-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Bởi vậy, quan niệm khảo cổ là bằng chứng khoa học gần như duy nhất, hoặc duy nhất cho việc nghiên cứu lịch sử quá khứ chỉ để dành cho những kẻ có chỉ số Bo cao. Cứ hơi một tý là họ vặn vẹo: "Có di vật khảo cổ chứng minh không?". Câu trả lời của tôi là "không cần thiết!".
-
Đúng như vậy! Tuy nhiên tôi cũng cần lưu ý thêm là : Trong sách Hán thì còn một bài thơ nữa tương tự và 7 chữ cho mỗi câu , như bài của quanghung14 - lâu ngày tôi không nhớ - Nhưng tôi loại bài đó và chỉ giữ bản lưu truyền phổ biến là "Ngân đăng giá bích câu....".Tôi cũng biết rất rõ là tri thức khoa học hiện đại chưa có một tiêu chí cho sự giải mã được coi là đúng. Nên tôi không bao giờ coi sự giải mã của tôi là bằng chứng khoa học cho những luận cứ của mình. Tôi đưa những ý tưởng giải mã liên quan chỉ để thêm phần hấp dẫn. Có một lần tiến sĩ Vũ Quang Hà - trường ban biên tập của Nxb Đại học Quốc gia hỏi tôi: "Ông đưa những đoạn giải mã vào sách (Tìm về cội nguồn Kinh Dịch) làm gì?". Tôi trả lời: "Cho nó vui. Ông không thích thì có thể bỏ đi". Nhưng tôi sắp sưa xuất bản một cuốn sách toàn là giải mã....cho vui.
-
Thưa quý vị. Khái niệm "lãnh tụ" thường dùng để chỉ những nguyên thủ quốc gia. Bởi vậy, từ lâu nó gây ấn tượng cho một địa vị cao sang quyền quý. Nhưng thực ra nghĩa đen của từ này chỉ là một người, hoặc một nhóm người đứng ra khởi xướng một cái gì đó, được mọi người tin theo, ủng hộ thì gọi là lãnh tụ. Nếu xét theo nghĩa này thì ông Đạo Dừa có thể gọi là lãnh tụ của đạo Dừa. Với khái niệm này thì bác Haithiên nói đúng: Ông Nguyễn Cao Kỳ không phải là lãnh tụ quốc gia. Ông ta chỉ là người kế thừa. Tỷ như ông Đạo Dừa mất rồi, nếu ông ta có truyền nhân thì truyền nhân của ông ta không gọi được là lãnh tụ. mà chỉ có thể gọi là lãnh đạo. Cô Lancao thân mến. Cô cho rằng mình giống hệt lá số của ai đó thì tôi lưu ý rằng: Người nữ mà giống lá số người nam thì nghịch Âm Dương, nên khác hẳn. Tôi có thằng cháu ruột sinh cùng ngày tháng năm sinh với mẹ tôi - Nữ sĩ Ngân Giang. Nhưng nó bị tông xe và đang làm bảo vệ hay vài việc tạp vụ ở một cơ sở làm tượng thạch cao. Năm nay 37 tuổi vẫn chưa vợ. Do đó nếu ko giống hệt thì còn may mắn. Xem tử vi rất phức tạp, một lá số giống hệt về ngày tháng năm sinh, nhưng khác hẳn nhau. Những lá số khác nhau nhưng lại có kết thúc khác nhau. Nó còn tùy thuộc vào vẫn và phương vị theo Huyền không. Huyền không vận còn tùy thuộc vào đại vận... Nhưng cá nhân tôi thần phục các bậc cao nhân đã sáng lập môn này. Tôi rất hy vọng nếu TTNC LHDP phát triển có thể mở lớp tử vi để những cao thủ như bác Hải Thiện Hà.... truyền lại kinh nghiệm của các bác ấy cho thế hệ sau.
-
Cảm ơn Quanghung14 đã sưu tầm.Nó chẳng giúp ích gì cho tôi cả. Nhưng nó có tác dụng làm rườm rà và rối rắm thêm những ý tưởng minh chứng của tôi cho sự đổi chỗ Thủy Hỏa mà thôi. Qua việc này sẽ có một số web sẽ lu loa lên rằng: Nào là Thiên Sứ đã giải mã sai bài thơ trên; Nào là bài thơ trên bản gốc nó như quanghung14 giới thiệu...vv...và ...vv...Đại để vậy. Tôi không quan tâm. Bởi vì tôi đã nói từ lâu rồi: Tôi không bao giờ coi sự giải mã làm bằng chứng chứng minh khoa học cho luận điểm của mình. Bài thơ "Ngân đăng giá bích câu...." đã lưu truyền từ lâu trong giới Tử Vi và ai cũng biết điều này.
-
Al-Qaeda suy yếu song mối đe dọa tăng từ các chi nhánh 01/08/2012 13:15 (TNO) Cái chết của trùm khủng bố Osama bin Laden và các nhân vật quan trọng khác đã đưa mạng lưới al-Qaeda vào “con đường thoái trào”, theo tin tức Reuters dẫn một báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ được công bố hôm 31.7. Các chi nhánh al-Qaeda mới nổi là mối bận tâm hàng đầu của Mỹ - Ảnh: Reuters Báo cáo quốc gia về chống khủng bố năm 2011 của Bộ Ngoại giao Mỹ cũng đã hoan nghênh việc tiêu diệt được bin Laden, kẻ sáng lập và thủ lĩnh duy nhất của mạng lưới khủng bố này trong suốt 22 năm, đồng thời gọi đây là sự kiện “đánh dấu một năm bước ngoặt trong nỗ lực toàn cầu chống khủng bố”. Báo cáo cho biết cái chết của các nhân vật chóp bu khác như Atiya Abdul Rahman, nhân vật số hai của al-Qaeda sau khi bin Laden chết đã dồn mạng lưới này “vào con đường suy thoái, vốn sẽ rất khó phục hồi”. Tuy nhiên, nhóm khủng bố này vẫn là mối đe dọa “lâu dài và nghiêm trọng” đối với an ninh quốc gia Mỹ do có sức kháng cự quyết liệt và khả năng tiến hành các cuộc tấn công khu vực và xuyên quốc gia, báo cáo cảnh báo. Cũng theo báo cáo này, nhóm al-Qaeda tại bán đảo Ả Rập là “mối đe dọa đặc biệt nghiêm trọng”, đồng thời cho biết nhóm này đã nắm quyền kiểm soát lãnh thổ ở miền nam Yemen và đang lợi dụng tình trạng bất ổn ở nước này để đẩy mạnh các âm mưu chống lại các lợi ích trong khu vực cũng như của phương Tây. Al-Qaeda in the Islamic Maghreb, chi nhánh của al-Qaeda tại Iraq và al-Shabaab, chi nhánh tại Somalia cũng là các mối quan tâm hàng đầu của Mỹ. Huỳnh Thiềm
-
Người ta có thể chi hàng trăm triệu Dollar cho việc nghiên cứu để tìm câu trả lời" Có hay không người ngoài hành tinh". Tùy. Thiên Sứ tôi vẫn xác định rằng: Chẳng bao có 1 sinh vật nào ngoài trái Đất cả. Đơn giản là tôi không có tiền thừa để đi làm việc này! Cái thế giới này cần tranh luận để đi tìm chân lý. Họ cứ việc đi tìm . Còn tôi: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là lý thuyết thống nhất. Tự nó trả lời tôi việc này.
-
Bản đồ Trung Quốc biến không thành có 01/08/2012 3:15 Bản đồ Trung Quốc biến không thành có 01/08/2012 3:15 Học giả Đức Nibelungen Schnecke Weinstock vừa chỉ ra quá trình bản đồ Trung Quốc ngang nhiên vẽ thêm quần đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam. Mới đây, học giả Weinstock đã tóm lược công trình nghiên cứu mang tên Xem lại quá trình quy thuộc biển Đông trong những tấm bản đồ từ cuối đời Thanh đến Trung Hoa Dân quốc (phần 2) trên trang cá nhân của ông tại địa chỉ dddnibelungen.wordpress.com. Công trình này chỉ ra việc Trung Quốc tìm cách hợp pháp hóa tuyên bố chủ quyền phi lý đối với biển Đông bằng cách vẽ thêm quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc tân hưng đồ (1917) - Ảnh: dddnibelungen.wordpress.com Theo thứ tự những tấm bản đồ do ông Weinstock cung cấp, cho đến trước năm 1917 quần đảo Hoàng Sa vẫn chưa hề xuất hiện trong bản đồ Trung Quốc. Mặc dù đô đốc nhà Thanh Lý Chuẩn năm 1909 tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa nhưng giới biên vẽ bản đồ nước này vẫn không xem quần đảo này thuộc Trung Quốc. Đây cũng là nhận thức chung của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Trung Hoa dân quốc tân khu vực đồ (1917) có thêm phụ đồ ở góc dưới bên phải gom cả quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Tiếp đến, Trung Quốc tân hưng đồ 1917 cũng thể hiện rằng cực nam Trung Quốc vẫn chỉ là đảo Hải Nam. Thế nhưng, bắt đầu từ thời điểm này, Trung Hoa Dân quốc manh nha âm mưu thâu tóm biển Đông. Cụ thể, một bản đồ khác là Trung Hoa Dân quốc tân khu vực đồ (1917) quy nạp quần đảo Hoàng Sa bằng cách vẽ thêm một khung vuông phụ trong bản đồ toàn quốc. Tuy nhiên, bản đồ trên không có quần đảo Trường Sa. Tiếp đến, quần đảo Hoàng Sa tiếp tục bị Trung Quốc ngang nhiên thể hiện là điểm cực nam của nước này trong Trung Quốc địa lý các duyên đồ (1922), Trung Quốc tân hình thế đồ (1922) và Trung Hoa triết loại phân tỉnh đồ (1931), Trung Hoa dân quốc tân địa đồ (1934). Chưa dừng lại ở đó, Trung Hoa Dân quốc tiếp tục hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam bằng cách vẽ ra đường 11 đoạn ôm trọn biển Đông. Điều này được thể hiện trong phụ đồ "Vị trí các đảo Nam Hải" của "Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa dân quốc" (1948). Đến năm 1953, Bắc Kinh tạo ra một biến thể quái thai khác từ bản đồ trên để vẽ nên đường 9 đoạn (còn gọi là đường lưỡi bò) rồi ngang nhiên tuyên bố chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam. Sự thay đổi phi lý trong các bản đồ trên là bằng chứng chỉ ra quá trình Trung Quốc biến không thành có để thâu tóm các đảo trên biển Đông của Việt Nam. Lucy Nguyễn
-
Không phải chỉ gần giống mà là giống hệt trò chơi của trẻ em Việt - gọi là trò" Trồng nụ, trồng hoa". Một hành vi giải trí rất chi tiết trong cuộc sống, nhưng lại giống hệt nhau. Lịch sử Ai Cập được hiểu là cách đây 6000 năm. Vậy tại sao nó lại có thể liên hệ với một nền văn minh Việt cổ và lưu truyền đến tận bây giờ ở Việt Nam? Chính tôi hồi nhỏ cũng chơi trò này.
-
Nhật bại trận, Trung Hoa 'thừa nước đục thả câu' Cập nhật lúc :11:36 AM, 31/07/2012 Khoảng năm 1930-1933 Pháp đã hoàn tất việc thiết lập chủ quyền Việt Nam ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Động thái này đã khiến Trung Quốc như ngồi trên lửa, vì họ đang có mưu đồ xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa. Đặc biệt, việc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông thời điểm này không chỉ giữa Pháp là đại diện cho An Nam với Trung Quốc (Trung Hoa dân quốc) nữa mà với cả một nhân tố thứ ba vừa xuất hiện: Nhật Bản. Pháp kiên quyết khẳng định chủ quyền cho Việt Nam Liên tiếp những năm sau đó, để ngăn chặn nước thứ ba nhảy vào xâm chiếm cũng như chuẩn bị cho tính pháp lý quốc tế về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Pháp đã chủ động thực thi hàng loạt động thái xác định chủ quyền ở hai quần đảo này. Đối với quần đảo Hoàng Sa, để ngăn chặn mối họa xâm chiếm của chính quyền Trung Hoa dân quốc cũng như Nhật Bản, từ năm 1937 Pháp đã ủy thác cho kỹ sư trưởng Gauthier điều nghiên việc xây dựng một trạm hải đăng ở đảo nhỏ Hoàng Sa (đảo Pattle). Sau đó năm 1938-1939, theo nghị định số 3282 do toàn quyền Đông Dương Brievie ký, Pháp đã triển khai quân binh đến đảo Hoàng Sa xây dựng trạm hải đăng, trạm vô tuyến TFS và trạm khí tượng, song song đó cũng xây dựng thêm một trạm khí tượng khác trên đảo Phú Lâm. Tại cực nam biển Đông, tháng 3/1933, Pháp đã điều bốn tàu Lamalicieuse, tàu chiến Alerte, hai tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan đến Trường Sa. Sau khi đổ bộ lên các đảo ở đây, người Pháp ngay lập tức soạn thảo một văn bản, sau đó thảo ra 11 bản và thuyền trưởng của các tàu cùng bút ký. Sau đó, các văn bản này được đóng kín trong một cái chai rồi đem đến mỗi đảo ở Trường Sa gắn chặt vào một trụ ximăng xây cố định. Thủ tục xác lập chủ quyền đã được hoàn tất. Trước đó, trong bản ghi chú gửi cho Vụ châu Á đại dương, Bộ Ngoại giao Pháp đã viết: “Việc chiếm đóng quần đảo Trường Sa (Spratley) mà Pháp thực hiện trong hai năm 1931-1932 là nhân danh hoàng đế An Nam”. Đến năm 1938, Pháp tiếp tục cho xây dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm khí tượng thủy văn và một trạm vô tuyến trên đảo Ba Bình (Itu-Aba). Như vậy, tính từ năm 1930-1938, chính quyền thực dân pháp đã nhân danh An Nam (Việt Nam lúc bấy giờ) xác lập chủ quyền rõ ràng ở Hoàng Sa và Trường Sa. Người Nhật xuất hiện Nhật Bản trong khoảng thời gian từ năm 1918-1930 đã có chú ý đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở biển Đông. Song có lẽ vì còn e ngại sự hiện diện quá mạnh của người Pháp trên biển Đông nên Nhật có phần nhượng bộ. Ngày 3/7/1938, Bộ Ngoại giao Pháp công bố về việc Pháp chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa: “Do tầm quan trọng của việc chiếm lĩnh quần đảo Hoàng Sa mà vào tháng 7/1938, đại sứ của ta (Pháp) ở Tokyo nhắc lại sự sát nhập quần đảo Trường Sa trước đây vào nước Pháp”. Trạm hải đăng do Pháp xây dựng trên đảo Hoàng Sa vào những năm 1930. Ảnh tư liệu Nước Nhật đã phản ứng lại sự kiện này, họ cho rằng “từ năm 1917 người Nhật đã khai thác mỏ phốt-phát trên hòn đảo chính”. Chính vì vậy ngày 31/3/1938 Tokyo đã cáo thị với đại sứ Pháp rằng “quần đảo Hoàng Sa là đất của Nhật Bản, đã được đặt dưới luật pháp của Nhật Bản, sát nhập cai trị với lãnh thổ Đài Loan; sự chiếm đóng được bảo đảm bằng một đội cảnh sát biệt phái”.Ngày 14/7/1938, nhật báo La Croix đã khẳng định: “Cần nhắc lại rằng quần đảo Hoàng Sa là một nhóm các đảo nhỏ và đá ngầm nhô trên mặt nước có vị trí nằm ở phía nam đảo Hải Nam, đối diện với Đông Dương và vừa mới đây có một ít lính Đông Dương được gửi tới đây để bảo vệ trạm phát sóng TSF và ngọn hải đăng mà chính quyền Pháp đã xây dựng trên miền đất này, hơn nữa, đảo này thuộc về thuộc địa của chúng tôi”. Ngay sau đó Nhật Bản thay đổi thái độ, báo Le Journal ngày 21/8/1938 đã đưa tin: “Paris, 20/8/1938. Theo một công bố của Bộ Ngoại giao Pháp chiều hôm qua, Chính phủ Nhật Bản đã chấp nhận quan điểm của Pháp về việc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của quân đội Pháp. Công bố cũng nhắc lại rằng Nhật Bản đã từng tranh cãi về quyền chiếm hữu quần đảo này, một vị trí có tầm quan trọng trên tuyến đường biển giữa Trung Hoa và Đông Dương”. Tuy nhiên “giấy không gói được lửa”, do tham vọng lập đầu cầu chiến lược xâm lược Đông Nam Á, năm 1938 Nhật Bản đã nuốt lời với Pháp và xua quân chiếm đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa trong cùng năm. Năm 1939, Nhật tràn xuống Trường Sa chiếm đảo Ba Bình. Để nhanh chóng hoàn tất ý đồ xâm chiếm, ngày 31/3/1939 Nhật Bản tuyên bố kiểm soát quần đảo Trường Sa. Đến ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương. Họ bắt toàn bộ lính Pháp ở Hoàng Sa, Trường Sa làm tù binh. Nhật đầu hàng, Trung Hoa "thừa nước đục thả câu” Người Nhật chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không lâu thì phải tháo chạy do thất trận khi Thế chiến thứ 2 kết thúc vào tháng 8/1945. Phát xít Nhật đã đầu hàng vô điều kiện khối đồng minh và chính thức ký văn kiện đầu hàng, chấm dứt chiến tranh Thái Bình Dương vào mùa thu năm 1945. Sau đó Nhật rút toàn bộ quân lực ở Hoàng Sa, Trường Sa về nước. Theo tuyên ngôn Postdam (Đức), ngày 26/7/1945, quân đội Trung Hoa dân quốc giải giáp và cho hồi hương tàn quân Nhật ở miền Bắc Việt Nam (tính từ vĩ tuyến 16 trở ra), trong đó có quần đảo Hoàng sa. Quân đội Anh sẽ giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào miền Nam Việt Nam, bao gồm cả quần đảo Trường Sa. Điều này đồng nghĩa với việc quân đội của Tưởng Giới Thạch chỉ có nhiệm vụ đến giải giáp tàn quân Nhật ở Hoàng Sa và các vùng nằm trong khu vực đã được tuyên ngôn Postdam ấn định, không có quyền đến quần đảo Trường Sa. Tinh thần tuyên ngôn Postdam cũng chỉ rõ ràng việc giải giáp quân nhân không gắn liền với quyền chiếm cứ lãnh thổ, cho nên cả Trung Hoa dân quốc lẫn nước Anh đều không có chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa. Song, với ý đồ xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, chính quyền Tưởng Giới Thạch đã cho quân xuống các quần đảo này rồi tuyên bố chủ quyền. Cuối năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc đưa bốn tàu chiến do tướng Lâm Tuân dẫn đầu xuôi biển Đông để đến Hoàng Sa và Trường Sa, mà theo luận điệu hết sức vô lý là “giải giáp tàn quân Nhật”, dù thời gian giải giáp đã hết từ lâu. Manh nha xâm chiếm Hoàng Sa - Trường Sa Theo Tuổi trẻ
-
Vậy cái này phải sang bảo tàng Bắc Kinh kiếm may ra có!
-
Vậy thì nhờ người biết chữ Hán viết lại chứ làm gì có bản gốc?
-
Bài thơ gọi là gốc chỉ có 3 câu trên. Câu thứ 4 "Viêm Thủy lạc kim âu" là do tôi thêm vào, cho đúng với khổ thơ "Ngũ ngôn tứ tuyệt".Xem: "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp". Nguyễn Vũ Tuấn Anh
-
Đảng đối lập Đài Loan phản đối cái gọi là “khu phòng thủ Tam Sa” Chủ nhật 29/07/2012 05:00 (GDVN) - Về cái gọi là “thành phố Tam Sa” và khu phòng thủ do Trung Quốc lập ra đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ Việt Nam, Philippines và Mỹ trong khi “Chính phủ Mã Anh Cửu một câu cũng không dám nói” Tờ Hoàn Cầu thời báo ngày 29/7 dẫn nguồn tin báo chí Đài Loan cho hay, xung quanh cái gọi là “khu phòng thủ thành phố Tam Sa” mà giới chức Trung Quốc vừa tuyên bố thành lập (phi lý, phi pháp, vô hiệu – PV) trên biển Đông, đảng Dân Tiến đối lập tại Đài Loan yêu cầu chính quyền ông Mã Anh Cửu phải lên tiếng bác bỏ. Người phát ngôn đảng Dân Tiến đối lập tại Đài Loan, Lâm Tuấn Hiến Người phát ngôn đảng Dân Tiến ở Đài Loan, Lâm Tuấn Hiến cho rằng, phạm vi hoạt động của cái gọi là “khu phòng thủ thành phố Tam Sa” do Trung Quốc vẽ ra bao trùm cả đảo Ba Bình trong quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam bị Đài Loan chiếm đóng trái phép). Lâm Tuấn Hiến chỉ trích nội các Mã Anh Cửu, về cái gọi là “thành phố Tam Sa” và khu phòng thủ do Trung Quốc lập ra đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ Việt Nam, Philippines và Mỹ trong khi “Chính phủ Mã Anh Cửu một câu cũng không dám nói”. Theo Lâm Tuấn Hiến, nếu như giới cầm quyền Đài Loan không lên tiếng bác bỏ cái gọi là “khu phòng thủ thành phố Tam Sa” sẽ rất dễ khiến cộng đồng quốc tế hiểu lầm là Đài Loan thống nhất với lập trường của Trung Quốc và vô hình chung đánh mất "chủ quyền" với biển Đông trên danh nghĩa về tay Trung Quốc. Đài Loan chiếm đóng và cắm mốc trái phép trên đảo Ba Bình nằm trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam Đảng Dân Tiến kêu gọi Đài Loan cần cùng các nước trên thế giới tham gia vào việc hoạch định các chuẩn mực quốc tế đối với khu vực biển Đông và giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình. Đài Loan hiện là 1 bên trong số 5 nước, 6 bên có tranh chấp và tuyên bố chủ quyền trên biển Đông. Tuy nhiên do nguyên nhân chính trị trong quan hệ với Bắc Kinh, xưa nay chưa bao giờ Đài Loan được tham gia các hoạt động đàm phán, giải quyết tranh chấp hay đối thoại chính thức với các bên liên quan do lực cản từ phía Bắc Kinh. Hồng Thủy ========================Nói ngọng thì sao mà nói! Tuyến phòng thủ gồm các đồng minh của Hoa kỳ trên biển Đông sẽ đứt làm đôi nếu Đài Loan bắt tay với Trung Quốc bắt đầu từ biển Đông. Việc Đài Loan hợp tác với Trung Quốc ở Biển Đông chiếm lãnh thổ của Việt Nam chỉ làm cho Hoa Kỳ cần phải dứt khoát hơn với những mưu đồ bành trướng của Trung Quốc.
-
Thiên tai tăng nặng....... ===================== Philippines: hàng vạn người di dời vì bão nhiệt đới Thứ Hai, 30/07/2012, 16:20 (GMT+7) TTO - Ít nhất 3 người thiệt mạng và hàng chục ngàn người phải di dời khi bão nhiệt đới Gener gây ra mưa to và gió lớn tại vùng Luzon và quần đảo Visayas của Philippines, theo nhật báo PhilStar ngày 30-7. Mưa lớn gây ngập ở thành phố Navotas thuộc vùng đô thị Manila - Ảnh: Reuters Bão Gener không đổ bộ trực tiếp vào Philippines nhưng gây ra mưa lớn trên diện rộng. Mưa như trút nước và gió mạnh đã bắt đầu từ hôm qua. Thủ đô Manila là khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Bản tin trưa 30-7 của Hội đồng quản lý và giảm thiểu thiên tai quốc gia (NDRRMC) cho biết hơn 28.600 người sống tại bảy tỉnh ở miền bắc và trung Philippines bị ảnh hưởng bởi cơn bão. Tại thủ đô Manila có gần 13.000 người đã được sơ tán. Theo NDRRMC, lượng nước mưa ở nhiều nơi trên miền bắc và trung Philippines đạt tới 20mm/giờ. Cho đến 10g sáng nay (giờ địa phương), sức gió của cơn bão là 105km/giờ, có lúc lên tới 135 km/giờ. Cơn bão di chuyển về hướng tây bắc. Trường học và tất cả cơ quan nhà nước ở vùng đô thị Manila (gồm thủ đô và các thành phố xung quanh) được chính phủ cho phép tạm ngưng hoạt động vì bão, ngoại trừ những cơ quan và nhân viên liên quan đến hoạt động cứu hộ. Thuyền đánh cá và những tàu nhỏ được khuyến cáo không nên ra khơi ở miền trung và nam Luzon, Visayas và bờ biển phía đông của vùng Mindanao do hiệu ứng kết hợp của bão Gener và gió mùa tây nam. Cơ quan khí quyển, địa lý và thiên văn Philippines (PAGASA) cho biết cơn bão Gener sẽ vẫn còn gây ra mưa to ở miền bắc Philippines cho đến tận giữa tuần này. Bão Gener đang di chuyển chậm, tiến về Đài Loan (Trung Quốc). PAGASA cảnh báo người dân sống ở những vùng thấp và khu vực miền núi phải hết sức đề phòng lũ quét và lở đất trong những ngày tới. TẤN KHOA (PhilStar, GMA) ========================= Trong vòng 4 ngày nữa, cơn bão này sẽ mạnh lên trở thành siêu bão đầu tiên của năm nay.
-
Ấn Độ: Cháy tàu, 32 người thiệt mạng Thứ Hai, 30/07/2012 - 11:15 (Dân trí) - 32 người đã thiệt mạng trong vụ hỏa hoạn trên chuyến tàu hướng tới thành phố Chennai, miền nam Ấn Độ vào sáng sớm nay, một quan chức địa phương cho biết. “32 thi thể đã được đưa ra từ con tàu”, Madhusudan Sarma, một quan chức chính quyền quận Nellore cho hay. Trước đó người phát ngôn Bộ đường sắt Chandralekha Mukherjee cho biết, “cho tới nay chúng tôi đã xác nhận được người chết, nhưng chúng tôi sợ con số này sẽ tăng lên nhiều. Nhân viên cứu hộ hiện đang tìm cách vào bên trong tàu để đưa người bên trong ra”. Vụ hỏa hoạn xảy ra trên chuyến tàu đường dài đi từ New Delhi tới thành phố miền nam Chennai vào đầu giờ sáng nay, gần thành phố Nellore ở bang Andhra Pradesh.” “Chúng tôi vẫn chưa thể xác định nguyên nhân của vụ cháy. Có thể là do chập điện hoặc do ai đó mang vật liệu dễ cháy lên tàu”, Mukherjee cho biết. Đài truyền hình NDTV dẫn lời một quan chức đường sắt địa phương cho biết 25 người đã thiệt mạng và rất nhiều người khác bị thương. Người này cũng cho biết nguyên nhân vụ hỏa hoạn nhiều khả năng là do chập điện. Vũ Quý Theo AFP
-
VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG Tiếp theo BIỂN ĐÔNG VÀ TƯƠNG LAI CỦA THẾ GIỚI Chẳng phải ngẫu nhiên, người Trung Quốc quay ra đồng minh với Hoa Kỳ và góp phần vào việc làm tan rã khối Xô Viết. Chuyện này thì cả thế giới biết rồi, Thiên Sứ tôi nhắc lại chỉ gọi là cho nó mượt câu văn, dễ mở bài mà thôi. Nhưng vấn đề là tại sao Bắc Kinh lại trở cờ với một người đồng minh của mình như vậy? Tất nhiên ngoài những lý do mà tôi đã nói ở trên – thực chất nó chỉ là cái cớ - nguyên nhân chính cũng là: Bá chủ thế giới, hoặc chí ít cũng là bá chủ một phần thế giới. Chúng ta quay trở lại những năm 60 của thế kỷ trước. Lúc ấy nhân loại chưa có khái niệm “hội nhập toàn cầu”và thế giới lúc ấy chia làm hai phe rõ rệt là Liên Xô và Hoa Kỳ. Ngoài ra còn một bộ phận lớn các quốc gia trên thế giới, được gọi là thế giới thứ III, hay còn có tên khác là “Các quốc gia không liên kết”. Một cái thế giới ba dọi. nửa nạc, nửa mỡ và một chút lùng bùng. Trong cái thế giới ấy, người Trung Quốc đã tự cho mình là một quốc gia bảo trợ cho phần còn lại của nó. Hay nói chính xác hơn là họ có tham vọng làm bá chủ thế giới thứ III. Họ đã tổ chức ít nhất một cuộc gặp gỡ các nguyên thủ của những “quốc gia không liên kết” ở Bắc Kinh – nếu tôi nhớ không nhầm thì nó vào khoảng năm 64 đến năm 67 ở thế kỷ trước. Hay nói rõ hơn, họ đã có mưu đồ bá chủ một phần thế giới. Một lần nữa tôi xin lưu ý quý vị rằng: Vào thời điểm đó nhân loại không có khái niệm hội nhập toàn cầu. Bởi vậy, việc bá chủ một phần thế giới không phải không quan trọng. Đây mới chính là nguyên nhân sâu xa để Bắc Kinh liên kết với Hoa Kỳ và gọi là góp phần vào việc xóa bớt một cực trong thế giới hai cực rưỡi mờ mịt đó vào những năm 60 của thế kỷ trước - với hy vọng liên minh này thì sau khi thành công họ sẽ là bá chủ cái thế giới thứ III khốn khổ còn lại. Tất nhiên Hoa Kỳ ủng hộ nhiệt liệt việc Trung Quốc đã từ bỏ khối này với tư cách một cường quốc thứ 2 sau Liên Xô trong phe Xã hội chủ nghĩa. Hành vi này khiến toàn bộ cấu trúc địa chính trị phía nam Liên Xô thay đổi. Nhưng thật là một điều buồn khi Bắc Kinh chẳng được gì sau sự sụp đổ của Liên Xô, ngoài Ma Cao và Hồng Kông với những ưu đãi trong việc buôn bán với Hoa Kỳ, như thực tế đã chứng tỏ. Cái thế giới thứ ba ảo ấy biến mất sau Liên Xô sụp đổ. Híc! Bởi vì, cái thế giới thứ III ấy chỉ là một khái niệm ảo, khi thế giới lúc ấy chia làm hai cực và tự thực tế ấy làm xuất hiện những quốc gia không phụ thuộc hẳn vào cực nào rõ rệt. Do đó, người ta gọi nó là thế giới thứ III cho nó tiện. Cho nên khi Liên Xô sụp đổ thì thì khái niệm thế giới thứ III cũng biến mất. Thành kính phân ưu. Tất nhiên Hoa Kỳ nghiễm nhiên mần cái bá chủ thế giới và nó chưa được Trung Quốc công nhận. Đó cũng là lý do mà Trung Quốc sau đó hậm hực đòi chia đôi Thái Bình Dương với Hoa Kỳ , làm họ ngạc nhiên. Hi! Về phía Trung Quốc thì họ sẽ tiếp tục phát triển ảnh hưởng của họ với thế giới như thế nào thì chẳng cần phải là chuyên gia phân tích tình hình chính trị thế giới cũng nhận thấy rõ: Chung quanh họ - Bắc giáp Nga, Tây giáp Ấn Độ, Đông giáp Nhật Bản, Hàn quốc, Đài Loan. Chẳng có nước nào có vẻ ngon ăn để đem nấu mỳ vằn thắn được cả. Chỉ còn có những nước nhỏ bé xinh xinh ở phía Nam mà trước đây các triều đại phong kiến Trung Hoa trịnh thương gọi là Nam Man thôi. Đây là lý do mà Trung Quốc đã gây hấn ở Biển Đông với sự dựng đứng trắng trợn với cái ranh giới trên biển mà họ vẽ ra, quen gọi là “đường lưỡi bò” Nhưng – cũng như tôi đã viết ở trên – Biển Đông và những nước ở phía Nam Trung Quốc không phải là phần được chia của Trung Quốc. Mặc dù không được hân hạnh tham gia độ nhậu lịch sử ở Tử Cấm Thành uống rượu Mao Đài với lưỡi chim sẻ, nhưng tôi chắc chắn như vậy. Chẳng cần phải có “bằng chứng khoa học”, phân tích, phân teo cho mất thì giờ, mà chỉ cần nhìn thái độ của Hoa Kỳ cũng thấy rõ điều này. Khi Liên Xô sụp đổ thì ngay cả Trung Quốc cũng chỉ là một bộ phận của thế giới mà Hoa Kỳ tự coi mình là bá chủ. Huống chi là tất cả các quốc gia Đông Nam Á. Hành vi dự kiến xóa sổ Liên Hiệp Quốc ngay sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991 - mà Trung Quốc được coi là một thành viên sáng lập - đã chứng tỏ điều này.Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã kịp nhận ra rằng: Tuy họ trở thành siêu cường số 1 hành tinh và tạm thời không có đối thủ; nhưng chưa phải là bá chủ thế giới một cách chính danh. Cái trật tự thế giới này vẫn còn lộn xộn, chẳng phải quốc gia nào cũng sẵn sàng đi theo cái gậy chỉ huy của Hoa Kỳ. Bởi vậy, Hoa Kỳ cần có thời gian dọn dẹp cái thế giới hậu Xô Viết này. Đó là lý do mà họ chưa muốn xóa sổ Liên Hiệp quốc ngay vào lúc bấy giờ. Và đây cũng là lúc mà Bắc Kinh gọi là "Ẩn mình chờ thời". Họ chưa đủ tiềm lực để đối đầu với Hoa Kỳ. Ẩn mình chờ thời và sự nôn nóng của Trung Quốc. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc chưa phải là một cường quốc có hạng như ngày nay. Bởi vậy, quan niệm "Ẩn mình chờ thời" lúc ấy cũng chỉ tương tự như "nho còn xanh lắm" mà thôi. Không ẩn thì cũng chẳng làm gì được ai. Nhưng đó là chuyện 20 năm trước. Gần đây, nhờ những ưu đãi trong việc buôn bán với Hoa Kỳ họ đã trở nên giàu có. Kèm theo đó tất nhiên là sự phát triển của khoa học kỹ thuật cố gắng theo kịp các nước tiên tiến. Cũng tên lửa vũ trụ, cũng đưa người lên quỹ đạo và có cả cái tàu sân bay ve chai Thi Lang nữa mới ghê chứ! Nhưng - tôi không biết với cái nhìn khác thì thế nào - chứ với tôi nếu chỉ có từng ấy thì chưa phải là điều đáng quan tâm, để tôi phải đăng lại trên web lyhocdongphuong.org.vn. Việc đưa người lên quỹ đạo trái Đất thì mấy Cty tư nhân cũng quảng cáo rầm rầm cho những tour du lịch vũ trụ; tàu sân bay thì từ những năm Bảo Đại ở truồng theo đúng nghĩa đen, người ta đã đóng những cái tàu còn to hơn. Các vị cứ để ý mà xem, tôi chưa bao giờ đăng những tin về "tiến bộ khoa học" của Trung Quốc lên trang web này cả. Nhưng với người Trung Quốc thì quả là quan trọng so với những năm 50 định đem thuyền buồm ra tấn công Đài Loan. Và họ cứ tưởng thời cơ của họ đã đến. Nếu như trước đây. tiềm lực của Trung Quốc yếu hơn nhiều so với bây giờ , mà họ đã làm mình làm mẩy với các nước lân bang, thì bây giờ với tư cách là siêu cường thứ 2 trên thế giới, họ cứ tưởng họ muốn làm gì thì làm. Họ mặc cả với Hoa Kỳ đòi chai hia thế giới. Và đã bị từ chối thẳng thừng chỉ bởi một vị đô đốc. Híc! Nếu như vị đô đốc đó bị cách chức thì chắc Thiên Sứ tui chẳng dám viết bài này. Nhưng may quá! Chuyện đó không xảy ra. Cùng với sự vươn lên mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc và sự phát triển khoa học kỹ thuật đó là sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tất cả các siêu cường đều lâm vào suy thoái. Lạy Chúa! Cơ hội bằng vàng! Thời cơ đã đến. Và người Trung Quốc bắt đầu thể hiện vai trò của họ. Đúng là thời cơ đã đến với họ. Nhưng cách thể hiện sự nắm bắt cơ hội này như thế nào để gây ảnh hưởng mạnh nhất với thế giới thì lại là chuyện khác. Và sai lầm lớn nhất là họ đã thể hiện sức mạnh quân sự của họ. Để đạt mục đích - bất cứ mục đích gì - đều có rất nhiều phương pháp. Việc mần bá chủ thiên hạ không nhất thiết chỉ dùng sức mạnh. Có thể nói rằng: Nếu như người Trung Quốc sử dụng những phương pháp khác tế nhị và khôn ngoan hơn thì lịch sử có thể diễn biến theo chiều hướng khác. Nhưng thật không may cho họ, họ đã sử dụng phương pháp mà tất cả mọi người đều đã biết. Họ đã gây hấn ở biển Đông làm điểm bắt đầu cho sự tiếp tục phát triển những ảnh hưởng của họ với thế giới. Khu vực này có vẻ dễ nuốt nhất so với các nước chung quanh họ. Bởi vậy, nên họ đã chứng tỏ quyết tâm rất cao và tập trung vào đây nhiều nguồn lực và sự chú ý. Thẳng thắn mà nói thì tất cả các quốc gia này hợp sức lại sẽ tạo ra một sức mạnh ngoại giao, nhưng không phải đối thủ về quân sự với Trung Quốc. Nếu như cái thế giới này ở vào thời điểm cách đây 50 năm trước thì cái thế nó đã khác. Họ có thể - có thể thôi - thực hiện được việc này. Nhưng bây giờ là thế kỷ XXI, thời thế đã thay đổi. Vấn đề sẽ không đơn giản chỉ là quyền lợi của các nước liên quan trực tiếp đến biển Đông và quyền lợi của Trung Quốc muốn phát triển. Mà là quyền lợi của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong bối cảnh Hoa Kỳ là siêu cường số I và không có đối thủ. Họ không thể để biển Đông duy nhất thuộc về Trung Quốc. Xâm chiếm biển Đông bằng vũ lực hoặc bằng sự tính toán mưu lược - nói tóm lại bằng bất cứ phương tiện nào - thì vấn đề sẽ không chỉ dừng ở xâm phạm quyền lợi của Việt Nam; Philifine...mà là dụng chạm đến quyền lợi của các siêu cường quốc tế. Đương nhiên khi họ dùng vũ lực thì họ sẽ được các siêu cường đáp lễ bằng vũ lực. Tất nhiên, cho dù biển Đông là mầm mống mà người Trung Quốc khơi mào cho một cuộc chiến. Nhưng cuộc chiến giữa họ và các siêu cường sẽ chẳng bao giờ xảy ra ở đây. Có thể nói rằng: Người Hán đã phạm sai lầm chiến lược lớn nhất trong lịch sử phát triển của đế chế Hán, tính từ sau khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở nam Dương Tử. Việc sử dụng sức mạnh của Trung Quốc sẽ khiến cho họ đối đầu với cả thế giới do Hoa Kỳ là siêu cường số 1 ở hành tinh này. Hành vi của họ đang đẩy dần chính đất nước họ vào một cuộc chiến tranh lớn có tính quyết định cho tương lai của nhân loại trên con đường hội nhập toàn cầu. Bởi vậy, chẳng phải ngẫu nhiên , tôi nhiều lần phủ nhận tất cả những lời tiên tri của những nhà tiên tri nổi tiếng rằng: "Không có chiến tranh thế giới thứ III - theo nghĩa hai phe đánh nhau. Nhưng không loại trừ một cuộc chiến tranh lớn xảy ra". Và cũng chẳng phải ngẫu nhiên tôi nhiều lần thể hiện trên diễn đàn rằng: "Quỹ thời gian còn lại - để tránh một cuộc chiến như vậy - của Trung Quốc rất ít. Họ nên dừng lại". Nhưng đến ngày hôm nay - khi tôi đang gõ những hàng chữ này, thì người Trung Quốc muốn rút lui khỏi biển Đông cũng phải rất bài bản và không dễ dàng gì. Nó đã bắt đầu quá đà. Đúng là : Ma đưa lối, quỷ đưa đường. Cớ sao tìm lối đoạn trường mà đi (*) Cuộc chiến tranh lớn - mà các nhà tiên tri cách đây nhiều thế kỷ hoặc của bà Vanga ...gọi là chiến tranh thế giới thứ III - có xảy ra hay không tùy thuộc vào hành vi của Trung Quốc và sự tỉnh táo của họ. Tương lai của thế giới thì không thay đổi - Đó là sự hội nhập toàn cầu. Nhưng để dẫn đến tương lai đó lịch sử sẽ diễn biến như thế nào? Chiến tranh hay hòa bình tùy thuộc vào những sự kiện ở biển Đông. Còn tiếp. ==================== Chú thích: * Trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cụ Nguyễn Đoàn Tuân - một chuyên gia về Thái Ất với cuốn "Thái Ất thần kinh - Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm", đã biên soạn và giải thích nội dung Truyện Kiều với góc nhìn của Lý học. Cụ xác định rằng: Truyện Kiều của Nguyễn Du chính là một tác phẩm tiên tri. Nhưng cách hành văn của cụ rất phức tạp. Rất tiếc tôi chưa có thời gian biên soan lại.
-
Thiện tai tăng nặng....... ===================== Lũ lớn khắp Triều Tiên, 90 người chết Chủ Nhật, 29/07/2012, 09:39 (GMT+7) TTO - Theo Hãng tin KCNA ngày 28-7, lũ lụt xảy ra trên khắp CHDCND Triều Tiên suốt tuần qua khiến 88 người thiệt mạng, hàng chục người bị mất nhà và nhiều vùng đất nông nghiệp bị tàn phá. Hệ thống giao thông ở CHDCND Triều Tiên bị tàn phá nặng nề vì lũ lớn - Ảnh: KCNA Một tuần ngập trong lũ lụt sau cơn bão to và những trận mưa như trút nước gây nên thiệt hại lớn về nhân mạng và vật chất, theo KCNA. Số người thiệt mạng trong bản tin ngày 28-7 tăng đáng kể so với con số chỉ tám người chết trong bản tin giữa tuần. Theo KCNA, 88 người thiệt mạng vì lũ lụt, 134 người bị thương và gần 63.000 người bị mất nhà. Thương vong lớn nhất xảy ra tại hai quận ở tỉnh Nam Pyongan. Lũ phá hủy hơn 5.000 ngôi nhà, 12.000 ngôi nhà khác vẫn còn ngập trong nước. Hơn 300 tòa nhà công - gồm nhiều trường học và cơ sở y tế, 60 nhà máy và nhiều tuyến đường lớn bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. KCNA cho biết hơn 30.000ha đất nông nghiệp “đã bị cuốn trôi và ngập băng” trong nước lũ. Đây là một thiệt hại nặng nề đối với CHDCND Triều Tiên luôn đối mặt với tình trạng thiếu hụt lương thực nghiêm trọng. Hồi tháng 11 năm ngoái, Liên Hiệp Quốc ước tính khoảng 3 triệu người dân CHDCND Triều Tiên cần viện trợ thực phẩm trong năm 2012. Trong tuần này, KCNA đưa tin 60 người dân trong vùng lũ lụt được cứu sống sau khi Chủ tịch Kim Jong Un cử trực thăng khẩn cấp đến giải cứu họ. Những người này, có cả phụ nữ và trẻ em, bị mắc kẹt trên một ngọn đồi nhỏ ở phía tây bắc đất nước sau khi một con sông tràn bờ vì mưa lớn. TẤN KHOA (KCNA, AFP)
-
Bạn yên tâm. Tôi đưa anh chính khí ra khỏi diễn đàn vì vi phạm nội quy, phá rối diễn đàn.
-
8 bản đồ cổ chứng minh Trung Quốc không có Hoàng Sa Chủ nhật, 29/7/2012, 10:23 GMT+7 Trong bản đồ cổ do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước, cực nam nước này là đảo Hải Nam. Trong khi, các bản đồ hàng hải châu Âu đều thể hiện quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. > Công bố bản đồ Hoàng Sa là của Việt Nam ra khắp thế giới/ Bản đồ cổ phương Tây khẳng định Hoàng Sa của Việt Nam Dư địa đồ đời Nguyên của Chu Tư Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách "Quản Như Đồ của La Hồng Tiên" quyển 1, thực hiện năm 1561, phần cực nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam, không có Hoàng Sa và Trường Sa. Trong "Đại Minh thống nhất chí" năm 1461, quyển đầu cũng vẽ cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam. Hoàng Minh đại thống nhất tổng đồ đời Minh, trong "Hoàng Minh chức phương địa đồ" của Trần Tổ Thụ (1635) đã vẽ phần cực Nam Trung Quốc là đảo Hải Nam. Hoàng triều phủ sảnh châu huyện toàn đồ đời Thanh, năm 1862, vẽ theo "Nội phủ địa đồ" gồm 26 mảnh mang tên "Đại Thanh kịch tỉnh toàn đồ" không có Hoàng Sa và Trường Sa. Quảng Đông tỉnh đồ trong Quảng Đông dư địa toàn đồ, do quan chức tỉnh Quảng Đông vẽ năm 1897, có lời tựa của Tổng đốc Trương Nhân Tuấn không có bất kỳ quần đảo nào ở Quảng Đông. Đại Thanh đế quốc vị trí khu hoạch đồ (năm 1909) đã vẽ phần cực Nam Trung Quốc là đảo Hải Nam. Bản đồ ghi khoảng cách các đảo gần nhất từ quần đảo Hoàng Sa đến các đảo gần đất liền (trích từ bản đồ Southeast Asia - National Geographic Society - Washington, 1968). Ngoài ra, bản đồ hàng hải châu Âu thế kỷ XV - XVI thể hiện hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Bản đồ Đông Dương của Danvilleen vẽ năm 1735 cũng thể hiện rõ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Đầu năm 2012, huyện đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng) đã phối hợp với Bảo tàng Đà Nẵng phát hành cuốn Kỷ yếu Hoàng Sa. Cuốn kỷ yếu dày hơn 200 trang gồm các phần "Hoàng Sa là của Việt Nam", "Công tác quản lý nhà nước đối với huyện Hoàng Sa", "Hoàng Sa và những nhân chứng lịch sử", "Cảm nghĩ của người Đà Nẵng về Hoàng Sa". Đặc biệt, kỷ yếu có các tư liệu lịch sử, bằng chứng chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và phần cảm nhận về Hoàng Sa của 24 nhân chứng từng đến sống và làm việc tại quần đảo này trong những thập niên 50-70 của thế kỷ XX. Nguyễn Đông
-
Nhìn chung - với những thực tế mà tôi đã tiếp xúc - thì hầu hết mọi người - kể cả những người gọi là thầy phong thủy - đều nhìn môn phong thủy như là một sự giải quyết có tính cục bộ rất đơn giản. Thí dụ ngay trong câu hỏi này chỉ là cái bề cá đặt ở đâu thì tốt. Tôi giả thiết đã chỉ cho thân chủ chỗ đặt bể cá tốt nhất rồi. Nhưng tất cả những yếu tố khác xấu thì một cái bể cá tốt cũng khó làm xoay chuyển tình thế. Và lúc đó không lẽ lại than phiền là tôi đã đặt bể cá theo TTNC LHDP rồi mà vẫn chưa tốt? Bởi vậy, nếu anh/chị muốn hỏi thì cần phải đưa cả sơ đồ căn nhà lên và nếu có luôn cả hình 3D nữa thì mới sử lý trọn vẹn được. Đôi khi có những trường hợp không thể sửa được vì nhiều nguyên nhân, chúng tôi cũng chỉ còn cách khuyên thân chủ bán nhà.
-
Màu đỏ - Hỏa - là màu của phương Nam. Màu xanh biển - Thủy - là màu của Phương Bắc. Sở hà Hán giới nghĩa là sông biên giới nước Sở - chính là sông Dương tử là địa giới của Hán tộc. Câu này thì nghĩa đen xì chẳng bóng gió gì cả. Có nghĩa là nó xác định thẳng thắn luôn: Một thời huy hoàng của Việt sử bên bờ nam Dương tử. Trong "Tìm về cội nguồn kinh Dịch" - phụ mục: Quân Tượng trên bàn cờ tướng" tôi đã xác định: Cờ tướng của Việt tộc.
-
Kính nhờ các cao thủ và anh chị em PTLV xem giúp trường hợp này. Riêng về số phận thì phải 45 trở đi mới khá được. Sửa phong thủy chỉ làm tăng định lượng, khó thay đổi định tính số phận.
-
HỒN THƠ & MẤT ĐIỆN Lệ nến năm canh nhỏ ngậm ngùi..... Nhà đèn cắt điện cảnh tối thui. Nghiêng nghiêng trăng rọi qua song cửa. Hầm hập căn phòng khiến khổ tui.
-
VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG Tiếp theo VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN. Nước Việt một thời huyền vĩ ở miền nam sông Dương Tử. Đây là điều mà các triều đại Trung Hoa trước đây không hề phản đối, kể cả chính quyền của vị lãnh tụ thiên tài, người cầm lái vĩ đại – vầng hồng đỏ rực, đỏ rực nhất trong lòng nhân dân Trung Quốc và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới - là ngài Mao Trạch Đông. Đã có một thời vào cuối những năm 50 của thế kỷ trước, trong các vỉa hè Hanoi, người ta đồn rằng: Mao Chủ Tịch có nhã ý trao lại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây cho Việt Nam, nhưng Hồ Chủ Tịch đã từ chối. Lý do để Ngài Hồ Chí Minh từ chối được giải thích rằng: Dân tộc Việt chỉ có mấy chục triệu, nếu sát nhập hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây vào Việt Nam thì dân số lên đến hàng trăm triệu và phần lớn nước Việt sẽ là dân Trung Hoa. Hầu hết những người Việt lớn tuổi hơn tôi một tý – trên 60 - ở Hanoi đều biết tin đồn này. Đấy là vào cái thời Thiên Sứ còn mặc quần giải yểm, đang chơi trò trốn tìm với mấy cô bé hàng xóm, chỉ nghe loáng thoáng người lớn nói chuyện. Một tin đồn vô thưởng vô phạt, nhưng nó có tác dụng tạo một tâm lý cho những sĩ phu Việt - vốn mặc cảm với những va chạm lịch sử giữa hai dân tộc Hoa Việt trải gần 5000 năm từ thời Hoàng Đế đánh Xuy Vưu - cảm thấy nhẹ lòng vì sự biết điều của chính quyền Trung Quốc xuất phát tình hữu nghị thật sự của một chính thể Trung Quốc mới với dân tộc Việt - chứ không phải là những triều đại phong kiến thối nát. Nghe cứ như chuyện thần thoại, nhưng không phải là bà kể cho cháu nghe trên võng tre kẽo kẹt, dưới mái nhà tranh êm đềm, mà là của các chính trị gia Trung Hoa an ủi quần chúng Việt, khỏi đau lòng vì những cuộc chiến đẫm máu trong lịch sử thăng trầm của dân Việt, khi họ muốn có một mối quan hệ chính trị với dân tộc này, trước một thế giới rộng hơn so với hàng ngàn năm trước. Chí ít tin đồn này đã gián tiếp xác nhận một lịch sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử, mà Quảng Đông, Quảng Tây chính là một bộ phận của quốc gia Văn Lang xưa. Lịch sử Việt chỉ bị xuyên tạc và từ gần 5000 năm văn hiến, xuống còn hơn hai ngàn năm lịch sử với cội nguồn – Thời Hùng Vương – tiêu biểu của nến văn hiến Việt, trở thành một liên minh 15 bộ lạc với những người dân ở trần đóng khố - Khi mà các âm mưu chính trị quốc tế nhận ra rằng: Cần phải đánh quỵ dân tộc này bằng đòn chí mạng vào chính niềm tự hào dân tộc của người Việt. Những nhà khoa học làm việc cho các cơ quan tình báo nước ngoài đã phát hiện ra rằng: Lịch sử Việt có một chỗ hổng khá quan trọng – nhưng lại chính là sức mạnh truyền thống của dân tộc này – đó là Thời Hùng Vương, cội nguồn của dân tộc Việt – chỉ nằm ở phần khuyết sử trong các bộ sử chính thống. Những nhà khoa học Việt, hoặc là bị mua chuộc, hoặc bị tác động do sự kém cỏi về khả năng tư duy, đã mắc bẫy trước những lập luận có tính logic hình thức. Mọi chuyện chỉ bắt đầu từ sau tiệc nhậu lưỡi chim sẻ với rượu Mao Đài ở Tử Cấm Thành Bắc Kinh. Đây là một đòn chí mạng, nó bắn vào hai mục tiêu cùng một lúc. Mục tiêu trước mắt và cũng là kết quả muốn có thực sự của nó là: Phá hoại tính chính thống của chế độ chính trị hiện nay ở Việt Nam. Bởi vì, do tính chất của những giá trị văn hóa sử truyền thống của một dân tộc, là điều kiện xác định sự tồn tại của dân tộc đó trong cộng đồng các dân tộc trên thế giới. Nên nó chính là điều kiện xác định tính chính thống của một tầng lớp lãnh đạo, nếu những nhà lãnh đạo dân tộc nào đó, chứng tỏ được sự bảo vệ và gìn giữ những gía trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc đó. Đây là điều kiện mặc nhiên. Điều nhìn thấy rất rõ là khi tất cả các nguyên thủ quốc gia tụ tập ở một nước nào đó, trong các hội nghị quốc tế truyền thống thì đều phải mặc y phục truyền thống của dân tộc đó. Thật là may mắn, hội nghị các nước Asean họp tại Hanoi vài năm trước đây, đã xảy ra trước khi Nguyễn Tiến Đoàn sang Đài Loan ở trần đóng khố và tuyên bố hùng hồn rằng: Đây chính là y phục truyền thống Việt. Chứ nếu không, Thiên Sứ tôi – dù trí tưởng tượng rất phong phú – cũng không thể tưởng tượng nổi, các nguyên thủ quốc gia sẽ ăn mặc như thế nào với quan niệm về y phục truyền thống Việt - như tuyên bố của Nguyễn Tiến Đoàn, vốn được “hầu hết những nhà khoa học trong nước” và “công đồng khoa học thế giới” xác định khi phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống Việt. Thật là láo xược hết sức! Vậy mà nó lại được các phương tiện truyền thông hê lên mặt báo mới đểu chứ. Hành động của Nguyễn Tiến Đoàn và việc các tờ báo đăng tải đã gián tiếp xác định rằng: Những y phục dân tộc mà lãnh đạo nhà nước Việt Nam cùng các vị nguyên thủ quốc gia đến Hanoi mặc vào lúc trước là không phản ánh thực tế. Thiên Sứ tôi không giận sôi me lên sao được. Đây chính là một đòn chí tử về văn hóa, khiến từ nay các nguyên thủ quốc gia đến Việt Nam dự hội nghị truyền thống sẽ phải suy nghĩ khi họ quan niệm về y phục truyền thống Việt sẽ như thế nào. Đây không phải là lần duy nhất người ta – cố tính hay vô ý - sử dụng văn hóa sử truyền thống Việt làm phương tiện gây ra những hậu quả xáo trộn sự ổn định xã hội của Việt Nam. Một hiệu ứng kèm theo và là một mục đích lâu dài hơn, là làm sụp đổ ý chí tự hào của dân tộc Việt, khiến dân tộc này thực sự chỉ còn là một dân tộc nhược tiểu về cả văn hóa, lịch sử lẫn sức mạnh kinh tế. Từ đó sẽ không còn là mối đe dọa tiềm năng với những tham vọng bá chủ. Đồng thời với sự xóa sổ nền văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt - Trong một điều kiện lịch sử nào đó - thì dân tộc Việt có khả năng bị xóa sổ và trở thành một dân tộc thiểu số trong một quốc gia hùng mạnh về kinh tế và chính trị. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên – Thủ Tướng Phạm Văn Đồng khẳng định rằng (Nguyên văn lời của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, có trong bài viết của Ngọc Giao chỉ trích Nguyễn Vũ Tuấn Anh – đăng trên bán Nguyệt San Kiến Thức Ngày Nay): Tôi sẽ rất tiếc, nếu không ai nhận ra được điều này. Vấn đề là: Với bất cứ một thể chế chính trị nào thì việc bảo vệ những giá trị văn hóa sử của một dân tộc, chính là chứng tỏ tính chính thống đại diện cho dân tộc của chế độ chính trị cầm quyền trong lịch sử dân tộc đó. Do đó, việc phá hoại những giá trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt, chính là một phần rất quan trọng thực sự của cái gọi là “âm mưu diễn tiến hòa bình”, nhắm vào thể chế chính trị cầm quyền. Vì mục đích này, nó đã giải thích rằng tại sao những phần tử bất mãn với thể chế cầm quyền hiện nay đã chống đối lại quan điểm của Thiên Sứ trên một số trang web. Mặc dù những luận điểm của Thiên Sứ thực sự chẳng liên quan cái con mẹ hàng sáo gì đến chính trị cả. Nhưng đấy là tầm nhìn của những nhà chính trị cơm, chuyên bàn về sai sót của những nhà lãnh đạo thế giới sau khi nó đã xảy ra, ở những quán trà bên vỉa hè Hanoi, hoặc phố đi bộ ở thủ đô Paris….. Nếu như đó là những nhà chính trị thực sự sâu sắc, họ đã ủng hộ Thiên Sứ với quan điểm minh chứng khoa học thật sự nền văn hóa sử truyền thống Việt trải 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở miến Nam sông Dương Tử. Với những thủ đoạn chính trị ở tầm quốc tế, thì những giá trị văn hóa của một dân tộc nào đó, không phải là điều được quan tâm, bởi những mục đích của nó. Nhưng riêng với dân tộc Việt thì là một ngoại lệ, ít nhất trong lúc này – khi nó được đặt vấn đề có tính xác định rằng: Dân tộc Việt là dân tộc duy nhất nắm những bí ẩn của vũ trụ trong những giá trị văn hóa truyền thống của nó. Muốn làm bá chủ thế giới thì phải có một hệ tư tưởng phù hợp, mà cái áo Tự Do – Bình đẳng – Bác ái của Tây Phương chỉ là trường hợp riêng của một lý thuyết thống nhất. Nó không đủ sức để khoác lên cả quả Địa Cầu này. Đây là một bảo bối tinh thần để các siêu cường tranh chấp ngôi bá chú phải cân nhắc khi có ý định hủy diệt văn hóa Việt. Tuy đây là một hy vọng mỏng manh, ngay cả khi nó được chú ý của dư luận - thì có thể nói chí ít nó cũng là ánh lửa của que diêm được bật lên còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối. Trong điều kiện hiện nay, khi Liên Xô đã sụp đổ. Người Việt không ngả theo một liên minh nào và những nước đồng minh chống Liên Xô trước đây, bắt đầu không vừa lòng nhau vì quyền lợi được chia phần. Mâu thuẫn nổi bật nhất đang hiện rõ ở Biển Đông và các vấn đề mà các chính khứa hàng đầu quốc tế đang tính chân lý thuộc về quan điểm tính đa cực hay đơn cực một cách đứng đắn. Nhưng thực chất của những lý luận logic và khúc triết của các học giả và chính trị gia nghiêm túc đang bàn về tính đơn cực hay đa cực này lại là …quyền lợi được chia sẻ một cách hợp lý theo cách nhìn riêng của từng quốc gia. Mâu thuẫn này nổi lên ở biến Đông và nó làm cho vị trí của Việt Nam được chú ý. Anh Quốc – một đồng minh truyền thống số một của Hoa Kỳ bắt đầu tỏ ý quan tâm đến tiềm năng Việt. Tất nhiên tiềm năng đó chỉ có ở truyền thống văn hóa và lịch sử của dân tộc này. Nhưng chính vì vị trí của Việt Nam và vùng tranh chấp ở biển Đông, nên nó rất dễ trở thành nhạy cảm trong việc tranh chấp nơi đây. Và nguy cơ trước mắt chính là ảnh hưởng bởi một cuộc đối đầu quân sự trong tương lai không xa. Hiện tượng nhìn thấy được chính là những cuộc tập trận qui mô lớn kéo dài từ Hoàng Hải đến vịnh Thái Lan xảy ra gần đây (Năm 2008) với thái độ cứng rắn của các nước trong khu vực sẵn sàng đối đầu với chiến tranh. Kính thưa quí vị quan tâm. Cho đến ngày hôm nay - 28. 7 . 2012 - những vấn đề cội nguồn Việt sử với gần 5000 năm văn hiến đã tìm thấy một sự tương đồng với những vấn đề được đặt ra ở bài viết của tôi từ năm 2008, là bài viết của ông Đồng - một Việt kiều ở Hoa Kỳ - gửi Thế Trung sau cuộc hội thảo "Tường niệm giáo sư Lương Kim Định". Bài viết này đã được đưa lên diễn đàn ở mục "Hoạt động của trung tâm", topic: "Hội thảo tưởng niệm giáo sư Lương Kim Định", nhưng tôi đưa lại vào topic này để quí vị đối chiếu về những cái nhìn từ những điều kiện xã hội khác nhau về cội nguồn lịch sử Việt tộc. Thân gửi anh Trung và các bạn, Tôi đã được đọc sách của GS KĐ từ hồi 19 tuổi từ khi hiện tượng KĐ còn phôi thai. Kiến thức về Hán Văn, khảo cổ, và cổ thư của tôi không đủ để phê bình hay nhận xét đúng sai. Tôi chỉ cảm thấy có điểu mới lạ mặc dầu logic nhiều khi phóng túng. Gần đây anh Trung có gửi các bài phóng sự về hội thảo chuyên đề sự nghiệp GS KĐ. Qua nhũng lời phê bình xác đáng, tôi nhận thấy là giới chuyên gia nhân văn VN có tầm hiểu biết vượt xa những gì tôi vẫn nghĩ về các hoạt động văn hoá đang được tiến hành trong nước. Tôi rất mừng là còn có những chuyên gia trình độ cao theo đuổi những nghiên cứu khó khăn trong hoàn cảnh thiếu thốn. Không ít người cho rằng GS KĐ là người của chế độ cũ. Động lực chính của công trinh nghiên cứu của GS KĐ biết đâu là để chống cộng. Trước 75, chống cộng tức là chống Tầu nói chung, vì Tầu là người đỡ đầu miền Bắc lúc đó. Nay một hội thảo chuyên đề cho GS KĐ được tổ chức để vinh danh nhân ngày giỗ của ông cho thấy trình độ trưởng thành về phê phán. Ai đúng thì được khen, không để quá khứ hay những nghi ngờ chính trị làm mờ mắt. Nghiên cứu khoa học thuần tuý rất nhiều khi dựa vào cảm tính, trực giác, hay kiến thức tiền khoa học. Nhiều nghiên cứu gia đã thú nhận là có một định kiến về chiều hướng của kết luận trước khi có đủ dữ kiện chứng minh. Với trực giác, khoa học gia có thể tiết kiệm được rất nhiều công sức bằng cách loại bỏ những giả thuyết phụ. Tuy nhiên một kết luận được coi là co giá trị khoa học chỉ khi nào nó vượt qua các phê bình về logic và được kiểm nhận hay chứng minh bằng các công ước. Nghiên cứu khoa học nhân văn hay xã hội cũng phải tuân theo các quy luật tương tự. Công trình nghiên cứu của GHS KĐ có tính cách đột phá và kết luận của ông đi trước thời gian đến 30-40 năm. Tôi tin rằng với số lượng nghiên cứu đò sộ, nếu loại đi những kết quả do phỏng đoán, những gì còn lại vẫn còn đủ để ta xếp hạng ông vào gương mặt lớn trong thế kỷ 20. Điều đáng khâm phục là với những bằng chứng tản mạn khắp trong những tài liệu rời rạc, ông đã dùng trực giác để kết liên chúng thành những hệ thống mà 30-40 năm sau khoa học mới bắt đàu chấp nhận những điểm chính. Thiên tài của GS KĐ là ở chỗ đó. Quay trở lại giá trị của những công trình nghiên cứu về dân tộc học, tôi có vài giả thử để các bạn cùng suy nghiệm. Nếu các gỉả thuyết sau đây được chứng minh do các công trình nghiên cứu đế chúng ta có thể dậy trong hương trình gíáo khoa tiểu học và trung học trong tương lai, người VN có thể sẽ nhìn dân tộc mình với một tư duy mới: 1) Rằng chúng ta đã có một chữ viết kiểu khoa đẩu, và chữ viết đã tiến lên trình độ tượng thanh để diễn tả các tư tưởng qua 30-40 chữ cái trước khi bị người Hán đô hộ. Chữ khoa đẩu còn đặt nền móng cho chũ Hán vuông sau này. Điều này có thể dẫn đến sự phục hưng của mẫu tự khoa đẩu. Người Do Thái đã phục hưng tử ngữ Hebrew và dạy học tiếng này song song với tiếng hiện đại khi họ tìm ra được chữ viết cổ của họ. 2) Rằng từ Lạc Việt, một hệ thống nhân sinh quan kết chặt các liên lạc giữa trời đất, thiên nhiên và con người, vua tôi, vợ chồng, thày trò…đã lan toả ra vùng Lĩnh Nam, rồi lan đến Bách Việt. Văn minh này đã đươc những người Hoa Hạ sau này chấp nhận và phổ biến khắp châu thổ Hoàng Hà và Sông Dương Tử. 3) Rằng không phải là tình cờ hay may mắn về địa dư mà người Việt còn giữ được những tư tưởng về nguồn cội. Tinh thần độc lập ngày nay đã do cha ông dầy công bảo vệ, vun bồi bằng xương máu và đã tìm mọi cách để truyền lại cho đời sau. Tổ tiên ta đã hiểu biết sâu xa sự quan trọng của truyền thống và lịch sử trong sự hình thành một con người toàn diện. Một cá nhân sẽ không thể tiến xa nếu người đó không có lòng tự trọng (self-esteem). Một dân tộc không thể tiến bộ nếu không thấy tự hào về nguồn cội. Tất cả các nước tiến bộ trên thế giới đều rất trân trọng bảo về truyền thống dân tộc họ, điển hình là người Anh. Trong lịch sử các nước thực dân, các cuộc thống tri tàn bạo thường bắt đầu bằng tiêu diệt lịch sử và truyền thống. Lịch sử của người Tây Ban Nha tiêu diệt văn hoá bản địa ở Nam Mỹ là một kỳ tích gần đây nhất. Cho đến bây giờ chỉ còn hai ba quyển sách trong hàng vạn quyển là còn tồn tại. Người Nam Mỹ bản địa hầu như không còn nhớ họ là ai, và họ thường hay thụ động, thiếu cầu tiến trong đua tranh nghề nghiệp. Tiêu diệt một con người chỉ cần giết người đó. Để tiêu diệt một dân tộc, cần phải đánh thật mạnh vào lòng tự hào dân tộc họ. Cần phải tiêu diệt ngôn ngữ, bóp méo lịch sử, thay đổi phong tục. Qua một ngàn năm Bắc thuộc, người Hán tưởng đã thành công trong việc tiêu diệt Lạc Việt. Chúng ta được dạy trong trường chúng ta là con cháu những ngươi bại trận phải trốn về Nam. Chúng ta không có chữ viết và phải nhờ quan thái thú Bắc phương đến dạy mới biết hôn nhân, giáo dục, …Khi chiếm nước ta, việc đầu tiên là họ tich thu sách vở hoặc đốt, sau đó là thay đổi ngôn ngữ và phong tục, và cuối cùng là thay đổi huyết thống. Sau gần một nghìn năm, dân Việt còn có thể thức dậy và dành lại chủ quyền. Biết được như thế mới thấy sự kỳ diệu của nền văn minh truyền thống Lạc Việt. GS KĐ là một trong những người hiểu sự quyến rũ của nền văn minh đó. Vài giòng viết để giúp ý với anh Trung. Những đam mê của anh về nguồn cội có thể đã hằn trong tâm thức hay đã nằm trong các chủng tử di truyền. Có người còn gọi đó là cái nghiệp chung của nhiều người VN. Thư đã quá dài, sẽ viết thêm sau để giúp ý kiến vấn đề kinh tài cho những công tác văn hoá này. Thân chào, Đồng Như vậy, quí vị và các bạn quan tâm cũng thấy rằng: Từ một vị trí khác, những nhà nghiên cứu cũng xác định tầm quan trọng của cội nguồn Việt sử trong tương lai của dân tộc Việt và cũng như của tất cả các dân tộc khác trên thế giới. Nhưng cội nguồn Việt sử ấy đã bị phủ nhận và xuyên tạc của một đám học giả "nhân danh khoa học". Từ năm 1991 - khi Liên Xô sụp đổ - quan điểm "nhân danh khoa học" này, vênh váo lên ngôi. Nhưng nó sớm bộc lộ bản chất phi khoa học của nó ít nhất là không có đối thoại và chỉ có thông tin một chiều trên các phương tiện truyền thông bằng tiếng Việt trên toàn thế giới có ảnh hưởng tới Việt Nam. Mặc dù không ít những học giả trong nước và cả những học giả có tên tuổi ở nước ngoài đã có những luận điểm khoa học chứng minh Việt sử gần 5000 năm văn hiến. Nhưng hầu như không được nhắc tới chỉ 1 lần trên bất cứ một phương tiện truyền thông nào - cả trong nước và quốc tế, tính đến ngày hôm nay. 28. 7. 2012. Sự thất sủng của những quan điểm khoa học chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến đã cho thấy tính phi khoa học một cách trắng trợn của quan điểm phủ nhận truyền thống Việt sử. Do đó, kết quả của việc phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt của đám học giả "ở trần đóng khố" và sự phổ biến của nó ngay cả trong trường phổ thông, đã chứng tỏ sự thành công của những âm mưu quốc tế trong khu vực và góp phần không nhỏ vào những cái gọi là : Chứng cứ lịch sử của Trung Quốc ở biển Đông. Bởi vì: Nếu Việt sử 5000 năm văn hiến được công nhận nhân danh một chân lý thì Trung Quốc chẳng có cơ sở lịch sử nào để xác định biển Đông thuộc lãnh thổ của họ, khi mà tất cả vùng nam Dương Tử trước đó của Việt tộc. Nếu như trước đây, tất cả các phương tiện truyền thống quốc tế đều tung hệ - "nhân danh khoa học" - những quan điểm phủ nhận truyền thống Việt sử vì cuộc đối đầu Xô - Mỹ và Việt Nam lúc ấy là một đồng minh của Liên Xô - thì - nay khi họ đối đầu với Trung Quốc đã "Há miệng mắc quai". Lối thoát duy nhất của họ trong vấn đề này chính là tính chính danh của việc nhân danh khoa học. Vậy thì nó phải có đối thoại khoa học nghiêm túc giữa hai quan điểm mâu thuẫn về một vấn đề khi chân lý là duy nhất. Bởi vậy, nếu như có một cuộc đối thoại nghiêm túc dù trong nước hay quốc tế - nhân danh khoa học với đầy đủ ý nghĩa của từ này, chứ không phải thứ khoa học nửa mùa cúa đám tư duy "Ở trần đóng khố" - thì cá nhân Thiên Sứ tôi sẽ không từ chối. Còn tiếp. BIỀN ĐÔNG VÀ TƯƠNG LAI CỦA THẾ GIỚI
-
VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG Tiếp theo QUYỀN LỢI CỐT LÕI VÀ QUYỀN LỢI CĂN BẢN. Đối với Hoa Kỳ, một nước sẽ chẳng có kg cá và một giọt dầu nào ở đây cả và tất nhiên sẽ chẳng thể có tư cách gì để tham gia vào các hiệp ước tay đôi, tay ba, hay 6, 7 bên gì đó liên quan đến biển Đông – nếu nó xảy ra. Đơn giản thôi: Hoa Kỳ không có lấy 1 mét bờ biển hoặc vùng lãnh thổ liên quan đến vùng biển này. Nhưng có điều chắc chắn rằng - đối với Hoa Kỳ - nếu nó càng ít thuộc về Trung Quốc càng tốt. Hoa Kỳ không muốn một đối thủ tiềm năng trong việc giành ngôi bá chủ thế giới chiếm lĩnh vùng biển này. Bởi vậy, điều tất yếu là chàng cao bồi Mỹ sẽ ủng hộ quốc gia nào đó mà mang lại nhiều quyền lợi cho họ trong việc sử dụng biển Đông; hoặc chí ít quốc gia đó sẽ ngăn cản được Trung Quốc trong việc chiểm lĩnh biển Đông. Quốc gia được lựa chọn sẽ phải là một đất nước mà Hoa Kỳ có thể đồng minh một cách lâu dài, ngay cả khi ngôi bá chủ toàn cầu được xác nhận. Không thể là Indonexia, vốn là một quốc gia Hồi giáo lớn thứ hai trên thế giới, việc hợp tác lâu dài sẽ rất bấp bênh. Đối với Việt Nam - thì cái dân tộc này vừa mới chấm dứt cuộc chiến chưa bao lâu với Hoa Kỳ, mùi thuốc súng vẫn chưa tan hẳn; chất độc màu da cam, người Việt vẫn nhận thấy còn tồn tại đâu đây. Chỉ còn Philipfine vốn là một đồng minh lâu năm và là một quốc gia ít ảnh hưởng bởi Hồi giáo (*). Nhưng đối đế lắm thì Hoa Kỳ thà giành biển Đông cho Việt Nam hơn là Trung Quốc. Đó là lý do mà vị đô đốc hải quân, nhanh chóng về vườn, vì đã cầm đèn chạy trước ô tô. Ông ta không nhớ ra người đồng minh cũ của Hoa Kỳ là Philipfine. Trước mắt là như vậy. Nhưng đối với Trung Quốc thì nếu không xác định được cái lưỡi bò là của mình thì chí ít nó thuộc về Việt Nam vẫn tốt hơn là một nước thân Hoa Kỳ, như Philipfine. Một trò chơi mới xuất hiện: Tất cả các nước có quyền lợi ở biển Đông được khuyến cáo nên nộp hồ sơ xác định vùng lãnh hải, để được giải quyết trong hội nghị quốc tế liên quan (**). Đây chỉ là một trò chơi - nhưng là trò chơi của người lớn, nhằm xác định tính chính danh trong tương lai. Nó có thể trở thành giấy lộn bán ve chai, nhưng nó cũng có thể trở thành cái cớ rất sắc sảo để bác bỏ mọi quyền lợi chính đáng vào lúc này và trở thành sai vào lúc khác. Việt Nam nên tham gia vào trò chơi này, gọi là góp thêm phần vui vẻ với hàng xóm láng giềng. Bởi vì, nếu nó có thành trò chơi trẻ con thật sự thì mấy gram giấy không phải là một việc chi tiêu tốn kém. Ngược lại, nếu nó tỏ ra nghiêm túc thì Việt Nam sẽ có lợi to, do sự tranh chấp giữa những chàng cao bồi Texas và hảo hán Lương Sơn Bạc. Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc càng căng thẳng thì Việt Nam chính là quốc gia được chọn để dung hòa quyền lợi hai bên trong việc chủ quyền trên biển. Chí ít thì vùng biển sẽ rộng hơn so với đòi hỏi hiện nay của các nước đang tranh chấp. Chúng ta chỉ cần xem thái độ của Hoa Kỳ với ngài Đô đốc hải quân chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương là biết liền. Việc cách chức ông này còn tùy vào Thượng Nghị viện Hoa Kỳ (***) Cuộc đối đầu với Trung Quốc và Hoa Kỳ chưa thể xảy ra ngay bây giờ. Nhưng nó là tiềm năng trong tương lai gần, đe dọa ngôi bá chủ của Hoa Kỳ. Nhưng ngay bây giờ, nó không còn là cuộc đối đầu giữa các nhà ngoại giao với những cơ sở pháp lý, được hỗ trợ bởi các chuyên gia luật quốc tế với những tập hồ sơ dày cộm. Mặc dù về hình thức vẫn do các nhà ngoại giao thực hiện. Nhưng phải gọi đúng tên của nó là một “cuộc chiến tranh chính trị” và phía cuối con đường này – nếu người ta không tìm ra được một ngả rẽ cho nó thì là một cuộc chiến thật sự với tất cả mọi thứ vũ khí mà con người có thể nghĩ ra. Bởi vì – trong trường hợp này – đây là trận chiến cuối cùng xác định dứt khoát ngôi bá chủ thế giới. Đây là trường hợp xấu nhất nếu Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc đối đầu này, hoặc chí ít cũng bị giăng miểng – “Chẳng phải đầu, cũng phải tai”. Ấy là các cụ ngày xưa bảo thế! Vậy vấn đề tiếp theo sẽ phải là tìm một chỗ đứng an toàn cho Việt Nam, nếu như không thể cứu vãn được tình thế, khi cuốc đối đầu giành ngôi bá chủ thế giới xảy ra. Còn tiếp ================ Chú thích: * Đến giờ này - 2012 - thì đúng như thế: Philipfine là một đồng minh được Hoa Kỳ ủng hộ ở biển Đông. ** Cuối cùng Việt Nam đã làm hồ sơ về vấn đề này. *** Phải nói rằng lúc đó Thiên Sứ tôi sẽ rất thất vọng, nếu ngài Đô đốc Hải Quân Hoa Kỳ bị cách chức. Nhưng may quá! Việc này đã không xảy ra! Ngài Obama tuy trông rất thư sinh, nhưng lại thuận tay trái. Lúc tôi viết bài này - cuối 2008 - thì cả ba vấn đề trên chưa xảy ra.