-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Tôi hiện đang có nhiều việc, nên chưa thể phân tích trực tiếp vào những điều anh đã nói. Nhưng tôi tạm thời xin đặt v/d là:1 - Sách đã nói thì cứ theo sách mà cho là đúng chăng? 2 - Tương quan giữa "Hình thái ý thức xã hội" (gồm luật pháp, đạo đức, quy định, quy chế....) và các mối "quan hệ xã hội" thì theo anh cái nào là Dương, cái nào là Âm, cái nào tĩnh, cái nào động? - Theo Chu Hy thì Dương Động Âm tịnh - Vậy giữa hình thái ý thức xã hội và các mối quan hệ xã hội, cái nào động cái nào tịnh? 3 - Tôi xin thành thật đặt vấn đề (Xin lưu ý là tôi đặt vấn đề chứ không hỏi) với anh và các cụ lương y cao niên rằng: Cổ thư viết: "Khí Dương nhẹ và trong bay lên thành trời, khí Âm nặng và đục tụ xuống thành đất". Lại cũng nói - trong Phong Thủy - "Âm thì nhô cao, Dương thì trũng thấp". Đã khí âm tụ xuống thành đất mà sao lại còn nhô cao? Đã khí Dương bay lên sao lại trung thấp? Trong vũ trụ bao la này, có cái gì ở trên và cái gì ở dưới mà khí Dương thì bay lên, khí Âm thì tụ xuống? - Khí Dương bay là động, khí Âm tụ cũng là động, vậy thì theo anh cái gì động, cái gì tịnh?
-
CHỨNG NGHIỆM LỜI TIÊN TRI 2009 Thứ Tư, 13/05/2009 - 11:21 AM Cô giáo robot dễ thương (Dân trí) - Các học sinh tiểu học ở Nhật Bản đã lần đầu tiên được tiếp xúc với một cô giáo robot rất dễ thương. Một buổi lên lớp của cô giáo robot. Giáo sư Hiroshi Kobayashi, Trường Đại học Tokyo, người đứng đầu nhóm chế tạo, đã mất 15 năm để nghiên cứu cô giáo robot Saya và cho cô giáo này lên lớp thử nghiệm tại Trường Tiểu học Kudan ở Tokyo. Những học sinh tại đây đã biểu lộ những cảm xúc rất khác nhau khi lần đầu tiên được tiếp xúc với một giáo viên là người máy. Theo giáo sư Hiroshi, mọi việc diễn ra rất tốt đẹp và những học sinh tại Trường tiểu học Kudan đã cư xử với Saya như một giáo viên thực thụ. Các học sinh cảm thấy thú vị khi giáo viên người máy có thể xướng đúng tên các em khi điểm danh và giao các bài tập trong sách cho học sinh làm.Nhờ 18 thiết bị máy móc được thiết kế sau khuôn mặt cao su, Saya có thể biểu lộ được các cảm xúc thông thường như ngạc nhiên, sợ hãi, phẫn nộ, giận dữ, vui, buồn. Hơn nữa, cô có thể nói được nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau. Saya được nghiên cứu và thiết kế để không những thay thế cho giáo viên dạy học mà còn một số vị trí khác trong trường với mục đích cắt giảm chi phí. Nhóm nghiên cứu dự định sẽ đặt robot tại một vài lớp học và mọi hoạt động sẽ được điều phối từ trung tâm điều khiển từ xa. Saya là phiên bản robot mới nhất và hiện đại nhất tại Nhật. Các nhà khoa học ở nước này đã cho ra đời nhiều loại robot có thể đảm đương công việc trong các lĩnh vực của cuộc sống như điều phối giao thông, hướng dẫn sinh viên đại học và trợ giúp cho những người già mắc bệnh Alzheimer. Chính phủ Nhật Bản đã đầu tư 35 triệu USD cho công việc nghiên cứu người máy và hy vọng rằng đến năm 2015 trong mỗi gia đình đều có một người máy. Nguyên nhân là do tỷ lệ người già tại Nhật hiện ở mức cao - cứ 4 người thì có 1 người trên 65 tuổi, trong khi lực lượng lao động ngày càng ít và việc tuyển dụng nhân công ngày càng khó khăn. Thu Nga Tổng hợp
-
Bài học dân chủ tối ưu ở loài ong 03:54' 04/05/2009 (GMT+7) - Làm thế nào để lựa chọn nhanh nhất một giải pháp đúng? Một người quyết đoán hay thảo luận dân chủ? Các nhà sinh học khuyên nên tham khảo cách thức của những con ong. Một công trình rất thú vị do Thomas Seeley thuộc Trường ĐH Cornell (Hoa Kỳ) dành cho việc nghiên cứu hiện tượng bọn ong mật hoang dã lựa chọn chỗ ở mới để chia đàn như thế nào khi đàn quá đông, tổ cũ trở nên chật chội. Nhà khoa học cho biết ong đã “nghĩ ra” một quy trình có thể gọi là “quy trình dân chủ tối ưu”. Nó khác hẳn khái niệm dân chủ khác ở sự đơn giản khác thường, nhưng lại rất hiệu quả. Hiệu quả ấy thể hiện ở chỗ tìm được địa điểm tốt nhất cho bầy đàn, đồng thời giảm được đến tối thiểu thời gian di chuyển. Nói cách khác, chúng đạt được tỷ lệ tối ưu giữa kết quả/chi phí. Hành trình tìm "vương quốc" mới Một bầy 10.000 con ong trên đảo Appledore tại vịnh Maine đã được các nhà khoa học đánh dấu và theo dõi bằng camera. Đầu tiên, bầy ong cử vài trăm ong trinh sát toả ra tất cả các hướng để thăm dò địa điểm thích hợp để xây tổ mới. “Tiêu chuẩn chọn lựa” của chúng: các bọng cây (những hốc cây rỗng trên thân) to vừa phải, hướng nam, cửa vào có tiết diện không quá 30 cm2, cách mặt đất không dưới 2-3 m và thể tích những khoảng rỗng ấy không dưới 20 lít. Khi tìm được những bọng cây có vẻ đáp ứng yêu cầu này, chúng dừng lại khá lâu, bay đi bay lại, chui cả vào bên trong để thám thính kỹ càng trước khi bay về tổ. Nhìn bề ngoài, một tổ ong dường như hỗn loạn, nhưng bao trùm lên nó là một xã hội dân chủ - Ảnh: tribuneindia.com Trong những thí nghiệm của mình, Seeley và các đồng tác giả là Kirk Visscher, từ Trường ĐH California, Riverside và Kevin Passino từ Trường ĐH quốc gia Ohio đã làm sẵn những bọng cây nhân tạo bằng gỗ, có kích thước, hướng đặt và chiều cao khác nhau, gắn trên những cây to trong rừng với khoảng cách đến tổ khác nhau, để quan sát xem “mô hình” nào được bầy ong trinh sát ưu tiên lựa chọn. Кhi tìm được những cái bọng gần với “tiêu chuẩn” nhất, ong trinh sát quay về tổ và “báo cáo” lại với bầy ong trong tổ bằng “ngôn ngữ” của chúng là các vũ điệu diễn đạt phương hướng và khoảng cách tới chỗ nó phát hiện. Ong lắc nhẹ từ phía này sang phía kia, đồng thời chuyển động theo các cạnh của một hình vuông vô hình. Góc giữa đường thẳng đứng và hình vuông này chỉ ra góc làm thành giữa đường bay tới mục tiêu và đường thẳng hướng về phía mặt trời. Số lần vẫy cánh là khoảng cách tới mục tiêu. Xin nhớ rằng từ lâu người ta đã giải mã được thông tin do vũ điệu của loài ong mang lại là như vậy (và với phát hiện này ba nhà khoa học đã được trao giải Nobel vào năm 1973). Một động tác khác là bay theo hình số 8. Động tác này lặp đi lặp lại nhiều lần. Vậy là bình thường, ong đã thông tin cho nhau chỗ nào có thể tìm thấy thức ăn và bây giờ đã dùng cách tương tự để chỉ cho nhau địa điểm có thể xây dựng cái tổ tương lai khi chia đàn. Từ vũ điệu biết nói tới những lá phiếu tán thành Lần đầu tiên, các nhà khoa học quan sát các vũ điệu biết nói này là vào những năm 1960, và gần đây Janet Riley nghiên cứu viên cao cấp của Công ty Rothamsted Research (Anh) đã làm những thí nghiệm để chứng minh rằng không chỉ ong mật mà các loài ong khác cũng có ngôn ngữ như vậy. Một trong những thí nghiệm mà các nhà nghiên cứu của Công ty BBSRC (Rothamsted Research) thực hiện là gắn những thiết bị phát sóng cực nhỏ lên ong để theo dõi chuyển động và hành vi của chúng. - Ảnh: Rothamsted Research Bà dán một máy phát tín hiệu bé xíu lên con ong, quan sát vũ điệu của những con ong trinh sát để tìm hiểu bằng cách nào mà những con ong thợ có thể tìm được đến mục tiêu chỉ dẫn. Mặc dù không phải tất cả những chàng lính mới đều thành công, và cũng không phải con ong nào cũng tìm được đến đích bằng đường thẳng, nghĩa là đường ngắn nhất, nhưng Riley nhận thấy rằng những chỉ dẫn bằng vũ điệu đã đưa ong đến đủ gần (cách chừng 5-6 m) nơi có thực phẩm, thậm chí cả trong trường hợp có gió to, để từ đó chúng bay đến đúng nguồn thực phẩm bằng các chỉ dẫn khác, đó là màu sắc và mùi vị của nguồn thực phẩm (hoa). Khi người ta đưa những con ong vừa đậu ở miệng tổ chứng kiến vũ điệu của ong trinh sát đi một quãng xa rồi thả ra thì những con ong này cũng bay đúng một khoảng cách và phương hướng như được vũ điệu chỉ dẫn, nhưng tất nhiên, chúng không tìm thấy thực phẩm vì chúng không biết rằng điểm xuất phát của chúng đã bị thay đổi. Chúng ta hãy trở lại với nghiên cứu của Seeley. Vậy là, những con ong trinh sát địa điểm mới để chia đàn đã trở về tổ cũ và bắt đầu kể lại với các con ong khác chúng đã tìm thấy gì và ở đâu. Mặc dù mỗi trinh sát viên đều “bảo vệ” nơi tìm kiếm của mình, nhưng khoảng thời gian nhảy múa của chúng tỷ lệ một cách chính xác với “chất lượng” của nơi cư trú tương lai, mà chất lượng ấy nhà nghiên cứu đã biết trước qua những số liệu mà họ thiết kế, tương ứng với kích cỡ và phương hướng của những chiếc bọng họ đặt sẵn. Quan sát những con ong trinh sát, các con ong trong bầy, kể cả những con ong trinh sát khác có mặt nhưng không được cử đi, quyết định bay đến “kiểm tra” tại hiện trường. Chúng chia ra thành nhiều “đoàn kiểm tra”, mỗi đoàn đến một địa điểm, nhưng rõ ràng, số thành viên đông nhất bay đến chính địa điểm được đánh giá cao nhất (tức vũ điệu được thể hiện với thời gian lâu nhất). Các “đoàn kiểm tra” lần lượt trở về và bằng vũ điệu diễn tả “cái bọng cây được phát hiện lại”, cố lôi cuốn sự chú ý của những con ong khác theo định hướng của mình. Cứ thế dần dần hình thành những “liên minh” trong những vũ điệu thể hiện các phương án lựa chọn nào đó. Cách “bỏ phiếu tán thành” này tiến hành rất nhanh chóng. Không quá 16 tiếng đồng hồ là đã kết thúc để cả bầy ong đi đến một quyết định trọng đại: xác định địa điểm để chia bầy, tạo dựng một vương quốc mới. Tất nhiên không phải quyết định được cả bầy ong nhất trí cho rằng địa điểm lựa chọn là tốt nhất. Nhưng sau đó, các nhà nghiên cứu không thấy có một sự so sánh nào khác để xét lại quyết định trên. Đơn giản như vậy thôi. Khi số ong trinh sát “bỏ phiếu” cho địa điểm cư trú mới đạt được con số từ 10 đến 20 thành viên thì bầy ong vẫy cánh liên tục, làm nóng lên những cơ bắp của chúng để khởi động chuyến hành trình. Và khi nhiệt độ trong ngày lên cao tới mức cần thiết, một nửa bầy ong hộ tống ong chúa mới bay ra khỏi tổ, cùng Tân nữ hoàng thực hiện việc chuyển địa điểm. Những con ong trinh sát điều chỉnh “lực đu đưa” của chúng, tuỳ thuộc vào chất lượng của địa điểm khảo sát. Trong trường hợp này, bọn ong trinh sát tìm được 2 địa điểm tiềm năng để xây tổ mới, một là bọng cây to (bên trái) và một nhỏ hơn nhưng ưng ý hơn (bên phải). Từng con ong quay về tổ (mũi tên xanh) và nhảy múa (giữa). Những con ong trinh sát được cái cây “đúng” đã nhảy múa với chu kỳ lớn hơn (thể hiện bằng màu đỏ) so với con ong trinh sát cây bên trái (thể hiện bằng màu xanh). Ba giờ sau, số ong trinh sát bỏ phiếu cho cái cây “đúng” tăng lên gấp 6 lần, trong khi số ong đồng ý cái cây bên trái chỉ tăng lên 3 lần. Sau 3 giờ nữa số ong trinh sát ủng hộ cái cây “đúng” thực tế đã tăng đến mức loại trừ được cái cây bên trái ra khỏi cuộc cạnh tranh. - Minh họa của Stephanie Freese, lấy từ americanscientist. org Như vậy những “cuộc thảo luận” (căn cứ trên đoạn phim về vũ điệu của ong trinh sát) trên cơ sở phi tập trung hoá và cạnh tranh, không mất quá nhiều thời gian – đó chính là nét cơ bản của một cơ chế, cho phép tìm được nếu không phải là tốt nhất trong số các địa điểm có thể thì cũng gần với địa điểm lý tưởng nhất trong một thời gian ngắn nhất. Kết luận này được công bố trên Tạp chí American Scientist. Tuấn Hà (Theo membrana.ru) Anh chị em hay lui tới quán Cafe Lý học thân mến. Anh chị em xem hết bài này, tìm xem có yếu tố nào trong hiện tượng trên liên quan đến Phong Thủy. Nếu anh chị em nào phát hiện ra thì tôi sẽ tặng người đó cuốn "Phong Thủy Lạc Việt" - có thể sẽ được xuất bản nay mai. Cuốn sách tặng sẽ nhân danh Trung Tâm nghiên cứu lý học Đông phương.
-
Ngaòi câu "Lấy vợ đàn bà , làm nhà hướng nam" thì cô thư cũng nói đến việc " Vua quay mặt về hướng Nam để trị thiên hạ". Nếu hướng nam là hướng tốt cho tất cả mọi người thì không có v/d phân loại Đông tứ cung và Tây tứ cung. Nhưng Hướng Nam là hướng đến của Từ trường trái Đất - ra bắc vào nam. Hay nói cách khác là chiều thuận của từ trường. Mà từ trường trái đất là mộtt yếu tố tương tác trực tiếp lên con người và muôn loài trên trái Đất. Nên nhiều loài cảm ứng với từ trường , như một số chim di cư, hay loài ong trong bài viết trên chọn làm yếu tố xây tổ. Đây chính là yếu tố quan trọng xét trong Bát trạch. Phong Thủy Lạc Việt coi Bát trạch chỉ là một yếu tố trong phong thủy và có sự liên hệ với nhiều yếu tố khác. Thí dụ: Phi cung mệnh để tìm mệnh chủ trong Bát trạch chính là có nguồn gốc từ phi tinh huyền không - Nam thuận, nữ nghịch. Ngươi Hán do chỉ tiếp thu từng phần riêng rẽ nên không hiểu điều này. Cái gọi là Phái Huyền Không ra đời từ cuối Minh đầu Thanh, nhưng phi tinh trong Bát trạch với nguyên lý của Huyền không thì có từ Đông Hán. Híc.
-
Qua đó mới thấy hàng ngàn năm đô hô của người Hán ở Nam Dương tử - cho đến khi nước Việt hưng quốc ở miền Bắc Việt Nam hiện nay . Và tiếp sau đó một ngàn năm nữa thì người Việt ở Nam Dương Tử nói tiếng hán không có gì là lạ. Hai ngàn năm không phải là con số để nói trong một giậy.
-
Về việc này cô nên nhờ Phúc Anh. Cô ấy chuyên môn hơn tôi.
-
Vậy để có lòng vị tha thì phải chấp nhận một người vào đây nhạo báng, chê bai kẻ khác sao. Phải chi bạn có tài thật sự và đã chứng tỏ tài năng đó thì chê và nhạo báng người khác - tuy rất khó chịu, - nhưng còn có lý của nó. Đằng này tôi chưa hề thấy anh chứng tỏ khả năng - ngoại trừ tự khoe khoang - mà cũng lớn tiếng chê bai rồi lại còn "mô phật". Tôi có thể chấp nhận một người phản biện tôi, thậm chí chứng minh tôi sai mà đúng bài bản học thuật. Nhưng thật khó chấp nhận một người như bạn.Tôi lưu ý bạn nick Thiên Sứ cũng còn có nghĩa là Thần Chết ở trong cung Tật Ách của Tử Vi đấy. Anh hãy khiêm tốn xem lại minh đi đã. PS: Níckk Hổ Về Rừng là một nick không xa lạ với tôi ở tuvilyso.net và ngườii này rất quý tôi. Nhưng tôi biết rõ Hổ Về Rừng bên tuvilyso.net không có tính như anh.
-
Cầu thang này còn can tội thoái khí. Sửa ngôi nhà thì vẫn ở và phát được, không cần phải bán. Tuy nhiên tốn kém ít cũng phải 15 triệu. Quan điểm của tôi là: Thà tốn tiền nhưng cần phải tốt về phong thủy.
-
Chúng ta nên cảnh giác với luận điểm: Bởi vì nó có khả năng dẫn đến một suy luận là: Người Việt ngày nay có gốc Hán. Nhưng nếu luận điểm trên được hiểu là: Người Hoa ở Nam Dương tử chính là người Việt bị Hán hóa trong hơn 1000 năm đô hộ và tiếp tục bị Hán hóa 1000 năm sau khi người Việt giành lại độc lập ở vùng Bắc Việt Nam hiện nay - thì vấn đề sẽ khác.
-
Thấy cách hiểu của ông Tống Trung Tín, Thiên Sứ tôi muốn lên tăng xông. Chờ hạ hỏa đã sẽ viết. Nếu không sẽ vi phạm nội quy.
-
Xin lỗi anh Thândong.Tôi thấy anh chưa chứng tỏ được gì cái khả năng và sự hiểu biết của anh , ngoài sự khoe khoang về chính bản thân mình. Tôi chỉ thấy anh rổn rảng lớn tiếng chê bai. Tôi cảnh cáo anh nếu tiếp tục có những lời lẽ như vậy, thì tôi sẽ mời anh ra khỏi diễn đàn.
-
Trong quá trình tiến hóa của nhân loại - mà theo tôi: Suy cho cùng là sự tiến hóa của tri thức - thì con người luôn tìm cách giải thích thế giới chung quanh. Chúa sinh ra vũ trụ và muôn loài, đó là một cách giải thích. Trước tất cả những cách giải thích những hiện tượng mà con người không thể kiểm chứng được thì với tôi cách tốt nhất là suy ngẫm, chiêm nghiệm. Có thể - trong trường hợp elegant nêu ra - người có Thiên Nhãn thông sẽ trả lời như sau:- Tôi không thấy linh hồn của cụ trong thế giới này. Có thể cụ đã đi đầu thai rồi. Với cách trả lời này, mà có một nhà ngoại cảm nào đó, nói chuyện được với linh hồn của cụ thì hành vi của nhà ngoại cảm sẽ chứng minh người có Thiên Nhãn Thông kia là "rởm".
-
Ngay trên diễn đàn này và các diễn đàn khác, có rất nhiều bạn là Việt kiều ở Hoa Kỳ. Không thấy hiện tượng này.
-
Bí ẩn lục địa huyền thoại Mu 03/02/2009 10:00:00 Nguồn: kenh14.vn [Kênh 14] - Lục địa Mu được tương truyền là nằm trên 1trong 4 đại dương của Trái Đất. Tuy nhiên nó đã.... biến mất vào thời kỳ binh minh của loài người. Remi (tổng hợp) Tên gọi cũng như khái niệm về Mu được nhà du hành Augustus Le Plongeon đề xuất vào thế kỷ thứ 19. Augustus khẳng định rằng những nền văn minh cổ đại như Ai Cập hay Mesoamerica, thực chất được xây dựng nên bởi những người đến từ lục địa Mu - một lục địa nằm ở Đại Tây Dương. Augustus Le Plongeon Sau này khái niệm về Mu được mở rộng hơn bởi James Churchward (1851–1936). Tuy nhiên James cho rằng Mu nằm ở Thái Bình Dương chứ không phải Đại Tây Dương. James Churchward Ý tưởng đầu tiên về lục địa Mu xuất hiện sau khi Augustus Le Plongeon (1825–1908) tiến hành nhiều cuộc điều tra về nền văn minh cổ đại như Maya ở Yucatán. Ông khẳng định rằng những bút tích của người Mayan sau khi được dịch ra cho thấy, nền văn minh này còn lâu đời hơn cả nền văn minh Hy Lạp hay Ai Cập cổ đại. Ngoài ra, nó còn cho thấy trước đó có một lục địa còn cổ xưa hơn những lục địa mà con người từng biết tới. Le Plongeon đã chọn cái tên "Mu"- có nghĩa là tai họa để ám chỉ sự biến mất của lục địa này. Thực ra đây là một cái tên do ông dịch sai từ một văn bản cổ. Le Plongeon cũng cho rằng Mu nằm ở Đại Tây Dương, một thảm họa nào đó đã nhấn chìm nó xuống làn nước sâu thẳm. Văn bản bị dịch nhầm Bản vẽ tay chỉ ra vị trí của lục địa huyền bí Người tiếp theo nhắc đến Mu - James Churchward - lại có cách nghĩ khác. Ông khẳng định rằng “hơn 15 năm trước” (thời điểm ông ta nói) khi ông còn là một quân nhân ở Ấn Độ, ông đã kết bạn với hai vị hòa thượng – những người cho ông xem hai tấm phù điêu đất sét cổ. Người ta cho rằng có thể nó được viết bằng ngôn ngữ "Naga-Maya ". Thứ ngôn ngữ này chỉ có 2 người ở Ấn Độ đọc được. Sau khi nghiên cứu thứ ngôn ngữ kỳ lạ, Churchward phát hiện ra rằng chúng có xuất xứ từ lục địa huyền thoại. Theo những nghiên cứu của Churchward, Mu nằm ở Thái Bình Dương. Mu có 64 triệu dân - một con số khổng lồ vào thời điểm nó tồn tại, cách đây 200 000 năm trước. Với hệ thống xã hội vô cùng tinh vi và phát triển, Mu biến tất cả các lục địa khác thành thuộc địa. Mu có nền khoa học vô cùng phát triển, nhiều kỹ thuật còn vượt xa cả những gì con người ngày nay tưởng tượng. Người dân Mu có những khả năng siêu nhiên. Họ có thể sống rất lâu, tới hàng trăm năm tuổi. Tuy nhiên 12000 năm trước một thảm họa đã nhấn chìm toàn bộ Mu xuống biển. Người dân trên lục địa phải di cư đi nơi khác. Họ đến các lục kia còn lại và sáng lập nên các nền văn minh khác sau này. Churchward chỉ ra rằng Mu nằm trải dài từ phía nam Hawaii cho tới đảo Fiji và đảo Phục Sinh. Tuy nhiên, một sai lầm của Churchward đó là ông không bao giờ công bố những bản dịch của mình trong các cuốn sách. Do vậy người ta không thể coi những gì ông nói là dựa trên cơ sở khoa học. James đặt giả thuyết Nan Modal, trên đảo Pohnpei, Nam Thái Bình Dương rất có thể là một trong 7 thành phố của Mu. Điểm đặc biệt của thành phố này là tuy được xây dựng bằng đá, những gần thành phố không có mỏ đá nào cả. Người ta đặt câu hỏi làm thế nào mà những tảng đá được di chuyển đến đây. Có người nói rằng người trên Mu đã sử dụng ma thuật bóng tối nhưng chưa nói đến chuyện họ dùng gì, bởi các giám định cacbon sau này cho thấy niên đại của những viên đá là khoảng 1200 sau Công nguyên, nghĩa là chả liên quan gì tới Mu cả. Nan Modal Năm 1985 gần hòn đảo Yonaguni, Nhật Bản, người ta tìm thấy một kim tự tháp bậc thang lớn. Giáo sư Masaki Kimura, thuộc đại học Ryukyu, Okinawa, cho biết nó rộng tới 183 mét và cao 27 mét. Nó có cách đây khoảng 3,000 tới 8,000 năm. Một số nhà nghiên cứu cho rằng nó có thể là tàn tích còn sót lại của Mu. Tháng 12 năm 2000, một đội tìm kiếm đến từ Viện công nghệ hải dương quốc gia (NIOT) khẳng định rằng họ đã tìm thấy phần còn lại của một thành phố khổng lồ chìm dưới nước ở vịnh Cambay, phía tây bờ biển Ấn Độ. Một năm sau, những cuộc tìm kiếm tiếp tục chỉ ra một loạt các công trình khổng lồ, nhiều đồ gốm, các bức tường, nhiều chuỗi hạt, xe cộ lẫn những mảnh xương người. Các giám định cho thấy những đồ vật và di tích trên xuất hiện vào khoảng thời gian 7500 năm trước Công nguyên, nghĩa là sớm hơn 4000 năm so với nền văn minh cổ nhất được biết tới ở Ấn Độ. Vậy nền văn minh đó là gì? Mu chăng? Cho tới giờ phút này, sự tồn tại của Mu cũng như những nghiên cứu về nó còn rất nhiều điểm tranh cãi. Bạn có thể tìm thấy hàng trăm trang tài liệu về Mu, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tranh cãi mà thôi. Mu vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất của mọi thời đại.
-
Sách Bát trạch minh cảnh có gốc Tàu viết thì bếp phải tọa hung hướng cát. Sách Dương trạch tam yếu gốc Tàu viết bếp phải tọa cát, hướng cát. Nhưng quan niệm tọa cát trong Dương trạch tam yếu liên quan đến phiên tinh phòng bếp.Sách Tàu nó thế, mâu thuẫn tùm lum. Những cao thủ Tàu còn cãi nhau như mổ bò. Nhưng những cao thủ Việt theo sách Tàu cứ nhảy dựng lên chê ai dám chê sách Tàu mới lạ chứ! Tử Vi cũng vậy. Nội sách Tàu để lại cũng khác nhau tùm lum . Vậy mà bảo sách Tàu sai thì lại có màn nhảy dưng lên gân cổ cãi bừa. Anh cứ đem sơ đồ nhà lên đây. Anh chị em Phiong Thủy Lạc Việt sẽ giúp anh. Còn mua sách Phong Thủy Lạc Việt thì có tiền mua tiên cũng được, huống chi mua sách. Có điều chỉ bán ở hai nơi: Văn Phòng Trung Tâm tại Hanoi và trụ sở Trung Tâm. Dự kiến sách dày từ 400 đến 600 trang khổ lớn, in 4 màu. Chắc không rẻ. Sẽ không phát hành ở bất cứ một hiệu sách nào.
-
Thế nào là giầu? Thế nào là nghèo? Tôi có biết một đại gia ở Hănoi. Ngay giữa trung tâm có căn nhà trên 1000 mét vuông. Chưa kẻ những căn nhà lớn ở thành phố quê họ. Họ có vài dự án xây nhà cao tầng. Tôi và Hahung đã gặp người này. lúc bà ta đang "nghèo" vì thiếu tiền thực hiện dự án khoảng...vài trăm tỷ. Bà kẹt tiền trên nhiều phương diện. Tôi có yêu cầu bà ta gắn một cái gương chiếu vào nhà và dặn một câu rất cụ thể: "Khi nào bà thấy đủ tiền thực hiện những điều bà muốn bây giờ thì bà che cái gương lại". Vài tháng sau, bà ta goi tôi ra Hanoi để thanh toán tiền làm Phong Thủy - có vài triệu thôi - và hỏi tôi: "Tôi có thể che cái gương lại được chưa?". "Tủy bà - tôi trả lời - nếu bà thấy đủ rồi thì che lại!". Bà ta cười . Vì tôi nghĩ chắc chưa đủ. Nhưng hơn hai mưới năm trước tôi ở một xóm ven đô. Có thể gọi là xóm nghèo. Ở đấy có một người được coi là giầu. Chồng làm thợ hồ có tay nghề cao. Đặc biệt vợ làm thợ nấu bếp ở một xí nghiệp quốc doanh. Nhà ở của họ là một căn nhà kê bằng gỗ, nền lót gạch lá nem sạch sẽ khang trang, nổi bật lên những mái tranh lúp xúp, nền đất tồi tàn. Trong khi chúng tôi chạy gạo từng bữa thì họ cơm gạo thừa mứa, do đồ ăn thừa ở xí nghiệp. Thịt cá thì khỏi nói, trong khi chúng tôi chỉ ăn theo tiêu chuẩn. Mỗi khi trời không mưa, vợ chồng họ lại ra đánh cầu lông trên sân đất rộng trong xóm. Vợ chồng họ được coi là giầu nhất xóm nghèo và phải nói rằng: Mội khi có độ ăn nhậu thì những người trong xóm phải rất hân hạnh mới mời được một trong hai vợ chồng họ đến dự tiệc cho thêm phần long trọng. Vậy trong hai người trên, nếu so về của thì rõ ràng người đại gia Hanoi giầu hơn nhiều. Nhưng lúc nào cũng tất bật và ....thiếu tiền. Vợ chồng cô nấu bếp thời bao cấp rõ ràng là nghèo hơn nhiều , nhưng lúc nào cũng tỏ ra sung sướng hạnh phúc với nếp sống "quý tộc thôn". Vậy thế nào là giầu, thế nào là nghèo thì thật là khó nói. Phải chăng giàu hay nghèo là do so sánh với chính đồng loại của họ.
-
Người ta đã xác định một Kim Tự Tháp chìm xuống biển Nhật Bản, sau khi ông Stephen Oppenheimer viết cuốn địa đàng Phương Đông. Đây chính là miền Nam Dương Tử . Nơi thống trị của nến văn minh Văn Lang. Tư Mã Thiên viết: Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở.
-
BẾN XƯA LAVIEDT My Lăng Bến nước Chơ vơ Thuyền neo Đợi khách Hững hờ Nước trôi... Canh tàn Bình rượu Cạn rồi Còn đây Trăng Giãi vàng Nơi Bến buồn... Đìu hiu Tĩnh mịch Quạnh hồn Tơ vương nào Phủ Đêm buồn Bến xưa... Cảm tác BẾN XƯA Thiên Sứ Thu xưa trăng nước thành thơ. Thu nay bến cũ hững hờ nước trôi. Tàn canh sương phủ bên trời. Bình khô, rượu cạn, trăng rơi bến buồn.. Tiếng chim kêu lạc côi nguồn. Tơ trời vương vấn, phủ buồn bến xưa.
-
VẠN LÝ TÌNH Thơ Huy Cận LAVIEDT giới thiệu Người ở bên trời, ta ở đây Chờ mong phương nọ, ngóng phương này. Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm, Vạn lý sầu lên núi tiếp mây. Nắng đã xế về bên xứ bạn, Chiều mưa trên bãi nước sông đầy. Trông vời bốn phía không nguôi nhớ, Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay. Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt, Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày, Chiếu chăn không ấm người nằm một, Thương bạn chiều hôm sầu gối tay. Cảm tác VẠN LÝ TÌNH Thiên Sứ Người đã đi rồi, kỷ niệm đây. Ngàn thu khắc khoải gửi nơi này. Tình xưa theo gió vương muôn dặm. Bến cũ ôm buồn chuyện nước mây. Thao thức canh trường chôn nỗi nhớ. Mênh mang trời biển cánh chim bay. Một trời thu ngâp sầu ly biệt. Lệ nhỏ chia phôi mãi tháng ngày. * Chí còn vọng ngập trời mây. Tình xưa khắc khoải chất đầy sầu vương.
-
Giếng nước phạm Cấn cung - Cấn cung chủ người nữ - Dưới chân cầu thang bên phải từ trên nhìn xuống, nên chân phải đau hơn chân trái. Lấp giếng lại đào chỗ khác vợ khỏi bênh. Đào giếng mới ở đâu thì anh chị em tra sách giúp giùm cho ban Rong. Nên có cái gương chiếu ra cửa.
-
Sinh năm Nhâm Thìn 2012
-
NGỌN ĐÈN VĨNH CỬU Nguồn: Tuvilyso.net Người giớí thiệu: Hiendde Đèn cháy hết bấc và hết dầu thì phải tắt, ấy vậy mà vẫn có những ngọn đèn rực sáng qua hàng thiên niên kỷ với cả “dầu” lẫn bấc còn nguyên. Phải chăng người xưa đã tìm ra kỹ thuật cháy trong chân không. hay có thể duy trì sự cháy mà không cần oxy. "Đèn" của người Ai Cập cổ đại. Nhà thơ trào phúng Hy Lạp Lucian 120-180 là người thích chu du. Một lần khi đặt chân đến Syrie và thăm thú khu vực Heirapolis, ông nhận thấy một pho tượng rất lớn đặt giữa một ngôi đền. Trên trán pho tượng là một viên ngọc sáng rực, soi rõ cả khu vực vào ban đêm. Trên bàn tay phải là một ngọn đèn vĩnh cửu. Theo lời kể của dân địa phương thì - không ai biết ngọn đèn ấy cháy từ bao giờ và bao giờ tắt. Hoàng đế Numa Pompilius La Mã, cũng có một ngọn đèn vĩnh cửu và không hề tiết lộ tại sao nó cứ cháy mãi. Từ thế kỷ thứ nhất, triết gia La Mã Pliny đã cho rằng ngọn đèn vĩnh cửu phải được thắp bằng một loại dầu đặc biệt và có một sợi bấc cũng hết sức khác thường. Lời kết luận mơ hồ này được các nhà khoa học ngày nay bổ sung như sau: đó là một loại dầu cực kỳ tinh khiết không hề có tạp chất, còn bấc có lẽ được làm từ amiante. Tất nhiên, để được gọi là ngọn đèn vĩnh cửu thì nó phải phát sáng ít nhất là vài chục năm mà không cần châm dầu, thay bấc. Thế kỷ thứ hai, nhà nghiên cứu Pausanius đã mô tả khá chi tiết một ngọn đèn vĩnh cửu trong tác phẩm Atlicus. Sự trùng hợp nằm ở chỗ, có khoảng vài trăm tư liệu khác cũng nói về cây đèn này. Nó nằm trong ngôi đền Minerve Polius ở Athen Hy Lạp, do một người có tên là Callimadun sáng chế. Nhiều tác phẩm cổ xưa của Hy Lạp đôi khi cũng nhắc đến nhân vật này: - Một người tài hoa, biết chế tạo những dụng cụ hết sức kỳ lạ, đặc biệt là những ngọn đèn vĩnh cửu. Ông ta có loại dầu đặc biệt, cho phép những ngọn đèn này cháy mãi. Đền thờ thần Apollon Carneus và đền Aberdain đều có một bàn thờ, trên đó có ngọn đèn vĩnh cửu. Nhưng cháy mãi là một chuyện, còn cháy trong gió mưa lại là bí ẩn lớn hơn nhiều. Saint Augustin 354-430, đã mô tả về một ngọn đèn vĩnh cửu trong ngôi đền Isis Ai Cập. Điều khó hiểu nhất là nó nằm ở phần không có mái che, bất chấp gió mưa. Tương tự như thế, ngọn đèn ở Edessa Syrie, đã cháy suốt năm trăm năm trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Năm 1300 lý thuyết “dầu đặc biệt” được soi rõ phần nào, khi nhà nghiên cứu Marcus Grecus viết trong tác phẩm Liber Ignum (Sách lửa) rằng, một số ngọn đèn vĩnh cửu có dùng nhiên liệu đặc biệt. Đó không phải là dầu mà chỉ là một loại bột mịn được tạo ra từ những “con sâu phát sáng”, nhưng là loại sâu gì thì Marcus không biết và bí ẩn mãi mãi bị chôn vùi. Marcus chỉ nói rằng: Ta đã quan sát sợi bấc, nó dài bằng cánh tay ta. Rất lâu sau đó, ta quay lại và thấy chiều dài của nó vẫn thế, chẳng có ai thay bấc mới hay trút thêm bột. Năm 1401 trong mộ phần Pallas, con trai vua Evandra La Mã, người ta tìm được một ngọn đèn vĩnh cửu và cho rằng nó đã cháy được 2.600 năm. Để dập tắt nó, theo các bậc cao niên, chỉ có cách đập vỡ tất cả hoặc trút ngược “dầu” của nó. Năm 1450, một nông dân ở Padoue Italy, trong lúc cày xới cánh đồng của mình đã tìm được một cái bình bằng đất nung, kế đó là hai bình nhỏ bằng kim loại, một bằng vàng và một bằng bạc. Trong hai hũ này là một loại chất nhờn kỳ lạ, nửa như dầu nửa như mật ong. Bên trong cái bình bằng đất nung, là một cái bình đất nung khác, đựng một ngọn đèn vĩnh cửu vẫn đang cháy. Bị chôn dưới đất không biết từ bao giờ và cháy trong điều kiện ít oxy như vậy, đó quả là một bí ẩn. Năm 1610, nhà nghiên cứu Ludovicius Vives khẳng định ông đã từng nhìn thấy một ngọn đèn vĩnh cửu cháy qua 1.500 năm và bị đám thợ gốm đập vỡ. Nhà sử học Cambden Anh vào năm 1586 cũng nhắc về một ngọn đèn vĩnh cửu tại phần mộ của Constantius Chlorus, cha của Costantin Đại Đế. Chlorus qua đời năm ba trăm lẻ sáu ở Anh và từ đó, có một ngọn đèn vĩnh cửu được đặt trong phần mộ của ông. Vua Henri tám vào năm 1539 đã giải tán rất nhiều nhà thờ và tu viện ở Anh, từ đó có rất nhiều ngọn đèn vĩnh cửu được thắp lên và không bao giờ tắt, trừ khi bị đập vỡ. Ở Tây Ban Nha cũng có một ngọn đèn vĩnh cửu được tìm thấy tại Cordone vào năm 1846. Các phát hiện nói trên chứng tỏ những ngọn đèn kỳ bí này không phải là sản phẩm của riêng Hy Lạp, Ai Cập hay La Mã. Linh mục Evariste Regis Huc 1813-1860, là người rất thích du ngoạn ở châu Á và đã tìm được một ngọn đèn bất tử như vậy ở Tây Tạng vào năm 1853. Nhưng tại sao thông tin về loại đèn bí ẩn này lại ít ỏi đến vậy? Một số người cho rằng chúng chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng, vì người xưa không thể nào tạo ra những kỳ tích như thế. Tuy nhiên một số nhà sử học lại lập luận rằng: - Vậy bằng cách nào, người ta có thể tạo ra kim tự tháp khi mà cần cẩu, xe nâng hay xe tải chưa xuất hiện. Nhà hóa học Brand Hambourg Đức, vào năm 1669 nhận định những ngọn đèn vĩnh cửu này cháy lâu như thế là do phốt pho. Người khác lại cho rằng chúng cháy lâu là do không cần không khí, ngược lại, nếu tiếp xúc với không khí chúng sẽ tắt. Nếu quả ý kiến này là đúng, thì lẽ nào người xưa đã biết kỹ thuật hút chân không? Vả chăng lửa cháy không cần oxy là chuyện hết sức khó hiểu. Những cuộc tranh luận này buộc người ta quay về một bí ẩn khác: Kỹ thuật chiếu sáng của người Ai Cập. Trên các đường phố Ai Cập cổ, người ta dùng đèn dầu và đuốc. Nhiên liệu là những cặn bã có nhiều chất béo và chất nhờn. Nhưng ở những hầm mộ được đào sâu vào núi đến một trăm mét thì các nô lệ và nhà điêu khắc đã làm việc với ánh sáng gì? Trong các hầm mộ này, không hề có dấu vết của ngọn đèn hay ngọn đuốc nào. Vậy phải chăng người Ai Cập đã dùng các loại gương để phản chiếu ánh sáng mặt trời? Nhưng các loại “gương” thời ấy chỉ bằng bạc, và chỉ có thể phản chiếu 40% ánh sáng, nghĩa là ở độ sâu vài chục mét, bóng tối sẽ lại bao phủ hoàn toàn. Và rồi một phát hiện chấn động đã làm thế giới khảo cổ bàng hoàng: Tại đền Hator ở Denderah được xây dựng cách đây hơn 4.200 năm, có một gian phòng nằm rất sâu. Trong đó có những bức vẽ cho thấy người Ai Cập “đã sử dụng những dụng cụ kỳ lạ trông như bóng đèn điện ngày nay! Phải chăng đây chính là kỹ thuật ánh sáng bí ẩn. Nhà khoa học Erich Von Daniken Đức, đang cố công tái tạo những bóng đèn to tướng này trong phòng thí nghiệm, nhưng vẫn chưa tìm được cốt lõi của vấn đề. Các nhà Ai Cập học cũng chào thua, vì rõ ràng thời ấy chưa có điện. Vậy những ngọn đèn ấy được thắp sáng bằng gì? Giải được bài toán này, chúng ta cũng sẽ có câu trả lời cho bí ẩn về những ngọn đèn vĩnh cửu.
-
CHỨNG NGHIỆM LỜI TIÊN TRI 2009 * Xuất hiện dịch “cúm ngựa” tại Ấn Độ(Dân trí) - Mặc dù đến nay Ấn Độ dường như vẫn miễn nhiễm với dịch cúm A/H1N1, nhưng một virut cúm khác từ động vật – “cúm ngựa” đã bùng phát ở các bang Rajasthan và Gujarat ở miền Tây nước này, làm 43 con ngựa bị chết. Điều nguy hiểm là “cúm ngựa” do chủng cúm A gây ra thành dịch ở ngựa và virut cúm này có thể vượt qua rào cản về loài và ảnh hưởng đến con người. “Cúm ngựa” có đặc tính là gây tỷ lệ truyền bệnh rất cao trong ngựa và có thời kỷ ủ bệnh tương đối ngắn, chỉ một đến 5 ngày. Tờ Danik Bhaskar của Ấn Độ hôm qua đưa tin phòng thí nhiệm ở Hissar thuộc Haryana, phía Bắc Ấn Độ đã xác nhận rằng nguyên nhân ngựa chết hàngloạt la do một loại cúm gọi là “cúm ngựa”. Trường hợp ngựa chết do cúm này đầu tiên xuất hiện hồi tháng 1 ở Gandhinagar thuộc Gujarat, nơi tháng trước có 15 con ngựa chết vì dịch bệnh này. Để ngăn chặn bệnh lây lan, chính quyền Gujarat đã cấm bán hoặc mua ngựa ở bang này. Tại Rajasthan, 25 con ngựa cũng đã chết do nhiễm virut cúm này. Trà Giang Theo Xinhua Nguyên văn trả lời phỏng vấn có ghi âm của Thiên Sứ là:Trong năm nay có ba loại vi trùng lạ mà con người phải đề phòng sẽ gây ảnh hường tới con người và vật nuôi. Đây là loại thứ hai.
-
Anh Long Tuấn thân mến.Tôi đồng ý với anh là tất cả là do con người qui ước. Nhưng những quy ước danh từ trong một cộng đồng ngôn ngữ về tên gọi các vật dụng hàng ngày và vật thể quanh ta sẽ khác xa qui ước và khái niệm trong một hệ thống lý thuyết. Không thể đến thời kỳ hiện nay thì Dương Động, còn thời mẫu hệ thì dương tịnh được. Qui ước trong một hệ thống lý thuyếtv về một danh từ với khái niệm của nó phải nhất quán trong mọi trường hợp liên quan mà lý thuyết đó giải thích. Dương tịnh Âm động, đã giải thích một cách nhất quán từ khởi nguyên vũ trũ cho đến mọi vấn đề liên quan. Không thể lúc này thì Dương tịnh, lúc khác lại Dương động. Còn nếu xem sách viết thế nào cứ tin sách đúng thì tôi đã không đặt lại mọi vấn đề như tôi đã làm hơn 10 năm nay. Thực tế sự bế tắc trong nghiên cứu lý thuyết Đông Y trên thế giới đã chứng minh điều này.
-
Anh chị em thân mến. Tôi có ý định dịch ra tiếng Anh cuốn "Định mệnh có thấy hay không?" Hay còn tên khác là "Tự do cuối cùng và Thương Đế"; hoặc "Thuyết Âm Dương Ngũ hành - Lý thuyết thống nhất". Vừa rôi tôi sang Hoa Kỳ với mục đich này. Nhưng rất tiếc với giá tiền công dịch thuật là 8000 USD - đây là giá rẻ so với tiền công ở Hoa Kỳ, nhưng ngoài tầm khả năng của tôi và v/d quan trong hơn cả là không kiểm soát được chất lượng bản dịch. Bởi vậy tôi nhờ hy vọng nhờ dịch với gia rẻ hơn và đoạn trên là bản dịch thử. Do đó, rất mong anh chị em có trình độ giỏi về Anh ngữ và hiểu sâu về thuyết Âm Dương Ngũ hành cho ý kiến chất lượng. Xin cảm ơn.