Công Minh

Hội viên
  • Số nội dung

    284
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    4

Everything posted by Công Minh

  1. Thưa bác Chấn Nguyên Đầu tiên cho phép Công Minh xin được đính chính những lời khiêm tốn của bác Chấn Nguyên : Thầy của chị Wild là một vị Thầy, thành viên giang2 như bác nhận xét có thể là một vị tu sĩ theo tông Nguyên Thủy. Còn Công Minh chỉ là Phật tử sơ cơ, hạng hạ ngu, còn phải học hỏi nhiều nên không dám nhận chữ thầy, e rằng tổn phước. Mà bác Chấn Nguyên có vẻ khiêm tốn quá, Công Minh có cảm giác hình như là bác cũng là một “cao thủ” – Mong bác mạnh dạn trao đổi hơn. Chấn Nguyên phải chăng cảm ứng từ Trấn Nguyên Đại Tiên trong Tây Du hay là tư tưởng Chấn hưng Nguyên thủy như thành viên giang2 đây ạ ? Chào bác. À mà, nhân nhắc đến Tây Du.Công Minh xin hỏi bác Chấn Nguyên : Bởi Nguyên Lý( nguyên nhân và lý do ) nào mà Pháp Sư Huyền Trang lại phát nguyện và đã công phu đi Tây Trúc lễ Phật và thỉnh chân kinh đem về Đông Độ. Chân thành cám ơn bác.
  2. Chúc mừng sinh nhật Thầy Thiên Sứ. SỨC KHỎE, AN LẠC VÀ MAY MẮN Công Minh
  3. ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Khi trong nhà thấy có nhiều sự bất ổn liên miên, hoặc chưa hay đã dụng phong thủy để cải thiện mà chưa thấy chuyển, hãy khuyên gia chủ nhất tâm chí thành thiết lễ, tụng niệm Kinh Chú và danh hiệu Đức Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát để hồi hướng đến các vị Thần Linh quản trị tại địa phương và bản gia như Thành Hoàng Bổn Cảnh, Đông Trù tư mệnh đinh phúc táo phủ thần quân, bản đường tiên thánh tiên gia, bản viên thổ công thổ địa phúc đức chính thần , ngũ phương long mạch tài thần, môn gia hộ úy, nhân súc y thần. Hồi hướng cho Gia tiên , cho các Oan gia trái chủ của người trong nhà, cho Tiền hậu thổ chủ, y phụ thảo mộc các hương linh phảng phất trong đất ấy. Rồi sẽ thấy. Kinh Địa Tạng bổ nguyện công đức dạy "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh đời hiện tại và vị lai, nơi chỗ sạch sẽ ở phương Nam trong cuộc đất mình trú ngụ, mà dùng đất, đá, tre, gỗ dựng cất cái khám hoặc cái thất; ở trong đó có thể tô vẽ cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt làm hình tượng Ðịa Tạng Bồ Tát, đốt hương cúng dường, chiêm lễ, ngợi khen, thì ngay chỗ những người đó ở sẽ được mười điều lợi ích. Những gì là mười? Một là đất đai mầu mỡ; Hai là nhà cửa yên ổn mãi mãi; Ba là người đã mất được sanh thiên; Bốn là người hiện còn được tăng tuổi thọ; Năm là mọi mong cầu đều được toại ý; Sáu là không có tai họa về nước và lửa; Bảy là trừ sạch việc hư hao; Tám là dứt hẳn ác mộng; Chín là ra vào đều có thần theo hộ vệ; Mười là thường gặp nhân Thánh." Chiều theo ý anh thì ta nói : Ngài Địa Tạng là vị Bồ Tát hộ trì phong thủy đấy. Nhưng theo ý ta, có nghe nói vậy anh chớ tin là vậy, nghe vậy mà không chỉ có như vậy thôi, Phật pháp oai lực vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Công Đức và Oai lực của Ngài Bồ Tát Địa Tạng cũng không ngoài. Anh hãy đi đi, hãy thử tự tìm, tự học, tự ngẫm suy và hành động trải nghiệm rồi tự anh sẽ thấy còn nhiều điều lớn lao hơn nhiều, nhiều nữa. Chân thần yếu dụng tâm cảm ứng。Tâm thành tắc linh. ( Nhớ lại lời dạy của một Tôn Sư ) (Còn tiếp )
  4. Đoạn kết Với tiêu đề của bài viết này là : “ Vị Bồ Tát hộ trì phong thủy” ngoài đoạn mở đầu có dẫn chuyện của một vị Thầy dạy học trò, cách thức thanh tịnh và làm yên ổn gia đạo bằng pháp tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Thì phần lớn nội dung còn lại là giới theo về Bồ Tát Địa Tạng và Kinh Địa Tạng. Thật ra tôi không có ý giật tít để gây sự chú ý về bài viết, mà chuyện tụng Kinh Địa Tạng để an ổn gia đạo, đất cát trong nhà là có thật. Cách đây vài năm tôi có một người bạn, nhà cửa phong thủy rất hợp lý, làm ăn khá giả, cuộc sống gia đình hạnh phúc và sung túc. Một dịp đầu năm mới, mong muốn để an bình gia trạch anh thiết lễ tụng phẩm kinh : Phật nói Kinh An Trạch thần chú. Sau đó thấy trong nhà rất nóng nảy, có nhiều bất an, người trong nhà hay ốm bệnh…. Sau khi anh vấn an Tôn Sư, bày tỏ câu chuyện và được thầy chỉ dậy như đã nói ở trên. Anh ta thiết lễ tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức như thầy chỉ dạy, và sau đó mọi việc trong gia đình chuyển biến rất tốt đẹp. Từ việc chứng thực cảm ứng đó, tôi đã nhờ Thầy chỉ dạy và tìm hiểu về Công Đức Ngài Địa Tạng Vương. Với những nội dung đã nêu được ít nhiều ở trên, qua những lời Đức Phật chỉ dạy về Thánh Đức và sự linh ứng của Đức Địa Tạng Vương - có thể thấy việc Ngài hộ trì hay gia hộ cho đất đai, phong thủy là chân thực. Tuy nhiên, điều lợi ích đó mới chỉ là một phần nhỏ trong những năng lực hay oai lực của Ngài. Địa Tạng Bồ Tát vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục, Giáo Chủ của cõi U Minh… không chỉ độ hóa chúng sinh trong cõi Địa Ngục, gia hộ đất đai, mà còn giúp đỡ bảo vệ cho sinh mệnh của chúng sinh, an dân trấn quốc, viên mãn Phước Trí ngay trong đời hiện tại này. Xin giới thệu một số đường dẫn đến các tài liệu nói về Thánh Đức và sự linh ứng của Đức Địa Tạng Vương, để những ai quan tâm có thể thỉnh về tham khảo thêm. Bồ Tát Địa Tạng vấn đáp. Khuyen hanh gia tinh do kiem tri tung kinh dia tang Kinh Địa Tạng Thâm Mật nghĩa Địa Tạng Mật Nghĩa Những câu chuyện linh ứng về Ngài Địa Tạng Nghi Thức Tụng Kinh Địa Tạng Qua loạt bài này, nếu được một trong những ai đã ghé đọc rồi khởi tâm hoan hỉ niệm 1 câu danh hiệu của Ngài hay trì tụng được 1 lần bộ kinh kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Công Minh xin hồi hướng hết thảy mọi công đức có được trong loại bài này cho bản thân và gia đình người đó gia đạo luôn vạn sự bình an, phú túc, cát tường, may mắn. Con xin hồi hướng Công Đức này đến tất cả pháp giới chúng sanh trong các cõi: âm siêu dương thái, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, giai cộng thành Phật đạo. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến chân linh Cửu Huyền Thất Tổ, hương linh Thân Phụ và Nhạc Phụ là những tấm gương kiên định luôn hướng về Chính Pháp, tại những giai đoạn khó khăn trong việc phát triển Đạo Pháp ở một khoảng thời gian trước đây. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến Thân Mẫu thân tâm thường lạc, Phật sự tinh tấn. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến các bậc Tôn Sư đã bỏ công chỉ dẫn và khuyến khích con trên con đường tầm học. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến các Thầy Thích Quảng Trí, Cư sĩ Huyền Thanh đã bỏ nhiều công phu biên dịch và biên tập bộ Mật Tạng ra tiếng Việt để đem lại lợi lạc cho nhiều hàng Phật tử Việt Nam. Xin chân thành cám ơn đến các các bậc thầy, các tác giả, soạn giả có những bài nghiên cứu, bài giảng giải, cũng như có hình ảnh về Tôn tượng Đức Địa Tạng Vương trên Internet, để Công Minh được tham khảo, trích dẫn hỗ trợ cho phần biên soạn này. Vì điều kiện bố cục của bài viết hạn chế, tránh phân tán nên người biên soạn không thể trích rõ nguồn tài liệu, rất mong chư vị tác giả hoan hỉ thông cảm đại xá. Xin cám ơn người bạn đường CTT và hai “ tiểu đồng chí” của tôi, đã phấn đầu giải quyết nhiều việc thuộc hàng “đại gia sự " để hỗ trợ tôi có được nhiều thời gian, yên tâm tìm hiểu Giáo Pháp. Xin cảm ơn anh hoangnt và mọi người đã quan tâm, ủng hộ cho bài viết trong thời gian qua. Thân mến tặng bài viết này đến anh Thanh phuc ; bạn Hoàng Dung trên trang lyhocdongphuong ( những người có ít nhiều công phu và sự cảm ứng về Thánh linh của Đức Địa Tạng vương Bồ Tát ) - Đặc biệt là qua những tâm sự của anh Thanhphuc, đây cũng là một trong những nguồn động lực cho Công Minh tìm hiểu về Thánh linh của Đức Địa Tạng và điểm đặc biệt của bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Thân mến tặng chị Wild, Chipchip cùng đại gia đình, em Linh và “cô học trò bướng bỉnh ” cùng tất cả thân hữu bè bạn cũ mới, xa gần – do qua những thắc mắc, hỏi đáp của mọi người đã giúp Công Minh giác ngộ thêm nhiều vấn đề trong tu học. Kính chúc mọi người, mọi nhà có một mùa Vu lan viên mãn và thành tựu Nguyện xin Tam Bảo và các vị Hộ Pháp hãy ban rải Thần Lực giúp cho các bậc ân nhân của con với tất cả chúng hữu tình mau chóng tránh được mọi lỗi lầm, thực chứng được Chính Pháp Giải Thoát. Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát tác đại chứng minh. Trân trọng
  5. Thành Tâm Niệm Danh Hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương Có Thế Siêu Độ Nghiệp Chướng Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Có một phần công sức thì sẽ được một phần kết quả tương ứng. Khi Địa Tạng Vương Bồ Tát biết quý vị thành tâm niệm danh hiệu Ngài, Ngài sẽ giúp siêu độ nghiệp chướng của quý vị. "Trực tâm là Đạo Tràng". Bất luận quý vị là người xuất gia hay là tại gia, trong bất cứ hoàn cảnh nào đều phải thành thật và ngay thẳng. Không được nói dối, không làm những việc mạo hiểm , cũng không đầu cơ hoặc đánh cá ngựa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào phải dùng tâm chân thật không dùng tâm cầu cạnh dua nịnh. Chúng ta phải có tâm chân thật trong mọi hòan cảnh, cái tâm phải biết dung hòa để hòa hợp với người khác. Để có tâm chân thật có nghĩa là để tu Đạo Bồ Đề, và đừng bao giờ làm trở ngại hay chướng ngại người khác. Nếu chúng ta làm hại hay chướng ngại người khác, chúng ta tạo nhân cho quả báo xấu. Khi quả báo của chúng ta đến, nếu chúng ta không sám hối mà lại cứ tiếp tục lừa dối người càng nhiều thêm, thi chúng ta lại sẽ tạo ra thêm nhiều nghiệp xấu nữa, khó mà tiêu trừ được. Lần này (năm 1982) khi tôi đến Châu Á, tôi có gặp một người phụ nữ là cô họ Vương ở Penang. Trong tiền kiếp cô thích ăn móng gấu và óc khỉ. Cô đập đầu khỉ nứt ra để uống óc khỉ. Cô cũng chặt móng gấu, chiên lên để ăn. Vì những nghiệp chướng trong quá khứ này, kiếp này cô sanh ra làm người phụ nữ. Tuy nhiên, thay vì sửa chữa lỗi lầm và bắt đầu đời mới, cô vẫn tiếp tục tạo nghiệp xấu. Cô đã giết hai nhân mạng bằng cách phá thai hai lần. Hai vong linh thai nhi bị phá thai này cùng kêu gọi những con ma là các chúng sinh mà cô đã làm hại trong tiền kiếp. Vì thế, cô bị ung thư. Trong thời gian thăm tôi viếng Penang, người phụ nữ trẻ này đã phát đại tâm sám hối và bệnh ung thư của cô đã thuyên giảm. Tiếc thay, hai tuần sau cô lại quay trở lại tập quán cũ, tái lập liên hệ với người bạn trai và lại còn làm những hành vi không phù hợp Phật Pháp. Sau đó một thời gian ngắn, bệnh ung thư của cô trở lại. Cô bị bệnh là do nghiệp chướng của cô gây ra. Nếu cô thật tâm sám hối về những lỗi lầm trong quá khứ và sửa đổi lại thì cô đã có một phần vạn cơ hội để khỏi bệnh. Nếu không, không có thuốc nào có thể chữa và ngay cả Phật và Bồ tát cũng chẳng cứu được cô. Có câu nói rằng, "Tội từ tâm khởi, đem tâm sám.". Nếu chúng ta không sám hối và sửa đối với tâm chân thành, thì nghiệp chướng của chúng ta sẽ quay trở lại. Trong trường hợp của cô họ Vương, vì cô không thành tâm sám hối và sửa đổi, nên bệnh ung thư của cô đã trở lại. Đáng lẽ cô phải viết thư cho tôi khi bệnh cô trở lại. Nếu cô ấy nói thật với tôi, có lẽ lúc đó còn có thể làm đuợc cái gì đó. Thay vì làm như vậy, cô đã nói dối với tôi và nói với tôi là cô sắp sang Mỹ. Trước khi tôi rời Mã Lai, tôi có bảo cô rằng sau khi khỏe mạnh hơn và nếu có khả năng mua vé máy bay sang Mỹ, thì cô có thể đến Hoa Kỳ và xuất gia đề tu hành. Nói cách khác, đáng lẽ cô phải sang Mỹ sau khi cô được chữa khỏi bệnh. Nhưng, người phụ nữ trẻ này chỉ sang Mỹ sau khi khí bệnh ung thư tái phát; cô đến để chết ở Vạn Phật Thánh Thành. Chỉ đến lúc khi bệnh của cô đã quá tầm tay của Y khoa thi cô mới lên máy bay một cách rất khó khăn và đến Mỹ vào ngày 24 tháng trước. Với loại xảo quyệt nầy, bệnh của cô càng khó chữa lành. Vì hành vi của cô là hoàn toàn giả dối, không thành thật và thủ đoạn, ngay cả Phật và Bồ Tát cũng không thể giúp được cô. Bây giờ cô đang ở trong bệnh viện, cơ hội sống chỉ còn 0.5 phần vạn. Tối nay chúng ta hãy thành tâm hồi hướng công đức cho cô, mong rằng cô sẽ bình phục. Mặc dù cô lừa dối tôi, lừa dối nơi tỉnh giác này tức cũng có nghĩa là lừa dối mọi người ở đây, nhưng tất cả chúng ta đều có lòng từ bi. Cô ta từ nơi rất xa đến đây, hy vọng cô có thể đuợc cứu sống khỏi tay tử thần. Nếu còn có thể cứu cô ta được, chúng ta nên cố gắng hết sức. Nếu không thể cứu cô ta, chúng ta cũng cố gắng hết sức. Nỗ lực của tập thể rất mạnh, chúng ta thành tâm giúp cô tiêu trừ những nghiệp chướng của cô. Hãy theo tiếng mõ, và vì cô ta mà niệm hồng danh Bồ Tát Địa Tạng Vương . Trong lúc chung ta niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương , những nghiệp chướng của cô đáng lẽ phải được tiêu trừ. Tuy nhiên, khi nghiệp quá khứ của cô được tiêu trừ thì nghiệp mới tích tụ lại cũng nhanh như vậy. Thật ra, chúng ta đang giúp cô ta tiêu trừ những nghiệp chướng vô tận mà lúc sanh ra cô đã có. Tôi nghĩ nếu chúng ta muốn cứu người này, chúng ta cần bắt đầu Thất Địa Tạng vào ngày mai. Hãy thanh tâm niệm danh hiệu Bồ Tát và hồi hướng công đức cho cô, hy vọng cô sẽ bình phục. Khi chúng ta giúp người khác với lòng thành khẩn thì chư Phật và Bồ Tát nhất định cùng sẽ giúp chúng ta ... Hôm nay chúng ta cùng phát tâm để hồi hướng công đức cho người phụ nữ trẻ này. Có phải thân nhân của cô ta yêu cầu chúng ta làm công việc này không? Không, họ không có yêu cầu. Tuy nhiên, dù là họ không biết, chúng ta vẫn hồi hướng công đức cho cô. Là Phật tử, chúng ta không cần được thỉnh cầu mới giúp đỡ người khác. Chúng ta cảm thấy thương xót người phụ nữ trẻ này và cố hết sức mình để giúp cô ta. Chúng ta nương tựa vào uy lực của Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Địa Tạng Vương. Nếu cô ta tỉnh lại thi thật là tuyệt hảo; nếu không, đó chỉ vì nghiệp chướng của cô quá nặng. Dẫu sao đi nữa, chúng ta hãy cố gắng hết sức mình, tất cả chúng ta nên nỗ lực làm việc! Hiện nay, càng lúc các nhiều tai họa trên thế giới, trong khi đó càng lúc càng ít người tu Đạo Bồ Đề. Thêm nữa, càng lúc càng có nhiều người phá giới. Tại sao thế giới ngày càng trở nên tệ hại? Chúng ta hãy nghiên cứa câu hỏi căn bản này. Nguyên nhân của vấn đề này là con người không giữ năm giới, đặc biệt là giới không tà dâm. Đàn ông và đàn bà đều sai lầm nghĩ rằng thỏa mãn ham muốn tình dục là một loại khoái lạc. Như có câu nói là “quay lưng với giác ngộ, phối hợp với bụi trần (bội giác hợp trần)” và "nhận kẻ giặc làm con”. Họ cho đau khổ là khoái lạc, đen là trắng, và cho sự thật là hão huyền. Họ quá mê lầm đến nỗi họ hành động cẩu thả và không chánh đáng, dường như họ đi ngược đầu thay vì đứng thẳng. Thêm vào đó, thay vì biết giữ gìn tinh lực quý giá, những người nam nữ mỗi ngày làm những việc mà cuối cùng chỉ là thương tổn chính họ. Đàn ông không biết cư xử như người đàn ông chính trực, phụ nữ không biết cư xử như người phụ nữ chính trực; những điều họ biết chỉ là làm cách nào để thỏa mãn ham muốn nhục dục của họ. Ngày nay, nam nữ sinh viên, nhất là những người trong những đại học nổi tiếng, họ sống chung và tham gia những hành vi chung chạ. Những hành động này đưa đến những sự mang thai ngoài ý muốn. Đề tránh những sự mang thai ngoài ý muốn này, các phương tiện ngừa thai được phát minh. Nhiều người nghĩ rằng dùng phương tiện ngừa thai tốt hơn là đối phó với những khó khăn do những sự có thai ngoài ý muốn. Thật ra, dùng biện pháp ngừa thai là không đúng vì nó ngược lại những chức năng sinh học trong việc giao hợp, và đó cũng là một loại nghiệp chướng. Thêm vào đó, những người phát minh ra những phương pháp ngừa thai cuối cùng đã gây hại cho nhiều thanh niên nam nữ , vì những người trẻ sẽ dễ dàng tham gia hành vi tà dâm hơn khi nghĩ rằng họ không phải lo lắng về chuyện có thể mang thai. Ngoài phương pháp ngừa thai, nam nữ còn dùng sự phá thai để đương đầu với những bào thai ngoài ý muốn do những hành vi đồi trụy của họ. Bằng cách phá thai, họ tạo ra một tội nặng nề hơn - tội sát sanh. Nói cho rõ, trong khi dùng biện pháp ngừa thai là một hành động sát sanh gián tiếp; thì phá thai là hành vi sát sanh trực tiếp. Tất cả những việc sát sanh này làm gia tăng lòng oán hận trên thế gian. Những năng lực xấu này cũ chồng chất, kết quả là có những bệnh lạ. Khi quý vị nghiên cứu sâu xa hơn, quý vị sẽ thấy rằng nếu đàn ông, đàn bà không luôn phá luật về hành vi luân lý thì đã chẳng xảy ra quá nhiều những bệnh tật lạ với những triệu chứng khác thường không giải thích được và không chữa được. Bây giờ, ngoài ung thư còn có những bệnh khác cũng khó chữa hoặc không thể chữa được. Những vấn đề này đều đầu tiên bắt nguồn từ phạm giới về tà dâm, rồi thì giới sát sinh. Những hành động không chính đáng này sẽ có tiếp theo sau là sự phạm giới ăn cắp, nói dối và dùng chất say. Năm giới luật này là những luật lệ quan trọng nhất trong đời sống chúng ta. Vì thế, mọi người phải giữ năm giới. Thuở xưa, khi vị Chuyển Luân Thánh Vương còn ở trên thế gian để giáo hóa chúng sanh, mọi người đều giữ năm giới, tuân theo và thực hành mười điều thiện (Thập Thiện) và ăn chay. Vào thời đó, không có thiên tai và mọi người được hưởng rất nhiều phước báo, nhiều người có thần thông và mở ngũ nhãn. Trái lại ngày nay, tiêu chuẩn đạo đức ngày càng suy đồi. Sự suy đổi trong phẩm cách con người cũng làm cho cả thế giới suy đồi. Quý vị có muốn biết tại sao có quá nhiều người bị ung thư? Tình trạng này là do nghiệp sát sanh tạo ra. Quý vị hãy suy nghĩ về việc này, qua sự phá thai, quý vị đã tận diệt những mạng sống ngay trước khi chúng có cơ hội chào đời. Trong hoàn cảnh này, sự oán giận của những bào thai không được sinh ra không thật là kinh khủng hay sao ? Nói tóm lại, thế giới và con người càng ngày càng tệ hại hơn. Tất cả chỉ vì nghiệp sát sinh. Người tại Vạn Phật Thánh Thành, vì biết nhân quả báo ứng tuần hoàn, chúng ta hãy làm giảm nghiệp xấu trên thế giới, như vây thế giới sẽ không có nhiều thiên tai, giúp nhân loại bớt đi một chút đau khổ, và bệnh tật của nhân loại cũng bớt đi một chút. Chúng ta hãy cùng nhau giúp cô họ Vương xem như đây là một cơ hội để nỗ lực và thành tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương . Niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương có thể giúp giảm nghiệp xấu của chúng sinh; và để cho những kẻ thù, thân nhân và những chủ nợ của họ từ vô lượng kiếp về trước được sinh về Tây Phương Cực Lạc. Lần tụng niệm này cũng sẽ giúp tất cả kẻ thù, thân nhân và chủ nợ của chúng ta được được sinh về Tây Phương Cực Lạc. Hãy nhân cơ hội này để niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát với sự nỗ lực và thành tâm. Khi chúng ta giúp những người đang bệnh hay đang đau khổ, chúng ta cũng đang độ cha mẹ, tổ tiên, kẻ thù, thân nhân, và chủ nợ của chúng ta trong những đời quá khứ, và giúp họ lìa khổ được vui, và liễu sanh thoát tử. Có một phần công sức thì sẽ được một phần kết quả tương ứng. Khí quý vị niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát với sự nỗ lực và thành tâm, Ngài sẽ cảm động. Biết rằng quý vị đang niệm danh hiệu Ngài với lòng thành khẩn như vậy, Bồ Tát Địa Tạng Vương sẽ siêu độ tất cả nghiệp chướng của quý vị, Ngài cũng giúp quý vị tu Đạo Bồ Đề, tiến bộ trên đường Đạo này mà không bị ma chướng, sớm tiêu trừ các nghiệp chướng, mau xa lìa đau khổ và vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc. Đó là lý do chính để chúng ta tham dự Thất Địa Tạng. Vì thế, mọi người hãy chân thật và thành tâm để siêu độ cha mẹ, tổ tiên, kẻ thù, thân quyến và chủ nợ của chúng ta trong những kiếp trước. Hãy để cho họ dùng cơ hội này để lia khổ đuoc vui. Đừng để thời gian trôi quá vô ích! Lời Sọan Giả: Dù cô họ Vương đã tạo nhiều nghiệp xấu trong quá khứ, cô đã phát đại tâm sám hối tại Penang. Trước đại chúng hơn hai ngàn người, cô thành thật nói về những hành vi không tốt đẹp của cô, và cầu xin sự gia hộ từ bi của chư Phật, chư Bồ Tát và của Hòa Thượng khi cô quyết tâm sám hối và thay đổi. Khi ấy bệnh ung thư của cô được thuyên giảm. Tuy nhiên, cô trở lại thói quen cũ sau khi phát tâm sám hối, và dùng phương tiện gian dối để đến Vạn Phật Thánh Thành. Vì cô làm thêm nhiều nghiệp chướng, nên khó mà tránh được nghiệp quả không lành. Vì thế, mặc dù bốn chúng đệ tử tại Vạn Phật Thánh Thành đã vì cô mà tổ chức hai Thất Địa Tạng và nhiều bác sĩ đã cố gắng để cứu cô, nhưng cô đã mất vài tuần sau đó. Chúng ta có thể nói rằng cô họ Vương đã hiện thân thuyết Pháp và hãy xem đây là sự cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta. ( trích : Những Vong Linh Thai Nhi Vô Tội )    
  6. Cám ơn chị Wild đã bổ sung hình ảnh cho bài viết. Kính mời Chị cùng mọi người theo dõi tiếp nhé. ============ Nhân qua bài dẫn của anh hoangnt ở trên có câu đầu của bài Kệ thỉnh chuông Hồng chung sơ khấu Bảo kệ cao âm Thượng triệt thiên đường Hạ thông địa phủ. Nam mô U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát! Chợt nhớ, trong dịp đi thăm cơ sở nuôi người bệnh tâm thần Trọng Đức – Đà Lạt, Đại đức Thích Trí Khánh có chỉ dạy : “ Những người bệnh này, nếu được nghe tiếng chuông chùa thường ngày, bệnh tình rồi sẽ thuyên giảm”. TT. Thích Minh Quang , mỗi lần có người đến chùa xin cho người thân nương nhờ cửa chùa để chữa tâm bệnh, thầy đều hỏi vui người bệnh : “ Ở lại chùa với thầy, thày sẽ nuôi ăn, chỉ cần hàng ngày ngồi thỉnh đại hồng chung cho thầy thôi, vậy có có chịu không” - chắc cũng trong ẩn ý đó. Địa Tạng Vương Bồ Tát có nguyện lớn là nơi nào có địa ngục thì nơi đó bồ tát phải có mặt. Danh hiệu của bồ tát là Địa Tạng Vương. Minh tức là cõi u minh, nghĩa là cõi âm, minh này không có nghĩa là sáng. Dương tức là cõi trần thế. Người cứu độ cho cả cõi âm và cõi dương được gọi là Minh Dương Cứu Khổ Địa Tạng Vương. Hình ảnh của bồ tát Địa Tạng Vương là một hình ảnh tiêu biểu, vì chính ở đây sự đối tượng cúng dường, đối tượng của tình thương và của sự thực tập là những người cô hồn. Vì vậy bồ tát Địa Tạng Vương đóng một vai trò quan trọng. Sự đau khổ đó có mặt trong cả cõi dương và cõi âm. Cõi dương nằm trong cõi âm và cõi âm nằm trong cõi dương. Đó là giáo lý tương tức. Cõi dương cũng như cõi âm đều nằm trong cõi dương hết. Trong chùa mỗi khi thỉnh chuông đại hồng chúng ta hay xướng bài kệ: Bài kệ thỉnh chuông Việt dịch : Sơ khấu : (khấu thỉnh đoạn nhứt) Hồng chung khởi thỉnh tiếng ban đầu, Bảo kệ ngâm cao thoát nhiệm mầu, Trên thấu Thiên đàng vui an lạc Dưới thông Địa ngục diệt đau sầu ! (0) ! *Nam Mô U Minh Giáo Chủ, Cứu khổ bổn tôn, Cứu bạt minh đồ, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (0). Nhị khấu : (khấu thỉnh đoạn hai) Hồng chung khấu thỉnh lần thư hai, Bảo kệ ngâm cao giọng ngân dài, Trên thấu thiên đường trời niệm Phật Dưới thông địa ngục ngục tiêu tai. ! (0). *Nam Mô U Minh Giáo Chủ, Cứu khổ bổn tôn, Cứu bạt minh đồ, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (0). Tam khấu : (khấu thỉnh đoạn ba) Hồng chung kính thỉnh lần thứ ba, Bảo kệ ngân cao chiếu bảo tòa, Trên thấu thiên đường thông sáu nẻo, Dưới sâu địa ngục độ bao la. ! (0) *Nam Mô U Minh Giáo Chủ, Cứu khổ bổn tôn, Cứu bạt minh đồ, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (0). Cũng chưa có dịp để hỏi thêm thầy Trí Khánh về diệu lực của tiếng chuông chùa nói chung và tiếng chuông trong truyền thống Kim Cang Thừa nói riêng có “hiệu ứng” tác động đến tinh thần của chúng sinh như thế nào. Nhưng có lẽ, phần lớn trong chúng ta đều đã có dịp cảm nhận : Mỗi khi bước chân vô cửa chùa nghe tiếng chuông ngân đều thấy lòng mình thư thái ,dịu lại. Nên phải chăng !? Tiếng chuông chùa đã là phương tiện truyền tải, mang năng lựợng từ bi từ những đại hạnh nguyện cứu độ chúng sinh các cõi của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đến với nhân gian này. Sống trong xã hội đầy ô nhiễm hiện nay, áp lực sinh sống tạo nhiều chần động lên tâm lý con người nhẹ thì stress nặng thì trầm cảm, tâm thần. Nên có lẽ phải “tranh thủ phương tiện” : Khi tinh thần thấy bất ổn không yên. Đến cửa Thiền nghe chuông chùa mươi phút. Thầm niệm Phật, nhìn khói hương nghi ngút. Nỗi ưu phiền theo khói vút thăng thiên.
  7. Tại Việt Nam, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển song hành với sự phát triển của Phật Giáo. Tuy nhiên phần lớn người dân Việt thường chuyên tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện với mục đích cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, con cái, họ hàng thân thuộc… tức chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục, Giáo Chủ của cõi U Minh… chứ không hề biết rằng Địa Tạng Bồ Tát không chỉ độ hóa chúng sinh trong cõi Địa Ngục, mà còn giúp đỡ bảo vệ cho sinh mệnh của chúng sinh, an dân trấn quốc, viên mãn Phước Trí ngay trong đời hiện tại. (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), Phẩm 6 Thế tôn tuyên dương ghi rằng : " Phổ quảng, trong thì gian vị lai, mỗi tháng các ngày mồng một, mồng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hâm ba, hâm bốn, hâm tám, hâm chín hay ba mươi, là những ngày kê cứu tội ác để phán định nặng nhẹ. Mà người Diêm phù thì cử động (51) hay suy tư toàn là nghiệp, toàn là tội, huống chi lại còn mặc ý sát sinh trộm cướp tà dâm vọng ngữ, nghiệp dữ cả trăm cả ngàn. Trong những ngày thập trai trên đây, nếu kẻ nào biết đối trước tượng Phật đà, tượng Bồ tát hay tượng Hiền thánh mà tụng một biến kinh này, thì khu vức người ấy cư trú, đông tây nam bắc chu vi một trăm do tuần, không có mọi sự tai nạn, và nhà ở của người ấy thì bất cứ lớn nhỏ, từ hiện tại đến vị lai, trong cả trăm cả ngàn năm thoát khỏi đường dữ một cách lâu dài. Mỗi ngày thập trai biết tụng kinh này một biến, việc ấy, ngay trong đời này, đã làm cho cả nhà không có tai họa, bịnh tật, ăn mặc sung túc " Lại thêm " Phổ quảng, trong thì gian vị lai, những kẻ chiêm bao hay ngủ say, thấy các quỉ thần với bao nhiêu biến dạng buồn có, khóc có, rầu có, than có, sợ có, hãi có. Ấy toàn là cha mẹ con cái, anh em chị em, hay vợ chồng bà con, trong quá khứ một đời mười đời hay trăm đời ngàn đời, hiện ở trong đường dữ mà chưa được thoát khỏi, không biết hy vọng vào đâu làm phước cứu vớt, nên họ báo mộng cho những kẻ xương thịt trong quá khứ, trông mong làm phước để cứu họ thoát khỏi đường dữ. Phổ quảng, các người hãy vận dụng thần lực làm cho những kẻ xương thịt ấy biết đối trước tượng Phật đà hay tượng Bồ tát, chí tâm tự tụng kinh này hay cung thỉnh người khác tụng cho, số lượng phải ba biến hay bảy biến. Như vậy, những kẻ bà con còn ở trong đường dữ kia, hễ tiếng tụng kinh đủ biến chấm dứt, thì họ cũng được siêu thoát, mộng mị cũng không bao giờ còn thấy họ nữa." Lại thêm " Đại loại như vậy, Phổ quảng, các người nên biết Địa tạng đại sĩ, xuất từ thần lực vĩ đại, có những sự ích lợi cho người đạt đến số lượng trăm ngàn vạn ức, không thể nói hết. Đối với Địa tạng đại sĩ, người Diêm phù có sự liên hệ lớn lao. Người ở đây nghe danh hiệu hay thấy hình tượng của đại sĩ, cho đến nghe kinh này dầu chỉ được ba chữ hay năm chữ, một bài chỉnh cú hay một câu đủ nghĩa (52) , hiện tại cũng đạt được sự yên vui tuyệt diệu, mà vị lai thì trăm ngàn vạn đời luôn luôn sinh ra trong nhà tôn quí, tướng mạo và tánh tình đều hoàn hảo." (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), quyển Thượng, Phẩm Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông ghi rằng: “ Vào kiếp lâu xa trong thời quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát là con của một vị Đại Trưởng Giả. Nhân thấy tướng tốt trang nghiêm của Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai mà phát sinh tâm kính ngưỡng, nói rằng để chứng đắc được tướng trang nghiêm này mà phát Nguyện cho đến hết các kiếp chẳng thể tính đếm, ở đời vị lai độ thoát tội khổ của chúng sinh trong sáu nẻo” Lại ghi rằng:”Một trong các kiếp trong a tăng kỳ kiếp chẳng thể nghĩ bàn, Địa Tạng Bồ Tát là người nữ thuộc giòng Bà La Môn, vì cứu độ mẹ thoát khỏi Địa Ngục đã thay mẹ cúng dường tu Phước và phát Nguyện cho đến hết kiếp vị lai đều rộng cứu độ tội khổ của chúng sinh” (*) Trong Phẩm Diêm Phù Chúng Sinh Nghiệp cảm của Kinh trên cũng ghi nhận hai thuyết là: _ “Vào thời lâu xa trong quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát làm vua của một nước. Do thấy người dân trong nước tạo nhiều tội ác, nên đã phát Nguyện độ hết tội của các chúng sinh, đều đến Bồ Đề. Nếu chẳng như vậy thì không thành Phật” _”Ở một kiếp lâu xa trong quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát là một người nữ tên là Quang Mục. Do mẹ của nàng bị đọa vào Địa Ngục nên Quang Mục vì muốn cứu độ mẹ, đã phát Nguyện cứu giúp nhổ bứt tất cả tội khổ của chúng sinh, đợi cho chúng sinh thành Phật rồi, sau đó mình mới thành Chính Giác” Các Thuyết ghi trên đều tùy theo Tín Ngưỡng Địa Tạng mà rộng truyền trong dân gian, cho nên trong Phật Giáo thường dùng các câu: _“Địa Ngục chưa trống rỗng Thề Nguyện chẳng thành Phật Khi độ hết chúng sinh Mới chứng đắc Bồ Đề” _ “Ta chẳng vào Địa Ngục thì ai vào Địa Ngục ?”Để hình dung lời Nguyện rộng lớn thuộc Tâm Từ Bi thương xót của Địa Tạng Bồ Tát. (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện, Phẩm Địa Thần Hộ Pháp đề cập đến mười điều lợi ích của việc cúng dường Địa Tạng Bồ Tát. Trong đó hay đắp tượng vẽ tranh, cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt đúc hình tượng Ngài Địa Tạng, đốt hương cúng dường, chiêm lễ ngợi khen, thì nơi người đó ở liền được mười điều lợi ích là: 1_Đất cát tươi tốt. 2_Nhà cửa an ổn. 3_Người đã chết được sinh lên cõi Trời. 4_ Những người hiện còn được tăng thọ. 5_ Cầu nguyện gì cũng được toại ý 6_ Không có tai họa về lửa và nước. 7_ Trừ sạch việc hư hao. 8_ Dứt hẳn mộng ác. 9_ Khi ra lúc vào có Thần theo hộ vệ. 10_ Thường được gặp bậc Thánh Nhân. (*) Trong Phẩm Chúc Lụy Nhân Thiên nói rằng: “Nếu trong đời sau có kẻ trai lành người nữ thiện nào, nhìn thấy hình tượng Ngài Địa Tạng và nghe Kinh này, cho đến đọc tụng, dùng hương hoa, thức ăn uống, quần áo, trân bảo, bố thí cúng dường, ngợi khen chiêm lễ, sẽ được hai mươi tám điều lợi ích là: 1_Trời, Rồng thường hộ niệm. 2_Quả lành ngày càng tăng. 3_ Gom chứa Nhân vô thượng của bậc Thánh. 4_ Chẳng thoái Bồ Đề 5_Ăn mặc được đầy đủ. 6_ Thân không bị vướng những bệnh tật, nạn dịch 7_ Xa lìa tai họa về lửa và nước. 8_ Không bị nạn trộm cướp. 9_ Người khác nhìn thấy đều sinh lòng kính trọng. 10_ Quỷ Thần theo hộ trì. 11_ Đời sau sẽ chuyển thân nữ thành thân nam. 12_ Đời sau sẽ làm con gái của các bậc Vương Giả Đại Thần. 13_ Tướng mạo xinh đẹp. 14_ Phần lớn được sinh về cõi Trời. 15_ Làm bậc vua chúa. 16_ Có Trí sáng biết rõ những việc trong đời trước. 17_ Cầu nguyện gì cũng được toại ý 18_ Quyến thuộc an vui. 19_ Các tai họa đột ngột đều được tiêu diệt. 20_ Các nghiệp về nẻo ác đều dứt hẳn. 21_ Đi đến đâu cũng không bị trở ngại. 22_ Đêm nằm mộng được an ổn vui vẻ. 23_ Những người thân tộc đã chết nếu có tội thời được khỏi khổ. 24_ Nếu đời trước có Phước thì được thọ sinh về cõi vui sướng. 25_ Được các bậc Thánh ngợi khen. 26_ Căn Tính lanh lợi thông minh. 27_ Giàu lòng Từ Tâm thương xót. 28_ Cuối cùng thành Phật. Trong băng đĩa Cửu Hoa Sơn (thuộc Tứ Đại Danh Sơn) có ghi nhận bài Địa Tạng Sám nhằm nhấn mạnh vào Pháp Tu Chính Pháp Giải Thoát qua sự nhiếp hóa của Bồ Tát Địa Tạng như sau: _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con lìa hẳn ba nẻo ác _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con mau dứt Tham Sân Si _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con siêng tu Giới Định Tuệ _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con thường tùy các Phật Học _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con chẳng thoái Tâm Bồ Đề _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con quyết định sinh An Nhẫn _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con mau được thọ Thánh Ký _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con phân thân khắp các cõi _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con rộng độ các chúng sinh
  8. Tại Nhật Bản Tại Nhật Bản,Tín Ngưỡng Địa Tạng bắt nguồn trong thời kỳ Bình An (Heian:794_1192) và được phát triển qua từng giai đoạn cho đến ngày nay như sau: (*) Kim Tích Vật Ngữ Tập ghi nhận Địa Tạng là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh trong đời hiện tại và dẫn dắt họ sang Thế Giới Cực Lạc (Sukhàvatì) (*) Bộ Nhật Bản Linh Dị Ký tin rằng Địa Tạng là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh sau khi lâm chung. (*) Người dân Nhật Bản tin tưởng rằng Địa Tạng Bồ Tát chuyên cứu độ linh hồn của trẻ con bị chết yểu nên thường dựng các tượng đá Jizò (Địa Tạng) trong các nghĩa trang và khoác quần áo của trẻ con đã chết ấy lên bức tượng Dần dần Địa Tạng Bồ Tát được đồng hóa với vua Diêm La (Yama-ràja) và được xem là vị chủ tể của cõi U Minh, chuyên cứu độ tất cả chúng sinh trong cõi Địa Ngục. Như quyển Bồ Đề Tâm Luận của ngài Trân Hải cho rằng Địa Tạng Bồ Tát hóa hiện thành thân Phật hoặc thân Diêm La Vương để vào Địa Ngục cứu độ chúng sinh Biểu tượng thường thấy nhất là tượng Địa Tạng Bồ Tát được tạo dựng trong các nghĩa trang của Phật Giáo hoặc các tranh tượng Địa Tạng qua hình nhà sư đi vào lửa ngục để giải cứu những linh hồn chịu khổ nạn. (*) Ngày nay tại Nhật Bản, Địa Tạng Bồ Tát được thờ phượng qua hình dáng nhà sư đầu trần chân đất, đi vào xã hội cứu độ chúng sinh ngay trong đời này chứ không phải ở chốn Địa Ngục. Trong Thế Kỷ thứ 9, Tín Ngưỡng Địa Tạng được Thiên Đài Tông và Chân Ngôn Tông phổ biến qua hình tướng của sáu vị Địa Tạng. Giác Thiền Sao ghi rằng: 1_ Đại Kiên Cố Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Trời, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải cầm quyển Kinh 2_ Đại Thanh Tịnh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Người, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải kết Thí Vô Úy Ấn 3_ Thanh Tịnh Vô Cấu Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi A Tu La, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải cầm rương Kinh Phạn 4_ Đại Quang Minh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Súc Sinh, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải cầm Như Ý 5_ Đại Đức Thanh Tịnh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải tác Dữ Nguyện Ấn. 6_ Đại Định Trí Bi Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục, tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải cầm viên ngọc báu. Hoặc sáu hình tượng Địa Tạng là sáu Hóa Tôn của sáu nẻo đã được ghi nhận trong Đại Nhật Kinh Sớ Ngoài sáu hình tướng trên, Nhật Bản còn lưu truyền nhiều hình tướng Địa Tạng khác là: _ Pháp Tính Địa Tạng: Còn gọi là Bất Hưu Tức Địa Tạng _ Địa Trì Địa Tạng (Jiji Jizò): Còn gọi là Hộ Tán Địa Tạng _ Bảo Tính Địa Tạng: Còn gọi là Phá Thắng Địa Tạng _ Pháp Ấn Địa Tạng: Còn gọi là Tán Long Địa Tạng _ Đà La Ni Địa Tạng: Còn gọi là Biện Ni Địa Tạng _ Long Quy Địa Tạng: Còn gọi là Diên Mệnh Địa Tạng hay Quang Vị Địa Tạng _ Dự Thiên Địa Tạng (Yotenga Jizò):Tay trái cầm viên ngọc Như Ý, tay phải tác Thuyết Pháp Ấn, cứu độ nẻo Trời Người. _ Phóng Quang Vương Địa Tạng (Hòkò- ò- Jizò):Tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Dữ Nguyện Ấn, giúp cho Ngũ Cốc được mùa _ Kim Cương Tràng Địa Tạng (Kongòtò Jizò):Tay trái cây phướng Kim Cương, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn, cứu độ nẻo Tu La _ Kim Cương Bi Địa Tạng (Kongòhi Jizò):Tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Dẫn Tiếp Ấn, cứu độ nẻo Súc Sinh _ Kim Cương Bảo Địa Tạng (Kongòhò Jizò):Tay trái cầm viên ngọc báu, tay phái tác Cam Lộ Ấn, cứu độ nẻo Quỷ đói _ Kim Cương Nguyện Địa Tạng (Kongògan Jizò):Tay trái cầm cây phướng Diễm Ma, tay phải tác Thành Biện Ấn, vàu Địa Ngục cứu khổ _ Khỏa Địa Tạng: (Hadaka Jizò: Địa Tạng lõa thể) Trường hợp đặc biệt, Địa Tạng Bồ Tát cũng có thể mang hình tướng một bà già qua tên gọi Mẫu Địa Tạng (Uba Jizò) Hadaka Jizō Hoặc mang hình tướng của người nữ với tên gọi là Tử Dục Địa Tạng (Kosodate Jizò) được kêu cầu như vị Thần bảo vệ và nuôi lớn trẻ con _ Tử An Địa Tạng (Koyasu Jizò): giúp cho phụ nữ sinh đẻ và nuôi con dễ dàng. Tín Ngưỡng này đã thâm nhập vào Tín Ngưỡng Dân Gian từ sau thời đại Khiếm Thương (Kamakura: 1192_1336) tức lấy sự thị hiện của Bồ Tát Địa Tạng ở vùng Tắc Hà là vị cứu hộ trẻ con, giúp phụ nữ sinh đẻ dễ dàng… và có vẽ hình, ca vịnh tán tụng. Tại Kiyomizu ở Kyoto có dựng tượng Jizò (Địa Tạng) là nơi dùng để tưởng niệm những đứa trẻ bị chết yểu. _ Thủy Tử Địa Tạng hay Ấu Thủy Địa Tạng (Mizuko Jizò): Giúp cho những vong linh trẻ con chết yểu hoặc chết trong thai mẹ…được an lành. Do điều này mà tượng Địa Tạng Bồ Tát thường được đặt dọc theo bờ sông Sai-no-Kawara nhằm giúp cho những vong linh chết trẻ, thoát khỏi mọi hình phạt, sớm được siêu thoát. Hoặc thiết lập các nghi lễ cầu siêu cho trẻ con bị chết khi người mẹ bị sẩy thai hay phá thai…. Người dân Nhật Bản tin tưởng rằng Địa Tạng Bồ Tát có rất nhiều quyền năng như di chuyển, bay, nói hoặc nhổ gai khỏi chân những kẻ lữ hành… Từ đó vô số Tín Ngưỡng Dân Gian đã gắn liền với Địa Tạng như: _ Thích Phi Địa Tạng (Togenuki Jizò): hay giúp cho người lữ hành nhổ gai góc đâm vào chân Togenuki Jizò _ Thường Thí Địa Tạng (Ajimi Jizo): hay giúp cho các vị tu sĩ chuẩn bị các món ăn đặc biệt ở nhà bếp Ajimi Jizō at Koyasan _ Cốc Đoàn Bính Địa Tạng (Botamochi Jizò): hay giúp cho nhà nông có các cái bánh hình tròn để ăn trong thời gian gieo trồng lúa mạ. Botamochi Jizō _ Tỵ Thủ Địa Tạng (Hanatori Jizò): chăm sóc ngựa và gia súc _ Hỏa Tiêu Địa Tạng (Hikeshi Jizò) hay Hỏa Phần Địa Tạng (Hitaki Jizò): bảo vệ nhà cửa, ruộng vườn tránh khỏi hỏa hoạn _ Thủy Dẫn Địa Tạng (Mizuhiki Jizò): mang nước đến giúp cho lúa mạ, cây cối tăng trưởng _ Vũ Khất Kỳ Địa Tạng (Amagoi Jizò): Cầu đảo xin trời mưa _ Lập Sơn Địa Tạng (Tachiyama Jizò): tạo làm nơi chốn cho phụ nữ nông dân nghỉ ngơi _ Điền Thực Địa Tạng (Taue Jizò): giúp cho ngũ cốc được mùa _ An Sản Địa Tạng (Anzan-Jizò): giúp cho phụ nữ sinh đẻ dễ dàng Anzan-Jizò _ Nhật Hạn Địa Tạng (Higiri Jizò): giúp cho con người tránh khỏi Thiên Tai _ Tâm Bình Địa Tạng (Shinpei Jizò): giúp cho linh hồn của con người được an bình _ Đạo Dẫn Địa Tạng (Michibiki Jizò): bảo vệ, chỉ đường cho những người đi trong vùng hoang vắng hiểm trở _ Thắng Quân Địa Tạng (Shokògun Jizò): Giúp cho chiến thắng và bình an trong trận mạc Shokògun Jizò _ Diên Mệnh Địa Tạng (Enmei Jizò): giúp cho con người mạnh khỏe sống lâu, không bị bệnh tật _ Du Huyền Địa Tạng (Aburakake Jizò): chữa trị bệnh tật cho con người Aburakake Jizò _ Bảo Ấn Địa Tạng ((Hòin Jizò): Cứu độ súc sinh _ Phóng Quang Vương Địa Tạng (Hòkò- ò- Jizò) hoặc Kiên Cố Ý Địa Tạng (Kenko-i Jizò) hoặc Nhật Quang Địa Tạng (Nikkò Jizò): Cứu độ hàng Trời _ Bảo Xứ Địa Tạng (Hòsho Jizò): Cứu độ A Tu La _Bảo Chưởng Địa Tạng (Hòshò Jizò): Cứu độ Quỷ đói _Trì Địa Địa Tạng (Jiji Jizo) hoặc Trừ Cái Chướng Địa Tạng (Jogaishò Jizò): Cứu độ loài người _ Bảo Châu Địa Tạng (Hòju Jizò): Cứu độ nẻo Địa Ngục _ Hỏa Phục Địa Tạng (Hifuse Jizò): ngăn chận nạn núi lửa. Điển hình là các Tượng Địa Tạng được dựng gần núi lửa Chasudake tại Nhật Ngoài ra Địa Tạng Bồ Tát còn được thờ phụng qua nhiều tên gọi như sau: _ Đàn Đà Địa Tạng (Danda Jizò) _ Nê Túc Địa Tạng (Doroashi Jizò) _ Phúc Đới Địa Tạng (Hara-Obi Jizò) _ Bị Mạo Địa Tạng (Hibò Jizò) _ Hắc Địa Tạng (Kuro Jizò) _ Không Thủ Địa Tạng (Karate Jizò) _ Lạp Địa Tạng (Kasa Jizò) _ Khái Chỉ Địa Tạng (Sekidome Jizò) _ Thúc Tử Địa Tạng (Tawashi Jizò) _ Lung Địa Tạng (Tsunbo Jizò) _ Thỉ Điền Địa Tạng (Yata Jizò) _ Thủ Chấn Địa Tạng (Kubifuri Jizò) Người dân Nhật thường khắc hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát trên đá hoặc dùng đá tảng, cắt xẻ đục đẽo đơn sơ rồi dựng hình tượng của Ngài trên các bệ đá dựng ở ven đường, cổng ra vào của làng mạc, nơi hoang vắng nguy hiểm… nhằm bảo vệ cho làng mạc và khách lữ hành. Riêng ở Tokyo có hơn 500 bức tượng Jizò (Địa Tạng) được dựng dọc theo nhiều tuyến đường Do người Nhật tin tưởng Địa Tạng là vị Bồ Tát giám hộ trẻ thơ, nên thường cho trẻ con chơi đùa loanh quanh, gần một bức tượng Địa Tạng với niềm tin là Ngài sẽ trông coi và bảo vệ cho lũ trẻ [1] Phật Giáo Nhật Bản chọn ngày 24 tháng bảy theo Lịch của Nhật Bản là ngày vía của Địa Tạng Bồ Tát và chọn ngày 23, 24 tháng tám làm ngày lễ hội Địa Tạng Bồn (còn gọi là ngày truyền thống của trẻ thơ), nhằm nhắc nhở đến sự mệnh thiêng liêng của Ngài là bảo vệ trẻ thơ vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của đời người. Nhiều chùa ở Nhật Bản có dựng một dãy tượng Địa Tạng bằng đá đẽo thô mộc, gọi là Sentai Jizò (ngàn thân Địa Tạng) Do Bản Tính khoan hòa, từ ái của Địa Tạng Bồ Tát kèm với hình tướng nhà sư, khiến Ngài có vẻ gần gũi với dân gian hơn là vị Thần khác. Ngài được gắn liền với Đức Phật A Di Đà cùng với Bồ Tát Quán Âm thì được xưng tán là “Nhất Phật Nhị Bồ Tát”. Đôi khi, Địa Tạng Bồ Tát còn được biểu thị như là một chiến binh của Thần Đạo Nhật Bản được đồng hóa với Atago Gongen (vị Thần bảo vệ khỏi bị lửa đốt, là một Nhập Thể tạm thời của Jizị được thờ phụng trên núi Atago thuộc tỉnh Kyoto) với hình dáng một chiến tướng ngồi trên lưng ngựa, tay cầm cây gậy hành hương và viên ngọc ước. Thần Thú của Thần Atago Gongen là con lợn rừng, biểu tượng cho sức mạnh, lòng dũng cảm và ý chí kiên cường….nhằm giải cứu cho những chiến binh thoát khỏi mọi tình huống khó khăn nguy cấp hoặc tránh sự gây hại của lợn rừng. [1] Xem thêm : Vị Bồ Tát bảo vệ trẻ em
  9. Sáu vị Sứ Giả của Địa Tạng: Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ nói : “ Sáu vị Sứ Giả của Địa Tạng Tôn là: 1_ Diễm Ma Sứ Giả (Yàma-cetïa): hóa độ Địa Ngục 2_ Trì Bảo Đồng Tử (Ratna-dhàra-kumàra): hóa độ Ngạ Quỷ 3_ Đại Lực Sứ Giả (Mahà-bala-cetïa): hóa độ súc sinh 4_ Đại Từ Thiên Nữ (Mahà-maitreya-devì): hóa độ Tu La 5_ Bảo Tạng Thiên Nữ (Ratna-garbha-devì): hóa độ loài người 6_ Nhiếp Thiên Sứ Giả (Pratigrahadeva-cetïa): hóa độ chư Thiên Nghi Quỹ niệm tụng này, tuy chẳng do ngài Bất Không dịch. Xong cùng với nhóm Diên Mệnh Địa Tạng Kinh, Liên Hoa Tam Muội Kinh đều là Bản thuộc Nghi Tự Bộ. Tại Tây Tạng, khoảng Thế Kỷ thứ 8, do sự phát triển của Mật Giáo nên Địa Tạng Bồ Tát được minh họa trong các bức tranh và các Mạn Đà La (Manïdïala) như là một trong tám vị Bồ Tát vây quanh Đức Phật, biểu thị cho ý nguyện Từ Bi vĩ đại là: “Địa Ngục chưa trống rỗng Thề Nguyện chẳng thành Phật Khi độ hết chúng sinh Mới chứng đắc Bồ Đề” Ngoài ra Phật Giáo Tây Tạng cũng nhận định Địa Tạng Bồ Tát là một trong các Bản Tôn Tài Bảo
  10. Người dân Việt Nam; Trung Hoa thờ phụng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng với Tầm Thanh Cứu Khổ Quán Thế âm Bồ Tát, Thệ Nguyện Độ Tận Chúng Sinh Địa Tạng Bồ Tát và hợp xưng là Sa Bà Tam Thánh ( Ta Bà Tam Thánh ) Một cách bài trí chánh điện tiểu biểu của chùa Việt Nam (khu vực Trung và Nam bộ) theo truyền thống Phật giáo Đại thừa Bắc truyền. Chính giữa là tượng Ta bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Bên tay trái Ngài là Địa Tạng Bồ Tát Bên tay phải Ngài là Quàn âm Bồ Tát (Hai vị trí Bồ Tát có thể hoán đổi ) Một ban thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát - một hình thức tiêu biểu trong bài trí hệ thống tượng thờ chùa Việt Nam (khu vực Trung và Nam bộ) Một ban thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát - một hình thức tiêu biểu trong bài trí hệ thống tượng thờ chùa Việt Nam (khu vực Trung và Nam bộ)===== Chú thích : Truyền thống Phật giáo Đại thừa tại Việt Nam, chúng ta thường được gặp 3 thế giới : 1 - Tây Phương Cực Lạc Thế Giới : Ở đó cò Đức Phật A Di Đà là giáo chủ, với 2 vị Bồ Tát Quan Thế Âm và Đại Thế hộ trì, gọi là Tây Phương Tam Thánh Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. 2 - Đông Phương Tịnh Lưu Ly Thế Giới : Ở đó Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật làm giáo chủ, với 2 vị Bồ Tát Nhật Quang thường chiếu và Nguyệt Quang Thường Chiếu hộ trì, gọi là Đông Phương Tam Thánh. Nam mô Đông Phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Nhật Quang thường chiếu Bồ Tát, Nguyệt Quang Thường Chiếu Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát. 3- Trung Thiên Thế Giới (hay còn gọi là cõi ta bà này ): ở đây Đức Phật Thích Ca làm giáo chủ,với 2 vị Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát hộ trì. Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát Do Đức Thích Ca Mâu Ni Ngài đang là giáo chủ cõi Ta Bà thời hiện tại, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát vì có hạng nguyện lớn lao và rất cần thiết cho con người trong xã hội - cõi ta bà này, nên các Ngài đã có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn.Quán Thế Âm Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà phải hóa hiện vô lượng vô số hóa thân để ứng duyên cứu độ. Địa Tạng Bồ Tát cũng vậy vì duyên trần cảnh khổ nên Ngài cũng không ngại “trục loại tùy hình, ứng hiện sắc thân”. Tôn Thiết tượng thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng với Tầm Thanh Cứu Khổ Quán Thế âm Bồ Tát, Thệ Nguyện Độ Tận Chúng Sinh Địa Tạng Bồ Tát và hợp xưng là Sa Bà Tam Thánh ( Sa Bà Tam Thánh )- Là như vậy.
  11. (*) Mật Giáo của Trung Hoa ghi nhận: Địa Tạng Bồ Tát là Tôn Chủ của Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Mạn Đà La (Garbha-dhàtu-manïdïala), hiển hình Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen , trên hoa có cây phướng báu Như Ý, tay phải cầm viên ngọc báu ngồi trên hoa sen. Trong Kim Cương Giới Mạn Đà La (Vajra-dhàtu-manïdïala) thì Địa Tạng Bồ Tát được ghi nhận qua tên gọi Kim Cương Tràng Bồ Tát (Vajra-ketu) là một trong bốn vị Bồ Tát thân cận của Đức Bảo Sinh Như Lai (Ratna-samïbhava-tathàgata) Căn cứ vào sự đề xuất của Kinh Bát Đại Bồ Tát Man Đồ La thì Địa Tạng Bồ Tát là một trong tám vị Đại Bồ Tát gồm có: Quán Tự Tại (Avalokite’svara), Từ Thị (Maitreya), Hư Không Tạng (Àkà’sa-garbha), Phổ Hiền (Samanta-bhadra), Kim Cương Thủ (Vajra-pànïi), Văn Thù (Mamïju’srì), Trừ Cái Chướng (Sarva-nìvaranïa-visïkambhin), Địa Tạng (Ksitigarbha). Tám vị Bồ Tát này cùng phụ giúp Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn các chúng sinh về Thế Giới Cực Lạc. (*) Do Địa Tạng Bồ Tát dùng sức Bi Nguyện cứu độ chúng sinh, nhất là đối với chúng sinh đang chịu khổ tại cõi Địa Ngục, lại đặc biệt thương xót, thị hiện thân Diêm La Vương (Yàma-ràja-kàya), thân Địa Ngục (Nakara-kàya) rộng vì chúng sinh chịu tội khổ mà nói Pháp để giáo hóa cứu độ. Do điều này mà thân Diêm La Vương thường được xem là một Hóa Thân (Nirmanïa-kàya) của Địa Tạng Bồ Tát. Như Kinh Địa Tạng Bồ Tát Phát Tâm Nhân Duyên Thập Vương đề xuất Bản Địa của Diêm La Vương là Địa Tạng Bồ Tát.Vì chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng này cùng với tư tưởng Địa Ngục (Nakara) trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra) nên dân gian Trung Hoa cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục. Trong động Thiên Phật ở Đôn Hoàng có ghi nhận hình vẽ Địa Tạng Thập Vương tức hội các tượng của Địa Tạng Bồ Tát với mười vị vua Diêm La kèm theo lời văn minh họa. Hình vẽ này được tạo lập trong đời Tống, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, năm thứ tám (983) nhằm nhấn mạnh rằng Ngài là “Đấng giải thoát khỏi cực hình Địa Ngục” Chính tư tưởng bên trên đã khiến cho một số người ngộ nhận, cho rằng Địa Tạng Bồ Tát chỉ ở tại Địa Ngục để cứu độ chúng sinh trong Địa Ngục. Từ đấy trong việc làm tang ma, Thanh Minh tảo mộ qua tiết Trung Nguyên, Pháp Hội Siêu Độ…thường cúng phụng Địa Tạng Bồ Tát để cầu đảo cho vong linh được siêu độ. Ngoài ra tại nghĩa địa, linh tháp hoặc gặp chiến loạn, sự cố, đất đang phát triển mà mọi người đều đi qua…. thường xây dựng Miếu bái tế Địa Tạng với hy vọng Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo vệ người sống, siêu độ vong linh Thật ra ở trong cả sáu nẻo, Ngài đều có năng lực giáo hóa tế độ. Điều đó được biểu thị qua sáu vị Địa Tạng, tức là Địa Tạng độ hóa chúng sinh trong sáu nẻo. Tên của sáu vị Địa Tạng đều y theo Thế Giới Sa Bà (Sàha-dhàtu) có chúng sinh trong sáu nẻo mà nói. Thế Giới ở phương khác hoặc có bảy nẻo, hoặc năm nẻo… chẳng giống nhau thời Địa Tạng cũng y theo nhân duyên của mỗi phương để mỗi mỗi thị hiện ứng hóa. (*) Danh xưng của Địa Tạng trong sáu nẻo thời các Kinh Quỹ ghi chép chẳng giống nhau. Nhưng theo đại thể mà nói thì đều bắt nguồn ở Đại Nhật Kinh Sớ, quyển thứ năm là: Sáu vị Thượng Thủ (Sïadïa-pramukha) trong chín Tôn (Nava-nàtha) của Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới (Garbha-dhàtu) tức là: Địa Tạng (Ksïitigarbha), Bảo Xứ (Ratnakàra), Bảo Chưởng (Ratna-pànïi), Trì Địa (Dharanïi-dhàra), Bảo Aán Thủ (Ratna-mudrà-hasta), Kiên Cố Ý (Drïdïhàdhyàsaya). Trong đó Địa Tạng Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục Bảo Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ Bảo Xứ Bồ Tát là Hóa Tôn của nẻo Súc Sinh Bảo Ấn Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của nẻo A Tu La Trì Địa Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Người Kiên Cố Ý Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Trời. (*) Kinh Thập Vương ghi nhận rằng: 1_ Dự Thiên Hạ Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Trời, tay trái cầm viên ngọc Như Ý, tay phải kết Thuyết Pháp Ấn 2_ Phóng Quang Vương Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Người, tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn 3_ Kim Cương Tràng Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi A Tu La, tay trái cầm cây phướng Kim Cương, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn 4_ Kim Cương Bi Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Súc Sinh, tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Tiếp Dẫn Ấn 5_ Kim Cương Mật Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải tác Cam Lộ Ấn 6_ Kim Cương Nguyện Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục, tay trái cầm cây phướng Diêm Ma, tay phải tác Thành Biện Ấn. (*) Kinh Liên Hoa Tam Muội ghi nhận là: 1_ Đàn Đà Địa Tạng hay hóa độ nẻo Địa Ngục, tay cầm cây phướng đầu người [Đàn Đa (danïdïa)ødịch là Nhân Đầu Tràng] 2_ Bảo Châu Địa Tạng hay hóa độ nẻo Ngạ Quỷ, tay cầm viên ngọc báu 3_ Bảo Ấn Địa Tạng hay hóa độ nẻo Súc Sinh, duỗi bàn tay Như Ý Bảo Ấn 4_ Trì Địa Địa Tạng hay hóa độ nẻo Tu La, hay gìn giữa đại địa ủng hộ hàng Tu La 5_ Trừ Cái Chướng Địa Tạng hay hóa độ nẻo người, vì con người trừ sự che chướng của tám khổ 6_ Nhật Quang Địa Tạng hay hóa độ nẻo Trời, soi chiếu năm hiện tượng suy thoái của người Trời để trừ khổ não cho họ. (*) Địa Tạng Bồ Tát Thánh Đức Tân Biên ghi nhận 6 vị Địa Tạng là:Hộ Tán Địa Tạng, Diên Mệnh Địa Tạng, Mâu Ni Địa Tạng, Tán Long Địa Tạng, Phá Thắng Địa Tạng, Bất Hưu Tức Địa Tạng Ngoài ra còn có thuyết ghi nhận là: Địa Tạng Bồ Tát cùng với các vị Bồ Tát Quán âm (Avalokite’svara), Đại Thế Chí (Mahà-sthamapràpta), Long Thọ (Nàgarjuna)…đều là các vị theo hầu Đức Phật A Di Đà (Amitàbha-buddha) và xưng là A Di Đà Ngũ Phật. Cũng còn nói là khi Đức Phật A Di Đà còn là con người thì Bồ Tát Pháp Tạng (Dharmàkara) với Bồ Tát Địa Tạng có cùng một Thể.
  12. (*) Địa Tạng Bồ Tát còn được xem là vị Thần bảo toàn đời sống qua tên gọi là Diên Mệnh Địa Tạng tức Thân Hóa Hiện bởi Thệ Nguyện của Địa Tạng Bồ Tát để khiến cho sống lâu làm lợi ích cho đời, hay tránh khỏi sự chết yểu, đoản mệnh có đủ Đức của Pháp khoẻ mạnh sống lâu. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), quyển Thượng, Phẩm Như Lai Tán Thán ghi chép rằng: “Nếu có người nào mới sinh con trai hoặc con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sinh ra đó mà đọc tụng Kinh Điển không thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Ngài Địa Tạng Bồ Tát đủ một vạn biến. Được vậy thời đứa trẻ hoặc trai hay gái mới sinh ra đó, nếu đời trước nó đã gây tạo tội vạ chi cũng được thoát khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi, lại thêm được sống lâu. Còn như nó là đứa nương nơi Phước Lực mà thọ sinh, thì đời nó càng được an vui hơn sống lâu hơn”.
  13. _ Khoảng Thế Kỷ thứ 5, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến tại Trung Hoa qua Kinh Đại Tạng Bồ Tát Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) trong đó nêu lên những Đức Tính của Ngài. (*) Sau đời Tùy (581_618), Đường (618_917) thì Tín Ngưỡng Địa Tạng được sùng mộ hưng thịnh. Ví dụ như Đời Tùy y theo Kinh Địa Tạng Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) mà đề cao thuyết Phổ Phật, Phổ Pháp cùng với Địa Tạng Bồ Tát Lễ Nghi Sám Pháp và xưng là Tam Gia Giáo. (*) Đời Tống, Thường Cẩn có soạn một quyển sách ghi nhận 32 loại sự tích linh nghiệm liên quan đến Địa Tạng Bồ Tát từ đời Lương (502_557) đến đời Tống (960_1279). Do điều này mà Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến rộng rãi, người đời lúc bấy giờ đều lưu truyền, phỏng họa hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng để trong Tự Viện hoặc Phật Đường của tư nhân mà lễ bái cúng dường. Nổi tiếng nhất là hình tượng Địa Tạng Bồ Tát được vẽ trên bức tường phía Đông của chùa Thiện Tịch, huyện Đức Dương, Hán Châu trong Đời Lương. (*) Lại nữa, Phật Giáo Trung Hoa còn xếp Địa Tạng Bồ Tát là một trong bốn vị Đại Bồ Tát (Văn Thù, Phổ Hiền, Quán âm, Địa Tạng) ứng hóa giảng thuyết tại Đạo Tràng ở núi Cửu Hoa thuộc tỉnh An Huy. Điện thờ đức Địa Tạng vương trên đỉnh Cửu Hoa sơn Tống Cao Tăng Truyện, quyển 20 ghi nhận rằng: “ Địa Tạng Bồ Tát sinh hạ vào giòng Vương Tộc ở nước Tân La, tên là Kim Kiều Giác rồi xuất gia. Sau thời Đường Huyền Tôn thì đến Trung Hoa tu Đạo ở núi Cửu Hoa, ở 75 năm đến ngày 30 tháng 7 năm Khai Nguyên thứ 26, đời Đường thì viên tịch, thọ thế 99 tuổi. Vì nhục thân chẳng hư hoại nên đem toàn thân vào Tháp, tức là Nhục Thân Điện tại núi Cửu Hoa, tương truyền tức là nơi Địa Tạng Bồ Tát thành Đạo”. Từ sự tích này nên người dân Trung Hoa chọn ngày 30 tháng 7 âm Lịch làm ngày Thánh Sinh của Địa Tạng Bồ Tát. (*) Đến đời Thanh (1644_1911) thì Địa Tạng Bồ Tát được xem là Bản Tôn chủ quản ngũ cốc phong phú đồng thời cũng chủ về sự kính ái, phù hộ cho gia đình hòa thuận. (*) Ngày nay, đại đa số người dân Trung Hoa đều cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục và xưng tán Ngài là U Minh Giáo Chủ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát cai quản mười điện Diêm Vương, tức là Bản Tôn chuyên cứu độ chúng sinh bị khổ đau trong cõi Địa Ngục. Nguồn gốc của danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát được nói ở trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) là: “An nhẫn chẳng động giống như đại địa, lặng lẽ suy nghĩ ngầm biết kho tàng bí mật (Bí Tạng) cho nên gọi là Địa Tạng” “An nhẫn chẳng động giống như đại địa” là nói Nhẫn Ba La Mật (Ksïànti-pàramità) bậc nhất của Địa Tạng Bồ Tát , giống như đại địa (đất đai) hay chịu đựng chuyên chở mọi loại nghiệp tội của tất cả chúng sinh. “Lặng lẽ suy nghĩ” trong câu “Lặng lẽ suy nghĩ ngầm biết kho tàng bí mật” là hiển rõ sự chẳng thể luận bàn của Trí Tuệ Thiền Định ấy 3 .) Kinh Đại Phương Quảng Thập Luân, quyển một nói rằng:"Địa Tạng có ý nghĩa là ẩn chứa (kho báu bị che dấu trong lòng đất)" tức là nói tất cả kho báu ngầm dấu kín trong lòng đất đều là Địa Tạng (*) Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tính Luận, quyển 4 ghi rằng: "Dùng kho tàng ẩn chứa trong lòng đất ví như hiển bày Như Lai Tạng (Tathàgata-garbha). Nhưng kho báu này, một phương diện là đại biểu cho Phật Tính (Buddhatà) trong sạch không nhiễm bẩn của chúng sinh, hay khiến cho chúng sinh thành tựu viên mãn Phật Quả. Một phương diện khác là đại biểu cho Phước Đức, Trí Tuệ, Tài Bảo vô tận của sinh mệnh, cho nên Địa Tạng đại biểu cho tất cả kho tàng ẩn chứa Công Đức chẳng thể nghĩ bàn”. Địa (đất) còn có bảy ý nghĩa đặc trưng là: 1_ Đất hay sinh ra vạn vật 2_ Đất thu nhiếp vạn vật 3_ Đất chuyên chở vạn vật 4_ Đất cất giữ nhiều kho tàng của cải vật chất 5_ Đất hay nuôi dưỡng giúp cho vạn vật tăng trưởng 6_ Đất hay nâng đỡ, là chỗ dựa của vạn vật 7_ Đất bền chắc vững vàng, chẳng động Do đó dùng hình dạng cụ thể của Đất (địa) để biểu thị cho Phước Đức có được của Địa Tạng Bồ Tát là: 1_ Địa Tạng Bồ Tát hay sinh ra mọi Pháp lành 2_ Địa Tạng Bồ Tát hay thâu nhiếp mọi Pháp lành trong Tâm Đại Giác 3_ Địa Tạng Bồ Tát hay gánh vác tất cả chúng sinh, dìu dắt họ tiến dần trên con đường giác ngộ. 4_ Địa Tạng Bồ Tát hay cất giữ mọi Pháp màu nhiệm 5_ Địa Tạng Bồ Tát hay dùng mọi Pháp lành bình đẳng giúp cho mọi chúng sinh tăng trưởng Chính Pháp giải thoát. 6_ Địa Tạng Bồ Tát là chỗ dựa vững chắc của tất cả chúng sinh. 7_ Địa Tạng Bồ Tát hay hiển bày tâm Bồ Đề màu nhiệm, bền chắc như Kim Cương chẳng thể bị phá hoại. Trong Kinh lại ghi rằng: "Địa Tạng Bồ Tát trụ ở Kim Cương Bất Khả Hoại Hạnh Cảnh Giới Tam Muội, giống như Kim Cương Địa Luân rất bền chắc chẳng thể phá hoại, cho nên hay trụ giữ vạn vật khiến cho chẳng lay động. Lại giống như trái đất hay ẩn chứa các loại kho tàng quý báu không có cùng tận, hàm chứa tất cả hạt giống, khiến cho chẳng mục nát, dần dần tươi tốt thêm. Địa Tạng hay khiến cho đầy đủ tất cả Tâm Nguyện của chúng sinh thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian, là thai mẹ (Mẫu Thai) hay sinh ra chúng sinh để thành Phật. Đại Địa ở ý nghĩa hiện tượng cụ thể trên, có đầy đủ tính chất đặc biệt là: Sinh trưởng, bền chắc, trụ giữ vạn vật, chẳng động, rộng lớn, cùng với thai mẹ có đầy đủ khả năng sinh ra tất cả kho báu. Do Địa Tạng Bồ Tát cũng có đầy đủ Phước Đức như vậy, cho nên dùng Địa Tạng để tác làm danh hiệu đó". (*) Phẩm Tựa của Kinh Đại Phương Quảng Thập Luân, quyển 1 và Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, quyển 1 ghi rằng: “Địa Tạng Bồ Tát do Thệ Nguyện Đại Bi ở đời quá khứ, nên thị hiện thành thân Đại Phạm Vương, thân Đế Thích, thân Thanh Văn, thân Diêm La Vương, thân sư tử, thân cọp, thân chó sói, thân bò, thân ngựa cho đến thân La Sát, thân Địa Ngục…vô lượng vô số thân khác loài để giáo hóa chúng sinh và đặc biệt là thuận theo niệm của chúng sinh, thọ nhận nỗi khổ đau ở đời ác năm Trược, tương ứng với điều mong cầu của chúng sinh giúp cho họ tiêu Tai tăng Phước. Do thành thục căn lành của chúng sinh mà Địa Tạng Bồ Tát biến hiện vô số Hóa Thân như vậy để cứu độ chúng sinh, nên lại được xưng là Thiên Thể Địa Tạng” (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), Phẩm Phân Thân Tập Hội ghi nhận lời phó chúc của Đức Thích Tôn, ở trong thời đại không có Phật, từ sau khi Đức Phật Thích Ca (‘Sàkyamunïi-buddha) viên tịch cho đến lúc Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) thành Đạo, thời Địa Tạng sẽ làm vị Bồ Tát tự thề độ hết chúng sinh trong sáu nẻo mới thành tựu Nguyện. Do điều này mà Địa Tạng Bồ Tát là vị Bồ Tát có Bi Nguyện (Kàrunïa-pranïidhàna) đặc biệt sâu nặng. Dựa vào Đức đặt biệt này mà Phật Giáo Đồ thường xưng tán Ngài là Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. (*) Do trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), có ghi nhận hai tiền thân của Địa Tạng Bồ Tát là: Bà La Môn Nữ và Quang Mục Nữ vì muốn cứu độ mẹ thoát khỏi nỗi khổ đau trong Địa Ngục mà chuyên tâm tu hành, thề cứu giúp mẹ với tất cả chúng sinh. Cho nên Phật Giáo Trung Quốc nhận định Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện là Kinh báo hiếu của nhà Phật nhằm nhấn mạnh việc tu học bắt đầu từ sự hiếu kính cha mẹ, tôn trọng Thầy Tổ cho đến cứu giúp chúng sinh. (*) Địa Tạng Bồ Tát lại được xem như là kho tàng ẩn chứa các Công Đức vi diệu, đầy đủ các trân bảo giải thoát, giống như viên ngọc Như Ý tuôn mưa mọi tài bảo. Tùy theo sự mong cầu chẳng luận là cầu xin ngũ cốc được mùa hoặc là cầu Phước Đức, tiền của, giàu có đều khiến được mãn túc. Kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân ghi rằng: "Tùy theo chỗ ở. Nếu quần áo, thức ăn uống, đồ dùng hàng ngày của các hữu tình có chỗ thiếu thốn mà hay chí tâm xưng tên niệm tụng, quy kính cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, thời tất cả đều được như Pháp mong cầu". Lại nói rằng: "Hay thủ hộ cho Hành Giả tu học pháp môn của Địa Tạng Bồ Tát, khiến cho tất cả tiền của, quan vị chẳng thiếu thốn". Do điều này mà Địa Tạng Bồ Tát được xem là Bản Tôn Tài Bảo, hay khiến cho tất cả chúng sinh thỏa mãn mọi mong cầu, chẳng luận là cầu xin ngũ cốc được mùa hoặc cầu Phước Đức, tiền của, giàu có.
  14. Do Tín Ngưỡng Địa Tạng không nhận được sự sùng mộ của dân Ấn Độ, nên đã mất dần các dấu tích. _ Sau này, Tín Ngưỡng Địa Tạng theo bước chân những Tăng Đoàn truyền giáo Phật Giáo du nhập vào vùng Trung Á, trạm dừng chân đầu tiên là Turkestan. Từ đây một hình tượng phổ biến của Địa Tạng Bồ Tát là: “Nhà sư cầm cây gậy hành hương với một viên ngọc Như Ý” được phụng thờ như là vị Bồ Tát bảo vệ người lữ hành thoát khỏi mọi hiểm nguy. Hàng ngàn hình tượng Địa Tạng được tôn thờ trong những hang động tại vùng Lung-Men và Tun-Hoang đã minh họa cho Tín Ngưỡng này. _ Khoảng Thế Kỷ thứ 5, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến tại Trung Hoa qua Kinh Đại Tạng Bồ Tát Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) trong đó nêu lên những Đức Tính của Ngài. (*) Sau đời Tùy (581_618), Đường (618_917) thì Tín Ngưỡng Địa Tạng được sùng mộ hưng thịnh. Ví dụ như Đời Tùy y theo Kinh Địa Tạng Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) mà đề cao thuyết Phổ Phật, Phổ Pháp cùng với Địa Tạng Bồ Tát Lễ Nghi Sám Pháp và xưng là Tam Gia Giáo. (*) Đời Tống, Thường Cẩn có soạn một quyển sách ghi nhận 32 loại sự tích linh nghiệm liên quan đến Địa Tạng Bồ Tát từ đời Lương (502_557) đến đời Tống (960_1279). Do điều này mà Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến rộng rãi, người đời lúc bấy giờ đều lưu truyền, phỏng họa hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng để trong Tự Viện hoặc Phật Đường của tư nhân mà lễ bái cúng dường. Nổi tiếng nhất là hình tượng Địa Tạng Bồ Tát được vẽ trên bức tường phía Đông của chùa Thiện Tịch, huyện Đức Dương, Hán Châu trong Đời Lương.
  15. Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn. Quán Thế Âm Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà phải hóa hiện vô lượng vô số hóa thân để ứng duyên cứu độ. Địa Tạng Bồ Tát cũng vậy vì duyên trần cảnh khổ nên Ngài cũng không ngại “trục loại tùy hình, ứng hiện sắc thân”. Trong Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo quyển thượng có chép: “Địa Tạng Bồ Tát do tâm đại bi phát đại nguyện lực trong thời quá khứ, cho nên Ngài hiện thân trời Đại Phạm Vương, hiện thân Đế Thích, hiện thân Thanh Văn, hiện thân Diêm La Vương, Ngài còn hiện thân Voi, Sư tử, Hổ, Báo, Trâu, Ngựa, cho đến hiện thân La Sát, Địa Ngục.v.v...vô lượng vô số các thân tướng khác nhau, để giáo hóa chúng sanh...”. (LƯỢC Ý HÌNH TƯỚNG - NGUYỆN LỰC CỦA ĐỨC ĐỊA TẠNG TRONG TINH THẦN HÀNH BỒ TÁT ĐẠO PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN) - Thích Tâm Mãn Tại Việt Nam, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển song hành với sự phát triển của Phật Giáo. Tuy nhiên phần lớn người dân Việt thường chuyên tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện với mục đích cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, con cái, họ hàng thân thuộc… tức chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục, Giáo Chủ của cõi U Minh… chứ không hề biết rằng Địa Tạng Bồ Tát không chỉ độ hóa chúng sinh trong cõi Địa Ngục, mà còn giúp đỡ bảo vệ cho sinh mệnh của chúng sinh, an dân trấn quốc, viên mãn Phước Trí ngay trong đời hiện tại. Thủ trung kim tích, chấn khai địa ngục chi môn, Chưởng thượng minh châu, quang nhiếp đại-thiên chi giới. Biên trích : Địa Tạng Bồ Tát 地 藏 菩 薩 ( Tài liệu Do cư sĩ Huyền Thanh biên soạn Công Minh bổ sung hình ảnh minh họa và ghi chú ) Địa Tạng Bồ Tát tên Phạn là Ksïitigarbha, dịch âm là Tát Khất Xoa Để Nghiệt Bà. Ksïi là động từ mang nghĩa: chịu đựng, tồn tại, cư trú, ở Ksïiti: nghĩa là trú xứ, nơi đang cư ngụ, căn nhà, đất trồng trọt, đất nước, quê hương, trái đất. Garbha: nghĩa đen là Tử cung, dạ con, có thai, thọ thai, tưởng tượng, hình thành trong trí óc. Nghĩa bóng là cất chứa, ôm giữ. Ksïitigarbha được dịch ý là Địa Tạng, tức là người ôm giữ trái đất hoặc Mẫu Thể của Đại Địa. Do đất hay chuyên chở vạn vật, giúp cho vạn vật sinh sôi nảy nở, hàm chứa vô số nguồn lợi, tiền tài, vật báu…cho nên Địa Tạng là vị Bồ Tát biểu thị cho kho báu tiềm ẩn trong Đại Địa, hay chuyên chở mọi khổ nạn của tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát triển căn lành, được tài bảo vô tận, tròn đủ Phước Đức (Punïya) Trí Tuệ (Prajnõa). Nếu người tu hành theo Pháp của Địa Tạng Bồ Tát thì có thể khiến cho ngũ cốc [Đại Mạch (Yava), Tiểu Mạch (Godhùma), Lúa gié (‘Sàli), Tiểu Đậu (Masùra), mè (Atasì)] đầy kho, kéo dài mạng sống, tránh mọi hiểm nạn, tròn đủ tư lương (Sambhàra) Phước Trí vượt thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi _ Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển rất sớm trong các Tông Phái Đại Thừa (Mahà-yàna) ở Aán Độ (Thế Kỷ thứ 4) Khởi nguyên của Tín Ngưỡng Địa Tạng có thể được khai triển từ Tín Ngưỡng Địa Thiên (Prïthivi), tức là Địa Thần, Kiên Lao Địa Thần, Kiên Lao Địa Thiên, Trì Địa Thần. Đây là vị Thần cai quản Đại Địa, biểu thị cho Thể Tính của đất là bền chắc chẳng động hay giúp cho vạn vật cư trú, lại có tác dụng hay giữ gìn vạn vật. Vị Thần này nguyên là vị Thần Kỳ (Thần đất) được sùng ngưỡng trong thời Ấn Độ cổ đại. Trong Lê Câu Phệ Đà (RÏg-veda), A Thát Bà Phệ Đà (Artha-veda) đều khen ngợi là vị Nữ Thần có đầy đủ Đức tốt đẹp (mỹ đức) như: sự vĩ đại, bền chắc, Tính chẳng bị diệt, nuôi dưỡng quần sinh, đất đai sinh sôi… Hiện tượng Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển từ Tín Ngưỡng Địa Thiên có thể được nhận biết qua hình tượng được ghi nhận trong Phật Giáo đời Thanh ở Trung Quốc là: Đầu đội mão Trời, thân khoác áo lụa mỏng, đeo chuỗi Anh Lạc với các vật báu trang sức, tay trái cầm cây lúa (tượng trưng cho ngũ cốc phong phú), tay phải cầm viên ngọc Như Ý để ngang ngực (tượng trưng cho việc thỏa mãn mọi mong cầu của chúng sinh), ngồi trên tòa sen.
  16. Cám ơn anh hoangnt đã có bài "ủng hộ" CM. Về Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới theo truyền thống Đông Mật, thật ra CM cũng còn đang học, nên xin phép được trao đổi những kiến thức về đề tài này cùng anh ở Topic khác. Để dịp này CM hoàn thành topic này đã. Hy vọng sẽ được học hỏi từ anh những kiến thức hay. Xin cám ơn và mong anh tiếp tục ủng hộ.
  17. Bãi đá cổ Sapa... "kêu cứu"! 5 năm trước, theo chân nhà khoa học Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương) lên Lào Cai nghiên cứu về bãi đá cổ Sapa, tôi đã được chứng kiến hình ảnh ông rơi nước mắt, xúc động khi nhìn thấy những thông tin tiền nhân để lại cho hậu thế. Mới đây, tôi quay lại thăm bãi đá cổ đau xót nhận thấy, những hình khắc trên bãi đá sắp biến mất bởi sự vô thức của con người và sự thiếu quan tâm của cơ quan chức năng. Bãi đá bí ẩn Bãi đá cổ Sapa nằm rải rác trong thung lũng Mường Hoa, được bao bọc bởi dãy núi cao 2.000m, Sử Pán và Tả Van, cách thị trấn Sapa 7km. Bãi đá cổ Sa Pa Số lượng đá cổ có hình khắc tập trung nhiều nhất thành hai bãi lớn tại xã Hầu Thào. Bãi một nằm cạnh bản Pho, một bản của người Mông kéo dài từ sườn núi xuống gần lòng suối. Bãi hai nằm giữa địa giới xã Hầu Thào và Lao Chải, trên các thửa ruộng bậc thang. Tại bãi này có trên 100 hòn đá có hình khắc cổ. Đa phần những hòn đá ở bãi này nhỏ hơn bãi một. Nhiều hòn chỉ có hình khắc duy nhất trùm kín mặt. Hai xã Tả Van và Sử Pán nằm bên rìa trung tâm bãi đá cổ nên chỉ có rải rác vài hòn đơn lẻ và nội dung hình khắc cũng không có khác biệt nhiều. Bãi đá cổ Sapa được Giáo sư (GS) Victor Goloubev, người Pháp, thuộc Viện Viễn Đông Bác Cổ phát hiện vào năm 1925. Sau đó, nhiều thế hệ nhà khoa học cả Việt Nam và Pháp đã phát hiện thêm hàng trăm tảng đá có hình khắc nằm rải rắc khắp nơi, nâng tổng số tảng đá có hình khắc lên 200 hòn. Ngay từ buổi đầu được phát hiện, các nhà nghiên cứu đã ra sức mô tả những hình khắc trên bãi đá. Mỗi người lý giải một kiểu. Người thì khẳng định đây chỉ là những bức tranh tả thực, là những hoa văn trang trí, những hình người cách điệu đang toả hào quang, những kiểu bản đồ mô tả thung lũng Mường Hoa. Có nhà khoa học thì khẳng định toàn bộ bãi đá là một cuốn sách cổ khổng lồ của Mông diễn tả các trận đánh ngày xưa. Một số nhà khoa học khác thì nhận định rằng những hình khắc trên bãi đá chủ yếu thể hiện những cánh đồng, thửa ruộng bậc thang và nhà cửa, làng bản, dân cư sinh sống... Tuy nhiên, một trường phái khác lại khẳng định hình khắc trên bãi đá cổ không thể là tư duy đơn giản của các dân tộc Mông, hay Dao sống ở khu vực này từ 300 đến 600 năm về trước. Đại diện cho trường phái này là GS Lê Trọng Khánh, một chuyên gia đầu ngành về chữ viết của người Việt cổ. GS Khánh, sau nhiều chục năm nghiên cứu bãi đá đã nhận xét: "Tổng thể các hình khắc trên bãi đá cổ Sapa quả là một bộ sách khổng lồ được khắc bằng văn tự cổ". Liệu những hình khắc trên bãi đá cổ có phải là chữ Việt cổ hay không thì GS vẫn đang chứng minh, bởi ông chưa thể đọc hay giải mã được chúng. Tuy nhiên, hiện ở nước ta có một nhà nghiên cứu đã tiếp bước GS Khánh và ông cho rằng ông đã... đọc được chữ cổ trên bãi đá Sapa! Đó là nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền, hiện đang sống ở TP Việt Trì (Phú Thọ). Việc ông Xuyền đọc được những ký tự trên bãi đá cổ là một chuyện lạ, song để các nhà khoa học đầu ngành chứng nhận những ký tự ông đọc đúng hay sai vẫn còn là vấn đề phải bàn cãi nhiều. Ngay cả vấn đề thời gian xuất hiện hình khắc trên bãi đá cũng có nhiều luồng ý kiến. Người thì khẳng định chủ nhân của những hình khắc này là của người Mông, người Dao, sống ở vùng này từ 200 đến 600 năm trước, người thì khẳng định chủ nhân của những hình vẽ là của cư dân văn hoá Đông Sơn (cách đây 2.300 năm đến 3.000 năm), còn người thì khẳng định nó đã cách đây 5.000 năm, thậm chí là lâu hơn nữa, của những bộ tộc thuộc nền văn minh đã biến mất. Còn về nội dung hình khắc thì các tranh luận càng thêm phần nảy lửa. Bởi vì, một hình khắc đơn giản nhất là một vòng tròn với những đường vạch giống mặt cái cối đá, người thì bảo đó là ký hiệu mặt trời, người bảo thái cực, người kêu đích thị hòn bi, người khẳng định là cái bánh giầy mới đúng... Một số nhà khoa học nói trừu tượng hơn thì khẳng định đó là "biểu tượng của một xã hội nông nghiệp". Nhưng những người say mê nghiên cứu Kinh Dịch lại cho rằng hình vẽ đó là biểu tượng cho sự tương tác của vũ trụ... Cũng chính vì những tranh cãi nảy lửa như thế nên hệ thống hình khắc trên bãi đá cổ Sapa mỗi ngày lại càng hấp dẫn, thu hút các nhà khoa học trong nước cũng như trên thế giới. Và cũng chính vì giá trị lịch sử, giá trị văn hoá của nó rất lớn mà năm 1994, bãi đá cổ Sapa đã được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá quốc gia. Rồi nhiều năm nay, các cấp ngành đang ráo riết chuẩn bị tài liệu để Nhà nước đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hoá vật thể thế giới. Hình khắc sắp biến mất Bãi đá cổ Sapa được một số nhà khoa học quốc tế đánh giá là một trong số ít những bãi đá có hình khắc đẹp và bí ẩn nhất thế giới. Nhưng, kể từ khi du lịch về bản, có tour thăm bãi đá cổ, chỉ vài năm qua, các hình khắc trên bãi đá đã bị tàn phá rất nghiêm trọng. Nếu không có phương án bảo vệ, bãi đá cổ có thể sẽ biến mất bởi sự vô ý thức của con người và sự thờ ơ của cơ quan chức năng... Thời gian bãi đá bị phá hoại mạnh nhất chính là hồi làm con đường đi thẳng từ Sapa xuyên qua đây lên Pò Lùng Chải. Để mở được đường, người ta đã phải đập đi 18 hòn đá có hình khắc. 18 hòn đá đó đều nằm ở trung tâm bãi đá vừa lớn, vừa có nhiều hình khắc đẹp. Con đường này đã mở ra tour du lịch về bản làng, về bãi đá và cũng bắt đầu cho cuộc phá hoại bãi đá một cách khủng khiếp hơn. Hòn đá khá lớn và có nhiều hình khắc nằm ngay cạnh đường liên xã được rào bằng hệ thống cọc bêtông được nhiều du khách ghé thăm nhất. Mang tiếng hòn đá được quây bởi hàng rào bêtông, song thực tế hàng rào này không có tác dụng gì. Hàng rào chỉ cao chừng 1m, nên một đứa trẻ cũng có thể trèo vào được. Du khách tham quan bãi đá cổ, hoặc chỉ đi qua con đường này, cũng đều dừng chân chụp ảnh với hòn đá cổ. Hình khắc trên bãi đá cổ Sa Pa Tuy nhiên, không ai muốn đứng ngoài hàng rào chụp, mà họ đều trèo qua hàng rào, đứng lố nhố trên tảng đá, giẫm đạp cả vào các hình khắc để chụp ảnh. Hôm tôi đến, hòn đá đang được hai nhà nghiên cứu người Hàn Quốc làm bản dập trên giấy. Khách du lịch, người địa phương tò mò kéo đến xem, trèo kín trên mặt hòn đá. Mỗi ngày, không biết có bao nhiêu bàn chân với dép guốc sắc nhọn của người đô thị miết lên bề mặt hòn đá có những hình khắc. Bọn trẻ bán hàng rong đợi khách cũng trèo cả lên hòn đá ngồi chơi, nghịch ngợm, nằm ngủ. Chẳng thế mà, từ khi con đường mở ra, mới chỉ vài năm nay, những hình khắc trên hòn đá này đã biến mất gần hết. Dọc con đường mòn khám phá bãi đá cổ thung lũng Mường Hoa, hàng loạt hòn đá lớn nằm cạnh đường cũng được quây bởi các hàng rào bêtông. Tuy nhiên, hàng rào vừa xây được vài năm, đã bị bọn trẻ đập phá vỡ nát cột, trơ ra cả lõi thép. Nhiều cột bê tông bị người ta nhổ đem làm cầu bắc qua rãnh nước. Đà ngang của hệ thống cột bêtông bị bẻ gãy quẳng đâu hết. Có hòn đá cực lớn, diện tích bề mặt có hình khắc lên đến vài chục mét vuông, cũng được rào bằng cọc bêtông, nhưng không hiểu vì thiếu tiền hay sao mà người ta làm không đến nơi đến chốn, thành thử, giống chuyện xây tường chống trộm, nhưng lại có nhiều cổng. Vì thế, khách du lịch, trẻ con, người dân địa phương có thể tự do ra vào, leo trèo lên hòn đá nghịch ngợm, dùng dao, dùi chạm khắc lung tung. Đau lòng nhất là những hòn đá thứ 3, thứ 4 và thứ 5 tính từ đường cái xuống. Đây là những hòn đá lớn với những hình vẽ đẹp nhất, song giờ đây, nó đã biến thành những "hòn đá rắc rối" bởi những hình khắc, hình vẽ vô cùng... kỳ lạ. Đám thanh niên nghịch ngợm có máu phá hoại dùng dao nhọn khắc chồng lên những hình vẽ cũ cả một lâu đài kiểu cách châu Âu với ống khói đang tuôn toả. Rồi khắc cả hình một người đang cưỡi xe máy phóng vù vù. Trong số hàng ngàn vết khắc mới của những vị du khách thiếu tôn trọng di tích lịch sử có thể nhận thấy rất nhiều hình khắc hai con chim câu đang cắn mỏ nhau, rồi những trái tim bị trúng tên... rỉ máu. Nhiều nhất, hoa mắt nhất là những vết khắc tên tuổi, số nhà, số điện thoại... một thói quen để lại dấu ấn của người Việt khi đặt chân đến nơi nào đó. Nhiều chàng trai, cô gái còn thể hiện tình yêu một cách vô thức, không đúng chỗ bằng cách khắc lên hòn đá dòng chữ: Hiền ơi! Anh yêu em nhiều lắm!, Tuấn ơi! Mãi mãi yêu anh, Tuyết ơi! Trái tim anh đã hoá đá cổ... PGS Trịnh Sinh hồi lên thăm bãi đá Sapa về, đã phải thốt lên trong cuộc hội thảo: "Bãi đá cổ Sapa giờ chẳng khác nào những dòng quảng cáo "khoan bêtông" tràn ngập các vỉa hè Hà Nội..." Thảm kịch nhất là hòn đá ở vị trí thứ 3 và thứ 5. Những chỗ nào mấp mô thì bị khắc bạ, còn mặt nào bằng phẳng thì biến thành cầu trượt. Bọn trẻ con, đám thanh niên choai choai, kể cả mấy cô sinh viên đỏng đảnh, khi đến những hòn đá này đều nổi hứng thể hiện hòn đá thành cầu trượt. Họ kéo nhau trèo lên đỉnh hòn đá, rồi thả mình trượt xuống, khiến mặt những hòn đá này bị mài mòn mất sạch hình khắc. Nhìn cảnh tượng này, các nhà khoa học chắc phải đau lòng lắm. Du khách nước ngoài, những người rất ít khi sờ vào hiện vật chứ đừng nói đến chuyện trèo lên, rồi khắc bậy vào đó, chỉ biết lắc đầu luyến tiếc và thốt lên: "Không thể hiểu nổi!". Những hòn đá lớn, quan trọng nằm trên tuyến đường du lịch tàn phá như vậy, nhưng hàng trăm hòn đá nằm trong ruộng, trong vườn nhà dân cũng đang xuống cấp hết sức nghiêm trọng. Phó Công an xã Hầu Thào - Giàng A Páo kể rằng, có gia đình buộc trâu, bò cạnh hòn đá cổ, rồi dùng hòn đá cổ làm điểm kê để bổ củi, thậm chí nhiều gia đình còn ra sức phá đá lấy chỗ cày cấy. Sự tàn phá của thiên nhiên, đặc biệt là của con người trong mấy năm nay khiến TS Phillipe Le Failler (Viện Viễn đông Bác Cổ Pháp tại Hà Nội) phải thốt lên: "Nếu không tiến hành ngay các biện pháp bảo tồn khoa học, thì trong khoảng 5 năm nữa, bãi đá cổ Sapa sẽ không còn gì để xem...". Để giữ lại được những hình khắc cho thế hệ sau, ông cùng các cộng sự đã tiến hành làm tới 5.000 bản dập trong suốt 7 tháng trời, nhằm bảo tồn hình khắc trong... thư viện. Có thể nói chuyện bảo tồn bãi đá cổ Sapa rơi vào bế tắc. Đã có rất nhiều hội thảo và có nhiều ý kiến, giải pháp, song dường như vẫn chưa khả thi. Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh còn xuất sử dụng một loại vật liệu trong suốt có khả năng chống đạn để bọc những hòn đá này lại, nhằm chống lại sự phong hoá tự nhiên và sự xâm hại của con người. Tuy nhiên, tổng kết các ý kiến lại, TS Trần Hữu Sơn, Giám đốc Sở VHTT&DL Lào Cai vẫn chua xót: "Tiền không khó, mà chúng tôi thiếu chất xám vì loại hình bảo tồn này chưa có ở Việt Nam". Và như vậy, biện pháp bảo tồn lâu dài vẫn chưa có, trong khi bãi đá cổ Sapa mỗi ngày một biến dạng trầm trọng. Theo TS Sơn, trước mắt, phương án tối ưu nhất là biến các bản làng trong phạm vi bãi đá cổ thành các làng văn hoá - du lịch, gắn liền du lịch với bãi đá cổ. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là phải tuyên truyền, giáo dục cho các hộ dân có ý thức bảo vệ bãi đá. Với cách làm hiện nay là chính quyền huyện bán vé thu tiền của khách tham quan, nhưng không điều tiết về cho dân, nên sẽ khó thuyết phục họ tham gia bảo vệ. Việc cần thiết lúc này là chuyển việc bán vé tham quan du lịch về cho thôn, bản quản lý, để thôn bản có lợi nhờ bãi đá, từ đó, thôn bản, từng hộ gia đình mới có ý thức bảo vệ bãi đá. Song song với việc tuyên truyền ý thức, thì việc xây dựng mô hình mái che hình nấm cũng rất cần thiết. Mặc dù việc làm đó ít nhiều ảnh hưởng đến không gian di tích, nhưng không thể để những tảng đá đẹp như vậy mãi phơi ra giữa mưa nắng. Thực tế cho thấy, những hòn đá cổ nằm trong lòng đất hàng trăm, hàng ngàn năm vẫn nguyên vẹn vết khắc, nhưng khi được "lộ thiên", chỉ vài năm đã bị mưa nắng mài mòn. Thực trạng xuống cấp nghiêm trọng của bãi đá cổ Sapa đòi hỏi các cấp, các ngành chức năng của Lào Cai khẩn trương đề ra các biện pháp cần thiết để tôn tạo, bảo tồn và quản lý tốt khu di sản này, nhằm cứu lấy một di sản văn hoá vật thể hiếm có, một tuyệt tác điêu khắc được mệnh danh là những "tranh sách trời". Theo Phạm Ngọc Dương
  18. CCB bé tẹo teo nó hay trèo từ cành na sang cành bười sang bụi chuối. Em khẽ gọi : Chích bông ơi! Việc trì niệm thần chú đầu tiên khởi được tâm là rất tốt rồi nè. Tuy nhiên đó mới là chủ trường, đường lối còn đi vào thực hiện phải có phương pháp Đúng như chị Wild và chị Nhakhanh nói ở trên, phải chuẩn bị một tư thế và tâm trạng khởi sự đã. Khi Thánh KhenChen RinPoche sang VN, trước khi Ngài giảng và truyền quán đảnh đều có nhắc 1 câu : Càc bạn hãy tu chỉnh và khởi tâm đúng đắn và thanh tịnh. Thật ra ban đầu tôi cũng không lưu ý làm mấy câu nhắc này, nhưng nghe mãi nghe mãi thành ấn tượng và .... suy ngẫm. Trong nghi thức tụng kinh ở các chùa có phần Quán Tưởng có bài sau : Năng lễ sở lễ tánh không tịch, Cảm ứng đạo giao nan tư nghì. Ngã thử đạo tràng như Đế châu, Thập phương chư Phật ảnh hiện trung. Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ. Hòa thượng Thích Thiện Siêu Việt dịch : Phật và chúng sinh tánh thường rỗng lặng, Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn. Lưới Đế châu ví đạo tràng, Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời. Trước bảo toạ thân con ảnh hiện, Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. Và dưới đây là bài giải ý nghĩa của thầy Thích Giác Hoàng trên daophatngaynay Quý Thầy lần lượt giải thích các thuật ngữ trong bài kệ sau: Năng lễ: chỉ cho người đảnh lễ, tức là người đang đảnh lễ Phật hoặc chư Bồ-tát. Bản tiếng Việt dịch ý là chúng sanh. Sở lễ: chỉ cho đối tượng được đảnh lễ, tức là chư Phật và chư đai Bồ-tát. Bản dịch Việt dịch ý là Phật. Tánh không tịch: bản dịch là tánh rỗng lặng. Tâm không vướng mắc các pháp, nên gọi là tâm không; không loạn động điên đảo nên gọi là Tịch. Ý ở đây muốn nói, bản giác thanh tịnh của đức Phật và tất cả chung sanh đều như nhau, đều trong sạch và không vướng mắc. Cảm ứng đạo giao: Tâm của người lễ và chư Phật giao thoa với nhau, không có gì làm trở ngại khi con người có tâm với đạo. Nan tư nghì: nghĩa là khó suy nghĩ cho cùng tận, nên dịch là “không thể nghĩ bàn”. Ngã thử đạo tràng: Dịch sát văn là “Đạo tràng này của ta”. Như đế châu: Như lưới châu của Đế-thích. Trong một số sách ghi lại, lưới châu trên cung trời Đế-thích rất đẹp, nên cổ đức đã dùng hình ảnh Lưới Châu của cung trời Đế-thích để ví với sự trang nghiêm thanh tịnh của đạo tràng. Thập phương chư Phật: Mười phương chư Phật. Ảnh hiện trung: Hình ảnh của chư Phật hiện trong đó. Ngã thân: thân ta Chư Phật tiền: trước chư Phật Đầu diện tiếp túc: đầu mặt cúi sát chân của mình Quy mạng lễ: hết lòng xin đảnh lễ Dịch sát nghĩa bài kệ trên: Người đảnh lễ và đối tượng được lễ bản tánh đều vắng lặng, không vướng mắc. Sự cảm ứng của đạo không thể nghĩ bàn. Đạo tràng của chúng ta như lưới Châu của cung trời Đế-thích, mười phương chư Phật đều ảnh hiện trong đó, thân của người hành lễ cũng đang ảnh hiện trong đó, đầu mặt của người hành lễ cúi xuống với tất cả tâm thành xin đảnh lễ chư Phật. Hoà thượng Thích Thiện Siêu dịch sang tiếng Việt có một vài câu hơi thoát, nhưng cực kỳ hay. Theo ý Thầy, bản dịch Việt này còn hay hơn nguyên tác tiếng Hán nữa. Chúc Phật tử an vui và tinh tấn đảnh lễ chư Phật để củng cố niềm tin với chánh Pháp và tăng trưởng công đức lành. ================ Bạn và bạn của bạn cứ nghiền ngẫm kỹ bài Quán tưởng này, "Bí quyết" lớn nằm ở đó đấy. Để hiểu thế nào : " Nhất niệm thông tam giới" như ý chị Wild đã diễn giải ở trên. Do Topic BabyWolf nhở mọi người giải thích "bùa chú" thấy chưa có ai giải đáp được gì, cũng ngại sợ làm loãng chủ đề. Mọi chi tiết ta sẽ bàn sâu hơn ở nơi khác. Chúc bạn và bạn của bạn luôn tinh tấn. TB : Theo nội dung bài Quán Tưởng, CM thử bổ sung thêm cho rõ nghĩa của chị Nhakhanh ở trên, như sau : Đôi khi đang đi trên đường khởi Tâm (vui mừng, đúng đắn và thanh tịnh) đọc một câu Thần Chú thì công hiệu còn hơn ngồi ( thì ) nghiêm Trang ( nhưng Tâm lại loạn cào cào mà ...)Trì Chú Có phải thế không ạ.
  19. III – Mấy điểm đặc biệt của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện : Như đã dẫn ở trên một trong những nội dung của một bộ kinh Phật là nói về Thánh Đức và linh ứng của một vị Phật hay Bồ Tát. - Kinh Dược Sư ca ngợi Thành Đức của Đức Đông Phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật và các hạnh nguyện của Ngài. - Kinh A Di Đà ca ngợi Thánh Đức của Đức Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật và các hạnh nguyện của Ngài. - Kinh Pháp hoa ca ngợi hạnh nguyện các vị Bồ-tát: Quan Thế Âm, Trì Địa, Thường Bất Khinh, v.v… - Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện này nói về công đức bản nguyện, thệ nguyện bản sinh của Bồ-tát Địa Tạng. 1- Điểm đặc biệt thứ nhất là nơi chốn giảng kinh : Khởi đầu một bộ kinh Đại Thừa là giới thiệu địa điểm giảng bộ kinh đó, thường thì các địa điểm đó là những nơi địa linh thuộc về “ mặt đất “ này ví dụ : - Kinh Hoa Nghiêm : Như vậy tôi nghe, một lúc Phật ở nước Ma Kiệt Ðề, trong Đạo Tràng Bồ Đề, ban đầu thành Vô thượng Chánh giác. Nơi đó đất cứng chắc, bằng Kim Cang. - Kinh Thủ Lăng nghiêm : Tôi nghe như vầy, một thời, Phật ở tại Tinh xá Kỳ-hoàn trong thành Thất-la-phiệt. - Kinh Dược Sư : Tôi nghe như vầy, Một thời, đức Thế tôn du hóa các nước, đến thành Quảng nghiêm, dừng ở dưới cây Tiếng nhạc…. - Kinh A Di Đà : Tôi nghe như vầy,một thủa nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ… - Kinh Pháp Hoa : Tôi nghe như vầy, một thời, Ðức Phật ở tại thành Vương Xá, trên núi Kì Xà Quật Tại kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện : Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao Lợi (1) …. ( Trời Đao Lợi: là từng trời thứ hai trong 6 từng trời ở cõi Dục. Đao lợi là tiếng Phạn, dịch là “tam thập tam” nghĩa là ba mươi ba, từng trời này ở tại núi Tu di nơi đó chia ra làm 33 nước trời, 32 nước ở bốn phương xung quanh, mỗi phương 8 nước; chính giữa là Thiện Kiến thành, cung của trời Đế Thích, vị trời này quyền thống nhiếp cả 33 nước trời.) Như vậy một điểm đặc biệt của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là một trong những bộ Kinh được giảng ở trên cõi Trời Theo truyền thống Phật Giáp Tây Tạng ( Kim Cương Thừa ) trong 1 niên lịch ( lịch Tạng) có nhiều ngày công đức tăng trưởng, nghĩa là vào những ngày đó làm một việc tốt nào đó thì công đức được tăng trưởng lên nhiều lần. Trong những ngày công đức tăng trường có 4 ngày công đức gấp 10 triệu lần : - Ngày Đức Phật Thích Ca phô diễn thần thông - Những ngày trong tháng tam hợp : Đức Phật Đản Sinh, Đức Phật thành đạo và Đức Phật nhập Niết bàn. - Ngày Đức Phật chuyển pháp luân - Và ngày Đức Phật hạ thế từ cõi trời Đế thích (2) ======================== Chú thích : (1) xem thêm : THIÊN THỨ MƯỜI MỘT THUYẾT PHÁP ÐỘ PHẬT MẪU Ở CÕI TRỜI ÐẠO LỢI Sau khi dùng thần thông thắng ngoại đạo xong. Ðức Thế Tôn dùng trí tuệ quan sát coi: Thường khi chư Phật lúc quá khứ làm những gì, ngự đi đâu sau khi thắng ngoại đạo? Ðức Thế Tôn thấy chư Phật quá khứ sau khi thắng ngoại đạo xong, Ngài liền ngự lên cõi trời Ðạo Lợi nhập hạ và thuyết pháp độ Phật mẫu. Pháp mà chư Phật quá khứ thuyết ở cõi Ðạo Lợi như trào lưu chảy rất mạnh giữa chư Thiên. ( Trích : Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm Maha Thongkham Medhivongs) (2) Ngày Vía Đức Thích Ca Hạ Thế Từ Cung Trời Đâu Suất là một ngày cát tường nhất trong năm. Cung trời Đâu Suất Thiên được phân làm hai Viện: 1. Đâu Suất Thiên Ngoại Viện và. Đâu Suất Thiên Nội Viện. + Tại Đâu Suất Thiên Ngoại Viện, chư thiên hưởng cảnh an vui nhàn nhã với nhiều lạc thú, những vị đã tạo nhiều công đức thường tái sinh lên cõi trời này và thọ báo công đức cho đến khi hết mới phải chết và đi tái sinh. Nhưng chúng ta không nên cầu xin tái sinh vào Đâu Suất Thiên Ngoại Viện vì tại đây chỉ có lạc thú mà không có Phật pháp. + Ngược lại, Đâu Suất Thiên Nội Viện thì có Phật pháp, và hiện giờ đang có Đức Phật Di Lặc đang thuyết pháp tại đó. Chư vị nào đã tạo nhiều công đức do tu hành nhập thiền định thường được tái sinh lên cõi trời này để tiếp tục hành trì đạo pháp cho đến khi đạt Giác Ngộ (theo kinh Đâu Suất Thiên , thì 400 năm ở nhân gian dài bằng một ngày một đêm tại cung trời Đâu Suất). Theo lịch sử Phật Giáo thì sau khi thành đạo, trong 41 năm đức Thích Ca thường nhập thiền định vào mùa mưa và thời an cư kiết ha. Chư đệ tử chỉ thấy Ngài ngồi thiền định, nhưng thực ra trong lúc đó có khi Ngài phân thân đi nơi khác hoằng đạo. Tương truyền là Ngài đã thi triển thần thông đi lên trên cung trời Đâu Suất Thiên và ở tại đó 3 tháng (tính theo thời giờ của nhân gian) để thuyêt pháp cho Hoàng Hậu Ma Gia (Phạn ngữ là Mayadevi, tức là mẹ sinh ra Ngài vì bà đã tạ thế bảy ngày sau khi Ngài hạ sinh, và tái sinh vào thân của một vị Thiên Nam trên cung trời Đâu Suất). Tương truyền là 7 ngày trước khi Đức Thích Ca hạ thế từ Đâu Suất, Ngài ngưng tàng hình và nhờ đó mà đại đệ tử của Ngài là A Nậu Lâu Đà mới có thể dùng thiên nhãn để thấy được Ngài. Do đó A Nậu Lâu Đà đã thỉnh vị đệ tử Đệ Nhất Thần Thông Mục Kiền Liên bay lên cung trời Đâu Suất để đón Ngài hạ thế. Mục Kiền Liên tuân lời A Nậu Lâu Đà và bay lên Đâu Suất để thỉnh Đức Thích Ca hạ thế và bạch Ngài là chư đệ tử rất nhớ Ngài và xin thỉnh Ngài trở về lại cõi nhân gian để thuyết pháp cho tăng đoàn. Ngài trả lời là sẽ trở về trong 7 ngày. Khoảng thời gian này là lúc đang dựng tượng của vua Ba Tư Nặc Ngày Đức Thích Ca hạ thế, một đoàn thể lớn của chư tăng, các vua chúa và dân chúng của 8 nước lân cận họp nhau tề tựu đón mừng. Khi Đức Thích Ca hạ thế, một cái cầu thang bằng vàng bay từ trời xuất hiện trước theo mỗi bước Ngài đi xuống. Bên phải Ngài là vị trời Phạm Thiên, tay cầm phất trần màu trắng và đi xuống trên một cầu thang bằng pha lê trong suốt. Bên trái Ngài là vị trời Đế Thích đi xuống trên một cầu thang bằng bạc, tay cầm lọng che làm bằng châu bảo. Một doàn thể chư thiên đi theo sau để tiễn đưa Ngài về cõi nhân gian. Đức Phật tắm ngay sau khi hạ thế, sau này tại đó có xây một ngôi nhà và một bảo tháp để ghi lại dấu tích. Nơi Đức Thích ca hạ thế là thành Sankàsya nước Xá-vệ của Ấn độ, ngày nay còn là một nơi chốn có rất nhiều Phật tử đi hành hương. Theo truyền thống của tông phái Giới Đức (do Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo) thì vào ngày vía này, chúng đệ tử vân tập tại chùa để hành trì Lễ Cúng Dường Đức Bổn Sư ) Tóm Lược Về Ngày Vía Đức Thích Ca Hạ Thế Từ Cung Trời Đâu Suất – Lý Bùi Pháp danh Sonam Nyima Chân Giác) 2- Điểm đặc biệt thứ hai là đối tượng thọ nhận kinh điển : Trong cuộc đời du hóa chư quốc, truyền dạy giáo lý Phật đà Đức Phật cũng nhiều lần về lại kinh đô của vua cha để giảng đạo cho dòng tộc Thích ca Tại các bộ kinh Đại thừa và Mật thừa, đối tượng được nghe Ngài giảng kinh thường là các vị Bồ Tát, La hán, Chư thiên, Quốc vương, Đại thần, Balamôn, cư sĩ Thiên long bát bộ, nhân và phi nhân…. Và trong hàng chúng như thế, có một vi đặt vấn đề và Ngài sẽ vì một vị nào đó mà nói Pháp. Không lập tâm phân biệt, luôn biết rằng Kinh điển Phật giáo bất khả tư nghì vô lượng vô biên công đức và oai lực. Nhưng so sánh thì đa số các bộ kinh Đức Phật cũng thường vì Đại Chúng mà thuyết pháp. Kinh Địa Tạng ra đời trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sanh thành, Ngài đã tưởng nghĩ đến mẹ khi biết rằng mình sẽ không còn trụ thế bao lâu nữa nên đã lập Pháp hội tại cung trời Đao Lợi để độ thoát cho thân mẫu. (1) Đây là một Pháp hội vô cùng quan trọng vì có sự hiện diện đông đủ của chư Phật khắp mười phương thế giới, chư Đại Bồ Tát như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền... cùng các chúng Trời, Rồng, Quỉ, Thần khắp các cõi. Diễn nói Kinh Địa Tạng trong Pháp hội này vì thế mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Là bậc Cha lành trong bốn cõi, không một việc làm nào dù nhỏ hay lớn mà Đức Thế Tôn lại không nghĩ đến lợi lạc của tất cả Pháp giới chúng sanh. Trong Pháp hội này Ngài vì thân mẫu mà thuyết Pháp nhưng động cơ chính vẫn là lòng từ bi lân mẫn đối với chúng sanh ở cõi Ta bà, đặc biệt là đối với những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa mà Ngài biết chắc chắn là sẽ "bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ", vì thế trong Pháp hội này Ngài đã phó chúc cho Bồ Tát Địa Tạng nhiệm vụ "gắng độ chúng sanh trong cõi Ta bà đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều đặng giải thoát, khỏi hẳn các điều khổ, gặp Phật, được Đức Phật thọ ký.” (Quyển Thượng Phẩm Thứ Hai: Phân Thân Tập Hội). Đương thời đó đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự tại cung trời này mà thuyết pháp trong 3 tháng (từ tháng 4 đến tháng 7). Thánh mẫu là bà Ma Gia phu nhân sinh mẫu của Thái Tử Sĩ Đạt Ta. 7 ngày sau khi hạ sinh thái tử, bà bỏ thân người sinh lên cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ đức Phật sắp nhập diệt, ngài ngự lên đó nói pháp, trước để đáp ơn sinh thành, sau nhân đó mà giáo hóa hàng chư Thiên, cùng Long, Thần bát bộ và cả thảy Thánh, phàm. Như vậy điểm đặc biệt thứ hai của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là một trong những bộ kinh Đức Thế Tôn vì Mẹ mà thuyết pháp. Con người, trong các mối quan hệ tình cảm cha con; vợ chồng ; anh em; bạn bè … thì tình mẫu tử luôn có một vị trí đặc biệt. Mặc dù cũng là đấng sinh thành, nhưng vị trí của người Cha trong đứa con không thể sâu đậm như người Mẹ. Phải chăng : Công Cha chỉ mới như núi Thái sơn – cao thật cao nhưng còn có ngọn.? Nhưng nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra – thật vô tận.! Nên đã có thật nhiều tác phẩm nghệ thuật, văn học, ca khúc ca ngợi về tình mẹ, hơn là tình cha.? Nghĩ cho cùng thì không nên phân biệt so sánh nhiều, nhưng thực tế là như vậy. Nói thêm chút ít cũng là thừa, bởi tất cả chúng ta ai cũng ít nhiều thấu hiểu thế nào là tình cảm của người con đối với người Mẹ, so với các thứ tình cảm khác như đã nêu ở trên. Đạo Phật là đạo chủ trương hiếu nghĩa, những ai đang có Cha Mẹ già trong nhà là đang được hiện diện trước Phật sống giữa đời thường. Truyền thống đó đưa vào thành nghi lễ đặc biệt đặc biệt chắc ít có tôn giáo nào có được – mùa Vu lan bồn. Phật tử Việt Nam ai cũng đều biết tích tuồng : Mục Kiền Liên cứu Mẹ, thường được công diễn vào các dịp lễ Vu Lan hàng năm, chuyện kể về Đức Mục Kiền Liên xuống địa ngục cứu Mẹ là bà Thanh Đề bị đọa làm Ngạ qủy. Ngài là 1 trong mười đại đệ tử của Đức Phật được tuyên là đệ nhất thần thông, nhưng vậy mà với những nghiệp nặng bà Thanh Đề tự gây ra, Ngài cũng không làm được gì hơn ra ngoài quy luật quả báo. Chỉ đến khi Đức Phật dạy rằng:“Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó ” Theo lời Phật dạy, Ngài làm đúng lời và mẹ ngài được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Ngài Mục Kiền Liên sau có tên gọi là Đại Hiếu Mục Kiền Liên cũng là từ tích đó. Như vậy có hai câu chuyện về sự đại báo hiếu trong Phật đạo. Một là : Bậc thầy là Ðức Thế Tôn vì Mẹ mà lên trời giảng pháp. Hai : bậc trò là Đại Hiếu Mục Kiền Liên cũng vì Mẹ mà xuống địa ngục tìm đường cứu mẹ. Rồi cả hai bà Mẹ đề được độ lên những cảnh giới cao. Nên ngoài những nội dung của bộ kinh có nói về chuyện hiếu nghĩa, thì những nội dung phân tích ở trên, Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện được gọi là hiếu kinh của Phật giáo phải chăng là như vậy. ======== (1) Nghĩ xong đức Thế Tôn mới đưa tay mặt ra về hướng Phật mẫu đang ngồi rồi nói: - Thưa mẫu hậu, xin lịnh mẫu hậu hãy đến gần đây để Như Lai được trả món nợ vĩ đại là sự cực nhọc chăm nom săn sóc cho Như Lai bú mớm từ giọt sữa miếng cơm trong khi còn luân hồi trong tam giới. Ðức Thế Tôn bắt đầu thuyết bộ Vi Diệu Pháp ấy chia ra làm bảy phần khác nhau, thuyết trót ba tháng hạ tại cõi trời Ðạo Lợi. Ðức Thế Tôn độ Phật mẫu đắc được Tu-đà-huờn quả và chư Thiên thành đạo nhiều vô số kể. ( Trích : Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm - Maha Thongkham Medhivongs) 3- Điểm đặc biệt thứ ba là hạnh nguyện và công đức của vị Bồ Tát được giảng : Trong các bài quán tưởng đảnh lễ trước các nghi lễ trì tụng kinh chú của Phật giáo Đại thừa Bắc tông, chúng ta thường hay gặp câu đảnh lễ : ĐẢNH LỄ - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy) - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát (1 lạy) - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy) Theo thuyết Ngài Di Lặc là vị phật thời tương lai, thì ở đây chúng ta được đảnh lễ 6 vị đại bồ tát - Đại Từ Di Lặc Bồ Tát : ( Từ - hiền hậu ) - Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ( Trí – trí tuệ ) - Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát ( Hạnh – Đức Hạnh ) - Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát ( Bi – Lòng thương ) - Đại Thế Chí Bồ Tát ( Chí – Chí khí, dũng khí ) - Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát ( Nguyện – nguyện lực , lời hứa hay lời “thề” ) Trong đó bốn vị Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát khi đến các nơi thánh tích, chùa chiền thì thường gặp tôn tượng hơn cả. Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn Trong truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa, Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng thường được trì niệm khi tuyên danh hiệu tám vị Đại Bồ Tát Tám vị Bồ Tát Đức Văn Thù Sư Lợi trẻ trung, Đức Kim Cương Thủ quang vinh, Đức Quán Thế Âm quyền uy, Đức Bảo trợ Di Lặc từ ái vô biên, Đức Địa Tạng , Đức Trừ Cái Chướng, Đức Hư Không Tạng, và Đức Phổ Hiền cao quý nhất. Thật thanh nhã, các Ngài cầm những biểu tượng là Hoa sen xanh, Chày kim cương, Hoa sen trắng, cây Naga, Ngọc báu, Mặt trăng, Thanh kiếm và Mặt trời! Và siêu việt trong việc ban cho sự cát tường và thành tựu, chúng con xin đảnh lễ Tám vị Bồ Tát! ( Trích : Bài nguyện Tám đấng Cát tường – với lời chú dẫn : Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi khởi sự việc gì, bạn sẽ hoàn thành tất cả các mục tiêu của ngày hôm đó. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi bạn ngủ, bạn sẽ trải qua những giấc mơ đẹp. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này trước khi bạn bước vào một cuộc chiến, bạn sẽ là người chiến thắng. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi bạn bắt đầu một hoạt động, điều bạn ước muốn sẽ tăng trưởng. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này hằng ngày thì tuổi thọ, vinh quang, danh tiếng, thịnh vượng, cát tường, hạnh phúc và xuất sắc sẽ được thành tựu viên mãn như mong ước của bạn. Tất cả các hành động và chướng ngại gây hại sẽ được tịnh hóa. Cả những cõi cao hơn và Phật quả tối thắng -- tất cả mục tiêu đều sẽ được thành tựu.) Nguyện : Nguyện như là lời hứa, lời cam kết hay lời “Thề”. Ví dụ như các chiến sĩ có nguyện : Trung với nước, hiếu với dân nguyện một lòng mang sức mình ra phụng sự tổ quốc. Trong kinh điền Phật giáo, Phật A Di Đà có 48 lời nguyện, Phật Dược Sư có 12 lời nguyện; các vị Bồ Tát (Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát , Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát ) đều có hạnh nguyện trước khi thành Phật. Nhưng xét ra, các hạnh nguyện của 3 vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm cũng có thể có ngày đạt thành quả vị. Còn hạnh nguyện của ngài Địa Tạng thì thật là lâu, bởi : “chừng nào độ hết chúng sanh thì mới nguyện thành Phật “ hay “Nếu nơi địa ngục còn một bóng ma, quyết không thành Phật!" Nên xưng danh hiệu Ngài là Đại Nguyện là như vậy. Bồ Tát Địa Tạng là một vị Đại Bồ Tát công năng, oai lực của vị Bồ Tát này vô cùng lớn lao. Nếu chúng ta tôn xưng Đức Từ Phụ là Ta bà Giáo chủ thì Bồ Tát Địa Tạng cũng đã được tôn xưng như là vị U Minh Giáo Chủ, tức là người tiếp trợ, giúp đỡ các chúng sanh ở thế giới bên kia, tức là cõi âm. Ngài là nơi nương tựa, nguồn an ủi của những oan hồn vất vưởng không nơi nương tựa đến những linh hồn vì ác nghiệp bị giam giữ và trừng phạt tận các tầng địa ngục. Tên gọi của Ngài cũng đã mang một ý nghĩa như thế. Địa là đất cũng có nghĩa là dày chắc, Tạng là cất giấu, chứa đủ. Danh hiệu của Ngài hàm ý rằng Ngài là đại địa bao la, nơi ẩn chứa những kho tàng quý giá, tức thiện căn. Địa Tạng vì thế như là hình ảnh của một người mẹ thiên nhiên ôm ấp, bảo bọc, che chở tất cả muôn loài không phân biệt. Chẳng thế mà Đức Thế Tôn đã lên tiếng tán dương: "Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn." ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Một bộ kinh ca ngợi Thánh đức và oai lực của Một vị Vương - U Minh Giáo Chủ là điểm đặc biệt thứ ba của bộ Kinh này.
  20. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính thưa Quý Thầy, qúy Tôn Sư cùng qúy bạn đạo gần xa. Vâng lời chỉ dạy của Tôn Sư, sau một thời gian tầm học. Vào ngày 30 tháng 7 ( Ngày vía của Đức Địa Tạng ) năm Canh Dần (2010) duyên lành cho con được đến lễ Phật và chiêm bái tôn tượng Đức Địa Tạng đen tại Quan Âm Tu Viện - Biên Hòa, Đồng Nai. Hôm đó cũng là dịp nhà chùa tổ chức đại lễ kỷ niện ngày nhập niết bàn của Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước (Tăng chủ phái LIÊN TÔNG TỊNH ĐỘ NON BỒNG), có đông đảo đạo hữu, Phật tử xa gần về dự lễ. Trong không khí thiêng liêng và linh động đó, tại giây phút mà tâm linh đạt vào cảnh giới quán tưởng “Năng lễ sở lễ tánh Không tịch” để đảnh lễ trước tôn tượng của Ngài, con được khai trí giác ngộ thêm về những công đức, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng Vương. Xin xem tham khảo thêm bài viết về Đức Địa Tạng Đen tại đây : Địa Tạng Đen Cũng may mắn sao, trong quá trình tìm hiểu về Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới theo truyền thống Đông Mật, con cũng hữu duyên tìm được những tài liệu dịch thuật kinh điển và biên khảo, tổng hợp của Thầy Thích Quảng Trí, thầy – cư sĩ Huyền Thanh tại bộ Mật Tạng Việt Nam, Bộ giảng luận về Kinh Địa Tạng bồ tát bổn nguyện của Hòa thượng Tuyên Hóa ; các bài giảng – luận về Kinh Địa Tạng của thầy – cư sĩ Chánh Trí – Mai Thọ Truyền cùng nhiều bài tiểu luận, kinh sách nói về Thánh đức và sự linh ứng của Đức Địa Tạng bằng sách in và trên mạng điện toán toàn cầu. Nhân dịp háng bảy ngày rằm xá tội vong nhân - mùa Vu Lan báo hiếu và cũng chuẩn bị cho kỷ niệm ngày vía của Ngài (30/7)năm nay, con xin mạo muội được bày tỏ và chia sẻ một vài kiến thức thô lậu về Phật học nơi đây không ngoài tâm ý Phổ nguyện: âm siêu dương thái, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo. Mọi sự thiếu sót do tầm hèn trí thiểu của người viết, ngưỡng mong chư vị Cao Tăng Đại Đức, các Bậc Thiện Tri Thức, huynh đệ gần xa có dịp ghé qua đây rũ lòng Từ Bi Trí Tuệ chỉ dạy cho kiến thức của người viết và nội dung bài viết này được thêm phần hoàn chỉnh. Xin trân trọng cám ơn sự quan tâm của qúy liệt vị NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Truyền thống văn hóa Phật giáo Bắc Tông Đại thừa ( tại Việt Nam, Trung Quốc ) ngoài các lễ cúng trong tháng âm lịch đặc biệt có mấy phân kỳ thành giai đoạn đặc biệt: - Tháng giêng : khởi đầu một năm mới là mùa cầu an lạc thái bình với các nghi thức thiết đàn, khai kinh phúng tụng kinh Dược Sư, còn gọi là tháng cầu an. - Tháng 4 : mùa Khánh Đản là tháng tổ chức thực hiện các nghi lễ lớn mừng ngày Đản Sinh của Đức Phật Thích Ca. - Tháng 7 : là tháng ra hạ sau một kỳ an cư tu học miên mật của chư Tăng Ni. Đặc biệt trong tháng bảy có những ngày khánh đản của nhiều vị Bồ-tát Đại Thế Chí (ngày 13), Địa Tạng (ngày 30), Long Thọ (ngày 24), Tổ sư Phổ Am (ngày 21) và ngày Phật hoan hỷ (ngày 15). Tháng 7 là tháng ( mùa ) Vu lan thắng hội để các người con Phật báo hiếu tổ tiên. Tháng có ngày rằm mà dưới Âm ty địa phủ mở cửa ngục để xá tội cho các vong linh ( theo truyền thống dân gian) - Tháng 11 : tháng có ngày vía kỷ niệm Đức Tây Phương giáo chủ A Di Đà Phật. Tháng 7, ngay từ những ngày đầu tháng ( gần đây có chùa tổ chức từ tháng 6) nhiều chùa tổ chức thiết đàn, trì tụng nhiều bộ Kinh Phật đề Phật tử cầu siêu báo hiếu cho ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp ; cầu siêu cho chiến sĩ trận vong đồng bào tử nạn…. nói chung là chúng sinh thuộc cõi địa ngục được siêu sanh thoát hóa. Một số bộ kinh thường được trì tụng trong tháng 7 là: Kinh A Di Đà; kinh Vu lan báo hiếu và đặc biệt là kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Kinh nói về thánh đức, công hạnh, đại nguyện và sự linh ứng của ngài Địa Tạng Bồ Tát I – Khái lược về kinh Phật: Kinh Phật nói chung còn gọi là Khế kinh, dịch theo âm là Tu-đa-la, là tên gọi của các bài giảng của đức Phật. Nội dung thì Kinh ghi lại những gì chính đức Phật giảng dạy. Khởi đầu bộ kinh ta hay nghe câu “Tôi nghe như vầy…” (Như thị ngã văn – hán văn ). Câu này tương truyền xuất phát từ A-nan-đà, một đệ tử của Phật. A-nan-đà là người có trí nhớ phi thường, đã thuật lại những lời Phật nói trong buổi Kết tập lần thứ nhất ngay sau khi Phật diệt độ. Tiếp theo thường là kể lại buổi nói chuyện về một đề tài nào đó như giới thiệu về Thánh Đức và linh ứng của một vị Phật hay Bồ Tát; về nguyên lý, chuyện ứng xử hay hiện tượng nào đó ….. Nội dung chi tiết bao gồm giới thiệu những đại biểu tham dự ( các bậc bồ tát, trời , thần …..), nơi chốn giảng kinh, thời gian. Tiếp theo là những lời khai thị của Phật, có khi là những cuộc đối thoại sinh động. Thường thường lối hành văn của kinh giản đơn, dễ hiểu, có tính giáo khoa. II- Các bộ klinh nói về ngài Địa Tạng : 1 . Kinh Đại phương quảng thập luân (大方廣十輪經), còn gọi là kinh Phương quảng thập luân, Thập luân, 8 quyển, mất tên người dịch, được dịch vào thời Bắc Lương, tạng Đại Chánh 13, số 410, trang 681. Nội dung kinh này gồm 15 phẩm, kể về công đức của Bồ-tát Địa Tạng, đồng thời nói nếu nương vào 10 Phật luân (10 lực) và 10 y chỉ luân của Tam thừa thì có thể xoay chuyển 10 ác nghiệp luân. Bản dịch khác của kinh này là Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân (xem ở dưới ). 2. Kinh Địa Tạng thập luân (地藏十輪經) : gọi đủ là kinh Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân, 10 quyển, ngài Huyền Trang (600-664) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 13, số 411, trang 721. Kinh này tường thuật đức Như Lai nhân lời thưa hỏi của Bồ-tát Địa Tạng mà nói 10 thứ Phật luân (10 lực), có năng lực phá trừ 10 ác luân trong đời mạt pháp, và khen ngợi công đức Bồ-tát Địa Tạng. Mục đích kinh này nhằm dung hợp Tam thừa về Đại thừa, lại nhắm vào các Tỳ-kheo phá giới mà giải thích rõ về công đức “thắng tưởng”, và việc Bồ-tát Địa Tạng hiện tướng Sa-môn để cứu độ chúng sanh trong đời mạt pháp. Nội dung gồm 8 phẩm: 1. Phẩm Tựa; 2. Phẩm Thập luân; 3. Phẩm Vô y hành; 4. Phẩm Hữu y hành; 5. Phẩm Sám hối; 6. Phẩm Thiện nghiệp đạo; 7. Phẩm Phước điền tướng; 8. Phẩm Hoạch ích chúc lụy. 3. Kinh Địa Tạng bồ-tát bổn nguyện (地藏菩薩本願經), 2 quyển, ngài Thật-xoa-nan-đà (Śikṣānanda, dịch Hỷ Học, 652-710, người nước Vu-điền) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 13, số 412, trang 777. Kinh này nói về công đức bản nguyện, thệ nguyện bản sinh của Bồ-tát Địa Tạng. Người đọc tụng kinh này có thể tiêu trừ vô lượng tội nghiệp và được lợi ích không thể nghĩ bàn. Nội dung 1. Phẩm Đao-lợi thiên cung thần thông (Thần thông tại cung Đao-lợi); 2. Phẩm Phân thân tập hội (Thân phân hoá qui tụ lại); 3. Phẩm Quán chúng sanh nghiệp duyên (Quán sát nghiệp quả chúng sanh); 4. Phẩm Diêm-phù chúng sanh nghiệp cảm (Nghiệp quả của người Diêm-phù); 5. Phẩm Địa ngục danh hiệu (Danh xưng địa ngục); 6. Phẩm Như Lai tán thán (Thế Tôn tuyên dương); 7. Phẩm Lợi ích tồn vong (Lợi ích người còn kẻ mất); 8. Phẩm Diêm-la vương chúng tán thán (Các vua Diêm-la xưng tụng); 9. Phẩm Xưng Phật danh hiệu (Xưng tụng danh hiệu chư Phật); 10. Phẩm Giáo lượng bố thí công đức duyên (trắc lượng công đức bố thí); 11. Phẩm Địa thần hộ pháp (Thần đất hộ trì); 12. Phẩm Kiến văn lợi ích (Ích lợi của sự thấy nghe); 13. Phẩm Chúc lụy nhân thiên (Thế Tôn ký thác). 4. Kinh Chiêm sát thiện ác nghiệp báo (占察善惡業報經), còn gọi là kinh Địa Tạng Bồ-tát nghiệp báo, Địa Tạng Bồ-tát, 2 quyển, do ngài Bồ-đề-đăng (người Tây Vực) dịch thời Tuỳ, tạng Đại Chánh 17, số 839, trang 901. Nội dung kinh này nói Bồ-tát Địa Tạng phụng mệnh đức Phật, thuyết pháp cho chúng sanh ở đời mạt pháp nghe về việc cầu pháp lành. Quyển thượng nói rõ pháp xem xét nghiệp báo thiện ác. Quyển hạ thuật nghĩa chân thật của Đại thừa. 5. Địa Tạng bồ-tát nghi quĩ (地藏菩薩儀軌), 1 quyển, do ngài Du-bà-ca-la (dịch là Thiện Vô Uý, người nước Ma-già-đà, Ấn Độ) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 20, số 1158, trang 652. Nội dung kinh thuật lại lúc đức Phật ở trên núi Khư-la-đề-da, Bồ-tát Địa Tạng muốn nói thần chú làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, sau khi được đức Phật hứa khả, Bồ-tát Địa Tạng liền nói ba loại thần chú: Đại, trung, tiểu, kế đến nói về cách vẽ tượng, sau đó nói về ấn chú, ấn Phổ cúng dường, Tổng thuyết tổng ấn, Thỉnh tán ấn, cuối cùng nói cách thành tựu 17 pháp hộ ma. 6. Kinh Địa Tạng Bồ-tát đà-la-ni (佛說地藏菩薩陀羅尼經), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 20, số 1159B, trang 655. Nội dung kinh này nói về Đà-la-ni, công đức và thệ nguyện của Bồ-tát Địa Tạng. Đà-la-ni gồm 63 câu, người trì tụng Đà-la-ni này có thể diệt trừ tất cả khổ não. 7. Địa Tạng Bồ-tát thập trai nhật (地藏菩薩十齋日), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 85, số 2850, trang 1300. Nội dung kinh này chỉ dạy 10 ngày ăn chay (giữ giới) trong tháng. 8. Kinh Địa Tạng bồ-tát (佛說地藏菩薩經), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 85, số 2909, trang 1455. Nội dung kinh kể về Bồ-tát Địa Tạng ở thế giới Lưu Ly phương Nam, dùng thiên nhãn thanh tịnh quán chúng sanh thọ khổ trong địa ngục, không chịu được cảnh ấy, Ngài mới đến địa ngục cùng vua Diêm-la phán xét, và cũng vì sợ vua Diêm-la đoán xử sai, hoặc chưa đúng tội mà xử chết... Đồng thời, nếu có thiện nam, thiện nữ nào đọc tụng, biên chép kinh Địa Tạng, vẽ hình tượng, hay niệm danh hiệu ngài, thì khi lâm chung đều được Ngài tiếp dẫn về thế giới Tây phương cực lạc... 9. Kinh Địa Tạng bồ-tát phát tâm nhân duyên thập vương (佛說地藏菩薩發心因緣十王經), gọi tắt kinh Địa Tạng thập vương, hay Thập vương kinh, 1 quyển, do Sa-môn Tạng Xuyên ở chùa Từ Ân phủ Thành Đô soạn, thuộc Tục tạng (chữ Vạn 卍) tập 1, số 20, trang 404a6. Nội dung kinh này nói việc người chết chịu sự phán xét thiện ác ở điện Thập vương cõi âm phủ, về nhân duyên phát tâm cũng như bản nguyện của Bồ-tát Địa Tạng và chỉ rõ tiền thân vua Diêm-La chính là Bồ-tát Địa Tạng. Cuối cùng dùng bài kệ nói về Phật tính để kết thúc kinh. Năm Canh Dần 2010, cư sĩ Huyền Thanh đã công phu Việt dịch và biên tập tổng hợp một số bộ kinh và nội dung nói về Thành đức của Đức Địa Tạng. Nội dung gồm các phẩm : Hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát; Thủ Ấn Chân Ngôn của Địa Tạng Bồ Tát; Phật nói Kinh Diên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát ;Kinh Bách Thiên Tụng Đại Tập_Bài Tán Địa Tạng Bồ Tát Thỉnh Hỏi Pháp Thân ; Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ ;Phật nói Kinh Địa Tạng Bồ Tát Đà La Ni ; Mười ngày Trai của Địa Tạng Bồ Tát ; Phật nói Kinh Địa Tạng ; Nghi Thức Tán Lễ Địa Tạng Bồ Tát Sám Nguyện; Nghi Thức Trì Tụng Pháp Địa Tạng . Trong các bộ Kinh trên, Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là bản kinh trì tụng thông dụng, đã được nhiều bậc Trưởng lão, Kỳ túc Việt dịch, chú giải, như Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Trí Quang; Hòa thượng Tuyên Hoá (Tổng hội Phật giáo thế giới ở Vạn Phật Thánh Thành - Hoa Kỳ Việt dịch 1 bản, Cố thượng tọa Thích Chánh Lạc - Học viện Hải Đức, Nha Trang dịch 1 bản), cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền dịch là Địa Tạng Mật Nghĩa
  21. Thỉnh cầu hoá thân Kyabje Trulshik Rinpoche nhanh chóng thị hiện Uy lực thệ nguyện phát tâm trãi bao kiếp, Thời này viên mãn xiển dương Thánh Giáo Phật, Thánh Nhân nhiếp phục Tam Hữu khẩn nguyện cầu, Hoá lại sắc thân trẻ trung thỉnh nhanh hiện. Một trong những học trò của Bậc Thánh Nhân, tỳ kheo của Đức Shakya, Tendzin Gyatso (Dalai Lama) đã viết lời thiện lành này ở phía đông sân bay nước Argientina, vào ngày 15 tháng 9 năm 2011, Tạng lịch 2138 năm Thiết Thố tháng 7 ngày 18. Om Sva-ti! Biển cả Trì Minh, Thắng Phật cùng Bồ Tát Gia trì, uy lực bất hư lý Duyên Sinh. Dro-dul Trul-shik Do-ngak Ten-dzin, nguyện (Phục Chúng Diệt Loạn Hiển Mật Trì Giáo Giả - Bậc điều phục chúng sinh, diệt trừ loạn tưởng, nắm giữ Giáo Lý Kinh Điển và Mật Chú) Hiển bày biến hoá thỉnh cầu nhanh thị hiện. Phỏng theo như một lời cầu nguyện nhanh chóng trở lại từ ngữ của Đức Kim Cang Trì Jigdral Yeshe Dorje (Kyabje Dudjom Rinpoche). Om Sva-ti! Đại dương cam lồ Kinh, Tàng (Kama, Terma) phái Cựu Dịch, Kho tàng phẩm hạnh văn, tư, tu “Bất Loạn” (Trul-me), Chứng đắc uy lực biện tài “Pháp Trí Biện” (Cho-kyi Lo-dro), Diện nguyệt hoá thân thù thắng thỉnh nhanh hiện. Phòng theo như một lời cầu nguyện nhanh chóng trở lại từ ngữ gia trì của Tôn giả Kim Cương Trì Dilgo Khyentse. Đại Nhật Như Lai, uy quyền tự tại ngữ (Ngawang), Tôn giả A-nan trì tàng Vi Diệu Pháp (Chokyi), Huyễn hoá Trí Biện (Lodro) đại kho tàng bất tận, Dưới chân uy đức Thượng Sư cung kính thỉnh. Nhị trí thông tuệ Ngữ Lực (Nga-wang) Đức Diệu Âm (Văn Thù), Uy thế trì mật kim cang (Kim Cang Thủ) Đấng Pháp Chủ (Cho-kyi), Đại Bi Trí Biện (Lo-dro) Tôn Thánh nhãn không khép (Quán Thế Âm), Dưới chân Chí Tôn Thượng Sư cung kính thỉnh. Tưởng nhớ hồng ân của Đức Chí Tôn Thượng Sư Kyabje Trulshik Rinpoche, sau hai tuần Ngài thị hiện viên tịch Niết Bàn với các điềm lành như hào quang xuất hiện và đại địa chấn động. Người học trò yếu kém Ngữ Lực Giới Hiền (Ngawang Tshultrim Zangpo) thành tâm chuyển dịch các lời khấn nguyện nhanh chóng trở lại này, cầu mong hoá thân của Ngài nhanh chóng thị hiện để tiếp tục công hạnh thệ nguyện hoằng Pháp lợi sinh. Kathmandu, ngày 19 tháng 9 năm 2011. Tang lịch 2138, năm Thiết Thố tháng 7 ngày 22. Nguyện kiết tường! (Từ nguồn : http://blog.yahoo.com của thầy Giới Hiền)
  22. CỔ SỬ TRUYỆN CON GÁI ĐỨC PHẬT (Hành trạng của chư Thánh Ni & những cận sự nữ đặc biệt và thù thắng) Sư Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) Lời thưa, Năm 2010, tại Sài Gòn diễn ra đại hội “Con gái đức Phật” quy tụ tỳ-khưu-ni và cận sự nữ Nam Bắc tông trên khắp thế giới về tham dự. Tôi không biết gì về nội dung cũng như hình thức đại hội ấy, nhưng cụm từ “Con gái đức Phật” tôi nghe sao nó dễ thưong, bình dị và rất gần gũi với ngôn ngữ đời thường. Từ đó, tôi khởi tâm biên soạn một cuốn sách để giới thiệu về những vị Thánh Ni và những cận sự nữ có hành trạng đặc biệt và thù thắng thời đức Phật và đặt tên đầu sách là “ Con gái đức Phật”. Tiêu biểu như sau: Chư vị Thánh Ni: - Ni Trưởng Mahā Pajāpati Gotamī (Ma-ha ba-xà ba-đề) - Tỳ-khưu-ni Yasodharā (Gia-Du-Đà-La) - Tỳ-khưu-ni Khemā (Đệ nhất trí tuệ) - Tỳ-khưu-ni Upalavaṇṇā (Đệ nhất thần thông) - Tỳ-khưu-ni Dhammadinnā (Đệ nhất thuyết pháp) - Tỳ-khưu-ni Paṭācārā (Đệ nhất thông luật) - Tỳ khưu-ni Kisā-Gotamī (Đệ nhất mặc y thô tháo) - Tỳ-khưu-ni Bhadda-Kuṇḍalakesā (Đệ nhất thắng trí nhạy bén) - Tỳ-khưu-ni Ambapālī (Kỹ nữ nổi danh) - Tỳ-khưu-ni Subhā (Người cho con mắt đẹp) Chư vị cận sự nữ: - Bà Visākhā (Đại thí chủ) - Hoàng hậu Mallikā (Nữ cận sự xuất sắc) - Hoàng hậu Sāmāvatī (Từ ái dịu dàng) - Thị nữ lưng gù Khujjuttarā (Đệ nhất thuyết pháp) - Cô Uttarā (Năng lực tâm từ) - Cô Sirimā (Kỹ nữ nổi danh) - Bà Mẹ Mātikagama (Người hộ độ hy hữu) - Nữ thí chủ Suppiyā (Cúng dường thịt đùi) Đầu tiên thì tôi không dám nghĩ đến những mục đích gì to tát, nhưng càng viết, tôi càng ngẫm ngợi nhiều về những điều sau đây: - Vị tỳ-khưu-ni nào, cận sự nữ nào thành tựu lớn lao cũng do nhờ nhân duyên dày sâu từ quá khứ. - Mọi khả năng về trí tuệ, về thắng trí, về thiền định, về thuyết pháp, về giới luật, về tâm từ, về khổ hạnh, về mặc y thô tháo, về bố thí, về hộ độ và cả về sự thông minh, khéo léo trong tương quan ứng xử... thì họ không hề thua nam giới. - Họ là những vị sứ giả thành công trong lãnh vực xoa dịu nỗi đau của những phụ nữ có hoàn cảnh bất hạnh do kỳ thị, do bất công đối xử, do ngã gục trên tình trường, do hoàn cảnh bất trắc, éo le từ xã hội, từ nghiệp cũng như từ những trớ trêu của đời sống. Xem lại thực trạng hiện nay của phụ nữ, thì: - Trên khắp thế giới, họ chịu nhiều thiệt thòi, nhiều đau khổ hơn nam giới, mặc dầu tuyên ngôn nam nữ bình quyền đã có mặt trên thế giới cả một thế kỷ rồi. - Những xứ sở phong kiến, những quan niệm cổ truyền, những tín lý tôn giáo khắt khe, mù quáng, xem nữ giới như nô lệ, như kẻ ăn người ở vẫn còn đầy dẫy trên các nước Trung Đông, Ấn Độ, châu Phi và cả Nam Mỹ. - Báo chí khắp nơi báo động về nạn buôn người trên các nước châu Á. Xem nữ giới chỉ như món hàng trao đổi, thậm chí, tệ hại hơn, chỉ để giải quyết tình dục cho nam giới. Tôi nghĩ, thân phận người nữ sao mà thê thảm, đã chín tháng mười ngày âm thầm chịu đựng đau khổ để “sinh ra con người cho nhân loại” lại còn gánh thêm không biết bao nhiêu nghịch cảnh, tai ương, bị phản bội, bị đánh đập, bị trấn bức... từ xã hội và từ con người. Tuy nhiên, nói gì thì nói, phụ nữ họ có những đức tính vượt trội như quán xuyến gia đình, lo cho chồng, cho con, chịu đựng gian khổ, đắng cay; bàn tay và tấm lòng họ tỏa ra sự nhân ái và dịu dàng. Họ là những NGƯỜI MẸ viết hoa vậy. Dường như mọi người đàn ông, mọi người con trai trên đời này, khi đau khổ nhất, thống khổ nhất, đều không réo trời, réo đất, réo Thánh Thần Tiên Phật mà họ đều kêu lên hai tiếng “ Mẹ ơi!” Cuối cùng, cho tôi nói thêm hai điều: - Hiện tại, trên khắp thế giới, nhất là Đài Loan, Việt Nam - nữ giới xuất gia nhiều hơn nam giới. Tại các các cơ sở từ thiện xã hội, đa phần là bóng dáng các ni cô, các soeur... hoặc là nữ nhân chăm sóc, phục vụ. - Phật giáo Bắc Tông, Khất Sĩ, nữ giới có giới phẩm tỳ-khưu-ni; riêng Phật giáo các nước Therāvada như Thái Lan, Myanmar, Lào, Campuchia, Việt Nam là bị thiệt thòi. Riêng Tích Lan và Ấn Độ thì đã có cải cách, đã có tổ chức nhiều đại giới đàn cho Ni giới. Có những người tu học từ thuở còn con gái, cách đây đã trên năm, sáu mươi năm mà cho đến bây giờ vẫn chỉ là tu nữ, tuổi già cô quạnh, cô độc, khi đau ốm không có ai chăm sóc thuốc thang, đi tới đi lui lụm cụm... vì họ không có giới phẩm để nhận đệ tử học tu! Điều đó không đáng làm cho chúng ta quan tâm, suy nghĩ hay sao? Cuối cùng, xin gởi tặng quyển sách này cho “Con gái đức Phật” tại Việt Nam và trên thế giới. Trân trọng, Tỳ-khưu Giới Đức (Sīlaguṇo-bhikkhu) Minh Đức Triều Tâm Ảnh ******** Nguồn và chi tiết xem : CON-GÁI-ĐỨC-PHẬT “- Này mẹ! Mục tiêu tối hậu của phạm hạnh thật khó khăn để đạt được mà cũng thật dễ dàng để đạt được. Nói cách khác, khó khăn khi nắm bắt được cái cốt lõi, cái tinh tủy; và dễ dàng khi biết tước dần lớp vỏ ngoài, thớ vỏ trong hoặc nhiều lớp dát cây, bỏ thịt rồi róc xương. Giáo pháp của Như Lai chỉ để dành cho bậc trí, người có con mắt sáng quắc, nhìn xuyên thủng nhiều lớp si mê và vô minh. Tuy nhiên, chỉ cần nhận thức một cách sáng suốt, tỉnh táo rằng: Bất cứ giáo lý nào có khuynh hướng dẫn đến tham lam, khát vọng; dẫn đến cống cao, ngã mạn; dẫn đến phóng túng, giải đãi; dẫn đến nhiệt não, rối loạn; dẫn đến vô chừng mực, vô tiết độ; dẫn đến vô ơn, phản phúc; dẫn đến keo kiệt, bủn xỉn; dẫn đến đắm nhiễm phồn hoa, lấm lem bụi tục; dẫn đến kiểu cách, khó nuôi; dẫn đến ích kỷ, vị ngã; dẫn đến đau khổ, phiền não... thì giáo lý ấy không phải là Chánh pháp (Dhamma), không phải là Giới luật (Vinaya), không phải là lời giáo huấn của Như Lai. Ngược lại, bất cứ giáo lý nào dẫn đến vô tham, nguội tắt khát vọng; dẫn đến lòng tôn kính, biết tự trọng; dẫn đến lễ độ, khiêm cung; dẫn đến kiểm thúc, tự chế; dẫn đến quân bình, ổn định; dẫn đến tri túc, biết đủ; dẫn đến tri ân, biết đền ân; dẫn đến rộng rãi, xả ly; dẫn đến ưa thích vắng lặng, tiết độ ngũ dục; dẫn đến dị giản, dễ nuôi; dẫn đến xả kỷ, vị tha; dẫn đến xa rời phiền não, an vui và nhàn thoát... thì phải hiểu rằng, giáo lý ấy là Chánh pháp, là Giới luật, là lời giáo huấn của Như Lai!”
  23. Đức Phật - Đức Đại Y Vương nên kinh điển từ Ngài dậy thật chí lý, cò lẽ không phải đến thời luân hồi nghiệp báo, mà hiện tiền đã : Chị em phụ nữ tính tình nóng nảy, sân nộ bất thường, dễ dàng nổi cơn lôi đình khi có ai xâm phạm đến... thì mặt không mọc mụn,da không nhăn nheo, chảy xệ tùm lum tùm la - thì cũng là may mắn thay !!! Nên bởi bao cô tắm trắng, lột da, bơm vá, tế bào gốc, colagen .....tôn tạo sắc đẹp rồi đâu hòan đó, thậm chí còn tệ hơn xưa là do mới chỉ đi vào được phần ngọn mà không biết lấy "dân làm gốc" Phàm nhân dậy : "Giàu tại phận , trắng tại da Nhà to tại mả ông bà chôn sâu" He he
  24. ..... - Này hoàng hậu Mallikā! Tóm tắt, vậy là có bốn hạng phụ nữ. Hạng thứ nhất, xấu xí, đói nghèo và bất hạnh. Hạng thứ hai, tuy xấu xí nhưng lại phú quý và vinh hoa. Hạng thứ ba, tuy có dung sắc xinh đẹp, mỹ lệ nhưng lại bất hạnh, đói nghèo. Và hạng thứ tư, vừa có dung sắc xinh đẹp, mỹ lệ vừa được sống trong phú quý, vinh hoa! Như Lai tóm tắt như vậy có đúng không, này Mallikā? - Thưa vâng! Bạch đức Tôn Sư! - Hãy nghe đây, này Mallikā! Hãy nghe và hãy khéo chú tâm, thọ trì, Như Lai sẽ nói đây! Trên thế gian này có hạng người phụ nữ tính tình nóng nảy, sân nộ bất thường, dễ dàng nổi cơn lôi đình khi có ai xâm phạm đến, dù chỉ là việc nhỏ mọn, vụn vặt. Một chút gì đó đụng đến “cái ta” của họ, họ liền tức khắc biểu hiện sự không hài lòng; thế là cơn nóng giận, sự dữ dằn bộc phát ngay, thường gây thù chuốc oán với người khác. Không những thế, hạng người nữ này không có đức tin với thiện pháp, không hoan hỷ tạo phước điền, không bao giờ bố thí cơm, nước, hoa quả, thuốc men, vật thơm, dầu thoa, nhu cầu phương tiện, vải vóc, y phục, đèn dầu, chỗ ở, chỗ nằm, ngồi... đến chư sa-môn, bà-la-môn hay cho người đói khổ. Ngoài ra, tính tình họ thường hay đố kỵ, ganh tỵ đối với những người có của cải tài sản; đem tâm tỵ hiềm với sự làm phước của người khác; ganh tỵ với những người có nhiều lợi lộc, người được quần chúng cung kính, mến mộ; và họ còn làm nhiều việc sái quấy, xấu ác khác nữa. Số phụ nữ nầy sau khi chết, bị nhiều quả báo đau khổ trong bốn ác đạo, nếu do ảnh hưởng một phước lành nào đó trong quá khứ, được tái sanh trở lại làm người thì sẽ rơi vào trường hợp hạng phụ nữ thứ nhất: Vừa xấu xí, vừa đói nghèo, bất hạnh - này Mallikā! - Đệ tử nghe rõ rồi! - Này Mallikā! Trong thế gian này, hạng phụ nữ có tính tình hung hãn, dữ dằn, dễ dàng nỗi cơn thịnh nộ như trường hợp thứ nhất; nhưng họ lại có đức tin, có tâm tạo phước điền, biết bố thí vật thực, y phục đến cho sa-môn, bà-la-môn hay những kẻ cơ cực, đói nghèo. Hạng nữ này còn có những đức tính tốt khác nữa, là họ không có tâm đố kỵ với những người nhiều lợi lộc; không ganh tỵ với những người được tán dương, khen ngợi, không tỵ hiềm đối với những người được sự cung kính, cúng dường. Ngoài ra, họ còn làm được nhiều việc đúng đắn, lành tốt khác nữa. Hạng phụ nữ nầy, sau khi lâm chung thường được sinh vào những cảnh giới tốt đẹp; tuy nhiên, nếu sanh trở lại làm người thì sẽ rơi vào trường hợp thứ hai: Tuy thân sắc xấu xí nhưng lại được cao sang, phú quý, này Mallikā! - Đệ tử lãnh hội rồi, bạch đức Tôn Sư! - Trên thế gian này có hạng phụ nữ không có hoặc ít có tâm sân hận, luôn dịu dàng, từ hòa, mát mẻ, thần sắc luôn phấn chấn, tươi vui. Nếu có ai lỡ nói lời khó nghe, đụng chạm, xúc phạm đến họ, họ cũng không bất bình, không giận dữ, không phẫn nộ; chẳng bao giờ hiềm hận ai, chẳng gây thù chuốc oán với ai. Tuy nhiên, họ không có đức tin, không có tâm tạo phước điền, không bố thí vật thực, y phục, chỗ ở đến các hàng sa-môn, bà-la-môn hay những người cơ hàn, đói khổ! Đã thế, họ lại có tâm đố kỵ với người nhiều lợi lộc; ganh tỵ với những người được sự tán dương khen ngợi, được sự thương yêu, quý mến, cung kính cúng dường của người khác; đồng thời họ còn có những hành động sai quấy, xấu ác khác nữa. Hạng phụ nữ này sau khi chết, nếu như tái sanh trở lại làm người thì họ rơi vào trường hợp thứ ba: Có dung nhan vô cùng xinh đẹp nhưng lại sống đời tối tăm, đói nghèo, bất hạnh, này Mallikā! - Đệ tử biết nhân, biết quả rồi, bạch đức Đạo Sư! - Trên thế gian này, có số phụ nữ không có hoặc ít có tâm sân hận, luôn dịu dàng, từ ái, mát mẻ, thần sắc luôn phấn chấn, tươi vui như hạng người thứ ba ở trên; họ còn có đức tin, có tâm tạo phước điền, biết bố thí vật thực, y phục đến cho sa-môn, bà-la-môn hay những kẻ cơ cực, đói nghèo. Hạng phụ này lại còn có những đức tính tốt khác nữa, là họ không có tâm đố kỵ với những người nhiều lợi lộc; không ganh tỵ với những người được tán dương, khen ngợi; không tỵ hiềm đối với những người được sự cung kính, cúng dường. Ngoài ra, họ còn làm được nhiều việc đúng đắn, lành tốt khác nữa. Hạng phụ nữ này sau khi lâm chung thường sanh vào những cảnh giới tốt đẹp; nếu sanh trở lại làm người thì họ rơi vào trường hợp thứ tư: Có dung sắc vô cùng mỹ lệ mà phước báu về tài sản, danh vọng, địa vị, chồng con, nô bộc thảy đều toàn mãn; được mọi người cung kính, quý trọng, này Mallikā! Sau khi giảng giải, phân tích rõ nhân quả của bốn hạng phụ nữ trên đời, đức Thế Tôn kết luận như sau: - Do tính tình nóng nảy hay giận dữ, nhiều sân hận, dễ chuốc oán, sinh thù, mặt mày luôn cau có, bẳn gắt: Chính chúng là nhân, là duyên, tạo nên hạnh nghiệp, sinh ra quả báo có khuôn mặt xấu xí, ngũ quan xiên lệch, da dẻ sần sùi, khó nhìn, khó ưa, này Mallikā! Do không có đức tin, không có giữ giới, không biết bố thí: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp đưa đến quả báo có đời sống cơ cực, đói khổ, thiếu cơm, rách áo, này Mallikā! Do có tâm đố kỵ, ganh ghét, tỵ hiềm đối với những người có địa vị, danh vọng, tài sản: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp đưa đến quả báo thấp hèn trong thân phận nô bộc, thị tỳ, nô lệ, dâm nữ... là thang bậc hạ liệt nhất trong xã hội, này Mallikā! Do ít có tâm sân hận, luôn dịu dàng, từ hòa, mát mẻ, thần sắc luôn phấn chấn, tươi vui: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp đưa đến quả báo có sắc thân xinh đẹp, da dẻ mịn màng, ngũ quan cân đối, tuyệt mỹ như là hiện thân tiên nữ trên đời này vậy, này Mallikā! Do có đức tin, có tâm tạo phước điền, biết bố thí vật thực, y phục đến cho sa-môn, bà-la-môn hay những kẻ cơ cực, đói nghèo: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp tốt lành cho quả báo giàu sang, phú túc, thịnh mãn lộc tài, này Mallikā! Do không có tâm đố kỵ với những người nhiều lợi lộc; không ganh tỵ với những người được tán dương, khen ngợi; không tỵ hiềm đối với những người được sự cung kính, cúng dường; ngoài ra, họ còn làm được nhiều việc đúng đắn, lành tốt khác nữa: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp đưa đến quả báo cao sang, đạt địa vị, danh vọng tối thắng mà thế gian ai cũng kính trọng, tôn quý! Đấy chính là sáu nhân, sáu duyên, sáu hành nghiệp đưa đến sáu quả báo, sáu hoàn cảnh với ngũ quan, dung sắc, tài lộc, địa vị, danh vọng khác nhau, này Mallikā! Trích Con Gái Đức Phật ( phẩm : Hoàng hậu Mallikā (Cận sự nữ xuất sắc)
  25. ...Thời pháp hôm ấy do đức Thế Tôn thuyết giảng. Đề tài nói đến sự “ái luyến tự ngã”, tức là ái luyến bản thân sẽ đưa đến những nguy hại vô lường. Biểu hiện thô tháo của ái luyến tự ngã là thích ăn ngon, mặc đẹp, thích trau chuốt, điểm trang, thích nằm giường êm, gối mịn, thích đánh phấn, thoa son... Biểu hiện vi tế của ái luyến tự ngã là thích tên tuổi mình được vang dội, thích địa vị mình được trên trước, thích quyền lực của mình được bao trùm thiên hạ, thích ý tưởng, quan điểm của mình được người khác chấp nhận, thích chủ thuyết, triết lý của mình được mọi người thực hành. Tất cả đấy nó xoay quanh bản ngã, thể hiện bản ngã, phóng đại bản ngã. Hệ quả tất yếu của nó là tham lam, dục vọng tăng trưởng; sân hận, hung dữ tăng trưởng; si mê, u tối tăng trưởng; chúng sẽ kéo theo không biết bao nhiêu là sầu bi, ưu não cho mình và cho cuộc đời... Tuy nhiên, cái bản ngã ấy, trên lộ trình tu tập nó sẽ bị tước dần dần đi, đến quả vị A-la-hán nó mới cắt đứt trọn vẹn cái “ngã mạn” và cái “vô minh” ấy! Vì vậy, ngay từ bây giờ, hai hàng cư sĩ phải thấy rõ sự nguy hại của nó để lìa xa từng chút một; sự lìa xa ấy giúp ta bỏ bớt những nhỏ mọn, những ích kỷ, những mưu toan thủ lợi, những đặc quyền riêng tư để quan tâm chút ít đến người khác, đến chúng sanh, đến xã hội trong tương quan hoàn cảnh. Riêng tỳ-khưu Tăng Ni khi học được bài học này sẽ tìm được đời sống phạm hạnh yên ổn, thanh bình; không còn chạy theo tứ sự lợi dưỡng, sẽ an vui trong giáo pháp trung đạo của Như Lai.... Trích Con Gái Đức Phật ( phẩm : Thánh nữ Visākhā (Nữ đại thí chủ)