nắng chiếu xiên, lung linh lên như cầu vồng. Bức ảnh đẹp về bố cục, ánh sáng và nội dung.Mọi người khen lắm. Nhưng về sau, có một điều bị phát giác là nhìn kỹ thấy cái rổ đựng rau là rổ nhựa PVC. Chứ ko phải rổ tre đan. Anh bạn bị quê. Vứt bỏ cả phim lẫn ảnh. Thế là toi một tác phẩm. Tiếc là hồi đó chưa có máy ảnh số xịn để chụp hình nghệ thuật. Nếu ko CM xin lưu một bản, nay gửi cho mọi người thưởng lãm. Cũng chả trách tác giả được. Ôi một thời tre lá. Không biết bây giờ còn bao miền quê có các cụ già ngồi đan Dậm, xỏ lờ. Nào giần, sàng, nong, nia, rổ rá tre đi vào dĩ vảng . Bởi cái thời hiện đại đã "xâm chiếm" làng quê : đánh bắt cá bằng kích điện. Xay xát gạo thóc bằng máy liên hoàn. Rửa rau, rửa gạo bằng rổ rá nhựa, nhôm và ino'k... Bây giờ, Cụ Nguyễn Bính mà còn chắc sẽ có bài Chân Quê ....số 9 Công Minh
-
SỰ ĐỘC ÁC .... dịu dàng CỦA PHỤ NỮ :rolleyes:
-
Thật ra thì ở đời này chả có gì khó, mà cũng chả có gì dễ. Có cái khó với người này thì lại dễ với người kia. Vấn đề học thì có 2 yếu tố đủ : Thông minh ( có căn - duyên gọi cho nó đông phương huyền bí ) và cần cù chịu khó ( ham học). Trong các môn lý học và huyền thuật Đông phương có thể chia ra 3 nhóm chính - Các môn cơ bản mang tính dự đoán ( hay còn gọi là bói) như Tử vi, tử bình, tướng mạo, độn đoán ... - Các môn ngoài tính dự đoán có kỹ thuật can thiệp để điều chỉnh "hoàn cảnh" như Phong thủy, Đặt tên, bùa chú ..... - Các môn ngoài tính dự đoán có định hướng cách quan hệ xử trí trong quan hệ cuộc sống : Dịch, Bát tự .... Các môn kia có thể gọi là kỹ thuật "nội khoa". Phong thủy là ngoại khoa vì có đụng "dao kéo". Biết về phong thủy và biết về các môn dự đoán khác nữa, thì mổ xẻ càng "chắc tay" - Kê toa cho thuốc càng chính xác nữa . Vài dòng "bàn loạn " Công Minh
-
PHỞ Nguyễn Tuân Xứ Phần Lan rừng thông trùng trùng xanh ngắt, nước hồ biếc biếc, phụ nữ da trắng một màu tượng tuyết, gái trai quần áo len ngũ sắc người nào cũng như nai nịt sắp biểu diễn điền kinh . Mình thành ra lạc lõng vào một thế giới vật chất nó sạch sẽ quá, sạch đến cái mức tạo cho tôi một thứ nghi ngờ nơi đây là một ấn tượng giả tạọ Cảnh và người Hen-xanh-ky, ví phỏng đây đó lem nhem đi ít chút, có lẽ tôi dễ thân gần hơn. Chúng tôi ở đây mười ngày, mỗi ngày họp trả tiền ăn mỗi người là sáu đồng đô la, nó là cái tiêu chuẩn đã khá cao của đoàn đại biểu ta đi hoạt động quốc tế. Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thãi bổ béo; nghi thức lúc ăn thật là trang trọng : đồ sứ, pha lê, khăn bàn trắng muốt, quanh bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn trông đẹp như rượu rót trong các truyện thần thoại phương Bắc nàỵ Tôi hào hứng làm việc liền liền ở Đại hội Hoà bình thế giới, cơ thể nhịp đều, tâm trí có nhiều sáng kiến. Nhưng ăn uống sao không thấy ngon. Người ta thường nói rằng những bậc vĩ nhân hoặc hiền giả có chí lớn chỉ biết có sự nghiệp mà rất coi nhẹ miếng ăn. Nhưng trường hợp tôi kể ra đây chỉ là cái trường hợp thông thường của một con người bình thường thôi . Chúng tôi là mấy anh em trong đoàn đi, mỗi người một công tác chuyên môn, nhưng đều cùng đã gian khổ với nhau trong kháng chiến và cũng là người Hà Nội cả. Quanh hồ khu Ô-ta-ni-ê-mi, chúng tôi ngồi dưới rừng thông xanh phân tích với nhau xem tại sao lòng dạ mấy người đang thấy nhớ thương một cái gì xa xôi lắm. Từ hôm xách va ly ra tàu qua nước này nước khác, thế là mấy tháng rồi; ở nhà đã hoàn thành tiếp quản Hải Phòng rồi, đất đai miền Bắc giải phóng toàn bộ rồi ... Nhưng mà chúng tôi đã kéo cuộc nhân đàm xoáy vào chuyện ẩm thực và muốn giúp đỡ nhau tìm hiểu vì đâu mà lâu nay ăn uống kém ngon . Có người bèn chỉ tay thẳng xuống nền cỏ bờ hồ Phần Lan, buông thõng một câu : " Bây giờ có ngay một gánh phở đỗ bên bờ hồ này, thì tớ đả luôn sáu bát ! ". Tất cả đều rao lên. Thì ra gần đây chúng tôi héo hắt đi, vì xa đất nước, khẩu vị lạc điệu, thấy nhớ nhà nhớ nước, trong cái nhớ nhà nhớ đất nước, có cả một sự nhớ ăn phở nữạ Hình ảnh bát phở quê hương đưa ra lúc ấy giải quyết đúng vào thắc mắc chung của mấy ngườị Tất cả đều thi nhau đề cao những đức tính của phở dân tộc. Dưới đây liên tiếp những mẩu chuyện góp về một bát phở, về một miếng ăn kỳ diệu của tất cả những người Việt Nam chân chính. - Này, các cậu có thấy món ăn ở Phần lan có nhiều cái rất kỳ quặc không . Thịt bò rán, lại phết mứt công phi chưa ngọt sắt lên trên . Cam chanh lại ăn kèm với cá gỏị Cơm lại ướp vào tủ nước đá, mình thấy đĩa cơm có khói, lúc ăn buốt đến chân răng . Nghệ thuật ẩm thực tôi gọi tên là lối nấu nướng của trường phái lập thể. Cho nên tôi càng thấy cần phải trở về với món quà cổ điển rất tính chất dân tộc của ta, tức là phở. - Phở còn là một món ăn rất nhiều quần chúng tính. Ông muốn ăn phở ngồi hay đứng lù lù ra giữa hiệu mà ăn cũng không ai nói, ăn ngồi ăn đứng tuỳ thích. Phở là món ăn bình dân . Công nông binh trí, các tầng lớp nhân dân lao động, thành thị, nông thôn, không mấy ai là không biết ăn phở. Người công dân Việt-nam khi còn ẵm ngửa, cũng nhiều vị đã nếm phở rồi; chỉ có khác người lớn là cái bát phở của tuổi ấu trĩ chưa biết đau khổ ấy chưa cần phức tạp, không cần hành hăng, chanh chua, ớt cay . con nhà nghèo, nhiều khi lại không cần cả thịt nữa, mà căn bản phở nhi đồng vẫn là bánh và nước dùng thôi . - Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được. Trong một ngày ăn thêm một bát phở, cũng như lúc trò chuyện ăn giọng nhau mà pha thêm một ấm trà, cùng thưởng thức với bạn bè. Hình như không ai nỡ từ chối một người quen rủ đi ăn phở. Phở giúp cho người thanh bạch đủ điều kiện biểu hiện lòng thành theo với bầu bạn nó hợp với cái túi nhỏ của mình. Phở còn tài tình ở cái chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có nghĩa thâm thúỵ Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt chợt thắm tươi lại . Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người . Đêm đông, có người ăn phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thể ngủ yên đến sáng, để mai đi làm khoẻ. Dùng những hình ảnh bình dị để nói lên mùa đông ở Việt-nam, tôi cho không gì nên thơ bằng cái hình ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều hành khách quây quanh chờ đợi bát mình, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy như trẻ em đang thú đời . Tết, nhà ai cũng bánh chưng, cá kho, thịt đông, nhưng vẫn rất đông người tình cờ mừng tuổi nhau ở những hiệu phở khai trương từ mùng hai Tết. - Vì hay la cà với phở, mà tiếng nói của tôi được chính xác va giầu có thêm lên . Trước kia tôi cứ tưởng chữ " xương xẩu " là một tiếng đôi, và chữ xẩu chỉ là một tiếng đệm. Ông hàng phở đã làm cho từ ngữ tôi hôm ấy thêm lên một danh từ. Xẩu khác với xương, dùng để chỉ những cái đầu xương phở có dính thịt và gân róc chưa hết. Tôi đã thấy những người phu xe kéo vào hiệu phở gọi một chén rượu với một bát xẩụ Tôi còn được nghe một ông phở khác nói đến mỡ gầu, cái tảng thịt dắt mỡ quí giá nó không béo quá, mà lại quánh như sáp, ròn và mềm ấy mà gọi là một cánh gầu; và lúc cầm vào cân thịt tái, thịt tươi còn nhảy lên dưới làn dao, mà gọi là một quả thăn . Trong tiểu thuyết Việt-nam trước đây, nhớ người ta có viết cái truyện " Anh hàng phở lấy vợ cô đầu " . Tôi còn được nghe một cô điếm ngày xưa ví von than đời tàn " đời hồi này như một gánh phở bánh trương mỡ nguội đóng váng ". Phở nguội tanh thật là buồn hơn cả cái sự đời cô gái thập thành bị ma cô lừa bỏ. Chữ nghĩa của ta hay thật ! Người ta bảo chữ phở là xuất xứ từ chữ " ngưu nhục phấn ", và ta đã Việt-nam hoá chữ phấn thành ra chữ phở. Chữ phở nguyên là một danh từ, còn chuyển thành một hình dung từ : cái mũ phở. Chữ nghĩa của ta hay thật ! - Đố biết thế nào là mũ phở ? Lại cứ phải dựng chân dung những người bán phở gánh chân chính ngày xưa thì mới tầm nguyên ra được. Những người bán phở gánh xưa kia có người đỗ ở đầu phố này, hoặc giữa phố nọ, hoặc ở tít trong cùng một cái ngõ cụt, mỗi người một " giang sơn nào, anh hùng ấy ", người mua quen mặt người bán, và người bán thuộc cả thói quen và sở thích ngườ ăn trong phố. Những anh hàng phở " hùng cứ một phương " này lại còn thuộc cả nhân số từng bộ khẩu và ngày giỗ tết trong từng gia đình khách hàng quen của mình. Họ thường là những người làm ăn chân thật, hay mặc một cái áo vành tô vải vàng hoặc dạ màu cứt ngựa của ông bình khố đỏ thải ra, trên đầu là một cái mũ cát mất cả núm chỏm, và nhất là hay đội những cái mũ dạ méo mó đã mất cả băng hoặc rách cả bo . Những cái mũ này đặt lên đầu người nào cũng không chỉnh, mà hình như chỉ đặt lên đầu những bác phở gánh là có một ý nghĩa . Không những thế, cái mũ phở ấy, còn là một dấu hiệu tập hợp, một cái hình thức gây tín nhiệm nữa . Những con người đội mũ rách ấy thường là người làm phở ngon, nếu không ngon thì chỉ ít cũng phải là ăn được. Phở gánh với ông đội mũ phở nay thấy hiếm, chỉ còn phở xe, phở hình tàu thuỷ có ống khói phở, phở quán, phở hiệu . Đồ chơi trẻ con ngày xưa làm bằng sắt tây sơn màu, ở phố Hàng-Thiếc, có ghi lại cái dáng ông phở gánh, bánh xe đồ chơi càng chuyển càng cử động cái cánh tay cầm dao nhấc lên thái xuống . - Phở cũng có những quy luật của nó. Như tên các hàng phở, hiệu phở. Tên người bán phở thường chỉ dùng một tiếng, lấy ngay cái tên cúng cơm người chủ hoặc tên con mà đặt làm tên gánh, tên hiệu, ví dụ phở Phúc, phở Lộc, phở Thọ, phở Trưởng ca, phở Tư ... Có khi một cái tên tật nguyền trên thân thể người bán phở được cảm tình quần chúng thân mật nhắc lại thành một cái tên hiệu : phở Gù, phở Lắp, phở Sứt ... cái khuyết điểm trên hình thù ấy đã chuyển thành một cái uy tín trong nghề bán miếng chín mà lưu danh một thời trên cửa miệng những người sành. Quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân Hà-nội có nhiều sáng kiến để đặt tên cho những người họ yêu tin . Anh hàng phở ấy hãy đứng ở đâu bán hàng, họ lấy luôn cái địa điểm ấy mà gọi thành tên ngườị Bác phở Nhà thương, ông phở Đầu ghi, anh phở Bến tầu điện, anh phở Gầm cầu ... Có khi lấy một vài nét đặc thù trong cách phục sức mà gọi . Cái mũ tàu bay trên đầu ông bán phở thời Tây xưa, đã thành cái tên một người bán phở trứ danh của thủ đô sau này . Có lẽ vì gần với quần chúng trung lưu và người nghèo, nên cũng như " ông chủ " hiệu hớt tóc, hiệu cà phê, tên anh hàng phở cũng chỉ có một tiếng gọn gàng . Tôi chưa hề thấy ông bà hàng phở nào nổi tiếng trong nghề mà tên lại dài lê thê, chẳng hạn như phở Tôn thất Khoa gì gì, hoặc phở Trần thị Kim Anh gì gì đó. Cái tên càng độc âm ngắn cộc, càng đáng cho người mua tin cậy ; cái tên một chữ, gọn như một nhát dao thái xuống thịt chín. Vả lại những biển hàng hiệu phở dù là giữa đất Hà-nội văn hoa mỹ tự, cũng chỉ đặt tên một cách nôm na, không kẻ những chữ huyênh hoang . Tôi chưa thấy biển hiệu phở nào mà lại đề tên một cách quá trầm bổng du dương cả. Ví phỏng có ai mở phở mà nổi máu hay chữ lên mà đề biển thì tôi không bao giờ chọn những hiệu phở có tên như " Thu Phong " " Bạch Tuyết " " Nhất Chi Mai " mà vào ăn . Trong nghề phở, nó cũng có những cái nền nếp của nó. - Nhưng khoa phở đã có những việc nó đòi phá cả những khuôn phép của nó. Theo tôi nghĩ, cái nguyên tắc cơ bản của phở là làm bằng thịt bò. Có thể có nhiều thứ thịt loài bốn chân, loài ở nước, loài bay trên trời, nó ngon hơn thịt bò, nhưng đã phở thì phải là bò. Có phải là vì muốn chống công thức mà người ta đã làm phở vịt, phở xá xíu, phở chuột ? Cứ cái đà tìm tòi ấy, thì rồi sẽ có những hàng phở ốc, phở ếch, phở dê, chó, khỉ, ngựa, tôm, cá chép, bồ câu, cắc kè ... nghĩa là loạn, phở nổi loạn. Có nhẽ ngày ấy thiên hạ sẽ gọi là đi ăn một thứ phở Mỹ miếc gì đó. Trong năm đói 1945, ở đáy nồi nước phở của thời đại, ở Hải phòng và Hà nội, đã có thùng phở có cả những bàn tay trẻ con : nhưng đó lại là chuyện khác. - Lại còn phở ngầu pín. Chắc thứ phở này chỉ những người năm bảy vợ hoặc thích léng phéng mới hay ăn . Tên thứ thịt phở này, còn gợi lại một thứ roi của bọn Tây độc ác hay đánh cu li đến thối thịt tím xương . - Lại còn phở gà. Muốn đổi cái hương vị chính thống của phở bò, ăn một vài lần phở gà trong đời mình cũng không sao . Nhưng có một hàng bán phở gà ở Hà nội mà nhiều người thủ đô không bằng lòng chút nàọ Ý bán vào buổi sớm, người xúm lại kêu ăn gạt đi không hết. Cái người bán hàng khinh khỉnh như một quý tộc đó, cũng đã khéo chọn một góc phố mang tên một bà chúa mà dọn hàng ! Nói của đáng tội, gà ở đấy trông ngon mắt thật. Đã có những bạn lưu dung khen ông hàng là nhất nghệ tinh nhất thân vinh, và khen tay ông lách vào con gà béo vàng như tay một bác sĩ khoa mổ xẻ thuộc lầu từng khớp xương thớ thịt. Cái đầu gà, cái cẳng giò gầy, cái cổ, xương mỏ ác, ông hàng thản nhiên vứt nó xuống một cái thùng, không phải để vứt đi, nhưng chắc là đã có những bợm rượu khu phố ăn giá sẵn từ trước rồi để chốc nửa đem ra nhấm nháp. Thực ra, khi mà có người ăn bát phở gà không tiếc tiền dám gọi đến cái thứ phở từ một ngàn năm trăm đồng một bát, thì bát phở ấy cũng khó mà không ngon được. Hãy đứng ở đây một buổi sớm mà xem người ta ăn phở gà. Sốt ruột đáo để. Người ăn mề gà, người ăn đùi, ăn thịt đen chứ không ăn thịt trắng nó chua, ăn lá mỡ, phao câu, ăn đầu cánh. Miếng ăn ở đây đích thị là một miếng nhục, nhục theo cái nghĩa một miếng thịt ngon hợp khẩu vị, và cũng đi theo cái nghĩa nhục nhằn túi bụi . Ở vỉa hè đường ấy, cứ nhao nhao cả lên quanh một ông hàng mặt phớt tỉnh như đế quốc Ăng lê và bán hàng rất cửa quyền, khách phải đi lấy lấy bát. Có người đã dắt sẳn từ nhà đi một củ hành tây, có người quả trứng gà ... đập trứng bỏ hành tây vào cái bát mình đã thủ sẳn và đánh dấu vào bát, dúi dúi bát trước mặt ông hàng, cười cười, nhắc nhắc, xuýt xoa nói to nói nhỏ, cứ như là sợ cuộc đời nó quên mình, nó nhầm mình ... Bên cạnh tiếng thái thịt chặt của gánh phở gà, chốc chốc có tiếng nổ xe bình bịch lái xuống tận đây ăn quà sớm, khói phở phảng phất đây lát ít mùi ét săng . Có người vừa húp vừa kể lại cái thời oanh liệt của cửa hàng này, khi còn đế quốc và bù nhìn, ô tô cứ nối đít xuống đây mà điểm tâm, nhiều bà Hà nội tứ chiếng cầm vào bát phở gà, mười ngón tay lóng lánh nhẫn vàng tắm, vàng, trắng, cà rá kim cương, miếng phao câu lúc ấy còn mọng lên biết mấy nữa kia . Trong kháng chiến có những tay phở nổi tiếng ở vùng tự do như phở Giơi, phở Đất, phở Cống, (tên vẫn một tiếng thôi) nhưng cũng có những bát phở, chưa được đúng cách thức lắm mà ăn vào vẫn cứ thấy cảm động. Ví dụ, phở ở căn cứ địa, làm ngày trong cơ quan . Một vài cơ quan ở quanh Trung ương, chung nhau giết bò để bồi dưỡng theo kế hoạch hàng tháng. Có những đồng chí cấp dưỡng rất yêu thương anh em, nhất định tổ chức phở. Thịt sẵn, xương sẵn, nhưng thiếu nước mắm, thơm, hành mùi, bánh lại là bánh đa khô . Nhưng cứ làm. Những chầu phở ngày chủ nhật ở bên bờ suối cơ quan, thật là đầu đề phong phú cho báo liếp. Ăn phở trên rừng càng thấy cồn cào nhớ miền xuôi. Ở các đon vị tĩnh tại, chiến sĩ thỉnh thoảng cũng nấu phở ăn. Vui nhất là ở một trung đoàn ggi đó có nhiều chiến sĩ người Hà Nội, trung đoàn ấy về đánh dưới xuôi, đánhc ái trận vận động chiến ở Hạ Bằng. Nhân dân đi sát bộ đội, có hàng phở gánh của dân chúng bán ngay tại tuyến lửa, gángh phở cứ quấn lấy hậu quân của đon vị đang lập công, anh chiến sĩ cầm bát phở đang bốc khói và cạnh anh là những nòng súng cũng chưa đi hết khói. - Hình như Thạch Lam trước đây cũng có bàn về phở, nhưng còn phiến diện. Thạch Lam có nhắc đến vấn đề cải lương ở Hà Nội văn vật. Đầu năm 1928, ở Phố Mới, cái phố trước đây mang tên thực dân Đồ phổ Nghĩa, có một hàng phở cho cả húng lìu, cả đầu vừng, đậu phụ. Nhưng những cái lối tìm tòi ấy không thọ, vì trình độ nhận thức của quần chúng phở không sa đoạ như người chế tạo . Quần chúng vẫn đòi hỏi những cái cố hữu của phở. Ngày nay cũng còn có người cho cả tương tầu lạp chíu chương vào phở, nhưng đây là cái quyền của người có tiền, ai muốn bày vẽ ra thế nào, nhà hàng cũng chiều trong phạm vi có thể của phở. Nhiều người bảo nên ăn phở tái thì bổ hơn phở thịt chín. Có thể là như thế đấy . Nếu cần bổ thì cũng có thể uống Pan-tô-cờ-rin Liên xô hoặc làm tễ thuốc Bắc, còn kết quả trông thấy rõ hơn là ăn phở tái . Thật ra, ăn phở cho đúng, đúng cái " gu " của phở, phải ăn thịt chín. Thịt chín thơm hơn thịt tái, mùi thơm miếng thịt chín mới biểu hiện đúng cái tâm hồn của phở. Thêm nữa, về mặt mhỡn thức tạo hình, người thẩm mỹ bao giờ cũng thấy miếng thịt chín đẹp hơn miếng thịt tái . Thường những hiệu phở không tự trọng, hay thái sẵn thịt chín, thái cứ vụn ra không thành hình thù gì cả, ai đến gọi là rắc vào bát. Có thể việc ấy không hề gì với khách hàng kho(ng cần ăn no vội . Nhưng cũng trong một cái hiệu vẫn thái thịt vụn ra ấy, ông chủ phở rất là phân biệt đối xử và không san bằng các thứ khách : đối với những khách quen, với những người có thể ông chưa biết quí danh nhưng ông đã thuộc tính ăn, những người cầu kỳ ấy mà bước vào hiệu, là ông đã đặt ngay tay dao vào những khối thịt chín đặc biệt như khối nạm ròn, nạm dắt hoặc khối mỡ gầu, thái ra những miếng mỏng nhưng to bản, với cái sung sướng bình tỉnh của một người được tỏ bày cái sở trường của mình trong nghề. Ông nào ăn phở mà có chất hoạ thì thấy muốn vẽ tranh tĩnh vật ngay . Có những lúc ông phở ấy gắt, gắt với vợ ông, vì ông thái không đẹp. Một ông làm đầu bếp hiệu chim quay trong hồi Hà nội chiếm đóng, nay cũng ra mở phở và thích múa dao nói chuyện với khách về cái khoa thái . " Chặt thái loài có cánh đã khó, mà thái miếng thịt bò không xương còn khó hơn . Tôi dạy mãi mà đàn bà nhà tôi vẫn không làm được, đàn bà thường chỉ thái bánh thôi ". - Trong số những thắc mắc của một số ông Hà nội trí thức dở người ta có nhắc đến một ông lo sau này ta tiến lên kinh tế hoàn toàn xã hội chủ nghĩa, kinh tế phân tán không còn nữa, thì mất hết phở dân tộc, và rồi sẽ phải ăn phở đóng hộp, mỗi lúc ăn bỏ cái hộp phở ấy vào nồi nước sôi trước khi đục ra ăn, và như thế thì nó trương hết bánh lên . Cũng ngay trong hiệu phở, có người đã đập ngay lại : " Thôi đốt ông đi . Ông đừng có làm cái chuyện lo giời sập ấy đi . Hiện nay phở đang phát triển mạnh ở thủ đô Hà nội, lớn nhỏ, gánh rong, bán trong nhà, bán ngoài hè, có đến trên dưới hai ngàn chủ phở. Người Việt-nam còn thì còn phở bát, bát phở trong tương lai vẫn nóng sốt như bây giờ. Phở bát của ta không thể thành một thứ đồ hộp đâu, người công dân Hà nội này xin trả lời ông là một nghìn lần không, không, không thể có sự thô bạo ấy ". - Cái thế giới phở Hà nội trước đây hình như cũng có nhừng thứ nhân vật nghiệp dĩ của nó. Làng chơi, học trò, ông binh, thày ký sở buôn, ông phán sở toà, con bạc, chủ hiệu nhỏ, những người lao động vận tải, những người làm nghề tự do ... Có những lính lê dương chạy đến hàng phở, ăn xong tính tiền, lật ngay cái mũ đỏ ra trong cái mũ có cái quần lĩnh vừa cướp ở nhà chứa ra; người khách hàng lính đánh thuê đó đã vắt quần lĩnh đó xuống quầy hàng thay một thứ trả tiền, rồi ù té chạy ... Có những tay giàu sụ nhưng tính nết hấp lìm, mua bánh mì thả vào nước phở béo mà cứ gọi là ăn cơm Tây bình dân . Có những người đàn bà trái duyên trộn cơm nguội vào bát phở nóng, mà ăn một cách ngon lành, nhưng người ngoài trông vào thì thấy nó thê lương thế nào ấy . Có những kẻ sống không nhà cửa, chuyên môn đứng đường, chạy hàng sách chợ đen đủ các thứ, lúc tính tiền hoa hồng, lấy bát phở tái năm xu làm đơn vị giá cả, "việc này mà trôi chảy, ông bà chị cứ cho em một trăm bát tái năm, vân vân ... ". Hương vị phở vẫn như xa xưa, nhưng cái tâm hồn người ăn phở ngày nay, đã sáng sủa và lành mạnh hơn nhiều ... Ngày trước, anh hàng phở có tiếng rao, có người rao nghe quạnh hiu như tiếng bánh dày giò đêm đông tội lỗi trong ngõ khuất; có người rao lên nghe vui rền . Tại sao, bây giờ Hà nội vẫn có phở, mà tiếng rao lại vắng hẳn đi ? Có những lúc, tôi muốn thu thanh vào đĩa, tất cả những cái tiếng rao hàng quà rong của tất cả những thứ quà rong, của tất cả những thư quà miếng chín trên toàn cõi quê hương chúng ta . Những tiếng rao ấy, một phần nào vang hưởng lên cái nhạc điệu sinh hoạt chung của chúng ta đấy. Chúng tôi ngồi trên bờ một cái hồ xứ Bắc ở ngoại thành Hen xanh ky tưởng nhớ đến một bát phở quê hương, và đối với món ăn đó của dân tộc đáng yêu chúng ta ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đã phát hiện những đức tính dồi dào của phở, tự mình cho đó là những cơ sở vững chắc để dựng lên một nền lý luận cho món phở . Sau đó mấy tháng trở về nước, đặt chân lên đất Hà nội, bữa cơm đầu tiên của tôi là một bữa phở. Về sau này, hay rũ nhau đi ăn phở, tôi được đi sâu vào ý nghĩ của một anh bạn nó đã trở thành một ám ảnh : " Mình khen phở mình là một món ăn ngon, nhưng trước khi khẳng định giá trị dân tộc của phở, có nên tranh thủ thêm ý kiến của bạn bè, quốc tế của ta không ? Bạn Liên xô, bạn Ba lan, Hung, Tiệp, Đức sẽ có cảm xúc gì về món phở Việt-nam ? Họ đã có dịp nếm phở chưa ? Bài dân ca của mình họ nghe rồi, đất nước mình, các bạn thấy rồi . Nhưng còn phải cho bạn mình " thấy " phở nữa, bởi vì phở cũng là một thứ tiếng hát yêu đời của tất cả những tấm lòng con người Việt-nam chân chính và bình dị . Thế rồi một hôm khác, cũng trong một quán phở nổi tiếng Hà nội, tôi đã nghe được mẩu chuyện giữa hai nữ sinh một trường phổ thông cấp 3 gần đây : " Phở hiệu này, ăn mê quá. Thế đố chị biết … và các lãnh tụ Đảng có thích phở không ? - Làm thế nào mà biết được - Này, nói đùa chứ các cụ mà đến ăn cho hiệu nào, thì chủ hàng thật là sung sướng vô bờ đấy chị nhỉ ! ". Hai cô rút lấy túi gương con chiếu lẫn vào hàm răng nhau xem có vướng tí hành tí rau mùi nào không, cười ríu rít như chim đàn nhảy quanh bàn phở. Mẩu chuyện hai cô học trò như giúp tôi hiểu thêm nữa về phở, và giúp tôi nhận thức đến những cái nó quan trọng hơn cả phở nữa . Ít lâu nay, chúng ta hay nói đến thực tế Việt-nam, đến vấn đề thực tiễn Việt-nam, đến những đặc tính của Việt-nam trong mọi điều kiện chuyển mình tiến lên . Tôi thấy rằng trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân dân Việt-nam, có một cái thực tế mà hàng ngày ít ai nỡ tách rời nó, tức là cái thực tế phở. Cái thực tế phở ấy lồng vào trong những cái thực tế vĩ đại của dân tộc. Trong một giọt nước rơi lóng lánh có cả câu chuyện của vầng thái dương; trong một miếng ăn, cũng thấy rộng được ra những điều cao cả yên vui trên đất nước bao la giàu có tươi đẹp. Tôi thấy tổ quốc chúng ta có núi cao vòi vọi điệp điệp, có sông dài dằng dặc, có biển bờ thăm thẳm, có những con người Việt-nam dũng cảm xây đắp lịch sử quang vinh, có những công trình lao động thần thánh như chiến thắng Điện biên, nhưng bên cạnh những cái đó, tôi biết rằng Tổ quốc tôi còn có phở nữa . Trong những năm chiến tranh giải phóng, kẻ thù bay trên bát phở, có những bát phở phải húp vội trong đêm tối tăm, quệt ngang ống tay áo mà nhảy xuống lỗ lầm; có những bát phở bị bom, bánh trương lên mà người ăn không còn thấy trở lại một lần nào nữa . Nhớ lại cái hồi tôi về công tác ở vùng sau lưng địch, tôi không thể quên được mấy cái quán phở khuya trên con đê miết lấy vùng căn cứ du kích; những bát phở nóng ăn sau những đêm vượt vành đai trắng và xuyên qua vị trí địch, ăn có một hương vị thật là đặc biệt; sau này nó tổng càn, nó hất hết các quán trên đê, không biết người bán phở đêm đó, có còn sống hay đã chết trong chuyến ấy rồi ? Lại còn cái lần đi chiến dịch với tiểu đoàn Lũng vài, tôi không quên được những cuộc hành quân với đồng chí cấp dưỡng ban chỉ huy ; đồng chí ấy gánh rất nhiều nồi niêu ga-men và thực phẩm cồng kềnh, các chiến sĩ đều đùa gọi là " ông hàng phở của tiểu đoàn ". Trước kháng chiến đồng chí ấy vốn mở hiệu phở ; nay hoà bình rồi, đồng chí có còn sống mà mở phở lại ? Nhiều hình ảnh phở trong những năn gian khổ đã hiện về . Giờ mà ngồi an tâm ăn bát phở nóng sốt giữa ban ngày bất giác cần nhớ ơn nhiều người . Rồi mối cảm xúc phở vụt chốc bay xa rộng mênh mông . Bỗng nghĩ đến những vùng chăn nuôi xanh rờn áng cỏ sữa khu tự trị Thái-Mèo, những đàn bò Lạng Sơn, Thanh hoá đang cúi xuống ngốn cỏ ngon trên đất nước . Gạo mấy vụ liền lại được mùa, bột bánh mịn và dẻo . Rau cỏ vùng ngoại thành Hà nội : mở rộng mãi những diện tích xanh ngon vô tận, rau thơm hành hoa phưng phức cái hương vị thổ ngơi . Đêm Hà nội, nay thức khuya nhất vẫn là những hiệu phở. Xưa kia phở ông Trưởng Ca bán đến bốn giờ sáng ở đình Hàng Bạc - cái nơi tập trung nhân dân Hà nội năm đầu kháng chiến để rút ta khỏi vòng vây địch. Đình cũ không còn ông Trưởng Ca nữa, nhưng nay đã có ông phở Sửa sai thay ông mà thức khuya . Người Hà nội đặt tên đến là hay. Trước đây ông nấu bếp hiệu cao lâu Tàu; rồi ông ra mở phở. Rồi ở quê ông quy nhầm ông, ông phải về quê, giao lại quán phở cho bạn . Nay ông được sửa sai, lại trở lại thủ đô, chính quyền khu phố miễn thuế cho ông một thời hạn và tìm một chỗ lợi địa thế cho ông mở hiệu . Món quà của ông phở "Sửa sai" càng thơm ngon một cách chất phác hơn bao giờ. Có thể là cảm tình của khách hàng, đối với một người phở quen nay được khôi phục càng làm cho bát phở giải oan có thêm nhiều dư vị nữa . Những bát phở hồn hậu ấy cũng chỉ là một sự đền bù công bằng đối với những người làm ăn lương thiện khu phố đi xem hát về hoặc họp hành bình bầu học tập xây dựng vừa xong . Chuyện góp về phở tới mức độ nào đó là y như tôi lại thấy nhớ một chị bạn rất thân, ngày chưa có cách mạng vẫn hay rủ nhau đi ăn phở đêm và nói những chuyện trên trời dưới nước. Cũng như vô khối người khá, chị đã bỏ đi Nam vì một vài vần đề sĩ diện gì gì đó. Giờ đây mõi lần phát hiện thêm được một hiệu phở ngon sạch là tôi không thể không nghĩ đến cái chị bạn thích ăn phở cay xé lưỡi. Ớt tười, ớt khô, ớt bột ngoài này hiện đang thơm cay, mõi lần ăn bát phở cay và đậm, đôi mọi tôi bỏng cháy lên càng lấy làm thương nhớ vô cùng chị bạn đi Nam. Chỉ mong chóng quan hệ bình thường, tôi rủ chị bạn ngày xưa và các bạn của chị về đây dầu cho chỉ một ngày, để thăm lại phố phường và bạn bè cũ. Và cái món ăn Hà Nội đầu tiên tôi thết chị, vẫn là cái món phở ngày xưa chúng ta vẫn ăn đủ cả rau mùi hành hoa đủ chua cay và sôi sùng sục. Tôi biết ở Nam Bộ vẫn có phở, phở hủ tíu, nhưng bát phở Bắc ăn ở đầu hè di cư không bao giờ có thể ngon được bằng bát phở cổ truyền Hà Nội ăn ngay bên lò than quả bàng đỏ lửa giữa ngàn năm văn vật này.
-
... Trên thực tế cho thấy những yếu tố quan trọng nhất nằm ở trong đạo đức của người muốn tham vấn. Nếu người đó độc ác và vô đạo đức, cũng không có Phong thủy tốt dành cho họ. “ … Cuối cùng Nguyễn Sinh Khiêm tìm được một huyệt đạo trên núi Động Tranh thuộc dãy núi Đại Huệ ở địa phận xã Hữu Biệt (nay là xã Nam Giang). Hồi đó, theo thuyết phong thuỷ trong dân gian, ở vùng Nam Đàn vẫn truyền tụng câu ca: “Bạch tượng uyển hồ, Hồ trung nhất huyệt, nhất đại đế vương” (nghĩa là ở trên con voi trắng trong xứ Ao Hồ có một huyệt đạo, phát làm vua một đời). Không biết từ lúc nào nhân dân đã huyền thoại câu ca phong thuỷ ấy như sau: “Ở xứ Ao Hồ có một huyệt đất phát một con người, đế chẳng phải đế, vương chẳng phải vương, đi khắp tứ phương, về đứng đầu thiên hạ”. Nhân dân quanh vùng có đến 36 dòng họ muốn con cháu mình dược làm vua nên đã đưa hài cốt tổ tiên lên táng ở thung lũng Ao Hồ. Theo truyền thuyết nhân dân kể lại là trước đây có một người thuộc dòng họ Nguyễn ở làng Hữu Biệt (nay là xã Nam Giang) đã vào tận Ao Hồ vỡ hoang đất cày trại, làm lều ngủ ở đó. Một đêm trời mưa gió ầm ầm, thổ thần ứng mộng nói rằng, huyệt đế vương này cho dòng họ khác chứ không cho dòng họ Nguyễn nhà con. Người dân họ Nguyễn từ đó dỡ lều về, không dám ngủ trong xứ Ao Hồ nữa….” Theo : Huyền thoại huyệt đạo bà Hoàng Thị Loan trên núi Động Tranh - Chương II Trong phong thủy dân gian có câu : Tiên tích đức, hậu tầm long là có nhiều lý do chính đáng của nó. Hay: Có phúc thì có phần - Phúc chủ lộc thầy ... đều có có "chân lý" trong cuộc sống. Phúc phần ở đây không thể có từ cái ác cái tà được.
-
Chào mừng thành viên thứ 400 là ankhang tham gia sinh hoạt tại diễn đàn. Chúc bạn vạn sự như ý. Thay mặt ban điều hành Công Minh
-
Mãnh lực mới của lời ru Một bài viết hay. Nhưng lời ru đâu phải giờ có mãnh lực mới. Phải là một mạnh lực muôn thủa.
-
Bài thuốc điều trị bệnh đái tháo đường và bệnh gút 22:08:07, 29/02/2008 Lá cây sa kê - Ảnh: Trang Xuân Chi Bài thuốc nam điều trị được 2 bệnh đái tháo đường và bệnh gút (thống phong) cùng lúc gồm có 3 thứ: lá sa kê vàng tự rụng, lá ổi non, trái đậu bắp. 1. Sa kê còn có tên gọi là cây bánh mì, tên khoa học: Artocarpus incisa L, thuộc họ dâu tằm Moraceae. Cây thân gỗ cao 10 - 12m, có thể cao tới 15 - 20m; tán lá rất đẹp; phiến lá to, dài 30 - 50 cm, rộng 10 - 12 cm, chia thùy lông chim nhưng cũng có những lá nguyên hoặc chỉ chia thùy ít nhiều màu xanh lục, thẫm bóng. Cụm hoa đực có hình chùy và chỉ có 1 nhụy, cũng có khi hoa đực tụ họp trông như đuôi con sóc dài 20 cm. Cụm hoa cái hình cầu, có khi hình ống. Quả sa kê rất to, giống như quả mít tố nữ, gần như tròn hoặc như hình trứng, có đường kính 10 - 20 cm, vỏ màu xanh lục nhạt hay vàng nhạt, thịt quả rất nạc, trắng và chứa nhiều bột. Quả sa kê mọc thành từng chùm vài ba quả không có hạt, nhưng cũng có những quả có hạt chìm trong thịt quả. Cây sa kê chịu đất khô ẩm, các tỉnh phía Nam nước ta trồng nhiều sa kê vừa thu quả để ăn, vừa là cây cảnh đẹp che mát trong vườn. Quả sa kê được chế biến ra nhiều món ăn ngon. Thường thái mỏng từng lát nhỏ rán với mỡ, bơ ăn ngon như ăn bánh mì rán thơm ngon, còn dùng hầm nấu cà ri. Xay thành bột chế biến nhiều món ăn thường ngày, làm thành pho mát, bánh ngọt, nấu với tôm, cá trộn, nấu với gạo có giá trị dinh dưỡng cao. Thành phần hóa học: sa kê có 2 - 6% nước; 3,2% muối; 0,2 - 1,17% lipit; 1,1 - 4,09% profit; 64 - 85% tinh bột, đường, dextrin; 2 - 3% độ tro. Theo Tài liệu cây thuốc Việt Nam, thì ăn sa kê có tác dụng bồi dưỡng cơ thể. 2. Ổi còn có tên ủi, phan thạch lưu, guajava; tên khoa học: Psidum guyjava L (P.pomiferum L.Psidium Pyriferum L); họ sim Myrtaceae. Trồng ổi chọn đất khô, cát sỏi, đồi nứt; ổi mọc hoang ở đồi núi, nhân dân trồng ổi để ăn, bán và làm thuốc. Ổi có tác dụng tốt trong làm thuốc, như búp non, lá non, quả, vỏ rễ và vỏ thân cây. Nhưng thường dùng nhất là búp non và lá non. Có thể dùng tươi hoặc phơi khô. Thành phần hóa học: Ổi có Pecftin và vitamin C tùy từng loại ổi. Trong lá và búp non 10%: Taninpyrogalic, axit Psiditanic, chừng 3% nhựa và rất ít tinh dầu (0,36%). Trong thân và lá có Tritecpeinic. Trong hạt có 14% dầu, mùi thơm, 15% Protein và 13% tinh bột; ổi còn xanh, chát, điều trị rất tốt tiêu lỏng; ổi chín có tác dụng nhuận trường. Từ xa xưa trong dân gian thường dùng lá ổi non, búp ổi non chữa đau bụng, tiêu lỏng rất tốt; liều lượng 15 - 20g búp ổi, rễ ổi non phối hợp với một ít chè xanh và gừng sắc uống. Rễ vỏ thân cây còn dùng rửa vết thương, vết loét...; sắc uống 15g rễ và vỏ thân cây sắc 200 ml nước còn 100 ml uống. 3. Đậu bắp, trái đậu bắp thường dùng nấu canh chua với cá, canh chua ngọt, luộc đậu bắp thay rau muống, rau cải ăn rất ngon (chưa có tư liệu nói về đậu bắp). Hoa và lá ổi . Đậu bắp *** Ba thứ thuốc nam kể trên điều trị bệnh đái tháo đường và bệnh gút (thống phong) mang lại kết quả tốt. Qua theo dõi điều trị, bệnh nhân Hoàng Thanh L., 53 tuổi, quê TP Quy Nhơn (Bình Định) bị bệnh gút mãn tính; củ gút đã lồi, to, u, cục gồ ghề, ở các ngón bàn tay, chân, khuỷu...; lại có thêm đái tháo đường rất nặng, đường trong máu 18mmnol/L (bình thường 3,9 - 6,1mmol/L hoặc 70 - 110mg/100ml); đã điều trị nhiều thứ thuốc nhưng không giảm bệnh. Bệnh nhân đã uống kết hợp 3 thứ: sa kê, búp ổi và đậu bắp, theo công thức: đậu bắp 100g, búp ổi non 20g, sa kê 100g (theo kinh nghiệm dân gian phải là lá sa kê úa vàng tự rụng mới tốt, không dùng lá tươi), 3 thứ sắc uống liên tục. Nay đường máu trở về dưới bình thường, bệnh gút cũng đã giảm nhiều. Bác sĩ Trang Xuân Chi ( theo thanhnienonline)
-
Đây là điềm !!! Sắp tới, UBND - Sở VHTT thành phố Huế, phải lập báo cáo kinh tế kỹ thuật, thiết kế - tổng dự toán. Sẽ hao tốn một mớ kinh phí từ ngân sách địa phương, cho công trình sửa chữa phục hồi di tích cổ. :P Mai mốt, trên đỉnh tháp cổ sẽ gắn một cây kim thu sét tia tiên đạo ESE hiện đại. Đồng thời các cơ quan quản lý phải họp bàn, rút kinh nghiệm cho các di tích khác. :P CM
-
Xin chúc mừng chiến thắng của chị Laviedt, Viethuy, Alex2000, Random, Dim . Chia sầu với anh em đoán chưa đúng : Bên lề trận Nga - Tây Ban Nha: Nga bị yểm bùa Để ngăn cản Nga thi đấu thành công, người Tây Ban Nha đã thực hiện yểm bùa Trước trận bán kết Tây Ban Nha – Nga tại EURO 2008, rất nhiều cổ động viên xứ bò tót đã tin và làm phép yêu thuật với mục đích triệt các tuyển thủ Nga. Nhiều cổ động viên Tây Ban Nha đã sắm một bộ OTTO (tương tự bộ vàng mã, hình nộm ở nước ta) để thực hiện các nghi lễ mà người ta gọi là Occultus. Trong bộ OTTO này có hình nhân cầu thủ, một bộ 4 chiếc kim găm để đâm vào hình nộm nhằm “triệt” một cầu thủ nào đó. Chẳng hạn, hình nộm mang chiếc áo số 4, đầy đủ giày, quần thi đấu cũng số 4. Điều này đồng nghĩa với việc cổ động viên xứ bò tót muốn “triệt” trung vệ Sergei Ignashevich của tuyển Nga. Những người chuẩn bị bộ OTTO này tin rằng, “lá bùa sẽ mang đến 100% điềm lành cho tuyển Tây Ban Nha tại vòng chung kết”. Cũng cần biết thêm là hãng Cuatro (sản xuất hình nộm và kim găm) cũng bán một bộ cờ của các nước tham gia vòng chung kết, có thể gắn vào hình nộm trong trường hợp cần thiết. Trông chờ vào phép thuật rất phổ biến trong bóng đá. Các đội bóng châu Phi luôn mang theo thầy phù thủy để có thể yểm bùa chú ngay trong thời gian thi đấu. Các thầy phù thủy này nhận không ít tiền từ các liên đoàn bóng đá bản địa. Thuật yểm bùa có nguồn gốc từ quốc gia Dahomey cổ đại (Benin ngày nay) và hàng loạt quốc gia khác thuộc Tây Phi. Một số nhà nghiên cứu văn hóa tâm linh cho rằng nghi thức này xuất hiện khi có sự giao thoa giữa các nghi thức thuộc Ki-tô giáo và các lễ tục của nền văn hóa bản địa. Những nô lệ từ Dahomey bị xua đuổi đã phổ biến Occultus ra thế giới. Rất thú vị là trong khi cổ động viên của tuyển Tây Ban Nha yểm bùa các tuyển thủ Nga, thì trong trận bán kết các cầu thủ của họ sẽ mặc áo thi đấu màu vàng. Tại Tây Ban Nha, theo quan niệm, đây là màu không may mắn. Trong khi đó tuyển Nga sẽ mặc áo màu đỏ, màu mà nhiều người cho rằng đó là biểu tượng của chiến thắng. Hoài Sơn (TNO)
-
Thân mời anh Luke vào sân đi ! Thể hiện vài quả, như David Baeckham cho cả nhà thưởng thức nào. CM
-
Anh Linh Trang toàn ra sân vào giờ chót. Sau khi phải làm vài lon rồi mới sút thế mới thần sầu. :rolleyes: @ Keo ơi! Sao chữ ký buồn thế. Công Minh
-
@ TNM : Anh viết tức cười quá. Đội TNK không có trang phục vàng Mời cả nhà vào tham khảo : TRANG PHỤC VÀ THÀNH T ÍCH 4 ĐỘI VAO BÁN KẾT Đội tuyển Đức http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%...C4%90%E1%BB%A9c Đội tuyển Thổ Nhĩ Kỳ http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%...4%A9_K%E1%BB%B3 Đội tuyển Nga http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%...%BB%91c_gia_Nga Đội tuyển Tây Ban Nha http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%...%C3%A2y_Ban_Nha Chúc cả nhà vui vẻ và may mắn. Công Minh
-
17 h30 ngày 25/6/2008 . Một chị trong cơ quan đứng dậy phán một câu xanh rờn : Đức thắng 2-1. Hỏi chị ta nói đúng ? Được quẻ : Tử tiểu cát Quẻ Khứ : Cảnh Xích khầu . Quẻ độn : Kinh vô vong . Chả lẽ là điều ngược lại. Đức phải ngậm ngùi, xách giỏ về quê sao. ??? CM
-
Các bạn kiểm tra lại. Giờ Thân ngày 22 tháng 5 Mậu tí . Phải là quẻ : Cảnh - Xích khầu ??? Thân mến. Công Minh