-
Số nội dung
176 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thủy Tiên
-
Những đồ vật bị nguyền rủa Nguồn: www26.24h.com.vn Một bộ kimono được nhiều người xem là mang lại điềm xui xẻo khi ba chủ nhân của nó, là ba thiếu nữ Nhật Bản, đều lần lượt qua đời trước khi có cơ hội khoác nó lên người ... .... Một thầy tu thấy bộ kimono quá "chết chóc" nên quyết định mang đi đốt vào tháng 2 năm 1657. Khi bộ kimono đang bốc cháy, một trận gió lớn xuất hiện, thổi ngọn lửa vượt khỏi tầm kiểm soát của mọi người. Hậu quả là ngọn lửa từ bộ kimono này đã thiêu cháy 3/4 thành phố Tokyo, san bằng 300 đền đài, 500 cung điện, 9.000 cửa hàng, 61 cây cầu và thiêu chết 100.000 người. Một chiếc đồng hồ thuộc sở hữu của vua Louis XIV (Pháp) đã ngừng chạy chính xác vào đúng lúc vị vua này băng hà: 7h45, ngày 1/9/1715 và kể từ đó nó không bao giờ chạy lại nữa. Trong cuộc tấn công ngày 25/1/1787 vào kho vũ khí liên bang ở Springfield trong cuộc nổi loạn của tướng Shay, chàng lính Jabez Spicer, ở Leyden, Massachusetts (Mỹ) đã bị giết chết bằng hai viên đạn của kẻ thù. Nhưng điểm đặc biệt là vào lúc đó, Jabez Spicer đang khoác trên người chiếc áo của ông anh ruột Daniel đã mặc. Daniel đã bị bắn chết bởi hai viên đạn vào ngày 5/3/1784. Hai viên đạn giết chết Jabez Spicer đi chính xác vào các lỗ trên chiếc áo khoác do lần trúng đạn trước (của người anh Daniel) tạo nên. Chính xác từng viên một mặc dù ông anh Daniel đã bị bắn chết trước đó 3 năm. Camille Flammarion, nhà thiên văn học nổi tiếng của Pháp ở thế kỷ 19, là một người nghiên cứu về những chuyện huyền thoại, đặc biệt là những chuyện ma quái. Camille Flammarion, nhà thiên văn học nổi tiếng của Pháp ở thế kỷ 19 Trong quyển The Unknown, xuất bản năm 1900, ông kể lại một câu chuyện cũng khá ly kỳ. Khi ông viết một chương về "gió" trong tác phẩm L'Atmosphère (Bầu khí quyển), một ngọn gió đã thổi tung cửa sổ nhà ông và nhấc bổng những trang giấy ông vừa viết xong và mang chúng đi mất. Một vài ngày sau đó, ông ngạc nhiên khi nhận được bản in thử từ nhà xuất bản (những trang bản thảo bị gió cuốn đi). Thì ra ngọn gió đã cuốn những trang bản thảo này ra ngay con đường mà một nhân viên của nhà xuất bản đi ngang qua, người mà thường đến nhận bản thảo của Flammarion mang đến nhà xuất bản. Người này chỉ việc nhặt những trang giấy và mang chúng đến nhà xuất bản như thường lệ. Năm 1883, Henry Zieglan ở vùng Honey Grove, Texas (Mỹ) đã phản bội người yêu đến nỗi cô ta phải tự tử. Anh của cô gái này quyết định trả thù bằng cách xách súng bắn Ziegland, nhưng viên đạn chỉ sướt qua mặt của Ziegland và văng vào một thân cây gần đó. Người anh cô gái nghĩ rằng mình đã trả thù được cho em nên sau đó cũng tự sát. Năm 1913, Ziegland quyết định đốn ngã cây có viên đạn trong đó. Vì gặp khó khăn trong việc đốn cây nên Ziegland quyết định dùng đến chất nổ và vụ nổ này đã đưa viên đạn ngày xưa bay thẳng vào đầu Ziegland giết chết anh ta ngay lập tức.
-
Cũng may là đầu óc mình vẫn còn minh mẫn! hehe B)
-
Lưu ý: Những bài trích dẫn từ các nguồn khác, chỉ là tài liệu tham khảo. Không phải quan điểm chính thức về học thuật của Phong Thủy Lạc Việt. Phân ngôi khách - chủ trong ngôi nhà đương đại Theo SGGP Ta đã biết việc sắp xếp phong thủy cho mỗi ngôi nhà luôn theo các trình tự từ xa đến gần từ ngoài vào trong, từ đại thể đến chi tiết, trong đó vai trò của chủ nhân luôn là quan trọng, là chính thể để bố trí cơ cấu và nội thất. Tuy nhiên, mọi gia đình đều có nhu cầu giao tiếp và những không gian tương ứng như sảnh đón, phòng khách… Vì thế, cần có sự phân định hợp lý để đảm bảo tính thống nhất toàn nhà, đồng thời vẫn tạo được tiện nghi thoải mái cho khách mà không xâm phạm vào Nội Khí Dương Trạch. Kinh nghiệm truyền thống... Trong bố cục của mọi ngôi nhà truyền thống Việt Nam (và cả các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản), sự phân ngôi khách – chủ luôn được thể hiện rõ nét. Điều này có thể giải thích qua những nét đặc trưng văn hóa truyền thống Đông phương: luôn coi trọng tính ổn định và ngôi thứ trong ngoài, trên dưới. Xét về mặt phong thủy, sự phân ngôi khách chủ cũng là biểu hiện cho 5 đặc tính cơ bản của phong thủy, đó là: Kết hợp khu tiếp khách trong mối quan hệ tổng thổ – Tính tổng hợp: cũng như mọi thành phần khác trong nhà, những khu vực dành cho khách luôn được xem xét dưới nhiều phương diện để tạo lập không gian hài hòa. Ngoại trừ những ngôi nhà mang tính từ đường của dòng họ, nhà quan lại thường xuyên tiếp đón khách hay dành sảnh tiếp khách rộng rãi và trang trí cầu kỳ, tách bạch với các khu vực sinh hoạt khác, còn thì nhà dân luôn kết hợp khu tiếp khách trong mối quan hệ tổng thể. Tiếp khách ngòai vườn – Tính linh hoạt: không gian ở ngôi nhà truyền thống là dạng không gian liên hoàn ít ngăn chia cứng mà chủ yếu dùng bình phong, tủ kệ. Mọi người cùng sinh hoạt dưới một mái nhà, trong một hệ cột kèo thống nhất. Để tránh sự tùy tiện và xâm phạm vào các thành phần riêng tư, phân ngôi khách – chủ khá nghiêm ngặt như là biểu hiện của nguyên lý Âm Dương: trong Tĩnh có Động, trong Nội có Ngoại, cố định trong vỏ bọc linh hoạt. Một số nhà có vườn còn bố trí không gian tiếp khách dưới nhà mát, nhà chòi lẫn giữa thiên nhiên, không ảnh hưởng nội thất nhà chính. – Tính quân bình: Luôn giữ tỷ lệ hợp lý của các thành phần ngoại và nội, không thiên lệch, tạo sự cân bằng âm dương. Sự cân bằng không phải là tình trạng 5/5, thông thường là 3/7 hay 4/6 thậm chí là 2/8 tùy theo trường hợp cụ thể, trong đó phần cho khách luôn chiếm tỷ lệ ít hơn. Khi có khách đến chơi nghỉ lại, gia chủ sẵn sàng nhường chỗ ngủ cho khách hoặc kê thêm giường chứ không làm riêng phòng để dự trù như một số ngôi nhà hiện đại sau này vừa lãng phí không gian (phạm vào ngũ hư) vừa dễ biến nhà mình thành… nhà trọ bất đắc dĩ. Tất nhiên những gia trang lớn thuở trước đều có làm hẳn dãy nhà cho khách nhưng đây không phải là mô hình phổ biến. Phòng khách là nơi bày biện sang trọng – Tính ổn định: Từ đặc thù cuộc sống định cư của dân làm nông nghiệp, gia chủ luôn xem trọng tình làng nghĩa xóm, quý mến khách viếng thăm, dành vị trí trang trọng cho khách (tất nhiên là vẫn phải sau chủ). Phòng khách (hay đúng hơn là khu vực tiếp khách) ngôi nhà xưa luôn là nơi bày biện trang trọng nhất. Nhưng đó không phải là kiểu bày biện khoe của, phô trương mà là sự trân trọng thông qua các thủ pháp như sử dụng đèn lồng, bình hoa, câu đối, bàn ghế có chạm khắc… . Không gian đệm – Tính tâm linh: Xem trọng yếu tố tín ngưỡng, truyền thống gia phong và đời sống tâm linh. Bàn tiếp khách đặt ở gian giữa, phía trước bàn thờ để khách luôn thấy sự trang trọng, không cười đùa bất nhã, những dịp giỗ lễ khách có thể xin phép gia chủ thắp nhang trên bàn thờ. Cũng vì quan niệm cho rằng khách đến có thể mang theo họa phúc khó lường từ bên ngoài tác động vào nhà nên bố cục ngôi nhà truyền thống luôn có không gian đệm (hàng hiên, bậc thềm, tiền sảnh) để giảm Trực Xung, rồi đến chỗ tiếp khách có bình phong che chắn tầm nhìn và ngăn luồng di chuyển xuyên vào nhà sau. Như vậy có thể thấy rằng, xuất phát từ lòng hiếu khách đi đôi với sự tôn trọng các giá trị riêng tư của gia đình mà cha ông ta luôn có một bố cục không gian khi phân ngôi khách- chủ vừa linh hoạt lại vừa ổn định, khách đến nhà thấy được vị thế cũng như phạm vi giới hạn của mình, không cần phải đóng cứng mà vẫn đạt được sự nghiêm ngặt trong sắp xếp không gian, tạo nên môi trường giao tiếp ấm cúng và có nề nếp. ... Và quan niệm đương đại Nhà nhỏ vẫn là "nhà" khi có đầy đủ bếp, kho, chỗ giặt... - khác hẳn phòng khách sạn Không gian ngôi nhà đương đại đang có những biến đổi mạnh mẽ. Yếu tố đối xứng, hệ trục, bao cảnh thiên nhiên… đang dần bị thay thế bởi những căn nhà ống, căn hộ chung cư hoặc biệt thự bị pha trộn nhiều hình thức kiến trúc khắp nơi. Nhưng với chủ thể phục vụ của ngôi nhà là con người thì dù trong không gian truyền thống hay hiện đại, sự phân chia không gian theo chính – phụ, chủ – khách vẫn còn nguyên những giá trị thiết thực và nêu ra không ít câu hỏi cho gia chủ và nhà chuyên môn về sự hài hòa về công năng và phong thủy. * Nhà ở hay công trình công cộng? Một trong những điểm khác biệt giữa nhà ở và các công trình công cộng là tính định cư lâu dài và sự riêng tư. Ngay cả những công trình gần với nhà ở như khách sạn, resort… thì quan niệm về sử dụng và bố trí vẫn có khác biệt cơ bản nêu trên, do đó nhiều người muốn xây nhà mình như “khách sạn 5 sao “hay nhà nghỉ cao cấp đều tự cảm thấy không phù hợp sau một thời gian sử dụng. Phòng ngủ ở khách sạn dù rộng rãi tiện nghi những chỉ là phòng chứ không là nhà vì thiếu tính định cư lâu dài như không có bếp núc, chỗ giặt phơi, kho chứa đồ… Ngược lại một ngôi nhà dù nhỏ như một căn phòng nhưng nếu có phần bếp núc ổn định, chỗ thờ cúng gia tiên… thì vẫn là nhà. Mô hình nhà riêng nhưng vẫn chung Trong ngôn tự cổ, Gia Trạch vừa có nghĩa là nhà vừa có nghĩa là tuyển chọn, lựa chọn nhà. Điều này muốn nói lên vai trò quyết định của gia chủ trong việc xem xét chỗ an cư cho mình và gia đình, chứ không chỉ là xem một bất động sản đơn thuần. Một số gia đình trẻ lựa chọn cách thức ra riêng sau một thời gian ở chung vì cảm thấy không thoải mái trong sinh hoạt thường ngày, các thế hệ có sự va chạm về sở thích, thói quen sinh hoạt và nhu cầu riêng tư. Thế nhưng, khi ra riêng đuợc tự do, bạn bè tụ tập triền miên, dễ dãi trong sinh hoạt thiếu sự quản lý của ông bà cha mẹ sẽ khiến nhiều “tổ ấm hiện đại” bị đảo lộn về sắp xếp. Vì thế, nếu điều kiện cho phép thì mô hình nhà ở nhiều căn hộ trong một ngôi nhà hoặc các dãy nhà riêng của con cái quây quần quanh một sân chung sẽ giúp dung hòa các vấn đề “ở xa mỏi chân ở gần mỏi miệng“. * Tôn trọng riêng tư chứ không sùng bái cá nhân Đưa không gian tiếp khách vào khu vực riêng Trong một số ngôi nhà hiện đại, đôi khi do tâm lý quá đề cao tính riêng tư khiến các bố trí rơi vào tình trạng mỗi người một ý, một sở thích, một sinh hoạt riêng khiến Trường Khí chung toàn nhà không còn thống nhất nữa. Ví dụ như làm chỗ tiếp khách riêng cho từng đứa con (ở trong hoặc ngoài các phòng ngủ) khiến nội thất thiếu sự ổn định và tĩnh tại, hoặc làm phòng ngủ khách (dự trù) rồi đóng cửa để đó. Việc “dành” nhiều chỗ cho khách đưa đến tình trạng không khí trong nhà luôn náo nhiệt, khó đảm bảo sự riêng tư. Do vậy một số gia chủ có giao tiếp nhiều nhưng vẫn muốn đảm bảo riêng tư thường chọn cách đưa không gian tiếp khách vào một khu vực biệt lập tùy theo điều kiện có thể, ví dụ như nhà phố có sân thì làm một chòi nhỏ để bạn bè hàn huyên hay biệt thự với một hàng hiên hở mở ra sân vườn làm khoảng tiếp khách. Các căn hộ chung cư nếu không khéo ngăn chia cũng gặp nhiều phiền toái: bước vào nhà đã thấy ngay bếp ăn, khách nhìn xuyên thấu bếp núc (lộ khẩu Táo) thông thống phòng ngủ cũng như phòng vệ sinh. Nên tránh sắp đặt theo kiểu bước vào nhà đã thấy ngay bếp, phòng vệ sinh Không thể đổ lỗi tình trạng này cho diện tích nhỏ bởi có rất nhiều căn hộ nhỏ dù gia chủ là người phương Tây hay Á Đông, giao tiếp nhiều hay hướng nội, nhưng đã biết phân chia khéo léo, giới hạn các khu vực khách - chủ để ngôi nhà thực sự là một tổ ấm, tiện nghi thoải mái và an toàn. Vẫn có thể bố trí một căn hộ nhỏ nhưng có sự phân định chủ khách khá rạch ròi, phòng khách được hướng tầm nhìn ra ban công có tiểu cảnh thiên nhiên, còn giữa bếp và khách có cửa trượt để ngăn tầm nhìn cũng như giảm khói mùi lan tỏa. Câu nói “thương người như thể thương thân” về mặt phong thủy có thể hiểu: trước tiên vẫn phải… thương thân trước rồi mới xét đến người, nhà mình mà không ổn thì lo được cho ai? Khách đến nhà chơi dù thế nào cũng chỉ là một thời gian nhất định, trong khi sinh hoạt của gia đình luôn cần tránh sự xáo trộn. Khoa học phong thủy không hề khuyến khích sự tôn sùng cá nhân, tư lợi bản thân mà chỉ muốn nhấn mạnh các yếu tố chính – phụ cần phải đảm bảo trong một ngôi nhà để tránh lẫn lộn giữa chốn an cư với một nơi sinh hoạt công cộng.
-
Lưu ý: Những bài trích dẫn từ các nguồn khác, chỉ là tài liệu tham khảo. Không phải quan điểm chính thức về học thuật của Phong Thủy Lạc Việt. Chuyện cũ ở “tây sương” Bài và Minh hoạ: Hoạ sĩ Lê Trí Dũng Nguồn: www.nhadep-magazine.com.vn Ông ngoại tôi tuổi Kỷ Sửu (1889). Tôi ẩn tuổi ông đúng một vòng hoa giáp. Ông lớn lên thời Nho mạt, quay sang học chữ Tây. Vào quãng những năm 1950-1951, cả nhà tôi di cư vào vùng tự do: tỉnh Thanh Hóa, huyện Thiệu Hóa, một vùng bán sơn địa. Về đây, ông ngoại tôi bất ngờ gặp lại người bạn cố tri thuở còn học chữ Hán: ông đồ Ba Xứ. Cụ chủ nhà trọng ông tôi nên nhường hẳn gian nhà mé tây. Và cũng chính dưới “tây sương” (mái nhà phía tây) này, trong một thời gian dài, ngày qua ngày ông tôi và ông đồ đàm đạo về thế sự. Nhưng cùng với thế sự, hai ông còn một đề tài sôi nổi khác, và thường là đối kháng: Phong Thủy. Như tôi đã nói ở trên, ông ngoại tôi theo Tây học, tin khoa học tân tiến, ghét những điều dị đoan. Vậy nên hễ cứ bàn đến Phong Thủy là hai cụ “chiến” liền. Tỷ như nói đến chọn đất làm nhà, ông đồ bảo: Trước cửa nhà không nên có cây to, án ngữ giao thông… Ông tôi bảo: “Nhưng cây to cho bóng mát”. Ông đồ bảo: “Phía tây nam nhà ở có ngã tư, đàn bà trong nhà ngoa ngoắt”. Ông tôi bảo: “Ngoa ngoắt là do tính khí con người, không liên quan gì đến ngã tư cả, với lại từ nhà ai đi mãi chả đến ngã•tư”. Ông đồ bảo: “Nếu cửa chính và cửa sổ hướng nam, nhất thiết phải có tấm che, nếu không sẽ cãi nhau suốt ngày”. Ông tôi bảo: “Cãi nhau và tấm che chẳng liên quan gì đến nhau cả”… Tôi biết ông ngoại tôi nói thế thôi, chứ khi ông đồ về rồi, ông tôi bảo: “Gọi ông ấy là Ba Xứ vì tài danh lẫy lừng ở Đông, Đoài, Bắc trước khi vào đến xứ Nam này. Chứ giỏi như ông ấy, phải gọi là ông đồ Mười Xứ thì mới đúng, nhưng tính ông ấy cực đoan, tự chỉ có mình là đúng. Không khích tướng như thế, ông ấy không chịu nói ra các tâm thuật của mình, thì ta còn học được cái gì?”… Một lần, cuộc “khẩu chiến” của hai ông lên đến đỉnh điểm khi ông đồ vừa tranh luận vừa bắt cái nậm rượu hỗ trợ mình. Theo ông đồ, xem hướng làm nhà chỉ xem cho đàn ông và là chủ nhà, và phải theo tuổi âm của người ấy mà tính… Ông ngoại tôi phản đối quyết liệt và cũng được sự hỗ trợ đắc lực của cái tẩu thuốc. Theo ông ngọai tôi, nhà cứ quay hướng nam là tốt nhất (vua chúa đời xưa vẫn làm thế). Với hướng nam, mặt trời trôi từ đông sang tây qua đầu ta, lại tránh được gió bắc có hại cho sức khỏe. Chính vì thế lúc ở Hà Nội ông mới mua nhà hướng chính nam, tại địa chỉ 20 Tô Hiến Thành, mặt tiền trông ra Bãi Thể Dục (gồm toàn bộ khu phố Mai Hắc Đế, Bà Triệu, Đoàn Trần Nghiệp bao quanh bây giờ) ngày ấy không có nhà, phía bên kia Bãi Thể Dục chỉ có nhà Diêm và sau nó là làng xóm, ao hồ… Ông đồ bấm đốt ngón tay, lẩm nhẩm một hồi rồi bảo: “Ông thì ở được, quẻ Tốn được Thiên y, cơm áo giời cho, nhưng thằng bé này (ông chỉ tôi) không ở được, phạm vào Tuyệt mạng”… Ông tôi ngắt lời: “Nó cũng Kỷ Sửu cả mà, phải giống tôi chứ…” - “Nhưng nó thuộc Nguyên khác…”, ông đồ cố công giải thích. (Mãi mấy chục năm sau tôi mới thấy ứng nghiệm, ở nhà đó tôi luôn có cảm giác “tạm thời” và rất hay bị trúng gió. Sau khi đi bộ đội là tôi xa nó luôn). Câu chuyện đi đến những lời ông đồ xúc phạm ông tôi, ông tôi phang lại luôn: “Cụ chỉ lòe thiên hạ để kiếm cơm, chứ nếu thuật Phong Thủy có thật, sao cụ không chọn một dương trạch thật tốt cho mình để bây giờ khỏi lang thang kiếm sống???…” Tức giận, ông “đồ Mười Xứ” bỏ về. Và không ngờ đó cũng là lần chia tay dài với ông cháu tôi. Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, từ vùng tự do, nhà tôi lại về phố Tô Hiến Thành sinh sống. Bãi Thể Dục không còn nữa, người ta đã xây nhà lên đó. Ông ngoại tôi vẫn dạy tôi học và còn tham gia công tác khu phố. Một hôm, ông dẫn về một người khách lạ, một cán bộ cách mạng, khách mặc bộ “đại cán”, chân mang dép cao su bốn quai, lưng khoác xà cột với chiếc mũ li-e cầm tay. Thoạt nhìn, tôi ngờ ngợ như đã gặp ở đâu rồi. “Ông đồ Ba Xứ đấy. Con không nhận ra à?” Phải! Làm sao mà tôi nhận ra chứ. Ông bây giờ hốc hác, phong trần đi rất nhiều so với ngày còn là thầy Phong Thủy. Bộ râu vàng không còn nữa nhưng lại thêm cặp kính trắng. Bây giờ ông đã là cán bộ của Sở Văn Hóa đặc trách phòng chống mê tín dị đoan. Khỏi phải nói nỗi hân hoan của đôi bạn già khi tái ngộ. Ông tôi nói: “Gớm, ông đi rồi, sau này tôi cứ ân hận mãi, tự bảo có lẽ tại mình mà bạn giận, bỏ đi…”. Nhưng ông đồ Ba Xứ bảo: “Không, tôi phải cám ơn ông mới phải. Không thế, sao có được ngày nay…”. Lúc chia tay, ông đồ mở xà cột, dúi vào tay ông tôi hai quyển sách: “Tôi tặng ông đấy, ông có thì giờ thì đọc chơi cho vui. Tôi bây giờ không được giữ nó nữa rồi…”. Tôi ngó ông – thấy trong đáy mắt chứa một nỗi buồn sâu kín, lại ngó xuống bàn: “Tướng Địa” và “Long Mạch” nằm đó. Bìa ố vàng, mép sách đã sờn cũ, mòn vẹt… Ông đồ đã đi rồi. Ông ngoại tôi cầm trên tay hai cuốn sách còn lẩm bẩm một mình: “Nói thế thôi, thời nào thì thời chứ. Tinh hoa của nhân loại vẫn phải bảo tồn và phát huy chứ… Miễn không mê tín là được.” Và ông tôi đã giữ lời. Suốt thời gian Mỹ ném bom miền Bắc và những năm bao cấp sau ngày giải phóng miền Nam, hai pho sách vẫn liền lưng với ông. Chỉ sau khi ông qua đời, nó mới chuyển vào tay tôi đến tận ngày nay.
-
Không biết Hà An đã chuyển khoản chưa mà Thủy Tiên vẫn chưa nhận được. Cũng xin thông báo về tình hình của chị Nga như sau: Chị đã được chuyển sang khoa nội tiêu hóa của bệnh viện Gia Định. Và chị nằm ở "Phòng bệnh nặng" Chân chị Nga đã bị phù trở lại (nhưng không có vấn đề về thận), sơ gan + báng bụng + tụt huyết áp và có vấn đề về đường tiêu hóa. Sau khi siêu âm tim thì phát hiện chị bị hở van tim, còn mức độ như thế nào thì khi Thủy Tiên xem lại và sẽ trình bày sau. Theo tình hình thì chị phải nằm viện điều trị thời gian khá dài. Cô Wildlavender và anh Quang chồng chị Nga đã nộp đơn xin miễn giảm ở bệnh viện do hoàn cảnh khó khăn. Cho nên ngoài việc gia đình phải đóng những khoản tiền cho giá thuốc cao (không được nhà nước tài trợ), còn lại thì bệnh viện vẫn điều trị và cho đến khi thanh toán tiền viện phí, kèm theo đơn xin miễn giảm thì gia đình sẽ thanh toán chi phí còn lại. Thủy Tiên cũng như Bác Thiên Sứ, Cô Wildlavender đã truyền tải thông tin về tình hình của chị Nga bằng nhiều hình thức, cũng chỉ với mong muốn chị Nga mau khỏi bệnh và trở về với cuộc sống bình thường. Dẫu biết rằng xã hội vẫn còn rất nhiều những hoàn cảnh khó khăn, nhưng hoàn cảnh trước mắt mà chúng ta thấy được đó là chị Nga. Cho nên Thủy Tiên cũng như Bác Thiên Sứ, Cô Wildlavender vẫn tha thiết kêu gọi những tấm lòng hảo tâm để cứu vớt một mảnh đời bất hạnh.
-
Con chuột trên bia đá đền Vua Đinh Chúng ta quen nghĩ những điều lớn lao, cao quý và bay bổng. Cho nên thường thường chỉ tới năm Tý, chúng ta mới có những bài viết về con chuột. Nếu có một công trình nghiên cứu đại loại như: Đồ án chuột trong lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt Nam, chúng ta chắc chắn rằng đó là một công trình rất “tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc”. Tiên tiến vì hẳn đó là một công trình nghiên cứu khoa học đã lựa chọn một đối tượng nghiên cứu nhỏ nhưng có sức công phá lớn. Trong một hướng nghiên cứu Hậu hiện đại, người ta đi tìm các đối tượng vốn thứ yếu, đơn lẻ, phản diện, ngoại vi, ngoại lai, phi chính thống... để nghiên cứu. Nói đậm đà bản sắc dân tộc vì trong lịch sử nghệ thuật của người Việt, chuột đã thực sự leo vào những vị trí trang trọng nhất. Trong bài viết này, tôi xin đề cập tới hình tượng con chuột trên bia đá Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế công đức tằng tu điện miếu bia ký đền vua Đinh. Bia Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế công đức tằng tu điện miếu bia ký là chiếc bia đá có kích thước lớn nhất đền vua Đinh. Trong nhà bia đền vua Đinh hiện còn ba chiếc bia khắc vào ba thời điểm Hoằng Định thứ 9 (năm 1608), Chính Hòa thứ 17 (1696) và cuối cùng là bia Thiệu Trị thứ 3 (1843). Bia không có rùa đội bia như chiếc bia khắc năm Hoằng Định thứ 9, và cũng không có hình lưỡng long chầu nhật trên trán bia. Trên đế chiếc bia hình hai con chuột khắc nổi đang quay đầu vào con cua nằm chính giữa. Không phải là lưỡng chuột chầu cua mà lộ rõ dáng vẻ rình rập của hai con chuột đồng béo núc đang chuẩn bị lao vào xơi tái chú cua. Phía khuất sau mặt trái của tấm bia, cũng dưới phần chân đế có hình một con rồng đang nằm dài thượt, ẩn mình trong bóng tối buồn bã (minh họa). Những con chuột con cua đá đen bóng, két bùn đất thực đến nỗi có thể lầm tưởng như mới vừa lội từ bùn lên. Cũng tưởng như tấm bia vừa khắc chữ xong đem đặt ngoài ruộng, thoắt một cái đám cua, chuột, tôm cá đã chui vào hóa đá để sống một kiếp sống thường hằng của nghệ thuật. Nhìn cao hơn một chút, ở hai bên diềm bia phía dưới là gia đình nhà khỉ đang âu yếm nhau. Tôi dám chắc đó là hình ảnh về một gia đình nhà khỉ thuộc loại đẹp nhất trong nghệ thuật chạm khắc của người Việt. Trán bia là đôi phượng đục thô tới mức nếu không nhìn kỹ vào phần đuôi ta lầm tưởng là một con ngỗng! Đúng là rồng chẳng đáng mặt rồng, phượng không ra dáng phượng. Nhưng đó là sự cố ý, vì tới cuối thế kỷ 17, những đồ án rồng phượng đã chín nẫu rồi, và hơn nữa, ở quần thể khu di tích đền vua Đinh vua Lê có 3 tấm bia đá làm thời Hoằng Định có những hình rồng khá uy phong và được khắc chạm rất chuẩn mực. Rồi đến những cặp rồng đá chầu hai bên sập đá cũng rất uy nghi. Vậy đồ án cua chuột ở đây có ẩn ý gì? Những bối cảnh lịch sử nào đã thôi thúc người xưa tạc lên đây những câu chuyện hóm hỉnh đến vậy ? Chiếc bia khắc năm Chính Hòa thứ 17 (1696) là do một tiến sỹ họ Nguyễn, từng giữ chức Hàn lâm đã về hưu soạn. Người viết chữ Hán là Truy lưu Trần Đạo Từ, chân nhân trụ trì chùa Kim Cương (Kim Cuơng là ngôi chùa cổ đá mất chỉ còn dấu tích trên núi Thiên Long, Hoa Lư, Ninh Bình). Một ông quan đã về hưu, một vị nhân sĩ đã xuất gia soạn và viết ra cho phỏng đoán việc trùng tu thời Chính Hòa này là tâm nguyện của dân xã Trường Yên hơn là do sự thôi thúc của vương triều. Mặt sau của tấm bia Chính Hòa cũng ghi danh tính của người thợ đá tài hoa, tên là Lê Nhân Phúc quê ở xã An Hoạch, huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa. Đúng là tam tuyệt chi tài. Lời văn hay có người viết chữ đẹp lại được bàn tay người thợ khắc tài hoa. Trong quần thể di tích đền vua Đinh vua Lê thì đây là chiếc bia đầu tiên ghi đầy đủ danh tính cả người soạn bia, viết chữ và khắc bia. Chiếc bia Trùng tu tạo tác thánh tượng Lê Đại Hành hoàng đế bi ký tịnh minh có ghi tượng làm tại Thạch Thành, Thanh Hóa nhưng không ghi rõ tên tuổi người làm. Thời thế đã có những đổi thay. Chính giữa diềm bia phía dưới có khắc hình cá hóa rồng. Đồ án cá hóa rồng dù ở Trung Quốc hay Việt Nam cũng mang âm hưởng dân gian. Một ước mơ ngày kia được thành thiên tử của những người dân quê đã âm thầm len lỏi vào rất nhiều các đồ án chạm khắc từ đình làng cho đến đền miếu. Ước mơ này có gì là quá xa vời, khi mà dòng dõi chúa Trịnh cũng chỉ là anh trai cày thủa hàn vi còn phải đi ăn trộm gà hàng xóm. Con chuột dẫu tả rất hiện thực nhưng trong ngữ cảnh của tổng thể đồ án đã dẫn dắt chúng ta tới những liên tưởng về cuộc tranh chấp quyền lực khốc liệt suốt thế kỷ 17 của hai dòng họ Trịnh - Nguyễn dẫn đến 7 cuộc nội chiến. Tuy mang danh một lòng thờ phụng vua Lê, nhưng các ông vua bị vô hiệu hóa trở thành một thứ bù nhìn. Bia được khắc vào thời Chính Hòa (1681-1705) mà theo sử viết là thời đại yên bình thịnh trị nhất của thời đại Lê Trung. Hưng chính vì hai thế lực Trịnh Nguyễn sau bẩy lần chinh chiến bất phân thắng bại (từ sau năm 1672) đã tạm hòa hoãn lấy sông Gianh làm giới tuyến. Còn dư đảng cuối cùng của nhà Mạc tới năm 1688 cũng đã bị dẹp bỏ. Sự hiện diện của con chuột trên bia đá ở đền vua Đinh là chuyện hi hữu trong lịch sử nghệ thuật tạc bia người Việt. Nhưng đặt trong dòng chảy của nghệ thuật, giai đoạn thời Chính Hòa, chúng ta thấy nó giống như những dòng nước khi chạm vào những mạch đá ngầm bất chợt tung bọt lên trắng xóa. Một cảnh tượng phá bỏ sự âm thầm tẻ nhạt của dòng chảy lịch sử nghệ thuật. Cách đền vua Đinh không xa, trên lối vào khu di tích ở ngã ba Thiên Tôn, tôi và họa sỹ Đức Hòa đã phát hiện ra một chiếc bia đá vào niên hiệu Chính Hòa thứ 21 (1700) có khắc hình một cô gái khỏa thân đứng dưới cành hoa. Lịch sử nghệ thuật Việt Nam có những ví dụ mẫu mực về sức sống của những cảm hứng dân gian, được ươm trồng từ mảnh đất văn hóa làng xã. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đỗ Cung từng đánh giá cao sự bừng tỉnh của nghệ thuật dân gian thời chúa Trịnh Căn (cũng là thời vua Lê Hy Tông) như là sự tiếp nối cuối cùng của nghệ thuật nhà Mạc. T.H.Y.T Theo www.vietnamfineart.com.vn
-
Xung quanh chiếc bàn xoay kỳ bí ở Nha Trang Dư luận tại thành phố Nha Trang đang xôn xao về việc lần đầu tiên xuất hiện chiếc bàn có tính năng kỳ lạ: Biết làm theo tiếng người (?). Để tìm hiểu thực hư hiện tượng kỳ bí này, chúng tôi đã tìm đến nhà chủ sở hữu chiếc bàn kỳ bí. http://www.baovanhoa.vn/Controls/ThumbnailSizeOrigin.aspx?swidth=200&sheight=0&imageurl=upload/20080911/ban.jpg Mặt bàn đặt trên bàn nhựa nhưng vẫn xoay. Anh Nguyễn Quang Minh, hiện đang công tác cho hãng xe du lịch Vĩnh Tuấn –Nha Trang, cư ngụ tại 11 Đồng Nai, Nha Trang, cho biết: “Tôi tình cờ mua lại chiếc bàn này từ một người quen ở huyện Diên Khánh. Khi đem về nhà, vợ tôi nói sang trái nó quay sang trái, bảo sang phải nó quay sang phải, kêu dừng lại tự khắc nó dừng ngay. Nửa tin, nửa ngờ về hiện tượng kỳ lạ này, tôi đặt tay lên bàn và thử ra lệnh nhưng chiếc bàn lại không xoay, nhưng khi vợ tôi chạm vào thì tức khắc nó quay ngay. Những người khách chứng kiến hiếu kỳ cũng lần lượt thử chạm tay lên bàn và ra lệnh, nhưng chỉ có 65% số người là chiếc bàn “nghe theo lệnh”. Chị Nguyễn Thị Anh, hàng xóm của anh Minh cho biết: “Lần đầu tiên tôi được chứng kiến tận mắt chiếc bàn kỳ lạ này. Khi tôi đặt tay lên bàn và ra lệnh, trong tích tắc chiếc bàn tự xoay mà không hề có lực tác động bên ngoài. Tôi nghĩ có thể trong cơ thể con người phát ra một điện từ nào đó tác động vào chiếc bàn thông qua bàn tay và chiếc bàn được làm từ một loại gỗ đặc biệt có thể hút điện từ người sang và tạo thành một lực tác động khiến chiếc bàn xoay. Nhưng điều đặc biệt và khó giải thích là chiếc bàn lại có thể làm theo tiếng người và xoay đúng hướng khi được ra lệnh. Thậm chí nói bằng ý nghĩ nó cũng xoay. Còn anh Huỳnh Tấn Minh, thường trú tại hẻm 124 Lê Hồng Phong cho rằng: Đây có thể là hiện tượng kỳ bí nhưng không liên quan về vấn đề tâm linh. Bản thân tôi lúc đầu chạm vào chiếc bàn này nó không xoay nhưng khi tập trung ý nghĩ và có lòng tin thì điều khiển được chiếc bàn. Đến chứng kiến và cũng thử chiếc bàn xoay có anh Tâm hiện là nhân viên Cty Du lịch Lửa Việt và anh Hồng, nhân viên Cty Du lịch Sai Gon tour: Để khẳng định tính năng kỳ lạ của chiếc bàn, anh Minh đã tháo rời mặt bàn ra khỏi chân, mặt bàn đặt xuống bàn nhựa và mời mọi người thử thì thấy mặt bàn cũng xoay nhưng tốc độ chậm hơn khi đặt trên chân bàn. Rồi đặt xuống đất, mặt bàn cũng xoay. Thậm chí có người nói bằng tiếng Anh, Pháp, Campuchia, Trung Quốc và Nga, chiếc bàn cũng quay. Tiếp cận và quan sát từng chi tiết của chiếc bàn cổ này, thoạt nhìn thì cũng không khác gì với những chiếc bàn gỗ bình thường khác nhưng có điều nó được chạm trổ họa tiết rất tỉ mỉ, công phu và được đóng bằng loại gỗ rất tốt. Mặt bàn có đường kính khoảng 85cm (gồm 2 mảnh ghép lại) ước lượng khoảng gần 20 kg. Phía sau của bàn có một ổ tròn xung quanh có 8 khúc gỗ tiện kiểu cách đỡ một miếng gỗ hình vuông. Giữa mặt gỗ hình vuông có một ổ tròn nhỏ đứng thẳng phía tâm bàn. Mặt bàn có thể tháo rời hoặc ghép lại với thân bàn. Thân bàn được thiết kế như hình quả bầu, còn chân đế làm theo kiểu kiềng ba chân. Theo những tài liệu thu thập, được biết những chiếc bàn xoay kỳ bí được các nghệ nhân làng mộc Văn Hà (làng mộc nổi tiếng ở xã Tam Thành, Tam Kỳ, Quảng Nam sản xuất. Hiện làng mộc Văn Hà chỉ còn sót lại nghệ nhân cuối cùng là ông Đinh Thẩm, đã qua tuổi bát tuần. Từ 200 năm trước làng mộc Văn Hà đã cho ra đời chiếc bàn xoay này. Nhưng lúc đầu “cha đẻ” của những chiếc bàn này không biết chúng có tính năng tự xoay. Tình cờ, sau đó phát hiện được và người dân cảm thấy thú vị tiếp tục đặt thợ Văn Hà đóng bàn.Và thế là bàn xoay được “thăng hoa”. Hiện nay, những chiếc bàn xoay kỳ bí hiện đang lưu lạc khắp trong và ngoài nước. Thiết nghĩ, các nhà khoa học cũng như các cơ quan chức năng cần sớm nghiên cứu thẩm định và nếu đúng thì cần có kế hoạch bảo tồn. Nam Khánh Nguồn: www.baovanhoa.vn
-
Theo tục lệ, ngày giỗ là "chung thân chi tang" có nghĩa là ngày tang trong suốt cả đời người. Mỗi năm vào đúng vào ngày chết của một người là một lần giỗ cho nên người xưa thường quan trọng ngày cúng giỗ ông bà cha mẹ. Những gia đình sung túc thường làm lễ cúng tiên thường vào ngày hôm trước để yết cáo tổ tiên và cáo tri người được làm giỗ. Lễ cúng này vào buổi chiều. Nhiều nhà có hương hỏa, lợi nhuận hay kỵ để làm giỗ thì anh em bà con thân thích đến cúng tiên thường xong, đêm ở lại chầu chực gia tiên để qua ngày hôm sau làm lễ bái chính giỗ. Lệ thường người ta làm giỗ lớn với bậc sinh thành, rồi mỗi đời trở lên được làm kém đi. Chẳng hạn như giỗ các cụ, kỵ xa đời cùng là những người thân thuộc nhưng không quan trọng về huyết thống trong gia đình như chú bác, cô dì không có con cháu giỗ quảy mà mình phải thay thế thì làm giỗ đơn giản, không có mời khách khứa gọi là "giỗ giúi". Theo tục lệ, cho dầu làm tiệc lớn mấy đi chăng nữa, bữa cúng cũng phải có chén cơm xới đầy có ngọn, úp lồng một cái chén khác lên trên gọi là chén cơm lồng cùng trứng gà luộc đã bóc vỏ dẹt ra trên đĩa với một ít hột muối. Vì thế mới có tên cúng giỗ là "cúng cơm". Những khách khứa cùng bà con thân thích, trước khi ngồi vào bàn, ván ăn giỗ phải làm lễ dâng cúng với những lễ vật mình đem tới và lạy trước bàn thờ xong đã. Trên bàn thờ đèn nhang đã được thắp từ trước khi các thức ăn được bày lên. Gia trưởng phục sức chỉnh tề, có khi mặc áo thụng, chú trọng xem xét và rà soát lại các lễ vật có đầy đủ rồi mới bước vào chiếc chiếu trải trước bàn thờ, lễ bốn lạy, quỳ xuống, hai tay chắp lại vòng ngang trán. Một trong hai người chấp sự, thường là em hay con cháu gia trưởng, đứng hai bên bàn thờ, lấy ba nén hương châm lửa thắp, đưa cho gia trưởng vái một vái dài rồi trao lại đem cắm lên bát hương. Người chấp sự thứ hai mở nút bình rượu, rót rượu lên ba chén để trên đài, xong đâu vào đó rồi gia trưởng làm lễ khấn. Lời khấn có những đặc điểm sau: 1. Cáo tri địa điểm hành lễ, từ nước trở xuống xã thôn. 2. Nói rõ con cháu, liên hệ gia đình làm lễ cúng với các món cỗ bàn, dâng lên hương hồn ai có tên gì, từ trần ngày tháng năm, chôn ở đâu. 3. Mời người có tên giỗ về hưởng, chứng tri lòng thành và phù hộ cho con cháu được mọi sự tốt lành. 4. Cũng mời tất cả các vị tổ, đọc rõ tên, cùng thân thuộc nội ngoại đã quá vãng cùng về hưởng lễ cúng. Khấn xong, gia trưởng cúi xuống, lễ nốt một nữa lạy nữa rồi đứng lên vái ba vái rồi lùi ra. Tiếp sau đó là những người trong họ tộc, theo thứ tự quan trọng và hạng bậc vào làm lễ với bốn lạy ba vái. Nếu là lễ tế, thì theo tục lệ tế lễ thần thánh, tế tổ tiên... có ghi các nghi tiết được sắp xếp một cách quy củ trang trọng. Trước bàn thờ chính có trải bốn chiếc chiếu. Hai bên chiếu trải, bên phải bàn thờ có án để rượu và đèn nến, bên trái có án để đài rượu và khay trà. Nghi tiết đầy đủ thường được áp dụng trong một cuộc tế lớn trong làng xã hay gia đình Phật giáo và Khổng giáo gồm có các thủ tục đại cương, ghi theo thứ tự tờ xướng lễ như sau: 1. Hành Tế Thánh đại lễ, chấp sự giả các tư kỳ sự (Bắt đầu tế Thánh, các vị chấp sự phải liệu việc của mình). 2. Khơi chung cổ (Đánh chuông trống thường là ba hồi). 3. Nhạc công tấu nhạc (phường bát âm cử nhạc). 4. Thuế cân, nghệ quán tẩy sơ (Các vị dự tế rửa tẩy, lau tay). 5. Chánh tế viên tựu vị (Vị chánh tế vào đứng ở chiếu thứ ba). 6. Bồi tế viên tựu vị (Các vị bồi tế vào đứng ở chiếu thư tư). 7. Cử soát tế vật (Hai người chấp sự cầm đèn đưa cho vị chánh tế đi kiểm soát các lễ vật coi như có sơ suất không). 8. Tham thần cúc cung bái (Chủ tế và bồi tế cùng lạy bốn lạy nhịp xướng theo nhịp xướng của người xướng tế: hưng là đứng dậy, bái là lạy theo lối phủ phục toàn thân). 9. Hành sơ hiến lễ. Chánh tế viên nghệ hương án tiền (Làm lễ sơ hiến, vị chánh tế bước ra ngoài, vòng lên chiếu thứ nhất trước hương án). 10. Quỵ (Vị chánh tế quỳ xuống). 11. Tiến tước (Hai chấp sự đem rượu đến quỳ cạnh chủ tế cho chủ tế rót. Chủ tế vái rồi đưa cho chấp sự để lên bàn thờ). 12. Phủ phục, hưng bái (Chủ tế khấu đầu, lạy hai lạy). 13. Bình thân, phục vị (Chủ tế đi ra, vòng xuống đứng lại ở chiếu thứ ba). 14. Nghệ độc chúc sở tại hương án tiền (Chủ tế bước lên chiếu thứ nhất). 15. Quỵ (Chủ tế quỳ xuống). 16. Chuyển chúc (Hai chấp sự lên bàn thờ đem chúc xuống quỳ bên cạnh chánh tế). 17. Tuyên đọc (Người đọc chúc quỳ bên cạnh tuyên đọc). 18. Phủ phục, hưng bái (Chủ tế khấu đầu lạy hai lạy). 19. Bình thân, phục vị (Chủ tế về chỗ cũ). 20. Hành Á hiến lễ nghệ hương án tiền (Dâng rượu lần thứ hai như lần sơ hiến). 21. Phủ phục, hưng bái (Khấu đầu lạy hai lạy). 22. Bình thân, phục vị (Chủ tế về chỗ cũ). 23. Hành Chung hiến lễ nghệ hương án tiền (Dâng rượu lần thứ ba). 24. Bình thân, phục vị (Chủ tế về chỗ cũ). 25. Nghệ tộ sở (Chủ tế lên chiếu lần thứ hai chờ lễ tộ sở). 26. Quỵ (Chủ tế quỳ xuống). 27. Tứ phúc tộ (Chấp sự lên bàn thờ lấy khay rượu thịt được thần hay gia tiên ban cho chủ tế). 28. Thụ tộ (Chấp sự đưa khay cho chủ tế. Chủ tế đón nhận, uống một hớp rượu tượng trưng). Khay rượu thịt cho chủ tế mang về sau khi tế xong. 29. Phủ phục, hưng bái (Khấu đầu lạy hai lạy). 30. Bình thân, phục vị (Chủ tế về chỗ cũ). 31. Bình thân điển trà (Chấp sự dâng trà lên bàn thờ). 32. Hành tạ lễ cúc cung bái: (Chủ tế và bồi tế tạ bốn lễ). 33. Bình thân phần chúc (Chủ tế và bồi tế đứng lui ra để người chấp sự đốt sớ). 34. Lễ tất (Xong lễ, mỗi người vái ba vái). Trong lễ này có mấy điều chú ý như sau: - Khi chủ tế di chuyển đổi chỗ trên các chiếu, từ chiếu dưới lên chiếu trên thì phải bước ra khỏi chiếu rồi bước lên về phía bên phải của mình, và khi trở xuống cũng bước ra khỏi chiếu trở về phía bên trái của mình tức là bên phải của bàn thờ. - Hai người bồi tế ngoài nhiệm vụ phụ giúp chủ tế trong việc hành lễ còn có nhiệm vụ thay thế người chủ tế nếu người này vì bất cứ lý do gì không hành lễ được. - Khi đốt sớ, mọi người dự tế đều phải đứng quay mặt và ngó vào chỗ đốt sớ.
-
Ngoài những ngày giỗ kỵ, còn gọi là "Húy nhật", trong một năm có nhiều lễ, theo thời tiết, gọi là "lễ tiết" áp dụng chung cho mọi nhà như là: - Ba ngày Tết Nguyên Đán. - Lễ Thanh Minh hay còn gọi là lễ mộ, lễ dẫy mả (thường ở tháng ba âm lịch). - Đoan Ngọ (mồng 5 tháng 5). - Trung Nguyên, còn gọi là Lễ Vu lan, mùa Vu lan, mùa báo hiếu (vào ngày rằm tháng 7 âm lịch). Ngày nay, người ta coi suốt tháng 7 âm lịch là "mùa" để thể hiện việc báo hiếu qua các nghi thức cúng kiến lễ bái, đi chùa... - Trung Thu (rằm tháng 8). - Gạo mới (tùy theo đồng chiêm tháng tư, đầu mùa tháng 8). - Đầu mùa bánh trái. - Việc hiếu hỉ (trong các lễ hỏi, cưới). - Cuối năm còn có chạp ông bà và lễ Tất niên (vào ngày 12 tháng chạp và Tất niên vào ngày 25 tháng chạp, gọi là lễ đưa ông bà). Ngày xưa, ngoài những nhà nghèo khổ quá thì phải đành, những nhà đủ ăn hay tạm đủ ăn trở lên cũng luôn luôn giữ một mực nền nếp cúng ông bà, đủ mọi lễ trong bốn mùa một năm. Thông thường, người xưa cúng lễ vật như sau: 1. Dâng cúng nhân dịp đầu mùa: Bánh trôi nước, bánh chay, dưa hấu, vải, nhãn, mãng cầu (na), cốm, hồng, cơm gạo mới với chim ngói... 2. Ngày rằm mỗi tháng: Tùy theo gia đình, hoặc là thắp nhang không thôi, chẳng có lễ vật, hoặc là dâng cúng bánh trái, hoặc là trà, trầu, rượu. 3. Những trường hợp bất thường như: - Nhà có việc vui mừng như sinh con, cưới gả, mừng thọ, thi đậu, khao vọng (Ngày nay, kể cả việc trúng số hay là làm ăn thành đạt lớn, được lợi nhuận vào không lường trước). - Gia đình có tang ma cùng với những giai đoạn làm ăn khó khăn, gặp lúc hoạn nạn, thất bại, vấp ngã trên đường đời và tạo dựng sự nghiệp. - Đi công vụ hay đi xa, đi thi cử hay từ xa mới trở về. Ngày nay có thêm việc mở cửa hàng kinh doanh... Trong những trường hợp này, người ta thường làm lễ cáo yết ông bà để tạ ơn hay cầu xin ông bà phù hộ che chở. Ngày xưa, người xưa thường cúng đầu heo, gà luộc, đĩa xôi hoặc hoa trái, và đơn giản hơn nửa là trầu rượu. Trong bất cứ lễ mặn hay lễ chay gì cũng có trầu rượu. Ngày nay, làm lớn thì có tiệc cúng kiến, đơn giản thì thường bánh trái. Cúng lễ trọng thể nhất là vào ba ngày Tết và ngày giỗ. Ngày nay có nhiều nhà thêm ngày Vu lan, mùa báo hiếu. Nguồn: www.vietshare.com
-
Hiếu thảo là đặc tính luân lý của người Việt Nam. Mọi người đều bày tỏ lòng hiếu thảo của mình hằng ngày qua hành vi và tưởng nghĩ. Những người con cháu có hiếu thảo với ông bà cha mẹ đều chú tâm phụng dưỡng lúc còn sống, trong tuổi già và nhớ chừng lo cúng giỗ khi các người đã lần lượt qua đời. Lòng hiếu thảo không căn cứ nơi giá trị của vật chất hay số lượng của thức uống miếng ăn mà đặt trên nền tảng của lòng tưởng nhớ hàng ngày, sự chăm lo chăm sóc hằng bữa nơi con cháu. Phan Kế Bính trong Việt Nam Phong Tục đã viết: "Ta đọc sách Thánh hiền, lấy sự hiếu với cha mẹ là mối luân thường rất lớn, làm đầu trăm nết hay của người. Mà nhất là ta hay lấy chuyện Nhị Thập Tứ Hiếu làm phương châm cho đạo làm con". Hiếu là biết kính trọng thương mến cha mẹ, biết vâng lời cha mẹ, biết phụng dưỡng cha mẹ. Tục thường cho khi cha mẹ còn không nên đi xa, sợ không được thừa hoan ở dưới gối cha mẹ. Cho nên nhiều người phải bỏ đi làm quan xa, hoặc phải đi làm ăn xa xôi thì thường hay từ rằng ở nhà còn chút cha già hay mẹ già. Nhà nào cha mẹ mạnh khỏe, giàu có thì thường ở riêng một mình. Người nào già yếu hoặc không có của thì mới ở với con. Con có thì của ngon vật lạ, cơm dâng nước tiến, nhà nghèo cũng biết lưng cơm lành bát canh ngon để phụng dưỡng cha mẹ. Cũng nhiều người ăn riêng ở riêng, cứ tháng đưa tiền cung dưỡng. Hoặc ở xa xôi cách biệt đôi khi gởi đồng quà tấm bánh về dâng cha mẹ...Nết hiếu vẫn là nết đầu trong luân lý của người ta, nếu cha mẹ là người rất thân mà cư xử đã chẳng ra gì thì ra đến xã hội còn tử tế với ai được nữa. Tuy vậy, hiếu với cha mẹ, chỉ cốt giữ được lòng kính mến là đủ, tưởng không cần phải giữ lễ phép tỉ mỉ nhỏ nhặt từng tí làm gì. Quý hồ phụng dưỡng đâu có đấy đừng để cho cha mẹ phiền lòng. Mình mong cho cha mẹ vẻ vang thì mình lại càng phải nghĩ cách mà lập thân mình. Hoặc học được khoa gì, hoặc làm được một sự nghiệp gì, để có ích cho xã hội mới là làm cho cha mẹ được vẻ vang. Trong cách lối phụng dưỡng cha mẹ già ngày xưa có việc mừng sinh nhật và ăn mừng thượng thọ. Việc mừng sinh nhật và thượng thọ cho cha mẹ chỉ thể hiện trong những gia đình lớn khá giả. Trong ngày sinh nhật của cha hoặc mẹ, con cái làm tế lễ cha mẹ, rồi bày ra một tiệc ăn mừng có mời những người thân thích đến tham dự. Những gia đình nào có cha mẹ già đến bảy, tám mươi tuổi, mà nhà sung túc về tiền của lẫn con cháu, thì làm lễ mừng thọ cho cha mẹ gọi là lễ "Thượng thọ". Lễ thượng thọ có thể bắt đầu từ:- Lúc 60 tuổi, gọi là thượng thọ lục tuần. - Lúc 70 tuổi, gọi là thượng thọ thất tuần. - Lúc 80 tuổi, gọi là thượng thọ bát tuần. - Lúc 90 tuổi, gọi là thượng thọ cửu tuần. - Lúc 100 tuổi, ăn mừng lớn: bách tuế hay bách niên chi lão. Hôm ăn mừng, trước hết người ta làm lễ gà xôi, hoặc tam sinh, hoặc heo bò, đem ra đình lễ thần, gọi là bái tạ thần hưu, có nghĩa là tạ ơn thánh thần đã phù hộ cho cha mẹ sống lâu. Đến lúc lễ, cha hoặc mẹ ăn mặc đẹp ngồi trên ghế đặt chính gian giữa cho con cháu theo thứ tự lễ bái lạy. Con cháu mỗi người dâng chén rượu mừng thọ, hoặc là dâng quả đào, gọi là bàn đào chúc thọ việc này do điển tích bà Tây Vương Mẫu ngày xưa hiến vua Hán Vũ Đế mấy quả đào tiên, có nói rằng ăn quả đào ấy thì được trường thọ. Ngày nay, những gia đình khá giả cũng có con cháu tổ chức mừng thượng thọ cho cha mẹ. Hình thức có thay đổi ít nhiều, nhưng thường là con cháu mua nhiều tặng vật mừng cha mẹ, gọi là đồ dưỡng già như là mền, áo ấm v.v... và tổ chức tiệc ăn mừng trọng thể tại nhà hàng hoặc tại nhà có mời đông đảo những thân bằng quyến thuộc của gia đình đến dự. Ngày xưa, sau khi con cháu làm lễ bái xong, tiệc ăn mừng có mời làng nước đến dự, có nhà ăn mừng đôi ba ngày, cũng có trường hợp tiệc kéo dài đến năm bảy ngày. Khách khứa đem đồ lễ vật đến mừng thọ, cũng như mọi việc ăn mừng khác. Phan Kế Bính có quan điểm như sau: "Mừng thọ và mừng sinh nhật của cha mẹ cũng là một việc để tỏ lòng kính yêu cha mẹ là việc rất hay, người không có thì chẳng kể gì, nhưng giàu có thì nên lắm, có lẽ hơn là làm giỗ ngày húy nhật. Ta không mấy nhà theo lễ ấy mà chỉ phù hoa sau khi cha mẹ đã mất rồi, thực là một việc sai lầm."
-
Phần nhiều nhà thờ gia tiên có cỗ ỷ để trong cùng. Ỷ là cái ghế ngồi là ý tượng trưng cho sự hiện diện của người đã khuất. Ỷ và khám, nhà thường dân cũng như các đồ thờ khác không được chọn vẽ rồng hay tứ linh, mà chỉ chạm vẽ hình tượng của các con vật ấy. Bàn thờ kê ỷ và bài cỗ cúng cũng không được sơn son mà chỉ sơn thăng hay cách gián thếp chỉ bạc, trừ hương án cao ở mặt tiền được sơn son thếp bạc thếp vàng. Những gia đình sang trọng giàu có thì đồ thờ bày choán hết gian giữa, trong cùng là bàn cao chừng một thước hai mươi phân trên để khám gian, không thờ thần chủ thì trong khám có để một cỗ ỷ, trên bệ khám phía cánh cửa khám để bao đựng bằng sắc của tiền nhân. Phía trước kê một sập tôn cao chừng 75 phân (cao hơn sập ngồi thường), trên mặt sập phía trong để một cái khay lớn chân cao với ba đài rượu, gọi là khay đài, phía trước để hai mâm xà mặt (80 x 60 phân), một mâm để bày cỗ(đồ mặn) một mâm để xôi chè (đồ ngọt). Trên mặt sập hai góc ngoài để hai bình sứ cao 60, 70 phân, cắm hoa. Bên ngoài cùng là chiếc hương án cao gần ngang vai, ngắn hơn sập, đứng ngoài trông thấy rõ cả hai bình sứ. Trên giữa hương án là bát hương công đồng, phía sau là chiếc mâm đồng để bày ngũ quả hoặc chiếc tam sơn để nước và hoa. Hai bên bát hương là hai chiếc đài lớn để cơi trầu và mân rượu.Phía ngoài đàng trước để bộ đồ tam sự hay ngũ sự, hay thất sự bằng đồng. Tam sự là một cái đỉnh và hai cây cắm nến. Ngũ sự thì thêm hai cây để dĩa dầu thắp đèn. Thất sự thì thêm một ống hạp hương để đựng trầm với một ống cắm đôi đũa và một dụng cụ bằng đồng để đốt trầm. Hai cây đèn bộ đồ thất sự để hai góc trong và trên hương án. Mấy người ở tỉnh thành gần gũi người Trung Hoa cũng dùng ngũ sự bằng thiếc của "các chú" khác hẳn đồ thờ của ta. Hai ống cắm hương không còn chỗ trên hương án, được đặt trên mặt sập tôn hai bên khay đài. Nhà bình thường không giàu có thì không có sập tôn, chẫn hương án sơn thếp lộng lẫy, chỉ một bàn thờ ở trong trên để cỗ ỷ, bên ngoài là chiếc án sơ sài cao hơn, với bát hương như thường lệ, với đài rượu, cây đèn, cây nến, ống hương, đều bằng gỗ tiện và sơn son. Những đồ thờ lặt vặt này cũng bằng gỗ mít do thợ tiện làm ra bán. Ỷ khám, bao sắc, khay đài, mâm xà, sập tôn, hương án, hoành phi, câu đối đều làm bằng gỗ vàng tâm. Hai thứ gỗ mít và vàng tâm thích hợp với sơn ta là một thứ nhựa được trồng nhiều ở miền đồi núi Phú Thọ, Hưng Hóa, Tuyên Quang đất Bắc. Gỗ mít được cây lớn mấy cũng không đủ cho việc bề dài, vì thường cong queo, cho nên chỉ dùng làm đồ tiện và tạc tượng bằng nhiều mảnh chắp lại.Nhà nghèo không thể sắm được chiếc bàn bằng gỗ để thờ, thì cũng đóng một cái chõng lớn bằng tre cao ngay ngực, trên mặt là ngăn tre kên, trải chiếu, bình dân quen gọi là giường thờ. Bát hương đặt trên một cái khay mộc mạc với ba chiếc chén mỏng để cúng rượu, khá hơn thì có một cái mâm xà sơn then hay để mộc không sơn, đôn cao bát hương có vẻ tôn kính hơn, với ba chiếc đài rượu để phía trước bát hương. Trên giường thờ bao giờ cũng có một cây đèn bằng sành để dĩa đựng dầu thắp nếu chẳng sắm được đôi đèn cây bằng gỗ tiện sơn phết chiếu lệ. Ống hương thì hoặc có hoặc không. Tuy vậy, mọi người trong gia đình nghèo khổ mấy sớm tối ra vào cũng thường suy tư, không bao giờ xao lãng việc thờ cúng. Bàn thờ xưa thường nổi bật với hoành phi, câu đối. Những thứ này vừa có tính cách trang trí vừa nói lên lòng tôn kính, sự tri ân của con cháu đối với tiền nhân, mà cũng có thể nói lên công đức của người được thờ phụng. Những thứ này thường được làm bằng gỗ hay bằng giấy viết chữ đẹp dễ đọc. Những nhà giàu có thường dùng gỗ danh mộc để thờ mãi mãi (Ngày nay, người ta làm với mỹ thuật sơn mài và cẩn ốc xà cừ). Nhà nghèo túng có thể mua ở các vỉa hè phố chợ những bản in hay viết tay trên giấy hồng đơn. Sau đây là những câu thường dùng có ý nghĩa trên các bức hoành của nhiều nhà xưa: Đức lưu quan (đức để lại sáng) Đức duy thinh (đức dày, truyền có tiếng thơm) Ẩm hà tư nguyên (uống nước sông, nhớ nguồn) Khắc xương quyết hậu (để tốt lành về sau) Sơn cao hải tuấn (núi cao bể sâu.) Về đối liễn thì thường có những câu đại loại như sau: "Tổ công tông đức thiên niên thịnh Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương". (Công đức tổ tông ngàn năm thịnh Hiếu hiền con cháu vạn đời ngay). "Sơn cao mặc trận sinh thành đức, Hải khoát nan thù cú dục ân." (Núi cao khó ví với đức sinh thành, bề rộng khôn bì với ân bồng bế nuôi nấng). "Tô tích bồi cơ, công đành sơn cao thiên cổ ngưỡng, Vũ kim diễn phái, trạch đồng hải tuấn ức niên tư". (Nhớ xưa bồi đắp tảng nền, công đọ non cao, ngửatrông muôn thuở, Đến nay nảy nở dòng giống, ơn tày bể rộng nhuần thấm ngàn năm).
-
Thông thường nhà thờ của một tộc họ gồm ba gian hai chái. Ba gian dùng để thờ, gồm bàn thờ Tổ ở gian giữa và hàng kế tiếp ở hai gian bên. Ba gian này thường ngày đóng cửa. Hai chái dùng để con cháu ở, dùng để tiếp khách thường cùng bà con thân thuộc hoặc là dùng làm tiệc, hoặc để chuẩn bị cúng giỗ. Sau ba gian còn có gian phòng hay một nhà phụ cho người thừa tự trú ngụ. Nhà thờ đại tông nhiều nơi kiến trúc như đền miếu thờ thành hoàng đằng trước có nhà đại bái để cả họ làm lễ tế tổ trong những ngày giỗ, ngày tết, cũng như nghi thức tế thần cùng nội tán, ngoại tán, cũng có văn tế với ba tuần rượu, áo xiêm hia mũ trọng thể, nếu trong gia tộc trước đây có người làm quan.Thần chủ, còn gọi là "bài vị" có ghi đầy đủ tên húy, tên thụy và phẩm tước nếu có của thủy tổ, với ngày sinh, ngày chết, thường đặt trong một cỗ khám hay một cỗ ỷ, cỗ ngai, trên bàn thờ nơi trong cùng gian giữa. Ở đàng trước là sập tôn và hương án với những đồ thờ. Ở hai gian bên, trên bàn thờ có đặt bài vị của các vị tổ phân chi. Tổ phân chi có thể là con cháu của thủy tổ. Ở trên bàn thờ của hai gian, có thể là bài vị của một tổ phân chi cho một gian. Thế nhưng nếu là một giòng họ lớn có nhiều tổ phân chi thì hoặc là nhiều bài vị của nhiều tổ phân chi được đặt chung trên một bàn thờ ở gian hậu phía sau, nếu có. Trong trường hợp này, nhà thờ tộc họ còn được gọi là Tổ miếu. Nếu tổ họ là một bậc công thần khoa giáp phẩm tước cao thì đồ thờ cũng có đủ cả cờ biển, bát bửu ló bộ, tán tía tàn vàng để chứng tỏ là nhà thờ của thế gia vọng tộc. Ngoài ra còn có nhà thờ tư chi. Cũng như nhà thờ đại tông những họ thịnh vượng thường cho kiến trúc nhà thờ này rất ngiêm trang và chắc chắn với những gỗ quý. Bài vị của tổ tư chi thờ ở gian giữa, bài vị của những con trai của tổ tư chi thì được thờ ở hai gian bên. Những bài vị, hay là thần chủ thờ trong nhà thờ đại tông và nhà thờ tư chi có tính cách vĩnh cữu, không được di dời (bách thế bất giao chi chủ). Bài vị luôn luôn được làm bằng gỗ bạch đàn, có mùi thơm rất quý có màu trắng được viết chữ rõ ràng, phù hợp với việc thờ phụng. Trong trường hợp không tìm được gỗ bạch đàn thì người ta dùng gỗ cây táo hay cây đại, những gỗ này không đắt không quý mà cũng chẳng bền hơn gỗ mít, gỗ vàng tâm vốn là hai thứ gỗ chuyên dùng làm đồ thờ như tượng Phật (bao giờ cũng được tạc bằng gỗ cây mít hay vàng tâm, bền hơn tất cả các thứ gỗ khác để sơn.)Tại các nhà thờ tư gia hay các bàn thờ mỗi gia đình ít khi có thờ thần chủ (bài vị). Chỉ có những nhà có quan tước, những nhà nề nếp hay những nhà hào trưởng giàu có mới thờ thần chủ. Thờ thần chủ thì phải qua thủ tục lễ nghi phiền phức, mời quan đề và phải lập các trạm bên cạnh huyệt hay ở giữa đường đưa đám như chương trước đã mô tả. Lễ đề thần chủ, tuy công việc chỉ trong một hai giây đồng hồ, rất tốn kém mà nghi thức rườm rà quan cách, là một hủ tục, mà người thường không dễ gì thực hiện được. Chính nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835- 1910), đã đỗ hoàng giáp, làm quan đến tổng đốc, muốn thực hiện không phải khó khăn cho lắm nhưng đã chủ trương bài bác một cách gián tiếp khi để lại trong di chúc cho con về tang lễ của ông với hai câu: "Minh tinh con cũng bỏ đi, Mời quan đề chủ con thì chớ nên." Về các thờ thần chủ và bày biện trên bàn thờ ngày xưa. Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong Đất Lề Quê thói có mô tả: "Tất cả những thần chủ đủ bốn đời, kể từ thế hệ cuối cùng trong nhà trở lên, đều đặt trong khám gian (thờ khám gian để có chỗ bày được nhiều thần chủ), mỗi khi có giỗ một vị nào thì rước thần chủ vị ấy ra đặt đàng trước khám làm lễ xong lại rước để vào nguyên vị.Thần chủ để thờ cho đến khi vị tổ có tên đề ở đấy lên bậc năm đời (kể từ thế hệ cuối cùng trở lên) thì làm lễ chôn ở trong cùng nhà thờ, theo tục "Ngũ đại mai thần chủ" (năm đời thì chôn thần chủ). Những vị tổ kế tiếp có bài vị trong khám đương nhiên lên bậc theo thế thứ. Từ năm đời trở lên, nếu có thờ thần chủ thì không cúng giỗ nữa, trừ ông bà thủy tổ và ông bà tổ phân chi, những vị tổ năm, sáu, bảy, ... đời và trên nữa, tuy không cúng giỗ, nhưng được phối hưởng ở nhà thờ đại tông và nhà thờ tư chi nghĩa là được hưởng lễ cúng với thủy tổ, với tổ phân chi những ngày có cúng giỗ.
-
Thờ ông bà là một bổn phận và nhiệm vụ trọng đại đặc thù của người Việt Nam. Trong quảng đại quần chúng xưa và nay, người ta thường nói "đạo thờ ông bà" là tín ngưỡng sâu sắc, nhưng không là một tôn giáo, "đạo" nói ở đây phải hiểu là đường lối. Thờ ông bà là một trách nhiệm có tính cách luân lý, sự phát lộ tình cảm và lòng tin huyết thống được thể hiện trong môi trường gia tộc, không có tính cách thần thánh hóa, nhất là không có tu sở như là chùa hay nhà thờ và cũng không cần có người giảng thuyết làm gạch nối liền giữa đạo và đời. Thờ ông bà xuất phát từ tâm thành của người sống, thế hệ sau đối với người chết, thế hệ trước. Thờ thì phải có lễ và cúng bái, hành động biểu tỏ lòng tôn kính và nhớ thương. Dân tộc Việt Nam chủ trương thờ ông bà là vì đã từ lâu hiểu rằng "cây có cội, nước có nguồn", ai ai cũng tưởng nhớ đến nguồn gốc sinh thành ra mình.Tinh thần "uống nước nhớ nguồn" là một trong những bài học đầu tiên về "học làm người", mở đầu cho những bài giáo khoa luân lý và công dân giáo dục, được các học trò nhỏ đọc ra rả ở lớp vỡ lòng dưới các mái trường xưa: "Cây có gốc mới nở nhành xanh ngọn, Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu, Người ta nguồn gốc từ đâu? Có cha mẹ rồi sau có mình." Tổ tiên sinh ra ông bà, ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra mình. Người con hiếu thảo phải biết ơn nghĩa sinh thành của bố mẹ, và đã hiếu với cha mẹ phải hiếu với ông bà tổ tiên tức là nguồn gốc của mình. Lúc ông bà, cha me còn sống, con cháu phải phụng dưỡng, phải tuân theo các lời dạy bảo của các người, cũng như thờ các tổ tiên về trước. Thờ cúng tổ tiên nghĩa là lập bàn thờ tại nhà và cúng bái trong những ngày sóc vọng giỗ tết. Người Việt Nam thường ngoài tôn giáo của mình đều có thờ phụng tổ tiên, kể cả những người theo Thiên Chúa giáo. Thực ra thờ phụng tổ tiên không phải là một tôn giáo, do đó không thể gọi là đạo ông bà được. Là một đạo phải có giáo chủ, giáo điều và việc hành đạo phải qua trung gian tu sĩ. Thờ phụng tổ tiên do lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà cụ kỵ đã khuất. Cây có gốc mới nở nhành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu, thì con người phải có tổ tiên mới có thể có mình được. Bỏ tổ tiên không thờ phụng tức là quên nguồn gốc, huống chi ông bà đã là những người sinh dưỡng cha mẹ và cha mẹ đã là những người sinh dưỡng mình. Những người theo Thiên Chúa giáo, tuy không lập bàn thờ tổ tiên, nhưng không phải là không thờ phụng tổ tiên. Những ngày giỗ chạp họ vẫn làm cỗ và cầu nguyện cho người đã khuất và việc không có bàn thờ tổ tiên là việc chuyển đổi bàn thờ tổ tiên đến bàn thờ Chúa, vậy nghĩa là vẫn có sự thờ phụng tổ tiên thông qua bàn thờ của Chúa.Qua việc thờ phụng tổ tiên tại Việt Nam, người khuất và người sống luôn luôn có một sự liên hệ mật thiết. Sự thờ cúng chính là sự gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ linh thiêng. Đối với người Việt Nam, chết không có nghĩa là chết hẳn, thể xác tuy chết nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn còn lui tới với gia đình. Thể xác thì tiêu tan, nhưng linh hồn thì bất diệt. Tục ta từ xưa thì tin rằng dương sao âm vậy, người sống cần gì, sống làm sao thì người chết cũng như vậy và cũng có một cuộc "sống" ở cõi âm như ở trên dương thế. Nói cách khác đi, người chết cũng cần ăn uống tiêu pha, có nhà ở như người sống. Tin như vậy, việc cúng lễ là cần thiết, và việc thờ phụng tổ tiên không thể không có được. Cổ tục lại có tin rằng vong hồn của những người đã khuất thường luôn ngự bên bàn thờ để được gần con cháu, theo dõi con cháu trong công việc hàng ngày và giúp đỡ con cháu trong những trường hợp cần thiết. Sự tin tưởng vong hồn ông bà ngự bên bàn thờ có nhiều ảnh hưởng lên hoạt động của người sống. Nhiều người vì sợ vong hồn cha mẹ buồn trách những hành vi xấu xa, và đôi khi định làm một công việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng, xem công việc đó lúc sinh thời cha mẹ có chấp nhận hay không. Người ta lại sợ mang tội bất hiếu nếu làm cho vong hồn cha mẹ phải tủi hổ qua hành động của mình. Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong Đất Lề Quê Thói nhận định: "Đã nói tới tín ngưỡng dĩ nhiên có vấn đề tin và không tin." Đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên là sự hiển nhiên, không có nghi vấn tin hay không tin. Hiển nhiên, cho nên người ta vẫn cảm thông trong việc thờ cúng, mà luôn luôn tâm niệm: "Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn" (thờ lúc chết cũng như thờ lúc còn sống, thờ lúc đã khuất cũng như thờ lúc hãy còn.) Trên nhiều bàn thờ tổ tiên ta thường thấy bức tranh hai chữ "Như tại" (như có ở đây) là để nói lên cái nghĩa ấy. Kỳ đại hội tháng 10 năm 1682 ở Hội An (Trung Phần) quy tụ hai vị giám mục và gần một trăm giáo sĩ, thầy giảng các dòng đạo Ky-tô, đã thảo luận sôi nổi về việc có nên hay không nên cấm tín đồ Ky-tô thiết lập bàn thờ gia tiên trong nhà, thay đổi và hạn chế những lễ nghi trong đám tang ông bà cha mẹ và trong việc thờ cúng tổ tiên, nhận thấy rằng thờ cúng tổ tiên không phải là mê tín dị đoan. Hơn một trăm năm sau, chính một nhà truyền giáo Ky-tô, ông Bá - Đa - Lộc, cũng thắc mắc về điểm trên. Theo ông thì việc thờ cúng tổ tiên phải được coi như là việc tỏ tình kính mến đối với người đã khuất. Nếu ông kịp đi La Mã trước khi mất, như ông đã dự định, thì có lẽ ông đã trần thuyết được với tòa thánh chấp nhận ý kiến của ông. Cử nhân Hán học Tây Hồ Bùi Tấn Niên nhận định: "Cổ lễ quan niệm rằng việc sinh tử là điều quan hệ nhất trong đời người ta. Sinh là khởi thủy, tử là chung cuộc của đời người, vì vậy thủy chung đều phải trọn vẹn." Người quân tử phải thủy chung như một. Nếu chỉ biết trung hậu với người còn sống mà bạc bẽo với người đã chết, thì đều không phải đạo. Chính vì thế mà Cổ lễ dành rất nhiều nghi thức quan trọng cho việc tế tự. Đức Khổng Tử đã nói rằng: "Tế như tại, tế thần như tại" (ý nói tuy không thấy thần linh ra nhưng khi tế cúng coi như thần linh tại đó, phải để tâm hồn tâm kính.) Sinh hoạt xã hội Việt Nam trong hàng ngàn năm qua cũng rất chú trọng đến việc tế tự. Tại triều đình thì có tế Giao Miếu, tế Xã Tắc, các tỉnh có tế Thánh, mỗi làng có tế Thần, tư gia có cúng Tổ tiên... Riêng việc cúng Tổ tiên đã thành ra một tục lệ có tính cách dân tộc văn hóa và đi ra khỏi phạm vi tôn giáo.
-
Ngày nay, cách lạy cũng đã được giản lược, hoặc vì không hiểu đúng phép người ta hành lễ một cách lấy có với những động tác vô nghĩa. Đã có xu hướng thay thế lạy bằng những cái "xá", nhất là những người ăn mặc Âu phục. Rồi đây, có thể tục lạy sẽ bị bỏ dần và mất hẳn trong mọi lễ nghi trong gia đình cùng ngay cả ở các đền chùa. Thiết tưởng cũng cần ghi lại một vài nét về tác động của cách lạy với hoài mong lưu lại một chút cơ sở về sau. Người lạy đứng thẳng, chắp tay lên cao ngang trán, cong mình xuống, đặt hai tay vẫn chắp xuống chiếu, cúi rạp đầu xuống gần bàn tay đang chắp (đây là thế phủ phục), cất đầu vào mình thẳng lên đồng thời co hai tay vẫn lên chắp trước ngực và co đầu gối bên phải lên, đặt bàn chân phải lên chiếu để sửa soạn đứng dậy, đem hai bàn tay vẫn chắp xuống tì vào đầu gối bên phải mà đứng lên, chân trái đang quỳ tự nhiên theo cử động chót này cùng đứng thẳng lên. Người lạy, trước khi khấn đã lễ bốn lạy, và sau khi khấn từ tư thế quỳ đứng lên, đã qua như lễ được một nữa lạy, cho nên người ta thường nói là lạy "bốn lạy rưỡi" là vậy. Văn tế, văn khấn thật ra chỉ là những lời nói sửa soạn trước cho được nghiêm chỉnh với việc dùng từ ngữ cẩn thận và cách thức kính cẩn trình bày lên các đấng thần thánh, với tổ tiên trong các lễ tế hay cúng giỗ. Cũng có một số bài đã trở thành những áng văn chương tuyệt tác, ý nghĩa thâm trầm được làm ra do những văn tài xuất chúng. Chẳng hạn như bài văn tế tiểu tường do thi sĩ Tản Đà làm giúp cho một vị tri huyện tế mẹ đã được dẫn ở đoạn trước. Thông thường văn tế, văn khấn chia làm ba đoạn chính: 1. Đoạn thứ nhất gồm có ngày tháng, tên của người đứng ra chủ động việc cúng tế và nói về lễ vật. 2. Đoạn thứ nhì gồm tên tuổi, hiệu, thụy các vị được cúng tế. 3. Đoạn thứ sau cùng nói rõ mục đích của tế lễ, nhân dịp nào. Văn tế thường theo một thể riêng như thể phú. Văn khấn có thể viết theo văn vần, gồm một đoạn theo thể phú, hoặc bằng văn xuôi. Văn khấn cũng như văn tế, khi người hay giỏi chữ Nho thường dùng Hán văn, về sau người ta chuyển sang Việt văn. Cần nhất là hay, có ý nghĩa và được đọc một cách trang trọng. Điều cần lưu ý là trong các lễ giỗ kỵ, văn khấn nên viết sẵn ra giấy. Người chủ lễ đứng trước bàn thờ, vái bốn vái rồi cầm giấy đưa ra trước mặt mà đọc. Đọc xong vái năm cái. Tiếp theo là thân nhân trong gia đình vào lễ theo thứ tự.Sau đây là một bài văn khấn Nôm bằng thơ nhằm mục đích giúp đàn bà, trẻ con có thể học và dễ nhớ theo một thức giả xưa làm ra, dùng vào việc cúng lễ gia tiên: Ngày ... tháng ... năm (âm lịch), tín chủ là ... tuổi ... sinh quán tại ... trú quán tại ... cùng toàn gia. Cúc cung bái trước bàn thờ, Kính dâng lễ bạc hương hoa rượu trầu. Cùng là phẩm vật trước sau, Lòng thành tâm nguyện thỉnh cầu gia tiên. Cao tằng tổ khảo đôi bên, Cao tằng tổ kỷ dưới trên người người. Cô dì chú bác kính mời, Đệ huynh đồng thỉnh tới nơi từ đường. Cúi xin hưởng chút lễ thường, Và xin phù hộ khang cường toàn gia. Cẩn cáo Thức ăn các thứ, nói chung là đồ lễ dâng cúng gia tiên bao giờ cũng thanh khiết và dành riêng, không được để con cháu đứa nào đụng tới. Các thức ăn đã nấu nướng xong, phải đem cúng gia tiên trước rồi con cháu mới được ăn. Cũng như lúc ông bà còn sống, ông bà cha mẹ chưa ăn thì con cháu không được phép động tới. Để tránh tình trạng lỗi lầm do không biết của các cháu nhỏ, các thức ăn nấu nướng xong phải được múc ra dành cho việc cúng lễ cho phải phép. Trong việc cúng ông bà, chẳng nên làm lấy có hay chỉ để khoe khoang với thiên hạ. Phải lấy tâm thành, kính trọng làm gốc. Người xưa quan niệm rằng trong lòng nghĩ thế nào quỷ thần đều biết rõ (Tâm động quỷ thần tri). Cúng bái chỉ làm cho có hình thức, thiếu lòng thành kính tức là thiếu sự hiếu thảo ngay lành. Không một vị tổ tiên nào chứng giám cho những con cháu có cúng mà không có kính. Thà chén cơm dĩa muối mà lòng thành hơn mâm cao cỗ đầy mà tâm địa dửng dưng.
-
Theo Thủy Tiên thì trong bản thân mỗi con người đã tồn tài sẵn một con Cáo. Nhưng điều quan trọng và hơn nhau là mình có đủ bản lĩnh để nó ngủ yên hay tạo điều kiện cho nó trỗi dậy mà thôi. Còn khi trỗi dậy rồi thì Cáo vẫn là Cáo.
-
Truyền nhân ẩm thực cung đình triều Nguyễn Cách đây khoảng 15 năm, khi ẩm thực cung đình Huế bị các nhà hàng “mượn” mác rồi làm món lai căng, nên giảm giá trị như một bữa cơm bình dân nửa mùa, bà Tôn Nữ Thị Hà đã từng đau xót rằng: “Bán vua là có tội”. Và 7 năm sau, bà đã đưa ẩm thực cung đình triều Nguyễn trở thành điểm nhấn đặc biệt trong tất cả các festival quốc tế. Ngày 18.11.1996, hãng du lịch Exotisimo thay mặt hãng xe Peugeot đặt tiệc một phụ nữ trẻ - người còn giữ được bí quyết nấu món ăn cung đình Huế, để chiêu đãi 500 nhân viên hãng Shell. Đến lúc hạ tiệc, một người đàn ông Pháp đứng tuổi tên là Martel đề nghị gặp người nấu món ăn ngay tại khán phòng, rồi ông nói trên micro: “Tôi nhân danh đại diện người Pháp, đồng thời đại diện cho nhân viên hãng Shell thành thật xin lỗi người Việt Nam, rằng trước đây nước Pháp đã không hiểu gì về sức mạnh văn hóa Việt Nam, đã dám đem quân đến xâm lược đất nước Việt Nam của bà”. Lúc đó, bà Hà đã bàng hoàng vì không ngờ bữa tiệc lại có tác dụng to lớn đến danh dự Tổ quốc của mình đến thế. Chim công, chất liệu củ cải trắng và trai nướng Rồi duyên may đã giúp bà có cơ hội giới thiệu món ăn cung đình đến hàng chục vị đại sứ của gần 20 nước, để họ say mê đến độ còn lui tới nhiều lần và quảng bá ra ngoài biên giới Việt Nam. Ẩm thực cung đình đẹp ở chữ “tinh tấn” Sau gần cả cuộc đời theo đuổi và nghiên cứu, theo bà điểm tinh hoa của nghệ thuật ẩm thực cung đình triều Nguyễn là gì? Nó hội đủ 3 yếu tố. Thứ nhất là dinh dưỡng. Ngày xưa, Viện Thái Y chuyên lo việc đặt món thế nào để thích ứng với sở thích và sức khỏe của vua. Mà trong đó, tính quân bình âm dương (axít và kiềm) được đặt lên hàng đầu. Thứ nữa là về màu sắc, phép dùng gia vị (đổ màu) và cách chế biến sao cho món ăn cung đình luôn tràn ngập hương sắc. Nhưng điểm đặc trưng nhất khiến món ăn cung đình của vua Nguyễn khác với món ăn Nhật Bản và châu Âu, đó là trong bữa ăn của vua luôn phải có hình tượng các con vật biểu tượng cho sức mạnh, sự tôn quý. Ví như phượng hoàng nhảy múa thể hiện sự vui vẻ, rồng thể hiện mưa thuận gió hòa, quy thay lời chúc thọ, chúc sức khỏe, lân biểu hiện sự thị uy. Mà các hình tượng đó được cắt tỉa, hoặc xếp hình bằng chính món ăn tiến vua. Rồng tiến vua - chất liệu bí đỏ và cà rốt Tất cả điều đó tạo nên chữ “tinh tấn” - quy định bắt buộc khi làm món ăn tiến vua. Nghĩa là món phải ngon, sạch sẽ, màu sắc, có hình tượng... giống như đem cúng Phật đó. Nghe thật kỳ công, vậy có những món ăn nào mà đến nay mình không thể làm được do hạn chế kỹ thuật chế biến (vì bị thất truyền), hoặc do nguyên liệu quá khó tìm không, thưa bà? Hạn chế kỹ thuật thì không, mà càng ngày, những người yêu nghệ thuật ẩm thực cung đình như tôi càng tìm hiểu và sáng tạo ra nhiều cách thức mẹo mực trong chế biến hơn. Ngay cả những mâm cỗ yến hạng nhất trong lễ thiết đãi quốc khách gồm 50 bát và 16 đĩa cũng không làm khó tôi. Tuy nhiên, có những món quý về nguyên liệu, và kỹ thuật chế biến thuộc hàng “bảo quốc” nhưng đến nay không thể làm được vì hạn chế nguyên liệu, đó là 6 bát trân: hải sâm, môi khỉ, gân nai, cửu khổng, da tê, tay gấu. Hình như chưa có tài liệu, sử sách nào ghi rõ ai là người đã đặt ra khuôn mẫu món ăn cung đình, cũng như tạo nên phép tắc ăn uống trong cung vua triều Nguyễn, bà có nghiên cứu về chuyện này không? Những cuốn sử liệu xa nhất là cuốn Đại Nam Hội Điển Sự Lệ - do một nhóm tác giả trong Nội các triều Nguyễn ghi chép lưu truyền từ năm 1843 - 1855; Thực Phổ Bách Thiên (1915) và Phụ Đạo Ca (1918) - tác phẩm của cụ cố Hiệp tá Đại học sĩ Hồng Khẳng phu nhân, đều không nói về điều này. Chỉ biết rằng, đơn vị lo việc ăn uống của vua được thiết lập vào đầu thời vua Gia Long (1802), tên gọi là Thuyền Nội Trù. Vào đời vua Minh Mạng (1820) đổi tên thành Đội Thượng Thiện gồm 50 người, mỗi người phụ trách một món, tùy theo sở trường của mình. Ngọc thực, mỹ vị thường ngày dâng vua theo đúng cách thức nấu nướng rất nghiêm ngặt. Mỗi ngày cung tiến ngọc thực 3 lần: Điểm tâm với 12 món, lúc 6 giờ sáng. Ăn trưa với 50 món mặn, 16 món ngọt lúc 11 giờ. Số lượng món ăn chiều cũng giống món ăn trưa (sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên). Các món ăn cung đình lúc đầu là do truyền lại từ đời này sang đời khác, sau thì các sứ thần khi đi sứ về, họ cung tiến vua những món ăn lạ và ngon. Món nào đặc biệt sẽ được liệt vào danh sách rồi truyền tiếp sang đời sau, cứ thế, món ăn cung đình phong phú và đa dạng hơn. Tuy nhiên, có thể nhìn lại lịch sử và thói quen ăn uống của vua triều Nguyễn mà nói rằng, thường thì các vua ăn sơn hào hải vị, chim, yến – phượng, khi có đại tiệc nội chính trong cung, hoặc mở lễ tiếp kiến, cung đốn và thiết tiệc. Còn bình thường, vua ăn khá gọn nhẹ, như vua Tự Đức thích ăn rau muống chấm tương, rất giản dị. Hay vua Thành Thái thích chấm rau muống với ké con cua đánh chanh. Phá bỏ định kiến để dấn thân Hậu duệ của những người đầu bếp trong cung vua thì chẳng thấy mấy ai theo nghiệp nấu món ăn cung đình, bà là người hoàng tộc, sao lại thích cái nghề “chỉ dành cho người hầu”? Từ ngày tôi mới 8 - 9 tuổi, tôi đã được các bà cô - vợ của thượng thư bộ lại trong triều bày vẽ cho cách tỉa quả, nấu món ăn. Dần dà tôi hiểu được ẩm thực cung đình gồm những món gì, cách thức nấu nướng và ăn như thế nào. Sau này lớn lên, được người nhà tin tưởng giao cho nấu một bữa đại tiệc theo phong cách cung đình khi mới tròn 23 tuổi. Bà Hà dạy làm món ăn chay (1995) - Ảnh do nhân vật cung cấp Đến khi hòa bình lập lại, nhiều đại sứ nước ngoài sang thăm và làm việc ở Huế, tôi luôn được chủ tịch tỉnh mời là người thực hiện món ăn cung đình để đãi khách. Và khi ông Anh - Lê (tên Việt của một nhà báo người Mỹ đã sống ở Việt Nam 9 năm) dự bữa tiệc, ông đã viết trong chuyên mục “Talk around the town” trên tờ Vietnam News (1995) rằng: “Đây mới thực sự là món ăn cung đình”. Trong hoàn cảnh lúc đó có rất nhiều nhà hàng bày bán món ăn cung đình lai căng. Qua đó, tôi thấy rõ hơn trách nhiệm của mình khi phải gìn giữ và quảng bá nghệ thuật ẩm thực cung đình Huế. Không thể cứ chờ một năm mới có đôi ba bữa tiệc quảng bá ẩm thực cung đình cho các vị đại sứ, cần thêm nhiều người, nhất là người Việt Nam biết đến để họ tự hào và kính phục về nghệ thuật ẩm thực cung đình. Và rồi, tôi là người đầu tiên trong gia tộc dám thoát khỏi định kiến “người trong hoàng tộc không thể kinh doanh”, để đứng ra mở nhà hàng Tịnh Gia Viên - chuyên về món ăn cung đình triều Nguyễn theo đúng bản sắc món ăn của vua. “Đáng quý ở sự trải nghiệm” Bà đã nhấn mạnh rất rõ sự kỳ công trong việc thực hiện món ăn cung đình, vậy bà đánh giá như thế nào về “chất lượng” của rất nhiều nhà hàng trưng biển món ăn cung đình trong thành phố Huế hiện nay? Không phải tất cả các nhà hàng đều không đạt chất lượng, cũng có một số đáng được trân trọng. Món ăn cung đình cầu kỳ và kỹ thuật lắm, đâu dễ học một hai năm mà đã thành truyền nhân đâu! Tôi đã làm hàng nghìn món ăn, hàng trăm mẫu tạo hình - cắt tỉa bằng củ quả mới có được kinh nghiệm, kỹ thuật điêu luyện để rồi được phong tặng là “Bàn tay vàng”. Trong đó chữ “kinh nghiệm” còn có phần đáng giá hơn sự khéo léo. Tôi rất tò mò về chữ “kinh nghiệm” mà bà vừa nhấn mạnh... Không phải cứ chừng đó công thức, nguyên liệu và cách làm, rồi thêm một chút khéo tay là đã thành công. Phải tùy từng điều kiện mà thực hiện món. Có lần tôi sang Ukraine làm món bánh trái cây, trời bên đó lạnh thấu xương, vừa mới quệt tay phết một lớp đông sương để bánh được bóng mịn thì lập tức lớp quết trở nên đông cứng như nước đá. Thế nên, tôi phải thao tác trên một cái bếp, để hơi nóng từ bếp giữ nhiệt không cho lớp đông sương đông cứng nữa. Hay như ở Iraq, trời nóng đến nỗi tỉa hoa bằng củ cà rốt, vì cánh hoa mỏng nên mới tỉa xong một, hai cánh thì lập tức bị héo, tôi phải mở tủ lạnh, luồn tay vào trong mà tỉa hoa. Còn ở Dubai thì không có giò sống (thịt heo xay) vì họ theo đạo Hồi, nên tôi đã thay bằng pho-mát để tỉa dáng, tạo hình. Đó chính là kỹ năng ứng phó được tôi đúc từ sự trải nghiệm, mà điều này mới thực sự đáng quý! Sau nhiều năm nghiên cứu và cống hiến, bà đã có hậu duệ chân truyền để tiếp tục sự nghiệp gìn giữ nghệ thuật ẩm thực cung đình triều Nguyễn chưa, thưa bà? Tôi trăn trở chuyện “chân truyền” từ lâu rồi. Bởi mấy ai biết đâu là món ăn cung đình thật, đâu là món ăn giả?! Ai đó không may bị tra tấn nhầm bởi những món lai căng, rồi nghĩ món ăn cung đình chỉ đơn giản và chán ngắt vậy thôi là hỏng rồi! Bởi thế, tôi rất mừng vì có con gái Phan Tôn Tịnh Hải đã theo nghiệp tôi. Cám ơn bà đã chia sẻ những câu chuyện thật lý thú! ------------------------------------------------ * Tôn Nữ Thị Hà (1943), quê ở Nguyệt Biều, Hương Phú, Thừa Thiên - Huế. Đã được cấp một số bằng cấp quốc tế: - Bằng Proficiency in English của Hội Việt Mỹ (Huế) năm 1972, dịch nhiều cuốn sách ẩm thực. - Bằng Bếp Nhật và bằng Pha chế rượu Bartender của trường Nghiệp vụ du lịch TP.HCM. - Bằng Thầy của người đầu bếp nghệ thuật của trường ĐH Du lịch và nấu ăn châu Âu ở Tây Ban Nha và Hàn lâm viện Tây Ban Nha (2000). * Những thành tích nổi bật: - Người Việt Nam duy nhất đạt giải Bàn tay vàng quốc tế (2003) - Tập đoàn du lịch Tây Ban Nha mời qua Đại học Du lịch và khách sạn Euht Stpol dạy. Hội Việt Nam Yêu Huế mời qua Reim, Paris và 10 nước châu Âu dạy nấu ăn (2000). - Dạy món ăn Việt Nam và món Nhật ở Alabator theo lời mời của ông Viên - tên Việt của Hội trưởng Việt Nam Mông Cổ (2005). * Nữ văn sĩ người Anh Carol Howland đã viết một truyện ngắn về bà Tôn Nữ Thị Hà với món ăn cung đình Việt Nam trong cuốn sách Dragon on the roof (2007). * Câu chuyện “Tôn Nữ Thị Hà, người hoàng tộc có 16 nghề thành đạt” trong cuốn sách 1.000 năm Thăng Long Hà Nội, tác giả Hoàng Kim Đáng. Thùy Trinh www4.thanhnien.com.vn
-
Ủa! Hôm nay là sinh nhật của anh Babywolf hả? B) Phải hong ta?
-
Văn hóa tâm linh đất Tổ Hùng Vương Hồng Tử Uyên Trích báo Nguồn sáng I. Trở vềNếu như mỗi người trong mọi người chúng ta đều tự thấy con đường của chính mình cùng với lịch sử dân tộc đã, đang và sẽ trải qua (trôi qua, đi qua) … càng ngày càng xa khởi điểm (chỗ tạm cho là điểm bắt đầu biết được về lịch sử của mỗi dân tộc), ngày càng xa cội nguồn thì nhất định có một ngày mình sẽ nhớ lại nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình hoặc sẽ nhớ lại từ “quê cha đất tổ” ngược dần đến mảnh đất đầu tiên nơi có “ông Tổ” khai sáng và xây dựng nền văn minh của cả một dân tộc như dân tộc Trung Quốc có Hoàng Đế là đại diện, Nhật Bản có Thái Dương Thần Nữ là thủy tổ - còn dân tộc Việt Nam có cha Rồng phối với mẹ Tiên, sinh ra dòng họ đầu tiên là Hồng Bàng Thị. Truy cứu ở Từ Nguyên, Hoàng Thúc Trâm giải thích ba chữ Hồng Bàng Thị như sau: a. Hồng: 1. Hồng là tên một loài chim nước, to hơn con nhạn, cánh đen, bụng trắng, màu tro, tính mạnh dạn, thính giác nhạy bén. 2. Hồng theo ý nghĩa thông dụng là lớn. Ví dụ: Hồng Thủy (là nước lớn). 3. Chim hồng nói trong sách cổ thường chỉ về con Hồng Hộc, tức là con ngỗng trời. Nếu đi với chữ hoang thì Hồng hoang là nghĩa Thái Cổ. b. Bàng: Bàng là đầy, lớn, bác tạp, không thuần túy. c. Thị: Theo Thuyết văn là gò, núi. Như Hoàng Đế ban đầu ở đất Hữu Hùng, nên gọi là Hữu Hùng thị. Sau đến đời Hiên Viên Chi Ngưu thì gọi là Hiên Viên Thị. Cho nên, chữ “thị” là do từ “chỗ đất” mà được gọi tên. Do đó, “thị” không có nghĩa là họ mà chỉ là bộ tộc hay thị tộc theo danh từ xã hội học ngày nay. II. Cội nguồn. Theo truyền thuyết thì Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, nhân đi tuần thú qua miền Nghĩa Lĩnh, lấy công chúa Vụ Tiên, sinh ra Lộc Tục. Đế Minh phong cho người con trưởng là Đế Nghi làm vua ở phương Bắc, còn Lộc Tục làm vua ở phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương lấy Long Nữ là con gái của Động Đình Quân, sanh ra Sùng Lãm. Về sau nối ngôi cha xứng là Lạc Long Quân. Đế Lai là con của Đế Nghi sang ở phương Bắc, nhân nhớ tới họ hàng nên cùng Âu Cơ xuống phương Nam, rồi Âu Cơ lấy Lạc Long Quân đẻ ra cái bọc có một trăm trứng, nở ra một trăm con trai. Lạc Long Quân phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, truyền được 18 đời, trị vì 2621 năm (từ năm Nhâm Tuất 2879 trước Tây lịch đến năm Quý Mão 258 tr.TL). (Theo cụ Biệt Lam – Trần Huy Bá: “Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã cố gắng sưu tầm các truyền thuyết và thư tịch cổ, các ngọc phả ở các xã quanh vùng có đền thờ các vua Hùng như xã Hy Cương (Vĩnh Phú) hiện lưu trữ tại Vụ Bảo tồn Bảo tàng, Bộ Văn hóa (số hiệu HT. AE9) thì các tài liệu này không chép là 18 đời vua Hùng mà lại ghi là 18 chi. Mỗi chi gồm nhiều đời vua, có cả năm can – chi lúc sanh, và lúc lên ngôi. Các đời vua trong một chi đều cùng lấy hiệu của vua đầu chi ấy. Mười tám chi ấy như sau: 1. Chi Càn: Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, tức Lục Dục Vương sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr.TL) lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.TL) đến Đinh Hợi (2794 tr.TL). So ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng (?). 2. Chi Khảm: Lac Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiên Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 tr.TL), lên ngôi năm 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiên Vương, từ năm Mậu Tý (2793 tr.TL) đến năm Bính Thìn (2525 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế). 3. Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr.TL) lên ngôi khi 18 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương. Từ năm Định Tỵ (2524 tr.TL) đến Bính Tuất (2253 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu. 4. Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Định Hợi (2254 tr.TL). Không rõ truyền mấy đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương, ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr.TL) đến Mậu Thìn (1918 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quỳnh nhà Hạ. 5. Chi Tốn: Hùng Hi Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 tr.TL), lên ngôi khi 59 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua, đều xưng là Hùng Hi Vương, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr.TL) đến Mậu Tý (1713 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Quí (Kiệt) nhà Hạ. 6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr.TL), lên ngôi khi 29 tuổi, truyền hai đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm, đều xưng Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr.TL) đến Kỷ Dậu (1632 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Ốc Đinh nhà Thương. 7. Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr.TL) lên ngôi khi 18 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất cả 200 năm từ năm Canh Tuất (1631 tr.TL) đến Kỷ Tỵ (1432 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương. 8. Chi Đoài: Hùng Vĩ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr.TL) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vĩ Vương, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 tr.TL) đến năm Kỷ Dậu (1332 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương. 9. Chi Giáp: Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 tr.TL), lên ngôi khi 45 tuổi, truyền 3 đời vua, đều xưng là Hùng Định Vương, ở ngôi tất cả 80 năm, từ năm Canh Ngọ (1251 tr.TL) đến Kỷ Hợi (1162 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân. 10. Chi Bính: Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 tr.TL), lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr.TL) đến Bính Tuất (1055 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu. 11. Chi Đinh: Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr.TL), lên ngôi khi 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, ở ngôi tất cả 96 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 tr.TL) đến Nhâm Tuất (969 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Mục Vương nhà Tây Chu. 12. Chi Mậu: Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr.TL), lên ngôi khi 23 tuổi, truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở ngôi tất cả 105 năm từ năm Quý Hợi (958 tr.TL) đến Đinh Mùi (854 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu. 13. Chi Kỷ: Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 tr.TL), lên ngôi khi 42 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng Anh Vương, ở ngôi tất cả 99 năm, từ năm Mậu Thân (755 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu. 14. Chi Canh: Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quí Sửu (748 tr.TL), lên ngôi khi 35 tuổi, truyền 3 đời vua, đều xưng là Hùng Triệu Vương, ở ngôi tất cả 94 năm từ năm Đinh Hợi (754 tr.TL) đến năm Canh Thân (661 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu. 15. Chi Tân: Hùng Tạo Vương (Thần phả xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc, ghi đời thứ 16 là Hùng Tạo Vương, đóng ở Việt Trì, có Thạch Tướng quân đánh tan giặc Man, vua phong làm Chuyển Thạc Tướng Đại Vương – “Người anh hùng làng Dóng”, Cao Xuân Đỉnh, NXB KHXH, 1969, tr. 126 – 130), húy Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr.TL), lên ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 tr.TL) đến Nhâm Thìn (569 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu. 16. Chi Nhâm: Hùng Nghị Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 tr.TL), lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng Nghị Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr.TL) đến Nhâm Thân (409 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu. 17. Chi Quý: Hùng Duệ Vương, húy Huệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 tr.TL), lên ngôi khi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đời vua (có lẽ 3 đời), vì ở đỉnh Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội có bài vị “Tam Vi Quốc Chúa”, ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 tr.TL), đến Quý Mão (258 tr.TL). Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu, Trung Quốc. (Theo T.H.B – Kiến thức phổ thông) III. Dân tộc. a. Hùng Vương chọn đất đóng đô. Vua Hùng đi nhiều nới để tìm đất đóng đô cho nước Văn Lang. Vua đi tới một miền phong cảnh đẹp đẽ, đất phẳng mà rộng, có nhiều khe suối. Vua cho là thế đất chưa đủ, bèn sai chim đại bàng đắp 100 quả gò, hẹn trước khi trời sáng phải xong. Chim đại bàng khuân đất đá đắp được 99 quả gò, chợt có con gà ngủ mơ gáy sáng, chim đại bàng ngỡ trời đã rạng vỗ cánh bay đi. Vua Hùng đi tìm đất khác (Nay là xã Thanh Vân, huyện Thanh Ba). Lại tới nơi khác, vua thấy có một ngọn núi cao sừng sững như cái trụ chống trời vươn lên giữa hàng trăm quả đồi vây quanh. Vua thúc ngựa lên ngọn núi, dừng ngực ngắm trông bốn phương tám hướng, rộng hẹp thấp cao, rừng trải xa xa, khe ngòi quanh lượn, vua đẹp lòng vừa ý, mới dong ngựa từ từ xuống núi. Chợt con ngựa quay đầu, vó ngựa đạp mạnh, núi lở xuống, sạt mất một góc. Vua chê thế đất không vững, bèn bỏ đi (Nay là núi Sứt, đứng giữa ba huyện Thanh Ba, Đoan Hùng, Phù Ninh ở vào địa phận Đông Lĩnh, Thanh Ba). Lại tới một tòa núi dài đầu cao đuôi thấp nằm giữa một trăm quả đồi nhỏ như con giao long bơi lượn trên lớp lớp sóng dồn. Trên núi có đường lên trời, có hang xuống đất. Vua bước vào hang chợt gặp một con rắn trắng chắn đường. Vua cho là điềm không lợi, bèn bỏ đi (Nay là núi Thắm, huyện Thanh Ba). Đi theo sông Thao, tới một vùng thấy trước mặt là sông lớn, sau lưng là núi cao, đầm nước mênh mông vây bọc những hòn đảo nhỏ. Vua đang ngắm, chợt có con rùa vàng hiện lên khỏi mặt nước, lưng như tấm phản, gật đầu chào vua, tự xưng là chúa đầm này. Vua cưỡi lên lưng rùa. Rùa đưa vua đi thăm 99 ngách, cây cối lòa xòa, nước đen như mực, các loài thủy tộc vui mừng chào đón nhà vua. Vua khen cảnh đẹp nhưng cho rằng không có thế mở rộng để họp muôn dân dựng cung điện nên lại bỏ đi (Nay là Ao Châu, huyện Hạ Hòa). Lần tới sông Đà, sóng xô cuồn cuộn, núi Tản vươn mình, một dải ven sông cây xanh bát ngát, địa thế rất đẹp. Vua mới truyền cho chim phượng hoàng đào 100 chiếc hồ, chọn đây làm đất đóng đô. Đào được 99 cái thì chợt có tiếng phượng đực kêu ở nơi xa. Phượng mẹ vỗ cánh bay lên theo tiếng gọi của chim đực, cả đàn con bay theo. Vua thấy không đủ 100 cái hồ nên cũng bỏ đi (Nay là xã Xuân Lộc, huyện Thanh Thủy). Vua đi mãi nơi này nơi khác mà chưa chọn được nơi nào có thể định đô. Đi tới một vùng: trước mặt ba sông tụ hội, hai bên có Tản Viên, Tam Đảo chầu về, đồi núi gần xa, khe ngòi quanh quất, thế đất bày ra như hình hổ phục rồng chầu, tướng quân bắn nỏ, ngựa chạy phượng bay. Giữa những quả đồi xanh tốt thấy có ngọn núi đột ngột nổi lên như con voi mẹ nằm giữa đàn con. Vua lên núi nhìn ra bốn phía thấy ba bề bãi rộng bồi đắp phù sa, bốn mặt cây xanh hoa tươi quả ngọt, vừa trùng điệp, vừa quanh co, có rộng mà phẳng, có hẹp mà sâu. Vua cả mừng khen đây thực là đất họp muôn dân, đủ hiểm để giữ, có thế để mở, thết đất vững bền có thể dựng nước được muôn đời. Vua Hùng đặt đô ở đó, gọi tên là thành Phong Châu (Thành Phong Châu gồm từ ngã ba sông Bạch Hạc về tới các vùng đất quanh núi Nghĩa Lĩnh, gồm có thành phố Việt Trì ngày nay và một phần đất thuộc các huyện Lâm Thao, Phù Ninh). b. Sơn Thủy nơi kinh đô Văn Lang. * Núi. 1. Sông Hồng chia núi miền Bắc thành hai khu, khu tả ngạn và khu hữu ngạn chạy liên tiếp nhau từng dãy. 2. Khu tả ngạn có 5 dãy hình cung xòe ra như nan quạt chụm lại ở Tam đảo, đó là rặng Đông Triều sát bể, rặng Bắc Sơn đường sang Trung Hoa, rặng Yên Lạc Ngân Sơn và rặn sông Gầm cạnh hồ Ba Bể. Chung quanh những rặng núi đó có miền cao nguyên Vân Nam đứng sững nhô lên mấy ngọn Tây Côn Lĩnh, Pu-ca rồi trũng xuống ở miền Cao Bằng, Lạng Sơn ra tới bể, phía nam sát với bình nguyên thì có miền trung du gồm những đồi thấp, chỉ có ngọn Tam Đảo cao hơn cả. 3. Khu hữu ngạn có dãy Hoàng Liên Sơn cao 3.142m nhất nước Việt Nam. Giữa sông Đà và sông Mã là miền cao nguyên đá vôi lởm chởm. Sau đó là dãy núi cạnh sông Mã chạy từ biên giới Trung Hoa tới địa phận Thanh Hóa nhiều rừng rậm; còn miền trung du ở mạn sông Ba Vì (Sơn Tây) và Chi-nê, Nho Quan (Ninh Binh có nhiều đồi. * Sông. - Ở Bắc phần có 3.280km đường sông gồm có sông Hồng, sông Thái Bình và các sông nhánh, sông đào. 1. Sông Hồng: còn gọi là sông Nhị Hà hay sông Cái, phát nguyên từ Vân Nam dài 1.200km, ở trên cao 2.000m, chảy theo chiều tây bắc – đông nam. Đến Lào Cai thì sông Hồng thuộc địa phận Việt Nam cao 74m vá cách bể 510km. Lưu vực sông Hồng rộng đến 140.000km2 (kể từ nguồn). Phía hữu ngạn có sông Lô đều phát nguyên từ Trung Hoa. Sông Lô và sông đà cũng quan trọng lắm vì đổ rất nhiều nước vào sông Hồng ở gần Việt Trì, nên Việt Trì thành một địa điểm quan trọng, là đỉnh của bình nguyên tam giác Bắc phần. Khỏi Việt Trì, sông Hồng mở rộng từ 500 tới 1.000m; cách bể 220km nhưng chỉ cao hơn mặt bể có 10m vì thế sông ngoằn ngoèo nên phù sa lắng xuống. Sông Hồng chia ra 3 nhánh: sông Đáy ở hữu ngạn, sông Luộc và sông Đuống chảy vào sông Thái Bình ở tả ngạn, rồi chảy ra bể bằng 4 cửa chính: cửa Ba Lạt, cửa Đáy, cửa Lục và cửa Trà Lý. 2. Sông Thái Bình: Sông Thái Bình do sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam hợp thành ở Kiếp Bạc gần Phả Lại, sông Thái Bình nhờ sông Đuống và sông Luộc đưa nước sông Hồng tới nên mở rộng chảy ra biển bằng nhiều cửa: cửa Nam Triệu, cửa Cấm, cửa Vạn Úc, cửa Thái Bình. Như vậy, đất định đô miêu tả như trên chính là vùng đất từ ngã ba Hạc về tới núi Hùng – nơi có đền Hùng, mộ Tổ bao gồm thành phố Việt Trì “trước mặt ba sông tụ hội, hai bên có Tản Viên (Ba Vì). Tam Đảo chầu về” và ba bề bãi rộng bồi đắp phù sa cho tới nơi có “ngọn núi đột ngột nổi lên như con voi mẹ nằm giữa đàn con”, là ngọn núi Hùng thuộc làng cổ tích, xã Hy Cương, huyện Phong Châu (xưa là huyện Lâm Thao). * Xin nói rõ thêm về núi Hùng: Sách Đại Nam Nhất Thống Chí chép về núi Hùng Vương như sau: Núi Hùng Vương ở xã Hy Cương cách huyện Sơn Vi 12 dặm, cũng gọi là núi Hy Cương, lại gọi là núi Bảo Thiếu hình thế tròn trĩnh, xanh tốt lạ thường. Sách Địa Dư Chí của Lê Đại Cương chép rằng: “Mạch núi từ Tam Đảo đổ xuống, kéo qua địa phận các huyện Lập Thạch, xuyên qua sông Lô, đi qua địa phận các huyện Hùng Quan và Tây Quan kéo đến phía Tây, núi non la liệt. Ở phía Đông có sông Đà lượn quanh, lại có các ngọn nước tụ hội ở ngã ba sông, thật là cực lớn về phong thủy. Xưa vua Hùng dựng cung điện nơi đây, nay trên núi có miếu Hùng Vương, bên cạnh miếu có hai cột đá lại có chùa Thiên Quang. IV. Văn minh. Sinh hoạt ở thành Phong Châu. Vua Hùng chọn đất Phong Châu làm kinh đô của nước Văn Lang, từ ngã ba sông Bạch Hạc về tới núi Nghĩa Lĩnh. Vùng Kim Đái là nơi các lạc hầu đóng, có quả đồi tên gọi Tháp Lọng là nơi các quan làm việc. Khi về chầu vua, các quan xuống thuyền đi theo một con ngòi (Tất cả các địa danh trong truyền thuyết này đều gọi theo tên ngày nay. Xã Kim Đức tức là Kim Đơi, tên tục là kẻ Đơi huyện Phù Ninh. Ở đồi Tháp Lọng có đào được 30 thoi đồng cổ hình răng bừa không rõ là khí vật gì. Cạnh con ngòi có một di chỉ sơ kỳ đồ đồng trên đồi Hàm Long). Vùng Cẩm Đội là nơi các lạc tương đóng và là nơi rèn tập quân sĩ. Có nơi tập bắn cung nỏ (Cẩm Đội tên tục là kẻ Đọi nay là một thôn của xã Thụy Vân huyện Lâm Thao. Vùng Cẩm Đội ở đây bao gồm cả xã Thụy Vân ngày nay, ở gần thành phố Việt Trì, bên bờ sông Thao. Ở xã này có các di chỉ sơ kỳ đồ đồng: Gò Tro trên, Gò Tro dưới, đào thấy giáo và rìu chiến). Xã Tiên Cát là nơi các vợ vua ở và là nơi vua lập lầu kén rễ (Tiên Cát nay là địa điểm nhà máy mì chính và một số cơ quan tỉnh. Xã Tiên Cát trước có tên tục là kẻ Gát, ở đây có di chỉ đồ đồng). Xã Lâu Thượng là nơi vua làm việc. Xã Dữu Lâu là vườn trầu lớn của nhà vua. (Lâu Thượng và Dữu Lâu ở giáp nhau, bên bờ sông Lô. Lâu Thượng tên tục là kẻ Sủ và Dữu Lâu là kẻ Trầu). Xã Minh Nông là nơi Vua Hùng dạy dân cấy lúa, có đồi Mã Lao là nơi vua đi chơi thường nghỉ ngựa ở đó (Minh Nông thuộc Việt Trì, tên tục là kẻ Lú hay Nú). Vua Hùng thường về các vùng xung quanh đô thàng để săn bắn, đi về các xã Phù Lỗ, An Đạo, Bình Bộ (các xã này đều thuộc huyện Phú Ninh và ở gần đền Hùng) và có khi đi xa về tới núi Thắm (núi Thắm thuộc xã Vũ Lao, huyện Thanh Ba). Hồi tưởng và truy tìm về cội nguồn của dân tộc, về Ông Tổ khai sáng ra đất nước, chúng ta mới thấy hồi đó Hồng Bàng Thị chỉ là một bộ tộc chưa có văn minh, chưa có khoa học như ngày nay, thế mà ý thức của bộ tộc đó thật là kỳ vĩ, thật là sáng ngời khiến chúng ta phải khâm phục, phải kính nể, phải cố gắng, phải noi theo, đồng thời phải thực hiện cho bằng được như lời của Hồ Chủ Tịch” “Các vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”. Ngoài ra, còn phải phát huy, phát triển (ít ra) cũng y như tinh thần của người sáng lập ra đất nước này. * Thứ nhất: (Phạm vi Địa là không gian thuộc Âm). - Những bài trích dẫn ghi trên đã minh họa cho truyền thuyết, vẽ bức tranh toàn đồ, khái quát địa lý Việt Trì với ba sông Lô, Thao, Đà tụ hội (là tụ thủy) với hai dãy Tản Viên, Tam Đảo hai bên (là tụ sơn). + Tả Thanh Long là dãy Tam Đảo sơn. + Hữu Bạch Hổ là dãy Tản Viên sơn. Và núi Hùng ở hạt Lâm Thao là nơi đặt lăng miếu nhà Hùng. - Truyền thuyết không chỉ cho biết về kinh đô thời Văn Lang được đặt ở đất nào, mà còn cho thấy việc họn đất định đô của Hùng Vương quả là thận trọng và có nhiều cân nhắc sáng suốt. * Thứ nhì (Phạm vi nhân là hình khí thuộc Âm Dương giao) - Với huyền tích Lạc Long Quân là giống Rồng, ở dưới nước thuộc Thủy phối với Âu Cơ là giòng Tiên ở trên cao thuộc Hỏa. + Thiên nhứt sinh thủy. + Địa nhị sinh hỏa Là Thủy Hỏa Ký Tế (Hợp giã: hiện hợp, đã xong). - Rồi hai người lại chia tay, Lạc Long Quân dẫn 50 người con đi xuống biển (Thủy). Âu Cơ dắt 50 người còn lại đi lên núi (Hỏa) là Hỏa Thủy Vị Tế (Thất giã: chưa xong, không đúng cách). Nói cách khác, nội dung của truyền tích có thể giải mã thành thông tin: - Thủy là CHẤT, có hình. - Hỏa là KHÍ, không (có) hình. Hai thứ đó nương tựa vào nhau: một bên là KHÍ BIẾN. Một bên là HÌNH HÓA, tạo thành dòng biến hóa liên tục. - Khí tụ lại thành chất. - Chất hiệ rõ thành hình. - Hình tan ra thành khí. (Ví dụ: người (chất) chết, lúc sình lên thì bốc ra mùi (khí) không thể ngửi được. * Thứ ba. ( Phạm vi Thiên là ý thức thuộc Dương) - Người xưa đã chọn Vật Tổ của mình là một loài chim có tên là Hồng Hộc (hay Hồng Lạc) làm biểu tượng. Thì chúng ta có thể đoán ý tiền nhân qua vật tượng đó như sau: Ảnh: Vân Trang * Chim là loài có khả năng bay lên, đáp xuống (hoặc xẹt qua, xẹt lại) ở bất kỳ nơi nào. Do đó, có thể nói chim là đại biểu cho cái thần (tinh thần) của dân tộc “Linh thông kỳ ảo”.(Âm Dương bất trắc chi vị Thần) Hồng là lớn. Nếu hiểu rộng ra “lớn là trùm khắp hết, là đồng, là thời gian, là tánh…”. Còn Bàng (là đầy lớn, không thuần túy) là Dị, là Tình thì "Tình thâm nhi văn minh”. Nếu như lời giải mã trên mà đúng được với ý của người đã có công khai quốc – kiến quốc – lập quốc – hưng quốc – là họ đã dùng Đức (là tình thâm) làm gốc để cho cành, ngọn là Tài hiển lộ (tức văn minh), thì ngày nay chúng ta” “Uống nước phải nhớ đến nguồn Yêu (đất) nước không quên công lao của tổ tiên”. Người đã xây dựng “Bốn nghìn năm văn hiến”. “Âm hà đương tư nguyên Ái quốc mạc vong Tổ”. ----------------------------------- Tham khảo: - Truyền thuyết Hùng Vương của Nguyễn Khắc Xương. - Thời đại Hùng Vương của Văn Tân. - Kinh đô Văn Lang. Kỷ yếu. - Hồng Tử Uyên Học Án. Tập Nhân Bản).
-
Tổng thu = 12.597.000VND Tổng chi = 9.981.000VND Còn lại = 2.616.000VND Như vậy sau khi tính toán thư chi cả 5 đợt, thì số tiền còn lại là 2.616.000VND, số tiền này sẽ được trừ dần vào tiền viện phí của chị Nga, Thủy Tiên sẽ tiếp tục công bố lên diễn đàn cho những khoản thu chi sau.
-
Thủy Tiên xin tổng kết thu - chi đợt 5 như sau: Đợt 5: Hoài Châu = 2.347.000VND VO THUONG = 200.000VND Chị Tâm (Cháu Cô Wildlavender) = 50.000VND Tổng cộng: 2.597.000VND Đã chi = 1.700.000VND Còn lại = 897.000VND
-
Thưa Bác Thiên Sứ! Con xin nêu ra trường hợp của Ba con Khi con chào đời là Ba chỉ còn có 1 chân thôi, Mẹ nói là Ba bị nghẽn tĩnh mạch, làm cho Ba đau nhức và phải cưa chân. Đến năm con 4 tuổi thì Ba lại cưa chân thứ 2, chưa tới gối, con vẫn còn nhớ rõ hình ảnh chân Ba bị bó bột và vẫn còn rớm máu, và những lần nhức nhói tiếp theo sau đó cũng làm cho chân Ba ngắn dần đi. Con còn nghe Mẹ kể có khi các ngón tay của Ba nhức quá và Ba đã tự lấy dao mà chặt đứt dần những ngón tay của mình. Cả mười ngón tay của Ba đều không còn. Và Ba luôn mang mặc cảm trong lòng, nên khi ở nhà có tiệc gì thì Ba đều vắng mặt cả. Tuy nhiên Ba câu cá rất giỏi, cực giỏi, giám đốc, đại gia tình nguyện tới nhà, cõng ba trên lưng và đưa ra xe, đi các Tỉnh để học cách câu cá. Tuy nhiên Ba sống rất có tình, luôn luôn đối đãi tốt với những người cung quanh, câu được những con cá to thì trên đường về, chở con trên chiếc xe lăn mà Ba đã mang đi cho hết những con cá lớn, chỉ để lại cá nhỏ mang về cho Mẹ làm đồ ăn thôi. Và đến khi Ba mất đi lại rất nhẹ nhàng, thanh thản, khách tới viếng lúc nào cũng đông và ai cũng đau lòng cả. Điều con đang muốn hỏi Bác là có phải nghiệp của Ba con quá lớn và đã phải chịu sự đau đớn về mặt thể xác và tinh thần tột cùng như vậy hay không? Và có trường hợp nào mà chịu nghiệp trước rồi mới đạt được phước lành? Mong Bác giải thích giùm con. Chúc Bác vui, khỏe!
-
Lưu ý: Những bài trích dẫn từ các nguồn khác, chỉ là tài liệu tham khảo. Không phải quan điểm chính thức về học thuật của Phong Thủy Lạc Việt. Trung cung của căn hộ Nguồn: www.baymau.net Trung cung là khái niệm phong thủy để chỉ một khu vực trung tâm nằm trong không gian sống cơ bản của ngôi nhà (hoặc rộng hơn là miếng đất, vùng đất). Xác định trung cung nhằm tạo tiền đề tiếp tục phân chia các khu chức năng theo phương vị trước – sau – trái – phải, theo các hướng (hình 1 – Trung cung một căn hộ rơi vào vị trí hành lang). Mặt bằng các căn hộ chung cư thường giống nhau giữa các tầng trên – dưới ở các khu vệ sinh, bếp. Tuy nhiên, có một số vị trí căn hộ trên –dưới không trùng nhau (khi có sự thay đổi diện tích căn hộ). Do đó, gia chủ cần quan sát, bố trí sao cho phần trung cung và các khu vực khác trong căn hộ của mình ít chịu ảnh hưởng của căn hộ bên trên và cũng không gây ảnh hưởng xuống căn hộ lầu dưới.Phần trung cung của căn hộ thường rơi vào vị trí đi lại, nhằm kết nối các phòng chung quanh. Do đó, bạn tránh ngăn chia hay bố trí sinh hoạt (ăn, ngủ) tại vị trí này. Khi phân chia chức năng, cách bố trí phổ biến của các chung cư là khu bếp, ăn và vệ sinh thường gần nhau và về một phía (hình 2), nên những không gian còn lại tập trung quanh trung cung. Tuy nhiên, trung cung của căn hộ không như trung cung của nhà vườn hay nhà phố, khả năng thông thoáng và chiếu sáng ít hơn nhiều. Bạn cần bố trí đèn chiếu sáng tốt hơn cho vùng trung cung và tránh ngăn chia nhiều để tận dụng ánh sáng thiên nhiên vào trung cung (hình 3). Bếp của căn hộ chung cư cần tạo vách ngăn hoặc ống hút để tránh lan mùi ra phòng khách và các không gian sinh hoạt. Một số căn hộ chung cư bố trí theo kiểu không gian mở, chỉ làm cố định khu vệ sinh và bàn bếp, các phòng còn lại để trống. Nhưng thực ra, trong mỗi gia đình vẫn phải có những không gian riêng tư như phòng ngủ, nơi thay đồ, góc làm việc yên tĩnh (mang tính âm). Về mặt phong thủy, việc phân chia không gian tốt – xấu nên dựa trên yếu tố âm dương cân bằng, tránh biến căn hộ trở nên thuần âm quá (ngăn chia nhiều, phải bật đèn cả ban ngày). Nhưng gia chủ cũng không thể làm theo kiểu thuần dương quá (để trống hoàn toàn). Những căn hộ nằm về hướng bất lợi (nắng gắt, tầm nhìn xấu), gia chủ phải tự cân bằng thông qua hệ thống rèm, bình phong, dùng màu sắc và vật dụng để giảm bớt xung sát ngoại cảnh (hình 3).
-
Lưu ý: Những bài trích dẫn từ các nguồn khác, chỉ là tài liệu tham khảo. Không phải quan điểm chính thức về học thuật của Phong Thủy Lạc Việt. Chọn màu cho công ty www.phongthuydongphuong.com Nhiều nghiên cứu cho thấy việc xây dựng thương hiệu nên bắt đầu bằng cách chọn màu cho logo và các sản phẩm của công ty. Coca-Cola, McDonald, KFC chọn màu đỏ, Pepsi, Samsung, IBM chọn màu xanh. Những công ty này hiểu rất rõ việc sử dụng màu sắc thích hợp là yếu tố nền tảng để tạo ra hình ảnh tích cực nơi khách hàng …Hơn nữa, màu sắc còn đóng vai trò vô cùng lớn trong việc khơi dậy trí nhớ của con người. Chẳng hạn, màu tím hoa sim còn gọi là tím Huế. Màu vàng của hoa mai làm người miền Nam nhớ Tết. Màu hồng nhạt của hoa đào làm người miền Bắc nhớ quê. Màu sắc còn khơi dậy cho người ta nhiều cảm xúc, nhanh chóng truyền tải thông điệp không giống bất cứ một phương tiện giao tiếp nào. Vì vậy, chọn một màu phù hợp cho công ty là việc làm hết sức quan trọng khi xây dựng thương hiệu. Màu được chọn, nên trước sau như một, khi xuất hiện trên bất cứ tài liệu quảng bá nào của công ty như logo hay bao bì sản phẩm. Và màu này cũng nên phù hợp với ngành mà công ty đang và sẽ kinh doanh vì gắn với sự hứa hẹn toát lên từ thương hiệu. Ngoài ra, chọn màu cho công ty nên tính đến yếu tố tâm lý. Những gợi ý dưới đây chỉ để bạn tham khảo. Màu xanh: Cho người ta cảm nhận về sự tin tưởng và tính bảo đảm. Màu xanh khiến người ta liên tưởng đến trời và biển, tạo cảm giác thanh bình và truyền cho người ta sự tin cậy. Màu đỏ: Thường kích thích tuyến yên, làm tăng nhịp đập của tim và khiến người ta thở gấp. Phản ứng nội tạng của cơ thể khi tiếp xúc với màu đỏ khiến người ta năng nổ, mạnh mẽ, dễ bị kích thích. Chọn màu đỏ dễ gây cho người ta một sự đáp ứng say mê, dù không phải khi nào sự đáp ứng này cũng theo hướng thuận lợi. Ví dụ, màu đỏ thường là biểu hiện của sự nguy hiểm, vỡ nợ. Nhìn chung, người châu Âu không mấy ưa màu đỏ, trái lại, người châu Á coi màu đỏ là may mắn, thể hiện tinh thần quyết thắng. Màu xanh lá cây: Nhìn chung, màu này bao hàm ý nghĩa sức khỏe, tươi mát và êm đềm. Gam màu đậm nhạt cũng có ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn màu xanh lá cây đậm biểu trưng cho sự giàu có và thanh thế. Màu xanh lá cây nhạt thể hiện sự êm đềm. Màu vàng: Cả Đông và Tây đều coi màu vàng tượng trưng cho mặt trời, thể hiện sự lạc quan, tích cực và ấm áp. Ở mức độ đậm nhạt khác nhau tùy người cảm nhận, màu vàng còn thể hiện sự sáng tạo và sinh lực. Mắt người ta thường nhận ra màu vàng trước tiên, vì thế sản phẩm có màu vàng dễ bắt mắt người mua hàng khi đặt trên kệ hàng cùng với các sản phẩm khác. Màu tím: Màu thích hợp để chọn làm thương hiệu cho những sản phẩm thuộc loại mang tính sáng tạo. Pha trộn giữa màu đỏ và xanh, màu tím kích thích điều huyền bí, sự tinh vi, sự coi trọng yếu tố tinh thần và màu tím thường gắn liền với hoàng tộc. Màu tím nhạt kích thích niềm hoài cổ và tính đa cảm. Màu hồng: Tín hiệu phát ra từ màu hồng là sự xúc cảm mãnh liệt. Màu hồng đậm thể hiện sinh lực, sự trẻ trung, vui nhộn và sôi nổi. Màu hồng thích hợp cho các sản phẩm không đắt tiền và có tính thời trang dành cho các bà và các cô. Màu hồng nhạt tạo cảm giác dễ mến, càng nhạt càng lãng mạn. Màu cam: Tạo cảm giác vui vẻ, cởi mở và sức sống. Màu cam trộn giữa đỏ và vàng tạo cảm giác tập thể và thường gắn với tuổi thơ. Nghiên cứu cho thấy màu cam nhạt hấp dẫn với loại hàng hóa dành cho thị trường cấp cao, thích hợp cho dịch vụ y tế, khách sạn và các viện chăm sóc sắc đẹp dành cho phái nữ. Màu nâu: Thể hiện tính mộc mạc, đơn giản, bền bỉ và ổn định. Tuy vậy, màu nâu dễ tạo cho một số người cảm giác thiếu tích cực vì bị cho là không sạch. Màu nâu của gốm tạo cho người ta cảm giác giá trị. Màu nâu liên quan đến màu của đất nên thích hợp cho các loại xe tải và các công ty hoạt động trong ngành công nghiệp. Màu đen: Thể hiện tính nghiêm túc, táo bạo, quyền uy và cổ điển. Màu đen tạo ra kịch tính và sự tinh vi, phù hợp với các sản phẩm đắt tiền nhưng cũng làm cho sản phẩm trông có vẻ nặng nề. Màu trắng: Màu này hàm chứa sự đơn giản, sạch sẽ và tinh khiết. Con mắt người nhận ra màu trắng là màu sáng nên sản phẩm mang màu trắng dễ nổi bật. Màu trắng thích hợp cho các sản phẩm liên quan đến lứa tuổi nhi đồng và liên quan đến sức khỏe. Để đơn giản, khi bạn chọn các màu trên cho nhãn hiệu của công ty mình, trước tiên nên phân thành hai nhóm cơ bản: Màu nóng và màu lạnh (âm hay dương), từ đó đối chiếu với loại hình hàng hóa, dịch vụ của mình mà ra quyết định. Nhìn chung, màu ấm như đỏ, vàng phát đi tín hiệu mạnh mẽ, trong khi màu trắng, màu xanh thì bình yên và dè dặt. Vì vậy, khi chọn màu lạnh, bạn nên chọn gam màu nhạt để tăng sức mạnh và giảm tính dè dặt do các màu này tạo ra.
-
Đông y với chứng chóng quên BS. Mai Phương Theo Sức Khoẻ & Đời Sống Chóng quên Đông y gọi là kiện vong là bỗng chốc lại quên, việc làm vừa xong là quên, lời mới nói ra đã quên. Như vậy, chóng quên cũng là trí nhớ kém, dễ quên việc và khó nhớ ra, vì vậy làm việc thường không đến đầu đến cuối. Về nguyên nhân gây bệnh và phép điều trị, Nam dược thần hiệu ghi: “Lo nghĩ thái quá thương tổn đến tâm, tâm đã thương tổn thì huyết hao kiệt, tâm thần không vững, lại hại đến tỳ, làm vị khí suy yếu, cho nên bệnh này phát ra đều bởi hai hạng tâm và tỳ, phép chữa nên an thần dưỡng huyết, bớt tư lự trừ hư phiền, có vậy mới bảo đảm được khỏi bệnh”. Chu Đàn Khê viết: “Chứng này do suy tư quá độ, làm tổn thương tâm bào, làm cho chỗ ở của thần không trong sạch, gặp sự việc hay quên và suy tư quá độ thì gây bệnh tâm tỳ” (thử chứng giai do vu ưu tư quá độ, tổn kỳ tâm bào, dĩ chí thần sá bất thanh, quá sự đa vọng, nãi tư lự quá độ, bệnh tại tâm tỳ). Uông Ngưỡng viết: “Tình và chí của người ta tàng ở thận, thận tinh không đủ thì chí khí suy, thận khí không thông lên tâm được cho nên mê muội chóng quên” (nhân chi tinh dữ chí giai tàng vu thận, thận tinh bất túc tắc chí khí suy, bất năng thượng thông vu tâm, cố mê hoặc thiện vong dã). Như vậy ngoài tâm tỳ hư, thận tinh tủy suy không nuôi dưỡng được não tốt làm cho chóng quên. Từ lập luận trên, đông y chia làm 4 thể: thận âm hư, tâm khí không đủ, tâm tỳ hư, đờm trọc, đờm ẩm. Chóng quên do tâm thận bất giao Triệu chứng: Phòng sự vô độ chóng quên, hoảng hốt thần chí không yên, ngủ ít, tâm phiền, tai ù, miệng khô, lưng mỏi, di mộng tinh, mạch tế. Phép điều trị: Bổ ích tâm thận. Bài 1: Địa hoàng 40g, hoài sơn 20g, sơn thù 20g, trạch tả 16g, phục linh 16g, đơn bì 16g, ngũ vị tử 12g, viễn chí 16g. Cách dùng: Tất cả các vị sấy khô, tán bột hòa với mật ong làm viên, mỗi viên 2g, ngày uống 8 viên chia làm 2 lần. Địa hoàng để bổ thận âm, sơn thù để tư thận ích can, hoài sơn để tư thận bổ tỳ, đơn bì để can hỏa, trạch tả để tư thận giáng trọc, phục linh để kiện tỳ trừ thấp. Thêm ngũ vị tử để liễm nạp khí, viễn chí để an thần. Bài 2: Thạch xương bồ 80g (tẩm nước vo gạo phơi khô), địa hoàng 40g, hoài sơn 20g, sơn thù 20g, trạch tả 16g, phục linh 16g, đơn bì 16g. Cách dùng: Tất cả các vị sấy khô, tán bột hòa với mật ong làm viên, mỗi viên 2g, ngày uống 8 viên chia làm 2 lần. Chóng quên do tâm khí không đủ Triệu chứng: Chóng quên, tim đập hồi hộp, đạo hãn. Phép điều trị: An thần củng cố khí. Sinh địa 60g, nhân sâm 16g, đan sâm 16g, huyền sâm 16g, thiên môn 32g, mạch môn 32g, bá tử nhân 32g, toan táo nhân 32g, quy thân 32g, bạch linh 16g, ngũ vị tử 16g, viễn chí 16g, cát cánh 16g, chu sa 2g. Cách dùng: Tất cả các vị sấy khô, tán bột hòa với mật ong làm viên, mỗi viên 2g, ngày uống 8 viên chia làm 2 lần. Trong đó sinh địa, mạch môn, thiên môn, huyền sâm để tư âm thanh hư nhiệt để ích khí ninh tâm; táo nhân, ngũ vị để liễm tâm khí, an tâm thần; bá tử nhân, viễn chí, chu sa để dưỡng tâm an thần. Chóng quên do tâm tỳ hư Triệu chứng: Chóng quên, tim đập hồi hộp, mất ngủ, mộng nhiều, ăn kém, bụng trướng tiêu lỏng, mệt mỏi, lưỡi nhợt, mạch tế hư. Phép điều trị: Bổ tâm ích khí. Hạt sen (liên tử) 100g tán nhỏ, nấu cháo hoa ăn hằng ngày, ăn càng lâu càng tốt, để tăng tâm chí sáng tai mắt. Nhân sâm 5g, hoàng kỳ 10g, bạch truật 10g, cam thảo 2g, phục thần 2g, long nhãn 10g, toan táo nhân 10g, viễn chí 1g, mộc hương 5g, đương quy 10g. Cách dùng: Cho 1.000ml nước sắc còn 250ml, sắc 2 lần, 2 ngày uống 1 thang. Trong đó sâm, kỳ, truật, thảo, khương táo để bổ tỳ ích khí; đương quy dưỡng huyết; táo nhân, long nhãn, viễn chí để dưỡng tâm an thần. Mộc hương để lý khí tỉnh tỳ. Chóng quên do đờm trọc, đờm ẩm tràn lên Triệu chứng: Chóng quên, người nặng nề bụng trướng, đờm nhiều dễ nhổ. Phép điều trị: Hóa đờm ninh thần. Nhân sâm 4g, trần bì 4g, bán hạ (chế) 2g, phục linh 4g, cam thảo 4g, hương phụ (chế) 4g, ích trí nhân 4g, ô mai 4g, trúc lịch 6g, gừng tươi 1g. Cách dùng: Cho 1.000ml nước sắc còn 250ml, sắc 2 lần, 2 ngày uống 1 thang. Trong đó sâm để bổ khí, ích trí nhân để an tâm dưỡng thận, ô mai, trúc lịch, trần bì, bán hạ, phục linh, cam thảo để lý khí hóa đờm.
-
Chữa các bệnh phụ nữ bằng... trứng DS Trần Xuân Thuyết Thuốc & Sức Khỏe Theo đông y, trứng không chỉ là thực phẩm bổ dưỡng mà còn là vị thuốc quý, có thể chữa được nhiều bệnh, đặc biệt là các bệnh phụ nữ, khi phối hợp với các vị thuốc khác. Bạn có thể yên tâm áp dụng những bài thuốc sau vì nếu không hiệu quả thì chúng cũng không gây hại gì cho sức khoẻ.- Bế kinh: Trứng vịt bỏ vỏ 3 quả, rượu trắng (30-40 độ) 150 ml, gừng tươi bỏ vỏ lát mỏng 20 g. Cho tất cả vào nồi đun cho đến khi chín trứng, chia làm 2 lần ăn trong ngày. Dùng thuốc trên trong 7 ngày. - Tắc kinh: Thanh nữ 17-18 tuổi mà chưa có kinh hoặc có kinh ngắt quãng 2-3 tháng thì dùng trứng gà 2 quả, xuyên khung thái mỏng 10 g, nước 2 bát. Cho tất cả vào nồi sắc đến khi còn một bát nước, ăn trong 7 ngày, mỗi ngày 1 lần. - Thống kinh, kinh nguyệt không đều: Trứng gà 2 quả, ích mẫu non mới lên ngồng phơi khô thái nhỏ 20 g, nước 2 bát. Cho ích mẫu vào sắc cùng với trứng 30 phút, sau đó bỏ trứng ra bóc vỏ, sắc tiếp cho đến khi còn một bát, bỏ bã cho trứng vào đun tiếp 20 phút. Ngày ăn 2 lần, kể từ sau khi hành kinh một tuần. Dùng liên tục trong 10 ngày. - Thiếu sữa: Trứng gà luộc chín bỏ vỏ 2 quả, vừng rang chín giã nát với chút muối vừa miệng 30-40 g, chấm trứng gà với muối vừng ăn 2 lần mỗi ngày, ăn hằng ngày. - Cao huyết áp, bốc hoả tiền mãn kinh: Trứng muối bỏ vỏ 1 quả, thịt con trai (một loại nhuyễn thể) 50 g, gạo tẻ 50 g, gia vị, cho tất cả vào nấu thành cháo, chia làm 2 lần sáng và chiều, ăn trong 5 ngày. - Kinh nguyệt quá nhiều, chảy máu cam không ngừng, trĩ ra máu: Trứng gà 2 quả, hoa mào gà trắng 25 g, nước 2 bát. Thái nhỏ hoa mào gà, cho nước và trứng vào sắc lấy một bát, khi trứng chín bóc vỏ lại cho vào đun tiếp. Ăn trong 3-7 ngày, mỗi ngày 2 lần. Nếu không có hoa mào gà trắng thì dùng loại vàng hoặc đỏ.