-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Có một bài viết về nghiệp chướng rất hấp dẫn của ông Nguyễn Ngọc Ngạn cũng nói về nghiệp chướng ở bên tuvilyso.net do hiendde post lên. Nhưng tôi quay lại tìm mãi không biết câu chuyện nằm ở trang nào nên đành chịu. Câu chuyện có nội dung tóm tắt như sau: Vào thời Tây có một tay phú ông giàu có miền quê, tranh cử ông nghị. Ông nghị khi lên phố chơi bời quen một cô đào rượu. Cô đào có mang và thất nghiệp, về tìm ông nghị xin cứu trợ. Ông nghị từ chối, cô đào uất ức tự tử. Hồn ma hai mẹ con ám ảnh ông này đến chết. Xem câu chuyện này, người ta cảm giác ghê rợn và sợ tạo nghiệp. Nhưng làm cho con người tưởng rằng tạo nghiệp là phải làm một cái gì đó lớn lao, ghê rợn, như làm người ta chết oan, sát hại sinh linh..vv...Thực ra nghiệp chướng len lỏi trong cuộc đời đôi khi thể hiện bằng những hành động rất đơn giản, nhưng lại thể hiện bản chất của người mang nghiệp. Những câu chuyện tôi kể trên đây hoàn toàn có thật và nghiệp chướng đến với chúng ta đôi khi từ những hành vi tưởng chừng vô thưởng vô phát, nhưng cũng đủ nặng nề nếu chúng ta không kiểm soát được ý thức. Tôi quen một đại gia nữ, có chồng nước ngoài. Trong làm ăn cô có với một đối tác quan trọng đồng hương với chồng. Đối tác này bị một bệnh nan y đe doa tính mạng và tất nhiên ảnh hướng lớn đến công việc làm ăn của cô ta. Để chữa khỏi bệnh cho ông này thày lang khuyên phải lấy gan một con ngựa trắng nấu thuốc mới khỏi bệnh. Cô ta đã lùng sục khắp nơi để tìm bằng được một con ngựa trắng. Cô ta mua con ngựa này với giá cao và nhờ người địa phương giết thị chỉ lấy lá gan cho người bệnh. Nhưng sau đó cô hay nằm mơ thấy con ngựa trắng đứng ở sân vườn trước cửa nhà. Bị ám ảnh hoài, cô ta hỏi một vị thiền sư về nguyên nhân hóa giải. Nghe được câu truyện, vị thiền sư khuyên cô ta tạc tượng một con ngựa bằng đá trắng để trước cửa. Cô ta hoài nghi lời khuyên của vị thiền sư này, vì cô không cho rằng việc bỏ tiền ra mua một con ngựa với mục đích chữa bệnh cứu người lại có thể phiến phức đến thế, nên không làm. Vài tháng sau, cô ta bị chính người nước ngoài mà côp đã cất công cứu chữa lừa một mẻ lớn khiến lao đao gần như phá sản. Sau cú lừa đó, người này cũng chết và cô không còn hy vọng thu hồi được tiền. Sau đó cô mang nợ và suy sụp, chồng bỏ và cô phá sản. Đến bây giờ cô chỉ có hai bàn tay trắng và sống lay lứt trong sự ngờ vực của con người.
-
Bí ẩn những con tàu ma (Phần 1) Con tàu ma Urang Medana. (Dân trí) - Hàng thế kỷ nay, sự thật về những con tàu ma vẫn luôn là nỗi ám ảnh của những người đi biển. Số phận và nguyên nhân biến mất đầy bí hiểm của những thủy thủ đoàn như thế nào?... có lẽ vẫn sẽ là một ẩn số không có lời giải. “Tôi là người duy nhất còn sống sót….” Vào khoảng những năm 40 của thế kỷ trước, sự biến mất đầy bí hiểm của toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên con tàu Urang Medana của Hà Lan được cho là một bí ẩn lớn nhất trong lịch sử ngành hàng hải thế giới. Ở thời điểm đó, một vài trạm rada của Anh đặt tại Singapore và Sumatra (Indonesia) thông báo có nhận được tín hiệu cấp cứu từ tàu Urang Medana của Hà Lan với nội dung: “SOS… SOS tất cả đã chết… tôi là người duy nhất còn sống sót…”, tiếp sau đó là hàng loạt các ký tự lộn xộn và các dấu chấm. Một lát sau tín hiệu được nối lại, nhưng chỉ có một câu duy nhất là “Tôi đang chết dần”, rồi kết thúc bằng một sự im lặng đến ghê rợn. Các cuộc tìm kiếm cứu hộ nhanh chóng được thiết lập và đã cho kết quả. Con tàu được tìm thấy tại vịnh Malacca, cách nơi phát tín hiệu trước đó khoảng 80 km. Khi bước chân lên Urang Medana, ngay lập tức các nhân viên cứu hộ phải sởn gai ốc trước cảnh tượng kinh hoàng trước những cái chết một cách bất thường của toàn bộ thủy thủ đoàn. Vị thuyền trưởng nằm ngay tại tại vị trí điều khiển, còn các sĩ quan và thuỷ thủ thì nằm rải rác khắp nơi trên tàu. Một nhân viên điện đài có lẽ là người đã phát ra tín hiệu cấp cứu, đã chết trong trạng thái làm việc. Ngay đến con chó trên tàu phải nhận một cái chết hết sức bất thường khi mõm của nó vẫn còn đang nhe nanh như đe dọa ai. Điểm chung duy nhất là trên khuôn mặt của tất cả mọi người đều hiện rõ một nỗi sợ hãi khủng khiếp. Càng kỳ lạ hơn, không hề có bất kỳ một dấu hiệu tổn thương nào trên tất cả các tử thi. Giả thuyết về một vụ tấn công của cướp biển ngay lập tức bị loại bỏ bởi toàn bộ những thứ có giá trị trên tầu đều còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, trong suốt chiều dài của thế kỷ 20, đây vẫn chưa phải là thảm hoạ duy nhất. Vào năm 1955, trên biển Thái Bình Dương người ta còn tìm thấy một chiếc thuyền buồm của Mỹ mang tên MB Elip cũng có những hiện tượng tương tự. Trên tàu, nước ngọt và đồ ăn dự trữ vẫn còn nguyên vẹn, các phương tiện cứu hộ vẫn chưa hề được sử dụng, vậy mà không có lấy một bóng người. Khoảng 5 năm sau, trên biển Đại Tây Dương cũng xuất hiện hai chiếc thuyền buồm của Anh trôi dạt. Năm 1970, tất cả thuỷ thủ đoàn cùng với con tàu trở hàng của Anh mang tên Minton đột ngột mất tích một cách lạ lùng mà cho đến nay vẫn còn là một ẩn số. Rồi đến năm 1973, một tai nạn đã xảy ra và làm đắm chiếc tàu đánh cá Anna của Na Uy. Những thủy thủ trên những con tàu khác gần đó vô tình chứng kiến vụ tai nạn lấy làm lạ khi sự việc diễn ra, họ không thấy có bất kỳ ai trên boong tàu. Giọng nói từ biển khơi Một trong những bức tranh đầu tiên mô tả về việc những thủy thủ Anh trên tàu Jea Grasia phát hiện con tàu ma Maria Chelesta Trong lịch sử ngành hàng hải, sự mất tích kỳ lạ của toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên con tàu nổi tiếng Maria Chelesta luôn được nhắc đến như một bí ẩn vĩ đại nhất của đại dương. Vào tháng 12/1872, thuỷ thủ trên tàu Jea Grasia của Anh bất ngờ gặp một chiếc thuyền buồm di chuyển một cách không bình thường. Đến khi tiến lại gần, họ rất đỗi ngạc nhiên khi trên boong thuyền Chelesta không có bóng dáng của con người mà vô lăng lái lại không được cố định.Một hoa tiêu và hai thuỷ thủ người Anh quyết định thâm nhập vào con thuyền này để tìm hiểu tình hình. Không hề có bất kỳ dấu hiệu nào của con người. Vật giá trị nhất mà họ tìm được chính là cuốn nhật ký đi biển, trong đó ngày cuối cùng được đặt bút có đề ngày 24/11/1872 (con thuyền được tìm thấy vào ngày 02/12). Con thuyền này được đưa về eo biển Gibraltar của Anh để các chuyên gia giàu kinh nghiệm điều tra bí ẩn đã xảy ra với nó, tuy nhiên mọi nỗ lực đều trở nên vô vọng. Năm 1937, nhà vật lý của Liên Xô là Vladimir Suleykin đã đưa ra một giả thuyết được cho là tương đối thuyết phục. Trong một hành trình trên biển Kaspi trên tàu thuỷ văn Taimưr, một nhà khoa học đi cùng Vladimir Suleykin đã thực hiện thí nghiệm với một quả cầu thám không chứa đầy khí hydro: khi quả cầu này được đưa đến gần ai thì người đó bỗng xuất hiện một cảm giác đau buốt trong màng nhĩ, còn khi đưa ra xa cảm giác đau đớn đó dần tan biến. Vladimir Suleykin liền để ý tới hiện tượng lạ lùng này để rồi không lâu sau đó đưa ra nhận định của mình trên báo chí rằng, gió thổi qua các cơn sóng trong những ngày biển động đã tạo ra trong không khí các dao động sóng hạ âm mà tai con người không nghe thấy. Sóng hạ âm này rất có hại đối với con người. Trong dải tần thấp hơn 15 héc, sóng hạ âm không chỉ gây tổn thương cho màng, mà còn gây rối loạn hệ thần kinh trung ương và ảnh hưởng đến thị giác. Ở dải tần dưới 7 héc, sóng hạ âm đôi khi gây tử vong đối với con người. Như vậy, nơi nào xuất hiện bão thì ở đó xuất hiện sóng hạ âm. Hiệu ứng này được V. Suleikyn gọi là “âm thanh của biển cả”. * Còn nữa Anh Nguyễn Tổng hợp
-
Bí ẩn những con tàu ma (Phần 2) (Dân trí) - Liệu con người đã tìm ra được bí mật của những con tàu ma xấu số? Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến những cái chết vô cùng bí hiểm của các thủy thủ trên tàu? Sóng âm gây chết người ? Trong các nghiên cứu về tác động vật lý của sóng hạ âm có cường độ lớn đối với cơ thể sống, người ta đã phát hiện một hiện tượng đáng kinh ngạc. Thí nghiệm trên các loài động vật cho thấy, chúng đều có một cảm giác lo lắng, sợ hãi không rõ nguyên nhân. Thí nghiệm trên cơ thể một số người tình nguyện cũng cho kết quả tương tự: họ đều cảm thấy đau đầu, lo lắng với một nỗi sợ hãi khủng khiếp không rõ nguyên nhân. Theo giáo sư Gavro người Pháp, âm thanh ở tần số 7 héc có thể gây tử vong. Trong thời gian xuất hiện bão trên biển, sóng hạ âm dao động từ 15 héc xuống đến gần 6 héc. Như vậy, cường độ dao động càng thấp thì nguy cơ tử vong đối với con người là khó có thể tránh khỏi, khi đó, họ sẽ phải hứng chịu một cái chết với nỗi khiếp sợ và kinh hoàng không rõ nguyên nhân. Hơn nữa, nếu thân và cột buồm của tàu cộng hưởng trở thành nguồn hạ âm thứ sẽ càng tác động mạnh mẽ lên con người, làm họ mất lý trí để rồi nhảy ra khỏi tàu để chốn chạy hoảng loạn. Không phải vô cớ mà trên nhiều chiếc thuyền, những chiếc cột buồm bị gãy và hỏng trong khi thời tiết được dự báo là không có gió to. Truyền thuyết về tàu ma xuất hiện từ đâu? Chúng ta ít nhiều đều đã từng nghe danh một con tàu đã đi vào truyền thuyết với tên gọi “Người Hà Lan bay”. Một con tàu ma không có bóng người. Bất kỳ ai chẳng may gặp nó đều sẽ phải hứng chịu những bất hạnh kinh khủng. Theo truyền thuyết, trong một cơn bão lớn, viên thuyền trưởng Van Staaten đã vô cùng khó khăn để điều khiển tàu vòng qua được mũi Hảo Vọng. Trong cơn hỗn loạn, toàn bộ thủy thủ trên tàu đều yêu cầu thuyền trưởng quay trở lại. Không thèm để ý đến đề nghị của đa số mọi người, Van Staaten trong cơn tức giận đã bắt đầu phỉ báng chúa trời và tuyên bố rằng sẽ đổ bộ vào mũi Hảo Vọng, thậm chí có phải bơi cho đến ngày chúa tái lâm. Ngay lập tức, một giọng nói khủng khiếp từ trên trời vang lên để đáp trả lời phỉ báng đó: “Được, vậy thì các người hãy bơi đi”. Kể từ đó, con tàu trở thành điềm gở cho bất kể ai vô tình hay cố ý nhìn thấy nó. Một biên niên sử buồn… Sự biến mất bí ẩn của con người và các con tàu vẫn tiếp tục trong thế kỷ 21. Liệu có phải, những trường hợp đó đều có liên quan đến “giọng nói từ biển khơi” hay không may chạm trán với “người Hà Lan bay”? Năm 2003, máy bay thuộc Cục bảo vệ bờ biển Autraulia đã tìm thấy một chiếc thuyền buồm của Indonesia gần bờ biển nước này. Tàu vẫn trong tình trạng hoạt động tốt, khoang chứa đầy cá, thế nhưng trên tàu lại không có một bóng người. (trước đó, tàu ra khơi với 14 thuỷ thủ). (Ảnh trên) Năm 2006, Cục bảo vệ bờ biển Sardinhia (Italia) nhận thấy một chiếc thuyền buồm hai cột mang tên “Bel Amika” bị trôi dạt tự do mà không có người trên đó. Trên thuyền vẫn còn thức ăn thừa và những tấm bản đồ địa lý của Pháp. Cảnh sát đã nghi ngờ chiếc thuyền đã được những kẻ buôn lậu sử dụng để vận chuyển ma tuý. Tuy nhiên giả thuyết này ngay sau đó bị bác bỏ khi sử dụng chó nghiệp vụ để điều tra. Cùng năm đó, cũng cách Australia không xa, người ta lại tìm thấy chiếc tàu chở dầu Yan Seng cũng không có bóng người. (Ảnh trên) Năm 2007 một chiếc tàu dài 12 m trống không có tên “Kaz II” được tìm thấy khi đang trôi dạt ở vùng biển Đông Bắc Australia. Điều lạ là động cơ của tàu vẫn đang hoạt động, một máy tính xách tay và hệ thống định vị toàn cầu GPS, một bàn ăn đã dọn sẵn. Tất cả các phương tiện cứu hộ vẫn còn nguyên trên tàu. Cánh buồm vẫn được căng lên nhưng đã bị rách nát. (Ảnh trên) Năm 2008, Cục an ninh biển Nhật Bản thông báo phát hiện một chiếc xà lan đang trôi dạt không có tên có số hiệu và người trên boong. (Ảnh trên) Anh Nguyễn Tổng hợp
-
Kính đảnh lễ Thiền Sư Không Lộ. Đệ tử cho rằng giai thoại về lời nguyền của Ngài là không có thật mà do nhân gian thêu dệt mà thôi. Đệ tử nhận thấy ngôi chùa này dương khí quá mạnh nên thành cô dương, Bởi vậy các vị trụ trì không thể hành đạo. Tín ngưỡng thuộc Dương nên khí chất của chùa chiền thuộc Âm. Chỉnh sửa lại Phong thủy thì ngôi chùa này tu hành được. Đệ tử Minh Tính - Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh
-
Chida viết: Quẻ Lạc Việt độn toán - cũng như quẻ Dịch phản ánh quy luật vận động của vũ trụ. Vạn vật, vạn sự tuy khác nhau về hình tướng - nhưng chúng cũng chỉ là những phần tử trong một tập hợp đã được xác đinh qua quẻ mà thôi. Chẳng có gì là huyền bí cả. Bởi vậy - Thuyết Âm Dương Ngũ hành mới là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm.
-
Nằm mơ thấy mình bị mù tức là Cún con đang có ý thức tìm về thực trạng tâm linh của chính mình - Mắt mù tức không bị chi phối bởi ngoại cảnh. Chúc vạn sự an lành.
-
Vinco link cho chú là số của Tử Vi Lạc Việt vào đây.
-
Tranh Đàn Lợn và Nguyên lý “Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi” Trích trong: "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam - Phần I - 2" Nguyễn Vũ Tuấn Anh Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương www.lyhocdongphuong.org.vn Một trong những bức tranh dân gian phổ biến và nổi tiếng của làng Đông Hồ là tranh Đàn lợn. Đàn lợn Tranh dân gian Đông Hồ Vào những ngày Tết Nguyên đán, bức tranh này là một trong những bức tranh được ưa thích mà trẻ em Lạc Việt được cha mẹ mua về dán trên tường cho vui cửa, vui nhà. Một con lợn mẹ béo núc ních với đàn lợn con mũm mĩm, như mơ ước cho sự phú túc và nhàn tản. Bức tranh như một lời chúc lành cho một năm mới tốt đẹp, đã lưu truyền không biết được bao đời trong nền văn hóa dân gian Việt Nam. Trong bức tranh dân dã này, một hình tượng dễ nhận thấy là vòng tròn Âm Dương trên mình những con lợn. Hình tượng này, như muốn nhắc nhở cho người xem tranh một nội dung tiềm ẩn liên quan đến một học thuật cổ Đông Phương, cho đến nay vẫn được coi là sự huyền bí kỳ ảo. Chính vòng tròn Âm Dương và hình tượng con lợn đã chứng tỏ một nội dung liên quan chặt chẽ đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đây cũng là một hiện tượng, để bắt đầu từ đó chúng ta đi tìm ý nghĩa minh triết của bức tranh này. Đến đây, người viết xin lưu ý bạn đọc là: trong bản văn cổ trước thời Hán, nếu có nói đến Âm Dương thì không nói đến Ngũ hành. Cho đến tận ngày nay, các nhà nghiên cứu cũng cho rằng: Thuyết Âm Dương và thuyết Ngũ hành là hai học thuyết có xuất xứ riêng biệt, được hòa nhập vào thời Hán. Tuy nhiên, họ cũng chỉ đặt vấn đề như trên, và chưa chứng minh được học thuyết Âm Dương và Ngũ hành hòa nhập như thế nào, ngoại trừ một thực tế ứng dụng phương pháp luận thuyết Âm Dương Ngũ hành đang tồn tại. Người viết cho rằng: không thể chứng minh được sự hòa nhập của thuyết Âm Dương Ngũ hành qua những bản văn cổ chữ Hán, bởi vì những bản văn đó đã sai lầm từ căn đế của học thuyết này. Do đó, việc giải mã tranh “Đàn Lợn” sẽ là sự minh chứng tiếp tục quan niệm cho rằng thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết thống nhất và hoàn chỉnh ngay từ nguyên lý khởi nguyên của nó, sẽ chứng tỏ tiếp tục rằng nền văn minh Lạc Việt chính là cội nguồn của học thuyết này. Trước hết, xin bạn đọc xem lại đồ hình Hà đồ. Hà đồ cửu cung Qua đồ hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy rằng ở hành Thủy – phương Bắc có độ số 1 và 6. Trong sách xưa nhất là “Hoàng Đế nội kinh tố vấn”, thiên “Kim quỷ chân ngôn luận” khi nói về Bắc phương như sau: Bắc phương sắc đen, thông vào với Thận, thông khiếu ở nhị âm; tàng tinh ở Thận; bệnh phát sinh ở khê; về vị là mặn và thuộc về Thủy; thuộc về lục súc là LỢN; thuộc về ngũ cốc là đậu; thuộc về bốn mùa trên ứng với sao Thần; thuộc về Âm là Vũ; thuộc về số là số 6; thuộc về mùi là mùi húc mục, do đó biết thường sinh bệnh ở xương. Như vậy, hiện tượng trùng khớp đáng lưu ý là: hình tượng con lợn trong tranh dân gian Việt Nam liên hệ với một bản văn chữ Hán cổ nhất liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Cụ thể là “Lợn” thuộc hành Thủy. Nếu đây chỉ là một hiện tượng duy nhất thì bạn đọc có thể coi là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng vấn đề không dừng lại ở đây. Trong các sách đã xuất bản cùng tác giả, từ câu tục ngữ “Mẹ tròn con vuông” người viết đã chứng tỏ với bạn đọc: Dương có trước, Âm có sau. Bạn đọc xem lại độ số Hà đồ ở trên sẽ nhận thấy rằng ở hai hành Thủy & Mộc (hai hành thuộc Âm (*) các số Dương (số lẻ) khi cộng với 5 đều ra số Âm(số chẵn) cùng hành. Ở hai hành Hỏa và Kim (hai hành thuộc Dương (*) các số Dương đều trừ 5 ra số Âm cùng Hành. Điều này được diễn tả như sau: @ Hai hành thuộc Âm: Thủy & Mộc # Hành Thủy: số Dương 1 cộng 5 thành Âm Thủy, độ số # Hành Mộc: số Dương 3 cộng 5 thành Âm Mộc, độ số 8. @ Hai hành thuộc Dương: Hỏa & Kim # Hành Hỏa: số Dương 7 trừ 5 thành Âm Hỏa, độ số 2. # Hành Kim: số Dương 9 trừ 5 thành Âm Kim, độ số 4 So sánh với tranh đàn lợn, chúng ta lại thấy một sự trùng khớp nữa: Có đúng 6 con lợn trên tranh. Qua hình tượng bánh chưng, bánh dầy, người viết cũng chứng minh rằng Ngũ hành thuộc Âm từ nguyên lý khởi nguyên của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành (*). Trong tranh có một Lợn mẹ – cái có trước, Dương – tương ứng với số Dương Thủy 1; năm lợn con cộng 1 = 6. Đây chính là nguyên nhân để không thể là 6 lợn con mà chỉ có 5 lợn con. Bởi vì, nếu 6 lợn con thì Âm Thủy 6 sẽ là sự phân biệt tuyệt đối với Dương thủy 1. Điều này sẽ trái với nguyên lý Ngũ hành thuộc Âm động trong nguyên lý khởi nguyên của vũ trụ. Số lợn mẹ = 1 và lợn con = 5 đã chứng tỏ rằng sự phân biệt Âm Dương trong Ngũ hành là sự chuyển hóa liên tục; khi đạt đến độ số tối đa (6) thì chuyển hóa sang hành khác. Hình tượng lợn mẹ và lợn con (tức cùng giống) cũng chứng tỏ rằng: quẻ Càn trong kinh Dịch nằm ở vị trí Âm thủy (cho dù bạn đặt Hậu thiên Bát quái với Hà đồ hay Lạc thư thì tính chất này vẫn không đổi ở hành Thủy) phải cùng hành với quẻ Khảm. Đây là sự minh chứng tiếp tục của quan niệm cho rằng: Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết thống nhất và hoàn chỉnh, bát quái chỉ là ký hiệu, siêu công thức của học thuyết này. Chính bức tranh “Đàn Lợn” trong văn hóa dân gian Việt Nam đã chứng tỏ điều này; khi dấu ấn của Âm Dương và độ số của hành Thủy thể hiện trong bức tranh này. Không những thế tranh “Đàn lợn” còn chứng tỏ nguyên lý trong sự vận động của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành mà cổ thư chữ Hán chưa hề nói đến. Cách đây 1000 năm, nhà hiền triết thời Tống bên Trung Hoa là Chu Hy - công bố nguyên lý: “Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi…” - mới chỉ nói đến hiện tượng độ số của Ngũ hành trên Hà Đồ và ông cũng không thể lý giải được nội dung của chính điều mà ông công bố. Thật trân trọng và đáng kính thay, những nghệ nhân tranh dân gian Việt Nam, trải qua bao thăng trầm của lịch sử vẫn trung thành với nguyên tác của tổ tiên, để hàng ngàn năm sau đó, con cháu tìm về cội nguồn và minh chứng cho một nền văn hiến trải gần 5000 lịch sử. Phụ bản: Đàn cá Tranh dân gian Đông Hồ * Chú thích: Xin xem “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”, Thời Hùng Vương và Bí ẩn lục thập hoa giáp”, “Tìm về cội nguồn Kinh Dịch” Nxb VHTT 2002, đã chứng minh.
-
Chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật siêu nhỏ 18:16' 22/08/2008 (GMT+7) Đàn lạc đà nằm gọn trong lỗ kim, khẩu súng AK gắn trên một que diêm, chiếc xe tăng đặt trên miếng táo... Cùng chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật siêu nhỏ chứng tỏ khả năng sáng tạo vô hạn của con người. Đàn lạc đà lướt qua lỗ kim: Chiếc lỗ kim nhỏ xíu này có thể chứa được tới 7 chú lạc đà được làm hoàn toàn bằng tay. Khẩu súng trên que diêm: Aldunin đã phải mất 6 tháng để hoàn thành khẩu súng AK-47 bằng vàng với 34 bộ phận này. Chiếc xe tăng tí hon: Tác phẩm điêu khắc này nằm gọn trên một hạt táo. Tất cả đều được làm bằng vàng. Đến giờ người nghệ sĩ này vẫn rất khó tìm người mua những tác phẩm nghệ thuật vô giá của mình. Chân dung của tiểu thuyết gia Leo Tolstoy được khắc trên một hạt gạo. Chiếc xe đạp nhỏ nhất thế giới Đây là Aldunin, tác giả của tất cả các tác phẩm nghệ thuật tí hon trên. Anh đang sống tại Moscow, Nga. Đồ nghề của anh gồm keo siêu dính, ống tiêm, tăm và bộ óc sáng tạo. Hạnh Phương (Theo TIME)
-
Để bổ sung cho bài viết trên - Việc bà Hilary Clinton thất cử vốn là bài tập của Lạc Việt độn toán từ lâu và chị Laviedt đã dự đoán xuất sắc ở đẳng cấp Tam đẳng Lạc Việt độn toán. Sau đây là bài dự báo của chị Laviedt so với các chiêm tinh gia quốc tế. Sau đây là nội dung bài viết: Chào Bác Thiên Sứ ! Hai chữ Hillary và người đứng xem không mấy nhiệt tình /CẢNH/ và bà Hillary đứng diễn thuyết khá hăng hái /XÍCH KHẨU/> Cảnh -Xích khẩu là tượng quẻ của búc hình này ,mà như vậy ,thì nó dường như ứng với điềm bà Hillâry sẽ không thắng cử được ,mặc dù trong suốt quá trình tranh cử cho đến phút chót ,triển vọng thành công của bà rất cao . Kính mến .
-
Khonghoi thân mến. Ông Juselino được khen ngợi là đã đoán rất nhiều cái chính xác trong quá khứ. Nhưng đấy là việc đã xảy ra rồi và nghe nói lại. Nhưng điều chứng nghiệm đầu tiên của ông ta trong tương lai gần là ông ta đoán: Tháng 7 tại Nhật Bản sẽ có trận động đất với sóng thần cao 30 m đã không xảy ra. Trong khi trước đó vài tháng tôi khẳng định rằng Nhật Bản sẽ không có trận động đất nào mang tính hủy diệt. Bởi vậy, tôi không tin ông này đoán cuộc chiến Iran - Isaraen có thể xảy ra. Tuy nhiên điều này tùy thuộc vào việc tôn vinh hay không nền văn minh Việt. Tức là điều kiện cần - không có "Nếu". Không có điều kiện này thì mới "nếu".
-
Người ta ngộ nhận Phở là món ăn do người Tàu sáng chế. Thực ra chúng ta tìm đỏ mắt cũng không thấy bên Tàu có hàng phở nào dù chỉ qua biên giới - ít nhất là đến ngày hôm nay 23/8 2008 - khi tôi đang gõ hàng chữ này. Bởi vì để làm ra một bát phở hoàn toàn không đơn giản chỉ là thay thịt bò bằng thịt trâu, rắc hành ngò, nêm nếm là xong. Mà còn kỹ thuật làm bánh phở. Bởi vậy, người Tàu không thể cùng một lúc nghĩ ra thay bò bằng trâu mà còn phải nghĩ ra cách làm bánh phở. Đây chính là lý do để chứng minh rằng: Người tàu không hề nghĩ ra cách làm phở khi không nghĩ ra cách nấu bánh phở. Làm bánh phở không đơn giản chỉ là giống miếng bánh cuốn Thanh Trì đổ dầy và to hơn , rồi thái ra là thành bánh phở. Cục bột làm bánh phở muốn dai và giòn, phải được hấp nửa chín nửa sống và quyện đều trước khi tráng và hấp bánh. Ngoài ra còn nhiều chi tiết phức tạp khác trong quá trình làm bánh. Điều này chỉ có người Việt nghĩ ra qua kỹ thuật làm bánh cuốn qua bánh phở mà thôi. Vậy tại sao, món phở lại khoác áo Tầu? Bởi vì vào những thập niên đầu thế kỷ trước, xu hướng chuộng hàng Tàu, rất phổ biến trong xã hội tiêu thụ Việt Nam thuộc Pháp. Cái gì là hàng Tàu mới được dùng - như bây giờ hàng ngaọi , hành hiệu mới là dân chơi vậy. Cho nên trên báo Loa - một tờ báo xuất bản vào những năm 30 của thế kỷ trước có hẳn một trang biếm họa về xu hướng này: Từ vài may quần áo cũng phải giới thiệu chính vải của Tàu, cao lâu Việt những cũng đầu bếp Tàu...những cái đó thì đã đành , nhưng thậm chí đến Lạc (Đậu phộng) rang cũng là lạc Tàu, Thậm chí đến tẩm quất (masage) cũng theo kiểu Tàu..vv...Bởi vậy, nến việc lấy hàng Tàu gán cho Phở cũng là dễ hiểu - khi người ta có thể muốn mượn thương hiệu để quảng bá. Hơn nữa nếu quả là người Tàu làm ra món Phở bán đắt như tôm thì sao họ không về ngay quê hương của họ để làm bán cho đồng loại của họ - Khi mà hàng trăm năm nay có bao nhiêu người Tàu từ Việt Nam trở về Trung Quốc? Chính vì món phở Việt không đơn giản chỉ thay trâu bằng bò, mà còn là cả cơ sở chế biến bánh phở mà xã hội Trung Hoa không phát triển cái hạ tầng cơ sở này. Hay nói đúng hơn là không có. Ở đây chưa nói đến tập quán và thói quen ẩm thực khác nhau. Bạn thử vào Sài Gòn tìm một tiệm người Tàu bán phở mà xem. Nó vẫn có hương vị mì vằn thắn. :) Theo tôi Tàu chẳng dính dáng gì đến phở Việt. Cái này nó cũng giống như môn Tử Vi từ ngàn năm nay coi là của Trần Đoàn Lão tổ sáng tạo. nhưng lại không hề có cơ sở nền tảng tri thức nào trong xã hội Trung Hoa từ cổ cho đến ngày này có thể sinh ra môn Tử Vi. Nó cứ như từ trên trời rơi xuống. Cứ học thuộc lòng các cách luận đoán cộng kinh nghiệm và phán đoán mà thôi. Nói đến đây chắc không thiếu gì người bĩu môi chê tôi là ít chữ, thiếu hiểu biết về Tử Vi. Nhưng khi hỏi tại sao nó như vậy thì chẳng thấy ai trả lời. Thí dụ như: Tại sao cung mệnh bắt đầu tính từ tháng Dần? Hoặc như tôi đã đặt vấn đề ngày xưa trên tuvilyso.net: Tại sao Địa Không - Địa Kiếp lại hành Hỏa (Theo Tử Vi Lạc Việt thì Không Kiếp thuộc Thủy). Hic! Tuy nhiên, tôi thừa nhận món ăn được coi là của Tàu ngon. Nhưng điều đó không có nghĩa Phở Việt là do người Tàu sáng chế!
-
Thui mừ! Trêu con người ta hoài! Không nhanh chân đến năm Mão cô bé lấy chồng thì lại ngâm bài thơ buồn bi wờ ấy chứ lị. :)
-
TRĂNG CÔ LIÊU Rừng khuya sương khói phủ mờ Gió hiu hiu lạnh, lời thơ não nùng. Đèo xưa nhắc bước tương phùng. Suối reo trên núi, chập chúng đắm say. * Bây giờ thơ gửi mây bay. Cánh thơ lãng đãng chất đấy sầu miên. Duyên tình hay nghiệp oan khiên? Mà sao mãi mãi trăng đêm nhắc sầu. * Tình còn thảng thốt đêm thâu. Mang mang như tiếng hát câu nhạc buồn. Gửi tình lên tận suối nguồn. Hỏi trăng xưa đã đem chôn ước thề? * Cho tôi về cất cơn mê Cất luôn cả ánh trăng thề hôm nao. Tiếng xưa buông giọt gầy hao. Sương bay hờ hững như ngao ngán buồn * Một mình trăng giữa cô đơn Nhìn mây năm cũ đang chờn vờn xa. Người đi hiu hắt trăng tà. Duyên thề sao nỡ gọi là cố nhân? Trăng Say.
-
VinhL viết: VinhL hiểu sai vấn đề rồi. Việc an cung Mệnh giữa Tử Vi Lạc Việt và Tử Vi do Trần Đoàn Lão tổ công bố không hề khác nhau. Không có việc vì đổi Thủy Hỏa mà cung an mệnh khác đi.Không tin - VinhL lấy một lá số bất kỳ theo Trình tử vi Việt và theo cách của Trần Đàn cũng y như nhau. Nếu sai là do lập trình sai.
-
Huygenn viết: Bản thân Thiệu Vĩ Hoa cũng còn thừa nhận Lục thập hoa giáp từ đâu mà ra thì từ chính ông ta đến các danh nho Tàu cổ kim vẫn chưa hiểu nổi. Vậy cần gì phải nặng lời vậy huygenn? Chỉ cần Huygenn chỉ cho Thiệu Vĩ Hoa và giới học thuật Trung Hoa bản chất của Lục Thập hoa giáp là đủ mà.Nếu có khả năng thì hãy làm như vậy! Nói cạnh khóe mà làm chi vậy?
-
Hồn rối nước - hồn dân tộc Nguồn: Vitinfo Thứ bảy, 9/8/2008, 10:11' VIT- Trong những năm gần đây, việc bảo tồn và phát triển môn nghệ thuật múa rối nước, một môn nghệ thuật đặc trưng của vùng đồng bằng sông Hồng, đang được nhiều địa phương trong vùng quan tâm. Nghệ thuật rối nước mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam, hồn Việt Nam. Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam có từ lâu đời Nghệ thuật múa rối nước được bắt nguồn từ làng Rạch xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Nó được thành lập vào thế kỷ thứ 10, và nơi đây cũng xuất hiện nghề truyền thống làm tượng, sơn mài, chạm khắc gỗ và làm con trò của môn nghệ thuật múa rối nước. Nghệ thuật múa rối nước đã ăn sâu vào lòng, vào tinh thần của những người dân nơi đây. Thế hệ trẻ đã được phát huy tinh thần ấy. Nơi đây, đã tổ chức nhiều lớp truyền nghề cho một số em thiếu nhi có năng khiếu về loại hình nghệ thuật này. Vào những lúc nông nhàn, những thành viên của phường thường trao đổi kinh nghiệm và sáng tác những trò diễn mới phản ánh cuộc sống của nhân dân trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đời sống văn hóa mới ở nông thôn. Các cấp chính quyền và một tổ chức phi chính phủ về bảo tồn văn hóa của Thụy Điển đã hỗ trợ cho phường múa rối nước một bể nước di động để đi lưu diễn phục vụ các lễ hội làng trong vùng; xây dựng lại thủy đình của làng làm nơi tập và biểu diễn. Các trò diễn của phường múa rối nước làng Rạch thường phản ánh những sinh hoạt thường ngày của người nông dân vùng lúa nước nhưu gieo cấy lúa, tát nước bắt cá, dệt vải, đấu vật, chọi trâu; phản ánh cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Trưng Trắc, Trưng Nhị, Trần Hưng Đạo 3 lần đánh tan quân Nguyên. Hiện nay, ở Việt Nam có 6 doàn nghệ thuật múa rối chuyên nghiệp ở trung ương, Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đắc Lắc và Quảng Trị. Ngoài ra còn có hàng chục phường múa rối nước ở nhiều địa phương của vùng đồng bằng sông Hồng. Trong những năm qua, nhiều đoàn múa rối nước của Việt Nam tham dự một số Liên hoan múa rối quốc tế đã giành được nhiều giải thưởng cao và đã gây được sự chú ý của khán giả nhiều nước. Giá trị của múa rối nước đã ăn sâu vào trong lòng không chỉ những người dân đất Việt mà cả một số quốc gia trên thế giới bởi chính giá trị độc đáo của nó. Múa rối nước chỉ còn ở Việt Nam. Tại Ấn Độ và các nước Đông Nam Á, chỉ có rối tay, rối que và rối dây. Còn múa rối nước người ta chỉ gặp ở Việt Nam và Trung Quốc. Theo giáo sư J. Pim-pa-ne-au, múa rối nước đã biến mất ở Trung Quốc và ngày nay "chỉ còn tồn tại ở Việt Nam". Nghệ thuật rối nước Việt Nam mang hồn Việt Nam Múa rối nước là một loại hình văn hoá dân gian đặc sắc của Việt Nam thể hiện một cách sâu đậm đời sống, tập tục tinh thần của và vật chất của người dân Việt Nam. Múa rối nước là một sáng tạo độc đáo của cư dân vùng châu thổ sông Hồng, được manh nha từ công cuộc chế ngự nước, cải tạo nước thành yếu tố số một cho việc sản xuất nông nghiệp. Phạm vi hoạt động của nó bao gồm nhiều tỉnh như Thái Bình, Phú Thọ, Thanh Hoá, Nam Hà, Hà Tây... Qua những tiết mục biểu diễn của nghệ thuật rối nước cổ truyền, những cảnh sinh hoạt bình thường về đời sống, tập tục tinh thần và vật chất truyền đời của người nông dân Việt Nam được thể hiện một cách rõ nét. Người Pháp gọi môn nghệ thuật này với những con rối duyên dáng là "Linh hồn của đồng ruộng Việt Nam" và đánh giá: "Với sáng tạo và khám phá. Rối nước đáng được xếp vào những hình thức quan trọng nhất của sân khấu múa rối". Hình ảnh đồng ruộng Việt Nam Các tích trò mà các nghệ nhân biểu diễn rối nước dàn dựng gắn liền với công việc đồng áng như cày, bừa, cấy lúa, chăn trâu, chăn vịt, đánh bắt tôm cá hoặc các trò chơi dân gian như đánh đu, múa hát mừng được mùa... và phong cảnh nông thôn. Sân khấu biểu diễn là mặt ao hồ tự nhiên hoặc nhân tạo được gọi là Thủy đình. Người biểu diễn lội dưới nước, dùng cây sào và dây điều khiển các con rối sau những tấm mành tạo nên không gian vừa huyền bí, vừa gần gũi với người xem xung quanh. Đến nay, nghề truyền thống làm tượng, sơn mài và chạm khắc gỗ đã bị mai một nhưng nghề làm con trò vẫn tồn tại và phát triển. Những con trò được làm từ gỗ sung vừa nhẹ, vừa dẻo và được tô vẽ bằng sơn ta để bảo quản lâu trong môi trường nước.Khuôn mặt và y phục của con rối mang những nét tiêu biểu của Việt Nam và chủ đề các tiết mục đều lấy từ lịch sử Việt Nam (Hai Bà Trưng, trận Bạch Đằng, chiến thắng quân Nguyên) hoặc lấy từ đời sống nông thôn Việt Nam như trò chọi trâu và đánh đu. Xưa kia, các gia đình nông dân đều giữ bí truyền về việc điều khiển con rối trong những tình huống đặc biệt. Ngày nay, họ bắt đầu dạy lại cho các nhà nghiên cứu trẻ. Đoàn múa rối trung ương không những chỉ giới thiệu các chương trình múa rối tay, múa rối que và múa rối nước mà còn động viên việc sáng tác các tiết mục mới cũng như việc nghiên cứu về lịch sử múa rối. Với những cố gắng của ngành múa rối nước Việt Nam, nghệ thuật này đang được bảo vệ và phát triển để xứng đáng với tầm vóc của nó trong di sản văn hóa dân tộc. Xuất phát từ những hình nộm đuổi chim, đuổi chuột phá hoại mùa màng, dựa vào thói quen làm ruộng nước ở vùng đồng bằng mà những "nghệ nhân - nông dân" xưa đã nghĩ ra trò chơi rối nước. Con rối được làm từ những đoạn gỗ thừa khi chế tạo cày bừa hoặc dựng nhà cửa. Dây gai làm lưới đánh bắt tôm cá được dùng cho việc điều khiển hoạt động của con rối xuyên qua ống tre, ống sậy. Bằng tính cần cù và óc sáng tạo của người nông dân, từ những nguyên vật liệu có sẵn ở các làng quê nông thôn mà những nghệ nhân dân gian đã làm nên những con rối rất sống động. Người ta đã thống kê được những phường rối nước tiêu biểu có truyền thống ở khắp vùng châu thổ sông Hồng, nơi có trình độ thâm canh lúa nước lâu đời. Đó là phường rối nước làng Nguyễn, làng Đông Các (Thái Bình), làng Đào Thục (Đông Anh, Hà Nội), Nam Trực (Nam Định), Vĩnh Bảo (Hải Phòng), Thạch Thất (Hà Tây)... Tuy nhiên, mỗi phường rối nước lại có những “miếng” riêng khi biểu diễn. Làng Nguyễn có bí quyết cho pháo nổ dưới nước, rồng khạc ra lửa. Làng Đào Thục có con rối nhảy khỏi mặt nước như đánh đu hoặc nhảy từ mặt nước lên lưng trâu bằng hệ thống xích, líp xe đạp... Đoàn múa rối nước do các nghệ nhân làng Nguyễn (Thái Bình) đã nhiều lần sang Italia, Pháp, Đức... biểu diễn được bạn bè quốc tế khen ngợi. Những nét riêng độc đáo trong phong cách biểu diễn của các làng đã góp phần làm nên sự thống nhất trong đa dạng của loại hình nghệ thuật đặc sắc này của dân tộc Việt Nam ta. Ngày nay, rối nước không còn được sử dụng nhiều như xưa ở các vùng nông thôn bởi sân khấu của nó đòi hỏi phải có Thủy đình... Song những sân khấu hiện đại của Nhà hát Múa Rối Trung ương, Nhà hát Múa Rối Thăng Long hay Thủy đình ngoài trời Viện Bảo tàng dân tộc học Việt Nam vẫn luôn thu hút khách, đặc biệt là khách du lịch quốc tế đến xem. Nhiều nghệ nhân đã sáng tạo ra những sân khấu độc đáo, thôn quê mà đậm đà bản sắc dân tộc. Thuỷ đình được những “nghệ nhân – nông dân” làm bởi những tấm bìa gọn nhẹ có thể tháo lắp. “Ao nước” là một thùng bằng nilon gấp gọn. Đến địa điểm biểu diễn chỉ cần trải “ao” ra, đổ vài xô nước, dựng Thủy đình, thả các con rối mini cùng cái đài cassette là biểu diễn được. Múa rối nước Việt Nam, môn nghệ thuật dân gian gắn liền với nền văn minh lúa nước xứng đáng là một di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc. Yếu tố độc đáo của rối nước là sử dụng mặt nước làm sân khấu để con rối diễn trò, đóng kịch. Buồng trò rối nước được nhân dân quen gọi là nhà rối hay thủy đình, được dựng lên giữa ao, hồ với kiến trúc cân đối tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam. Tất cả buồng trò, sân khấu cùng trang bị cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã... đúng là một khu đình làng thu nhỏ lại thành một cảnh đẹp như trong mộng với những mái uốn cong lung linh phản chiếu trên mặt nước. Sân khấu rối nước là khoảng trống trước mặt buồng trò, nó chỉ thực sự hoàn chỉnh khi đã vào chương trình biểu diễn và cũng bắt đầu mất đi ngay khi chấm dứt tiết mục cuối cùng. Múa rối Việt Nam trong lòng người ngoại quốc Múa rối nước Việt Nam không chỉ có vị trí trong lòng người Việt mà nó còn để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc đối với người ngoại quốc. Hình ảnh dân tộc Việt Nam và những truyền thống quý báu trong lịch sử đã được mang đến cho bạn bè thế giới thông qua hình ảnh những con rối nước. Sáng tạo những hình rối là người nghệ nhân đã gửi gắm cả vào đó tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của mình. Bà Kiris Aropaltio, GĐ Nhà hát Hevosenkenk Phần Lan - quốc gia phát triển mạnh về nghệ thuật múa rối rất hài lòng khi xem những tiết mục múa rối nước ở Việt Nam. Bà cho biết, bà thật sự bất ngờ trước loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc của Việt Nam bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn, uyển chuyển giữa những con rối với âm thanh, ánh sáng, mặt nước của nó. Múa rối Việt Nam luôn xen các yếu tố hài hước khiến cho người xem cảm thấy vô cùng thoải mái. Điều đó đã tạo nên ý nghĩa giáo dục vô cùng lớn đối với thế hệ trẻ Việt Nam về truyền thống anh hùng của dân tộc. Mặt khác, nó cũng có tác dụng giúp cho khán giả quốc tế hiểu thêm về đời sống văn hoá, tinh thần và con người Việt Nam. Trước sự thể hiện của các nghệ nhân múa rối nước Việt Nam, bạn bè các quốc gia có nghệ thuật múa rối mong muốn có được sự hợp tác về kinh nghiệm biểu diễn cũng như tình thần nhiệt huyết của người Việt. Đất nước Phần Lan - một trong những quốc gia phát triển về nghệ thuật múa rối- cũng rất mong muốn có sự hợp tác về kinh nghiệm của các đồng nghiệp Việt Nam, với hi vọng có thể giúp trẻ em và nhân dân Phần Lan hiểu thêm về nền văn hoá đa dạng, giàu bản sắc dân tộc của quốc gia họ. Khán giả nước ngoài cũng sẽ thích rối nước VN Buổi trình diễn nghệ thuật múa rối nước của Việt Nam tại Phần Lan trong tháng 9 tới là một lời khẳng định cho sự phát triển của loại hình nghệ thuật độc đáo này của nước ta. Bà Kirsi Aropaltio cũng đã đưa ra một lời khẳng định chẳc chắn về sự thành công của đoàn nghệ thuật múa rối Việt Nam tại Phần Lan. Hợp tác quan hệ giữa hai nước Phần Lan và Việt Nam sẽ được nâng cao hơn về mặt tình thần. Chỉ có mối quan hệ văn hoá mới giúp cho hai nước hiểu nhau hơn. Nghệ thuật múa rối ở Phần Lan tương đối phát triển song múa rối nước thì chưa hẳn. Chính vì vậy, đây là một dịp để Việt Nam thể hiện được bản sắc của mình và nó xứng đáng là một sự kiện văn hoá. Múa rối nước Việt Nam vì thế được gọi là “linh hồn của đồng ruộng Việt Nam”. Nghệ thuật múa rối nước xứng đáng là một loại hình nghệ thuật đặc sắc của dân tộc, sống mãi trong lòng người dân Việt và cả những bạn bè yêu thích rối nước trên thế giới. Thanh Bình
-
Hì - Phạm Thái Hòa nói chính xác - Ở Việt Nam có từ lâu rồi - Có điều là không biết Trung Quốc không có môn đoán này không? Nếu có thì chắc cũng lại do Lý Thiết Quài đại tiên thoắt nhiên hạnh ngộ ra môn bói toán siêu việt này. Cũng như Trần Đoàn tổ sư nghĩ ra môn Tử Vi vậy.
-
Bơ vơ Tôi về với bóng của mình. Trong vô thường cũ, trong tình ngày thơ. Còn ai trong cõi đợi chờ? Dáng ngày xưa đã hững hờ trong tôi. * Nhớ xưa ai thoáng nét cười Mà đem đi cả mây trời bơ vơ. Trăng say
-
PHỤC CHẾ Y PHỤC THỜI HÙNG VƯƠNG Y phục chiến binh thời Hùng Vương Hình minh họa do Thiên Sứ thực hiện Cơ sở phục hiện: * Di vật khảo cổ: Dây lưng đồng, qua, mác đồng, giáp chắn ngực đồng, bao tay đồng. * Di sản văn hóa phi vật thể: Tranh dân gian Việt.
-
LỜI BÀN CỦA THIÊN SỨ Quẻ Sinh Đại An - đây đích thực là ngôi mộ của cụ Đề Thám. Nên nhanh trong phục hồi vì khí phách và lòng dũng cảm của Ngài dành cho dân tộc Việt. Hy vọng sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến với hậu thế mà người anh hùng Đề Thám mong ước lúc sinh thời.
-
Kỳ bí mộ Đề Thám tại Tân Lập Kỳ II: Bức thư cuối cùng gửi cha nuối Bá Phức. Nguồn: daidoanket.vn 9:56 AM, 08/08/2008 Từ một ngôi mộ những tưởng là của người “hành khất” thoắt đâu thành ra mộ của người anh hùng Hoàng Hoa Thám. Trong khi những hiện vật sinh động đã tìm thấy chưa được xử lý “thông tin” thì người dân Tân Lập đã cùng nhau mở rộng thêm ngôi đền thờ bên ngôi mộ. Những chuyện lạ cũng bắt đầu phát lộ. Di ảnh anh hùng Đề Thám Khơi thông giếng cổ Sau khi ông Nguyễn Văn Sử (cháu 5 đời cụ Lý Loan ở Tân Lập) tìm thấy hiện vật và tờ giấy ghi bài thơ Nôm, nhiều người dân xóm Tân Lập, thôn Cẩm Trang, xã Mai Trung, huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang càng tin ngôi mộ ông “hành khất” kia chính là mộ cụ Đề Thám. Nhiều người dân trong xóm đã tới ngôi miếu nhỏ thắp hương. Năm 2004, toàn bộ 42 hộ dân ở Tân Lập đã tự nguyện đóng góp và xây dựng một ngôi đền ba gian sát tại ngôi mộ “cụ Đề”. Ngôi miếu nhỏ dựng khi trước trở thành hậu cung của đền. Di ảnh chân dung cụ Đề Thám cũng được thờ ở đây. Và hàng năm, cứ đến ngày 9/5 âm lịch, dân làng lại tổ chức lễ giỗ long trọng lãnh tụ Hoàng Hoa Thám. Những người thân của cụ Đề Thám nhiều khi đã về dự. Ngày giỗ năm nay, những người thân hậu duệ của gia đình cụ Đề Thám ở Hà Nội đã cung tiến một bức tượng đồng bán thân vị lãnh tụ. Mộ và đền Đề Thám ở Tân Lập Trong nhiều đoàn khách tìm về Tân Lập, có đoàn của Trung tâm Nghiên cứu và phát triển tiềm năng con người. Ông Nguyễn Văn Sử kể: “Một vài người của Trung tâm bằng khả năng của mình đã khẳng định: ngôi mộ kia đích thực là của cụ Đề Thám”. Ông Tiếp – Thành viên Tổ tự quản kể: “Có một người phụ nữ đã đứng thắp hương rất lâu bên mộ và nền nhà cầu Thày Mai. Cô khấn rất lâu rồi bảo: Phía trước mặt có một giếng cổ cần được khơi thông”. Tất cả thành viên tổ tự quản không ai tin vì trước mặt là cánh đồng. Hơn nữa họ lại là cư dân sở tại. Nhà ngoại cảm nữ vẫn khẳng định chắc chắn. Cô còn nói: Dưới giếng có hai phiến đá lớn. Mỗi phiến lớn bằng chiếc chiếu đơn... Ông Sử kể: “Nghe nhà ngoại cảm nói, tôi sực nhớ tới lời anh Lãm tôi truyền lại : Ngày cụ Đề ở nhà cầu Thày Mai thường ra giếng cổ ở cánh đồng để tắm giặt. Nhiều lúc cụ còn rủ cả con cụ Lý Loan (ông nội ông Sử) ra đó”. Thế nhưng để biết đích xác vị trí của giếng cổ thì ông Sử cũng chịu. Thế nên, để chứng minh, một số người dân đã mang cuốc, xẻng, xà beng ra đồng đào theo vị trí mà nhà ngoại cảm nữ chỉ. Đó là chỗ vũng nước tựa hình chiếc nón để ngửa giữa cánh đồng Yên Thế. Người dân Tân Lập làm đồng quanh đó kể: Tại vũng nước này, trâu bò chỉ đến uống nước chứ không đầm mình xuống như nhiều vũng nước khác. Và kết quả, thật lạ. Khi đào sâu xuống, người dân thấy một tảng đá xanh nằm chẹn ngang, hình như nó bị sụt đất mới như vậy. Đào sâu hơn nữa thì phát hiện đây đúng là giếng cổ và có tảng đá thứ hai. Xung quanh giếng được kè bằng đá, lên chút nữa là xếp gạch ong. Giếng có độ sâu 3,5m, đường kính 6m. Hiện người dân đã phục dựng xong giếng bằng tiền ủng hộ”. Theo ông Sử và ông Tiếp: “Nhà ngoại cảm nữ này có nhã ý đề nghị sẽ mua lại mảnh đất có nền nhà cầu Thày Mai và ngôi mộ. Sau đó sẽ tu tạo khang trang di tích và trao lại cho xã quản lý. Tổng số kinh phí dự kiến cô sẵn sàng chi là 1 tỷ đồng. Thế nhưng, vì người dân còn có những ý kiến khác nhau nên việc này chưa thực hiện được". Bà Ngô Thị Hiền kể: “Sau khi phát hiện ra giếng cổ, có một nhà phong thủy ở Ninh Bình tên là Kích về chơi với đồng nghiệp ở làng là ông Dự có nói: Ngôi mộ này rất thiêng. Trên đầu hài cốt vẫn còn thanh kiếm lệnh đấy”. Còn ông Sử bổ sung thêm: “Anh Lãm tôi nói rằng: Ở bên đùi của hài cốt có viên ngọc dết rất quý của cụ Đề”. Tất nhiên, những câu chuyện như thế này vẫn cứ tiếp diễn vì nó chưa được kiểm chứng. Gần đây, chính quyền xã Mai Trung lấy làm sốt sắng đệ đơn đề nghị lên các cấp có thẩm quyền và Viện Lịch sử, Viện Khảo cổ học mong được tiến hành khai quật để làm sáng tỏ vấn đề. Nhưng vì nhiều nguyên nhân, giới khoa học vẫn chưa thể vào cuộc. Bức thư cuối cùng gửi cha nuôi Bá Phức Ông Sử mời chúng tôi về nhà sau khi đã đi vòng một lượt các dấu tích liên quan đến mộ cụ Đề. Tại gian giữa nhà, là bàn thờ gia tiên và di ảnh cụ Đề Thám và bà Ba Cẩn. Pha trà, mời nước chúng tôi xong, ông Sử nói: “Ngoài câu đối với cụ Đề dịp chúc Tết năm mới, cụ Lý Loan có truyền lại cho lớp con cháu chúng tôi nội dung bức thư của cụ Đề gửi cho người cha nuôi là Thân Bá Phức. Ông Thân Bá Phức trước cũng là người nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước sau ra hàng Pháp. Ông Bá Phức đã “lợi dụng” tình cảm cha con đến thăm Hoàng Hoa Thám với ý định đặt mìn giết chết người anh hùng. Thế nhưng, vì cảnh giác, nên cụ Đề không những thoát nạn mà còn tương kế tựu kế đánh tan đội quân Pháp”. Tưởng rằng sau lần kế hoạch thất bại ê chề ấy, Bá Phức sẽ không dám viết thư dụ hàng Đề thám nữa. Ai dè, Bá Phức vẫn viết thư. Lễ rước tượng đồng anh hùng Đề Thám Phẫn uất, cụ Đề Thám đã trả lời thư bằng một bài thơ. Ông Nguyễn Văn Sử đọc liền một mạch cho tôi chép lại 44 câu, toàn văn bức thư cuối cùng của cụ Đề Thám gửi cha nuôi Thân Bá Phức. Đây là nội dung: “Đọc những lời trong thư cha dặn giữ. Hoàng Lệ con hoen ố mảnh nhung y. Nhớ ngày nào con dứt áo ra đi. Trong quá khứ cha ghi niềm kiêu hãnh. Lưỡi kiếm nọ máu kẻ thù còn dính. Mà anh hùng tim lạnh bởi hư vinh. Nơi phong ba con vùng vẫy với nghê kình. Hám mồi béo cha nộp mình cho ngư phủ. Chốn rừng xanh tung hoành con mãnh hổ. Bả vinh hoa cha làm con ngây ngất cả tâm hồn. Nhưng không chuyển được lòng son, dạ sắt. Mây Hồng Lĩnh còn mịt mù xanh ngắt Sông Nhị Hà còn chứa chất mối căm hờn. Đời của con là của cả giang sơn. Dẫu gió kép mưa đơn đâu sá kể. Ôi lúc cha già vui vầy nơi nhị vị. Là lúc con đương rầu rĩ khóc non sông. Đêm canh trường cha nằm mùng gấm đệm bông. Nơi rừng thẳm con nằm chông nếm mật. Khi cha say sưa hít thở mùi hương trầm thơm ngát. Thì mũi con nghẹt thở cổ khô khan. Tai văng vẳng nghe tiếng hồn khóc oan nơi thảm cảnh. Khi ngực cha đầy những mề đay kim khánh. Thì bên mình con lấp lánh bóng gươm kiều. Khi cha say sưa với thiếu nữ yêu kiều. Là lúc con tận tụy với tình yêu Tổ quốc. Nghĩa là cha mang tài năng trí óc. Mưu vinh thân làm mục đích cuối cùng. Thì con nguyện đem xương trắng máu hồng. Đền nợ nước non sông là nơi chí nguyện. Con với cha là hai trận tuyến. Cha tiến một đường, con tiến một đường. Thôi từ nay hai chữ Cương Thường. Con xin hạ xuống để thờ sang đất nước. Cuộc đoàn viên xin cha đừng mong ước. Cuộc hội đàm xin hẹn cha bằng đại bác với thần công. Bức thư này là bức thư cuối cùng. Tái bút tình thư. Để chờ ngày kết án kẻ gian phi. Thanh kiếm này con tuốt sẵn chờ khi”. Nội dung bức thư này chưa thấy công bố trong tài liệu nào. Và đọc đến đây, chắc bạn đọc cũng mong sự việc: Có đích thực ngôi mộ bên đồi Yên Ngựa ở Tân Lập là mộ anh hùng Đề Thám không? Mau chóng được sáng tỏ. Thiết nghĩ: việc sáng tỏ này cũng không đến nỗi khó khăn vì: Hài cốt trong ngôi mộ vẫn còn. Và tờ giấy gió ghi bài thơ Nôm cùng hiện vật lấy từ trong lòng mộ vẫn đang được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Bắc Giang. Mạnh Thắng - Thu Hiền
-
Về nguyên tắc đây là một quẻ tốt! Nhưng sinh mộc - là Mộc mới sinh còn yếu - Đừng để sự thân tình thái quá - Tốc Hỷ hỏa - làm mất lòng nhau về sau. Nên có một khoảng cách giữa tình bạn - tình yêu.....
-
Khonghoi thân mến. Tôi xin trả lời như sau: 1) Thị trường nhà đất: Đúng là cuối năm sự giao dịch trở lại bình thường. Nhưng không sốt. 2) Về lời tiên tri của ông Juselino cho chiến tranh Iran: Điều này tùy thuộc vào việc tôn vinh hay không nền văn hiến huyền vĩ Lạc Việt trải gần 5000 năm lịch sử trước thời điểm đó và dưới bất cứ hình thức nào thì chiến tranh sẽ không xảy ra. Mong bạn Khonghoi đừng cho rằng tôi chủ quan và cực đoan trong việc minh chứng giá trị văn hiến Việt. Thiệu Khang Tiết - Triết gia - chiêm tinh gia thời mạt Tống - chỉ nghe tiếng chim hót mà đoán nhà Nam Tống sắp mất nước thì việc tôn vinh nền văn hiến Việt sẽ thay đổi một vài sự kiện không có gì là lạ. Nhưng NẾU chiến tranh xảy ra thì đây là lần đầu tiên cả thế giới sẽ biết thế nào là sự vô nhân của chiến tranh trong lịch sử văn minh nhân loại.
-
Nên có bầu năm Kỷ Sửu 2009 và sinh năm Canh Dần.Đứa thứ hai sinh năm Ất Mùi. 2015. Chúc vạn sự an lành