PhucTuan

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    76
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by PhucTuan

  1. Quả thật nếu đưa Kim Tự tháp vào chuyên mục bàn luận phong thủy thì thật là đúng đắn. Quan điểm Kim Tự tháp lẫn Angkor Wat là do một nền văn minh siêu việt xây dựng nên là chính xác, chỉ có điều cần thêm dẫn chứng. Kim Tự tháp, Angkor Wat, Himalayas, Đảo Phục sinh.... và một số địa danh nổi tiếng khác đều được xây dựng một cách tuyệt đối khoa học. Tất cả các địa danh trên đều có 1 điểm chung đó là năm trên "Long mạch" của trái đất hay còn gọi là 1 hệ thống các dòng năng lượng di chuyển bên dưới lòng trái đất. Riêng về Kim Tự tháp thì theo các nhà khoa học chứng minh có 2 điểm sau: - Xây dựng theo tròm sao trên trời, - Xây dựng nằm trên dòng năng lượng của trái đất Theo quan điểm riêng của PhucTuan thì người Ai Cập cổ an táng vua và hoàng hậu vào Kim Tự tháp không phải là vô lí. Bởi vì theo quan niệm của phương Đông, thì họ đã lấy được địa khí từ dòng năng lượng của trái đất và họ đã lấy được thiên khí qua đường thông hơi (đường thông hơi phía nam phòng Vua xếp thẳng với chòm sao Orion, đường thông hơi phía Bắc cỉa Hoàng hậu xếp thẳng với chòm sao Sirius) mà PhucTuab đã trình bày ở bài viết sau http://www.lyhocdong...nh-ai-cap-1698/. Thậm chí khi chúng ta để ý đến vị trí sắp xếp thì sẽ thấy rõ 1 điểm khá trùng hợp với quan niệm phương Đông, Vua - Đàn ông - Dương thì phòng hướng về phía Nam - Dương, Hoàng Hậu - Đàn bà - Âm thì phòng hướng về phía Bắc - Âm. Nếu trình bày thì còn dài dòng PhucTuan xin phép trình bày ở một bài viết đầy đủ khác.
  2. Kính gửi ban quản trị diễn đàn lyhocdongphuong Tôi là thành viên trong diễn đàn cũng đã lâu. Nhưng trong khoảng thời gian đã lâu tôi không post bài lên diễn đàn. Hiện tại, tôi muốn trả lời ngay trong chủ để mà tôi đã lập không được. Kính mong ban quản trị xem xét. Xin chân thành cảm ơn!
  3. Gửi anh BabyWolf http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/13763-thien-van-hoc-va-van-minh-ai-cap/
  4. Trước hết cháu xin có lời chào tới tất cả mọi người trong diễn đàn! Cháu có một thắc mắc muốn có lời giải đáp. Chuyện là thế này: Tối qua cháu đang ngồi ăn cơm và xem thời sự ở kênh VTV1, đến mục đưa tin "64 năm bình dân học vụ". Lúc đầu cháu cũng không để ý lắm, nhưng khi xem đến một đoạn phim có một người đàn ông (rất có thể là thày giáo) đang dạy học, cháu nhìn lên bảng chữ thì lại là một loại kí tự giống như khoa Đẩu như hình dưới: Thật là cháu không thể hiểu nổi :( ??? Cháu tìm thông tin trên mạng thì thấy bình dân học vụ là phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn dân được phát động vào ngày mung 8 tháng 9 năm 1945. Vậy mà ở trong thước phim tư liệu chiếu lại viết một thứ chữ như chữ Khoa Đẩu mà lại không phải là chữ quốc ngữ??? Nhìn ra phía xa ở bức ảnh trên thì thấy có một ngọn núi cao => đây là vùng hẻo lánh, hoặc ở Tây Bắc. Sở dĩ cháu có ý kiến như vậy là vì trước đoạn phim này có một hình ảnh nữa: Người phụ nữ mặc cái áo hoa ở bức ảnh trên, mặc một chiếc áo có cổ rất giống với dân tộc thái Nhìn sơ qua cũng thấy nhà xung quanh toàn là tranh tre vách nứa, vậy mà thày giáo lại dạy chữ "dân tộc", thật là không biết ai xóa mù chữ cho ai đây :( Hơn nữa vào thời điểm năm 1945 việc quay phim làm tài liệu này là một việc quan trọng, không hiểu là người quay phim này cố ý hay vô tình quay thước phim này :P Hoặc giả dụ là người thày giáo này biết cả 2 loại chữ (tạm gọi là chữ dân tộc và chữ quốc ngữ) thì đáng lẽ dưới mỗi chữ phải dịch ra cả chữ quốc ngữ ví dụ thế này: Nếu nói là có thể viết chữ dân tộc trước rồi sẽ dịch ra chữ quốc ngữ sau thì cái đấy cũng rất khó vì người thày giáo này đã viết xuống dòng thứ 2 rồi không còn đủ chỗ trống dịch ra chữ quốc ngữ cho dòng thứ 1 nữa. Hoặc là viết cả 2 dòng rồi dịch ra chữ quốc ngữ một thể => nhưng mà cái này khó có thể xảy ra được vì như thế học rất khó nhớ, chữ người ta còn chưa biết làm sao mà có thể dạy kiểu đấy được. Khi cháu nhìn vào bảng so sánh: Theo ý kiến chủ quan của cháu thì cái chữ viết của thày giáo không thấy giống chữ Thái Tây Bắc lắm mà lại có phần nhiều giống chữ khoa đẩu hơn. Cháu thực sự muốn biết chữ "dân tộc" ở bức ảnh trên là loại chữ gì? Mong có các anh, chú và bác nào biết có thể giải thích giùm cháu. Nếu bài viết trên cháu có gì sai xót, mong mọi người bỏ qua cho cháu! http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=...t&redlink=1
  5. Mọi thứ liên quan đến vòng xoắn ốc đúng là huyền bí. Cháu chỉ thấy trong các nền văn minh cổ xưa trên toàn thế giới có rất nhiều điều kì bí liên quan đến cái xoắn ốc này, đặc biệt là liên quan đến thiên văn học. Trong một bài đã đăng trên diễn đàn về thiên văn học của người da đỏ Anasazi (http://www.lyhocdongphuong.org.vn/News/03/Nhung-Cong-Trinh-Cua-Nguoi-Anasazi-Va-Thien-Van-Hoc/35/2317/). Vòng xoắn trong bài viết này có đúng 9 rãnh, sự vận động của mặt trăng di chuyển và được đo đạc theo đúng một chu kì 9 1/4 năm. Điều này bản thân cháu nghĩ cũng có gì đó liên quan đến chu kì chuyển động của các sao trong cửu cung. Thứ kiến thức cao siêu như thế này có lẽ chỉ có 1 những được diễn giải ở muôn vạn hình thức khác nhau. Cháu nghĩ cũng có thể vòng xoắn ở bãi đá cổ trên sapa sử dụng vào mục đích thiên văn học.
  6. Có một điều Phúc Tuấn thắc mắc là trong bài có chỉ là cóc mọc râu mà cái râu đấy hình như là sợi dây của xâu tiền xu??? Với 1 điểm lạ nữa là cóc có 4 chân nhưng không hiểu sao trong hình tượng ông cóc phong thủy này luôn luôn chỉ làm có 3 chân thôi. Nhà Phúc Tuấn có 2 ông cóc được tặng, 1 chắc là ở VN, 1 ông nữa thì có ng đi Đài Loan mua về cho, nhưng chân sau của ông cóc là thằng đối xứng với thân. Còn trong hình này lại thấy cái chân sau lệch về phía Đông Nam.
  7. Phần đầu của bài viết thiếu mất hình minh họa. Trang chủ của lyhocdongphuong lại bôi đậm những chữ chú thích trung quốc dễ làm mọi người hiểu nhầm. Hi vọng bài của anh Lãn Miên sẽ được bổ sung lại.
  8. Phở, phởn, phịa … Nguyễn Dư (Kính tặng quý ông, quý bà đã từng mê mệt vì phở) Hôm nay tôi xin được tập tễnh múa rìu qua mắt bá quan văn võ của viện hàn lâm ẩm thực, lạm bàn về phở. Thật ra thì những điều cần nói về phở đã được các chuyên gia mổ xẻ, phân tích, ca tụng từ năm xửa năm xưa hết rồi. Chỉ cần lật mấy bài viết về phở của Thạch Lam (Hà Nội ba mươi sáu phố phường, 1943), Vũ Bằng (Miếng ngon Hà Nội, khoảng 1952), Nguyễn Tuân (Phở, 1957) ra đọc là ai cũng có thể cảm nhận được hết cái ngon, cái thú, cái quyến rũ của một món quà cổ truyền của ta. Nếu vậy thì còn gì để phải nói nữa ? Ấy đấy, nếu chỉ ngừng ở chỗ ngon, ở cái thú thì chuyện đã xong từ lâu rồi. Khốn nỗi sau những giây phút no ấm ngất ngây, tinh thần sảng khoái, các chuyên gia ẩm thực lại bắt đầu... thắc mắc. Thế là chả ai bảo ai, tất cả cùng vung tay gạt bát đũa sang một bên, rủ nhau ngồi bàn luận hăng say, có người quên cả xỉa răng. Câu hỏi quan trọng đầu tiên được các vị đặt ra là phở từ đâu ra ? Nguyên Thanh (Phở, Đoàn Kết số tháng 10, Paris, 1987) , Nguyên Thắng và Xưng Xa Hột Lựu (Mũ phở khăn rằn, Đoàn Kết số tháng 7-8, Paris, 1988) đã luận bàn tỉ mỉ, chí lý về nguồn gốc của phở. Theo một số học giả thì phở vốn gốc Tàu, được Việt hóa. Tên phở đến từ chữ phấn của ngưu nhục phấn. Tuy nhiên thuyết này vẫn còn bị nhiều người phản đối khá gay gắt. Phở là món ăn hoàn toàn Việt Nam ! Tại sao cứ phải mang mặc cảm, chối bỏ nguồn gốc như vậy? Ta bị mặc cảm, nhưng tự ti hay tự tôn? Đang còn phân vân thì bỗng nghe tin Pháp đòi bản quyền tác giả của phở. Các ông ấy được tư vấn, cố vấn ra sao mà cứ nhất định rằng phở bắt nguồn từ... pot-au-feu. Thoạt nghe thấy cũng có lý. Rõ ràng là tiếng phở của ta nghe rất giống tiếng feu của Pháp. Phở phải ăn nóng... như lửa mới ngon! Eo ơi ! Thế là một số bà con Việt Nam ta thắc mắc, hoài nghi, cuối cùng ngả theo thuyết cho rằng phở là của Pháp chứ chẳng phải ta hay Tàu gì cả. Nể tình mà nói thì thực dân Pháp đến cai trị nước ta trong khoảng gần 100 năm đã để lại dấu vết của sâm banh, bít tết, ba tê, ba gai, xà lách, xà lim, cà rốt, cà nông v.v. và v.v., như vậy thì món pot-au-feu cũng có thể là cha đẻ của phở lắm chứ ? Xét về lý thì pot-au-feu được Larousse định nghĩa là món ăn làm bằng thịt bò hầm với cà rốt, tỏi tây, củ cải v.v. hoặc là tên của miếng thịt dùng để nấu món pot-au-feu. Hai định nghĩa của Larousse cho thấy rằng phở chỉ giống pot-au-feu nhiều lắm là tảng thịt bò hầm, còn lại mớ cà rốt, tỏi tây, củ cải và đồ gia vị thì xin gác qua một bên. Thịt bò hầm kiểu này cũng có mùi vị đặc biệt không giống thịt phở chín. Hơn nữa, người Pháp ăn pot-au-feu với bánh mì, khoai tây... chứ chưa thấy ai ăn với bánh phở bao giờ ! Xem vậy thì pot-au-feu khá xa lạ với phở. Các hàng phở ở Hà Nội trước đây cũng đã thử nghiệm phở sốt vang (hai tiếng sốt vang hoàn toàn đến từ tiếng Pháp) để làm vừa lòng mấy ông tây bà đầm. Tôi chưa được ăn phở sốt vang, nghe nói khá đắt vì được xào xáo với rượu vang. Thuở bé xin mẹ được một đồng bạc, đánh chén một bát phở không, không thịt, là đủ sướng mê tơi rồi. Làm sao mà biết được phở sốt vang trong tiệm của người lớn. Sau này có tiền muốn ăn cũng không được vì món này chết yểu rất sớm. Đông và tây khó mà gặp được nhau trong bát phở. Cái lý nó khuyên ta không nên lẫn lộn hai món ăn cổ truyền của hai quốc gia văn hiến. Nhưng nói như vậy chỉ là nói suông! Đành rằng ta vừa có tình vừa có lý, nhưng rốt cuộc ta mới phê bình pot-au-feu chứ ta vẫn chưa có bằng cớ gì về gốc gác của phở để bác pot-au-feu. Xin lỗi các bạn, vì bực pot-au-feu nên tôi hơi dông dài. Bây giờ xin bàn có bằng cớ. Hy vọng rằng 2 tấm tranh dân gian Oger (1909) tôi đem ra trình làng sau đây sẽ góp phần làm sáng tỏ được vấn đề nguồn gốc và tên gọi của phở. Tấm tranh thứ nhất vẽ một hàng quà. Những ai đã từng sống ở Hà Nội năm xưa, trước 1954, chắc đều nhận ra dễ dàng đây là một hàng phở gánh. Tấm tranh vẽ một bên là thùng nước dùng lúc nào cũng sôi sùng sục, bên kia xếp tất cả những đồ cần thiết. Chúng ta nhận ra con dao thái thịt to bản, lọ nước mắm hình dáng đặc biệt, cái xóc bánh phở bằng tre đan treo bên thành, cái liễn đựng hành, mùi. Tầng dưới là chỗ rửa bát, bên cạnh có cái giỏ đựng đũa. Con dao to bản và cái xóc bánh đủ cho chúng ta biết rằng đây là một gánh phở, có thể nói rõ hơn là phở chín. Sực tắc không dùng hai dụng cụ này. Sực tắc nhúng, trần những lọn mì bằng cái vỉ hình tròn, đan bằng giây thép. Còn hủ tiếu ? Cho tới năm 1954, đường phố Hà Nội chưa biết hủ tiếu. Vả lại những xe hủ tiếu (xe đẩy chứ không phải gánh) của Sài Gòn cũng không thái thịt heo bằng con dao to bản của hàng phở chín. Tấm tranh này xác nhận rằng vào những năm đầu thế kỷ 20, ở ngoài Bắc, đặc biệt là ở Hà Nội, phở gánh còn do người Tàu (và có thể cả người Việt Nam ?) bán. Tấm tranh thứ nhì có tên là hàng nhục phấn, vẽ thùng nước dùng. Hai thùng nước dùng của hai tranh khá giống nhau. Tranh thứ nhì cho biết rằng chữ ngưu của món ngưu nhục phấnsang đầu thế kỷ 20 bắt đầu bị rơi rụng. Tên món ăn trở thành nhục phấn. Trong bài Đánh bạc của Tản Đà được viết vào khoảng 1915-1917 có đoạn : (...) Trời chưa sáng, đêm còn dài, thời đồng tiền trong tay, nhiều cũng chưa hẳn có, hết cũng chưa chắc không. Tất đến lúc đứng dậy ra về, còn gì mới là được. (...) Có nhẽ đánh bạc không mong được, mà chỉ thức đêm ăn nhục phơ ? Tản Đà gọi nhục phấn là nhục phơ. Chữ phấn chuyển qua phơ trước khi thành phở. Phơ của nhục phơ (chứ không phải feu của pot-au-feu) mới là tiền thân của phở,. Tóm lại, ngưu nhục phấn đã được nói gọn thành nhục phấn từ đầu thế kỷ 20 (tranh dân gian). Nhục phấn được chuyển thành nhục phơ (Tản Đà). Ít năm sau nhục phơ được dân chúng đổi thành phở (Việt Nam tự điển, Khai Trí Tiến Đức, 1933). Năm 1943 Thạch Lam đưa phở vào văn học. Kể từ năm 1943, trong văn học cũng như trong dân chúng, tên phở được tất cả mọi người dùng. Mới bàn đến tên phở thôi mà đã ồn ào như thế, huống hồ bàn đến những vấn đề to lớn khác ! Tôi không đủ khả năng đề cập đến những vấn đề thuộc phạm trù triết lý, thẩm mỹ. Có cho húp cạn dăm ba thùng nước phở tôi cũng chịu không biết rõ mặt mũi một bát phở đúng điệu phải ra sao, một bát phở ngon phải như thế nào ? Trước khi ngừng, xin kể vài mẩu kỷ niệm của những lần được tay nâng môi kề một bát phở. Ai ơi bưng bát phở đầy... Khó quên được "phở" của bọn sinh viên chúng tôi vào những năm 65-70. Cái thời ở Pháp không kiếm đâu ra được bánh phở, nước mắm. Chúng tôi hầm thịt với muscat, đinh hương, viandox. Ăn với mì sợi, hành tây. Nghĩ lại mới thấy "phở" thời đó sao mà giống pot-au-feu thế. Thế mà đứa nào cũng khen ngon. Ôi, cái thời tuổi trẻ còn dễ tính. Mấy năm đầu của thời kỳ Việt Nam đổi mới và mở cửa... Hà Nội như một người mới ốm dậy đòi ăn giả bữa, xối xả lao mình vào... ăn trứng. Vừa bổ, vừa sang! Các cửa hàng rộn vang tiếng đòi đập thêm trứng. Bánh cuốn cũng trứng. Phở cũng trứng! Một trứng chưa đủ, vẫn còn thèm. Cho hai trứng nhé ông hàng ơi ! Nhiều con mắt liếc trộm khách hào hoa! Gọi một bát phở thường lúc này là chuyện hơi không bình thường. Xế cửa nhà tôi ở trọ có một hàng phở bình dân. Không phải phở tiệm, cũng không phải phở gánh. Hàng phở kiểu này chưa có tên trong văn học. Tạm gọi là phở hè lè tè. Bàn ăn cũng như ghế ngồi của khách, của chủ chỉ cao cách mặt vỉa hè độ 20 phân. Ai thích nước phở trong và ngọt thì nên đến ăn ở đây. Trong vắt, không một váng mỡ ! Dường như xoong nước dùng chỉ có nước, muối và bột ngọt. Mỗi bát phở được cô hàng tặng thêm lưng thìa cà phê bột ngọt. Khách muốn đậm đà hơn ? Dạ có (muối trộn bột ngọt) đây ạ. Được cái phở cũng có ớt, chanh, hành hoa thái nhỏ. Tại Huế, khu Gia Hội có một tiệm nho nhỏ nhưng chuyên làm cả một bảng các món đặc biệt. Hai ba kiểu mì xíu mại, hoành thánh, dầu chao quẩy. Ba bốn kiểu phở tái, chín, nạm, gầu. Có cả hủ tiếu Nam Vang, mì Quảng... Điểm độc đáo của tiệm là tất cả các món đặc biệt này chỉ cần một thùng nước dùng. Một hôm tôi lang thang dưới Xóm Bóng (Nha Trang). Mải la cà chụp ảnh, quá ngọ mới đi ăn trưa. May quá còn tiệm phở mở cửa. Ông chủ vồn vã mời ăn phở đặc biệt (lại đặc biệt). Khoái quá, tôi gật đầu lia lịa. Làm xong bát phở, ông chủ đi nghỉ trưa. Cả tiệm chỉ còn tôi với bát phở đặc biệt ! Ăn hết mấy sợi bánh tôi vẫn chưa hết dè dặt với cái khối gì là lạ nổi trong bát. Một lát tôi ngoắc thằng bé từ nhà trong đi ra, hỏi nó xem tôi đang ăn phở gì ? Thằng bé chăm chú dòm bát phở. Con không biết, để con hỏi mẹ. Dạ mẹ không biết, chờ lát nữa hỏi ba. Dạ ba nói là phở giò. Phở giò của Vũ Bằng đây à ? Ấy đấy, chữ nghĩa mà không rõ ràng thì thật là phiền. Nhân dịp lên kinh đô ánh sáng, tôi được bạn rủ đi ăn phở. Mời ông ăn phở ngon nhất Paris, được sách hướng dẫn du lịch khen đàng hoàng. Cho 2 tô đặc biệt ! Không đặc biệt hóa ra thua thiên hạ à ? Ông bạn trịnh trọng múc tương tàu, tương ớt ra đĩa. Ủa, sao ông nói là ăn phở ? Phở đặc biệt chính hiệu con nai vàng đây. Vừa chín, vừa tái, lại thêm bò viên, cổ hũ, lá sách. Nhiều thứ vui lắm. Ăn phở mà lại vui nữa thì nhất rồi ! Giá mà thêm tí bê thui chấm tương gừng nữa thì vui hết xẩy ! Đến Mỹ mà không đi thăm khu Tiểu Sài Gòn thì...kể như chưa đến Mỹ. Nghe bên phải bên trái người ta nói như thế. Mới chân ướt chân ráo tới Cali tôi đã vội yêu cầu được tới thăm thủ đô thứ hai của Việt Nam. Chúng tôi đi chợ, ăn phở. Hên quá, gặp lúc tiệm đang quảng cáo khuyến mại, mua một tặng một. Mua một bát phở người lớn, tặng một bát phở trẻ con. Theo thói quen, tôi bắt đầu bằng thưởng thức miếng thịt chín. Thôi nguy rồi ! Không có tăm ! Có chớ, để ở quầy trả tiền ngoài kia kìa. Mắc răng kiểu này thì chỉ còn nước ngồi ngắm mấy miếng thịt gân to bằng nửa quân bài tây, chờ mọi người ăn xong. Kỹ thuật thái thịt bây giờ tiến lắm. Đem đông lạnh, thái bằng máy, muốn to mấy cũng được. Một lần khác, trong một tiệm phở khác, tôi bị bối rối. Tàu bay, tàu thủy, tàu hỏa, hàng không mẫu hạm... Cả một thời quá khứ, chọn gì đây ? Bát thường thôi ông ạ. Mấy cái tàu to như...cái chậu, sức tụi mình không kham hết đâu ! Việt kiều Cali rất hãnh diện là nơi đây thức ăn vừa rẻ, vừa đầy nồi! Chúng ta có thể nói không ngoa là phở đã sống thăng trầm với người Việt Nam. Nơi thôn ổ hay chốn thị thành, tại quê nhà hay khắp năm châu, lúc khó khăn thiếu thốn cũng như buổi ấm no thanh bình, phở luôn ở bên cạnh mọi người. Xa xưa, phở là phở bò, phở chín. Ngày nay, phở thay da đổi thịt, muôn màu muôn vẻ. Cách nấu, cách ăn thay đổi không ngừng. Đã đến lúc phải phân loại, đặt tên cho bát phở để tránh ngộ nhận. Đại khái chúng ta có thể phân biệt : Bát phở bò của Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân thì gọi là...phở. Tàu bay, tàu bò, thịt to bánh nhiều cốt làm vui lòng giới ẩm thực vũ bão thì nên gọi là...phởn. Ngầu pín, viagra, cổ hũ, lá sách, trứng, giò heo, thịt chó (có người định thử) thì phải gọi là...phịa! Còn cái thứ chết tiệt của mấy ông sinh viên ? Xin tự phê gọi nó là...phản. Tiếng Việt vốn giàu âm thanh, ngữ nghĩa, còn nhiều chữ khác có thể dùng cho phở được. Tuy nhiên chúng ta cũng nên thận trọng yêu cầu các nhà văn học định nghĩa rõ ràng các chữ dùng kẻo lại gây ra những bàn cãi dài dòng cho mai sau. Trong quá khứ đã từng có một giáo sư thuyết trình tại hội Việt Mỹ (Sài Gòn) rằng Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương Chuông chùa Thiên Mụ ngân nga thánh thót, chicken soup của Thọ Xương thì tuyệt, không đâu ngon bằng ! Mới đây, trong một cuốn hướng dẫn du lịch Việt Nam rất đẹp, soạn công phu, có chậu hoa màu đỏ được chú là... fleur de théier. Trà với chè tuy hai mà một, Trà với trà tuy một mà hai. Trà (camélia) và trà (théier), đằng nào chả là trà. Cứ động đến ăn uống là các ông chỉ hay lý sự lôi thôi ! Nguyễn Dư (Lyon, 2/ 2001) Nguồn: chimviet.free.fr <http://chimviet.free.fr/nddg/nddg061.htm>
  9. Những thứ thuộc về học thuật thì PhucTuan cũng không dám bàn tới, khi đọc bộ tiểu thuyết của bác sĩ Trần Đại Sỹ ta có thể cảm nhận rõ những thế rất Việt Nam. Phải nói rằng chỉ có thể là một người rất yêu nước, có tâm với đất nước và tổ tiên mới có thể viết được bộ tiểu thuyết dã sử này. Từ thời hai bà Trưng nước Việt chúng ta đã có một nền văn hóa chẳng kém gì người Hán, từ ẩm thực cho đến võ thuật. Đây là một bộ truyện cũng rất đáng nên đọc. Dưới đây là link của bộ truyện gồm 9 quyển: http://www.mediafire.com/?sharekey=594d077...13616043b05bc7e Uploader: HoaiViet <http://www.thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?t=33958>
  10. Tại cháu là thế hệ trẻ, sinh ra sau này nên cháu cứ nghĩ là tò he làm bằng bột gạo. Theo bài báo cháu đọc trên mạng thì tò he làm bằng bột gạo lại có xuất xứ từ Trung Quốc. Tò he bây giờ cũng sắp biến mất rồi, còn tò hè bằng đường mà ngày xưa bác Thiên Sứ chơi chắc thất truyền lâu rồi. :rolleyes:
  11. Tò he Nhật Bản Hôm qua, trên đường về nhà, Ichi bỗng trông thấy một gánh hàng tò he với biết bao là hình các con thú ngộ nghĩnh. Thế là Ichi mua một con về nhà ngắm, trông rất đáng yêu đấy nhé! Vậy là Ichi tớ tò mò không biết trên thế giới, ngoài Việt Nam thì còn ở đâu có tò he nữa không? Tò he là một loại đồ chơi dân gian của trẻ em Việt Nam, có thể ăn được. Ngày nay, nặn tò he là một nét văn hóa dân gian ở các vùng quê Việt Nam, đặc biệt là Bắc Bộ* Tò he ở Việt Nam Và thật ngạc nhiên là ở Nhật Bản cũng có tò he và họ coi đây là một nét văn hóa đặc sắc của mình. Vậy là tớ quyết định làm một chuyến du ký sang Nhật tìm hiểu Amezaiku tên tiếng Nhật của nghệ thuật tò he mà tớ sắp giới thiệu cho các bạn đó. Và Tò He ở Nhật Ở Nhật, Amezaiku được coi là một nghề thủ công truyền thống về làm kẹo, mang tính nghệ thuật bởi chỉ với những khối bột vô tri vô giác mà người nghệ nhân đã thổi hồn cho chúng và sáng tạo ra biết bao hình các con thú, các nhân vật. Các bạn có biết là để làm một con thú tò he bằng kẹo gồm những công đoạn gì không? Đừng nóng vội. Ichi sẽ bật mí ngay bây giờ nè :P Trước hết là cần đun bột đã hòa nước đường cho sôi đến khi nó chuyển sang dạng keo và trong suốt giống như kẹo kéo ấy (ôi thèm quá đi thôi :P . Sau đó vớt ra ngòai và chia thành các mẩu nhỏ để nhào nặn cho mềm, khi để lâu ngoài không khí, bột sẽ có màu trắng tinh. Một phần công đoạn nặn Tò He của nghệ nhân Nhật Bản Tiếp đến là công đoạn nặn các khối bột nhỏ này thành hình ưa thích. Khi đó các nghệ nhân thường sử dụng một chiếc kéo nhỏ đễ hỗ trợ trong công đoạn uốn lượn hay làm cánh cho các con thú trong khi ấy thì các bác nghệ nhân nhà mình sẽ sử dụng lược nè, que tre nè…Và cuối cùng thì tèn ten, bạn đã hoàn thành một em tò he xinh xinh rồi nè, có đẹp không nào? Chúng tớ là gấu Pooh, mèo Kitty và Pikachu nè :P Ngoài ra, trong kỹ thuật nặn tò he của người Nhật còn có một tiểu xảo nhỏ đó! Họ sẽ thổi một lỗ nhỏ ở con tò he sao cho nó phồng to hơn, giống như người ta thổi thủy tinh ấy. Một công việc đòi hỏi sự kiên nhẫn và tỉ mỉ đó bạn, bởi nếu không khéo, bạn sẽ làm hỏng hình dạng của con tò he vừa làm đó. Amezaiku cùng những nghệ nhân tại các lễ hội Nhìn những chú tò he Amezaiku thật là thích mắt nhưng để làm ra thì thật là khó khăn với chúng ta :) . Còn với những nghệ nhân thì họ có thể biểu diễn làm tò he chỉ trong 3-5 phút là đã “xuất xưởng” một chú tò he thật xinh xắn rồi đó. Mẫu con thú luôn được ưa chuộng Nhưng chính vì sự mai một dần của nghề truyền thống này, Amezaiku thường chỉ xuất hiện ở các lễ hội và thấp thoáng đâu đó trên những con đường đang tràn ngập nhịp sống hiện đại ở Nhật. Ở các lễ hội đó, những nghệ nhân sẽ biểu diễn làm những con tò he với kỹ thuật điêu luyện của mình. Những mẫu rất nữ tính nè :rolleyes: Có thể nói đây là một nghề đã có lịch sử rất lâu ở Nhật cách đây hơn trăm năm, với tục lệ cha truyền con nối để duy trì và bảo tồn Amezaiku. Tuy vậy, Amezaiku đang bị mai một dần ở Nhật Bản, bởi ngày nay có rất ít người theo đuổi nó cũng như số lượng nghệ nhân về Amezaiku ngày càng ít đi. Tình trạng này cũng giống với nghệ thuật tò he ở Việt Nam quá bạn nhỉ >_< Nghệ nhân tò he ở Nhật Bản Nghệ nhân tò he ở Việt Nam Nếu có lúc nào đó khi rảo bước trên đường dù cho ở Việt Nam hay Nhật Bản, bạn hãy nhớ dừng lại một lúc nhé. Hãy ngắm nhìn những bé tò he đáng yêu và cảm nhận không gian mùa thu đang khẽ về trên những con phố nhỏ. Và Ichi thực sự mong rằng, không chỉ Amezaiku mà những bộ môn nghệ thuật truyền thống độc đáo khác cũng như mùa thu, sẽ không bao giờ biến mất mà luôn được gìn giữ trong lòng các thế hệ trẻ chúng ta. Huyền Trang tổng hợp Nguồn: ichinews.acc.vn <http://ichinews.acc.vn/bai-viet/857/to-he-nhat-ban/xem.htmx> _______________________________________________ Ở Nhật cũng có Tò He khá giống với Việt Nam, nhưng khác mỗi chất liệu và cách làm.
  12. Những bí ẩn lịch sử bị con người lãng quên. VTC New Trong lịch sử phát triển của loài người, trải qua hàng nghìn năm, có vô vàn biến cố đã xảy ra. Những biến cố hay những chứng tích lịch sử này ít nhiều có ảnh hưởng đến sự phát triển của nền văn minh loài người sau này. Trong thời đại ngày nay, bên cạnh việc đi tìm cái mới, thì con người vẫn tìm mọi cách để lý giải những bí ẩn của lịch sử để lại. Có những bí ẩn đã được con người tìm ra và có những bí ẩn vì một lý do nào đó mà sau một thời gian đi tìm câu trả lời, chúng ta đã lãng quên. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét những bí ẩn bị lãng quên đó. Bảng chữ Rongorongo Rongorongo là một bí ẩn khác nữa bị chôn vùi trên đảo Phục Sinh Trong khi nhiều người trong chúng ta có biết về những bức tượng trên đảo Phục Sinh thì lại ít ai nghe nói về một bí ẩn khác có liên quan đến đảo Phục Sinh, đó là chữ Rongorongo. Rongorongo là ngôn ngữ viết tượng hình của những cư dân đầu tiên trên hòn đảo này. Rongorongo là hệ chữ lạ lùng ở chỗ không hề có cư dân láng giềng nào sử dụng ngôn ngữ viết cả. Loại ngôn ngữ này xuất hiện vào khoảng những năm 1700. Thật không may là nó đã biến mất sau khi thực dân Âu châu đến và cấm dùng nó vì nó có mối liên hệ với gốc rễ ngoại đạo của cư dân trên đảo. Helike – thành phố bị chôn vùi Tàn tích của nơi cách ngày nay hơn 2.300 năm từng là thành phố Helike phồn hoa của người Hy Lạp Vào cuối thế kỷ thứ II SCN, nhà văn người Hy Lạp Pausanias đã viết một bài văn miêu tả lại diễn biến (khoảng 4 – 500 năm trước đó) chỉ trong một đêm, một trận động đất kinh hoàng đã phá hủy hoàn toàn thành phố Helike rộng lớn. Một trận sóng thần đã quét sạch những gì còn lại của một nơi từng là một thành phố phồn hoa. Thành phố Helike, thủ phủ của thành bang Achaean, là một trung tâm thờ tự thần biển Poseidon. Cho đến năm 1861, những vết tích về một xã hội trong truyền thuyết từng được đề cập trong những tác phẩm về Hy Lạp cổ mới được hé mở, khi một nhà khảo cổ học tìm thấy một số di vật được cho là thuộc về thành phố Helike, đó là một đồng xu bằng đồng có in chính xác hình đầu thần biển Poseidon. Vào năm 2001, hai nhà khoa học đã tìm cách định vị đống đổ nát của thành phố Helike bên dưới lớp bùn và sỏi mịn ở bờ biển, từ đó họ tiếp tục đi tìm câu trả lời cho sự lên xuống bất thường của nơi từng được gọi là lục địa Atlantis. Những thi thể trong bùn lầy Xác chết 2.000 năm vẫn như người đang ngủ. Bí ẩn này thậm chí đến nay vẫn là một câu hỏi thách thức cả những chuyên viên điều tra kinh nghiệm nhất của Cơ quan Điều tra hiện trường vụ án CSI. Những thi thể dưới bùn lầy gồm hàng trăm xác chết của người cổ đại được phát hiện bị chôn vùi xung quanh những đầm lầy và đất trũng ở phía bắc vùng Bắc Âu. Những thi thể này được bảo vệ nguyên vẹn đến ngạc nhiên. Đã xác định được thời điểm xác chết bị chôn cách đây tới 2.000 năm. Chúng là những dấu hiệu rõ ràng về một hình thức tra tấn hay chỉ là “một trò vui” ở thời Trung cổ? Một số nhà nghiên cứu cho rằng, những nạn nhân bất hạnh này là kết quả của những cuộc hiến tế thần linh. Sự sụp đổ của nền văn minh Minoans Sự sụp đổ của nền văn minh Minoan trên đảo Crete khoảng 3.500 năm về trước là do một vụ núi lửa phun trào Nền văn minh của người Minoan nổi tiếng nhất với truyền thuyết về Theseus và Minotaur, nhưng trên thực tế, sự sụp đổ của nền văn minh từng cực kì thịnh vượng này lại thú vị hơn nhiều. Trong khi có nhiều sử gia tập trung vào sự sụp đổ của Đế chế La Mã thì sự biến mất của người Minoans từng sinh sống trên đảo Crete này cũng cần được quan tâm như vậy nếu không muốn nói nó thậm chí còn là một bí ẩn lớn hơn nữa. Khoảng 3.500 năm về trước, hòn đảo Crete bất ngờ bị rung chuyển bởi một vụ phun trào núi lửa trên hòn đảo Thera tiếp giáp. Các nhà khảo cổ học đã khai quật được những tấm ghi chép chỉ ra rằng người Mioans còn tiếp tục tồn tại thêm 50 năm nữa sau vụ phun trào núi lửa trước khi bị gấp lại. Các giả thuyết về những gì đã xóa sổ bộ tộc này đi từ nguyên nhân là do tro bụi núi lửa bao phủ hòn đảo và làm cho mùa màng thất bát, rồi sự suy yếu của một đội quân nhanh chóng bị khuất phục trước sự hùng mạnh của đội quân xâm lược đến từ Hy Lạp. Đội quân đá Carnac Đội quân đá này từng được cho là đội quân của các thần linh đưa xuống Chắc hẳn có rất nhiều người trong chúng từng nghe về đài đá Stonehenge, song ít ai biết đến có một công trình khác cũng kì bí không kém, đó là đội quân đá Carnac. Bí ẩn này bao gồm 3.000 tảng đá có từ thời cự thạch, được sắp xếp thành những hàng cân xứng hoàn hảo ở vị trí cách 12km từ bờ biển Btittany thuộc Tây Bắc nước Pháp. Những câu chuyện thần thoại về những tảng đá này kể rằng mỗi tảng đá là một người lính trong quân đoàn La Mã mà phù thủy Merlin đã biến họ thành đá. Các nỗ lực khoa học nhằm đi tìm lời giải cho bí ẩn này phụ thuộc hầu như vào một cỗ máy dò tìm động đất tiên tiến. Cho đến nay, danh tính của những cư dân thời kỳ đồ đá mới xây dựng nên công trình này vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn. Theo Tân Vũ
  13. Bên cạnh 3 nền văn minh vĩ đại như Maya, Aztec, Inca trong mình Châu Mỹ còn ẩn chứa một nền văn minh không kém phần bí ẩn khác, đó là nền văn minh của người da đỏ Anasazi (theo tiếng Navajo, từ này có nghĩa là "những người cổ xưa"). Danh từ này được đặt bởi người da đỏ Hopi và Zuni sống dọc sông Rio Grande ở New Mexico và Arizona. Những người Anasazi đã xây những công trình của họ vào khoảng năm 900 đến 1130. Hẻm Núi Chaco Những di tích của nền văn minh Anasazi tập trung chủ yếu ở khe núi Chaco dài 24km rộng 1600m thuộc Tây Bắc New Mexico. Một điều đáng chú ý là những công trình mà họ xây dựng có trình độ kĩ thuật rất cao, những cao ốc xuất hiện sau hàng trăm năm mới có thể so sánh được. Những công trình của họ được xây dựng từ 2 đến 4 tầng, được gọi là những Pueblo. Mỗi Pueblo có hàng trăm phòng, nhiều nhất là Pueblo Bonito lên đến hơn 700 phòng và những Kivas (phòng nằm trong lòng đất được gọi là Kivas, được sử dụng vào các nghi lễ tôn giáo). Những người Anasazi đã sự dụng một lượng lớn đá và gỗ để xây dựng những công trình của mình, theo các nhà nghiên cứu ước tính khoảng 215,000 cây gỗ đã được vận chuyển từ khoảng cách hơn 80km chỉ để xây những công trình chính trong hẻm núi Chaco. Hình vẽ ở Chaco cho thấy sự hiểu biết nhất định về mặt trời và mặt trăng của người Anasazi. Nhưng những điều đó chỉ là phần mở đầu cho những bí mật còn đang nằm ẩn sâu trong nền văn minh của người Anasazi. Khu vực hẻm núi Chaco này đã trở thành tâm điểm chú ý của giới khảo cổ học cũng như thiên văn học, bởi vì những công trình kiến trúc ở đây đều được xây dựng theo thiên văn học. Những phát hiện của các nhà khoa học đã chỉ ra rằng có một hệ thống thiên văn học được ẩn chứa trong những bức tường cổ và một ngọn đồi có một hệ thống chỉ ra sự thay đổi mùa. Đứng sừng sững ở độ cao 135m so với nền hẻm núi, ngọn đồi Fajada là một trong 10 ngọn đồi được coi là thánh địa của người Anasazi. Ngọn đồi này là địa điểm nổi tiếng nhất ở hẻm núi Chaco, nó được gọi là Sun Dagger (lưỡi dao găm mặt trời). Vào năm 1977, một nghệ sĩ tên là Anna Sofaer đã khám phá ra những phiến đá có khắc hình 2 xoắn ốc. Nghi ngờ rằng phiến đá đã được sắp đặt và những hình xoắn ốc đã có thể được tạo ra một cách có chủ ý, bà Anna Sofaer trở lại vào những ngày khác trong năm cùng với những đồng nghiệp của mình (một tổ chức phi lợi nhuận mang tên The Solstice Project, bao gồm nhiều nhà nghiên cứu). Cuối cùng thì nhóm nghiên cứu đã tìm thấy những điều vô cùng thú vị. Tại một vị trí trên gần đỉnh đồi, ba tấm sa thạch được nghiêng với bức tường đá tạo ra một khoảng bóng. Trên bức tường này là hai vết khắc mờ có hình xoắn ốc, một to và một nhỏ. Khi ánh sáng mặt trời đi qua chúng vào các thời điểm khác nhau trong suốt cả năm, qua khe hở giữa những tấm sa thạch sẽ xảy ra điều kì diệu, nhưng bí mật này đã không được biết cho đến những năm 1970. Vào Hạ chí một mảnh ánh sáng mặt trời cái mà bà Anna Sofaer gọi là "Dao găm mặt trời" đã xuất hiện gần phía trên cùng của xoắn ốc lớn, trong vòng hơn 18 phút nó đã "cắt" một đường xuống đúng vị trí trung tâm hình xoắn ốc, nó cắt hình xoắn ốc thành 2 nửa trước khi rời khỏi và biến vào trong bóng tối. Vào Đông Chí, 2 con dao găm ánh sánh xuất hiện trong khoảng 49 phút, trong suốt thời gian đó gần như chúng tạo thành 2 tiếp tuyến song song với nhau của hình xoắn ốc. Nguồn: spirasolaris.ca Mô hình hoạt động của hệ thống đánh dấu sự thay đổi tiết khí Cuối cùng một phần không kém hấp dẫn và có phần phức tạp hơn là màn trình diễn ánh sáng này xảy ra vào ngày Xuân và Thu phân. Hình xoắn ốc to được khắc 9 rãnh kể từ trung tâm ra phía ngoài bên phải. Vào mỗi ngày Phân một con dao găm ánh sáng sẽ xuất hiện, cắt xuyên qua hình xoắn ốc (không qua trung tâm nhưng chính xác là giữa rãnh thứ 4 và thứ 5 từ trung tâm). Nói cách khác, nó cắt chính xác ở khoảng giữa trung tâm và rìa ngoài của xoắn ốc. Trong khi đó, một con dao găm thứ 2 cắt xuyên qua trung tâm của hình xoắn ốc nhỏ. Những màn trình diễn ánh sáng này có lẽ đã được diễn ra trong nhiều thế kỷ và vẫn tiếp xảy ra trong trong một vài năm sau khi nhóm nghiên cứu phát hiện lại. Tuy nhiên, vào năm 1989 người ta đã nhận thấy rằng những phiến đá đã bị dịch chuyển, những sự sắp đặt cẩn thận của những người Anasazi đã không còn. Tại mặt phía Đông của ngọn đồi, vị trí bên dưới cách đỉnh 25m, có 3 hình khắc gần kề nhau một con rắn gần như thẳng đứng (dài 22cm), một hình gần như hình chữ nhật (rộng 14cm), và một xoắn ốc (rộng 15cm). Nét khắc hình con rắn và chữ nhật được khắc rất sâu. Một mép bóng vượt qua xoắn ốc trong vòng 10 phút buổi trưa trong suốt cả năm, tạo thành một mô hình thay đổi theo mùa. Trong giây lát mô hình này đối xứng với trung tâm của xoắn ốc trong vòng 1 vài phút trưa, tạo thành một hình mũi nhọn vào ngày Hạ Chí, một phần 4 vào Xuân Phân, và chia đôi vào ngày Đông Chí. Còn Tại mặt phía Tây của ngọn đồi, có khắc 2 hình đó là một hình xoắn ốc đôi và một hình dạng như chữ nhật. Vào những buổi trưa trong những ngày Phân một ngọn giáo ánh sáng sẽ đi xuyên qua hình xoắn ốc đôi. Trong các công trình thì Pueblo Bonito đáng được chú ý nhất, các nhà khoa học đã tìm thấy một hình khắc mà từ đó tìm ra được mối liên hệ giữa Pueblo Bonito và mặt trời. Từ lúc mặt trời mọc cho đến buổi trưa bóng được tạo ra bởi bức tường giữa biến mất, bởi vì chính bức tường này được xây thẳng theo trục Bắc Nam. Cả bức tường dài theo trục Đông Tây của Pueblo Bonito cũng liên quan đến mặt trời. Quĩ đạo chuyển động của mặt trời di chuyển theo đúng bức tường vào đúng những ngày Xuân và Thu Phân. Bức tường còn phân chia rõ ràng thời điểm ban ngày và đêm bởi vì vào các ngày Phân thời gian mặt trời biến mất vào màn đêm đúng như thời gian mặt trời bắt đầu tỏa sáng vào ban ngày. Các nhà nghiên cứu còn tìm ra rằng có 3 kiến trúc nữa cũng liên quan đến mặt trời như vậy đó là Hungo Pavi, Tsin Kletsin và Pueblo Alto. Một điều ngạc nhiên hơn nữa khi kết nối 4 kiến trúc Pueblo Bonito với Chetro Ketl, Pueblo Alto với Tsin Kletsin bằng những bức tường thì sẽ tạo thành trục Bắc Nam và Đông Tây chính xác đến không ngờ. Nguồn: solsticeproject.org A: Bức tường trục Đông Tây B: Bức tường giữa C: Bức tường phía sau D: Phòng Kivas Người Anasazi đã tính toán được sự chuyển động của mặt trời, vậy còn mặt trăng thì sao? Nhưng chu kì chuyển động của mặt trăng lại không như mặt trời, người Hopi gọi mặt trăng là anh chàng ngốc chạy loanh quanh mà không có nhà. Ngày nay nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng chu kì chuyển động của mặt trăng phức tạp hơn. Trăng tròn xảy ra vào giữa mùa đông, mọc và lặn xa dần về hướng Bắc theo năm. Nhưng nếu quan sát trăng tròn mọc vào giữa mùa đông vào các đêm tương tự trong 9 và 1/4 năm thì sẽ nhận thấy trăng tròn mọc và lặn xa dần về phương Bắc và sau đó di chuyển về phía Nam để hoàn thành một chu kì 18 và 1/2 năm. Điểm trăng mọc đầu tiên và cuối cùng khi di chuyển về phía Bắc được gọi là điểm cực tiểu và cực đại. Để phát hiện ra chu kì dài này của mặt trăng, có lẽ người Anasazi đã phải trải qua vài thế hệ quan sát và ghi chép cẩn thận. Khi trăng tròn tại điểm cực tiểu, vòng xoắn ốc to ở ngọn đồi Fajada sẽ được chia đều làm 2 gồm nửa sáng và tối (đường mép của bóng ở chính giữa tâm điểm của vòng xoắn ốc). Vào thời gian 9 và 1/4 năm sau tức là khi mặt trăng ở tại điểm cực đại, bóng đen sẽ ở ngoài vòng xoắn ốc (đường mép của bóng ở sát vòng xoắn, gần như tạo thành một đường tiếp tuyến với vòng xoắn ốc). Nếu bắt đầu tại điểm xuất phát, hàng năm bóng tạo ra bởi những tấm đá sẽ đi dần qua từng rãnh của vòng xoắn ốc và kết thúc đúng một chu kì 9 và 1/4 năm khi đi hết qua 9 rãnh. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng có 7 công trình có liên quan đến điểm cực tiểu và cực đại của mặt trăng như Una Vida, Penasco Blanco, Pueblo del Arroyo, Kin Kletso, Chetro Ketl, Salmon Ruin và Pueblo Pintando. Tại sao những người Anasazi lại chọn một hẻm núi nơi đây để xây dựng thế giới của riêng họ? Ai là những người đã khắc những hình khắc trên đỉnh của ngọn đá? Những hiểu biết của họ về bầu trời thật là đáng kinh ngạc, những tri thức đó đã dẫn dắt họ xây dựng những kiến trúc kì vĩ hơn 1000 năm trước. Những kiến trúc hùng vĩ này chứa đựng những bí ẩn trong vòng hơn 30 năm qua đối với giới thiên văn khảo cổ học. Nhưng câu hỏi lớn nhất là tại sao sau khi xây xong những kiến trúc này những người Anasazi lại rời đi với không một lí do để lại? Đồ đạc và quần áo họ đều để lại, dường như họ có ý định cho một ngày trở về nhưng điều đó đã không xảy ra. Tất cả tri thức cổ xưa đã được mang theo những người đã khuất, chỉ một số câu chuyện thần thoại còn được lưu lại ngày nay. Các nhà nghiên cứu cho biết rằng không tìm thấy bất cứ văn tự nào được ghi chép qua những cổ vật được tìm thấy ở hẻm núi Chaco. Những điều mà người Anasazi làm được thật phi thường mà ngày nay thiên văn học ngày nay phải dùng những công cụ đo đạc phức tạp mới có thể làm được. Phúc Tuấn tổng hợp ------------------------------------------------------------------------ Nguồn tham khảo: Anna P. Sofaer and Rolf M. Sinclair, Astronomical Markings at Three Sites on Fajada Butte. <http://www.solsticeproject.org/astromark.htm> Anna Sofaer, Volker Zinser and Rolf M. Sinclair, A Unique Solar Marking Construct <http://www.solsticeproject.org/science.htm> Ancient-wisdom, The Chaco canyon Sun-dagger <http://www.ancient-wisdom.co.uk/mexicochaco.htm> Giulio Magli, 2009, English Edition, Praxis Publishing Ltd, Mysteries and Discoveries of Archaeoastronomy, Straight roads, Circular buildings, and a Supernova, The Anasazi. Anna Sofaer, 2007, edited by Stephen Lekson: University of Utah Press, The Primary Architecture of the Chacoan Culture: A cosmological expression <http://www.solsticeproject.org/pdf/Lekson_Chapter_9.pdf> Anna Sofaer, Pueblo Bonito Petroglyph On Fajada Butte: Solar Aspects <http://www.solsticeproject.org/celeseas.htm>
  14. Mọi người có thể xem phim tài liệu dưới đây để có thể tận mắt xem hệ thống định vị thiên văn học thú vị của người Anasazi. Phim được chia làm 6 phần http://www.youtube.com/watch?v=80ySuKApCDc http://www.youtube.com/watch?v=0gRTLmfeQs0 http://www.youtube.com/watch?v=fYgaGTl9Cso http://www.youtube.com/watch?v=uVwRp4Nqe4w http://www.youtube.com/watch?v=Vc2DFeTAtqA http://www.youtube.com/watch?v=4vOhM3_rtmM
  15. Phúc Tuấn nghĩ rằng anh Văn Lang không nên đưa ra những câu chuyện thế này. Có vài lời góp ý chân thành, nếu có gì mong anh bỏ qua cho.
  16. Khi nói đến Ai Cập hẳn ai trong chúng ta cũng nghĩ đến đất nước với những Kim Tự Tháp hùng vĩ và tượng Nhân Sư. Đã từ lâu Ai Cập đã được coi là một trong những cái nôi ẩn chứa nhiều dấu tích cổ của nền văn minh nhân loại. Các nhà học giả trên thế giới vẫn còn đang bàn luận nhiều vấn đề xoay quanh những Kim Tự Tháp này. Ai đã xây dựng những công trình này và mục đích của họ là gì? Tại sao những người Ai Cập cổ đại lại có một kiến thức siêu việt về thiên văn họ như vậy? Hình vẽ 12 cung hoàng đạo trên trần của đền thờ Hathor ở Dendera Ảnh từ trang soulsofdistortion.nl Ảnh từ trang soulsofdistortion.nl 1 Aries : Bạch Dương 2 Taurus: Kim Ngưu 3 Gemini: Song Tử 4 Cancer: Cự Giải 5 Leo: Sư Tử 6 Virgo: Xử Nữ 7 Libra : Thiên Bình 8 Scorpio: Bọ Cạp 9 Sagittarius: Nhân Mã 10 Capricorn: Ma Kết 11 Aquarius: Bảo Bình 12 Pisces: Song Ngư Vào những năm 1990, Robert Bauval từ một kĩ sư thi công đã sang một nhà nghiên cứu về văn minh Ai Cập, đã đưa ra một giả thuyết 3 Kim Tự Tháp ở Giza là hình ảnh phản chiếu của 3 ngôi sao trong chòm sao Orion. Trong những nghiên cứu của ông, ông đã nói rằng tuổi của các Kim Tự Tháp và tượng Nhân Sư khó có thể xác định được. Lí do bởi vì xác định bằng niên đại carbon rất có thể nhầm lẫn với những di vật mà con người để lại sau này, thậm chí có rất ít mẫu vật để xác định niên đại. Khi quan sát bầu trời đêm ông nhận thấy rằng, khi sử dụng máy tính quay ngược bầu trời đêm về thời điểm 10.450 TCN thì 3 ngôi sao hoàn toàn trùng khớp với 3 Kim Tự Tháp. Theo người viết thì giả thuyết tuổi của các Kim Tự Tháp là 10.450TCN là đúng và thậm chí có thể hơn. Nếu trong chúng ta ai đã xem bộ phim 10.000 BC mà các nhà phê bình nói rằng không đúng với niên đại của Kim Tự Tháp, thì chắc hẳn cũng thấy những ý tưởng tương đồng về Kim Tự Tháp như vậy. Nội dung phim xoay quanh một nhân vật là một người thợ săn (Hunter, nghĩa bóng là chòm sao orion chăng?) đi cứu người yêu khỏi tay sai của những người xây dựng Kim Tự Tháp. Người cầm đầu những người này được gọi là vị thần (có 3 vị thần, 2 người đã chết, nay còn 1), lục địa của họ đã bị mất (Atlantis hay Mu?), bây giờ họ di chuyển đến đây để xây dựng lại thế giới mới của mình. Trong những nghiên cứu của Robert Bauval, ông nhận thấy rằng đường thông hơi phía Nam phòng Vua được xếp thẳng với sao Orion sao của thần Osiris. Đường thông hơi từ phòng Hoàng Hậu lại xếp thẳng với sao Sirius ngôi sao của thần Isis (Osiris và Isis là anh em ruột và cũng là vợ chồng). Hình ảnh trên trang robertbauval.co.uk Trong tín ngưỡng của người Ai Cập cổ đại có tục ướp xác, họ hi vọng rằng sau khi ướp xác linh hồn của họ sẽ được lên thiên đàng như các vị thần. Tục ướp xác được xuất phát từ truyền thuyết thần Osiris bị em trai mình là thần Seth giết xé làm 14 mảnh quăng đi khắp nơi, và sau đó được thần Isis tìm lại quấn thi thể trong lớp vải, nhưng thần Isis chỉ tìm được 13 phần thi thể còn lại 1 phần đó là bộ phận sinh dục, bộ phận đó được thần Isis làm lại bằng vàng. Sau đó nữ thần Isis trốn vào sông Nile trong 70 ngày và sau đó sinh hạ ra thần Horus, về sau Horus đi tìm Seth để báo thù cho cha. Quá trình 70 ngày kết thúc Osiris đã phục sinh, ông đã nhường lại ngôi báu cho con trai mình và trở thành vị vua cai quản cõi chết. Trong các tài liệu cổ, Osiris được miêu tả là một vị vua với nước da màu xanh (màu tượng trưng cho sự tái sinh), người dâng nước sông Nile. Thật là trùng hợp khi trong truyền thuyết có nhắc đến lục địa Mu với chủng tộc người da xanh. Phải chăng những con người đầu tiên đặt chân lên Ai Cập là những con người đến từ lục địa đã mất này? Họ đem theo những tri thức vĩ đại về khoa học, thiên văn học mà con người lúc bấy giờ cho rằng đó là sức mạnh của thần thánh. Quay lại với tục ướp xác, khi quá trình ướp xác diễn ra trong 70 ngày với đủ các phương thức bí truyền, xác của họ sẽ được đưa qua sông Nile. Sông Nile chính là biểu tượng của dải ngân hà (Milky Way), linh hồn người chết sẽ vượt qua ngân hà đến với thiên đàng nơi mà thần Osiris ngự trị. Nữ thần Isis đại diện cho sao Sirius, một ngôi sao rất quan trọng đối với người Ai Cập cổ. Trong quyển sách Echoes of Ancient Skies, tiến sĩ thiên văn khảo cổ học Ed Krupp viết: "Sau khi biến mất khỏi bầu trời đêm (trong 70 ngày) cuối cùng thì sao Sirius xuất hiện trở lại vào buổi bình minh trước khi mặt trời lên. Lần đầu tiên điều này xảy ra mỗi năm được gọi là ngôi sao mọc cùng lúc với mặt trời và trong ngày đó sao Sirius có thể nhìn thấy chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn trước khi bầu trời trở sáng. Trong Ai Cập cổ đại hiện tượng xuất hiện trở lại thường xuyên này của Sirius rơi gần đúng vào Hạ Chí và trùng với mùa lũ của sông Nile. Isis, đại diện cho Sirius, được gọi là "Nữ thần của năm mới", năm mới của người Ai Cập được đặt theo sự kiện này. Các văn bản tế lễ năm mới ở Dendera nói rằng nữ thần Isis đi ra khỏi sông Nile và vì thế nước dâng lên. Theo nghĩa ẩn dụ là thiên văn học, thủy lực, tình dục và nó đồng nghĩa với những chức năng của thần Isis trong thần thoại. Sirius hồi sinh sông Nile cũng như Isis hồi sinh Osiris. Thời gian mà thần Isis trốn khỏi thần Seth là khi mà Sirius biến mất (70 ngày) trên bầu trời đêm. Nữ thần Isis sinh hạ ra thần Horus cũng như Sirius sinh ra năm mới và trong những đoạn văn thì Horus và năm mới được coi là như nhau. Thần Isis là phương tiện để tái sinh cuộc sống và trật tự. Tỏa sáng vào một thời khắc, một buổi sáng mùa hè, nữ thần đã khơi dậy sông Nile và bắt đầu một năm mới." Robert Bauval tin rằng tôn giáo của Ai Cập là khởi nguồn của đạo Thiên Chúa. Những câu chuyện về đạo Thiên Chúa được biến cải từ những truyền thuyết của Ai Cập, ví dụ như sự phục sinh. Thậm chí ở một số quốc gia trên châu Âu có thể thấy được đền thờ nữ thần Isis như Italia, Pháp, Đức, Anh, tất nhiên là hình ảnh của nữ thần Isis được truyền tải dưới một hình dạng khác. Vị hoàng đế Napoleon và toàn bộ những tướng lĩnh thân cận của mình đều là thành viên hội tam điểm khi đóng chiếm Ai Cập đã tiếp nhận những tri thức kì bí. Paris nơi thường được gọi là kinh đô ánh sáng cũng ẩn chứa một bí mật. Bí mật này nằm ở đại lộ Champs-Élysées được hướng 26 độ về phía đông nam, tạo góc chính xác với đường chân trời hướng tới ngôi sao của Isis (Sirius) mà từ Paris có thể nhìn thấy được. Paris có nghĩa là par-isis, for-Isis, một thành phố của nữ thần Isis. Những lí thuyết mà ông đưa ra bị bác bỏ bởi các bậc trí giả, lí do bởi vì ông không tìm ra được mối liên kết với những Kim Tự Tháp còn lại. Nhưng vài năm gần đây có một học giả lại tiếp tục đi theo hướng nghiên cứu của ông và công bố những lý thuyết hoàn toàn mới. Wayne Herchel đã nghiên cứu về những nền văn minh cổ trong suốt 17 năm, ông đã chứng minh rằng tượng nhân sư là chiếc chìa khóa để mở bí mật ẩn chứa đằng sau một bản đồ hợp nhất những Kim Tự Tháp hùng vĩ. Wayne Herchel phát hiện ra rằng góc giao với 3 quần thể kim tự tháp Giza trên mặt đất là hoàn toàn trùng khớp với góc của những ngôi sao sáng nhất trong chùm sao Leo, và chúng thẳng hàng với những quần thể sao hình thành vành đai Orion. Trên bầu trời đêm, Tượng Nhân Sư nhìn thấy chính hình ảnh phản chiếu của nó trong một tư thể thẳng đứng như chòm sao Leo. Ảnh từ trang web thehiddenrecords.com. Tác giả Wayne Herschel Ảnh từ trang web thehiddenrecords.com. Tác giả Wayne Herschel Herchel tiến hành một thử nghiệm để chứng minh tất cả các kim tự tháp ở Hạ Ai Cập đại diện cho các ngôi sao. Ông ta đã để những hình sao lên bản đồ vị trí những Kim Tự Tháp. Kết quả thật không tưởng tượng nổi. Tất cả những ngôi sao sáng nhất của chòm sao được biết đến trong giải ngân hà trùng khớp với những kim tự tháp ở dưới mặt đất. Tuy nhiên, có một số những ngôi sao quan trọng mà Kim Tự Tháp đại diện ở dưới mặt đất đã biến mất. Ví dụ ở Giza, Herchel đã tìm thấy 4 khu vực, vẫn chưa coi là di tích như kim tự tháp mà từ đó có thể sớm kết luận rằng chúng sẽ tạo thành một chòm sao Orion đầy đủ tại Giza. Ảnh từ trang web thehiddenrecords.com. Tác giả Wayne Herschel Ảnh từ trang web thehiddenrecords.com. Tác giả Wayne Herschel Những nghiên cứu của Herchel dựa theo những tri thức cổ xưa như của Hermes Trismegistus(Vị thần kết hợp giữa thần Hermes của Hy Lạp và thần Thoth của Ai Cập, hai vị thần chủ về chữ viết và pháp thuật). Trong đó Herchel chú trọng đến 1 khái niệm được đề cập trong The Emerald Tablet (Bản Bích Ngọc) của Hermes Trismegistus, “That which is Below corresponds to that which is Above, anh that which is Above, corresponds to that which is Below, to accomplish the miracles of the One Thing”. Câu rút gọn là As Above So Below. Có nghĩa là: Cái gì ở Dưới tương ứng với cái gì ở Trên, và cái gì ở Trên tương ứng với cái gì ở Dưới, để đạt tới những phép nhiệm màu của Nhất thể hoặc theo cách dịch khác: Vũ trụ này được tạo dựng theo một cơ cấu chung. Trên dưới như nhau, để cho thấy điều huyền diệu này tất cả là một. Qua những nghiên cứu của những nhà học giả trên, chúng ta thấy rằng người xưa đã có những am hiểu về thiên văn học đến mức siêu việt mà ngày chúng ta cần phải dùng đến sự trợ giúp của những thiết bị tối tân mới có thể hiểu được. Tất cả những thắc mắc của chúng ta vẫn cần phải nghiên cứu và giải đáp. Liệu có phải có một tri thức cổ xưa vĩ đại của những huyền thoại mà chúng ta chưa từng biết? Ngày này khoa học càng ngày càng phát và chúng ta lại càng nhận ra rằng chúng ta thật ngu muội biết bao. Chúng ta chỉ đang phát minh ra những cái cũ mà những nền văn minh kì bí đã trải qua trước đó rồi, dường như những tri thức cổ xưa đang bị lãng quên và bị coi là mê tín, tà ma, dị giáo. Hermes Trismegistus nói: "Ai Cập là một hình ảnh của thiên đường…tất cả vũ trụ đều ngự ở nơi đây" Thiên đường đó là tri thức mà rất có thể ngoài xa mạc Ai Cập kia vẫn còn đang ẩn chứa. (PhucTuan tổng hợp) Tham khảo: Wayne Herschel, Free article, Star map Egypt and the human blueprint code < http://www.thehiddenrecords.com/sphinx.htm> Robert Bauval, 2009,THE EGYPTIAN STAR OF BETHLEHEM Excerpt from the book Secret Chamber < http://www.robertbauval.co.uk/articles/art...rbeth3.html>
  17. Thế là qua bài viết PhucTuan được học ví dụ về đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu trong kiến trúc ;) . Bác Thiên Sứ có ý kiến nhận xét như vậy tức là họ xây dựng nên Kim Tự Tháp với mục đích giải trừ tai họa. Lâu lâu rồi cháu cũng xem trên VTV2 nói về một cái thành ở TQ cũng có dính dáng đến phong thủy, nghe kể theo truyền thuyết thì khi vỡ đê nước không tràn vào thành, khi đánh nhau thì phe địch không tài nào chiếm nổi. Nếu có thời gian rỗi thì mọi người đọc thêm nghiên cứu của Wayne Herchel, có rất nhiều kiến trúc và những điều huyền bí được khám phá ra. http://www.youtube.com/watch?v=aAqTqfEAUhg...feature=related http://www.youtube.com/watch?v=77hnysNNdfA...feature=related Trong thời gian tới nếu rỗi PhucTuan sẽ tiếp tục giới thiệu 1 kiến trúc xây dựng theo thiên văn học có phần thú vị hơn (cũng của một nền văn minh đã biến mất).
  18. Lời đồn về bản đồ trên vách đá đầu nguồn sông A Vương (Quảng Nam) 10:38, 05/02/2010 Nguồn: cand.com Đã có nhiều tin tồn cho rằng, những hình tượng khắc sâu trong vách đá ở đầu nguồn sông A Vương (Quảng Nam) là tấm bản đồ kho báu của người Pháp, vì trước đây, trong khu vực rừng nguyên sinh này quân đội Pháp đã đến chiếm giữ, đóng đồn. Nhưng, cũng có không ít người bảo, đó là chữ viết của người C'Tu cổ xưa (?!). Những kí hiệu lạ được khắc sâu trong vách đá ở đầu nguồn sông A Vương, trên nhánh suối Achia, đoạn chảy qua thôn Nal, xã Lăng, huyện Tây Giang (Quảng Nam) mới được đồng bào C'Tu phát hiện trong vòng một tuần qua. Nhiều người đổ xô đến đây xem. Đầu tháng 2/2010, chúng tôi có mặt tại thôn Nal và được cụ bà Bhnươch Bhươi (95 tuổi), cho hay, từ hồi còn là con gái trong một vài lần đi bắt cá ở đoạn suối này, bà đã thấy những kí hiệu kia trên đá. Kí hiệu lạ trên vách đá Cụ Bhnươch Bhươi khẳng định, những kí hiệu đó đã có trước khi ông cố của cụ ra đời. Theo quan sát của chúng tôi, trên vách đá có chiều cao 4m, dài hơn 3m, các kí hiệu được khắc chia thành 3 cụm. Vì vách đá nằm bên đoạn suối sâu, nên để xem các kí hiệu này, một số người dân đã dùng tre lồ ô làm thành cây cầu nhỏ đến gần nó. Nhiều người tò mò vượt cầu tre qua suối Achia để xem kí hiệu lạ trên vách đá. Anh Bling Biên, Trưởng phòng Văn hóa thông tin huyện Tây Giang, lấy phấn trắng kẻ lại các kí hiệu để chúng tôi chụp ảnh được rõ hơn, và nói rằng, từ khi phát hiện tảng đá có chữ lạ, nhiều người dân sống trong khu vực kéo về xem, nhưng không ai đọc được cả; kể cả những già làng sống trên trăm mùa rẫy...Đã có nhiều tin tồn cho rằng, đó là tấm bản đồ kho báu của người Pháp, vì trước đây, trong khu vực rừng nguyên sinh này quân đội Pháp đã đến chiếm giữ, đóng đồn. Nhưng, cũng có không ít người bảo, đó là chữ viết của người C'Tu cổ xưa (?!). Ngày 4/2, ông Nguyễn Hữu Sáng, Bí thư Huyện ủy Tây Giang, cho biết: Để làm rõ kí hiệu trên vách đá là gì, lãnh đạo Huyện ủy và chính quyền huyện Tây Giang đã liên hệ với một số nhà nghiên cứu, các nhà khảo cổ học, thông báo việc phát hiện nó. Sự thật, nếu đây là những chữ viết của người C'Tu cổ thì Huyện ủy và UBND huyện Tây Giang sẽ có biện pháp bảo tồn, lưu giữ, tuyên truyền cho đồng bào C'Tu hiểu biết thêm về nét đẹp bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Long Vân
  19. Nguồn: Cinet tổng hợp TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN - VĂN VẬT KỲ DIỆU CỦA NỀN VĂN MINH CỔ Trống đồng Đông Sơn tiêu biểu cho nền Văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ. Những chiếc trống này trong suốt hàng nghìn năm đã là văn vật tượng trưng cho tinh hoa văn hoá cũng như ý chí quật cường của dân tộc ta. Trong những nghi lễ trang nghiêm cũng như dịp hội hè vui vẻ, tiếng trống đồng trầm hùng vang vọng tạo ra một không khí uy nghi, làm tăng lòng tự hào dân tộc và làm cho kẻ thù phải khiếp sợ. Quê hương của trống đồng Đông Sơn là miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn đã tồn tại trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên đến thế kỷ 6 sau Công Nguyên. Nó là sản phẩm đầy trí tuệ của người Việt cổ. Tổ tiên ta đã vượt lên những khắc nghiệt của thiên nhiên bằng sự dũng cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có đã tạo nên kỹ thuật luyện kim đồng thau bản địa, nền văn hóa đồng thau vào loại bậc nhất Đông Nam Á. Và những chiếc trống đồng Đông sơn chính là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp phát triển ấy. Trống đồng Việt Nam có nhiều loại hình, nhưng tất cả đều khởi nguồn từ trống Đông Sơn mà đỉnh cao là sự hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Ngọc Lũ. Trống đồng là biểu hiện tập trung nhất những thành tựu trong sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền uy của một nhà nước được xác lập đầu tiên trên đất nước ta - Nhà Nước Hùng Vương. Trống đồng và những hình khắc họa trên trống đã giúp chúng ta ngày nay hình dung được đôi nét về cuộc sống của người Việt cổ ở thời xa xưa ấy. Hoa văn trên trống đồng có nhiều loại, kiểu bố trí hợp lý trên các phần mặt, tang và thân trống. Nó được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích để làm một trong những cơ sở khoa học trong phân loại trống và khắc họa những nét sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hóa Đông Sơn thời bấy giờ. MỘT HIỆN VẬT TIÊU BIỂU CỦA VĂN HOÁ NGƯỜI VIỆT CỔ Trống Đồng Đông Sơn là một loại nhạc cụ dùng trong các buổi lễ hay khi đi đánh nhau. Trống đồng được tìm thấy ở nhiều nơi trên đất Việt Nam, như Thanh Hóa (Đông Sơn, 24 trống), Hà Đông (9 trống), Bắc Ninh, Cao Bằng (mỗi tỉnh 3 trống), Hà Nam, Hà Nội, Hoà Bình, Kiến An (mỗi nơi 2 trống), Nam Định, Lào Cai, Sơn Tây, Yên Bái, Hải Dương, Nghệ An, Thủ Dầu Một, Kontum (mỗi nơi một trống). Trống đồng đẹp nhất phải kể đến các trống Ngọc Lũ, Hoà Bình, và Hoàng Hạ. Giữa mặt trống là hình ngôi sao, phần nhiều là sao 12 cánh, xen giữa các cánh sao là họa tiết lông công hoặc những đường vạch chéo có hình tam giác lồng vào nhau. Bao quanh các ngôi sao có hình người, vật, động vật và hoa văn hình học. Hoa văn hình học thường thấy là : đường chấm nhỏ, vành chỉ trơn, vòng tròn chấm giữa tiếp tuyến, vòng tròn đồng tâm chấm giữa có tiếp tuyến, hoa văn hình chữ gẫy khúc, hoa văn răng cưa và vạch ngắn song song Thân trống thường có hình thuyền, hình vũ sĩ, hình một số chim, thú thông thường thì chỉ có hoa văn hình học. Quai trống thường làm theo hình dây thừng bện. Trống đồng Đông Sơn được phân loại theo sự phân bố của những hình khắc và hoa văn trên trống: Ảnh cinet Nhóm A Tiểu nhóm A1 Gồm 6 trống: Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ, Sông Đà, Khai Hoá, Bản Thôm và Quảng Xương. Đặc điểm: Hình khắc phong phú, gồm hình người và động vật, trong đó hình người đóng vai trò chủ đạo Tang trống khắc 6 chiếc thuyền và ở giữa thân trống có hình vũ sĩ đứng trong các ô chữ nhật. Hoa văn: Hoạ tiết lông công xen giữa các cánh sao, hoa văn hình chữ gãy khúc và có hoa văn răng cưa Tiểu nhóm A Gồm 8 trống : Miếu Môn, Vũ Bị, Đồi Ro, Làng Vạc I, Làng Vạc II, Pha Long, Phú Xuyên và Hoà Bình. Đặc điểm: Giống tiểu nhóm A1 là tang trống cũng có cảnh đua thuyền, nhưng số lượng thuyền thay dổi, nhưng trên mặt trống không có cảnh sinh hoạt như ở nhóm A1. Ngoài ra có thêm những động vật kỳ dị như con vật đầu chim, có 4 chân và đuôi dài như đươi cáo hoặc là hình con vật 4 chân, có bờm, đuôi cuộn, mõm há. Thay vào hình vũ sĩ là hình bò hay hình chim. Hoa văn: Hoa văn chủ đạo là hoạ tiết tam giác lồng nhau xen giữa các cánh sao và hoa văn răng cưa. Hình dáng trống đồng làng vạc Nhóm B Nhóm này chiếm số lượng nhiều nhất, gồm 26 trống : Duy Tiên, Yên Tập, Ngọc Lũ II, Phú Duy, Núi Gôi, Việt Khê, Làng Vạc III, Làng Vạc IV, Định Công I, Định Công II, Định Công III, Cửu Cao, Mật Sơn, Thiết Cương, Phương Tú, Pắc Tà, Giải Tất, Bình Phủ, Hà Nội, Hoằng Vinh, Vĩnh Ninh, Đông Sơn I, Đông Sơn II, Đông Sơn II, Đông Sơn IV, Đào Thịnh. Đặc điểm: Hình ngôi sao trên mặt trống phần nhiều là 12 cánh, ngoài ra có một ít là hình sao 8 cánh và 10 cánh. Vành chim trên mặt trống thường khắc 4 con, một vài trống là 6 con. Hoạ tiết lông công đã có biến thể, hình tam giác phủ vạch chéo, hình chữ gẫy khúc và vạch ngắn song song. Nhóm C Gồm 11 trống: Hữu Chung, Đông Hiếu, Đa Bút, Phú Phương I, Phú Phương II, Nông Cống, Thôn Bùi, Chợ Bờ, Đắc Glao, Thôn Mống, Hàng Bún. Đặc điểm: Trên mặt trống xuất hiện 4 khối tượng cóc và vành hoa văn hình chim cách điệu bao quanh ngôi sao. Ngôi sao phần nhiều có 12 cánh, vành chim có từ 4 đến 10 con. Trên mặt trống có 6 dạng văn chủ yếu sau: hình tam giác lồng nhau, vòng tròn đồng tâm chấm giữa và có tiếp tuyến, vạch ngắn song song, chữ M lồng nhau, đường gấp khúc liên tiếp tạo thành những ô hình quả trám và hoa văn có hình trâm. Ngoài ra còn có nhiều trống minh khí có kích thước nhỏ, trên trống lại có rất ít hoa văn trang trí nên không được đưa vào hệ thống phân loại trên. Hình dáng trống đồng Phú Thương DẤU ẤN CỦA TRIỀU ĐẠI HÙNG VƯƠNG TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN Trống đồng Đông Sơn làm chúng ta liên tưởng đén truyền thuyết người Việt và người Mường. Truyền thuyết "trăm trứng" của người Việt kể rằng Bố Rồng và Mẹ Âu chia làm đôi số 100 người con của mình: 50 con theo cha về biển, 50 con theo mẹ lên núi (tức là địa bàn Phong Châu), cử người con trưởng làm vua lấy hiệu là Hùng, đặt tên nước làVăn Lang, truyền được 18 đời đều gọi là vua Hùng. Truyền thuyết "Trăm Trứng" của người Mường (kể lại trong sử thi "Đẻ Đất Đẻ Nước" ) nói: 50 người con về miền đồng bằng trở thành tổ tiên người Việt; 47 người đi lên miền núi, họ là tổ tiên của các dân tộc miền núi, còn lại 3 người sinh ra từ những trứng đầu tiên: Tá Cài, Tá Cần, và Dạ Kịt. Sau khi anh cả là Tá Cài bị rắn cắn chết, các mường mời Tá Cần lên ngôi vua. Tá Cần lấy bà Chu Bà Chương sinh được 18 con: 9 con trai và 9 con gái. Họ trở thành lang (thủ lĩnh) và chia nhau đi coi giữ các bản Mường. Qua hai truyền thuyết trên, chúng ta lưu ý đến con số 18. Các sách sử cổ của ta như Việt Nam thế chí, Đại Việt Sử lược, Đại Việt Sử ký Toàn thư...và ngọc phả Hùng Vương hiện lưu trử tại đền Hùng đều nói đến con số 18 đời vua Hùng. Truyền thuyết và phong tục cổ truyền của dân gian ta nhiều lần nhắc tới con số 18: Truyện Bánh chưng bánh giầy kể rằng vào cuối đời vua Hùng thứ 6, vua đã truyền ngôi, khônng phải cho con cả mà là cho con trai thứ 18, tên là Lang Chiêu, người đã làm được và đem dâng vua hai thứ bánh ngon lành và ngụ nhiều ý nghĩa. Truyện Ông Dóng ghi lại chi tiết: người anh hùng làng Dóng bảo sứ giả của vua Hùng đúc cho ngựa sắt cao 18 thước, với ngựa này Dóng sẽ đi dẹp giặc. Truyền thuyết về vua Thục An Dương và thành Cổ Loa cho biết vòng trong cùng của thành có 18 u hoả hồi. Trong tục rước nõn nường phổ biến ở khá nhiều địa phương vùng trung du và miền đồng bằng Bắc Bộ, dân gian xưa mang đi trong đám rước 18 cái nõn và 18 nường (là những vật tượng trưng có ý nghĩa phồn thực). Con số 18 được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong nhiều trường hợp khác nhau chắc có một vị trí quan trọng trong thế giới quan của người Việt cổ. Tìm hiểu các trống đồng Đông Sơn, lại thấy thêm một điểm đặc sắc. Đếm kỹ số lượng chim trong các vành chim bay - loại chim được nhiều nhà nghiên cứu xem là vật tổ của người Việt cổ - thì mỗi vành có đúng 18 chim! Một điều rất lý thú nữa là: ở vành chim trên mặt trống sông Đà tìm được trong một bản Mường thuộc tỉnh Hoà Bình, lúc đầu nghệ nhân sơ ý nên chỉ chia vành ra 17 cung bằng nhau, khi khắc trên khuôn đúc đến hình chim thứ 16 thì chỉ còn lại có một đoạn, vì vậy bắt buộc nghệ nhân phải khắc hai hình chim vào đoạn cuối cùng này cho đủ số 18 chim (nếu không làm như vậy thì vành chỉ đủ chỗ cho 17 chim thôi). Điều này một lần nữa cho thấy ý nghĩa rất quan trọng, rất cơ bản của con số 18 trong đời sống tinh thần người Việt cổ. Phải chăng con số 18 đời các vua Hùng là 18 dòng họ đầu tiên kết hợp với nhau trong liên minh bộ lạc Văn Lang, lấy tổ hợp bộ lạc chim - Rồng làm nồng cốt? Bản thân con số 18 có mặt trên trống đồng, sự hiện diện của 18 chim vật tổ trên các trống đồng cổ nhất, to nhất, đẹp nhất của trống Ngọc Lũ, trống Sông Đà, trống Khai Hoá... phải chăng đó là dấu ấn cụ thể của triều đại 18 vua Hùng, là căn cứ vật chất xác nhận sự tồn tại của thời đại Hùng Vương dựng nước. TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN: TÁI HIỆN NỀN VĂN HOÁ VÀ XÃ HỘI LẠC VIỆT Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp phát triển. Những chiếc trống này là một hiện vật vô cùng qúy báu, một trong những niềm tự hào sâu sắc của văn minh Việt Nam, nói với chúng ta rất nhiều điều, hoặc sáng tỏ hoặc còn đầy bí ẩn, về cuộc sống và tâm hồn của tổ tiên ta. Việc phát hiện ra những lưỡi cày đồng và những hình bò được khắc trên thân trống chứng tỏ thời kỳ này đã biết sử dụng sức kéo động vật vào canh tác nông nghiệp. Ngoài ra, các nghề đánh cá, săn bắn, chăn nuôi gia súc và sản xuất thủ công cũng phát triển trong thời kỳ này. Phần lớn những nơi phát hiện có trống đồng phân bố dọc theo triền những con sông lớn ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trống có thể đã được phân phối bằng đường thuỷ. Ngoài ra, trong xã hội Lạc Việt còn có tồn tại sự bất bình đẳng về tài sản. Điều này được phản ánh rõ ràng trong sự phân bố những hiện vật tuỳ táng ở các ngôi mộ giàu nghèo thuộc thời đại đồng thau. Quan niệm tôn giáo của người Việt cổ: tục sùng bái mặt trời và chim vật tổ Ngôi sao trên mặt trống đồng là biểu trưng cho mặt trời mà tục thờ mặt trời là một hình thức của đạo sùng bái tự nhiên được phản ảnh rộng rãi trong phong tục tập quán cổ truyền của người Việt. Những hình người hoá trang thành chim trên trống đồng mang ý nghĩa tín ngưỡng vật tổ, mà vật tổ đây là một loài chim. Trong truyền thuyết của người Việt, người Mường có câu chuyện trăm trứng mang ý nghĩa vật tổ.Cuộc hôn nhân Bố Rồng(Lạc Long)-Mẹ Âu (Âu Cơ) phản ánh sự liên kết của hai bộ lạc thờ Rồng và thờ Chim thần. Theo dõi những hình người khắc trên trống đồng, chúng ta thấy những nhân vật chiếm vị trí trung tâm trong các sinh hoạt và nghi lễ thường được hoá trang thành chim, họ tự trang sức mình bằng những chiếc mũ hình chim, hoặc bộ quần áo lông chim, thậm chí những vũ khí, công cụ sản xuất, mũi thuyền, nóc nhà cũng làm theo hình chim, được trang trí hình chim, được trang sức lông chim. Hình ảnh người - chim Việt cổ chẳng những thể hiện một cách có hệ thống trên các trống đồng mà còn thấy trên nhiều thạp đồng, rìu đồng nữa. Chính loài chim bay, có mào, cổ và chân dài, có mặt trên hầu khắp các trống Đông Sơn từ chiếc sớm nhất đến chiếc muộn nhất, giống chim nước gần với loài cò, sếu, vạc ấy là chim vật tổ của người Việt cổ. Hình ảnh vật tổ Rồng (giao long) giống vật thần thoại kết hợp trong mình nó những nét của cá sấu, rắn nước... thấy khắc trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái), trên rìu đồng Đông Sơn, trên mảnh áo giáp đồng tìm thấy ở Hà Nam. Vật tổ hươu (người Mường gọi hươu là mẹ, cá là cha) thấy khắc trên mặt nhiều trống đồng, trên thạp Việt Khê và trên rìu Đông Sơn - Vật tổ cóc (dân gian ta suy tôn cóc là cậu ông trời) cũng thấy trên nhiều trống đồng (Hữu Chung, Đông Hiếu, Đa Bút, Phú Phương, Nông Cống, Thôn Bùi, Chợ Bờ, Đắc Giao, Thôn Mông...) Trong số những con vật thiêng này tách ra một cặp quan trọng đó là cặp Rồng - Chim phản ánh sự kết hợp giữa hai bộ lạc lớn thờ Rồng và thờ Chim, sự hình thành liên minh bộ lạc người Việt cổ lấy tổ hợp bộ lạc Rồng - Chim làm nồng cốt. Cảnh đua thuyền, cảnh hiến tế, cảnh đánh trống, đánh chiêng, giã gạo, múa nhảy thấy trên trống đồng đều là những nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp, có thể xem đó là cảnh lễ cầu mùa, hội mừng mùa, những ngày hội lễ tiêu biểu của nền văn minh nông nghiệp Việt cổ. Trống đồng Đông Sơn còn cho chúng ta những hình ảnh cụ thể về trang phục, về nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc, trang trí, nghệ thuật ca múa nhạc của người Việt cổ. Trang phục Quần áo được tả trên trống có các loại như: áo hai vạt ngắn, áo hai vạt dài, váy, khố...Họ đội nhiều loại mũ, tết các kiểu tóc khác nhau. Nghệ thuật kiến trúc Dựa theo những hình khắc trên trống đồng thấy có 2 loại hình kiến trúc là nhà sàn mái cong và nhà sàn mái tròn. Nhà có 2 cột chống ở phía đầu nhà, hai đầu và ở giữa có kê thang để lên sàn. Nhà mái tròn thường có một người (hoặc không có người) đứng giữa cửa, hai bên của có chắn phên. Nhà mái tròn có thể liên quan đến tín ngưỡng và tạm gọi là "nhà thờ". Còn những ngôi nhà có mái cong như hình thuyền lại có nhiều người có thể liên hệ rằng đó là "nhà ở". Hai góc mái có những đường hồi hoa văn trang trí. Có thể nói nhà sàn là loại hình kiến trúc chủ yếu của người Lạc Việt. Tượng trang trí Có tượng hình chó trên mặt trống nhỏ Đông Sơn, tượng cóc trên mặt các trống nhóm C. Hình tượng còn rất sơ lược nhưng nếu so sánh với thời đại hậu kỳ đồ đá mới có nghệ thuật vẫn chỉ là dạng hoa văn minh họa, thì chúng ta mới thấy bước tiến bộ về mặt nghệ thuật cũng như về kỹ thuật điêu khắc ở thời đại đồ đồng. Vũ nghệ Trên trống đồng, những người múa thường được phục trang bằng những bộ quần áo như : mũ lông chim cao hoặc mặt nạ, tay đôi tkhi cầm vũ khí. Mỗi tốp người múa thường có từ 3,4 hoặc 6 đến 7 người. Trong tốp này có người thổi khèn còn những người còn lại biểu hiện theo một động tác thống nhất, chuyển động từ trái sang phải, người sau nối tiếp người trước một quãng đều đặn, tất cả điều hành vòng quanh ngôi sao (mặt trời). Âm nhạc Theo hình khắc trên trống đồng thì thấy có hai loại nhạc khí được sử dụng bấy giờ là khèn và trống. Có hai cách sử dụng trống: Trống một người biểu diễn như hình người cầm trống trong nhà hay trên thuyền để giữ nhịp. Trống diễn tấu trong một dàn trống. Người đánh trống ngồi hoặc đứng trên sàn, cầm gậy dài đánh theo chiều đứng. Trống được đặt trên những chiếc giá sát đất. Kiểu đánh này vẫn được nhìn thấy hiện nay ở những ngày hội của đồng bào Mường ở các tỉnh Hoà Bình. Nghệ thuật tạo hình Nghệ thuật trống đồng khá độc đáo, đặc trưng bởi kỹ thuật khắc chạm trên khuôn tạo ra những hình ảnh khắc chìm chủ yếu trên mặt trống, còn trên thân trống thì là hình khắc hơi nổi. Nghệ nhân đã xây dựng hình ảnh trong những bố cục tròn trên mặt trống và ô chữ nhật trên thân trống, bên trong loại bố cục này thì hình ảnh được sắp xếp rất cân đối. Hình ảnh con người luôn được dĩen tả theo tư thế động : múa, giã gạo, đánh trống, bơi chải...Về mặt bố cục, tất cả người, động vật đều diễu hành quanh ngôi sao giữa mặt trống. Đặc biệt, phần tạo hình ở đây hơi giống kiểu tạo hình Ai Cập. Ví dụ : tốp người múa trên mặt trống có ngực hướng thẳng về phía khán giả, chân và đầu theo lối nhìn nghiêng. Còn trong hình chim bay thì thân cánh và đuôi được tả theo hình nhìn từ trên xuống, còn đầu thì theo lối nhìn nghiêng. Hình khắc cảnh sinh hoạt trên trống đồng Những kiến thức khoa học Kỹ thuật đúc: Trống đồng là một hiện vật khá lớn. Chiếc trống cỡ lớn có đường kính mặt trống xấp xỉ 90 cm, chiều cao trên dưới 60 cm, nặng gần 100 kg, hình thể phức tạp : tang trống phần trên phình ra hình nón cụt, giữa thắt lại hình trụ tròn, phần chân loe ra hình phễu. Để đúc một vật như vậy không hề đơn giản. Những nghiên cứu đã chỉ ra rằng trống được đúc bằng khuôn hai mảnh, rìa mặt trống còn để lại những dấu vết cách đều, đó là dấu vết con kê để căn đều chiều dày thành trống trên khuôn đúc. Để đúc thành công như vậy thì người nghệ nhân phải đạt được hàng loạt các yêu cầu về kỹ thuật như phải có một nhiệt độ cao để nung chảy hợp kim đồng, phải tìm được vật liệu chịu lửa để làm khuôn đúc, phải nắm vững được tính năng hóa lý của mỗi kim loại trong hợp kim đồng, đặc biệt là phải có kỹ thuật đúc với tay nghề thành thạo. Quan sát hệ thống hoa văn dày đặc và tinh xảo trên trống Ngọc Lũ 1 và trống Hoàng Hạ có thể kết luận được xã hội Lạc Việt có những người thợ đúc lành nghề. Số lượng những cánh sao, động vật, những hình thuyền trong vành hầu hết đều là số chẵn. Điều này chứng tỏ người Lạc Việt đã rất chú ý đến việc tính đếm. Trong số những số lượng cánh sao nổi bật lên là con số 12 (chiếm 46,1% tổng số). Số này liên quan đến số lượng tháng trong một năm. Các nhóm thuyền khắc trên trống thể hiện sự phát triển về kỹ thuật quân sự của thời này. Trong số 436 người được khắc trên các trống có 175 người cầm vũ khí (40,1%). Các loại vũ khí gồm : giáo, rìu, cung, dao găm và mộc. Hình khắc chim muông trên trống đồng GÌN GIỮ CHO MUÔN ĐỜI SAU Tại Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam ở thủ đô Hà Nội, bên bờ sông Hồng, ở vị trí trung tâm của phòng trưng bày đầu tiên dành cho thời đại Hùng Vương dựng nước, khách tham quan thấy có hai chiếc trống đồng lớn: trống Ngọc Lũ và trống Hoàng Hạ là hai trong những chiếc trống cổ nhất, lớn nhất, và đẹp nhất, hai văn vật nổi tiếng trong bộ văn vật tiêu biểu cho nền văn minh Việt cổ thời đại dựng nước: bộ trống đồng Đông Sơn. Viện bảo tàng lịch sử lại tổ chức thêm một Phòng trưng bày chuyên đề trống đồng Đông Sơn. Diện tích trưng bày chuyên đề này với hơn 100 hiện vật quý báu, với những biểu hiện bước đầu về trống đồng cũng đã giúp chúng ta hiểu thêm được khá nhiều về nguồn gốc, quê hương, chức năng, công dụng, đặc điểm tính chất... của trống đồng, và thông qua những hoa văn trang trí trên trống, hình dung được một cách sinh động hiện thực xã hội, hiện thực văn hoá vật chất và tinh thần của thời đại dựng nước. Ở vị trí trang trọng trong phòng trưng bày chuyên đề trống đồng Đông Sơn thấy có chiếc Ngọc Lũ I được coi là chiếc trống có kích thước to lớn, hình dáng cổ kính, tập trung hoa văn phong phú nhất và đã thu hút được sự chú ý của nhiều người xem cũng như của nhiều nhà nghiên cứu. Vào năm 1903, người ta thấy chiếc trống lớn và đẹp này tại chùa Đọi (Long Đội Sơn) thuộc làng Ngọc Lũ, tỉnh Hà Nam. Trống do một cụ già tìm được khi đắp đê sông Hồng và đưa về để ở chùa làng. Từ đó chiếc trống đồng Ngọc Lũ được cả thế giới biết tiếng và trở thành một trong những di vật đồng thau tiêu biểu nhất. Trống được bảo quản tương đối nguyên vẹn, được phủ ngoài một lớp pa-tin màu xanh ngả sang xám. Trống có hình dáng cân đối gồm 3 phần hài hoà: tang phình, thân thon, đế choãi. Mặt trống hơi tràn ra ngoài tang một ít tạo thành đường gờ nổi giữa mặt và tang trống. Gắn vào tang và phân giữa thân trống là 4 chiếc quai chia thành hai cặp ở hai phía, trang trí văn bện thừng. Ở mặt trống cũng như tang trống và thân trống đều có trang trí hoa văn chia thành hai loại: một loại là hoa văn hình học, một loại là những hình khắc người, động vật và cảnh vật. Trên mặt trống ở chính giữa là một mặt trời với 14 tia chiếu ra chung quanh, sau đó là 16 vòng hoa văn. Nội dung các hoa văn phong phú, sinh động: đó là những người hoá trang hình chim cầm lao, giáo, khèn... một giàn cồng chiêng có người đánh, người giã gạo chày đứng, hình chim bay, nhà sàn mái hình thuyền có chim, gà đậu trên nóc và người ở bên trong, cảnh người đang đánh trống đồng. Vòng hoa văn thứ 8 là những con hươu đang thong thả bước và chim đang bay. Vòng thứ 10 là những con chim mỏ dài, đuôi dài đang bay và những con chim mỏ ngắn đang đậu. Trên tang trống có 10 vòng hoa văn trong đó có khắc hình những chiếc thuyền cong có sàn có lái mũi đang chở những người cầm rìu, giáo, cung tên cùng với chó, chim, trống đồng, bình đồng. Thân trống có 6 khung, hoa văn, mỗi khung là hình hai người hoá trang thành chim cầm rìu và mộc. Chân trống không trang trí. Trống Ngọc Lũ là chiếc trống đồng phải nói là đẹp nhất, có hình dáng hài hoà, có hoa văn phong phú nhất trong số những chiếc trống đã tìm thấy ở Việt Nam, ở Đông Nam Á và trên thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà kỹ thuật và nghệ sĩ của thời đại dựng nước xưa kia đã dồn công sức để chế tạo những chiếc trống đồng tuyệt diệu như những chiếc trống đồng Đông Sơn. Đó chính là sự đúc kết tinh hoa văn hoá của người xưa vào một hiện vật tiêu biểu nhất của văn hóa Việt cổ, của nền văn minh sông Hồng - Trống đồng Đông Sơn.
  20. Thực hư chuyện người Việt nhảy múa trong lễ tế Mã Viện Tác giả: Thái An Bài đã được xuất bản.: 30/03/2010 14:00 GMT+7 Nguồn tuanvietnam.net Trên một số diễn đàn tại Việt Nam gần đây xôn xao chuyện đoàn biểu diễn nghệ thuật Việt Nam sang Trung Quốc, trình diễn trong lễ tế Mã Viện (người Trung Quốc tôn là Phục Ba Tướng quân). Nhiều người bày tỏ sự lo lắng, thậm chí quy trách nhiệm và chỉ trích việc tại sao đoàn nghệ thuật Việt Nam lại biểu diễn trong lễ tế một vị tướng Trung Quốc đã đánh bại cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sát hại nữ anh hùng dân tộc Việt Nam. Thực hư chuyện này ra sao, chúng tôi xin làm rõ nội dung gốc đăng trên một số trang web của Trung Quốc. Trang web đầu tiên đăng tải hình ảnh lễ tế Mã Viện, có người Việt Nam tham gia biểu diễn thực ra là một trang diễn đàn (Trung Quốc gọi là trang cộng đồng). Một số thành viên tham gia diễn đàn đã post các hình ảnh về lễ tế, hình ảnh có người Việt Nam tham gia hoạt động biểu diễn văn hóa nghệ thuật, đồng thời kèm theo một số lời bình cho rằng: "những người này chẳng nhẽ không hiểu lịch sử?". Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, đây là một buổi tế lễ Mã Viện (Phục Ba) trước cửa đền thờ Mã Viện của tộc người Kinh, thôn Hồng Khảm, thị trấn Giang Bình, Phòng Thành, Đông Hưng, Trung Quốc. Những người trong thôn này vào rằm tháng giêng thường làm lễ cúng tế Phục Ba. Người Kinh biểu diễn tại lễ hội Thôn này là thôn của dân tộc Kinh. Về mặt lịch sử, tộc Kinh là tộc người thành lập từ khi Mã Viện dẹp được cuộc khởi nghĩa Hai Bà, để quản lý tốt biên giới phía nam, đã để lại một số lượng lớn lính trong quân đội tại Giao Chỉ, Cửu Châu để đám người này phân tán và cắm rễ trong các dân tộc Việt. Các điển tích lịch sử gọi là "Mã lưu nhân". Tộc người Kinh có khoảng 14.000 người và đây là nơi duy nhất ở Trung Quốc có người Kinh sinh sống. Và tộc người Kinh này, được xem là tộc người thiểu số Trung Quốc. Tộc người này ở Đông Hưng rất thông thạo tiếng Việt nhưng khi giao lưu với bên ngoài thường dùng tiếng Hán và chữ Hán. Một nhà nghiên cứu Trung Quốc lâu năm, người từng trực tiếp đến làng này trước đây cho hay, khu vực làng này đã chính thức cắt sang đất Trung Quốc từ sau Công ước Pháp - Thanh 1887. Hiện nay, người dân ở làng này thậm chí hầu như không biết tiếng Việt, nhưng văn hóa, lối sống vẫn còn giữ được nhiều tập tục của người Việt. Tuy nhiên, dù gì sau cả trăm năm, người Kinh ở đây vẫn là người Trung Quốc, tuân theo những lễ nghi, văn hóa của Trung Quốc. Những hình ảnh gửi lên diễn đàn thực ra là con cháu tử tôn của nhóm lính thuộc quân của Mã Viện lưu lạc lại ở vùng biên giới Việt - Trung. Trải qua trăm năm, họ trở thành một dân tộc thiểu số Trung Quốc. Nhiều bà con Việt Nam ở sát khu vực biên giới cũng có họ hàng với những người trong thôn, hàng năm trở về tham gia lễ tế. Ví dụ như người họ Thập, tại Sài Gòn, Hải Phòng, Móng Cái, người họ Thập ngày 25/2 âm lịch đều tham gia lễ tế. Cái mà một số thành viên diễn đàn bình luận là: "Đoàn biểu diễn nghệ thuật Việt Nam, dù không biết tiếng Hán, vẫn tham gia trình diễn trong lễ tế Mã Viện" thực chất theo chú giải ghi dưới hình ảnh thì là "Đoàn Việt Nam có tên gọi Gia Tân tham gia giao lưu". Nghĩa là đây là hành động tự phát, không theo một tổ chức nào, của một số bà con người Việt có họ hàng, liên quan tới tộc người Kinh tại Đông Hưng, tham gia biểu diễn.m dự.
  21. Bí ẩn lục địa huyền thoại Mu Nguồn kenh14.vn Lục địa Mu được tương truyền rằng nằm trên một trong 4 đại dương của trái đất. Tuy nhiên, nó đã... biến mất vào thời kỳ bình minh của loài người. Tên gọi cũng như khái niệm về Mu được nhà du hành Augustus Le Plongeon đề xuất vào thế kỷ thứ 19. Augustus khẳng định rằng những nền văn minh cổ đại như Ai Cập hay Mesoamerica, thực chất được xây dựng nên bởi những người đến từ lục địa Mu - một lục địa nằm ở Đại Tây Dương. Augustus Le Plongeon Sau này khái niệm về Mu được mở rộng hơn bởi James Churchward (1851–1936). Tuy nhiên James cho rằng Mu nằm ở Thái Bình Dương chứ không phải Đại Tây Dương. James Churchward Ý tưởng đầu tiên về lục địa Mu xuất hiên sau khi Augustus Le Plongeon (1825–1908), tiến hành nhiều cuộc điều tra về nền văn minh cổ đại như Maya ở Yucatán. Ông khẳng định rằng những bút tích của người Mayan sau khi được dịch ra cho thấy nền văn minh này còn lâu đời hơn cả nền văn minh Hy Lạp hay Ai Cập cổ đại. Ngoài ra nó còn cho thấy trước đó có một lục địa còn cổ xưa hơn những lục địa mà con người từng biết tới. Le Plongeon đã chọn cái tên "Mu"- có nghĩa là tai họa để ám chỉ sự biến mất của lục địa này. Thực ra đây là một cái tên do ông dịch sai từ một văn bản cổ. Le Plongeon cũng cho rằng Mu nằm ở Đại Tây Dương, một thảm họa nào đó đã nhấn chìm nó xuống làn nước sâu thẳm. Văn bản bị dịch nhầm Bản vẽ tay chỉ ra vị trí của lục địa huyền bí Churchward thì có cách nghĩ khác. Ông khẳng định rằng “hơn 15 năm trước” (thời điểm ông ta nói) khi ông còn là một quân nhân ở Ấn Độ, ông đã kết bạn với hai vị hòa thượng – những người cho ông xem hai tấm phù điêu đất sét cổ. Người ta cho rằng có thể nó được viết bằng ngôn ngữ "Naga-Maya " – Thứ ngôn ngữ này chỉ có 2 người ở Ấn Độ đọc được. Sau khi nghiên cứu thứ ngôn ngữ kỳ lạ, Churchward phát hiện ra rằng chúng có xuất xứ từ lục địa huyền thoại. Theo những nghiên cứu của Churchward, Mu nằm ở Thái Bình Dương. Mu có 64 triệu dân - một con số khổng lồ vào thời điểm nó tồn tại, cách đây 200 000 năm trước. Với hệ thống xã hội vô cùng tinh vi và phát triển, Mu biến tất cả các lục địa khác thành thuộc địa. Mu có nền khoa học vô cùng phát triển, nhiều kỳ thuật còn vượt xa cả những gì con người ngày nay tưởng tượng. Người dân Mu có những khả năng siêu nhiên. Họ có thể sống rất lâu, tới hàng trăm năm tuổi. Tuy nhiên 12 000 năm trước một thảm họa đã nhấn chìm toàn bộ Mu xuống biển. Người dân trên lục địa phải di cư đi nơi khác. Họ đến các lục kia còn lại và sáng lập nên các nền văn minh khác sau này. Ông chỉ ra rằng Mu nằm trải dài từ phía nam Hawaii cho tới đảo Fiji và đảo Phục Sinh. Tuy nhiên một sai lầm của Churchward đó là ông không bao giờ công bố những bản dịch của mình trong các cuốn sách. Do vậy người ta không thể coi những gì ông nói là dựa trên cơ sở khoa học. James đặt giả thuyết Nan Modal, trên đảo Pohnpei, Nam Thái Bình Dương rất có thể là một trong 7 thành phố của Mu. Điểm đặc biệt của thành phố này là tuy được xây dựng bằng đá, những gần thành phố không có mỏ đá nào cả. Người ta đặt câu hỏi làm thế nào mà những tảng đá được di chuyển đến đây. Có người nói rằng người trên Mu đã sử dụng ma thuật bóng tối. Nhưng chưa nói đến chuyện họ dùng gì, bởi các giám định cacbon sau này cho thấy niên đại của những viên đá là khoảng 1200 sau công nguyên, nghĩa là chả liên quan gì tới Mu cả. Nan Modal Năm 1985 gần hòn đảo Yonaguni, Nhật Bản, người ta tìm thấy một kim tự tháp bậc thang lớn. Giáo sư Masaki Kimura, thuộc đại học Ryukyu, Okinawa, cho biết nó rộng tới 183 mét và cao 27 mét. Tìm thấy kim tự tháp ở Nhật, gần hòn đảo Yonaguni Nó có cách đây khoảng 3,000 tới 8,000 năm. Một số nhà nghiên cứu cho rằng nó có thể là tàn tích còn sót lại của Mu. Tháng 12 năm 2000 một đội tìm kiếm đến từ Viện công nghệ hải dương quốc gia (NIOT) khẳng định rằng họ đã tìm thấy phần còn lại của một thành phố khổng lồ chìm dưới nước ở vịnh Cambay , phía tây bờ biển Ấn Độ. Một năm sau những tìm kiếm tiếp tục chỉ ra một loạt các công trình khổng lồ, nhiều đồ gốm, các bức tường, nhiều chuỗi hạt, xe lẫn những mảnh xương người. Các giám định cho thấy những đồ vật và di tích trên xuất hiện vào khoảng thời gian 7500 năm trước Công nguyên, nghĩa là sớm hơn 4000 năm so với nền văn minh cổ nhất được biết tới ở Ấn Độ. Vậy nền văn minh đó là gì? Mu chăng? Cho tới giờ phút này, sự tồn tại của Mu cũng như những nghiên cứu về nó còn rất nhiều điểm tranh cãi. Bạn có thể tìm thấy hàng trăm trang tài liệu về Mu, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tranh cãi mà thôi. Mu vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất của mọi thời đại. James Churchward có viết về lục địa Mu trong những sách Lost continent of Mu, the mother of man (1926), The children of Mu (1931), The lost continent Mu (1931),The sacred symbol of Mu (1933) Trong số các quyển sách này có The sacred symbol of Mu có bản đầy đủ ở trên mạng, link dưới http://www.bibliotecapleyades.net/atlantid...mu/contents.htm http://www.sacred-texts.com/atl/ssm/index.htm Còn Lost continent of Mu, the mother of man (quyển sách viết đầy đủ nhất về Mu), The lost continent Mu (1931), chỉ xem hạn chế ở google book http://books.google.com.vn/books?id=I-wwZQ...;q=&f=false http://books.google.com.vn/books?id=NsaVQa...;q=&f=false
  22. Tiếp tục tìm những thông tin về chữ Khoa Đẩu, PhucTuan thấy có một tài liệu cổ nhắc đến, đó là một bản phổ chí nói về quan hệ Việt - Chăm do tác giả Võ Văn Thắng đăng trên trang vannghedanang.org. Trong bài nghiên cứu trên, rất nhiều hướng nghiên cứu có thể gọi là rất mới về nước Chiêm Thành. Tuy nhiên tất cả những vấn đề trên chúng ta cũng cần phải xem xét kĩ lưỡng. PhucTuan sẽ bôi đen những đoạn thông tin đáng chú ý. Ngay ở đoạn đầu đoạn trích cuốn phổ chí có ghi chép rằng thủy tổ của những người Chiêm này là vua Lạc (Lạc Long Quân?). Truy tư ngã thuỷ tổ Lạc hoàng sinh hạ ngã tộc. Thượng cổ thời cựu/phấn tích tại Thanh Lam động, hiệu Việt Thường bộ, trung cổ di vu Lâm Châu (kim Lâm Bình địa), cận cổ di vu Đà Bàn (kim Bình Định địa) cải hiệu Chiêm Thành quốc, yểm hữu Thanh Hà (kim Thanh Hoa địa) dĩ nam chí Thạch Bi động (kim Thuận Thành địa) kế thế tương truyền quốc chủ hữu lục thập bát thế kỷ (cựu thổ âm xưng dung anh). Phàm tôn tộc thế hệ giai dụng khoa đẩu tự biên lục. Từ thời thượng cổ sinh sống tại động Thanh Lam đối chiếu với chú thích như sau: Căn cứ vào cách nói ở một chỗ khác trong phổ chí, Thanh Lam được hiểu là vùng Lam Sơn, Thanh Hoá. (Xem chú thích 28,29). Hiệu là bộ Việt Thường, liệu có phải những người Chiêm Thành này gốc gác tổ tiên cũng nằm trong những bộ mà các vị vua Hùng đã cai trị. Vì một lí do nào đó, có thể là do sự xâm chiếm của các dân tộc khác nên một bộ phận những người này đã di cư và trở thành những người Chiêm. Thời trung cổ dời vào Lâm Châu (nay là đất Lâm Bình[6]), thời cận cổ lại dời vào Đà Bàn (nay là đất Bình Định), đổi hiệu là nước Chiêm Thành, bao trùm cả Thanh Hà (nay là đất Thanh Hoa), về nam tới động Thạch Bi (nay là đất Thuận Thành[7]), tiếp nối các đời làm chủ đất nước, gồm 68 thế kỷ (đất cũ thổ âm gọi là “dung anh”) Các thế hệ đều dùng chữ khoa đẩu[8] để biên chép. Đoạn giải thích có ghi: [8] Theo truyền thuyết được chép trong Nghệ Văn Chí của Hán Thư thì vào cuối đời Hán Vũ Đế (140-67 tr C.N.), Lỗ Cung Vương phá nhà Khổng Tử để mở rộng cung thất mà được mấy chục thiên Thượng Thư, Lễ Ký, Luận Ngữ, Hiếu Kinh dấu ở trong vách và đều chép bằng thứ chữ cổ. Lỗ Cung Vương thấy hình thể các chữ cổ ấy ngoằn ngoèo, bèn cho là hình những con nòng nọc, do đó mà có danh từ khoa đẩu văn.(Nguyễn Văn Dương, Lược sử chữ Hán). Theo cách viết ở một đoạn sau của phổ chí này, thì khoa đẩu được hiểu là dùng để chỉ chữ Chiêm, một loại chữ cũng có dạng ngoằn ngoèo.( Xem Chú thích 10 và 27) PhucTuan không cho rằng chữ Khoa Đẩu ở đây ám chỉ chữ của Chiêm Thành. Trong đoạn chép có ghi là các thế hệ đều dùng chữ Khoa Đẩu để ghi chép. Nếu như thực sự tổ tiên họ ở Thanh Hóa, vậy thì chữ Khoa Đẩu mà các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở vùng Thanh Hóa mới thực sự là chữ viết của họ. Những điều này lại thật là trùng hợp qua những bằng chứng khảo cổ học ở Thanh Hóa, hay những chữ Khoa Đẩu còn sót lại trong hệ thống những chữ Mường. Qua những ghi chép trong cuốn phổ chí qua các đời từ rất lâu nên rất có thể chữ Chiêm (chữ Khoa Đẩu) của họ cũng là xuất phát từ chữ Khoa Đẩu cổ. Bản thân những chữ Khoa Đẩu cũng đã bị tàn phá rất nhiều nên khi những người "Việt" này di cư vào vùng trung xen lẫn với người dân bản địa và dựa trên nền chữ Khoa Đẩu cổ sáng tạo ra một bộ chữ mới cũng là điều rất có thể. Giả thiếṭ những suy diễn trên là đúng, chữ Chiêm ngày nay là cũng là một sản phẩm từ chữ Khoa Đẩu thì lại có một điều trùng hợp nữa. Trong một bài nghiên cứu có tựa đề là Tiếng Chàm có thể là nguồn gốc văn tự Phi Luật Tân (Philipines) http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=9497 Điều này có vẻ đúng với giả thiết của bác Thiên Sứ là đã có một cuộc di dân của người Việt cổ ra khác các vùng lân cận. Những người Việt cổ này chỉ mang được những gì rất ít ỏi còn sót lại của một nền văn minh khác. Trải qua bao các thế hệ những giá trị này đã bị hao mòn đi không ít, nhưng cái gốc của nó thì thực sự vẫn còn. Tư bổn tộc niệm dĩ ngã tộc nguyên cư đồng căn, tán cư tứ chánh, thiên các nhất phương, nhược vô phổ chí, hậu thế thất truyền, khủng chí vân nhưng vong khước thân thân chi nghĩa, nãi đồng hội kê thượng cổ, trung cổ, cập cận cổ thế hệ, tắc tự biên khoa đẩu. Dịch: Lúc bấy giờ trong tộc nghĩ rằng tộc ta nguyên thuộc cùng một gốc, nay rải rác ở tứ phương mỗi người một ngả, không có phổ chí thì đời sau thất truyền, sợ đến nỗi quên mất cái nghĩa bà con, bèn cùng kê các đời từ thượng cổ, trung cổ cho đến cận cổ đều viết bằng chữ khoa đẩu.[24] Tự ngã Tiên công quy Trần chi nhật Trần triều nghi ngã dân hữu biệt dạng tự chỉ, khủng sinh biệt dạng âm thư, nghiêm cấm học Chiêm văn tự Dịch: Kể từ thời Tiên công ta về với nhà Trần, triều Trần nghi dân ta có dạng chữ riêng, sợ sinh ra có tiếng nói và sách vở khác biệt , nên nghiêm cấm việc học chữ Chiêm. Qua 2 đoạn trên ta thấy rằng trong ý đoạn văn chữ Khoa Đẩu và chữ Chiêm Thành phải là 2 dạng chữ viết khác nhau. Nếu như coi Khoa Đẩu là chữ Chiêm thì có lẽ là một sai lầm. Chữ Khoa Đẩu như là một biểu tượng văn hóa của cha ông họ, là cái mà họ nghĩ về cội nguồn, tình nghĩa, chỉ được ghi chép những điều gì thuộc về̀ thượng cổ, trung cổ, cận cổ. Chữ Khoa Đẩu này hẳn phải là một loại chữ cổ hơn chữ Chiêm. Dưới đây là bài nghiên cứu về bản phổ chí: MỘT BẢN PHỔ CHÍ NÓI VỀ QUAN HỆ VIỆT – CHĂM (Kỳ 1) I. GIỚI THIỆU Trong các tài liệu có tính chất phổ thông, nước Chiêm Thành (hay Champa) thường được nhắc đến như là một vương quốc hình thành ở vùng đất miền Trung Việt Nam, I. GIỚI THIỆU Trong các tài liệu có tính chất phổ thông, nước Chiêm Thành (hay Champa) thường được nhắc đến như là một vương quốc hình thành ở vùng đất miền Trung Việt Nam, từ khoảng thế kỷ II và tồn tại đến thế kỷ XVII. Lãnh thổ của vương quốc này ở thời kỳ rộng lớn nhất bao gồm từ Quảng Bình đến Bình Thuận ngày nay. Lịch sử của nước Chiêm Thành được viết chủ yếu dựa theo các nguồn tư liệu của các nhà du hành và sử gia Trung Quốc, cùng một số văn bia chữ Phạn và chữ Chăm. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu về Đông Nam Á và Việt Nam muốn xác định lại khái niệm Champa. Theo đó, không nên hiểu Champa như một quốc gia với một lịch sử mạch lạc và liên tục do các sử gia thế kỷ XX khái quát nên. Champa được nhìn nhận như là một từ chỉ chung cho nhiều vương quốc hoặc nhiều tiểu quốc cùng tồn tại ở dải đất miền Trung và có những thời kỳ thịnh suy không đồng đều.[1] Cách nhìn này có tác dụng gợi mở một số giả thuyết mới trong việc nghiên cứu văn minh Champa, đồng thời cũng thúc đẩy việc tìm kiếm thêm những nguồn tư liệu mới. Bài viết này giới thiệu một bản phổ chí hiện được cất giữ trong một gia đình ở một làng miền Trung Việt Nam, trong đó chứa đựng những thông tin mới mẻ về mối quan hệ Việt - Chăm và về sự hình thành cư dân ở miền Trung Việt Nam vào thế kỷ XIV, XV. Bản phổ chí được viết bằng chữ Hán, gồm 24 trang khổ 15 x 30. Ở trang đầu có ghi dòng chữ lớn: Đà Sơn, Đà Ly nhị xã Phan tộc phổ chí (Phổ chí của tộc Phan hai làng Đà Sơn và Đà Ly). Dòng đầu của phổ chí cho thấy phổ chí này được viết vào năm 1806[2]. Từ trang 2 đến trang 7 là phần lược thuật về lịch sử của tộc, trong đó nói rằng tổ tiên của tộc đã từng là người đứng đầu của một vùng. Từ giữa trang 7 đến trang 24 là phần liệt kê các thế hệ tổ tiên của tộc, bắt đầu từ ông tổ chết vào đầu thế kỷ XV, được xem là đời thứ nhất, đến ông tổ đời thứ mười ba. Cuối tập phổ chí, những người biên soạn tự xưng là con cháu thế hệ mười bảy. II. PHIÊN ÂM, DỊCH VÀ CHÚ THÍCH Trong phạm vi một bài viết, chúng tôi xin chọn giới thiệu 7 trang đầu và một trang về vị tổ đời thứ ba, là phần chứa nhiều thông tin mới lạ nhất trong tập phổ chí. Chúng tôi muốn được lưu ý là: Bản phổ chí có khá nhiều chi tiết xem ra có vẻ phi lý và nhầm lẫn, tuy nhiên, nếu được xử lý như một nguồn tư liệu dân gian, thì có khi những điều phi lý, nhầm lẫn lại trở nên chấp nhận được và có ý nghĩa. Phiên âm: Đà Sơn Đà Ly nhị xã Phan tộc phổ chí. Gia Long bính dần ngũ niên tứ nguyệt thập tứ nhật. Phan tộc Đà Sơn xã trưởng phái tự tôn Phan Tấn Nguyên, Đà Ly xã thứ phái tự tôn Phan Hữu Nga, đồng bổn tộc đẳng. Kê Nhơn vì Tiên công cao cao tổ huý nhật hội tề truy lục tộc phổ sự. Truy tư ngã thuỷ tổ Lạc hoàng sinh hạ ngã tộc. Thượng cổ thời cựu/phấn tích tại Thanh Lam động, hiệu Việt Thường bộ, trung cổ di vu Lâm Châu (kim Lâm Bình địa), cận cổ di vu Đà Bàn (kim Bình Định địa) cải hiệu Chiêm Thành quốc, yểm hữu Thanh Hà (kim Thanh Hoa địa) dĩ nam chí Thạch Bi động (kim Thuận Thành địa) kế thế tương truyền quốc chủ hữu lục thập bát thế kỷ (cựu thổ âm xưng dung anh). Phàm tôn tộc thế hệ giai dụng khoa đẩu tự biên lục. Đãi ngã hậu chúa cống sứ Trung Hoa, mục đỗ Trung Hoa văn hoá dĩ triêm nhập ngã lân bang chi Giao Chỉ, Tượng Quận đẳng bộ, gia gia kinh sử, xứ xứ canh vân, phi như ngã quốc tục tiễn mộc, bá hoà, phần sơn thực mạch chi lậu tập giả tỉ. Chúa tâm khoái mộ, nhơn triệu Trung Hoa tú sĩ sổ thập bối, dẫn hồi giáo ngã tôn tộc quốc dân. Hậu chúa niên lão, sách hoàng trưởng tử vi Phó chúa, sai tú sĩ Trịnh Giác Mật phụ đạo Phó chúa tại Đà Giang biệt trướng. Hậu chúa hoằng ai báo chí nguỵ Mật (x) sát Phó chúa, tự lập vi Đà Giang quốc vương. Ngã Tiên công thị hậu chúa hoàng đệ, văn nguỵ Mật nội hữu thập bối tú sĩ, ủng binh thanh ứng, ngoại hữu Tàu ô, Ngô binh trấn chư hải khẩu, ngã Tiên công liệu lực bất chi, nãi uỷ Thượng Thành động (kim Qui Nhơn đồn) Bí động trưởng thủ quốc, công phụng quốc tỉ, đồ tịch, tộc phổ bôn Giao Chỉ cầu yết Trần chúa khất sư trụ Mật. Trần chúa giá dĩ quốc nữ, khuyến công lưu cư, sai tướng phù Mật thu Đà Giang địa. Quốc nội nha tướng hiệp chư châu trưởng, động trưởng ủng lập Bí động trưởng vi quốc chúa. Như Trần cầu hôn, Bí chúa nhập nhoá, nha tướng Sạ Đẩu tiếm xưng quốc chúa, cử binh cự Trần, tranh Đà Giang địa. Trần chúa nộ, hưng sư tiến thảo, phù hoạch Sạ Đẩu. Thời Trần quan binh vãn ngã quốc, kiến quốc tục hủ lậu, hồi thân, Trần chúa khuyến ngã Tiên công cập Bí chúa quân dĩ quốc tế phong quan tước, hồi hiểu thổ trưởng, tù trưởng thuận hiệp Chiêm Thành, Giao Chỉ vi nhất quốc tỉ đắc đồng hoá, sĩ trí phú cường, lánh phân chủ trị. Ngã Tiên công tự niệm dĩ ngã quốc chúa hoăng, tướng bạn, địa tước dân bần, thế nan tự chủ, thỉ thính Trần chúa chi ngôn. Trần chúa thụ ngã Tiên công dĩ Đô chỉ huy sung thập tam châu kinh lược chiêu dụ xử trí sứ. Công lãnh chỉ hành hiểu các châu động quan dân hàm giai quy thuận. Công thân hồi thỉnh cấp ngưu canh điền khí tịnh thỉnh phát Giao Chỉ sảo thức văn tự nhàn thục nông nghiệp chi dân. Hứa công lãnh tựu các xứ thiết lập trang trại phân trú, (x) tập ngã thổ dân dĩ văn tự canh giá đẳng sự. Công cải các châu tù trưởng vi lệnh doãn quan, trí các động trưởng, lại trưởng vi cai trại tri thâu đẳng chức. Mỗi trại cấu thương lượng trữ điền túc chi cấp quan dân cập hoà ương điền khí đẳng chủng. Vãn Trần Trùng Quang nhị niên, thổ dân tiến hoá ước dĩ thái bán, công thân thỉnh phân Hoá Châu tự ải Vân Trà Ngâm động (kim Câu Đê xã) dĩ nam chí Trà Khúc động (kim Tư Nghĩa phủ) lập nhứt Đà Bàn huyện (chỉ cải Điện Bàn huyện địa, kim quát tận Quảng Nam dinh tứ chí), thiết điền số thượng hạ nhị tổng, mỗi tổng cai trị thập xã, mỗi xã khán thủ tam ngũ thập trại. Đinh tắc Giao dân, thổ dân đồng nhứt ngạch tịch. Địa tắc công tư điền thổ các biệt phân canh. Tồn như thổ dân gián hữu chấp mê cổ tục bất thuận tùng hoá dã, tắc thính biệt thôn sách, các trí phu trưởng kiểm thủ dĩ biểu nhứt thị đồng nhơn chi nghĩa. Thân văn, Trần chúa gia tưởng vân: thác thổ khai canh bất phụ chỉ huy chức trách, hoá dân thành tục, quả thù xử trí quyền nghi, chỉ tứ Thành hoàng tướng quân Thuận quốc công tước, cấp hứa trại điền tự Trà Ngâm động chí Lầu Cấu (kim Quan Quê xã), Nội Đồng (kim Đà Ly xã), Trà Na (kim Đà Sơn xã), Nô Cố (kim La Bông, La Châu, Phú Sơn tam xã), Đồng Quan (kim Cẩm Toại xã), Phủ Thượng (kim Tích Phú xã) đẳng động cai ngũ thập trại, nhận thâu lương túc dĩ cung gia quyến chi nhu, truyền tử lưu tôn vĩnh vi thế lộc. Thiểu đáp gia huân, dụng chiêu (x) mạng, công cụ xuất sản bửu hoá cống tạ, thân khất cáo lão trí sự, thừa chỉ sai nhị công tử đại lãnh phụ tước kinh lược các châu động trại, thính tự quyền nghi, tuỳ địa xử trí doãn hiệp cai phụ tiền mao hiệu thành trọng thưởng. Nhị công tử lãnh chỉ thời ngã tiên công hồi thiết tư phủ tại Đà Sơn xã, Trà Na trại, công trí các cai trại Kiều Lệnh vi xã trưởng, cựu động trưởng Đỗ Tuyết vi tri thâu, Nguyễn Đăng khán thủ tuỳ hầu công phủ. Trưởng công tử (Công Chánh) thiết công phủ tại Đà Câu xã (kim cải Lạc Câu), thứ công tử (Công Nhâm) thiết công phủ tại Nội Đồng trại (kim Đà Ly xã) thiết huyện nha tại Kỳ La trại (kim Đà Ly địa). Cập văn Hồ tướng quốc di Trần tộ, Tiên công triệu nhị công tử hồi, vị: nhị tử hệ Trần ngoại sanh, Trần tộ nhược di, tảo liệu như hà dĩ miễn hoạ cập. Trưởng công tức thân thỉnh thị dưỡng song thân từ chức tỵ nạn, gia quyến nhưng cư Đà câu phủ đệ, công hồi tùng phụ thị dưỡng. Thứ công tận thâu trại tịch, tiến yết Hồ công, trá xưng bái hạ tân chánh, phụng lãnh Hồ triều chỉ mạng dĩ tỵ hiềm nghi. Hồ công tứ yến, nãi chỉ sai công nhận Giao Chỉ lưu dân, giải Trần tôn thất, Ngô bạn dân, phân tháp các trại khẩn điền. Công niệm dĩ Trần hệ mẫu tộc, công tuân nhận, hồi xuất thương túc, sức cấu gia cư, mỗi táo cấp điền ngũ mẫu hoặc thất mẫu quản nghiệp. Hồ Khai Đại nhị niên, công thân tự tiền thiết mỗi xã kiêm khán tam ngũ thập trại, kim thừa phân tháp Trần dân, Ngô dân dữ tứ chánh lưu dân tấu tập nhật đa, nhứt xã chi trưởng nan năng châu tất, thỉnh hứa công lượng tuỳ mỗi trại điền thổ quảng hiệp, hộ khẩu đa thiểu, cải trại vi xã, thôn, phường, ấp, các trí xã trưởng cai trị tỷ dị kiềm phòng. Hồ công doãn hứa. Công nãi cải trại, tăng thiết tổng xã, hựu cải Nội đồng, Kỳ La, La Hồng đẳng trại vi Đà Ly xã, trí động truởng cai trại Phùng Văn Mươi vi xã trưởng, cựu xã trưởng Ung Văn Lào vi tri thâu, khán thủ công vụ (công chủ các tổng xã, tự chỉ tuy tồn nhưng bất biên nhập ( ) bổn tộc phổ ngoại). Khai Đại tam niên tứ nguyệt thập tứ nhật, Tiên công hoăng, công hồi cư tang, tứ niên chánh nguyệt sơ thất nhật tiếp ngộ mẫu tang, công suất gia quyến lưu cư Đà Ly phủ đệ, công dữ công huynh đồng cư vu tiên công phủ đệ dĩ chí chung lão. Tư bổn tộc niệm dĩ ngã tộc nguyên cư đồng căn, tán cư tứ chánh, thiên các nhất phương, nhược vô phổ chí, hậu thế thất truyền, khủng chí vân nhưng vong khước thân thân chi nghĩa, nãi đồng hội kê thượng cổ, trung cổ, cập cận cổ thế hệ, tắc tự biên khoa đẩu. Tự ngã Tiên công quy Trần chi nhật Trần triều nghi ngã dân hữu biệt dạng tự chỉ, khủng sinh biệt dạng âm thư, nghiêm cấm học Chiêm văn tự, trí kim cựu phổ tuy tồn kim bất thức tự, thất tường cổ nhân danh tích, chỉ đồng mặc ký ngã liệt tiên tổ di ngôn, lược trần sự khoản, lưu chiếu kỳ Lạc Câu, Trà Sơn, Trà Kiệu, Bảo An, An Hoà, Bàn Lãnh, Câu Nhí, Phú Sơn, Tích Phú, Câu Đê, Quan Quê, Hoá Quê, nguyên dữ ngã đồng tông chi các Phan tộc tộc trưởng. Kim nhật toàn vô hội diện, trí nan tường cứu hiệp biên, triếp cảm cung thự ngã tiên công vi đệ nhất đợi cao tổ, cẩn tuỳ thế thứ lịch kê vu hậu, tỷ ngã hậu nhân y thức tục biên lưu thuỳ vạn đợi vĩnh viễn vô cương, tư cung lục. Kê Đệ nhất đợi cao cao tổ khảo khai lập Điện Bàn huyện, Trần phong Thành hoàng Thuận quốc công Phan Công Thiên tiên công chi vị. (Thường niên chánh nguyệt sơ lục nhật lễ sinh, tứ nguyệt thập tứ nhật lễ kỵ) Mộ táng xã nội Nhiêu Trà Na xứ, Phan Địch thổ. .. .. .. Đệ tam đợi cao tổ khảo Lê phong Thuận Hoá hầu Phan Công Minh quí công chi vị . (Nhị nguyệt sơ tứ nhật lễ sinh, thập nhị nguyệt sơ bát nhật lễ kỵ) Mộ tại Bàu Môn thượng xứ, thổ phụ. .. .. Công thiếu chí bất thần Hồ, thường du lương túc trạch văn võ chi tinh nhuệ giả, cấp thực phân giáo tự Điện Bàn dĩ nam các xứ hoàng đinh, cường giả tập võ, nhược giả học văn, tự thất bát tuế chí thập thất bát tuế nhi đồng thành đạt giả đa số. Công đệ trách dĩ hư phí, công vị: ngã thị Chiêm chủng, vi Trần ngoại tôn, tư Trần hữu tru di ngụy Mật, nghịch Đẩu chi công, doãn thù quốc phẫn, bất cảm bội đức cam thọ thử thập tam châu vi vô chủ chi khư, ngã thổ địa, ngã nhân dân phi Hồ tặc sở đắc nhi hữu, khước cảm nhưỡng đoạt, huỷ ngã tổ quốc động tháp, phúc ngã ngoại tổ tôn lăng, ngã khởi cam tâm toạ thị, ngã sĩ binh tinh thực túc, ngã quyết thừa cơ thu phục cố địa. Tiếp văn Lê hoàng khởi nghĩa, công vị: Lê chủng bổn Thanh Lam động nhân, đồng ngô Chiêm môn, công tức xuất xi biến dụ các châu huyện bị biện lương tiền cập sơn hải sản thực cống hiến Lê binh, tuyển nạp tráng sĩ tùng Lê vũ dực, Lê chúa nhậm tạ. Cập Lê đại định, hậu tứ phong công dĩ hầu tước. .. .. .. VÕ VĂN THẮNG [1] Xem: Keith W. Taylor, The Early Kingdoms, in Nicolas Tarling (ed.) The Cambridge History of Southeast Asia, Vol I, Cambridge University Press, 1994, tr 153. - Trần Quốc Vượng, Miền Trung Việt Nam và Văn Hóa Champa, Tạp chí Nghiên Cứu Đông Nam Á, số 4/1995, tr. 8-24. [2] Căn cứ vào loại giấy, dạng chữ viết, nội dung văn bản và sau khi tham khảo ý kiến của một số nhà chuyên môn, chúng tôi tin rằng niên đại này là đúng. MỘT BẢN PHỔ CHÍ NÓI VỀ QUAN HỆ VIỆT – CHĂM (KỲ 2) Dịch nghĩa: Phổ chí tộc Phan hai làng Đà Sơn và Đà Ly Ngày mười bốn tháng tư năm Bính Dần, niên hiệu Gia Long năm thứ năm[1]. Ông Phan Tấn Nguyên, là cháu tự tôn của phái trưởng tộc Phan làng Đà Sơn[2]. Ông Phan Hữu Nga, là cháu tự tôn của phái thứ tộc Phan làng Đà Ly[3]. Cùng các ông trong tộc Phan. Kê Nhơn vì Nhân ngày lễ kỵ Tiên công cao cao tổ, cùng nhóm họp lại để làm việc truy lục tộc phổ. Nhớ lại, thuỷ tổ chúng ta là vua Lạc sinh ra tộc chúng ta. Thời thượng cổ sinh sống tại động Thanh Lam[4], hiệu là bộ Việt Thường[5], thời trung cổ dời vào Lâm Châu (nay là đất Lâm Bình[6]), thời cận cổ lại dời vào Đà Bàn (nay là đất Bình Định), đổi hiệu là nước Chiêm Thành, bao trùm cả Thanh Hà (nay là đất Thanh Hoa), về nam tới động Thạch Bi (nay là đất Thuận Thành[7]), tiếp nối các đời làm chủ đất nước, gồm 68 thế kỷ (đất cũ thổ âm gọi là “dung anh”). Các thế hệ đều dùng chữ khoa đẩu[8] để biên chép. Đến lúc ông hậu chúa chúng ta đi sứ triều cống Trung Hoa, thấy tận mắt nền văn minh Trung Hoa đã thâm nhập vào các lân bang của chúng ta là hai bộ Giao Chỉ và Tượng Quận, nhà nhà kinh sử, xứ xứ cày bừa, không như tập tục lạc hậu của nước ta chỉ biết đốn cây, gieo lúa, đốt núi trồng ngô. Chúa lấy làm khoái mộ, nhơn đó mời vài mươi “tú sĩ’’ (người tài giỏi) Trung Hoa đưa về bày dạy cho dân trong nước ta. Hậu chúa già, giao cho con trai cả làm Phó chúa, sai tú sĩ Trịnh Giác Mật theo giúp Phó chúa tại dinh riêng Đà Giang. Khi nghe tin Hậu chúa chết, ngụy Mật bèn giết Phó chúa, tự lập làm vua nước Đà Giang. Tiên công chúng ta là em ruột hậu chúa, nghe tin ngụy Mật bên trong thì có mấy mươi tú sĩ hò hét ủng hộ, bên ngoài thì có lính Ngô, lính Tàu ô trấn giữ các cửa biển, tiên công ta liệu sức không thể chống lại được, bèn uỷ quyền cho ông Bí, động trưởng động Thượng Thành (nay là đồn Quy Nhơn) giữ nước, còn Tiên công mang quốc ấn và các giấy tờ sổ sách của tộc chạy sang đất Giao Chỉ, tìm đến vua nhà Trần, xin binh tướng về diệt Mật.[9] Vua nhà Trần gả (cho tiên công) một quốc nữ [10] và khuyên tiên công ở lại, rồi sai tướng đi đánh bắt ngụy Mật thu hồi đất Đà Giang. Trong nước, các tướng họp với các ông châu trưởng, động trưởng tôn lập ông Bí động trưởng làm quốc chúa. (Ông chúa Bí) cầu hôn nhà Trần, khi ông chúa Bí đi làm rể, viên tướng Sạ Đẩu chiếm ngôi quốc chúa, cử binh đánh Trần, tranh đất Đà Giang. Vua Trần tức giận, cử binh đánh bắt được Sạ Đẩu[11]. Quan binh nhà Trần đến nước ta, thấy phong tục nước ta lạc hậu, trở về tâu vua, vua Trần khuyên Tiên công ta và Bí chúa nên theo phép rể của nhà vua mà lãnh quan tước trở về bàn với các ông thổ trưởng, tù trưởng thuận hiệp Chiêm Thành và Giao Chỉ thành một nước để cùng tiến hoá đợi đến lúc giàu mạnh sẽ chia ra tự chủ.[12] Tiên công ta tự nghĩ rằng nước ta chúa đã chết, tướng làm phản, đất hẹp, dân nghèo, thế khó tự chủ, nên nghe theo lời vua nhà Trần.Vua Trần phong cho Tiên công chúng ta chức Đô chỉ huy kinh lược chiêu dụ xử trí sứ coi trong mười ba châu.[13] Ông lãnh chỉ đi chiêu dụ, quan dân các châu động đều quy thuận.Ông trở về xin (vua Trần) cấp trâu bò, dụng cụ làm nông đồng thời xin một số dân Giao Chỉ đã thuần thục nghề nông và biết một ít chữ nghĩa. Vua nhà Trần cho ông trông coi các xứ, thiết lập trang trại chia nhau để ở, dạy cho thổ dân chúng ta học hành và cày cấy. Ông đổi các chức châu trưởng, tù trưởng thành chức lệnh doãn quan, đặt các chức động trưởng, lại trưởng thành các chức cai trại, tri thâu. Mỗi trại dựng kho để chứa lúa dùng vào việc chi cấp cho quan và dân và chứa các thứ lúa giống, nông cụ. Đến năm thứ hai niên hiệu Trùng Quang[14], ước hơn nửa số dân trong xứ đã tiến hoá, công thân thỉnh phân Hoá Châu từ động Trà Ngâm Aỉ Vân (nay là làng Câu Đê[15]), phía nam đến động Trà Khúc (nay là phủ Tư Nghĩa[16]) lập một huyện Đà Bàn (chỉ của vua sửa lại là huyện Điện Bàn[17], nay bao quát toàn bộ dinh Quảng Nam), chia số ruộng đất ra làm hai tổng, thượng và hạ, mỗi tổng cai trị mười xã, mỗi xã trông coi vài mươi trại. Về dân số thì dân Giao Chỉ và dân địa phương cùng chung một ngạch tịch, về ruộng đất thì phân ra các loại công điền, tư điền và đều chia ra để canh tác. Trong số dân địa phương, có người còn chấp mê tập tục cũ, không thuận theo sự khai hoá ấy thì chia ra ở riêng thôn sách có các phu trưởng kiểm tra, quản lý, nêu ra cách đối đãi coi mọi người như nhau. Vua nhà Trần gia khen rằng: Mở mang, khai khẩn đất đai, không phụ chức trách chỉ huy, giáo hoá nhân dân thành nề nếp xứng đáng với quyền nghi xử trí, ban tước “ Thành hoàng tướng quân thuận quốc công”, cấp cho trang trại ruộng đất từ động Trà Ngâm cho đến các động Lầu Cấu (nay là làng Quan Quê), Nội Đồng (nay là làng Đà Ly), Trà Na (nay là làng Đà Sơn), Nô Cố (nay là ba làng La Bông, La Châu, Phú Sơn), Đồng Quan (nay là làng Cẩm Toại), Phủ Thượng (nay là làng Tích Phú)[18] cai quản 50 trại, thu nhận lúa thóc để chi dùng cho gia quyến, truyền cho con cháu muôn đời hưởng lộc. Để đền đáp ân huệ của vua, ông mang các thứ sản vật quý để cống tạ, và xin được nghỉ vì tuổi già. Vua giao cho hai con của ông lãnh chức tước của cha, kinh lược các châu động trại, toàn quyền xử lý các việc địa phương, kế tục được các việc của cha thì sẽ được trọng thưởng. Hai người con nhận lãnh chỉ của vua. Tiếp đến, Tiên công chúng ta về dựng tư phủ tại trại Trà Na làng Đà Sơn, cử các ông cai trại Kiều Lệnh giữ chức xã trưởng, cựu động trưởng Đỗ Tuyết giữ chức tri thâu, ông Nguyễn Đăng làm khán thủ lo việc trong phủ.[19] Ông con trai trưởng (Công Chánh) dựng công phủ tại làng Đà Câu (nay đổi thành Lạc Câu), ông con trai thứ (Công Nhâm) dựng công phủ tại trại Nội Đồng (nay là làng Đà Ly) đặt huyện nha tại trại Kỳ La (nay là đất Đà Ly). Đến khi nghe viên tướng họ Hồ dời đổi ngôi nhà Trần[20], Tiên công gọi hai con về, nói: hai con là cháu ngoại nhà Trần, nhà Trần đã bị suy yếu, dời đổi, hai con ắt nguy, hãy sớm lo liệu cách nào để khỏi gặp hoạ. Ông con trưởng lập tức xin từ chức, lấy cớ về nuôi cha mẹ, để tránh nạn. Gia quyến thì vẫn ở chỗ cũ là dinh phủ Đà Câu, còn ông về hầu hạ cha, Ông con trai thứ thâu hết giấy tờ sổ sách đến yết kiến quan nhà Hồ, nói dối là chào mừng chính quyền mới và vâng lĩnh công việc triều Hồ để tránh hiềm nghi. Viên quan nhà Hồ thiết đãi yến tiệc rồi giao cho ông nhận số lưu dân Giao Chỉ, tha dòng tôn thất nhà Trần, dân phản nhà Ngô chia ở các trại để khẩn ruộng. Ông nghĩ đến tộc Trần là tộc mẹ, ông bằng lòng nhận lời, về xuất lúa trong kho, cho làm nhà để ở, mỗi bếp cấp năm, bảy mẫu ruộng để quản nghiệp[21]. Năm thứ hai niên hiệu Hồ Khai Đại[22], nguyên từ trước ông đã đặt mỗi xã kiêm quản vài mươi trại, nay thừa lệnh phân cho dân đến ở, dân Trần, dân Ngô cùng dân tứ phương đến ở ngày một nhiều, một vị xã trưởng khó lòng châu tất việc quản lý, ông xin cho được phép tuỳ ruộng đất mỗi trại rộng hay hẹp, hộ khẩu nhiều hay ít mà đổi trại thành xã hoặc thôn, phường, ấp, và đều đặt các ông xã trưởng cai trị để dễ kiềm phòng. Quan nhà Hồ chấp thuận. Ông bèn đổi trại thành tổng xã rồi đổi các trại Nội Đồng, Kỳ La, La Hồng thành Đà Ly xã, đặt ông động trưởng cai trại Phùng Văn Mươi làm xã trưởng, ông cựu động trưởng Ung Văn Lào làm tri thâu, trông coi công việc của xã ( phần ông trông coi hết các tổng xã, giấy tờ tuy còn nhưng không biên vào tộc phổ). Năm thứ ba niên hiệu Khai Đại[23], tháng tư ngày mười bốn, Tiên công qua đời, ông về cư tang. Năm thứ tư, tháng giêng ngày mùng bảy, tiếp gặp tang mẹ, ông để gia quyến ở lại phủ đệ Đà Ly, còn ông và ông anh về ở phủ đệ của Tiên công cho đến cuối đời. Lúc bấy giờ trong tộc nghĩ rằng tộc ta nguyên thuộc cùng một gốc, nay rải rác ở tứ phương mỗi người một ngả, không có phổ chí thì đời sau thất truyền, sợ đến nỗi quên mất cái nghĩa bà con, bèn cùng kê các đời từ thượng cổ, trung cổ cho đến cận cổ đều viết bằng chữ khoa đẩu.[24] Kể từ thời Tiên công ta về với nhà Trần, triều Trần nghi dân ta có dạng chữ riêng, sợ sinh ra có tiếng nói và sách vở khác biệt , nên nghiêm cấm việc học chữ Chiêm[25]. Vì thế tuy phổ chí cũ vẫn còn, nhưng nay không biết chữ nên không phân biệt rõ được danh tích của người xưa, chỉ cùng lặng lẽ ghi lại những lời truyền miệng của liệt vị tiên tổ, trình bày sơ lược sự việc, lưu chiếu tại Lạc Câu, Trà Sơn, Trà Kiệu, Bảo An, An Hoà, Bàn Lãnh, Câu Nhí, Phú Sơn, Câu Đê, Tích Phú, Quan Quê, Hoá Quê ở các vị tộc trưởng tộc Phan cùng gốc chúng ta. Hôm nay không họp mặt hết được nên không thể tra cứu tường tận để biên chép đầy đủ, bèn kính cẩn tạm đặt Tiên công ta làm vị cao tổ đời thứ nhất và tuỳ theo thứ tự các đời sau mà liệt kê tiếp theo, để cho con cháu sau này y theo thể thức đó mà biên chép nối theo, lưu truyền mãi muôn đời về sau không dứt. Nay cung kính biên chép. Kê Đời thứ nhất; cụ ông cao tổ, khai lập huyện Điện Bàn, (triều) Trần phong tước Thành hoàng Thuận quốc công, tên huý là Phan Công Thiên. (Hàng năm, mùng 6 tháng giêng lễ sinh, mười bốn tháng tư lễ kỵ). Mộ chôn trong làng, xứ đất Nhiêu Trà Na, đất thổ Phan Địch. .. .. .. Đời thứ ba: cụ ông cao tổ, triều Lê phong tước Thuận Hoá hầu, tên huý là Phan Công Minh ( Mùng bốn tháng hai lễ sinh, mùng tám tháng mười hai lễ kỵ). Mộ tại xứ Bàu Môn Thượng, đất gò. .. .. Ông thưở nhỏ chí không phục nhà Hồ, thường tuyển chọn người tinh nhuệ văn võ cấp lúa gạo để dạy cho lớp trai tráng các xứ từ Điện Bàn vào Nam, người khoẻ thì học võ, người yếu thì học văn, thiếu niên từ bảy, tám tuổi đến mười bảy, mười tám tuổi thành đạt rất nhiều. Em ông trách ông phí công, phí của. Ông nói: Chúng ta là nòi giống Chiêm, là cháu ngoại nhà Trần, nhờ nhà Trần mà diệt được giặc Mật, giặc Đẩu, rửa được mối hận của nước nhà không dám quên ơn đức (nhờ đó mà khỏi) cam chịu mười ba châu này là bãi đất trống không chủ. Đất đai của chúng ta, nhân dân của chúng ta không phải nhờ giặc Hồ mà có, mà chúng lại dám chiếm đoạt, phá huỷ động tháp của tổ quốc ta, dày xéo lăng tẩm tổ tiên bên ngoại ta, lẽ nào ta lại đành lòng ngồi yên mà nhìn vậy sao ? Ta đây chờ cho binh lính giỏi, lương thực đủ, ta quyết thừa cơ thu phục đất cũ. Tiếp đến, nghe tin vua Lê[26] khởi nghĩa. Ông nói: dòng giống họ Lê gốc người động Thanh Lam[27], cùng một nòi giống Chiêm của ta, ông bèn xuất tiền của, kêu gọi các châu huyện chuẩn bị lương tiền, cùng các loại lương tiền cùng các loại thực phẩm để cống hiến cho binh lính nhà Lê. Vua Lê trọng tạ. Đến lúc nhà Lê dựng đựoc cơ nghiệp, phong cho ông tước hầu. .. .. III. BÌNH LUẬN 1. Có một cách nghĩ thông thường rằng cư dân miền Trung Việt Nam hiện nay là hậu duệ của những người Việt từ các tỉnh phía bắc di dân vào trong khi cư dân Chiêm Thành bị đẩy lùi dần về phía nam. Nhưng bản phổ chí cho thấy cư dân của miền Trung Việt Nam không phải chỉ là “thuần Việt”. Một số người Chiêm Thành hay “thổ dân” đã ở lại, cộng cư, pha trộn với những người mới đến. 2.Một số nhà nghiên cứu thừa nhận giả thuyết rằng có nhiều tiểu quốc với các vị vua của từng tiểu quốc cùng tồn tại đồng thời ở Champa. Nhưng câu hỏi : “Những vị vua này là ai ?” vẫn còn là một ẩn số.[28] Bản phổ chí nói rằng tổ tiên của tộc thuộc “Chiêm chủng” và đã từng là “chúa”của nước Chiêm Thành. Quê hương khởi thuỷ của họ là vùng Thanh Hoá, sau đó đi dần vào phía nam cho đến lúc định cư sau cùng ở Đà Bàn. Điều này được viết theo ký ức và không phù hợp với các điều trong sử sách đã viết về lịch sử cư dân Chiêm Thành, tuy vậy ký ức ấy có thể phản ảnh một thực tế nào đó trong lịch sử. Có thể có nhiều nhóm “người Chiêm Thành” khác nhau, trong đó các nhóm sống ở bắc Champa có nguồn gốc khác với các nhóm phía nam Champa. Trong quá trình lịch sử, các nhóm phía bắc có thể đã hội nhập mạnh mẽ hơn, và gần như đồng hoá, vào một cộng đồng người Việt nói chung, trong khi đó các nhóm phía nam tiếp tục còn duy trì một số nét khác biệt và con cháu họ là những người Chăm ở các tỉnh miền nam Việt Nam hiện nay. 3. Phổ chí có nhắc lời một vị tổ đời thứ ba nói rằng ông ta “cùng chủng Chiêm” với vua Lê. Ý tưởng lạ này cũng đáng chú ý. Hiện nay, nguồn gốc tộc người của Lê Lợi vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ và có ý kiến cho rằng Lê Lợi thuộc tộc Mường. Lam Sơn, quê hương của Lê Lợi, được dân địa phương gọi theo âm cổ là “làng Cham”. [29] Liệu có mối quan hệ nào giữa tộc người Mường và nhóm ngươì Chàm ở vùng bắc Champa ?[30] 4.Dù cho có bao nhiêu nhóm tộc ngưòi đã sống ở Champa và dù cho văn hoá của các nhóm này có khác nhau bao nhiêu thì tất cả cũng đã hoà trộn và hình thành một văn hoá chung, ở đó khó mà phân biệt được đâu là Chiêm, đâu là Việt, đâu là những yếu tố khác. Và tất cả đã làm nên một cộng đồng cư dân với những đặc trưng văn hoá phong phú tại miền Trung Việt Nam.[31] Tài liệu tham khảo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 1, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 2, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 4, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973 Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 2, Khoa hoc xã hội, Hà Nội, 1970 Dư Địa Chí, trong Nguyễn Trãi Toàn Tập, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977 Hồng Đức Bản Đồ, Sài Gòn 1962. Dohamide, Doriheim, Dân tộc Chàm lược sử, Sài Gòn, 1965. Lê Qúy Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977 Nguyễn Văn Siêu, Phương Đình Địa Dư Chí, Tự Do, Sài Gòn, 1959 Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Giáo Dục, Hà Nội, 1995 Nguyễn Văn Dương, Lược Sử Chữ Hán, Tài liệu in ronéo dành cho sinh viên Đai học Văn Khoa Huế, 1974 Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Khởi Nghĩa Lam Sơn, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, .. ., Lịch Sử Việt Nam, tập 1, ĐHTHCN, Hà Nội, 1983 Trần Quốc Vượng, Miền Trung Việt Nam và Văn Hóa Champa, Tạp chí Nghiên Cứu Đông Nam Á, số 4/1995. Vũ Ngọc Khánh, Lê Lợi, con người và sự nghiệp, Thanh Hoá, 1985. Maspero, G., Le Royaume du Champa, Paris, 1928. Keith W. Taylor, The Early Kingdoms, in Nicolas Tarling (ed.) The Cambridge History of Southeast Asia, Vol I, Cambridge University Press, 1994. VÕ VĂN THẮNG [1] 1806 [2] Đà Sơn: tên một làng ở chân núi phía nam đèo Hải Vân, tên làng vẫn còn đến ngày nay. [3] Đà Ly: tên một làng dọc hai bên bờ con sông đổ ra cửa Đà Nẵng, cách làng Đà Sơn chừng 15km về phía nam. Đà Sơn và Đà Ly là hai trong số một ít địa danh có ghi trong một bản đồ thế kỷ 17 (in trong tập: Hồng Đức Bản Đồ, Sài Gòn 1962, tr.149) [4] Căn cứ vào cách nói ở một chỗ khác trong phổ chí, Thanh Lam được hiểu là vùng Lam Son, Thanh Hoá. (Xem chú thích 28,29) [5] Sách Thuỷ Kinh Chú, Cựu Đường Thư, Địa Lý Chí cho biết Việt Thường ở vào miền quận Cửu Đúc (tức miền Hà Tĩnh). Văn hiến thông khảo cho rằng Việt Thường xưa là tương đương với nước Lâm ấp, sau là Chiêm Thành. Minh sử và Đai Minh Nhất Thống Chí cũng cho r ằng Việt Thường là đất Lâm ấp (Nguyễn Trãi Toàn Tập, tr 563). Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Kỷ Hồng Bàng) thì trong nước Văn Lang của các vua Hùng có một bộ tên là bộ Việt Thường. Phương Đình Địa Dư Chí cho rằng các tỉnh Nghệ An, Quảng Nghĩa đều là đất Việt Thường xưa (tr 135,156). Đại Nam Nhất Thống Chí (tỉnh Quảng Nam) viết: “Quảng Nam xưa là đất Việt Thường Thị”(tr 291) [6] Lâm Bình: nguyên là đất châu Địa Lý của Chiêm Thành, nay là phần đất tỉnh Quảng Bình. Năm 1069, Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính. Năm 1075, Lý Nhân Tông đổi Địa Lý ra châu Lâm Bình. [7] Theo Phủ Biên Tạp Lục : “Năm Đinh Sửu (1697), (chúa Nguyễn) sai tướng đi đánh Chiêm Thành. Vua nước ấy xin hàng phục, hàng năm nộp cống phú. Nhân lấy đất từ Phan Rí, Phan Rang trở về tây đặt làm hai huyện An Phước và Hoà Đa phủ Bình Thuận, đổi nước Chiêm Thành làm trấn Thuận Thành, phong cho con vua cũ nước ấy làm cai cơ, tước hầu” (tr.64) [8] Theo truyền thuyết được chép trong Nghệ Văn Chí của Hán Thư thì vào cuối đời Hán Vũ Đế (140-67 tr C.N.), Lỗ Cung Vương phá nhà Khổng Tử để mở rộng cung thất mà được mấy chục thiên Thượng Thư, Lễ Ký, Luận Ngữ, Hiếu Kinh dấu ở trong vách và đều chép bằng thứ chữ cổ. Lỗ Cung Vương thấy hình thể các chữ cổ ấy ngoằn ngoèo, bèn cho là hình những con nòng nọc, do đó mà có danh từ khoa đẩu văn.(Nguyễn Văn Dương, Lược sử chữ Hán). Theo cách viết ở một đoạn sau của phổ chí này, thì khoa đẩu được hiểu là dùng để chỉ chữ Chiêm, một loại chữ cũng có dạng ngoằn ngoèo.( Xem Chú thích 10 và 27) [9] Một số sách về lịch sử Champa có chép là: Năm 315, vua Champa có một cố vấn người Trung Hoa. Khi vua Champa chết, vị cố vấn này tiếm ngôi.(Nguyễn Văn Siêu, tr.182; Dohamide, tr.31, Phan Huy Lê (1983), tr.292, 293), Maspero, tr 56-58). Tên gọi Trịnh Giác Mật và Đà Giang có nhắc đến trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ở một sự ki ện xảy ra năm 1280 và không có liên quan gì đến Champa. [10] Có thể hiểu là một người con gái trong hoàng tộc [11] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép việc Sạ Đẩu là chúa nước Chiêm Thành, bị giết trong một trận giao tranh với quân Việt do vua Lý Thánh Tông chỉ huy vào năm 1044. Dường như đối với các tác giả phổ chí này, các vua đời Trần và trước đời Trần đều được gọi chung là “Trần Chúa” [12] Phổ chí nhắc đến hai trường hợp làm rể vua Việt. Trong sử Việt, có nhắc đến trường hợp vua Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chăm là Chế Mân vào năm 1306, với món sính lễ vua Chăm dâng cho vua Trần là phần đất Ô, Lý, nay là vùng Quảng Trị, Thừa Thiên, và Đà Nẵng. [13] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép một số trường hợp các quan, tướng của Chiêm Thành lánh nạn sang Đai Việt, được vua Việt phong quan tước và giao trông coi các vùng giáp ranh vói Chiêm Thành, như trường hợp con trai của vua Chăm Chế A Nan năm 1352, trường hợp tướng Chiêm Thành Chế Ba Điệt năm 1397, và trường hợp hai con trai của Chế Bồng Nga năm 1390, 1402. [14] Trùng Quang là niên hiệu của vua Trần Quý Khoáng(1409-1413). Chỗ này có sự nhầm lẫn , không thống nhất với chi tiết ở đoạn sau, nói rằng Phan Tiên công qua đời năm Hồ Khai Đại thứ ba, 1405. [15] Câu Đê: tên làng ở chân núi phía nam đèo Hải Vân. [16] Thuộc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. [17] Địa danh Điện Bàn xuất hiện trong Dư Địa Chí (của Nguyễn Trãi, thế kỷ XV ?) là tên gọi một huyện cực nam của Đại Việt thời bây giờ, nay là phần đất từ đèo Hải Vân (Đà Nẵng) đến khoảng sông Thu Bồn (Quảng Nam) [18] Các địa danh này hiện thuộc tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. [19] Các ông Phan Công Thiên, Kiều Lệnh, Đỗ Tuyết, Nguyễn Đăng được nhân dân làng Đà Sơn xem là tiền hiền của làng, cúng tế hàng năm. Tại nhà thờ làng hiện còn giữ các sắc phong của các vua Nguyễn cho các vị tiền hiền này. [20] Hồ Quý Ly phế nhà Trần vào năm 1400. [21] Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, cuộc tiến quân của nhà Hồ vào vùng Quảng Nam xảy ra vào năm 1402, thu thêm được đất của Chiêm Thành, lập ra các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Người Chiêm Thành có số đi, số ở lại. Năm 1403, nhà Hồ đem những người không có ruộng mà có của dời đến Thăng Hoa, biên chế thành quân ngũ. Quan lại ở các lộ, phủ, châu, huyện xem đất cho họ ở. [22] Khai Đại là niên hiệu của Hồ Hán Thương, bắt đầu từ 1403. [23] Tức năm 1405 [24] Xem chú thích 10. [25] Đai Việt Sử Ký Toàn Thư có chép: “(Đời vua Trần,1374) xuống chiếu cho quân và dân không được mặc áo, chải đầu theo người phương Bắc và bắt chước tiếng nói các nước Chiêm, Lào”. Dư Địa Chí cũng có chép việc này. [26] Lê Lợi bắt đầu cuộc khởi nghĩa vào năm 1418 tại Lam Sơn, Thanh Hoá. Sau 20 năm kháng chiến chống Minh, Lê Lợi giành thắng lợi và lên ngôi vua năm 1428. [27] Xem chú thích 6 [28] Keith W. Taylor, The Early Kingdoms, in Nicolas Tarling (ed.) The Cambridge History of Southeast Asia, Vol I, Cambridge University Press, 1994, tr 157. [29] -Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Khởi Nghĩa Lam Son, Nxb KHXH, 1977, tr 121,157 -Vũ Ngọc Khánh, Lê Lợi, con người và sự nghiệp, Nxb Thanh Hoá, 1985, tr 22, 50, 51 [30] Các kết quả nghiên cứu công bố gần đây của ngành ngôn ngữ học lịch sử cũng cung cấp một số chứng cứ cho mối quan hệ này. (Xem: Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiéng Việt) [31] Tác giả xin chân thành cám ơn bà con tộc Phan ở hai làng Đà Sơn, Đà Ly và nhiều địa phương khác đã giúp đỡ, phối hợp trong việc khảo sát, nghiên cứu bản phổ chí độc đáo này.
  23. Thưa bác Thiên Sứ và mọi người đoạn thông tin trên PhucTuan đi lang thang trên mạng nhìn thấy nó cũng post ở rất nhiều nơi. PhucTuan thấy chỉ thu thập thông tin và viết lại. Nói đến đến Atlantis là cái gì các nhà khoa học trên thế giới còn đang tranh cãi nhau nảy lửa, vậy thì một cơ quan đại diện có uy tín nào muốn đứng ra công bố những thông tin như thế này? Nếu muốn xác thực thông tin cho chiếc huy chương này thì chỉ có cách liên lạc trực tiếp với website này, bởi vì họ là những người có cuộc phỏng vấn với vị giáo sư Winwood này. 1 - Cùng vào một thời điểm người ta tìm thấy nhiều cái "huân chương" được coi là của Atlantis trên toàn cầu. PhucTuan nghĩ rằng chỉ tìm thấy thêm 3 cái ở 3 đỉa điệm. Vấn đề là thời gian họ tìm được và thời gian họ công bố là khác nhau. 2 - Thắc mắc của anh Như Thông. Em nghĩ trong đoạn văn cũng đã nói, chiếc "huy chương" này được tìm thấy trong một chiếc hộp đá granit gì đó và được bịt kín. Thậm chí là vật liệu làm ra chiếc huy chương này còn không xác định được, thì công nghệ của nền văn minh Atlantis làm nó không rỉ cũng là chuyện bình thường. Câu chuyện trên có thể là thật mà cũng có thể là giả, dù sao thì PhucTuan thấy nó cũng khá là thú vị :)
  24. Bằng chứng về lục địa Atlantis "Có thể chúng tôi đã tìm ra bằng chứng chứng minh sự tồn tại của một nền văn minh truyền thuyết và huyền bí: Atlantis" Đó là lời nói của giáo sư Winwood, nhà nghiên cứu người Anh, người đã công bố rằng ông đã khai quật được một chiếc huy chương tại một địa điểm khảo cổ không được công bố ở Ai Cập. Chiếc huy chương này có kích cỡ như một chiếc la bàn. Giáo sư tin rằng nó có thể chứng minh cho sự tồn tại của một nền văn minh huyền bí Atlantis. Giáo sư rất dè dặt và không đưa ra nhiềù chi tiết và sẽ không công bố những bằng chứng đầy đủ và địa điểm nơi mà ông đã tìm thấy chiếc huy chương, bởi vì giáo sư tin rằng chính phủ Ai Cập sẽ yêu cầu ông trả lại di sản đó ngay lập tức. Khi nhìn vào ảnh chúng ta nghĩ phần trên của chiếc huy chương trông như "vòm thủy tinh", giáo sư đã kết luận rằnǵ chắc chắn đó không phải là thủy tinh, nó được làm từ một loại tinh thể rắn nào đó. Trên vành của chiếc huy chương, xung quanh chiếc vòm "kính" là 8 kí hiệu riêng biệt. Giáo sư Winwood nói rằng chúng không thuộc về bất kì một nền văn minh nào mà chúng ta từng biết. Ông là một người chuyên nghiên cứu về cổ tự học và ông kết luận rằng những kí tự này còn có trước cả chữ Vedic cổ nhất (Kinh Vệ Đà): hình cây, hình đinh ba được phát hiện trên một mảnh gốm ở Harappa, Pakistan, vào năm 1999, có niên đại hơn 5500 năm. Bởi vì chiếc huy chương này được trang trí bởi những chữ thập nổi trên những đường kẻ xoắn ốc bằng vàng bên phía trong chiếc huy chương, nên ban đầu giáo sư Winwood nghĩ rằng nó thuộc về thời kì sớm của đạo Cơ Đốc. Tuy nhiên khi nghiên cứu sâu hơn, ông nhận thấy rằng chiếc huy chương này chứa đựng nhiều điều hơn là một thông điệp. Ông nói:"Hiển nhiên là nó liên quan đến thiên đường ở trên cao, nhưng không phải bằng con đường tôn giáo". Tôi tin chắc rằng những kí hiệu này liên quan đến sự vận động của những thiên thể. Có rất nhiều những nên văn minh cổ đại đã sử dụng dấu thập như là một kí hiệu để chỉ mặt trời. Giáo sư Winwood nghĩ rằng khả năng chữ thập màu xanh da trời ở trung tâm, trong nền lõm, ở giữa trung tâm có một viên đá quí trông như đá sapphire mô tả hệ mặt trời của chúng ta. Có một số hành tinh mất tích, giáo sư kết luận rằng nó giống một bản đồ thiên thể mô tả một kiểu Galactic alignment (hệ mặt trời của chúng ta lại chuyển dịch đến vị trí cắt ngang Dãi Ngân Hà (Milky way galaxy), nghĩa là nằm cùng một mặt phẳng với dãi Ngân Hà). Ông nói:" Nếu nhìn kĩ vào viên đá màu xanh, bạn có thể thấy rằng hình dạng của nó giống như một kim tự tháp Ai Cập. Có nhiều mũi tên tại mỗi điểm hình chữ thập, chia vòng tròn thành 4 phần. Giáo sư Winwood tin rằng niên đại của chiếc huy chương phải hơn 13,000 năm. Giáo sư phát hiện ra nó bên trong một chiếc hộp đen granite bịt kín. Giáo sư nói rằng ông vẫn chưa biết được hợp kim của chiếc huy chương là loại gì. Niên đại carbon của những vật liệu tìm thấy cùng chiếc huy chương này rơi vào khoảng 11,000 đến 11,500 TCN. Tại địa điểm khai quật giáo sư có tìm thấy kí tự khác, giáo sư cho rằng chiếc huy chương có thể liên quan đến niên đại của Atlantis. Nhà triết học cổ đại Plato cũng đã viết nhiều đến Atlantis trong ghi chép của mình. Niên đại của chiếc huy chương cùng niên đại với thời gian lục địa Atlantis được cho là tồn tại. Giáo sư tin rằng những thông điệp bên trong chiếc huy chương là một lời cảnh báo có liên quan đến sự kết thúc của một chu ky củà thiên hà. Những chữ thập nổi trên những sợi dây vàng là biểu tượng cho các ngôi sao chuyển động theò một quỹ đạo xoắn ốc quay xung quanh một ngôi sao khổng lồ màu xanh (Sirius?) Có thể nhận thấy một điều rằng, chúng chuyển động theo chiều kim đồng hồ. Trong trường hợp nàỳ có vẻ như ngôi sao thứ 2 tính từ ngôi sao trung tâm và ngôi sao thứ 7 ở trên đỉnh của dấu thập có mang một trường năng lượng. Nếu 1 trong số những ngôi sao này biểu trưng cho mặt trời, thì thông điệp của chiếc huy chương này đang cảnh báo cho chúng ta về cái gì đó đang ảnh hưởng đến hành tinh của chúng ta và toàn bộ hệ mặt trời trong một tương lai không xa. Giáo sư Winwood nói rằng trong chiếc huy chương và mặt sau của nó cũng có kí hiệu và chữ mà giáo sư tin rằng nó như là một hệ thống lịch. Đây là ví dụ: Giáo sư Winwood chắc chắn rằng những biểu tượng và chữ khắc đằng sau chiếc huy chương sẽ hé mở đầy đủ những bí mật của nó. Tuy nhiên nó cũng không làm giáo sư ngạc nhiên nếu sự kết thúc của chu kỳ của chiếc huy chương này trùng khớp với sự kết thúc lịch của người Maya vào ngày 22 tháng 12 năm 2012. Sau đó sẽ có sự chuyển đổi của một số loại. Tôi chắc chắn rằng bí mật của chiếc huy chương sẽ sớm được phơi bày. Mặt sau của chiếc huy chương được chia thành 3 dải và mỗi dải có 12 phần. Tôi cảm thấy nó liên quan đến một loại hệ thống lịch nào đó. Tôi tin rằng có 12 nhóm người đã rời khỏi Atlantis trước khi nó bị hủy diệt, với ý định sẽ truyền bá những hiểu biết của họ ra khắp thế giới. Có thể đó là lí do tại sao họ lại đến nhiều nơi khác nhau như vậy, để đảm bảo rằng những kiến thức của họ được bảo tồn. Tôi tin rằng khi mở được phần vòm của chiếc huy chương, chúng ta sẽ kích hoạt được một loại công nghệ ẩn chứa bên trong. Giáo sư Winwood tin rằng hệ thống các ngôi sao trong chiếc huy chương có bao gồm mặt trời của chúng ta. Có rất nhiều tranh luận trong vài năm gần đây về trên thực tế một số nhà nghiên cứu tin rằng hệ mặt trời đang trong một quá trình đi vào một vùng đặc biệt gọi là Photon Band (Photon Belt). Nó được đề xuất rằng đây là một vành đai của ánh sáng photon tăng cường, xuất phát từ trung tâm dải ngân hà của chúng ta. Liệu nó có phải là cái dải vàng phía dưới chiếc vòm của chiếc huy chương không? 2 lần trong 1 chu kì 26,000 năm hệ mặt trời của chúng ta sẽ chuyển qua vành đai ánh sáng này, mỗi lần quá trình này mất khoảng 2000 năm. Tần số của ánh sáng này sẽ tạo nên một sự đảo cực của hành tinh vì thế tất cả những thiết bị điện sẽ ngừng hoạt động, và thậm chí nó còn ảnh hưởng đến chức năng não của chúng ta. Làm sao để hiểu được chiếc huy chương này, tôi cũng không biết rõ, nhưng tôi nghĩ rằng nó sẽ ra vào ngày 22 tháng 12 năm 2012 khi kết thúc bộ lịch của người Maya. Giáo sư Winwood tin rằng viên đá hình kim tự tháp bên trong dải vàng có thể chứa đựng rất nhiều thông tin. Nó không khác mấy so với cách lưu trữ thông tin như là lưu trữ trong micro chip ngày này. Giáo sư nói viên đá đó có khả năng giữ được điện tích. Chúng tôi đã phát hiện ra rằng có một trường điện từ xung quanh chiếc huy chương này. Nếu nhìn qua cái lỗ phía sau chiếc huy chương, bạn có thể nhìn thấy cái đường kẻ của khối kim tự tháp. Giáo sư Winwood hi vọng rằng sẽ sử dụng một loại mạch điện nào đó có thể kích hoạt được chiếc huy chương này và có thể mở được nó. Trong khoảng thời gian này ̀ các nhà nghiên cứu khác cũng đã công bố họ tìm được những chiếc huy chương khác ở Châu Âu, Nam Mỹ, Trung Quốc. Họ không công bố cho công chúng với cái mà họ đã tìm được bởi vì họ đang nghiên cứu và đang cố gắng giải mã những biểu tượng và đoạn văn phức tạp ở mặt trên và sau chiếc huy chương. Không ai trong số họ mở được phần mái vòm. Giáo sư đang cố gắng tìm cách để mở phần vòm của chiếc huy chương đó. Có một khớp nối ở phía trên chiếc huy chương, vậy thì chắc nó phải mở được. Đơn giản là phải có sự kiên nhẫn. Cái nút ở dưới chiếc huy chương có vẻ không phải là cái chốt để mở. Vì̀ giáo sư Winwood đã công bố chiếc huy chương nên các nhà nghiên cứu khác đã quyết định cùng nhau nghiên cứu về vấn đề này để có thể giải mã được đầy đủ ý nghĩa của chiếc huy chương này. Giáo sư Winwood tin rằng tất cả có 12 chiếc huy chương nằm rải rác trên khắp thế giới. Ông khẳng định rằng tất cả chúng đều có nguồn gốc từ Atlantis. Giáo sư tin rằng khi mà chúng ta giải mã đầy đủ những bí mật của chiếc huy chương này, chúng sẽ nói cho chúng ta biết khi mà thiên hà thẳng hàng với các ngôi sao sẽ gây nên sự chuyển biến của hành tinh xảy ra hơn 13,000 năm trước. Khi đó các nhóm người Atlantis đã di cư ra khắp thế giới để chạy trốn khỏi sự phá hủy vô cùng lớn đối với lục địa của họ. PhucTuan thấy rằng chiếc huy chương này cứ như một chiếc la kinh vậy :( Cũng có 4 trục chính, vòng tròn chia đều thành 8 ô cứ như 8 quẻ vậy. Nếu đúng là nó đến từ lục địa Atlantis thì phải gọi cái này là chiếc siêu la kinh mới đúng :mellow: Nó định vị cả thiên hà mà sử dụng nguồn năng lượng chưa từng được biết đến. Nếu các nhà khoa học mà khám phá được bí mật của nó thì không biết điều gì sẽ xảy ra?