-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Vẽ một bàn tay giữa có hình tròn đỏ. Bàn tay màu vàng.Để hôm nào rảnh tôi vẽ cho.
-
Anh nên vẽ sơ đồ nhà , sơ đồ đất, vị trí nhà trong đất và cung cấp tuổi những người ở trong nhà, năm tháng nhập trạch và đo là bàn chính xác hướng đất hoặc nhà thì mới tư vấn được. Nhà anh theo PTLV hướng Đông nam là Phúc Đức Trạch đấy. Anh chắc cũng tương đối khá giả, gia đình yên ổn. Nhưng đó chỉ là một yếu tố và không phải yếu tố duy nhất của PTLV. Những yếu tố khác xấu thì cũng hỏng. Nếu bếp quay về hướng Tây Nam theo phong thủy Tàu thì vợ chồng lục đục, tài lộc kém.
-
Nhà này tuy được hướng Nhưng Vô khí hoàn toàn - chưa bàn đến cấu trúc bên trong như thế nào - Vào đây sức khỏe và công danh khó thăng tiến. Tiền bạc đi đằng nào hết cả, không dành dụm được. Nên đổi nhà. Thí dụ như vị trí ở phố Lương yên, hoặc nếu ở trong Ngõ thì là cái ngõ có mũi tên chỉ xuống.
-
Đúng như vậy đấy anh ạ!Chính Thiệu Vĩ Hoa, trong cuốn: "Dự báo theo tứ trụ" cũng phải thừa nhận rằng: Căn cứ vào đâu để có bảng Lục Thập Hoa giáp thì các nhà nghiên cứu Trung Quốc cổ kim từ hàng ngàn nay, có bàn nhưng chưa bàn cho ra lẽ. Hậu thế chỉ biết ứng dụng thôi. Đấy là người Tàu, vốn tự nhận mình là chủ nhân của bảng lục thập hoa giáp (Cơ sở của mệnh và cục trong Tử Vi), mà còn thừa nhận chưa hiểu. Nên thật khó hiểu khi những người chỉ học lại từ sách Tàu nhưng lại cứ tưởng mình hiểu hết cả huyền cơ tạo hóa. Bày đặt chứng minh Tàu cứ từ đúng trở lên, hơn cả thày Tàu.
-
Chuyện không lạ với tôi, nhưng vẫn sưu tầm. Loài vật rất có tình. Thật đấy! Chúng còn khôn nữa. ======================================== Ảnh đẹp: Chàng chim ga lăng nhường bữa tối cho “bạn gái” 04/02/2012 12:32:22 - Một chú chim chuyên ăn ong châu Âu rất “ga lăng” khi tặng cho bạn gái một món quà – chính là con mồi mà mình bắt được. Cặp đôi này đang đậu trên một cành cây ở Tivon, Israel. Khi một con côn trùng bay qua, chú chim này đã nhanh chóng bắt lấy để làm một bữa ăn nhẹ. "Không biết anh chàng có yêu mình thật lòng không nhỉ? Để xem xem thế nào....?"(*) “Chàng trai” liền đề nghị tặng quà. - Anh yêu em! Đây là món quà mà anh muốn tặng em, như là một sự thể hiện tình cảm của anh giành cho em.... - Xin lỗi! Em chỉ quen ăn những món ngon và bổ như ong mật...ít khí dùng loại này..." Sau một chút do dự, “cô gái” đã quyết định nhận quà và nhanh chóng cắp con mồi. - Anh cũng biết thế! Nhưng mong em nhận món quà này như là sự chân thành của anh , chứ không phải giá trị của nó..... - Em gặp nhiều thằng ba sạo lắm! Anh nói thật đấy chứ? - Anh rất chân tình! Tất cả tấm lòng anh đấy! - Tấm lòng anh thể hiện qua con sâu bướm này? - Không! Thời buổi suy thoái kinh tế toàn cầu! Có con sâu bướm này cũng tốt lắm. Nhưng nó là của em...Mong em hiểu anh.. - Nghe anh nói thật xúc động! Để em xem nào? Có bị thuốc trừ sâu ngấm vào không đấy? Có an toàn thực phẩm không? - Anh đăng cắn nó đây! Nếu có thuốc trừ sâu thì anh sẽ chết và chúng ta cùng chết bên nhau..... Giờ thì “ngẩn ngơ” và ngắm bạn gái dùng bữa. - Thôi được! Em ghi nhận tấm lòng của anh và nhận con sâu bướm này! Cái thằng đại gia kia nó định tặng em cả bầy ong mà em chưa nhận đấy! Loài chim ăn ong này khá nhanh nhẹn và khéo léo, thức ăn của chúng là côn trùng bay như ong và ong bắp cày. Ước tính loài chim này ăn khoảng 250 con ong một ngày. Tom Waters, phát ngôn viên của tổ chức bảo tồn thiên nhiên RSPB nói: "Những chú chim này có màu đáng kinh ngạc, xuất hiện nhiều ở miền nam châu Âu, Bắc Phi và Tây Á. Loài này thường di cư trú đông ở vùng nhiệt đới châu Phi, Ấn Độ và Sri Lanka. " Ngoài ra, loài chim ăn ong này là một trong vài loài ở châu Âu mà các con chim non nằm trong tổ và được cho ăn, không chỉ bởi cha mẹ của chúng mà còn được cho ăn bởi nhiều con khác. Chim ăn ong cũng được biết đến là loài có tiếng gọi nhau ‘pruuk-pruik’ đặc bệt và giai điệu hót đặc biệt. Huyền My (Theo Dailymail) =========================== * Chú thích: Chữ màu tím của tui thêm vào cho đỡ sì choét!
-
Gươm thần và sách tiên tri nơi đại ngàn Trường Sơn Cập nhật lúc :9:30 AM, 04/02/2012 Thanh gươm biết chỉ dẫn đúng sai, phải trái; cuốn sách cổ biết rõ chuyện được- mất, chuyện quá khứ - tương lai... là hai báu vật mà người Mày, người Khùa nơi đại ngàn Trường Sơn tôn sùng, thần kính. Người Mày và người Khùa sống tập trung ở hai xã Dân Hóa và Trọng Hóa (huyện Minh Hóa, Quảng Bình) - những nơi được coi là vùng đệm của Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng. Bảo bối gia truyền Theo chân Hồ Vóc - Phó Chủ tịch Hội CCB xã Dân Hóa, chúng tôi tìm đến nhà ông Hồ Pom ở bản Hà Vi, cách trung tâm xã vài cây số. Ông Hồ Pom là chủ nhân của thanh gươm có nhiều phép lạ mà dân bản bao năm nay vẫn thường sùng kính. Theo đó, ở bản, bất kỳ ai gặp chuyện gì khó xử, khó nghĩ, khó giải đáp thì đều đến nhờ sự phân giải của thanh gươm. Thậm chí, khi làm bất cứ việc gì lớn lao nhưng còn đang phân vân, do dự người ta cũng viện tới thanh gươm, để sức mạnh siêu nhiên của nó chỉ lối, mách đường xem có nên làm hay không. Khi có người cậy nhờ, ông Hồ Pom sẽ "làm phép" gọi "ma mút" về nhập vào thanh gươm để phân xử công việc. Ông Hồ Kết, người đang sở hữu những cuốn sách có khả năng tiên tri lạ lùng. Nhà ông Hồ Pom nằm ở đầu bản Hà Vi, chênh chênh nơi chân núi. Tuy có tới 6 người con nhưng ông ở một mình, chẳng mấy khi giao tiếp với ai. Càng bí ẩn hơn là từ ngày đứa con trai thứ 4 của ông bỗng dưng đổ bệnh rồi lăn ra chết, ông ít ra ngoài. Người ta bảo, khi có con ruột chết thì trong vòng 3 năm "ma mút" trong nhà sẽ bỏ về núi không tài nào giữ được. Khi nghe cán bộ Hồ Vóc giới thiệu chúng tôi là nhà báo, muốn tận thấy việc ông biểu diễn phép thuật bằng thanh gươm quý, ông lắc đầu nguầy nguậy. Ông bảo, từ đời ông cố, rồi đến đời cha, đời ông chưa từng có việc đó xảy ra. "Không thử được đâu, "ma mút" không nghe đâu, chỉ có người thật sự có nhu cầu mới làm được! Nếu cố tình làm, "ma mút" nổi giận là khổ đấy! Không được đâu!". Vừa hốt hoảng nói ông vừa xua tay từ chối. Theo ông Hồ Pom thì thanh gươm này dòng họ ông lấy từ bên Lào. Chẳng biết nó từ đời nào nữa, chỉ biết nó được truyền lại trong họ từ đời này qua đời khác. Tiên tri siêu hạng Nể cán bộ Hồ Vóc, ngại chúng tôi lặn lội từ xa tới, sau một hồi lưỡng lự ông mới vào buồng lấy thanh gươm đó ra cho chúng tôi xem. Thanh gươm nặng chừng 1 cân, dài hơn nửa mét, được nhét trong chiếc vỏ làm từ da trâu nhẵn bóng. Lưỡi gươm sắc lẹm, cảm tưởng có thể ngọt lịm cắt phăng bất cứ chướng ngại vật nào. Ông Hồ Pom bảo, từ khi nhận thanh gươm từ tay cha ông tới nay, ông chưa một lần phải mài lưỡi gươm nhưng nó vẫn cứ sắc lạnh. Trước khi nhắm mắt về với Giàng, cha ông đã truyền dạy cho ông lời chú để gọi "ma mút" nhập vào lưỡi gươm. Bài chú ấy ở đây chỉ mình ông biết và nó là bí mật của dòng họ. Muốn gọi mời "ma mút", người làm lễ phải chuẩn bị 4 chum rượu cần, một chiếc đầu lợn hoặc một con gà. Tất cả được biện ra sàn nhà, đối diện chiếc mâm có để bát gạo con đầy, cùng những cây nến được nặn từ sáp ong. Khi lễ vật đã biện xong, ông Pom vào buồng lấy thanh gươm quý ra đặt lên mâm và ngồi khoanh chân trước mặt người có việc muốn hỏi. Nến được thắp lên, khi lửa cháy đều thì ông bắt đầu nhắm mắt lẩm bẩm đọc chú hệt như những đạo sĩ vẫn thấy trên phim ảnh. Ông Hồ Pom là chủ nhân của thanh gươm có nhiều phép lạ mà dân bản bao năm nay vẫn thường sùng kính. Đọc chú xong, ông tuốt gươm ra, huơ huơ mấy đường rồi từ từ cắm mũi gươm xuống mép bát gạo. Khi tay vẫn còn giữ chặt thân gươm, ông lại nhắm nghiền mắt và lại lầm rầm đọc chú. Chừng gần phút sau, khi câu chú cuối cùng vừa dứt thì cũng là lúc ông buông tay khỏi thanh gươm. Lẽ thường, nếu buông tay, đương nhiên thanh gươm sẽ đổ bởi những hạt gạo tơi rời trong bát không thể giữ cho thanh gươm đứng thẳng. Thế nhưng, vô cùng kỳ lạ, nếu "ma mút" đồng ý việc người đối diện thỉnh cầu thì thanh gươm sẽ đứng thẳng hệt như có bàn tay vô hình nào nâng giữ. Ông Hồ Pom bảo, chỉ có những việc cực kỳ quan trọng người trong bản mới phải xin ý kiến "ma mút" qua thanh gươm này. Cuốn sách nhìn thấu tương lai Rời nhà ông Hồ Pom, chúng tôi ngược ra bản Y Leng, tìm lên nhà ông Hồ Kết, người đang sở hữu những cuốn sách có khả năng tiên tri lạ lùng. Ông Hồ Kết năm nay đã 96 tuổi, nguyên là Phó Chủ tịch UBND xã Dân Hóa. Tuy đã ở gần ngưỡng bách niên nhưng ông Kết còn khỏe mạnh lắm. Cầu thang nhà sàn chênh vênh nhưng ông vẫn lên xuống thoăn thoắt. Cuốn sách thần bí có khả năng tiên tri kỳ lạ ông được thừa hưởng từ một pháp sư cao tay ở mãi bên Lào. Ông kể, thời gian đó, giặc Pháp vẫn thỉnh thoảng lùa quân lên vùng này càn quét. Cứ mỗi lần như vậy, cả bản ông lại rồng rắn kéo nhau sơ tán ở bên kia biên giới. Và, trong một lần chạy loạn đó, ông đã vô tình gặp được một người Lào có nhiều khả năng đặc biệt. Người này có thể nhúng tay vào nồi nước đang sôi, lè lưỡi liếm lưỡi dao đã được nung hồng rừng rực. Đặc biệt, bằng khả năng dị thường của mình, người này có thể biết được chuyện quá khứ, tương lai khi chỉ nhìn vào cuốn sách được làm bằng lá cây rừng. Ngạc nhiên, kinh hãi trước những khả năng siêu phàm đó, ông đã tình nguyện ở lại nhà người này với hy vọng ông ta sẽ truyền cho mình những bí quyết siêu nhiên, lạ lẫm đó. Sau 5 năm mòn mỏi sống nơi đất khách quê người, không phụ sự kiên trì của ông, người này đã tặng ông cuốn sách bằng lá cây đó và tận tình chỉ dạy cho ông cách thức khi đọc những điều tiên tri trong sách. Khi trở về quê cũ, có cuốn sách thần bí trong tay, ông đã nổi tiếng khắp vùng. Dân bản hễ có băn khoăn gì về tương lai đều đến cậy nhờ ông xem giúp, đặc biệt là những việc liên quan tới chuyện mất mát tài sản. Việc này thì nhiều cán bộ xã, cán bộ biên phòng đang công tác ở đây đều thừa nhận khả năng lạ thường từ cuốn sách bí hiểm này. Tuổi này, khi ngày về với Giàng cũng không còn xa nữa, Hồ Kết lại chẳng biết trao lại bảo bối đó cho ai. Các con ông không biết chữ Lào, lại chẳng đủ kiên nhẫn để học cách thức xem những hình vẽ, những mật mã loằng ngoằng trong sách nên bảo vật ấy có quý đến đâu cũng là thứ vô tri. Ông bảo, có lẽ khi về với đất, ông sẽ đem theo cuốn sách cùng những bí kíp lạ lùng mình đã dày công học được.Theo đó, không biết do trùng hợp ngẫu nhiên hay do một khả năng khác thường nào nữa mà rất nhiều lần, sau khi xem sách, ông Hồ Kết có thể phán chắc như đinh đóng cột là món đồ mà ai đó mất có thể tìm lại được hay không. Những món đồ ấy có thể là con trâu, con lợn, cái bàn, cái ghế, thậm chí chỉ là chiếc chìa khóa bé xíu bị bỏ quên hay rơi vãi ở tận những nơi xa lắc xa lơ. Cuốn sách ông Hồ Kết nhận được từ tay thầy mình được viết bằng chữ Lào trên lá cây rừng cán mỏng. Những trang sách được đục lỗ rồi xuyên bằng dây và ép vào nhau nhờ hai thanh gỗ làm bìa. Không biết người ta đã tẩm ướp thế nào mà suốt mấy chục năm cuốn sách đó vẫn không bị mục nát, hư hỏng. Lật giở những trang sách lạ lùng ấy, ông Kết bảo, căn cứ vào những gì ghi trong sách thì việc tìm lại tài sản đã mất không đơn giản chút nào. Theo đó, người bị mất tài sản phải nhớ được khoảng thời gian mất. Mỗi một đồ vật, con vật bị thất lạc đều có những ngưỡng thời gian khác nhau, nếu vượt quá ngưỡng quy định đó thì phép màu hết thiêng, không thể đoán biết có tìm thấy hay không được. Ông Hồ Kết coi cuốn sách là tài sản vô giá của mình. Ngày trước, có một người giàu có trong xã đến gạ ông đổi hẳn 3 con trâu mộng nhưng ông đã khước từ.
-
Khảo về văn hiến Đại Việt qua trường hợp Hoàng đế Lê Thánh Tông Tiasang 12:51-30/01/2012 Kỳ 1: Bậc hiền vương văn minh lỗi lạc Tạp chí Nghiên cứu và phát triển. Trần Trọng Dương Những hành xử của Lê Thánh Tông cả trước và sau khi lên ngôi không những tỏ rõ “khí lượng thiên tử” mà còn cho thấy ông đã được đào tạo một cách bài bản như thế nào về quan niệm trị nước theo tiêu chuẩn của Nho giáo. Lê Thánh Tông thuộc loại hình nhân vật lịch sử đáng chú ý. Có thể có nhiều cách phân loại khác nhau. Từ quan điểm hiện đại, nhiều người coi ông như một mẫu hình nhà văn hóa của Đại Việt hay nhà chính trị lỗi lạc, nhà thơ lớn của Đại Việt vào thế kỷ XV. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, nghiên cứu bất cứ một lĩnh vực nào thì người nghiên cứu nên tự đặt mình vào bối cảnh thời đại cũng như bối cảnh tri thức của thời đại đó, tộc người đó. Điều này sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn từ bên trong, tránh đi lối nhìn đã “hiện đại hóa” của đời sau. Chính vì vậy, bài viết xuất phát từ việc khảo về khái niệm văn hiến trong bối cảnh tri thức Nho gia Việt Nam cũng như “văn hiến Đại Việt” qua trường hợp Hoàng Đế Lê Thánh Tông, để ngõ hầu lý giải được phần nào những đóng góp lịch sử của vị hoàng đế này đối với lịch sử và dân tộc. Với thức nhận như trên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu về từ nguyên của khái niệm “văn hiến” trong bối cảnh tri thức của Nho gia1. Kết quả có thể tóm lược như sau. Về mặt tự nguyên, Văn có bốn nghĩa: văn tự, ngôn ngữ, văn thư, và văn chương2, cũng như trỏ những tư liệu nói chung có liên quan đến điển chương chế độ, hiến chỉ người hiền tài, chủ thể sáng tạo có học thức. Có thể biểu diễn cấu trúc khái niệm văn hiến qua mô hình sau: Các quá trình hoạt động văn hóa xã hội trên (Sáng tạo văn tự, ghí tái ngôn ngữ; Dịch thuật; Mở mang giáo hóa; Thiết định pháp độ; Thiết định phong tục) đều có thể quy vào quá trình kiến tạo văn hiến và có thể coi như là những tiêu chuẩn để chúng tôi tiến hành khảo sát từng tiêu chí cụ thể qua trường hợp hoàng đế Lê Thánh Tông. Việc khảo sát này dựa trên những thư tịch cổ còn lại, cũng có khi có sự kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây. Vì vậy, bài viết sẽ mang dáng dấp một bài tổng thuật, đôi chỗ có phát hiện mới cũng chỉ mang tính chất bổ sung. Thân Nhân Trung trong Thánh Tông Chiêu lăng bi minh viết: “cập sinh, thiên tư nhật biểu, thần thái anh dị, càn kiện khôn thuận, chí tính thuần toàn, kỳ kỳ nhiên, ngực ngực nhiên, chân tác Hậu chi thông minh, biểu bang chi trí dũng” nghĩa là [vua sinh ra] tư trời rạng rỡ, thần thái anh dị, có cái cương kiện của quẻ càn, có cái nhu thuận của quẻ khôn, tính nết thuần toàn, chững chạc thay, vời vợi thay! Thực là [tư chất] thông minh của bậc Hoàng đế, thực là [khí tượng] trí dũng của kẻ biểu bang”3. Khi Thái Tông mất, hai đại thần Lê Khả và Lê Xí phò Nhân Tông hoàng đế lên ngôi. Niên hiệu Thái Hòa năm thứ 3 (1445), ông được phong tước Bình Nguyên vương, phủ đóng ngay tại kinh đô, hàng ngày cùng các vị vương khác vào Kinh diên học tập. Như ta biết, Tư Thành là em út, cách ứng xử của Nho gia cũng đã nằm lòng. Giữ hiếu đễ với anh, cũng tức là tỏ lòng trung với nước. Mặt khác, những bài học lịch sử mà Nho giáo đã đưa ra trong kinh sử trước đây về mối quan hệ anh em trong hoàng tộc, khiến ông nhận thực rõ ràng hơn về vị thế của mình. Phương thức ứng xử “giữ phận”, “ẩn mình” có thể nói là cách tốt nhất để “hành đạo”. Cho nên, lúc ấy, quan giữ chức Kinh diên là Trần Phong, thấy ông “cử chỉ đoan chính, thông tuệ hơn người” cũng đã giật mình. Còn Tư Thành cũng đã ngay lập tức đọc được việc mình bị “đọc”, nên “càng dè dặt, không dám lộ vẻ anh hoa, mà chỉ lấy sách vở cổ kim và nghĩa lý thánh hiền làm thú, ...suốt đêm không rời quyển sách; thiên tài cao cả mà việc chế tác lại rất lưu tâm, yêu việc thiện, mến người hiền luôn luôn không mỏi.” Đến khi loạn Nghi Dân nổ ra, ông vẫn thản nhiên không tham gia chính sự, bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến các đại thần thời bấy giờ như Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, ...mới nhận ra rằng ông là “bậc minh tuệ, độ lượng trầm nhã, vượt trên nhân quần” nên mới đón rước ông về nối ngôi hoàng đế. Có thể nói, những hành xử của Lê Thánh Tông cả trước và sau khi lên ngôi không những tỏ rõ “khí lượng thiên tử” mà còn cho thấy ông đã được đào tạo một cách bài bản như thế nào về quan niệm trị nước theo tiêu chuẩn của Nho giáo. “Vua tư trời sao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, ... Các sách kinh sử, các sách lịch toán, các việc thánh thần, cái gì cũng tinh thông.” (Vũ Quỳnh 1453-1516, ĐVSKTT. T3. nxb KHXH. H.) Qua lời trên của Vũ Quỳnh, có thể thấy, Lê Thánh Tông đã/ được trang bị cho mình mọi kiến thức cần thiết nhất để sau này ông đứng ở ngôi vị thiên tử. Hiếu đễ để thuận lòng người, hợp ý trời. Khi đã gặp thời, “phi long tại thiên” thì dùng “chư khoa bách nghệ” để ứng phó và xử lý mọi công việc. Dùng võ là để bình định thiên hạ, oai chấn tứ di, đánh dẹp các thế lực cát cứ ở trong và ngoài nước. Dùng văn để giáo hóa thiên hạ. Dùng đức để cải hóa nhân tâm. Dùng pháp để răn dè sai trái. Có thể nói, bản thân Lê Thánh Tông xét cả về tư chất cũng như đức độ, cũng như tầm tri thức là vị vua “kiểu mẫu” theo đúng kinh sách của Nho gia. Ở khía cạnh này, có thể coi nhân vật Nhà Nho- Hoàng đế là loại hình nhân vật đáng chú ý hơn cả để nghiên cứu về khía cạnh “hiến” trong khái niệm văn hiến. Bậc hiền vương Lê Thánh Tông là biểu hiện tiêu biểu nhất cho văn hiến Đại Việt vào thế kỷ XV. Bởi từ bối cảnh tri thức và bối cảnh thời đại, Hoàng đế vừa là sản phẩm của thời đại ấy lại vừa là nhân tố quan trọng nhất tạo tác nên thời đại đó. Sở dĩ nói, Lê Thánh Tông là hiền vương bởi ông là một trong hai vị vua thực hiện một cách đầy đủ nhất những tiêu chuẩn của quan niệm Nho giáo chính thống. “Hiền” là một khái niệm của Nho, là một phức thể định hình cụ thể giữa hai yếu tố “tự tu” và “kinh tế”. Hiền là một danh từ trỏ chung cho những nhân vật ngưỡng mộ và thực hành đức trị theo những mô hình cổ đại thời Chu. Đời sau, người ta còn dùng các từ hiền nhân, hiền sĩ. Nhưng về cấp độ và vị thế chính trị thì hiền chia làm hai loại: 1. Hiền thần và 2. hiền vương. Trong đó hiền vương là người thực hiện một cách hoàn bị những bài học đạo đức (nội thánh) và chính trị (ngoại vương)4 theo nguyên lý và hình mẫu có sẵn. Không chỉ có vậy, khái niệm hiền của Nho gia còn được gia cố bởi nhiều tiêu chí khác, như chúng tôi đã thảo luận khi đề cập về Sĩ Nhiếp5. Dù là với tiêu chí nào đi chăng nữa thì Lê Thánh Tông là một thực thể sống động cho những nguyên tắc hành xử và hoạt dộng xã hội của Nho gia. Điều ấy sẽ dần dần được đề cập đến như dưới đây. ================================ * Viện Nghiên cứu Hán Nôm 1. Trần Trọng Dương. Từ nguyên của từ “văn hiến” qua bối cảnh tri thức Nho giáo Việt Nam- Trung Hoa. Hội thảo “Việt Nam và Trung Quốc – những quan hệ văn hoá, văn học trong lịch sử”. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. 2011. 2. Xem thêm cách phân suất từ nguyên của Liam Kelley.2003. Vietnam as a ‘Domain of Manifest Civility’ (Văn hiến chi bang). Journal of Southest Asian Studies, Vol.34, No. 1, pp 63-76. 3. Biểu bang: đại diện tiêu biểu của đất nước. Một số bản dịch trước đây dịch thành “trí dũng đủ để giữ nước.” 4. “Nội thánh ngoại vương” là khái niệm của Nho gia. THÁNH là khái niệm trỏ phạm trù đạo đức; VƯƠNG là khái niệm trỏ phạm trù chính trị. Trong số bát điều mục cơ bản nhất của Nho gia, thì cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân là thuộc về NỘI THÁNH; tề gia, trị quốc, bình thiên hạ là thuộc về NGOẠI VƯƠNG. NỘI THÁNH là cái gốc, cái căn cốt, cái cơ bản, cái tiền đề tiên quyết cho NGOẠI VƯƠNG. NỘI THÁNH là nội dung là phương pháp là cái quyền uy tối thượng cho nhân luân và chính trị. Bậc thánh nhân, chỉ cẩn tự mình hoàn thiện nhân cách bản thân cũng đã là đồng thời hoàn tất công việc NGOẠI VƯƠNG rồi. Đây là lý thuyết căn bản nhất cho khái niệm chính trị “vô vi nhi thiên hạ trị” của Nho gia. Câu thơ của Đỗ Pháp Thuận (915-990) vô vi cư điện các, xứ xứ tức đao binh là một ví dụ điển hình cho tư tưởng ĐỨC TRỊ của Nho gia. Tiếc rằng, giới nghiên cứu tư tưởng triết học trong nhiều năm qua, đã đem khái niệm bên ngoài “tề- trị- bình” coi là hạt nhân quan trọng nhất của Nho gia, từ đó dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng khác. 5. Trần Trọng Dương. 2011. bdd.
-
Khảo về văn hiến Đại Việt qua trường hợp Hoàng đế Lê Thánh Tông 09:03-02/02/2012 Kỳ 4: Mở mang giáo hóa Theo Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển Trần Trọng Dương Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập Bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu- Quốc Tử Giám vào năm 1484 Trong các khía cạnh của sự nghiệp kiến tạo văn hiến, thì việc mở mang giáo hóa được coi là kế sách rất quan trọng cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Lê Thánh Tông là vị vua đã kiến tạo nên một mô hình khoa cử hoàn bị, khiến cho khoa cử thời đại của ông đi đến sự hưng thịnh nhất trong lịch sử. Sự coi trọng khoa cử về bản chất là coi trọng người tài. Lê Thánh Tông là người nhận thức một cách sâu sắc về vị trí và vai trò của kẻ sĩ trong việc xây dựng thể chế theo mô hình Nho gia cũng như cho việc xây dựng một nền văn hiến của dân tộc. Tinh thần trọng học, chuộng tài ấy thể hiện một tầm nhìn chiến lược để Đại Việt phát triển về mọi mặt ở nhiều thế kỷ sau. Lê Thánh Tông đã sai Thân Nhân Trung sai soạn bài văn đề danh tiến sỹ của Khoa thi năm Đại Bảo thứ 3 (1442) để khắc lên bia đá dựng tại Văn miếu Quốc tử giám. Bài văn đã nêu lên một tư tưởng phổ quát cho mọi thời đại: "Hiền tài quốc gia chi nguyên khí, nguyên khí thịnh tắc quốc thế cường dĩ long, nguyên khí nỗi tắc quốc thế nhược dĩ ô. Thị dĩ thánh đế minh vương mạc bất dĩ dục tài thủ sĩ, bồi thực nguyên khí vi tiên vụ dã." 賢材國家之元氣,元氣盛則國勢強以隆,元氣餒則國勢弱以污。是以聖帝明王莫不以育材取士培植元氣為先務也 (Hiền tài là nguyên khí của đất nước, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và vươn cao, nguyên khí suy thì thì thế nước yếu mà xuống thấp. Do đó, các bậc thánh đế, minh vương không ai không lấy việc đào tạo nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc quan trọng đầu tiên.). Trạng nguyên Vũ Duệ trong bài văn sách cũng có ý kiến tương tự: “nhân tài không phát triển, không lấy gì để dùng, để giữ cương thường muôn thuở, khơi dẫn nguyên khí quốc gia”. Luận điểm trên đã nêu bật mối quan hệ tất yếu giữa người hiền tài với vận mệnh quốc gia trong tiến trình phát triển của đất nước. Lê Thánh Tông thực sự đã thực hiện một cuộc cải cách triệt để về giáo dục và khoa cử Nho học. Thứ nhất là về giáo dục. Nếu như thời Lý Trần, giáo dục Nho học chỉ thu hẹp phạm vi tứ thư ngũ kinh, thì đến thời Lê Thánh Tông đã mở rộng thêm các sách khác như Ngọc đường văn phạm, Văn hiến thông khảo, Văn tuyển, cương mục1... Ngoài ra, ông còn cho xây dựng các kho sách công ngay tại từng phủ. Triều đình cũng thực hiện chính sách cấp học bổng cũng như lương học cho các sĩ tử khi còn đang đi học. Mỗi tháng, thượng xá sinh2 được 10 quan, trung xá sinh được 9 quan, hạ xá sinh được 8 quan. Đây là điều chưa từng có trong lịch sử khoa cử Nho học. Không những thế, các sĩ tử còn được học tập trong Nhà thái học (mà trước đó chỉ dành cho các hoàng tử). Kho Bí thư và các phòng ốc ăn ở cũng được xây dựng ngay trong khuôn viên để các sĩ tử tiện theo học. Không những thế, triều đình Lê Thánh Tông còn có chính sách bổ dụng các loại sĩ tử trên. Bộ Lại và học quan của Quốc Tử giám chiếu theo các chức còn khuyết mà bổ dụng theo từng cấp để khuyến khích nhân tài. Đây là vừa là chính sách khuyến học lại vừa là chính sách đào tạo nhân tài bằng cách “học nhi hành”. Sử dụng ngay trong quá trình đào tạo, và ngược lại đào tạo trong khi sử dụng. Lê Thánh Tông còn xuống Chiếu khuyến học3 và đích thân vi hành đến các học xá. Ông cũng cho đặt chức Ngũ kinh bác sĩ, mỗi người chuyên trị một kinh để dạy học trò. Lê Thánh Tông định khoa chế thi cử một cách quy củ từ thi Hương đến thi Hội. Năm 1462, ông định ra lệ thi Hương, cứ ba năm một lần. Đây là một bộ máy tuyển chọn nhân tài từ cấp cơ sở, nhằm chọn ra những sĩ tử xuất sắc nhất từ các địa phương. Thi Hương gồm có bốn kỳ: kỳ thứ nhất thi tứ thư ngũ kinh (5 bài), kỳ thứ hai thi thể loại (chế, chiếu, biểu, tứ lục), kỳ thứ ba thi thơ phú (thơ Đường, phú cổ thể và Ly tao) và văn tuyển, kỳ thứ tư thi văn sách (hỏi về kinh, sử và những vấn đề thời sự về trị quốc)4. Người trúng ba kỳ thi Hương được gọi là sinh đồ, trúng cả bốn kỳ được gọi là hương cống5. Trong đó, chỉ có hương cống mới được tiếp tục vào thi Hội. Trong suốt 37 năm với 12 khoa thi dưới triều Lê Thánh Tông, có khoảng 7000 sĩ tử đỗ sinh đồ, hương cống. Đây có thể coi là lượng nhân tài đông đảo nhất trong lịch sử, gấp sáu đến bảy lần so với tổng số sĩ tử của ba triều Lý- Trần- Hồ cộng lại6. Thi Hội đời Lê Thánh Tông cũng được chuẩn quy với bốn kỳ giống như thi Hương. Tuy nhiên, cấp độ cao hơn rất nhiều. Các quan giỏi nhất, có uy tín nhất, có nhân cách nhất, giữ những chức vụ trọng yếu nhất trong triều mới được làm khám khảo. Vua đích thân ngự ở điện Kính Thiên ra đề văn sách ở kỳ tứ để hỏi về trị đạo. Đây cũng là hiện tượng đầu tiên trong lịch sử khoa cử Nho học. Về mặt thể lệ, trước đó, hễ ai đã vào đến thi Hội thì sẽ trúng cách; nhưng đến thời Lê Thánh Tông vua thân hành khảo xét nếu thấy không thực tài vẫn có thể bị xóa tên. Điều này chứng tỏ, Lê Thánh Tông rất coi trọng thực học. Từ chương thi phú kinh nghĩa suông thì vẫn không đủ, quan trọng nhất của một nhân tài là việc áp dụng lý thuyết Nho giáo vào những vấn đề thời sự của quốc gia. Tiêu chí này phần nào phù hợp với khái niệm trí thức hiện nay: trí thức phải là người “dấn thân” cho đời sống xã hội. Về bản chất, cuộc sách vấn giữa vua và sĩ tử trong thời Lê Thánh Tông là “cuộc hiến kế sách”7 của những trí thức Nho học đối với những vấn đề thời sự nóng hổi của triều đình, đất nước, là một cuộc sát hạch trình độ tư duy, khả năng vận dụng học thuyết đức trị của Nho giáo vào việc giải quyết những vấn đề của thực tế xã hội. Có khi sách vấn còn là một cách để Lê Thánh Tông thử Nho sĩ về khả năng phản biện xã hội, nhất là phản biện...chính đương kim hoàng thượng. Các sĩ tử khi thực hiện đối sách có khi phải thẳng thắn bàn đến nghĩa vụ của của quân vương, hay hình mẫu của ông vua lý tưởng. Như trạng nguyên Vũ Kiệt thì hình mẫu lý tưởng ấy là vị vua biết “dùng người hiền, cầu can gián, yên muôn vật, thương muôn dân, sùng Nho thuật...”8, ông hy vọng: “bậc thánh nhân làm việc không theo sự sáng suốt của riêng mình mà hợp với sáng suốt của thiên hạ, không theo tiêu chí của riêng mình mà hợp chí của thiên hạ”. Hay như trạng nguyên Vũ Duệ trong bài đối sách đã viết: “ba điều Trí- Nhân- Dũng là cái đức thông suốt trong thiên hạ, ý nói bậc làm vua phải sáng tỏ điều đó để trị nước.” Văn sách đình đối thời Lê Thánh Tông còn bàn đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực xã hội khác như: sửa đổi phong tục tập quán, chống tham quan ô lại, vấn đề chống thiên tai, vấn đề ngoại giao, ổn định dân cư, củng cố quốc phòng, kinh tế sản xuất... Ví dụ, khi bàn về binh phòng quân sự, Vũ Kiệt viết: “sự nhiệm mầu của cơ biến, cách thức của việc bày bố dàn trận cũng không ngoài nhân nghĩa... đạo trị nước lo dùng đức giáo hóa sau mới dùng võ công...thần mong bệ hạ nắm chắc điều tín tất có uy quyền để khích lệ tướng sĩ,...lại biết lấy lễ để cố kết nhân tâm, lấy ân phủ dụ để bền chí quân sĩ...” Hay khi bàn về việc kinh tế, trạng nguyên Vũ Dương viết: “việc làm giàu mà không có nhân nghĩa trung chính ấy cũng không thể làm dân no, nước đủ chi dùng.” Các biện pháp đưa ra đều rất cụ thể, nhưng tựu chung vấn đề cốt lõi nhất để thực hiện và giải quyết các vấn đề ấy đều dựa trên học thuyết đức trị của Nho gia. Một điều đáng chú ý nữa là những người đưa ra kế sách, sau khi cập đệ liền được đưa vào bộ máy chính trị để thực hiện, thi hành chính những kế sách mà mình đưa ra. Đó là một trong những điểm tích cực nhất của khoa cử và giáo dục đời Lê Thánh Tông. Với 502 tiến sĩ9 và 9 trạng nguyên chọn lọc được trong số mười tám nghìn (18000) sĩ tử đương thời. Trong thời gian 38 năm trị vì (so với 845 lịch sử khoa cử), tức thời gian chỉ bằng 1/22, mà thời Lê Thánh Tông đã lấy đỗ 502 / 2896 tiến sĩ, tức tỷ lệ bằng 1/6 tổng số tiến sĩ, và 9/45 trạng nguyên tức là tỷ lệ bằng 1/5 tổng số trạng nguyên trong lịch sử10. Những trí thức Nho sĩ này đã góp phần tạo nên một phong khí học thuật lớn nhất trong lịch sử, góp phần quan trọng vào việc chấn hưng đất nước, xây dựng một nền văn hiến của cả một thời đại, tạo đà để văn hóa Đại Việt tiếp tục phát triển trong nhiều thế kỷ sau này. ====================== 1. Lê Quý Đôn.1997. Kiến văn tiểu lục. Lê Quý Đôn toàn tập (tập 2). Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.97. 2. Thượng xá sinh là người ba lần trúng trường trong thi Hội. Trung xá sinh là người hai lần trúng trường. Hạ xá sinh - một lần. 3. Xem Mai Xuân Hải.1992. Bài văn khuyên chăm học của vua Lê Thánh tông. Tc Hán Nôm số 2/ 1992. tr.46. 4. Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 3. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. 1972. tr.182-183. 5. Hương cống, sinh đồ bắt đầu có từ đây. 6. Số liệu tiếp thu từ Mai Xuân Hải [2007. Khoa cử đời Lê Thánh Tông. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. Hà Nội. tr293] 7. Chữ dùng của Nguyễn Tuấn Thịnh [2007. Văn sách đình đối thời Lê Thánh Tông với một số vấn đề thiết yếu về trị nước an dân. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. Hà Nội. tr.303] 8. Các bài văn sách trích dẫn được dịch theo bản Lịch triều đình đối sách văn, ký hiệu: VHv.355/1-4-6, thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Bản dịch theo Nguyễn Tuấn Thịnh, bdd. 9. Theo thống kê của Mai Xuân Hải là 497 tiến sĩ. 10. Bùi Duy Tân. 2007. Lê Thánh Tông- vị hoàng đế anh minh, nhà văn hóa lỗi lạc, một văn hào dân tộc. Trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. Hà Nội. tr.31. Các số liệu thống kê của tác giả dựa vào những ghi chép trong Các nhà khoa bảng Việt Nam do Ngô Đức Thọ, Nguyễn Hữu Mùi biên soạn, Nxb. Văn hóa. Hà Nội.1993. Con số 45 trạng nguyên là gồm cả Trại Trạng nguyên thời Trần các khoa thi năm 1256 và 1266. Và không kể Lê Quảng Chí (khoa 1478), chỉ mỗ ghi Phan Huy Chú ghi là Trạng nguyên còn các tài liệu khác đều ghi là Bảng nhãn. [chua theo Bùi Duy Tân. 2007. bdd. Chú (1) tr.31]
-
Khảo về văn hiến Đại Việt qua trường hợp Hoàng đế Lê Thánh Tông 01:59-01/02/2012 Kỳ 3: Người củng cố ngôn ngữ văn tự và văn chương dân tộc Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển Trần Trọng Dương Không chỉ thực hiện những chính sách ngôn ngữ văn tự phù hợp với bối cảnh lịch sử của đất nước và tình hình văn hóa của khu vực, điều đáng nói hơn là Lê Thánh Tông và các triều thần thi nhân của mình đã tiến hành thành công một cuộc cải cách về ngôn ngữ thơ ca thế kỷ XV. Về văn tự Từ thời Lý Trần cho đến thời Lê Thánh Tông, Đại Việt sở dĩ đã được coi là nước văn hiến bởi lẽ các triều đại này đã thực hiện những chính sách ngôn ngữ văn tự phù hợp với bối cảnh lịch sử của đất nước và tình hình văn hóa của khu vực. Đến triều Lê Thánh Tông, Đại Việt vẫn sử dụng chính sách song ngữ (tiếng Hán và tiếng Việt) và tam văn tự (chữ Hán, chữ Sancrit và chữ Nôm). Tuy nhiên, có sự phân chia khả năng hành chức cho từng ngôn ngữ và các hệ thống chữ viết. Tiếng Hán (chữ Hán) được coi là ngôn ngữ của nhà nước, ngôn ngữ quan phương dùng cho việc quản lý hành chính (công văn giấy tờ), ngoại giao với khu vực, ghi chép lịch sử, văn học, tôn giáo và khoa cử. Tiếng Việt và chữ Nôm được coi là tiếng bản ngữ và văn tự bản sắc, dùng để giao tiếp thường nhật (kể cả khi thiết triều?)1. Đây đồng thời là công cụ giao tiếp giữa triều đình với các cấp quản lý phía dưới và với dân chúng. Và quan trọng nhất, nó là công cụ giao tiếp chính thức của toàn bộ cộng đồng cư dân Việt. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh kiến tạo văn hiến, Lê Thánh Tông có đóng góp lịch sử nhất định ở phương diện này. Ông là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử, đưa chữ Nôm và ngôn ngữ bản địa (tiếng Việt) vào sáng tác thơ ca cung đình. Tập thơ Nôm lớn nhất thế kỷ XV - Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐQATT) có thể coi là một kho tàng về ngôn ngữ tiếng Việt cổ thế kỷ này. Tập thơ là những sáng tác thơ Đường luật của Lê Thánh Tông và triều thần với nội dung khá phong phú, gồm ba trăm hai mươi tám bài (328) với độ dài văn bản là 18368 lượt chữ (so với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có hai trăm năm tư (254) bài với độ dài văn bản là 14224 lượt chữ). Cải cách ngôn ngữ dân tộc Điều đáng nói hơn nữa là Lê Thánh Tông và các triều thần thi nhân của mình đã tiến hành thành công một cuộc cải cách về ngôn ngữ thơ ca thế kỷ XV. Nhiều người vẫn coi Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một đỉnh cao không thể vượt qua. Từ định kiến đó, một số ý kiến coi HĐQATT là một sự “giậm chân tại chỗ” hay là “vệt kéo dài” của ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi đầu thế kỷ XV. Chúng tôi cho rằng, quan niệm như vậy xuất phát từ mục đích nghiên cứu của giai đoạn đó: đề cao tuyệt đối thơ Nguyễn Trãi để làm nổi bật tính nhân dân, tính dân tộc của tác phẩm, hạ thấp thơ văn cung đình của triều thần vua tôi Lê Thánh Tông để phê phán những tệ lậu của chế độ phong kiến. Thực tế, Lê Thánh Tông đã tạo ra một đỉnh cao khác về ngôn ngữ nghệ thuật vào thế kỷ XV. Đỉnh cao này đã được ông chuẩn bị một cách bài bản và học thuật2. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập hàng loạt các thủ pháp tu từ mới đã được thiết lập. Lần đầu tiên, lối ngôn ngữ thơ cảm giác được hiện thực hóa bằng cách sử dụng các từ láy thuần Việt. Các từ láy tập trung với mật độ dày đặc, để tạo nên những hiệu ứng đa chiều từ tất cả các giác quan: Rỡ rỡ cửa vàng ngày Thuấn rạng Làu làu phiến ngọc lịch Nghiêu phân Cao vòi vọi ngôi hoàng cực Khắp lâng lâng phúc thứ dân (Nguyên đán) Cũng lần đầu tiên các từ láy đi đôi với lối điệp từ để tạo sóng âm: Mặt làu làu, vóc thỏ thanh thanh Tròn tròn, méo méo in đòi thuở Xuống xuống, lên lên suốt mấy canh Tháng tháng liếc qua, lầu đỏ đỏ Đêm đêm liền tới, trướng xanh xanh Theo thống kê của Vương Lộc, số lượng từ láy trong HĐQATT lên đến ba trăm bảy mươi lăm (375) đơn vị3, ví dụ như: chạnh chạnh, cạy cạy, chấp chảnh, chắm chắm, êu ếu, dặng dặng, kềnh kềnh, lam am, lom om, năm nắm, nghể ngái, tha la, xun xoăn, lởm thởm,… Kỹ thuật này sau đó đã trở thành một thủ pháp quen thuộc rất hay được các chúa Trịnh sử dụng trong các tập thơ Nôm Ngự đề Thiên hòa doanh bách vịnh, Lê triều ngự chế quốc âm thi, Kiền nguyên ngự chế thi tập. Truyện Kiều cũng không ít lần sử dụng biện pháp tu từ học này, ví dụ như: trông vời bạt lệ phân tay, góc trời thăm thẳm, ngày ngày đăm đăm… Lê Thánh Tông cũng là người đầu tiên đưa ngôn ngữ dân gian vào hoạt động sáng tạo nghệ thuật cung đình. Thực ra, dùng các ngữ liệu của văn học dân gian vào việc sáng tác thơ Đường luật đã bắt đầu thấy từ Nguyễn Trãi. Nhưng thơ Nguyễn Trãi là thơ ở ẩn; dân dã cũng là có lý do khách quan và chủ quan riêng của nó. Còn thơ trong HDQATT thì cái dân dã ấy, cái dân gian ấy lại bắt nguồn từ ý định nghệ thuật chủ quan. Đáng nói hơn, đó là nhận thức của một vị vua “sùng Nho chuộng Chữ” như Lê Thánh Tông. Nhận thức ấy của ông đã truyền sang cho cả các Nho thần tài hoa của mình, ví dụ những câu như: mướp đắng khen ai đổi mạt cưa, hay chớ chơi chống bỏi trẻ xem khinh, hay Kìa ai vẽ rắn sự còn gương. Không những thế, Lê Thánh Tông và các hiền thần của mình còn ý thức một cách sâu sắc về việc tận dụng từ vựng thuần Việt và hạn chế một cách tối đa các từ Hán Việt trong thơ của mình. Theo thống kê của Bùi Duy Tân, từ thuần Việt trong HĐQATT chiếm hơn 70% (khoảng 2400 từ), từ Hán Việt chiếm 30% (khoảng 1000 từ)4. Số liệu này càng có ý nghĩa khi chúng ta biết trong tiếng Việt hiện đại, từ vựng gốc Hán chiếm đến 70% đến 80%. Ví dụ: Sông trăng lạt vẻ sao thưa, Gác cũ, rêu đầy, lấp dấu thơ. Mưa tạnh, hoa sầu, chiều lạt mạt, Xuân về, én thảm, tiếng u ơ. Đêm tàn, ruột thắt, hồn xơ xác. Gối chiếc, châu đằm, giấc ngẩn ngơ. Lá thắm, thơ bài, mong bắt chước, Nước xuôi, thơ ngược, biết bao giờ…? (Hoài viễn bài 16) Bài thơ không có một từ Hán Việt song tiết nào, chỉ có 12 từ Hán đã gia nhập khá sâu vào tiếng Việt như: hoa, xuân, tạnh,chiếc, sầu, châu, hồn, mong, thảm, én, gác, thơ. Về mặt phong cách học, đây rõ ràng là một kỹ pháp khác hẳn so với đời sau, như trường hợp thơ Bà Huyện Thanh Quan với lối thơ đài các mà xa xăm kiểu “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương”. Lần đầu tiên, kỹ xảo âm thanh được sử dụng như một phương pháp tạo nghĩa, tạo cảm giác. Cũng là lần đầu tiên, một tác giả viết tiếng Việt đã “hình dung khởi điểm về điều rằng tổ chức âm thanh là có nghĩa”5 và ý thức về “những lặp lại về nhịp điệu”6. Các kỹ thuật này tân kỳ đến mức, nói như Vương Lộc, “nếu lấy ra khỏi tập thơ, khó có thể nghĩ rằng nó đã được viết ra cách đây năm thế kỷ”7. Đến đây, người viết đột nhiên nhớ đến những câu kiểu như Thơ mới của Phạm Thái: “buồn đốt lò vàng hương nhạt khói, sầu nâng chén ngọc rượu không hơi” (thơ tế Trương Quỳnh Như). Nhưng cái ấn tượng về cách chơi chữ “nước xuôi> < thơ ngược” quả cũng khiến người đọc giật mình. Lần đầu tiên, thơ Nôm Việt xuất hiện lối tư duy ngôn ngữ nghệ thuật theo hệ hình. Nhà thơ đã tổ chức bài thơ bằng cách thiết lập các phương trình đồng đẳng, để tạo nên những biểu tượng thơ đa chiều8: Chín vạc đặt yên bằng núi Ai rằng sự chẳng đến muôn dân (Ông đầu rau) Ba ông đầu rau (một vật rất đỗi dân gian) là đồ dùng để đặt nồi nấu nướng. Từ đó, Lê Thánh Tông đã đặt ra các hệ phương trình bất ngờ: Ông đầu rau (dùng để đặt nồi) = ba chân vạc (của đỉnh, vạc) Muôn dân (nhờ đó mà nấu nướng) = trăm họ được nhờ Mặt khác, tác giả cũng đã sử dụng lại một hệ phương trình biểu tượng song trùng khác trong truyền thống mỹ học của Nho gia: Chín vạc = biểu tượng truyền quốc = tượng trưng cho giang sơn đất nước Nấu canh (trong vạc) = điều canh = chăn dân, vỗ trị quốc gia Và phương trình bất ngờ nhất, thú vị nhất là: ông đầu rau = người ở dưới khuông phò bách tính và xã tắc = Thừa tướng. Nói như Nguyễn Phan Cảnh, thì Lê Thánh Tông ở đây đã thực hiện thao tác cơ bản nhất của hoạt động sáng tạo nghệ thuật: “tùy theo nội dung của tiêu chí lựa chọn để lập phương trình”9. Theo chúng tôi, đây là một trong những kỹ xảo thơ phức tạp nhất trong kho tàng văn học cổ của dân tộc. Biểu tượng ông đầu rau có lẽ cũng là hình tượng thơ độc đáo trong lịch sữ mỹ học Nho giáo. Điều đáng nói hơn nữa là lối tư duy ngôn ngữ này đã được Lê Thánh Tông sử dụng một cách triệt để, từ đó ông sáng tạo ra một thể loại mới. Đó là lối thơ vịnh vật- khẩu khí với hàng loạt các hệ hình như: thằng bù nhìn- tướng soái, con cóc- ông vua, quả dưa- hiền thần, đám khoai- gia tộc,… Có thể nói, những đóng góp trên của Lê Thánh Tông về mặt ngôn ngữ dân tộc, cụ thể là ngôn ngữ nghệ thuật là không thể phủ nhận. Không những thế, những đóng góp ấy còn thể hiện ở một số mặt khác về mảng Hán văn Việt Nam trung đại, như bài viết sẽ bàn dưới đây. Thiết lập khuynh hướng văn học Nho gia quan phương Văn học Nho gia đã bắt đầu khởi phát từ đời các triều đại trước đó, và rõ nét nhất là trong thơ của một số tác gia cuối đời Trần. Thế nhưng thơ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh có hơi hướng xuất thế của người đi ở ẩn. Phải đến Lê Thánh Tông, xu hướng văn học Nho gia theo dòng chính thống mới thực sự xuất hiện, bởi cũng lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vị chủ tao đàn nguyên soái lại chính là một hoàng đế thánh vương. Văn chương là một nhu cầu của đạo đức. Nghệ thuật là một cách để giáo hóa. Làm thơ là một hành vi chính trị. Nhà thơ Hoàng đế cũng là Nguyên soái của Tao đàn mà “các hội viên” không ai khác chính là đám Nho thần tài năng. Mục đích của thơ ca là hướng đến một trạng thái bình hòa của ổn định chính trị theo mẫu hình Đường Ngu Nghiêu Thuấn. Vua tôi cùng xướng họa để làm một cuộc hòa tấu bất tận về một nền đức trị lý tưởng. Niềm cảm hứng thơ ca đồng nhất với cảm hứng đạo đức. Đạo đức- thơ ca cùng vận hành với nhịp vận hành của vũ trụ và thời đại. Nói như John K. Whitmore, “giai đoạn này đã tạo ra nét riêng cho ba thập kỷ tiếp theo: vua ham văn chương, các nhà Nho trẻ tài giỏi; thơ ca và đạo Khổng.”10 Cái cộng cảm ấy là một thứ tình cảm đạo đức mà thời nay khó có thể tưởng tượng được. Niềm vui ngây ngất trong Quỳnh uyển cửu ca không hẳn là vì hai năm được mùa liên tiếp, mà bởi bản chất của hiện tượng: mùa màng bội thu là một phong vũ biểu “lấy vũ trụ để xác định chuẩn mực đạo đức.”11 Cho nên, Hồng Đức (đức cực lớn)- niên hiệu thứ hai ông dùng cho thời đại cai trị của mình, chính là một biểu hiện về bản chất của thể chế Nho giáo thời bấy giờ. Trong bài Quân minh thần lương, ông viết dâng lên Thái Tổ Cao Hoàng Đế rằng: 孝孫洪德承丕緒, 八百姬周樂治平。 Hiếu tôn hồng đức thừa phi tự Bát bách Cơ Chu lạc trị bình (cháu hiếu hồng đức nối cơ đồ lớn Sẽ vui với cảnh trị bình như tám trăm năm nhà Chu) Thực chất, Lê Thánh Tông muốn nói rằng: ông đang được thừa hưởng cái đức lớn của tổ tông để lại (đức ấm). Hành động “tự tu, tự tỉnh” của cá nhân được chuyển đổi thành “đạo đức tông tộc.” Công lao cá nhân khởi nguồn từ công nghiệp của tổ tiên. Hơn thế nữa, “thiên đức” đã nhất thể hóa với “tổ tông chi đức”, để trở thành một thực thể siêu hình tối thượng đang hiện thực hóa qua hành động “thay trời hành đạo” của bậc thiên tử. Cho nên, Thân Nhân Trung có lần mới họa lại rằng: 格天帝德妙全能 協應休徵百榖登 Cách thiên đế đức diệu toàn năng Hiệp ứng hưu trưng bách cốc đăng (tiếp được với trời, đức của nhà vua mới diệu kỳ toàn năng Phúc lành ứng hợp, tỏ rõ ra ở việc mùa màng bội thu) Trời cảm ứng với đức của người cầm quyền sẽ tạo ra những điềm lành (hưu trưng). Nhà vua là người “thông linh” bằng những nghi lễ cúng tế thần, đó là các nghi lễ “báo cáo đạo đức” chứ không phải là “báo cáo chính trị”. Lần đầu tiên trong lịch sử Đại Việt, thơ ca- đạo đức- chính trị hòa làm một. Cảm hứng nghệ thuật- xúc cảm đạo đức thiêng liêng và ý thức trách nhiệm chính trị đã nhất thể hóa một cách tuyệt đối Lê Thánh Tông đã gây dựng nên cả một triều đại thi ca. Các Nho thần văn sĩ trẻ trong triều đều do chính tay ông tuyển chọn. Vua cùng các hoàng tử và các quan trong Hàn lâm viện và Đông các nhiều lần xướng họa. Con số các tác giả trong triều của ông còn lại tác phẩm đến nay cỡ khoảng 70 người, số lượng nhiều hơn hẳn các văn thần trong Tao đàn nhị thập bát tú. Lần đầu tiên trong lịch sử, vua tôi đã có sự cộng cảm và tiến hành các sáng tác tập thể. Trong bài tựa Quỳnh uyển cửu ca (năm 1494), chính nhà vua đã viết: “ta nhân lúc muôn việc được rỗi, nửa ngày được nhàn, thường xem các sách, vui thích lục nghệ, mọi sự huyên náo lắng xuống, một ngọn đèn sáng thơm tho, thị dục ít, tinh thần trong sáng, ở yên hứng cao, mới phấn khởi nghĩ đến khuôn phép lớn của thánh đế minh vương, lòng cẩn thận của trung thần lương bật. Gọi chàng “giấy”, họ “bút”, thượng khách “mực”, trọng thần “nghiên đá”, bảo đi bảo lại rằng: chân tình ta phát triển ra, có anh khí dào dạt, thành cách ngôn hay. Các ngươi có thể ghi chép giúp ta được không?” Đây có thể coi là những lời tự sự chân thành hay một nét chân dung tạ họa của ông ở cạnh khía này. Sáng tạo thể tài thơ Nôm vịnh sử dân tộc là một đóng góp nữa ở mặt văn chương của Lê Thánh Tông. Vịnh sử là một thể thơ chức năng của Nho giáo nhằm nêu lên những bài học của tiền nhân và khuyến giới cho người hành đạo, học hỏi quá khứ để áp dụng cho thực tiễn hiện tại. Từ trước Lê Thánh Tông, thơ vịnh sử chỉ nằm gọn trong giới hạn của thơ chữ Hán. Tập thơ Cổ tâm bách vịnh của Lê Thánh Tông- tập thơ vịnh Bắc sử cũng nằm trong lối đi cũ như vậy. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Lê Thánh Tông cùng quần thần đã tạo nên một bước phát triển mới. Cái mới và cũng là đóng góp của Lê Thánh Tông đối với văn học và văn hiến Đại Việt được thể hiện ở hai mặt: (1) đưa thể tài vịnh sử vào việc sáng tác thơ Nôm, (2) chú trọng vịnh các nhân vật lịch sử của Đại Việt. Đúng như Bùi Duy Tân đã phát hiện “chỉ đến thời Lê Thánh Tông mới xuất hiện lối thơ vịnh Nam sử và viết bằng chữ Nôm. Lê Thánh Tông là người đầu tiên dùng chữ Nôm vịnh nhân vật lịch sử dân tộc, mở đường cho sự xuất hiện một lối thơ rất độc đáo và rất phong phú về cảm hứng dân tộc, cảm hứng nhân văn trong văn học trung đại Việt Nam”12 . Đây có thể coi là sự dung hội hợp lý giữa quan niệm thẩm mỹ Nho gia với mục đích phát triển của dân tộc. Bài học lịch sử và bài học đạo đức không gì hùng hồn hơn, thiết thực hơn bằng cách chiêm nghiệm qua chính các nhân vật lịch sử của đất nước mình. Như trên đã nói, chức năng của thơ vịnh sử là nêu lên những bài học theo tiêu chuẩn của Nho gia. Đó có thể là bài học về khí tiết, về đạo đức, về phẩm hạnh, về tài năng, về sự nghiệp trị bình. Thơ Nôm Lê Thánh Tông còn có đóng góp nữa, đó là “thể hiện cảm hứng lịch sử qua việc đề cao nhân cách văn hóa của danh nhân đất Việt.”13 Hơn thế nữa, ông còn vịnh cả... bề tôi của mình. Đây cũng là hiện tượng ít thấy trong lịch sử Nho giáo cũng như văn học dân tộc. Bài vịnh về trạng nguyên Nguyễn Trực có thể coi là “một kiểu vinh danh rất mới” của ông: Nối dòng thi lễ nhà truyền báu Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng Còn đối với trạng nguyên Lương Thế Vinh, ông đã có những câu thơ “huyền thoại hóa” vị hiền thần của mình: Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua Gióng khách tiên đành kíp tới nhà Cẩm tú mấy hàng về động ngọc Thánh hiền ba chén ước hồn hoa Khí thiêng đã lại thu sơn nhạc Danh lạ còn truyền để quốc gia Khuất ngón tay than tài cái thế Lấy ai làm trạng nước Nam ta Có thể nói, ở khía cạnh văn học sử, Lê Thánh Tông đã mở rộng nguyên mẫu của thể tài thơ vịnh sử. Ở khía cạnh ngôn ngữ, ông đã mở rộng biên độ chức năng của thơ Nôm, hơn nữa là của tiếng Việt. Thơ Nôm Lê Thánh Tông là “sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố Nho giáo tích cực và tinh thần dân tộc tự chủ về mặt văn hóa”14. Đó là những đóng góp không thể phủ nhận được. Thơ Nôm đề vịnh phong cảnh Đại Việt Đầu thế kỷ XV, thơ Nôm Nguyễn Trãi chủ yếu là lối thơ trữ tình, với những biểu trưng ước lệ của Nho giáo, với trúc quân tử, tùng đống lương, mai ẩn dật, lan giấu hương. Lê Thánh Tông là người đã “giải truyền thống” lối diễn đạt ấy bằng cách đưa những vấn đề của bản địa vào thơ. Thơ ông tràn ngập các địa danh của đất nước Đại Việt. Không những thế ông tỏ ra có một ý thức rõ rệt về vấn đề cương vực địa lý, về “Nam quốc”, “Nam thiên”. Có thể nói như Yves Lacoste, đằng sau những bài thơ vịnh phong cảnh là cả “một tầm vóc lịch sử”15. Kinh lịch khắp các nơi trên lãnh thổ của mình, Thiên Nam động chủ là người có nhiều cảm xúc hơn cả, và có nhiều ý thức về lãnh thổ quốc gia về hơn ai hết. Kia sông Bạch Đằng, nọ núi Song ngư, đó cửa Thần Phù, nữa chùa Trấn Quốc. Nhìn ngắm giang sơn, nhà thơ vẫn đọc trong đó những bài học lịch sử và niềm tự hào về chiến công hiển hách của cha ông: Leo lẻo doành xanh nước tựa dầu Trăm ngòi ngàn lạch chảy về chầu Rửa không thảy thảy thằng Ngô dại Dịa mọi lâng lâng khách Việt hầu Nọ đỉnh Thái Sơn rạnh rạnh đó Nào hồn Ô Mã lạc loài đâu Bốn phương phẳng lặng kình bằng thóc Thong thả dầu ta bủa lưới câu (Bạch Đằng giang) Đôi câu thơ kết của bài thơ là một cái lạ. Tự hào về đất nước với tư cách là vị quân chủ mà không chút kiêu căng, cái tư thế thanh thản buông câu trên dòng sông chiến địa có phần nào mang dáng dấp của một thi nhân minh triết. Thơ Nôm khẩu khí Như trên đã đề cập đến thơ Nôm khẩu khí từ góc độ của ngôn ngữ hệ hình. Ở đây, chúng ta còn thấy loại thơ này còn là một đóng góp của Lê Thánh Tông về mặt giọng thơ. Giọng thơ là điều hiếm thấy trong bối cảnh văn hóa trung đại, khi quan niệm mỹ học thời này là việc “giả giọng truyền thống” với các định hướng sáng tác là “nghĩ cổ, tập cổ, hoài cổ”. Loại thơ này hầu che lấp con người cá nhân của chủ thể sáng tạo. Thế nhưng, giọng thơ của Lê Thánh Tông nổi lên như một hiện tượng độc đặc, đến mức nó là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để phân biệt nhà thơ này với các tác giả khác trong tập Hồng Đức quốc âm thi tập, đó là chất giọng đế vương, mà trước đến nay người ta vẫn thường định danh bằng cụm từ “thơ khẩu khí”16. Thơ khẩu khí của Lê Thánh Tông lấy những vật tầm thường, nhỏ mọn làm đối tượng chính, từ những đồ gia dụng như bếp, cái rế, quạt, ấm đất, bù nhìn cho đến những con vật bình thường như gà, chó, kiến, cóc, rận, muỗi... Thấp thoáng sau những ẩn dụ là chất hóm hỉnh, hài hước, vừa thông minh dí dỏm nhưng cũng hết sức ý vị. Những vật bình dị thế kia nhưng khi qua ngòi bút của ông bỗng biến thành những nhân vật có tài ích đối với triều đình, xã tắc. Mở đường Truyện thơ Nôm Đường luật Truyện thơ Nôm là một sản phẩm độc đáo của văn hóa Việt Nam. Trước nay, phần đa công chúng chỉ biết đến các tác phẩm truyện thơ Nôm viết theo thể lục bát hay song thất lục bát được sáng tác khá muộn, quãng từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Thế nhưng trong Hồng Đức quốc âm thi tập có đến hai truyện thơ Nôm viết theo thể thơ Đường luật. Cấu trúc của mỗi truyện gồm nhiều bài thơ ghép lại với nhau theo trình tự tuyến tính thời gian của chuyện kể. Chuyện thứ nhất là Lưu Nguyễn gặp tiên với các tình tiết: hai chàng vào núi, gặp tiên nữ, tống biệt, và quay lại nũi cũ tìm người tiên. Chuyện thứ hai là chuyện Chiêu Quân cống Hồ (gồm 49 bài thơ Nôm Đường luật) với các tình tiết: nhà vua lên ngôi, xã tắc thái bình, vua cầu tôi hiền, vua kén cung nữ, Chiêu Quân nhập cung, Chiêu Quân được sủng ái, Chiêu Quân bị thất sủng, Chúa Hung Nô cầu hôn, Chiêu Quân bị cống sang Hồ, Chiêu Quân từ biệt vua và song thân, Chiêu Quân ở đất khách, oán trách quân vương, và tự tử. Về cấu trúc vĩ mô thì cả hai đều là các câu truyện có mở đầu và kết thúc trọn vẹn. Tuy nhiên, mỗi một khúc đoạn được thể hiện bằng một bài thơ Đường luật đồng thời cũng là một bài thơ độc lập, mang tính trữ tình. Vì vậy, đặc điểm lớn nhất của chúng là tính trữ tình- tự sự. Tự sự là cái cớ để tác giả thể hiện cái tình cảm của mình vào đó. Hơn hết lối kể chuyện với nhân vật thứ ba- người kể, đã khiến cho tác phẩm giầu sức cuốn hút hơn. Đây có thể coi là một sáng tạo nữa của Hồng Đức quốc âm thi tập. Tạm thời, có thể đi đến nhận định rằng đây là hai truyện thơ Nôm Đường luật sớm nhất trong lịch sử17 mà đến nay còn lưu giữ được18. Dù rằng, đó có thể là sáng tác tập thể chứ không phải của Lê Thánh Tông. Đây là những sự kiện có ý nghĩa sâu sắc, rằng: 1.truyện thơ Nôm Đường luật là lối truyện thơ cổ xuất hiện trước, và có thể là tiền thân của các truyện thơ Nôm lục bát ở các thế kỷ sau. 2.truyện thơ Nôm là sản phẩm của các Nho sĩ bác học, xuất phát từ cung đình19. Lê Thánh Tông với văn nôm biền ngẫu Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là bài văn tế Nôm được chép trong bộ Thiên Nam dư hạ tập do chính Lê Thánh Tông và các triều thần biên soạn. Tác phẩm gồm mười một đoạn, đoạn mở đầu và mười đoạn răn mười loại cô hồn: thiền tăng, đạo sĩ, quan liêu, nho sĩ, thầy thiên văn địa lý, lương y, tướng quân, hoa nương, thương cổ (lái buôn), đãng tử (kẻ lang thang). Tác phẩm viết theo lối văn biền ngẫu. Mười đoạn sau đều kết thúc bằng một bài kệ theo thể thất ngôn bát cú, đôi chỗ pha lục ngôn. Toàn bài văn tế xấp xỉ bốn trăm câu văn, câu thơ. Cùng với bài thệ văn của Lê Lợi, đây có thể coi là hai áng văn Nôm cổ còn lại của thế kỷ XV. Mặt mũi vẻ vang, Chân tay rún rẩy. Sắm của ăn, lo của mặc; Săn mớ thuốc, sắp mớ rau. Khoét móng chân, vẹn mẽ đồng tiền; Nhổ lông mũi, bương đầu cái nhíp... Để trễ việc cửa việc nhà; Lo lắng đánh đàn đánh đúm. Thăm tìm quán khách, chơi bời dại nguyệt dại hoa; Đủng đỉnh cầu đình, lơ lửng đứng đường đứng sá... Hỡi ôi! Sống bởi chưng ở nết ỡm ờ, Thác cho phải nên thân đói khát... Văn tế là thể loại giao thoa giữa Phật giáo với quan niệm tín ngưỡng của người Việt. Văn tế cô hồn có xuất phát từ văn hóa Phật giáo. Bùi Duy Tân cho rằng bài này đã dựa vào khoa Mông sơn thí thực - một loại văn “thỉnh âm hồn” thường dùng trong tết trung nguyên, dùng để cúng các cô hồn20. Dân gian có câu: tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân. Một số nhà nghiên cứu coi đây chỉ là một bài văn để giáo huấn theo tư tưởng chính thống chứ không phải là mục đích nhân đạo theo tinh thần tư bi bác ái của Phật giáo. Song, chúng tôi cho rằng không hẳn như vậy. Đây có lẽ là bài văn tế được soạn ra nhân dịp tiết trung nguyên để tuyên đọc trong một đại lễ cúng cô hồn của triều đình. Điều này chứng tỏ rằng, Lê Thánh Tông chỉ bài Phật trên phương diện mô hình nhà nước và quản lý xã hội. Tức là ngay ở thời kỳ thịnh trị nhất của Nho gia- thời được coi “độc tôn Nho thuật”, Phật giáo vẫn tồn tại với những chức năng cứu rỗi tâm linh ngay trong tầng lớp phía trên của xã hội. Nhập triều vẫn là Nho. Nhưng trong các mối quan hệ khác, các tôn giáo “khác mối” (dị đoan) vẫn hành chức như thường. Điều này có thể thấy rõ qua những ghi chép về Lê Thánh Tông qua Đại Việt sử ký toàn thư, ông cùng từng có quan hệ với giới tăng lữ và đạo lưu và viết khá nhiều thơ văn cầu đảo. Tuy nhiên, điểm đặc biệt đáng nói đến của bài văn tế chính là hơi hướng Nho giáo của nó. Người chủ đàn tế chính là đương kim hoàng thượng. Cúng cô hồn là cúng xá tội vong linh. Nhưng các vong linh ấy vẫn là bề tôi, là thần dân của ông. Cho nên, bài văn tế ngoài chức năng cứu rỗi siêu thoát, còn mang tính chất giáo giới, khuyến trừng. Lê Thánh Tông đã mượn lời răn cô hồn để giáo huấn người sống21, mượn Phật lễ để nói về lễ nhà Nho: Mừng hội công danh; Đua tài văn võ. Chĩnh chện áo dài đai rộng; Nghênh ngang đòng cả mác dài... Vào thì làm rường làm cột, khỏe chống miếu đường; Ra thì nên ải nên thành, bền che phiên chấn... (Giới quan liêu) Qua bài văn, tác giả đã phần nào phác ra được những hiện thực của xã hội thế kỷ XV. Đó là “sứ điệp văn nghệ lời Việt” (chữ của Thanh Lãng)22. Bài Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là áng văn tế cổ nhất, là đóng góp nữa của Lê Thánh Tông về mặt thể loại23. Thánh tông di thảo - tập truyện truyền kỳ đầu tiên của văn học trung đại Thánh Tông di thảo là tập truyện do Lê Thánh Tông sáng tác, được người đời sau tập hợp và chép lại. Cuối mỗi truyện đều có lời bàn của Sơn Nam Thúc. Tập truyện này gồm có mười chín truyện ngắn và một truyện phụ lục. Tập truyện này lấy những dữ kiện lịch sử xã hội thời chống Minh và thời Lê Thánh Tông, ngoài ra còn tiếp thu những truyện dân gian. Về mặt loại hình, thì tập truyện bao gồm các thể loại truyền kỳ, truyện kỳ ảo, truyện ngụ ngôn và tạp ký. Tập truyện này được đánh giá là “bước tiến rõ rệt của văn tự sự truyện ký từ chỗ nặng về ghi chép sự tích cũ đến chỗ hư cấu, phóng tác những truyện mới.” 24 Văn xuôi trung đại Việt Nam trước Thánh Tông di thảo có ba tác phẩm. Việt điện u linh là tập thần tích với bút pháp thần thoại. Thiền uyển tập anh chỉ là những ký chép về hành trạng các thiền sư, phả hệ các dòng thiền, Có thể coi đây là hai tác phẩm thiền phả, ít nhiều có tính chất văn học. Tác phẩm thứ hai là Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh thì đơn thuần là sưu tập truyện dân gian. Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái là hai tác phẩm thuộc thể loại chí quái. Phải đến Thánh Tông di thảo mới có những “bước đột khởi của thể loại”25 (chữ của Vũ Thanh). Thoát khỏi folklore và sử ký, Thánh Tông di thảo lần đầu tiên chạm đến ngưỡng của sự sáng tạo bằng các thủ pháp nghệ thuật. Lần đầu tiên, truyện ngắn trung đại xuất hiện nhân vật thứ ba. Đó là tác giả- người kể chuyện. Người kể chuyện tham gia vào cấu trúc của tác phẩm với tâm trạng trữ tình: “ta ở địa vị Đông cung là bậc quý, sau này lên ngôi nam diện là bậc tôn, cả thiên hạ cung phụng một người, giàu sang còn gì bằng nữa? Tại sao chỉ nửa thuyền trăng tỏ, khúc địch véo von đã làm cho ta thay đổi, coi thường mọi vị trân cam không bằng một bầu mây nước. Nỗi lòng này do từ đâu?” (Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc). Và đây đó trong chuyện xuất hiện những đoạn miêu tả tâm lý nhân vật. Đây là “tiền đề cho những truyện ngắn tâm lý”26 của Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ vào thế kỷ XVI. Xuyên suốt toàn bộ tập truyện còn là những tình tiết hư cấu của tác giả trên cơ sở của truyền thuyết và truyện dân gian. Năng lực hư cấu của tác giả đồng thời cũng loại bỏ các thủ pháp truyền thống của văn xuôi lịch sử (sử ký). Các dữ kiện lịch sử có thật đã được tác giả “tiêu hóa” nhằm hướng đến một tác phẩm nghệ thuật thuần túy, điều này chứng tỏ truyện ngắn của Lê Thánh Tông đã “tách rời khỏi thế bất phân với sử học và triết học.”27 Thêm nữa, tác giả cũng đã sử dụng các yếu tố kỳ ảo như là một thủ pháp kỹ thuật nhằm tạo sự lôi cuốn cho chuyện kể, nhiều tình tiết đan xen như mơ như thực, như mộng như đời. Những chuyện kể còn được mở rộng về mặt đối tượng phản ánh. Lần đầu tiên những hạng người rất bình thường (chứ không chỉ là thần, thánh, thiền sư....) trở thành nhân vật chính của tác phẩm. Nói như Vũ Thanh, “sự đa dạng của đề tài được phản ánh, sự xuất hiện của những màu sắc mỹ học mới mẻ, việc hướng tới bản sắc nghệ thuật của thể loại, cũng như việc quan tâm đến cuộc sống, đến con người trong một ngòi bút đã bắt đầu tạo được những nét riêng biệt quý giá đã xác định vị trí quan trọng của Thánh Tông di thảo trong tiến trình phát triển của truyện ngắn Việt Nam trung cổ.”28 ======================= 1. Chúng tôi cho rằng, có khả năng, tiếng Hán (văn ngôn) chỉ được dùng cho các văn bản. Còn khi thảo luận, thì tiếng Việt đã được dùng trong các buổi chầu với tư cách là một ngôn ngữ sống động. 2. Chứng cớ là ông đã ra lệnh sưu tầm thơ Nôm Nguyễn Trãi (cũng như các tác phẩm khác). Đọc Nguyễn Trãi nằm lòng đến mức ông đã phải thốt lên rằng: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê- Tảo”. 3. Vương Lộc. (tb2007). Một vài nhận xét bước đầu về ngôn ngữ trong Hồng Đức quốc âm thi tập. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo Dục. H. tr.656. Theo Nguyễn Phạm Hùng thì số lượng từ láy lớn hơn, 552 từ, chiếm 21,36% mẫu khảo sát (2584 lượt chữ). Xem “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo Dục. H. tr.644-645. 4. Bùi Duy Tân. 1983. Hồng Đức quốc âm thi tập- một tác phẩm lớn của văn học tiếng Việt thế kỷ XV. Tạp chí văn học. số 3 năm 1983. tb2007. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. tr.590. Cũng trong bài viết này, tác giả cung cấp một số số liệu khác thú vị. “Nếu so sánh tỷ lệ số lượt từ xuất hiện, tức độ dài văn bản và số lượng của các từ khác nhau, thì ở Hồng Đức quốc âm thi tập là 15242/3383= 4.5, ở Quốc âm thi tập là 11057/2235= 4.9. Cách sử dụng kho từ vốn có của các tác giả Hồng Đức quốc âm thi tập phong phú hơn đổi mới hơn Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập. 5. IU.M.Lotman. 2004. Cấu trúc văn bản nghệ thuật. Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. tr.200. 6. IU.M.Lotman. 2004. sdd. Tr.209-219. 7. Vương Lộc. bdd. Tr.660. 8. Như cách nói của Đỗ Lai Thúy là “biểu tượng lấp lửng hai mặt (ambivalence)… Thế giới đồ vật cũng là xã hội con người.” [xem Đỗ Lai Thúy. 2004. Lê Thánh Tông - nhà nho - hoàng đế - thi nhân. Nxb Giáo dục. H. tr.665. 9. Nguyễn Phan Cảnh. (tb 2001). Ngôn ngữ thơ. Nxb. Văn hóa Thông tin. H. tr.57. 10. John K. Whitmore.1992. Hội Tao đàn- thơ ca, vũ trụ và thể chế nhà nước thời Hồng Đức (Vietnamese Poetry and History). Trần Hải Yến dịch, Tc Văn học, số 05.1996; tb.2007. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. H. tr.402. 11. John K. Whitmore.tb2007. bdd. tr.408. 12. Bùi Duy Tân. 2007. Cảm hứng dân tộc- cảm hứng nhân văn qua thơ Nôm vịnh sử của Lê Thánh Tông. Trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. Hà Nội. tr.606-607. 13. Bùi Duy Tân. 2007. sdd. tr.608. 14. Bùi Duy Tân. 2007. sdd. tr.607. 15. Yves Lacoste. 1982. Lời tựa Anthologie de la Litérature Populaire du Vietnam, L’Harmatan, Paris. [Chuyển dẫn theo Đặng Thanh Lê. 2007. Về giai đoạn khai sáng thơ Nôm Đường luật: cảm hứng lịch sử qua thơ Lê Thánh Tông. Trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục. Hà Nội. tr.600.] 16. Theo như chúng tôi biết thì người đầu tiên định danh cho chất giọng của Lê Thánh Tông là Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên. 17. “Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu (tr.277-278) từng đặt giả thiết rằng tác phẩm này có thể có từ đời Trần. Vì theo sử liệu cũ (Việt sử thông giám cương mục) thì năm 1306, vua Trần Anh Tông đem Huyền Trân Công chúa gả cho vua Chiêm Thành, khiến cho các văn nhân đương thời bất bình, đã mượn chuyện vua nhà Hán gả Vương Chiêu Quân cho chúa Hung Nô để làm thơ chỉ trích sự việc đó” [theo Kiều Thu Hoạch. 1993. Truyện Nôm - nguồn gốc và bản chất thể loại. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.99] Tuy nhiên, tác giả Kiều Thu Hoạch cho rằng Truyện Chiêu Quân cống Hồ có lẽ thuộc vào thế kỷ XVI-XVII, cùng với ba tác phẩm truyện thơ Nôm Đường luật khác là Tô Công phụng sứ, Lâm tuyền kỳ ngộ và Tam quốc thi [xem Kiều Thu Hoạch. 1993. sdd. tr.98]. Tạm thời, chúng tôi chưa đề cập đến vấn đề văn bản học của Hồng Đức quốc âm thi tập. Nhưng ít nhất, người sao chép hai truyện thơ trên hẳn có lý do để coi đây là hai tác phẩm của thời Hồng Đức. Lý do ấy là gì thì chúng tôi xin được để lại dịp khác sẽ tiếp tục nghiên cứu. 18. Nguyễn Phạm Hùng dè dặt coi đây như là “những mầm mống của truyện thơ Nôm sau này.” [Nguyễn Phạm Hùng. 2007. Mấy nhận xét về nghệ thuật thơ Nôm trong Hồng Đức quốc âm thi tập. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. Hà Nội. tr.643] 19. Đây cũng là một thông tin khá thú vị để nghiên cứu về một hiện tượng phổ biến của các loại hình nghệ thuật dân gian khác như hát cửa đình, quan họ, ca trù,...vốn là những nghệ thuật được truyền bá từ cung đình ra dân gian. Và kết quả ấy dường như chống lại “đại tự sự” về mô hình: dân gian ảnh hưởng đến bác học, đã trở thành chân lý trong học giới bao lâu nay. 20. Bùi Duy Tân. 2007. Lễ Vu Lan- tiết trung nguyên và hai bài văn tế cô hồn thời cổ. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. Hà Nội. tr.667-678. 21. Lê Thánh Tông. 2007. bdd. Tr.672. 22. Thanh Lãng. 1973.Văn học Việt Nam (II), Thế hệ dấn thân yêu đời. Nxb Phong trào Văn hóa.tr.153-192. 23. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Nguyễn Thuyên từng làm một bài văn tế ca sấu. Có người cho đó là bài văn tế bằng chữ Nôm. Thực ra, ĐVSKTT ghi sự kiện bài văn tế và tài thơ quốc âm của Nguyễn Thuyên ở hai mục khác nhau. 24. Viện Văn học. 1984. Từ điển văn học (bộ cũ, Tập 2). Nxb KHXH. H. 25. Vũ Thanh. 1998. Thánh Tông di thảo - bước đột khởi trong tiến trình phát triển của thể loại truyện ngắn Việt Nam. Hoàng đế Lê Thánh Tông - Nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn.sdd. tr.421-435. 26. Vũ Thanh.1998. bdd.tr.427. 27. Vũ Thanh.1998. bdd.tr.428. 28. Vũ Thanh.1998. bdd.tr.435
-
Khảo về văn hiến Đại Việt qua trường hợp Hoàng đế Lê Thánh Tông Tiasang 08:56-31/01/2012 Kỳ 2: Thư tịch thời Lê Thánh Tông Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển Trần Trọng Dương Nằm trong hoạt động kiến tạo văn hiến, Lê Thánh Tông là một trong những vị vua có nhiều trước thuật có giá trị, ông đã sai Nho thần biên soạn nhiều bộ sách mang tính học thuật, có ý nghĩa thiết lập những giá trị mới có khuynh hướng Nho hóa về nhiều phương diện như lịch sử, chế độ, pháp luật, dân tục, ngôn ngữ, văn hóa, văn học... Các sách trước tác của Lê Thánh Tông Về các tập thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông có các tập: * Minh Lương cẩm tú 明 良 錦 繡, * Quỳnh Uyển cửu ca 瓊 苑 九 歌, * Chinh Tây kỷ hành 征 西 紀 行, * Cổ Tâm bách vịnh 古 心 百 詠, * Châu cơ thắng thưởng 珠 璣 勝 賞, * Văn minh cổ xúy 文 明 鼓 吹, * Anh hoa hiếu trị 英 華 孝 治, * Cổ kim cung từ thi tập 古 今 宮 詞 詩 集, * Xuân vân thi tập 春 雲 詩 集. Trong đó, ba tập cuối hiện đã mất. Minh lương cẩm tú 明 良 錦 繡 gồm 18 bài, phần đa vịnh các cửa biển từ cửa Thần Phù đến Hải Vân quan. Đại Việt thông sử 大越通史 của Lê Quý Đôn ghi nhận, tập thơ do từ thần biên tập thơ ngự chế và các bài do bề tôi họa lại1. Quỳnh Uyển cửu ca 瓊 苑 九 歌 là tập thơ do vua tôi xướng họa nhân dịp hai năm liền được mùa theo chín chủ đề: 1. Phong niên (được mùa), 2. Quân đạo (đạo làm vua), 3. Thần tiết (tiết làm bề tôi), 4. Minh lương (vua sáng tôi hiền), 5. Anh hiền (các bậc anh tài hiền triết), 6. Kỳ khí (khí lạ), 7. Thảo tự (chữ Thảo), 8. Văn nhân, 9. Mai hoa. Tập thơ còn 1 bài tựa của Lê Thánh Tông và bài bạt của Đào Cử. Chinh tây kỷ hành 征西紀行 là tập thơ nhật ký theo lộ trình tiến đánh Chiêm Thành từ năm 1470 đến 1471, gồm ba mươi bài. Cổ tâm bách vịnh 古心百詠 là tập thơ “họa thơ vịnh sử của nhà Nho đời Minh là Tiên Tử Nghĩa. Các từ thần là Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận phụng bình. Thơ đều làm theo thể ngũ ngôn tuyệt cú.”2Châu cơ thắng thưởng 珠 璣勝賞 như tên của nó là những vần thơ châu ngọc được viết khi du ngoạn cảnh núi sông danh thắng của đất nước, như chùa Sài Sơn, núi Chiếu Bạch, động Long Quang,... gồm 20 bài. Văn minh cổ xúy 文明鼓吹 là tập thơ Lê Thánh Tông cùng các hoàng tử và triều thần viết3 nhân dịp về bái yết sơn lăng, viếng thăm lăng mộ hoàng tộc để tỏ lòng hiếu kính tổ tiên, cầu cho quốc thái dân an. Xuân vân thi tập 春雲詩集 là một tuyển tập các tác phẩm thơ của Lê Thánh Tông, không biết có phải được tập hợp ngay khi tác giả còn sống hay không. Nhưng theo Phan Huy Chú khen thì tập thơ này “bài nào cũng có khí khái mạnh mẽ, lời ý bay bướm.”4 Ba tập thơ sau cùng đến nay đã không còn. Tuy nhiên, qua nhiều cổ thư khác như Đại Việt sử ký toàn thư, Toàn Việt thi lục, Thiên Nam dư hạ tập, Hoàng Việt thi tuyển,... thì Lê Thánh Tông còn khoảng 150 bài không thuộc các tập thơ trên. Số lượng tác phẩm thi văn của Lê Thánh Tông thực tế có thể còn nhiều hơn, nhưng còn lại đến nay chỉ có khoảng 350 bài5. Văn chữ Hán Lê Thánh Tông còn để lại khá phong phú với khoảng hơn 40 sắc phong, chỉ dụ. Nhất là tập truyện Thánh Tông di thảo 聖宗遺草 với gần 20 truyện ngắn. Ngoài thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông còn có khá nhiều thơ Nôm, tập trung chủ yếu trong Hồng Đức quốc âm thi tập 洪 德國音詩集. Hiện vẫn chưa có con số thống kê chính xác các bài thơ Nôm của ông. Nhưng bài văn Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn 十戒孤魂國語文 có thể coi là bài văn biền ngẫu có giá trị bậc nhất của thế kỷ XV. Các sách thời Hồng Đức Là một mẫu điển hình nhất của người hành đạo nhập thế, Lê Thánh Tông hơn ai hết ý thức được việc phải biên soạn lịch sử với tư cách là những công cụ để nối liền đạo thống. Bộ Đại Việt sử ký toàn thư có thể coi là một sản phẩm của Nho học thế kỷ XV. Bộ sách này do sử quan Ngô Sĩ Liên biên soạn theo chỉ dụ của Lê Thánh Tông năm 1479. Để biên soạn được bộ sử này, hoàng đế đã nhiều lần xuống chiếu sưu tầm tư liệu, sách vở và dã sử dân gian. Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn có chép về việc này như sau: “Hồi đầu Quang Thuận, hạ chiếu tìm tòi các dã sử, thu thập những truyện ký cổ kim còn chứa ở tư gia, hạ lệnh cho đem dâng lên tất cả. Khoảng năm Hồng Đức, nhà vua lại hạ chiếu cầu những sách còn sót, lại đem chứa cất ở bí các. Trong dịp này, có người đem dâng những sách lạ, sách bí truyền, đều được khen thưởng nhiều.”6 Có thể coi, đây là những hoạt động xây dựng kho tư liệu sử liệu dân tộc đầu tiên sau thời thuộc Minh. Từ kho sử liệu này, Ngô Sĩ Liên đã biên soạn nên cuốn sử ký của triều đại mình. Cụ thể là, ông đã dựa vào truyền thuyết và các dã sử để biên soạn phần Ngoại kỷ - đây cũng là lần đầu tiên lịch sử của Đại Việt được kéo dài thêm 2000 năm từ đời Hồng Bàng đến nhà Thục Triệu, đến nhà Ngô. Ở các phần Bản kỷ (10 quyển, từ nhà Đinh đến Lê Thái Tổ), Ngô Sĩ Liên dựa vào hai bộ chính sử có trước đó là Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Sử ký tục biên của Phan Phu Tiên rồi tiếp tục bổ sung sử liệu mới, phê phán đúng sai, sửa sang chau chuốt lời văn cũng như thêm phần lời bàn. Bộ sách được viết theo thể thức biên niên, gồm 15 quyển. Đây là bộ sử quan phương còn lại đến nay, được coi là bộ sử có giá trị nhất, có quy mô hệ thống nhất theo quan điểm thời bấy giờ. Thiên Nam dư hạ tập 天南餘暇集 là bộ sách lớn nhất do Lê Thánh Tông chủ biên sai các văn thần như Đỗ Nhuận 杜 潤, Nguyễn Trực 阮 直 biên soạn vào năm 1483. Sách được biên soạn theo loại sách hội yếu, thông điển, gồm 100 quyển ghi chép đầy đủ các chế độ, luật lệ, văn thư, điển lệ, các giấy tờ văn thư hành chính (như chiếu, dụ, cáo, sắc...). Hiện nay, bộ sách đã tàn khuyết gần hết, chỉ còn lại 10 tập chép tay viết về các mảng quan chế, điều luật, bản đồ, sớ văn; Thơ, văn, điển lệ, điều luật, chinh chiến, quan chức, thiên văn, địa lí, lịch sử… của nhà Lê, từ Lê Thánh Tông trở về trước. Cụ thể như sau: 1. Điều luật và Quan chế (A.334/1 – 10)7; 2. Bình thi văn (A.334/2); 3.Liệt truyện, Tạp thức (A.334/3); 4.Khảo sử (A.334/4)8; 5.Thi tập; Đối liên (A.334/5); 6.Phú tập (A.334/6); 7.Thi tiền tập; Chinh tây kỉ hành; Minh lương cẩm tú và Quỳnh uyển cửu ca (A.334/7 và VHv.1313/a); 8.Chinh Chiêm Thành sự vụ; Chinh Tây kỉ hành (A.334/8); 9.Điển lệ; Phú tập (A.334/9); 10.Thiên hạ bản đồ; Quan chế (A.334/10). Ngoài ra còn thấy chép cả một số tác phẩm của Lê Thánh Tông bài Lam Sơn lương thủy phú, bài văn tế Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn. Theo đánh giá của Bùi Duy Tân: “Thiên Nam dư hạ tập là bộ tùng thư hội điển quy mô bậc nhất thời Trung đại. Sự xuất hiện của bộ sách thể hiện ý thức xây dựng điển chương chế độ cho một đất nước có văn hiến của Lê Thánh Tông và các văn thần thời Hồng Đức.”9 Ngoài ra, những năm thuộc niên hiệu Hồng Đức đời Lê Thánh Tông còn biên soạn và bàn hành hai bộ sách khác là Lê triều quan chế 黎 朝 官 制 (6 quyển, ghi Chế độ quan chức triều Lê, gồm quan tước, phẩm trật, thể lệ tuyển bổ, phong tặng, tập ấm v.v.) và Sĩ hoạn châm quy (đã mất?). Ba bộ sách về hệ thống luật pháp, điển chế trên có lẽ ít nhiều tiếp thu bộ Hình thư (6 quyển) do Nguyễn Trãi san định vào năm Đại Bảo triều Lê Thái Tông (1440-1442). Và cả bốn bộ này lại là cơ sở cho các sách hình luật được biên soạn các đời vua sau đó như Trị bình bảo phạm (1 quyển, 50 điều) đời vua Lê Tương Dực (1509-1516), Quốc triều điều luật (6 quyển) năm Cảnh Hưng thứ 30 (1769), Khám tụng điều lệ (2 quyển) năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777), Quốc triều thiện chính tập (7 quyển?), Thiện chính tục tập (8 quyển) chép chính lệnh từ sau đời Trung hưng đến năm Cảnh Hưng thứ 20 (1759). Tập bản đồ thời Hồng Đức còn lại có Hồng Đức bản đồ 洪 德 版 圖, An Nam quốc Trung đô tịnh tam thập thừa tuyên hình thế đồ thư 安南國中都並三十承宣形勢圖書, An Nam địa chí 安 南 地 輿 志, Thiên hạ bản đồ 天 下 本 圖, Toản tập Thiên Nam lộ đồ thư纂 集天南路圖書 vẽ năm Hồng Đức 21 (1490),... gồm bản đồ toàn quốc, bản đồ Trung Đô (Thăng Long) và 13 bản đồ thuộc 13 thừa tuyên (Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thuận Hóa, Quảng Nam), trong đó có ghi rõ 49 châu, 181 huyện, 53 phủ, các núi, sông, thành trì, đường sông, đường bộ, đường biển. Trong số 49 bản đồ, có 14 bản đồ đời Lê10, trong đó phần đa đều tiếp thu từ bản đồ được vẽ vào thời Hồng Đức. Nhóm thứ nhất gồm các bản đồ hình thế, dùng cho việc quản lý hành chính hoặc học tập, như Bản quốc dư đồ, Bắc Kỳ các tỉnh toàn đồ... Ở loại bản đồ này, người vẽ thường quan tâm đến các chi tiết như cương vực, ranh giới các tỉnh, phủ, huyện, sông, biển, núi, thành trì, nơi đô hội... Cuốn Hồng Đức niên lệ thể thức 洪德 年 例 體 式 là sách ghi thể thức các loại giấy tờ trình báo, cung khai, khám nghiệm, chúc thư, văn khế... và một số điều luật về bộ và hình thời Hồng Đức. Cuốn Hồng Đức thiện chính 洪 德 善 政ghi 76 điều luật của đời Hồng Đức về ruộng đất, nông tang, hôn nhân, chia gia tài, chúc thư, văn tự v. v. Cuốn Quốc triều Hồng Đức niên gian thư cung thể thức 國 朝 洪 德 年 間 諸 供 體 式 ghi thể thức lấy cung, làm giấy tờ, khám nghiệm và các điều luật về hình, hộ dưới thời Hồng Đức (1470 - 1479) như: cách xử phạt việc đánh người bị thương tích, việc người bị đánh chết sau 18 ngày, việc tranh chấp ruộng đất, việc xử vợ chồng không có con... Ngoài các thư tịch cổ nêu trên, triều Lê Thánh Tông cũng để lại số lượng lớn các di sản văn khắc, trong đó đáng kể đến các bia đề danh tiến sĩ tại Văn miếu tại Hà Nội, các văn bản thơ ma nhai, biển gỗ được in khắc ở nhiều nơi như Hòa Bình, Hải Dương, Lai Châu, Hà Tây, Quảng Ninh,... Các sắc phong cổ thời này cũng được ghi chép tản mát trong nhiều thần tích, thư tịch địa bạ, cổ chỉ, xã chí khác, và đến nay chưa có ai thực hiện việc sưu tầm thống kê toàn bộ. ====================== 1. Lê Quý Đôn. 1978. Đại Việt thông sử. Nxb KHXH. Hà Nội. tr.108. 2. Phan Huy Chú. 1961. Lịch triều hiến chương loại chí. Phần Văn tịch chí. (Đào Duy Anh hiệu đính). Nxb. Sử học. Hà Nội. tr.76. 3. Phan Huy Chú. 1961. sdd. tr.76. 4. Phan Huy Chú. 1961. sdd. tr.76. 5. Mai Xuân Hải. 2007. Lê Thánh Tông và thơ chữ Hán. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. H. tr.432. 6. Lê Quý Đôn. Sdd. 7. Các ký hiệu sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 8. Nguyễn Thanh Tùng trong bài “Về lai lịch tập II, III, IV của bộ Thiên Nam dư hạ tập (10 tập) hiện còn.” (Thông báo Hán Nôm học 2010, bản thảo sắp in) đã phát hiện ra rằng, các tập II, III, IV có khả năng là các ngụy thư do đời sau chép sách Tầu mà làm ra. Tuy nhiên, chúng tôi mới chỉ được nghe báo cáo, chưa được đọc chính văn bải viết trên, nếu có gì sai sót xin tác giả bài viết và bạn đọc lượng thứ. 9. Bùi Duy Tân. 2007. bdd. sdd.tr.33. 10. Trần Nghĩa. 1990. Bản đồ cổ Việt Nam. Tạp chí Hán Nôm, số 02/ 1990.
-
Tìm thấy tàu chở người ngoài hành tinh Đăng ngày: 12:40 PM - 03/02/2012 Một nhóm các chuyên gia Đại dương học cho biết, họ đã tìm thấy 1 con tàu ngoài hành tinh ở biển Baltic. Con tàu dài 30 feet (10 m), có gắn thêm hai vật giống hình đĩa bay và có tốc độ cực kỳ nhanh… Chiếc tàu ở Baltic do công ty Khám phá đại dương Thủy Điển tìm thấy và báo cho Liên Hiệp Quốc. Liên Hiệp quốc đã cử 1 nhóm chuyên gia để xác định tàu ngầm lạ được tìm thấy ở biển Baltic. Theo các chuyên gia thì đây có thể là con tàu từ hành tinh Gootan, chúng được đưa tới biển Baltic, một địa điểm được người từ hành tinh Gootan sử dụng như một cơ sở để giám sát con người. Con tàu dài 30 feet (10 m), có gắn thêm hai vật giống hình đĩa bay và có tốc độ cực kỳ nhanh. Thậm chí, các chuyên gia còn nhận định nó không chỉ có khả năng lặn sâu dưới biển mà còn có thể bay lên cả các vì sao. Đến nay, theo các báo cáo đã phát hiện ra 29 con tàu Gootan trong các đại dương trên toàn cầu. Điều đó khiến cho nhiều người nghĩ rằng, người ngoài hành tinh đang xâm lược loài người. theo datviet ========================= Không có người ngoài hành tinh! Tôi luôn khẳng định như vậy! Cho dù những hiện vật trên được xác thực thì nó có thể được giải thích bằng một cách khác.
-
Chị có đến ba lá số. Tôi nghĩ rất khó kiểm tra lá số nào đúng.
-
Xem xong mấy cuốn sách tôi nói đã, rồi hãy học các phương pháp ứng dụng.
-
==================================== Nợ xấu cao, nhiều ngân hàng có nguy cơ mất vốn Thứ Sáu, 03/02/2012 - 15:48 (Dân trí) - Năm 2011, trong khi một số TCTD trong nước có tỷ lệ nợ xấu cao thì khối ngân hàng nước ngoài và liên doanh hoạt động trên địa bàn lại có kết quả kinh doanh tăng gấp 4 lần, tỷ lệ nợ xấu chỉ ở mức 1,17%. Báo cáo tổng kết về tình hình hoạt động ngân hàng trên địa bàn năm 2011 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chi nhánh TPHCM có kết luận, trong năm vừa qua, tỷ lệ tổ chức tín dụng (TCTD) kinh doanh kém hiệu quả (lãi ít hoặc lỗ), nợ xấu phát sinh cao, chủ yếu là các TCTD có cho vay bất động sản với các dự án lớn và mang tính chất đầu cơ. Một số tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu cao hơn 5%, tỷ trọng nợ tại nhóm khách hàng có khả năng mất vốn chiếm tỷ lệ cao trong tổng nợ xấu. Nợ xấu gia tăng, cùng những khó khăn trong việc trả nợ vay của doanh nghiệp, của khách hàng khiến dòng luân chuyển vốn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) chậm lại, một vài NHTM có dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất (như bất động sản, giấy tờ có giá..) cao thì lại càng khó khăn hơn. Trong khi đó, huy động vốn trong những tháng gần đây có xu hướng giảm, gia tăng áp lực lên thanh khoản tại các ngân hàng này, nhu cầu vốn trong thanh toán cao, tiếp cận vốn từ các thị trường khó hơn và khó khăn thanh khoản cục bộ đã xuất hiện. Tuy nhiên, NHNN đã và đang sử dụng các công cụ quản lý kết hợp với công cụ tái cấp vốn, thị trường mở và các biện pháp khác để đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn thanh toán cho các ngân hàng, ổn định hoạt động và an toàn hệ thống. Những giải pháp trung hạn đã và đang thực hiện theo hướng sắp xếp, cơ cấu hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đủ mạnh để khắc phục tồn tại khó khăn và phát triển. Trong công văn cũng nêu rõ, ngoài rủi ro tín dụng do nợ xấu gia tăng, rủi ro kỳ hạn cũng tiềm ẩn và cần quan tâm đặc biệt. Theo đó, đại bộ phận nguồn vốn huy động hiện nay chủ yếu kỳ hạn ngắn: tiền gửi rất hoạt kỳ và biến động. Trong khi đó việc điều chỉnh dư nợ cho vay trung dài hạn cho phù hợp với cơ cấu nguồn vốn hiện nay là rất khó do thực hiện hợp đồng và do kỳ hạn nợ dài. Thực trạng này gây áp lực lên quá trình khai thác và sử dụng vốn tại các NHTM là không nhỏ, tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn, khi có biến động lớn về tiền gửi và khó khăn trong thu hồi nợ. Năm 2012, NHNN cũng lưu ý rằng, những khó khăn kinh tế vĩ mô, khó khăn từ thị trường bất động sản và khó khăn của doanh nghiệp được dự báo vẫn còn diễn biến phức tạp – điều này tiềm ẩn và chứa đựng rủi ro đối với hoạt động tín dụng ngân hàng. Vì vậy, phía NHNN cảnh báo các TCTD đặc biệt quan tâm, có giải pháp xử lý nợ xấu và quản trị rủi ro hiệu quả. Ngân hàng nước ngoài: Bức tranh tương phản! Trong khi đó, báo cáo của NHNN chi nhánh TPHCM cũng đưa ra một bức tranh tương phản về hoạt động của các NHTM nước ngoài, ngân hàng liên doanh. So với khối ngân hàng trong nước, nhóm ngân hàng này lại hoạt động hiệu quả hơn. Cạnh tranh của những ngân hàng này bằng chất lượng dịch vụ, bằng sản phẩm dịch vụ cung cấp trọn gói cho doanh nghiệp khách hàng, tư vấn tạo mối quan hệ chặt chẽ, tín nhiệm và truyền thống; quản trị kinh doanh tốt; khai thác và sử dụng vốn hợp lý, phù hợp – báo cáo nêu. Vì vậy, ngay cả trong điều kiện khó khăn như hiện nay, nhóm ngân hàng này vẫn hoạt động ổn định, tăng trưởng bền vững. So với cuối năm 2010, 10 tháng đầu năm 2011 tổng huy động vốn của nhóm ngân hàng nước ngoài tăng 19,06%; dư nợ tín dụng tăng 6,97%, kết quả kinh doanh tăng gấp 4 lần. Đặc biệt là nợ xấu nhóm này rất thấp, tỷ lệ nợ xấu chỉ là 1,17%. Bích Diệp ====================================Thép, xi măng 'khủng hoảng thừa' Cập nhật lúc :3:41 PM, 03/02/2012 (Đất Việt) Xi măng dự kiến sẽ dư thừa hàng triệu tấn, thép cũng trong tình cảnh tương tự. Tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới và cơ cấu sản xuất, liên kết sáp nhập là hai biện pháp được hai ngành này đề ra để tháo gỡ khó khăn trong 2012. Tăng trưởng thấp nhất cả giai đoạn Ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch Hiệp hội Thép VN, nhận định tình hình khó khăn của các tháng đầu quý I sẽ còn ảnh hưởng và lan sang đầu quý II. Các điều chỉnh của Nhà nước về chính sách tài chính sẽ tác động vào thời điểm cuối năm 2012. Chính phủ đặt mục tiêu GDP tăng trưởng 6% thì khả năng sản xuất và tiêu thụ thép sẽ chỉ tăng 3 – 4% so với năm 2011. Theo ông Cường, con số này không được như mong đợi của ngành là ở mức 9 – 10%. Và so với thời kỳ tăng trưởng đỉnh 2005 - 2009, mỗi năm trên 20% thì kế hoạch tăng trưởng năm 2012 của ngành thép đã giảm xuống 6 - 7 lần. Tương tự, ngành xi măng đã thấy rõ tình trạng thừa trong khi giá thành đầu vào sẽ tăng cao. Dự kiến, tổng lượng tiêu thụ năm 2012 chỉ bằng hoặc tăng 2 - 3% so với năm ngoái, xấp xỉ 50 triệu tấn. Và nếu 8 nhà máy theo quy hoạch đi vào hoạt động đúng tiến độ, lượng dư thừa có thể lên tới hàng triệu tấn. Trong khi đó, theo nhận định của các doanh nghiệp xi măng, điện đang rình rập tăng giá, rất có thể tăng luôn trong quý I, giá than cũng sẽ tăng. Giá thành xi măng sẽ phải tăng theo. Theo ông Nguyễn Văn Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam, tăng giá với xi măng dường như bất khả thi. Nên cân đối giữa tăng giá bán ra và giá thành sản xuất đầu vào để không bị thua lỗ, phá sản là bài toán rất khó. Sẽ có những thương vụ mua bán, sáp nhập của thép và xi măng trong 2012. Ảnh: Như Ý Sẽ có mua bán, sáp nhập?Theo báo cáo kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, quý IV.2011, nhiều doanh nghiệp xi măng đã thua lỗ. Điển hình là Công ty Cổ phần Xi măng Sông Đà Yaly, riêng quý IV đã lỗ 3,8 tỷ đồng. Nhận định về những khả năng xấu nhất với các doanh nghiệp ngành xi măng, ông Thiện cho rằng: “Điềm xấu phá sản thì theo tôi chưa đến trong năm 2012, nhưng có thể một số nhà máy năng lực yếu kém sẽ rơi vào tình trạng mua đi bán lại, hoặc phải sáp nhập”. Dự báo của ông Thiện, có thể vài nhà máy rơi vào tình cảnh trên. Trong cuộc cạnh tranh để tồn tại khi dư thừa công suất của hai ngành, cơ hội sẽ dành cho doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, quản trị tốt và hệ thống phân phối mạnh. Ông Phạm Chí Cường cho hay, các doanh nghiệp thép sản xuất manh mún khó tồn tại trong 2012. Nên những dây chuyền, công nghệ lạc hậu buộc phải cơ cấu lại, bán cho những nhà đầu tư có tiềm năng. Tương tự, doanh nghiệp ngành xi măng muốn tồn tại cần nhanh chóng tìm cách giảm giá thành, nâng cao năng suất, công nghệ, tiết kiệm chi phí quản lý tối đa. Tuy nhiên, theo ông Thiện, làm được điều này không phải dễ. Ngoài ra, một giải pháp hai ngành này phải đẩy mạnh là tìm kiếm thị trường mới để tăng lượng xuất khẩu. Với ngành thép, giải pháp này khả quan hơn. Dù đang phải đối mặt với vụ kiện chống bán phá giá từ thị trường Mỹ nhưng thị trường xuất khẩu hiện không bó hẹp trong khu vực mà đã sang các nước Trung Đông. Song xi măng thì vô vàn khó khăn khi sự khó khăn toàn cầu đang giống nhau và chưa có triển vọng thị trường mới. Bảo An
-
Tai nạn tăng nặng..... ========================== Xe lửa tông xe lu, 15 người chết Thứ Sáu, 03/02/2012 16:14 (NLĐO) – Ít nhất 15 người chết, 50 người bị thương khi xe lửa tông xe lu gần thủ phủ bang Guwahati, phía Đông Bắc của Ấn Độ sáng 3-2. Theo các quan chức địa phương, đoàn tàu xuất phát từ nhà ga New Bongaigaon ở Hạ Assam tới Guwahati và đâm phải chiếc xe lu làm đường tại Mirza, cách bang Guwahati 15 km vào khoảng 9 giờ 45 phút (giờ địa phương). Tài xế xe lửa thiệt mạng trong tai nạn (Ảnh: INDIA TODAY) Mặc dù các nhà chức trách thông báo số người thiệt mạng là 3, nhưng một nhân chứng khẳng định bà nhìn thấy ít nhất 15 thi thể tại hiện trường. Theo quan chức ngành đường sắt, tài xế xe lửa nằm trong số những người tử vong và ít nhất 5 toa tàu bị trật đường ray. Đài truyền hình địa phương cho biết nạn nhân được nhanh chóng đưa đến bệnh viện. Đây là tai nạn xe lửa thứ 3 trong trong mấy tháng đầu năm nay. Hôm7-1, hai người chết trong tai nạn xe lửa ở bang Tây Bengal. Và mới đây, hai xe lửa tông nhau vào ngày 11-1 khiến 5 người chết.H.Bình (Theo AP, Tân Hoa Xã)
-
Kỳ nhân Tam Đảo và bài thuốc lạ 03/02/2012 09:11:01 - Sống trong dãy Tam Đảo heo hút mấy chục năm nay, được sở hữu một bài thuốc lạ vào hàng “độc nhất vô nhị” nên “ông già hâm” Dương Văn Nghị ở xã Mỹ Yên, Đại Từ, Thái Nguyên đã giữ lại cho biết bao người đôi tay, bàn chân khi chẳng may bị gãy. Ông Nghị đang bào chế thuốc. “Ông già hâm” trên núi Một cán bộ y tế huyện Đại Từ khoe với chúng tôi, ở trên dãy Tam Đảo kia có một “ông già hâm” hay lắm! Lão này nghèo mà thật, lại giỏi về thuốc nên bao nhiêu người bị gẫy tay chân đều lên đấy cả. Nói đoạn, anh cán bộ này dẫn chúng tôi đi. Từ thị trấn Đại Từ, phải qua hàng chục cây số đường mòn vào núi mới thấy thấp thoáng vài mái nhà lấp ló sau những lùm cây cổ thụ. Một cụ bà chỉ tay bảo, nhà thầy Nghị trên lưng chừng núi kia. Đó là ngôi nhà nhỏ đơn sơ nhất quần thể dãy Tam Đảo này. Ông Nghị từ trong nhà bước ra tiếp khách, dáng người cao ráo nhưng gầy như một thanh củi khô. Giọng nói khàn đục nhưng bù lại, ông Nghị có nước da đỏ tía rất dữ dằn. Biết chúng tôi là phóng viên, ông Nghị cười khà khà bảo: “Tôi biết chắc các anh đến tìm hiểu về thuốc, tôi không giấu gì nhưng chỉ mong sao người ta đừng hiểu nhầm tôi là lang băm”. Ông Nghị lại giải thích, với phương thuốc bí truyền nên không tránh khỏi những điều thần bí và bí mật. Nhiều người thấy thế bảo ông Nghị là “ông già hâm”, lại có những người bảo ông là “thần y” xứ chè. Thậm chí, có nhóm lang vườn lên Đại Từ với ý đồ khai thác bí mật từ bài thuốc này nhưng bất thành, tức tối họ phao tin ông Nghị là “lang băm”. Mặc cho những lời thị phi, ông Nghị vẫn một lòng chữa bệnh cứu người, giúp dân nghèo vượt qua khó khăn. Truyền nhân đời thứ 3 Bên tách trà San tuyết hong sương thơm ngào ngạt, ông Nghị bằng chất giọng khàn đục trầm tư kể về cuộc đời mình. Sinh năm 1935, sau cách mạng tháng Tám, ông Nghị được cử đi học Sư phạm rồi sau đó dạy ngay tại trường huyện. Những năm giáp chiến dịch Mậu Thân 1968, ông Nghị nhận một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong ngành tình báo. Nhờ trí thông minh, lại can trường nên dù trong lòng địch, ông Nghị vẫn không hề nao núng và hoàn thành nhiệm vụ của một người tình báo. Sau nhiệm vụ quân báo đặc biệt, ông Nghị lại trở về chiến trường, trực tiếp cầm súng. Đây cũng là quãng thời gian ông Nghị áp dụng kiến thức có được về y học để cứu chữa cho đồng đội mình. Ông Nghị kể: “Có nhiều đồng chí khi bị pháo bắn vào, hoặc gẫy xương hoặc nứt ra từng mảnh, tôi đều chữa được bằng bài quốc quý”. Chiến tranh kết thúc, ông Nghị lại trở về quê hương làm nghề dạy học. Từ đó đến nay, ông ra sức chữa bệnh cho dân làng. Mấy chục năm qua, không biết bao nhiêu người đã được ông chữa khỏi. Lạ lùng và cũng thật nhất là ông Nghị không hề đòi hỏi tiền công, không tơ hào đến tiền bạc. Thậm chí, nhiều bệnh nhân nghèo ở xa sau khi chữa xong, ông Nghị còn chu cấp tiền để họ về quê an dưỡng. Bệnh nhân chữa khỏi, người thì mang đến con gà, người thì cân gạo “tạ lễ”. Đó có lẽ là niềm vui vừa là niềm an ủi cho một vị lang y tâm đức trên dãy núi mịt mùng sương khói này. Ông Nghị thành thật: “Tôi là truyền nhân đời thứ 3 của bài thuốc chữa xương lạ lùng này. Bố vợ tôi học được bài thuốc này từ một vị cán bộ tiền khởi nghĩa”. Gẫy tay trái, đắp thuốc tay phải Không chỉ gẫy tay trái, đắp thuốc tay phải mà nếu có gẫy chân phải thì lại bọc thuốc bên chân trái. Thắc mắc về cách đắp thuốc “lệch pha” như vậy, ông Nghị cười sảng khoái giải thích: “Đây cũng chính là điều mà có người nghĩ tôi là lang băm đấy. Đây cũng không phải là cách chữa mẹo mà đơn giản là một “thủ thuật” tinh xảo của cách chữa bệnh xương. Tôi đắp thuốc bên lành, nhựa và các chất của thuốc sẽ thẩm thấu qua các lỗ chân lông (tĩnh mạch) và truyền sang phía bên đau giúp vết thương mau lành hơn”. Ông Nghị cho biết, ưu điểm của bài thuốc bó xương này là thời gian phục hồi rất nhanh. Nếu gẫy tay thì chỉ 4 ngày sau là hết đau, với trẻ em 12 ngày là trở lại bình thường, người già thì 15 - 20 ngày là bình phục. Nếu gẫy chân thì chỉ một tháng là đia lại bình thường. Trong khi đó, nếu bó bột ở bệnh viện thì ít nhất cũng phải qua hai tháng. Không chỉ chữa xương chân tay, đối với các ca vỡ xương chậu, xương bả vai, xương cổ... ông Nghị đều có thể chữa khỏi trong thời gian ngắn nhất. Bình quân mỗi ngày, ông Nghị tiếp từ 4 - 6 ca đến chữa bệnh. Tuy nhiên, ông Nghị cũng khuyên bệnh nhân nên đến các cơ sở y tế, tiếp xúc với các công nghệ hiện đại để đảm bảo an toàn. Bản thân ông Nghị khi bó xương cũng thường xem qua ảnh chụp phim X-quang của bệnh nhân để chữa bệnh cho chuẩn xác. Chúng tôi tìm về nhà bà Nguyễn Thị Hoài 73 tuổi ở xóm Mới xã Yên Lãng – một người được ông Nghị bó xương. Bà Hoài kể, trong một lần sửa lại đống rơm chẳng may bị ngã từ trên xuống gãy tay phải. Ông Nghị bó xương cho gần một tháng thì khỏi. Biết gia cảnh khó khăn, ông Nghị còn biếu thêm tiền để bà bồi bổ. Cháu bà Hoài là anh Nguyễn Văn Ba hiện đang ở huyện Phú Lương bị xe chèn gãy chân trái, được ông Nghị bó xương, chỉ 4 ngày sau anh Ba không còn cảm thấy đau đớn và chỉ một tháng sau là đi lại bình thường. Bài thuốc lạ lấy từ 3 loại cây trên núi Tam Đảo. Kỵ chuyện phòng the Liếc mắt sang vợ, ông Nghị cười hóm hỉnh bảo: “Đây là bài thuốc kỵ chuyện phòng the, hôm nào đi hái thuốc là tuyệt nhiên đêm hôm trước không được ngủ với vợ”. Ông Nghị cũng không giấu giếm: “Bài thuốc bó xương gồm 3 loại cây có sẵn trên núi Tam Đảo, đó là cây phu quân (người chồng), cây phu thê (người vợ) và cây ái tử (người con). Mỗi loại cây có tác dụng riêng với vết thương. Cây phu quân có tác dụng làm xương liền lại, cây phu thê giúp phục hồi và cây ái tử giúp co giãn gân cốt và lưu thông các mạch máu. Ba loại thuốc này đều phải được hái trong buổi sáng sớm và buổi chiều muộn khi không còn ánh mặt trời. Thuốc khi được hái về phải lập tức cho vào cối giã nhuyễn đắp vào vết thương. Đến nay đã máy chục năm chữa xương, chưa bó tay trước một bệnh nhân nào, ông Nghị cũng không nhớ đã chữa cho bao nhiêu bệnh nhân. Chỉ biết rằng, sổ ghi chép bệnh nhân của ông đã sang cuốn thứ 5. Dù muốn hiến bài thuốc quý này cho y học nhưng cũng giống như bao bài thuốc Nam bí truyền khác, ông Nghị chưa dám bước qua lằn ranh của quy luật cha truyền con nối. Trần Hòa
-
Thiên tai tăng nặng.... ==================== Hơn 10.000 người mắc kẹt ở Úc do lũ 03/02/2012 11:17 (TNO) Khoảng 10.500 người đang bị cô lập và hơn 2.000 người phải sơ tán do nước lũ phía đông của Úc dâng lên tới mức cao nhất trong hơn 35 năm qua. AFP dẫn thông báo từ Sở Khẩn cấp New South Wales cho hay, lũ đã dâng lên khắp khu vực phía đông nam và phía bắc của bang sau nhiều ngày mưa liên tục. Sáng nay, nước trên sông Mehi trong thị trấn Moree vượt qua mức đỉnh được dự báo 10,6m, tương đương với đỉnh lũ năm 1976, nhấn chìm một số khu vực thấp của thị trấn, theo đài ABC News. Lũ đang hoành hành tại thị trấn Moree - Ảnh: The Australian “Chúng tôi bị mắc kẹt, giống như đang ở đảo, xung quanh toàn là nước… Chúng tôi không thể đi vào Moree, cũng không thể tiến về hướng đông”, bà Diana Smith, một người dân địa phương đang mắc kẹt tại nhà cho ABC News hay. Ông Gordon McKay, quản lý Trung tâm Cảnh báo lũ New South Wales, cảnh báo rằng đợt lũ có thể nghiêm trọng hơn do một số khu vực thuộc Moree bị ngập nặng hơn. “Nhiều ngôi nhà ở Moree đã bị ngập và một số tòa nhà thương mại cũng bị ảnh hưởng”, ông McKay cho AAP hay. Máy bay của Lực lượng không quân Úc đang chuyển hàng tiếp tế đến Moree, trong khi người dân địa phương dùng bao cát ngăn chặn nước tràn vào nhà. Nước lũ dâng cao cũng đang đe dọa hai thị trấn Roma và Mitchell của bang Queensland, theo ABC News. Giới dự báo thời tiết Úc cảnh báo mực nước sông Maranoa ở Mitchell có thể đạt mức đỉnh 9,3m trong hôm nay, vượt mức đỉnh 9,26m của trận lũ năm 1956. Trận lũ lần này xảy ra khoảng một năm sau khi trận đại hồng thủy nhấn chìm nhiều khu vực ở bang Queensland và bắc New South Wales, gây thiệt hại lớn về người và của cho Úc. Văn Khoa
-
2012: Xảy ra chiến tranh cấp quốc gia...... ====================================== TƯ LIỆU THAM KHẢO Máy báy ném bom chiến lược Mỹ tới Qatar để đối phó với Iran Thứ Sáu, 03/02/2012 - 06:58 (Dân trí) - Báo chí Iran hôm qua đưa tin Mỹ đã triển khai phi đội máy bay ném bom chiến lược đến căn cứ không quân tại Qatar ở vịnh Péc-xích “nhằm đối phó với Iran”. Israel hôm qua tuyên bố đã phát hiện kho urani của Iran có thể chế tạo 4 quả bom hạt nhân. Các phương tiện thông tin đại chúng của Iran dẫn nguồn tin trong các cơ quan quyền lực cho biết Mỹ đã triển khai phi đội máy bay ném bom chiến lược B-1B tại căn cứ không quân Al-Ubaid. Theo những bức ảnh mà các cơ quan báo chí cung cấp thì tại căn cứ không quân tại Qatar bố trí ở vịnh Ba-tư nhằm đối phó với Iran, người ta đếm được có 6 chiếc máy bay ném bom chiến lược.Theo như những bức ảnh mà báo chí Iran đăng tải, còn có nhiều loại máy bay quân sự khác, trong số đó có rất nhiều máy bay vận tải quân sự S-17, S-130, máy bay tiếp nhiên liệu RC-135 và RC-10, các máy bay trinh sát của hải quân P-3 “Orion” và máy bay phát hiện ra đa từ xa E-8. Báo chí Iran cũng dẫn lời các chuyên gia địa phương khẳng định rằng Teheran có thể tiêu diệt được căn cứ không quân này bằng tên lửa của mình ngay những giờ đầu tiên sau khi Mỹ bắt đầu tấn công. Trong khi đó, liên quan đến Iran, Israel hôm qua tuyên bố đã phát hiện kho urani của Iran có thể chế tạo 4 quả bom hạt nhân. “Iran đã xây dựng kho chứa urani nghèo với trữ lượng có thể chế tạo 4 quả bom hạt nhân”, Giám đốc cơ quan tình báo quân sự Israel Aviv Kochavi nói với Hãng tin The Jerusalem Post. Theo đánh giá của tình báo Israel, hiện Iran đang tích trữ 4 tấn urani được làm giàu 3,5% và 100kg urani 20%. Ông Kochavi cho biết, để chế tạo vũ khí hạt nhân thì số uranium này phải làm giàu lên 90%. Ông Kochavi cũng cho rằng Trung Đông đã trở thành kho vũ khí lớn nhất thế giới và các phong trào Hồi giáo Jihad quốc tế đang lợi dụng tình hình hỗn loạn tại khu vực Arập để thâm nhập vào Syria, Bán đảo Sinai (Ai Cập) và những nơi khác. Nhật Mai Theo RIA, AP
-
2012: Xảy ra chiến tranh cấp quốc gia...... ============================== TƯ LIỆU THAM KHẢO Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ: Israel sẽ tấn công Iran vào mùa xuân này Thứ Sáu, 03/02/2012 - 10:20 (Dân trí) - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tin rằng nhiều khả năng Israel sẽ tấn công Iran vào tháng 4 tới nhằm ngăn chặn Tehran phát triển bom nguyên tử, báo chí Mỹ hôm qua đưa tin. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta Tờ Washington Post là tờ báo đầu tiên đưa tin ông Pannetta lo ngại về khả năng ngày càng rõ rằng Israel sẽ tiến hành một cuộc tấn công trong vòng vài tháng tới. Hãng tin CNN của Mỹ cũng xác nhận thông tin này khi dẫn lời một quan chức cấp cao giấu tên trong chính quyền ông Obama. “Ông Panetta tin rằng có khả năng lớn Israel sẽ tấn công Iran vào tháng 4, tháng 5 hoặc tháng 6, trước khi Iran bước vào “vùng miễn dịch” như mô tả của người Israel, để bắt đầu phát triển bom nguyên tử”, phụ trách chuyên mục David Ignatius trên tờ Washington Post viết. “Người Israel lo ngại người Iran sẽ sớm tích đủ urani làm giàu ở các cơ sở nằm sâu dưới lòng đất để chế tạo bom và về mặt quân sự, chỉ có Mỹ mới có thể ngăn chặn họ,” tác giả nhận định. Song Ignatius không dẫn nguồn. Ông đưa ra nhận định khi ở Brusssels, nơi Bộ trưởng Panetta đang tham dự một cuộc họp với các bộ trưởng quốc phòng NATO. Cả Bộ trưởng Pannetta và Lầu Năm Góc đều từ chối bình luận về thông tin trên tờ Post. Israel, được xem là nước duy nhất sở hữu vũ khí hạt nhân tại Trung Đông, coi dự án làm giàu urani của Iran là mối đe dọa lớn và đã không loại trừ khả năng dùng vũ lực để ngăn chặn Tehran sở hữu vũ khí hạt nhân. Iran luôn khẳng định chương trình hạt nhân của họ chỉ mang mục đích hòa bình. Iran có khả năng chế tạo tới 4 quả bom nguyên tử Tờ Post cũng cho rằng việc hoãn một cuộc tập trận quân sự chung giữa Israel và Mỹ, được lên kế hoạch vào mùa xuân này, có thể là chỉ dấu cho khả năng sẽ sớm xảy ra một cuộc tấn công của Israel. Washington và EU đã áp đặt các biện pháp trừng phạt cứng rắn hơn với Iran trong những tuần gần đây, nhằm gây sức ép buộc Tehran cung cấp thêm thông tin về chương trình hạt nhân của nước này. Iran liên tục dọa sẽ đóng cửa tuyến đường hàng hải trên Eo biển Hormuz nếu các lệnh cấm vận ngăn chặn nước này xuất khẩu dầu thô. Trong khi đó, Washington tuyên bố việc đóng cửa Eo biển là không thể tha thứ. Người đứng đầu cơ quan tình báo quân đội Israel hôm qua ước đoán rằng Iran có thể chế tạo được tới 4 quả bom nguyên tử khi làm giàu thêm lượng urani đã được dự trữ của nước này và có thể sản xuất quả bom đầu tiên trong vòng 1 năm kể từ khi quyết định phát triển. Song trong bình luận hiếm hoi, Thiếu tướng Aviv Kochavi cho rằng khó có khả năng các biện pháp trừng phạt mạnh hơn của quốc tế sẽ thuyết phục được Tehran thay đổi chính sách hiện nay. Trong một bình luận riêng rẽ khác, Bộ trưởng Quốc phòng Israel Ehud Barak cho rằng: “nếu các biện pháp trừng phạt không đạt được mục tiêu là ngăn chương trình hạt nhân quân sự của Iran, thì sẽ cần phải xem xét tới hành động.” Phan Anh Theo Reuters
-
Tôi thấy cần phải cảnh giác với câu chuyện cho rằng: Vua Hùng Duệ Vương - Hùng Vương thứ 18 có hai con gái là Tiên Dung là chị và Ngọc Hoa là em. Tôi xác quyết rằng: không hề có chuyện này trong cổ văn lưu truyền. Mà là do bọn người với tư duy "ở trần đóng khố" đã gán ghép và viết lại sau nàỳ nhằm xuyên tạc để cố tình phủ nhận một cách vô liêm sỉ văn hóa sử truyền thống Việt. Nguyên văn sách xưa truyền lại: I . Truyện Chử Đồng Tử: Vào đầu thời Hùng Vương thứ 18. II. Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh: Vào cuối thời Hùng Vương thứ 18. Nhưng vì quan điểm vô liêm sỉ cho rằng 18 Thời Hùng Vương chỉ là 18 vị vua thì Hùng Vương thứ 18 chỉ là một người. Với quan điểm đó nên hai câu truyên được ghép lại làm một, vì thế Tiên Dung và Ngọc Hoa ở hai câu chuyện bị bọn người vô sỉ này ghép thành hai chị em. Nếu bọn người này ra mặt chứng minh điều này trên báo chí, hoặc phương tiện thông tin đại chúng thì Thiên Sứ này tài hèn xin cũng vạch mặt lũ ngu dốt này! Muốn lên tăng xông.
-
Rút lại: Định nghĩa "tri thức" và "trí thức" của tôi vẫn là đúng nhất! Hoặc chí ít nó cũng có căn bản đúng nhất! Nhìn chung các định nghĩa của quí vị ở trên chỉ nói đến những giá trị liên quan đến con người , chứ hoàn toàn không hề có một định nghĩa đúng về trí thức. Tôi lần lượt trích lại và phân tích như sau: * Trường hợp như miêu tả dưới đây là sự phân loại các dang người trong tầng lớp trí thức - căn cứ trên một chuẩn mực đạo đức xã hội - chứ không phải bản nghĩa khái niệm trí thức: * Trường hợp như miêu tả dưới đây qúa đơn giản khái niệm tri thức: * Trường hợp như miêu tả dưới đây thì khó hiểu quá? Vì thiếu yếu tố thời gian và không gian. Thí dụ: Với ngành nông nghiệp thì một giáo sư toán có hơn anh nông dân thật thà chất phác không? * Trường hợp như miêu tả dưới đây thì là người khiêm tốn đứng ngoài cuộc và chờ xem mọi người kết luận cuối cùng: "Trí thức là gì?". * Trường hợp như miêu tả dưới đây không phải là định nghĩa về bản nghĩa khái niệm trí thức mà là phản đối một nhận định về khái niệm trí thức của người khác: * Trường hợp như miêu tả dưới đây là một giá trị đạo đức có thể cần ở mọi tầng lớp người và không riêng gì trí thức. * Trường hợp như miêu tả dưới đây thì chẳng liên quan gì đến bản nghĩa khái niệm trí thức cả. Mà là người Việt nói chung: * Trường hợp như miêu tả dưới đây thì chẳng thấy khái niệm trí thức ở đâu cả mà chỉ là đặt vấn đề về định hướng vị trí của trúi thức trong xã hội. * Trường hợp như miêu tả dưới đây nói về đạo đức cần có ở một con người nói chung chứ không phải chỉ riêng trí thức. Vâng ! Không sai! Nhưng bất cứ con người nào cũng cần có phẩm chất ấy! * Trường hợp như miêu tả dưới đây là nói về phương pháp tư duy chứ không phải bản nghĩa tri thức. Cuối cùng là câu của ngài Aristotle: Ngài Aristotle đã nói rất đúng một vế: Trên Thiên Đường thì không có dân chủ và Thượng Đế nhìn thấy mọi con người đều như nhau và Ngài không thấy thiên tài ở trong những con người mà Ngài tạo ra ở trần gian. Nó cũng giống như con người nhìn thấy tất cả các con cừu trong bầy cừu đều như nhau vậy! Bởi vậy thiên thần là những thuộc hạ của Thượng Đế thì chẳng có lý do gì tham gia vào việc của con người, nếu như không có lệnh của Ngài. Còn súc vật có tham gia vào việc của con người không? Tôi nghĩ là có đấy! Một con lợn quay vàng óng trên mâm cỗ trong một nghi lễ long trọng của con người là một thí dụ về sự tham gia của súc vật. Cái nhìn của Lý học Đông phương trong các mối quan hệ xã hội là: Tất cả phải bắt đầu từ tính "chính danh". Không có tính "Chính danh" xã hội sẽ rối loạn. Vấn đề tham gia phản biện xã hội, tham gia đấu tranh xã hội....vv....thì Lý học đã có câu rất hay: "Quốc gia hưng vong. Thất phu hữu trách". Vâng! Chắc các vị trí thức đều biết câu này! Đương nhiên "Thất phu" cũng phải có trách nhiệm thì trách nhiệm của quí vị tri thức còn phải rõ hơn vì vai trò của quí vị trong xã hội.
-
Tới thăm nhà ngoại cảm được Thủ tướng tặng bằng khen Cập nhật lúc :8:02 AM, 29/01/2012 (ĐVO) Sau khi nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nghi đón nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi đến tìm gặp bà ở thôn Phương Quất, xã Lạc Long, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Rất nhiều người dân ở đây sẵn sàng kể các câu chuyện về khả năng ngoại cảm của bà Nghi, phần nhiều trong đó vẫn chưa thể lý giải bằng khoa học. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn thuật lại một phần, ngõ hầu làm tư liệu để các chuyên gia về tiềm năng con người nghiên cứu thêm. >>Thủ tướng tặng bằng khen nhà nữ ngoại cảm Tìm nhà bà Nghi cũng không khó vì bà đã quá nổi tiếng, đến huyện Kinh Môn hỏi không ai là không biết. Chuyện bà biết chữa bệnh, đến đáp ứng nhiều mong mỏi của con người, từ tìm mộ, đến xây dựng hạnh phúc, làm giàu… mọi người đều tỏ tường. Tuy nhiên, không may cho chúng tôi là đến nhà bà đúng ngày bà không tiếp khách và không được chứng kiến cảnh khách tứ phương nườm nượp tới diện kiến bà như nhiều lời đồn. Tìm đến nhà anh trưởng thôn Nguyễn Văn Cường, cách nhà bà Nghi không xa, chúng tôi mới được anh cho biết bà Nghi chỉ ở nhà từ mùng ngày mùng 1 và 15 âm lịch, còn đa phần thời gian còn lại bà lên Hà Nội làm việc tại Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA). Bà Nguyễn Thị Nghi (trái) vinh dự nhận Bằng khen của Thủ tướng. Trở lại câu chuyện, anh Cường cho biết: “Nhà bà Nghi mỗi hôm mùng 1 và hôm rằm là rất đông người từ các nơi tới nhờ bà tìm mộ, chữa bệnh, giải hạn... Không kể xe máy, có ngày phải có tới 20 chiếc ô tô sang trọng đỗ dọc từ cổng nhà bà, làm chật cứng lối đi vào làng”. Lịch làm việc của nhà ngoại cảm. Là người trước đây từng làm xây dựng cho bà Nghi, anh Cường cũng cho biết: “Bà Nghi là người dễ gần, có tấm lòng hảo tâm với làng xã. Bà vừa đóng góp xây dựng khu quần thể đình làng, giếng nước, nhà thổ thần trị giá 20 tỷ đồng”. Anh trưởng thôn cũng kể cái hồi dân trong thôn nghe tin bà Nghi có khả năng đặc biệt, ai cũng tới xem, một phần vì tò mò. Anh cũng là một trong số những người tò mò muốn đến xem thực hư ra sao. Chính tận mắt anh chứng kiến bà Nghi xem cho nhiều gia đình có người thân gặp nạn hay chữa bệnh cho nhiều người điên. Theo anh Cường được biết, hiện có 20 người ở nơi khác được chữa vẫn theo bà, còn trong thôn có hai người cũng đang được bà điều trị nhưng vẫn chưa khỏi. Trong thôn làng có nhiều người tìm được mộ nhờ sự giúp đỡ của bà Nghi. Nói xong câu chuyện, anh Cường dẫn chúng tôi sang nhà bà Nghi qua lối cổng phụ. Thực tế, cổng phụ của trong ngõ nhỏ mới là lối đi chính vào ngôi biệt thự của bà Nghi, còn cổng lớn thường khóa. Bên trong khuôn viên khá khang trang, dù bà Nghi không có nhà nhưng ở sân trước vẫn tấp nập người qua lại. Nhà bà Nghi luôn có khoảng 20 đệ tử thay phiên nhau giúp mọi việc khi bà vắng nhà. Các đệ tử của bà cho hay bà Nghi dặn khi bà không có nhà thì không được tiếp khách, nhưng thấy anh trưởng thôn dẫn chúng tôi đến nên họ cũng có vẻ thoải mái hơn. Mọi người đến cầu cúng được hướng dẫn các thủ tục rất cụ thể. Cũng theo các đệ tử của bà Nghi, trước ít khách thập phương đến thì còn được diện kiến trực tiếp bà Nghi, nhưng giờ ngày càng đông nên có muốn gặp trực tiếp bà Nghi cũng không được. Tùy vào trường hợp mới được gặp trực tiếp bà. Ông Tăng Bá Sách, người làm công việc lưu giữ và phát sổ Phúc Tâm Đức - nơi người đến cầu ghi mong ước, đã lôi ra một chồng sổ cho chúng tôi xem. Bên ngoài sổ là tên tuổi, địa chỉ và số điện thoại của người cần giúp đỡ như muốn chữa bệnh, tìm mộ, cai nghiện, muốn có con vì hiếm muộn..., bên trong là ghi nguyện vọng cần cầu xin, lời người âm. Những ai đạt được mong ước thì viết vào trang cuối quyển sổ lời cảm ơn. Thấy một số người giúp việc trong nhà bà Nghi có vẻ không hài lòng về sự xuất hiện của chúng tôi nên chúng tôi cũng xin hẹn hôm sau sẽ tới tìm hiểu thêm. Ông Tăng Bá Sách. Để nắm thêm thông tin về công việc của bà Nghi trong thôn xã, chúng tôi đã tới gặp ông Nguyễn Văn Quang, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Lạc Long. Ông Quang cho biết: “Bà Nghi là người có nhiều đóng ghóp cho địa phương. Mới đây bà đã đóng góp xây dựng một ngôi nhà tình nghĩa trị giá 70 triệu đồng và tặng 26 xuất quà cho người tàn tật trị giá 40 triệu đồng”. “Việc bà Nghi tìm được mộ liệt sĩ và góp công tu tạo các di tích văn hóa đã được công nhận và được Thủ tướng Chính phủ trao Bằng khen, còn việc bà chữa bệnh xã cũng không nắm rõ vì việc đó cũng chưa được ghi nhận. Nước ta mới chỉ cấp phép cho cơ sở y tế khám chữa bệnh và đông y gia truyền. Khả năng của bà Nghi còn phải để cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu”. Ông Nguyễn Văn Quang, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Lạc Long. Để tìm hiểm thêm về khả năng của bà Nghi, chúng tôi đã tìm đến Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người (NCTNCN) và được cung cấp một số tài liệu về khả năng của các nhà ngoại cảm, trong đó có cả bà Nguyễn Thị Nghi. Theo nhóm nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm NCTNCN, bà Nghi là một nhà ngoại cảm hội tụ nhiều khả năng đặc biệt như chữa bệnh, tìm mộ... Năm 2005, nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm NCTNCN đã có sự khảo sát bước đầu về những người có khả năng đặc biệt. Bà Nguyễn Thị Nghi là một trong những nhà ngoại cảm được khảo sát lần đó. Năm 2010, Trung tâm đi sâu nghiên cứu về khả năng của bà Nghi và bước đầu lý giải nguyên nhân. Bà Nghi hiện là cán bộ triển khai ứng dụng của Trung tâm. Theo tài liệu của Trung tâm, nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nghi đã tìm được hàng ngàn mộ liệt sĩ và giúp tìm được rất nhiều ngôi mộ tổ của các dòng họ, trong đó có những ngôi mộ hàng trăm năm. Bà Nghi đã giúp xây dựng, tôn tạo nhiều đình, chùa, miếu mạo, tôn tạo lại những di tích lịch sử thiêng liêng. Gần đây nhất, bà Nghi đã giúp khảo sát, xây dựng lại đền thờ Ngài Lý Nhật Quang, con trai Lý Thái Tổ. Bà Nghi được Bộ Văn hóa tặng Bằng khen về thành tích xây dựng, tôn tạo các công trình văn hóa lịch sử, được Bộ LĐ-TB-XH trao tặng Bằng khen vì tìm được nhiều mộ liệt sĩ... Trong tài liệu của Trung tâm còn lưu bức thư cảm ơn của ông Tạ Văn Bình, 56 tuổi, tại đường Trường Chinh, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Trong thư ông có viết: "...Một việc hết sức kỳ diệu là việc tìm mộ kỵ 9 đời của tôi. Cô chỉ ngồi ở Điện thờ, với hai đồng xu gieo xuống chiếc đĩa liên tục, cô đã vẽ sơ đồ mộ, trong tiểu mộ thế nào, sông ngòi đường xá... nơi phần mộ. Gia đình tôi đã tìm được mộ với đúng những dữ kiện mà cô miêu tả và vẽ". Để có thể bước đầu lý giải về khả năng của bà Nghi, nhóm cán bộ khoa học đã phối hợp với một số chuyên gia trong lĩnh vực đo đạc năng lượng đến khảo sát trực tiếp về phong thủy, môi trường sống của bà. Kết quả cho thấy nơi bà sống và làm việc có năng lượng rất cao. Nhóm khảo sát đã kiểm nghiệm thì thấy chỉ có một số người có đủ năng lượng mới ngồi được nơi có năng lượng cao. Tôi cũng được Trung tâm giới thiệu gặp Thư ký Hội đồng Khoa học của Trung tâm và có những trao đổi ngắn gọn về bà. Thư ký Hội đồng Khoa học (xin được giấu tên) cho biết một số thông tin về bà Nghi. Theo người Thư ký này, bà Nguyễn Thị Nghi đã thực hiện ngoại cảm 27 năm nay. Lúc đầu, công việc của bà gặp khó khăn nhưng sau được nhiều người bết đến. Bà Nguyễn Thị Nghi mới đây đã vinh dự đón nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ vì đã có nhiều công sức đóng góp cho việc tôn tạo di tích lịch sử văn hóa và tìm mộ liệt sĩ sau khi tỉnh Hải Dương đề nghị trao Bằng khen cho bà. Minh Khuê
-
Thiên tai tăng nặng...... ===================== Số người chết rét ở châu Âu tăng nhanh Thứ năm, 2/2/2012, 09:16 GMT+7 Số người chết rét ở châu Âu đã tăng lên con số 80 khi nhiệt độ tiếp tục hạ thấp kỷ lục, trong khi các hoạt động khác của người dân ở nhiều nước bị tê liệt vì băng giá. Băng giá kỷ lục ở Đông Âu, 50 người chết rét Một bé gái đi giữa những mỏm đá bị đóng băng trên biển Đen ở Romania. Ảnh: AP Tại Ukraine hôm qua, Bộ Khẩn cấp cho hay số người chết đã tăng lên 43 người, sau khi có thêm 13 người tử vong trong đêm. Hầu hết các nạn nhân là những người vô gia cư bị chết rét trên đường. Cũng có ít nhất 7 người trong số trên tử vong ngay tại nhà vì không có khả năng chịu lạnh. 720 người khác vẫn đang được điều trị tại bệnh viện vì bị hạ thân nhiệt hoặc tê cóng. Các trường học ở thủ đô Kiev đều đã đóng cửa từ hôm qua vì thời tiết quá khắc nghiệt. Việc đóng cửa trường học cũng được ghi nhận ở miền bắc Hy Lạp, nơi có nhiệt độ -16 độ C. Bộ Nội vụ Ba Lan sáng qua cũng cho biết đã có thêm 5 người được phát hiện bị chết rét chỉ trong vòng 24 giờ trước đó, đưa tổng số người thiệt mạng trong mùa đông khắc nghiệt ở Ba Lan lên 27 người. Tại phía nam thủ đô Prague của Czech, ít nhất 10 người đã tử vong trong khi số người chết vẫn tiếp tục được tăng lên ở nhiều thành phố trên khắp cả nước. Tại Romania, khi nhiệt độ thủ đô Bucharest là -22 độ C và tại vùng ngoại ô là -29 độ C, 8 người đã bị chết rét, trong đó có một em bé tử vong vì nhà không có lò sưởi. Thời tiết băng giá đã trải rộng ra đến đông Âu với hai người chết tại Đức, trong khi tuyết dày bao phủ Italy khiến giao thông tê liệt, xe tải hạng nặng bị cấm hoạt động trên đường cao tốc, các trận bóng đá trong giải Serie A đều phải tạm hoãn và các thành phố phía bắc chìm trong đợt lạnh khủng khiếp nhất trong 27 năm qua. Bosnia và Serbia phải huy động trực thăng hỗ trợ nhu yếu phẩm đến các làng bị tuyết cô lập. Khối khí lục địa lạnh giá từ Siberia dự kiến sẽ còn tiếp tục tấn công châu Âu trong những ngày tới. Cơ quan khí tượng cho biết nhiệt độ sẽ tiếp tục giảm xuống, duy trì ở dưới mức băng giá vào giữa tuần tới. Nhiệt độ thấp nhất hiện nay ở châu Âu là -30 độ C và tổng số người chết là ít nhất 80 người. Chính quyền và các tổ chức từ thiện tại các nước đã nhanh chóng thành lập các trại tạm trú và hỗ trợ thực phẩm cho những người không nhà cửa. Ukraine đã lập 1.730 điểm sưởi ấm cơ động, trong khi ở Prague, quân đội cho hay đã hoạt động cứu hộ hiện đã vượt quá khả năng cho phép, với 100 người ngủ trên sàn phòng ăn của ký túc xá. Bộ trưởng Chính sách Lao động và Xã hội Ba Lan Wladyslaw Kosiniak-Kamysz, cho biết thời tiết khắc nghiệt này đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng và kêu gọi người dân đoàn kết bằng cách giúp đỡ bất kỳ ai bị nạn. Anh Ngọc ======================== Buồn quá! Nói như ve, không ai để ý!
-
Tai nạn tăng nặng....... ==================== Tàu chìm ngoài khơi Malaysia, 8 người nhập cư lậu thiệt mạng 02/02/2012 11:53 (TNO) Giới chức Malaysia ngày 2.2 cho biết, 8 người nhập cư bất hợp pháp đã chết đuối khi chiếc tàu chở họ bị chìm ngoài khơi bờ biển phía nam nước này, hãng AP đưa tin. Malaysia là điểm quá cảnh cho những người muốn tị nạn - Ảnh: Reuters Quan chức cảnh sát biển N.Kalai Chelvan nói chiếc tàu đang trên đường tới đảo Batam của nước láng giềng Indonesia sáng 1.2 thì bị chìm do biển động. Ông cho biết chiếc tàu chở một nhóm đàn ông từ Trung Đông và Nam Á đang cố đến Úc thông qua Indonesia.Theo quan chức này, ban đầu 14 người được cho là đã chết đuối nhưng các quan chức sau đó xác nhận chỉ có 8 thi thể được vớt lên từ biển. Những nạn nhân này bao gồm 4 người Pakistan và 1 người Afghanistan, trong khi nhân thân những người còn lại chưa được xác định. 13 người Afghanistan khác và 5 người Iraq đã được cứu sống gần bờ. Các cuộc điều tra đang được tiến hành nhằm xác định bao nhiêu người còn mất tích. Ông Chelvan nói những người này được cho là đã đến Malaysia bằng đường bộ từ Thái Lan. Malaysia được xem là điểm quá cảnh cho những người từ các khu vực nghèo khổ hoặc bị chiến tranh tàn phá trên đường tìm đến Úc. Tờ The New Straits Times dẫn lời một người Afghanistan (22 tuổi) tên Sayed nói rằng, chiếc tàu dài 11 mét không đủ chỗ cho nhóm người trên, nhưng họ được trấn an rằng nó rất an toàn. “Ban đầu chuyến đi rất êm xuôi, nhưng chỉ khoảng 2 giờ sau đó, biển nổi sóng và tôi có thể nhìn thấy nước biển tràn vào tàu. Đó là lúc người lái tàu tắt động cơ và mọi người bắt đầu hoảng sợ. Bất thình lình chiếc tàu bắt đầu chìm. Tất cả chúng tôi đều nhảy xuống biển”, Sayed nói với The New Straits Times. Khang Huy
-
Xảy ra chiến tranh cấp quốc gia........ ================================= Nguy cơ chiến tranh Trung Đông Thanh Niên Online 02/02/2012 3:44 Cuộc khủng hoảng tại Syria đang có khả năng bùng phát thành một cuộc chiến toàn khu vực sau một loạt diễn biến căng thẳng. Theo dự kiến, vào hôm nay (2.2), LHQ sẽ ra quyết định về đề xuất của Liên đoàn Ả Rập (AL) kêu gọi Tổng thống Syria Bashar al-Assad từ chức để chấm dứt cuộc khủng hoảng nhiều tháng qua. Dư luận đang rất hồi hộp theo dõi kết luận của LHQ, vì theo một số nguồn tin ông al-Assad đã sẵn sàng cho một cuộc xung đột có thể vượt khỏi biên giới quốc gia nếu bị ép ra đi. Cả Trung Đông “bùng cháy” Website về thông tin tình báo DEBKAfile dẫn các nguồn từ vùng Vịnh cho hay trong một cuộc họp kín với các cố vấn vào ngày 31.1, Tổng thống al-Assad đe dọa sẽ gây chiến trong khu vực nếu LHQ thông qua đề xuất kêu gọi ông từ chức và chuyển giao quyền lực cho người phó. Theo các nguồn tin trên, lãnh đạo quân đội và tình báo Syria đã nhận lệnh sẵn sàng tấn công các nước láng giềng trong AL. Phong trào Hezbollah thân Syria ở Li Băng cũng đã có những dấu hiệu chuẩn bị về mặt quân sự. Chưa hết, đội tàu chiến Nga do tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov dẫn đầu đang đóng tại cảng Tartus dường như được đặt trong tình trạng báo động để sẵn sàng đối phó những biến cố có thể xảy ra. Cũng theo DEBKAfile, tình hình càng thêm nóng sau khi Mỹ cho tàu ngầm hạt nhân USS Annapolis và tàu khu trục USS Momsem đi qua kênh đào Suez để vào biển Đỏ cách đây 3 ngày. Hành động này được xem như cảnh báo của Mỹ để ngăn ngừa Iran can thiệp và hỗ trợ chính quyền Syria khi “có biến”. Trước đó, Tổng thống al-Assad từng đe dọa sẽ “làm cho cả Trung Đông bùng cháy” còn một người bà con của ông tuyên bố: “Nếu Syria không ổn, Israel cũng sẽ không ổn”. Thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah hồi tháng 11.2011 cũng dọa Mỹ và phương Tây rằng bất kỳ cuộc tấn công nào nhằm vào Iran và Syria sẽ bùng phát thành một cuộc chiến khu vực. Quan chức quốc phòng Syria thăm tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov của Nga - Ảnh: MSNBC Iraq nhập cuộc Nguy cơ chiến tranh khu vực càng lớn thêm khi phe đối lập Syria lôi thêm Iraq vào cuộc. Trang tin Al Bawaba dẫn lời lực lượng chống đối nói chính quyền Baghdad đã cho phép Iran dùng lãnh thổ của mình để chuyển vũ khí cho chính phủ Syria. “Iran gần đây điều các xe tải chở vũ khí đến Syria thông qua Iraq, ngụy trang thành xe chở rau quả”, một nguồn tin giấu tên cho hay. Theo Al Bawaba, phe đối lập Syria tuyên bố cho chính phủ Iraq 2 tuần để “thay đổi quan điểm”, nếu không sẽ coi họ là một phần tử trong cuộc chiến “chống nhân dân Syria”. Những diễn biến này xuất hiện vào thời điểm chính quyền tỉnh Anbar, miền tây Iraq và giáp với Syria, kêu gọi sẵn sàng ứng phó mọi biến động từ tình hình ở láng giềng. Trước đó, trang tin Grendel Report dẫn các nguồn tình báo phương Tây cho biết Iran đã chuyển giao ít nhất 3 tàu ngầm cho Syria hồi cuối năm 2011. Ngoài ra, nước này còn cung cấp các lực lượng thuộc Quân đoàn Vệ binh Cách mạng để cùng Hezbollah và các tay súng Hồi giáo dòng Shiite ở Iraq sang giúp ông al-Assad trấn áp biểu tình. Đáp lại, Tehran bác bỏ mọi cáo buộc và tuyên bố đây là đòn mới của phương Tây để chống phá mình. Trong tình hình như hiện nay ở cả Syria và Iran, vốn cũng đang căng thẳng với phương Tây, nhiều người lo ngại rằng một cuộc xung đột cấp khu vực dường như đang trở nên rõ nét hơn bao giờ hết. Trùng Quang