-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
VinhL thân mến. Tôi đề nghị được đăng bài này trên trang chủ của website lyhocdongphuong.org.vn. Cảm ơn sự đóng góp của VinhL
-
Còn hai ngày nữa là đến ngày bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ. Thiên Sứ quyết định ông McCain làm tổng thống Hoa Kỳ
-
Tuần sau TTCK không hề đem lại niềm vui cho người bán.
-
BẾN MƠ Nguyễn Bính Bến mơ thuyền đậu, dưới thuyền mơ. Tôi đã mơ màng chuyện tóc tơ. Bỏ dở khăn thêu, nàng lẳng lặng Đến xem chàng nối mấy vần thơ. Bỗng nàng sung sướng vỗ tay reo, -Thi sĩ, chồng em, anh đáng yêu! Những vận thơ anh huyền ảo quá! Và thiêng liêng quá! Và cao siêu! Chàng ngước nhìn nàng trong luyến ái: -Mình ơi! mình nối hộ thơ, mình! -Em chả nối thơ đâu đấy nhé! Suốt đời em chỉ muốn hôn anh. Một chiếc, một chiếc lại một chiếc, Má chàng in có vạn đôi môi. Chàng cười như nấc đi từng lúc: - Anh lạy cô mình, anh xin thôi! Cảm tác BẾN MƠ Thiên Sứ Thuyền đâu còn đậu bến sông mơ. Lặng tiếng nguyệt cầm bặt tiếng tơ. Chỉ thấy trăng vàng buông sắc lạnh. Dâng buồn đêm vắng nhạt tình thơ. * Còn đâu gió thổi suối ngàn reo. Bên dáng thu xưa quyện ráng chiều. Gieo tứ thơ yêu thơ mộng quá. Trong hồn ngây ngất gió phiêu diêu. * Một thoáng thu về trong mắt ai. Cũng nghiêng cánh hạc gợi duyên tình. Chất đầy mơ mộng trong em nhé. Ngại ngùng em nói chỉ yêu anh. * Lá rụng mùa thu bao nhiêu chiếc? Trong chiều tàn tím ngắt đôi môi. Ruột tằm như đứt đi từng khúc. Mơ mộng xưa đành chỉ mộng thôi.
-
Xin chào Crescent. Rất cảm ơn bạn đã có câu hỏi là một thắc mắc khá phổ biến trong xã hội. Tôi nói "khá phổ biến trong xã hội" vì từ hàng ngàn năm , những phương pháp ứng dụng của Lý học Đông phương đã rất phổ biến trong xã hội Việt Nam. Và cũng chính vì lẽ đó mà những câu ca, câu phú thuộc phạm vi ứng dụng của Lý học Đông phương cũng rất phổ biến trong dân gian, khiến cho nhiều ngườinn tin vào đấy như là một yếu tố tiên quyết. Thí dụ như: Trai Đinh Nhâm Quý thì tài. Gái Đinh Nhâm Quý qua hai lần đò. hoặc: "Thân Tý Thìn tam hợp"; "Thìn Tuất sửu Mùi tứ hành xung". Thắc mắc của bạn là một trong nhiều trường hợp tương tự với quan niệm cho rằng: Con gái mà mang chữ Canh sẽ phạm vào "Canh cô , mồ quả". Thực ra, đã từ lâu, chúng tôi đã chứng tỏ rằng: Trong lý học Đông phương thì để ứng dụng tiên tri có rất nhiều yếu tố tương tác. Cụ thể như trong Tử Vi có hàng trăm yếu tố tương tác qua các đại lương qui ước là những vì sao trong phương pháp này. Để có bảng tử vi cho một con người thì các yếu tố Ngày giờ tháng năm sinh chỉ là những dữ kiện cần thiết. Thiên Can Canh mà bạn đề cập tới ở trên chỉ là một trong ít nhất là 8 yếu tố có tính dữ kiện ban đầu của khoa Tử Vi. Bởi vậy, việc trong dân gian quan niệm có yếu tố tiên quyết "Con gái mang chữ Canh thì lận đận" là một sai lầm.
-
Trong gần 5/ 6 năm trước. Khi tiên đoán về các sự kiện lớn trên thế giới. Chiến tranh Irak, sóng thần, .....Các chiêm tinh gia quốc tế hầu hết đều đoán sai. Chỉ có Lạc Việt độn toán là chính xác nhất. Điều này còn ghi nhận trên các web liên quan. Chúng tôi vẫn tin rằng ông da trắng làm tổng thống Hoa kỷ chứ không phải ông da đen. Cho dù chỉ còn vài ngày nữa là có kết quả và đến nay thì ông da den đang dẫn điểm có vẻ vượt xa ông da trắng.
-
Thị trường Việt Nam lên xuống theo hình răng cưa. Nhưng xu hướng chung là lên. Đến cuối năm chốt ở trên 400 điểm. Điều này tôi đã nói lâu rồi. Tôi dự báo điều này nhân danh Lạc Việt độn toán, hoàn toàn không có tý tri thức nào về kinh tế hiện đại cả. Sau ngày 4 đến 6 ngày - tính từ hôm nay - lại xuống. Cụ thể thì ngày mai lên( 3/ 10 Âm lịch).
-
Điều này tôi và anh em Lạc Việt độn toán đã nói từ lâu rồi - gần hai năm trước: Đảng Cộng Hòa thắng cử ở phút chót. Obama thất cử. Chúng tôi không thay đổi lời dự báo của mình.
-
Tôi đã tiên tri từ trước: Sau ngày 26 hoăc 28 Âm lịch thi trường sẽ xuống. Anh chị em xem kỹ lại đi.
-
Có một phương pháp tính vận hạn năm theo 12 con giáp lưu truyền trong dân gian. Xin trình bày ở đây để anh chị em tham khảo. Nguồn: Quangduc.com HÓA CẦM CHƯỞNG Hóa cầm chưởng là dùng 12 con vật để tượng trưng. Mười hai con vật đó cũng là 12 địa chi đọc ra một tên khác: 1. Ngưu hồi sơn (Sửu) 2. Hổ nhập nội (Dần) 3. Thổ lộng nguyệt (Mẹo) 4. Long đắc vũ (Thìn) 5. Xà hãm tỉnh (Tỵ) 6. Mã bị đao (Ngọ) 7. Dương thảo ngạn (Mùi) 8. Hầu thực quả (Thân) 9. Kê hồi viên (Dậu) 10. Khuyển cuồng phong (Tuất) 11. Trư bị hỏa (Hợi) 12. Thử ngộ điền (Tý) - Ngưu hồi sơn: Là trâu về núi. Ở núi tuy không có cỏ để ăn nhưng vẫn có lá cây non và xa loài người thì tấm thân khỏi cơ cực. Nên cẩn thận trong việc làm ăn, chắc có lợi thì mới nên làm. -Về tình cảm: Trọn năm có thể gặp vài sự xung đột. Đừng nên quá nghi ngờ người chung quanh, phải nên tha thứ (năm đói khổ). -Hổ nhập nội: Là cọp về đồng bằng, sa mạc, không có mồi để ăn. Đừng làm gì phải bỏ ra vón to, chờ hế vận xấu sẽ hay. -Về tình cảm: Có nhiều lo âu trong gia đình do hào con gây ra. Nếu tuổi cô độc thì lại hay nghĩ đến thú giang hồ, nhưng sẽ gặp nhiều dịp bị giữ chân lại quê hương (Bất lợi và khó khăn). -Thố lộng nguyệt: Là thỏ giỡn trăng. Ấy là một năm đầy vui vẻ, hạnh phúc, công danh sẽ toại, phỉ lòng chờ đợi bấy lâu. -Về tình cảm: Người vui cảnh cũng chiều lòng, thật là một bầu trời tươi đẹp, ước thì được, muốn thì thành, gia đình êm ấm, tình yêu toại nguyện. -Long đắc vũ: Là rồng được cơ hội làm mưa cho thiên hạ. Một năm hay lo việc bao đồng, chỉ đi lo việc cho kẻ khác. -Về tình cảm: Nếu muốn tính việc gì thì nên thi hành ở đầu năm, đùng để cuối năm không tốt, thí dụ việc hôn nhơn chẳng hạn. -Xà hãm tỉnh: Là rắn bị nhốt dưới giếng (hay rớt xuống giếng). Năm này bị tai nạn, xui, xấu lắm. Làm việc gì cũng không xong, phải chờ qua năm tới mới đuợc. Nên dè dặc đừng nóng tánh, vội vàng sẽ thất bại to. -Về tình cảm: Được êm vui, nhưng cũng nên để ý đừng để tâm hồn vị ảnh hưởng của việc làm ăn không kết quả. -Mã bị đao: Ngựa chiến bị thương. Đông xông tây đột, làm bao nhiêu công chuyện cho người này kẻ nọ để rốt cuộc mình bị thiệt hại, nhưng nếu ta thận trọng một tí thì chẳng hề gì. -Về tình cảm: Phải lo cho thành danh rồi mới nên nghĩ đến hôn nhơn. -Dương thảo ngạn: Là dê trên bờ cỏ. Dê ăn cỏ non đầy đủ, là một năm sung túc, đầy hy vọng, danh cũng nên mà lợi cũng thành. -Về tình cảm: Đừng ỷ tài danh đắc thành rồi lại phóng túng sẽ mất phước. -Hầu thực quả: Khỉ ăn trái cây. Khỉ được nhiều trái cây ăn no đủ, năm này làm việc gì dù to dù nhỏ đều có lợi nhiều: Buôn bán thì đông khách, làm ruộng thì được mùa. Vận đỏ lắm! -Về tình cảm: Nên cẩn thận lời nói, nghĩ sao nói vậy, đừng giả dối mình để khỏi giả dối với người, vì người ta tin tưởng ở mình lắm. -Kê hồi viên: Là gà về vườn. Gà về vườn thì được no đủ, là một năm vui vẻ, nhiều thức ăn, có lúa không thiếu. Cầu tài có tài, cầu quan được quan, biết tin ở mình thì mọi việc đều thành công rực rở. -Về tình cảm: Việc dự tính đã lâu được thành công vì biết liều lĩnh. -Khuyển cuồng phong: Là chó bị gió dữ. Gặp một năm không tài lộc, kém sức khỏe, năm ngoái đã lận đận, năm nay vẫn còn một ít lo âu. Có thể sẽ gặp nhiều tai nạn, nhưng can đảm lên sẽ đánh đổ được tất cả trở ngại. -Về tình cảm: Không nên nhiều tự ái, nhúng nhường một tí sẽ vượt khỏi mọi người. -Trư bị hỏa: Heo bị lửa, tức là heo quay. Heo quay làm vật hy sinh cho người ta xực ngon miệng, mình thiệt thân. Vậy mỗi khi làm việc cho người ta phải suy nghĩ cho chín chắn rồi hãy làm, kẻo mang hại. -Về tình cảm: Nếu năm rồi vợ chồng thường hay có cuộc cãi vã thì năm nay sẽ không còn gặp cái cảnh ấy nữa. Bầu không khí tình cảm sẽ êm dịu. Người cô độc gặp cảnh vui tươi càng hạnh phúc tâm hồn. -Thử ngộ điền: Là chuột gặp đồng lúa. Sướng quá! Tha hồ mà ăn, ăn biết bao giờ cho hết. Tiền bạc không cần cũng đến, có thể trúng số hay đánh bài ăn. -Về tình cảm: Là một năm sẽ được đắc thắng về tình ái, rồi sẽ dùng nhiều thì giờ để viết những bức thư tình cảm hoặc cho người yêu hoặc cho những bạn ở xa xuôi. CÁCH XEM: Đến năm nào thì khởi đếm Ngưu hồi sơn tại năm đó, rồi theo chiều thuận kim đồng hồ tính tới tuổi mình định xem. Thí dụ 1: Tuổi Thìn, năm nay là năm Mẹo (Đinh Mẹo, 1987), khởi đếm Ngưu hồi sơn tại Mẹo, Hổ nhập nội tại Thìn. Vậy tuổi Thìn năm nay gặp Hổ nhập nội, coi Hổ nhập nội ở trước mà định tốt xấu. Thí dụ 2: Người tuổi Mùi, năm nay năm Mẹo khởi đếm Ngưu hồi sơn tại Mẹo, Hổ nhập nội tại Thìn, Thố lộng nguyệt tại Tỵ, Long đắc vũ tại Ngọ, Xà hãm tỉnh tại Mùi. Vậy tuổi Mùi trong năm Mẹo này bị Xà hãm tỉnh, coi nơi Xà hãm tỉnh mà bàn tốt xấu. Đến năm tới là năm Thìn, khởi Ngưu hồi sơn tại Thìn, năm tới nữa Tỵ, khởi Ngưu hồi sơn tại Tỵ vân vân ...
-
Lạc Việt độn toán ở ngay trang chủ của diễn đàn.
-
Đồng ý với ý kiến của Laviedt. Trường hợp của Langdu và Huy Khôi. Sau khi Artemisia thông báo thì nhờ anh chị em quản trị đưa hai bạn này vào lớp học.
-
Vấn đề là các cụ xử lý thế nào. Nếu xiết nợ thì đúng là không tốt. Nếu` tôi được tham gia ý kiến thì tôi đề nghị giãn nợ và giảm lãi xuất từ tháng 6 - 7 gì đó.Tôi đã dự báo rằng: Từ tháng 9 Âm đến cuối năm là thời gian để các nhà lãnh đạo thế giới quyết định số phận kinh tế năm sau. Việt Nam là một phần từ của thế giới. :unsure:
-
Anh chị em Quản trị đưa nick của Zozii vào lớp học. Ngày 28 Âm lịch mới đóng cửa. Từ nay đến 28 vẫn tiếp tục
-
VinhL thân mến. Tôi đã mua được cái máy màu vàng ở hình trên nhưng chưa biết được cách sử dụng. VinhL có biết cách sử dụng cái máy này như thế nào có thể giới thiệu tài liệu giúp tôi. Còn cái máy màu màu đen ở trên tôi đang tìm mua. Wildlavender đang đặt mua cho tôi. Nếu có thể được nhờ VinhL tìm giúp cho cách hướng dẫn sử dụng. Tôi nghĩ anh chị em lớp Phong thủy Lạc Việt rất cần những máy này. Cảm ơn VinhL nhiều.
-
Về lý thuyết con đầu sinh năm nào cũng được. Nhưng tốt nhất sinh năm Tân Mão. Còn không thì lấy năm Tân Mão sính đứa thứ hai. Có thể chọn năm Giáp Ngọ 2014 sinh đứa thứ hai cũng được.
-
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam Sẽ tranh luận công khai 3 vấn đề chính với Thiền sư Lê Mạnh ThátChủ nhật, 16/03/2008, 01:51 (GMT+7)Trao đổi với phóng viên Báo SGGP trong ngày 15-3, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho biết, Thường vụ hội đã họp bàn các vấn đề liên quan và cho rằng, tất cả những phát hiện mới về lịch sử dân tộc đều đáng trân trọng, tuy nhiên để khẳng định một vấn đề cần có những tranh luận công khai, minh bạch về mặt khoa học, cần có những cứ liệu khoa học xác đáng, đủ sức thuyết phục. Với trách nhiệm của mình, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam quyết định sẽ tiến hành thảo luận công khai về những vấn đề mà Thiền sư Lê Mạnh Thát đưa ra. Hiện nay Thường vụ hội đã giao cho nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam liên hệ với Thiền sư Lê Mạnh Thát để tiến hành thảo luận theo 1 trong 2 phương thức: Tổ chức một hội thảo bàn tròn mang tính chuyên gia với sự có mặt của thiền sư cùng những bạn đồng nghiệp của thiền sư và một số nhà khoa học đầu ngành về lịch sử và những ngành liên quan như khảo cổ học, thư tịch Hán Nôm, ngôn ngữ học...; tổ chức thảo luận công khai trên Tạp chí Xưa và Nay (cơ quan ngôn luận của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam). Tại đây các học giả có thể tham dự bằng các bài viết tham gia thảo luận, sau đó hội sẽ tiến hành tổng kết một cách khách quan, trung thực. Nếu thấy cần thiết, Tạp chí Xưa và Nay sẽ dành toàn bộ nội dung để đăng các bài thảo luận, tranh biện trong một thời gian, đảm bảo chuyển tải hết nội dung cuộc tranh luận khoa học này và những vấn đề liên quan. Theo GS Phan Huy Lê, do các công trình nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát liên quan đến rất nhiều vấn đề, nên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đề nghị tập trung vào 3 vấn đề lớn mà Báo Thanh Niên đã nêu lên và dư luận xã hội đang chờ đợi ý kiến của giới sử học: 1. Thời An Dương Vương và nước Âu Lạc có tồn tại trong lịch sử hay không? 2. Cuộc xâm lược của Triệu Đà và thời kỳ đô hộ của nhà Triệu, nhà Hán cho đến khởi nghĩa Hai Bà Trưng có thực hay không? 3. Sự ra đời và phát triển đến trình độ cao của chữ viết thời Hùng Vương đã có cơ sở khẳng định chưa? Cơ sở tư liệu cần mở rộng cho tất cả các nguồn sử liệu liên quan, từ tư liệu thành văn trong thư tịch của ta, của Trung Quốc, trong hệ thống kinh và văn học Phật giáo, cho đến tư liệu khảo cổ học và các tư liệu văn học truyền khẩu trong kho tàng văn hóa dân gian. “Đây là những vấn đề về lịch sử dân tộc nên cần thảo luận trên cơ sở phương pháp luận của khoa học lịch sử. Vì vậy, cuộc thảo luận cần đảm bảo tính dân chủ, cởi mở, thẳng thắn, trung thực trên tinh thần thân ái, tôn trọng lẫn nhau, cùng chung sức tìm tòi, khám phá sự thật lịch sử, với ý thức trách nhiệm cao của giới sử học trước nhân dân và lịch sử dân tộc!” - GS Phan Huy Lê nhấn mạnh. Trần Lưu
-
Thứ sáu, 11/1/2008, 10:36' Ký ức Đường Lâm Nguồn: Vitinfo Những ký ức về quê hương ta dần dần hiện. Quê hương là gì để mỗi người khi xa quê lại lưu luyến, lại xao xuyến đến thế. Những ký ức êm đềm đó như một ảo ảnh, như một khúc nhạc vô hình nhắc ta thêm nhớ, thêm yêu quê mình. Làng cổ Đường Lâm, nơi gắn bó cả tuổi thơ tôi. Nhớ từng gương mặt, nhớ giếng nước sân đình, cây đa xóm nhỏ. Hình dáng ông nội Các bà ,các dì Nhớ ông Từ Đình làng Mông Phụ Nhớ hình dáng chị hàng xóm. Chùa Mía tọa lạc tại thôn Đông Sàng, xã Đường Lâm. Ngõ nhỏ phố nhỏ. Giếng cổ đá ong Nhà cổ Mông Phụ, dấu tích 250 năm. Nhớ chị bán rau, vẫn hắt hiu một mùa no - đói Trẩy hội ngày xuân, thôn nữ tưng bừng khoe sắc. Câu hát vẫn du dương nhắc ta thêm nhớ, thêm yêu quê mình. "Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một Mẹ thôi Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành người..!" (Bài và ảnh: HG)
-
Giai đoạn huyền sử trong ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ (1697) và KHÂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC (1884) Trần Xuân An Nguồn: http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/suy_nvms...tlscdnta_b1.htm 1 <h5 style="margin: 0in 0in 0pt; text-indent: 0in; line-height: normal;">Huyền sử và quan niệm về việc viết lịch sử</h5> Các nhân vật và sự kiện lịch sử một khi được ghi nhận như những con người trần phàm với những sự việc cũng trần phàm nhưng rất đáng kể, cần ghi lại trong kí ức dân tộc, trong sách sử, khi ấy, sử kí đã thật sự bước hẳn sang giai đoạn phi huyền sử. Tuy nhiên, trước khi xuất hiện các sử gia tỉnh táo, sáng suốt như vậy với các ghi chép, các bộ sử, lịch sử những dân tộc, đất nước hình thành tự lâu đời, cách đây khoảng bốn ngàn (4.000) năm như Việt Nam ta, không thể khác được, cũng phải trải qua một giai đoạn huyền sử khá dài. Huyền sử là sự thật lịch sử xen lẫn với nhiều yếu tố thần thoại, truyền thuyết khá mơ hồ, phi thực, huyễn hoặc và cũng rất bay bổng. Điều này cũng tương ứng với giai đoạn loài người nói chung đang sống và tư duy, cảm xúc theo khả năng nhận thức, lí giải mọi sự một cách hư hư thực thực, chưa phân biệt rạch ròi thần thánh, ma quỷ với con người trần tục. Trên mặt đất chưa hề được những nhát thuổng, chiếc bay của giới khảo cổ học hiện đại chạm đến, giai đoạn huyền sử hàng ngàn năm trước công nguyên . Tình trạng giai đoạn huyền sử như thế, nên các sử gia đời Trần như Lê Văn Hưu (1230 – 1322) không thể xem di tích tín ngưỡng – lịch sử, truyền thuyết lịch sử, ca dao lịch sử đích thực là sử. Đã đành như vậy. Nhưng xem đó là tài liệu lịch sử để tham cứu, đãi lọc, hầu như Lê Văn Hưu cũng từ chối. “Nhâm thân, [Thiệu Long] năm thứ 15 (1272), (Tống Hàm Thuần năm thứ 8, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 9). Mùa xuân, tháng giêng, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu Lê Văn Hưu vâng sắc soạn xong Đại Việt sử kí từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển” (1). Rõ ràng Lê Văn Hưu và Quốc sử viện chỉ biên soạn về giai đoạn phi huyền sử, từ Triệu Đà (ở ngôi: 207 – 136 tr. c. ng.) đến Chiêu Hoàng, nữ hoàng duy nhất và cuối cùng của triều Lý (1225). Giai đoạn huyền sử từ Lạc Long quân đến An Dương vương không được Đại Việt sử kí (1272) đề cập đến. Huyền sử chỉ được ghi chép vào chính sử bởi Ngô Sĩ Liên (không rõ năm sinh và năm mất), một sử gia lớn, từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427), đỗ tiến sĩ thời Lê Thái Tông (1434 – 1442), được Lê Thánh Tông (1460 – 1497) trao trọng trách biên soạn Đại Việt sử kí toàn thư (bản 1479) (2). Về sau, cho đến thời Nguyễn, bộ sử lớn thứ hai trong ba bộ sử lớn của nước ta, sau bộ Toàn thư (1697) và trước bộ Đại Nam thực lục (kể cả các kỉ thuộc nửa sau thế kỉ XIX (*)), là Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1884) (3). Ở Cương mục, các sử gia Quốc sử quán (từ 1856 đến 1884) cũng ghi chép, khảo cứu lại giai đoạn huyền sử này. Tất nhiên, Quốc sử quán triều Nguyễn còn duy lí hơn cả Sử quán nhà Hậu Lê, nên gạt bỏ một phần các truyền thuyết lịch sử đã được Ngô Sĩ Liên ghi chép, bình luận. Phải chăng sự duy lí ấy là rất đáng tiếc? Phải chăng thần thoại, truyền thuyết, ca dao lịch sử không phải không xứng đáng là tài liệu lịch sử? 2 Sự bàn luận về việc chép sử giữa các sử gia và giữa sử gia với nhà vua qua từng thời kì, từ các triều Trần, Lê đến Nguyễn Đại Việt sử kí toàn thư được khắc in, ban hành trong cả nước, vào tháng trọng đông (tháng 11) năm Đinh sửu (1697), niên hiệu Chính Hoà thứ 18, đời vua Lê Gia Tông, đời chúa Trịnh Tạc, với tên gọi trong Cương mục là Quốc sử thực lục (4). Đó là bộ sử được biên soạn nối tiếp bởi các sử quan thuộc Quốc sử viện triều Trần, Sử quán triều Lê cùng các sử gia chủ biên: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Lê Tung (viết tổng luận), Phạm Công Trứ, Lê Hy. Trong đó, Ngô Sĩ Liên là người trực tiếp biên soạn quyển I của ngoại kỉ, viết về kỉ Hồng Bàng thị (2878 – 256 tr. c. ng.) và kỉ Nhà Thục (257 – 208 tr. c. ng.). Và chính ông là người duy nhất được đề tên ngay trên quyển I này: “Triều Liệt đại phu, Quốc tử giám tư nghiệp, kiêm sử quan tu soạn, thần Ngô Sĩ Liên biên”, xem như quyển I đó là công trình riêng của ông. GS. Phan Huy Lê cũng đã lưu ý về điều đó (5). Trong bản Phàm lệ về việc biên soạn sách ĐVSKTT. (1479), Ngô Sĩ Liên trình bày gián tiếp và trực tiếp quan điểm của ông về giai đoạn huyền sử, trước hết là để “nối đại thống của Hùng vương” (6): “- Kinh Dương vương là vua bắt đầu được phong của nước Đại Việt, cùng với Đế Nghi [Trung Hoa – TXA. chua thêm (ct.)] đồng thời, cho nên chép năm đầu ngang với năm đầu của Đế Nghi. - Những việc chép trong ngoại kỉ là gốc ở dã sử, những việc quá quái đản thì bỏ đi không chép. Từ Hùng vương trở về trước, không có niên biểu, thứ tự các đời vua truyền nhau không thể biết được, có thuyết nói là 18 đời, sợ chưa chắc đã đúng” (6). Nhưng Lê Tung vẫn là người được dịp bàn sâu viết rộng hơn cả, bởi ông được phép viết bài “Việt giám thông khảo tổng luận” vào năm Giáp tuất (1514), niên hiệu Hồng Thuận thứ 6, với số lượng trang chữ đáng kể. Chả là Lê Tương Dực muốn được đọc bài rút gọn, chỉ gom nhặt điều cốt yếu, có lời bình, khi Vũ Quỳnh làm xong Đại Việt thông giám thông khảo, nên Lê Tung được dịp phát huy trí tuệ của mình (7). Về sau, bài tổng luận được các sử gia kế tục đánh giá tốt, và giữ lại, trang trọng đặt ở vị trí cuối của phần đầu sách. Qua bài tổng luận, Lê Tung viết về giai đoạn huyền sử như sau: “Kể từ khi Kinh Dương vương, họ Hồng Bàng nối dòng dõi Thần Nông, lấy con gái vua Động Đình, sáng rõ đạo vợ chồng, theo đúng nguồn phong hoá, vua thì lấy đức mà cảm hoá dân, giũ áo khoanh tay (8). Dân thì cày ruộng, đào giếng, ra ngoài thì làm lụng, trở về thì nghỉ ngơi, chẳng phải là phong tục thái bình cổ của Viêm Đế ư? Lạc Long quân nối đời Hồng Bàng, lấy con gái họ Âu Lạc [Âu Việt? – ct.] mà có điềm lành sinh trăm con trai, tổ của người Bách Việt thực bắt đầu từ đấy, hưởng nước trải nhiều năm, rất là lâu dài, đã giàu thọ lại nhiều con trai, từ xưa đến nay chưa từng có. Hùng vương nối nghiệp của Lạc Long, chăm ban đức huệ vỗ yên dân, chuyên nghề làm ruộng, chăn tằm, không lo can qua chinh chiến, con cháu nối đời đều gọi là Hùng vương, phúc 18 đời, trải hơn hai nghìn năm, buộc nút thắt dây mà làm chính sự, dân không gian dối, có thể thấy được phong tục thuần hậu quê mùa vậy. Đến vua sau đức kém, lười chính sự, bỏ sửa sang vũ bị, ham mê tửu sắc làm vui, binh nước Thục vừa đến thì quốc thống bèn mất. An Dương vương, phía tây thì dời sang Ba Thục, phía nam thì diệt vua Hùng Vương, đóng đô ở Loa Thành, giữ nước Âu Lạc, nhờ được nỏ móng rùa, đánh lui quân nhà Tần, quen mui đánh thắng, yên vui sinh kiêu, quân Triệu đến đánh mà cõi bờ không giữ được” (9). Đến triều Nguyễn, ngày 15 tháng 12 năm thứ 8 (22. 01. 1856), khi ban dụ chỉ về việc khởi công biên soạn lịch sử dân tộc, Tự Đức cũng đã đề cập đến “nước Việt ta từ thời Hồng Bàng” (10), không thể không biên soạn về giai đoạn huyền sử, từ Hồng Bàng đến An Dương vương. Tuy vậy, cũng có sự tranh luận với những ý kiến khác nhau. Trong đó, có ý kiến mặc dù đơn độc như của Đặng Quốc Lang nhưng cũng được bảo lưu và tấu nghị lên nhà vua. Tổng tài, phó tổng tài Phan Thanh Giản, Phạm Xuân Quế cùng các toản tu trong Việt sử cục đã tham khảo các bộ chính sử của Trung Hoa biên chép về giai đoạn huyền sử của họ và nhận thấy, họ gạt bỏ Bàn Cổ, Tam Hoàng, chỉ chép bắt đầu từ Phục Hi hoặc muộn hơn, từ đời Đường Nghiêu. Tấu nghị viết: “Nay tra cứu Sử cũ của nước ta chép về thời Hồng Bàng thị, có danh hiệu Kinh Dương vương, Lạc Long quân, nhưng lúc ấy là thời đại thượng cổ, hãy còn hỗn độn lờ mờ, tác giả chỉ dựa vào chỗ bâng quơ mà biên soạn ra, rồi e rằng không có gì là căn cứ để cho người ta tin, lại phụ hoạ theo truyện Liễu Nghị đời Đường của nhà tiểu thuyết để làm chứng cứ” (11). Việt sử cục triều Nguyễn chỉ căn cứ vào những tư liệu khả tín. Tấu nghị viết tiếp: “Xét về thời Hùng vương lập quốc, đặt tên nước là Văn Lang, kinh đô đóng ở Phong Châu, chia nước ra 15 bộ, từ đấy mà đi, trong nước mới dần có chế độ, cha truyền con nối trải 18 đời, kể hai ngàn năm có lẻ. Trong các đời ấy có một vài dấu vết chép trong sử Trung quốc […]. Những việc kể trên còn có chứng cứ để tin. Như thế thì sử nước ta chép từ đời Hùng vương […]. Vậy nghĩ định bộ Việt sử này, về việc gây dựng quốc thống, nên bắt đầu từ đời Hùng vương. Còn những việc về Kinh Dương và Lạc Long thì sẽ theo sự truyền văn chua phụ ở dưới, như thế có thể hợp với cái nghĩa “dĩ nghi truyền nghi” (11). Và, ý kiến về một kỉ khác: “An Dương vương là người nước ngoài…” (11)! Ý kiến đơn độc của Đặng Quốc Lang cũng được bản tấu nghị ghi rõ: “Trong bọn chúng tôi duy có Đặng Quốc Lang trộm nghĩ rằng niên kỉ Hồng Bàng thị, từ Kinh Dương vương, Lạc Long quân, Hùng vương, dầu rằng thế đại cách nay đã quá xa, không có văn tự lưu truyền lại, những việc chép phần nhiều hoang đường quái dị, nhưng bấy giờ đã đặt kinh đô, đã dựng nước, trải qua năm tháng khá dài lâu, các ông vua ấy đều là vua mở đầu của nước ta. Năm Hồng Đức thứ 10, sử thần triều Lê là Ngô Sĩ Liên biên tập Đại Việt sử kí. Lúc ấy Thánh Tông Thuần hoàng đế là một ông vua yêu chuộng văn học, hạ chiếu cho tìm sách dã sử và truyện kí xưa nay lưu trữ ở các nhà tư, để việc tham khảo được đầy đủ. Bộ sách ấy Ngô Sĩ Liên dứt khoát chép từ đời Hồng Bàng, nhận định Kinh Dương vương là vua mở đầu quốc thống. Bấy giờ bọn bầy tôi vào hạng nho học rất nhiều, mà không có một người nào chê là không hợp lẽ. Vả lại, bộ sách soạn xong đã hơn ba trăm năm nay, trải qua đời Hồng Thuận và Cảnh Trị, lại hai lần kén chọn bọn nho thần biên soạn, khảo cứu, đính chính, trong khoảng các năm ấy không thiếu gì những bậc học rộng thấy xa, mà cũng không thay đổi gì khác cả. Thế thì bộ sử do Sĩ Liên biên soạn trước đây, tưởng cũng không phải soạn ra bằng cách hão huyền không thực. Nay nếu bộ Việt sử này chỉ bắt đầu chép từ đời Hùng vương, còn những việc về đời Kinh Dương và Lạc Long chỉ chua ở cuối phần chép đời Hùng vương, e rằng không thể nào làm cho đầy đủ thế thứ và sáng tỏ gốc nguồn được” (12). Bản tấu nghị kết thúc: “Về niên kỉ Hồng Bàng thị, nên chép bắt đầu từ đời vua Kinh Dương và Lạc Long, cần định xem việc gì hợp với lẽ phải thì chép, rồi sẽ chép tiếp đến Hùng vương, để tỏ rõ chỗ mở đầu quốc thống, còn những việc hoang đường quái dị, cũng hãy cứ ghi lại những truyền thuyết mà chua phụ ở dưới phần “mục” (13). Trong dụ chỉ II (12. 9. 1856), vua Tự Đức nêu một câu hỏi khá sắc lạnh để nhắc nhở phương châm của sử gia: “Vậy thì, đối với nghĩa ‘bỏ việc quái dị, nói việc bình thường’ của nhà làm sử, có thể chép như thế được không?” (14). Tự Đức viết dụ tiếp, với sự “chuẩn y cho chép bắt đầu từ đời Hùng vương, để nêu rõ quốc thống nước ta từ đấy. Còn hai kỉ Kinh Dương và Lạc Long thì chuẩn cho chua phụ ở sau việc đời Hùng vương, để hợp với việc ‘dĩ nghi truyền nghi’” (14). Tất nhiên, về An Dương vương, dụ chỉ của Tự Đức vẫn chuẩn cho chép vào phụ lục, không xem là chính thống… (14). Trải qua nhiều đời tổng tài Quốc sử quán, từ Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, cuối cùng đến Nguyễn Văn Tường, với sự duyệt nghị của phó tổng tài Lê Bá Thận (1871), duyệt kiểm của toản tu Phạm Huy (1872), phúc kiểm của tế tửu Bùi Ước (1876), duyệt đính của Quản Hàn lâm viện ấn triện Nguyễn Tư Giản (1878), cuối cùng là duyệt kiểm của phó tổng tài Phạm Thận Duật, toản tu Vũ Nhự (1881) cùng các tập thể sử quan tên tuổi được ghi lại, mãi đến năm Kiến Phúc nguyên niên (1884), Phạm Thận Duật cùng Vũ Nhự đã dâng tiến biểu để khắc in. Tiến biểu (1884) viết về giai đoạn huyền sử: “Bắt đầu chép từ lúc dựng nước Văn Lang, nêu rõ gốc nguồn vương thống; chép việc sai quan của Đường đế làm tỏ tên cõi Nam Giao. […] Người đặt tên nước Âu Lạc […] chép ngang như liệt quốc” (15). 3 <h5 style="margin: 0in 0in 0pt; text-indent: 0in; line-height: normal;">Huyền sử từ Toàn thư đến Cương mục</h5> Về giai đoạn huyền sử, Sử quán nhà Hậu Lê đã biên soạn, lưu giữ lại những gì từ các huyền thoại, truyền thuyết, ca dao lịch sử trong Toàn thư? Ngô Sĩ Liên đã ghi lại huyền thoại của một vị vua gọi là Hoàng Đế, một danh từ chung được sử dụng như danh từ riêng (như thể Thượng Đế) (16). Hoàng Đế đã định bờ cõi cho Bắc (Trung Hoa) và Nam (Việt Nam), một cách công bằng để cùng đối sánh. Nước ta bấy giờ có tên gọi là Giao Chỉ (đất của xứ Giao Long (17)) và Việt Thường thị, cuối cõi Bách Việt. Kỉ Hồng Bàng thị khởi đầu từ đó, với ba niên hiệu: Kinh Dương vương (Lộc Tục), Lạc Long quân (Sùng Lãm), Hùng vương (không rõ tên huý, trải 18 đời đều xưng là Hùng vương [hoặc Lạc vương]). Toàn thư ghi cả chuyện Mẹ Âu Cơ sinh ra trăm trứng, nở ra trăm con trai, tổ của Bách Việt (trăm xứ Việt), và lời chia tay, chia con giữa mẹ Âu [Việt] – cha Lạc [Việt], người lên núi, kẻ về biển. Và vua Hùng lên ngôi, đóng đô ở Phong Châu, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước ra làm mười lăm bộ, đặt Lạc hầu, Lạc tướng, hoàng tử gọi là quan lang, công chúa gọi là mị nương, quan coi việc là bồ chính (bồ chính được thế tập, với thể chế phụ đạo). Toàn thư viết về tục vẽ mình, đặc biệt là truyện Thánh Gióng vào đời Hùng vương thứ 6, chuyện biếu chim trĩ trắng cho vua Phương Bắc nhà Chu, và huyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh. Đó là những huyền thoại, truyền thuyết hầu như người Việt Nam nào cũng biết. Tất cả đã trở thành kí ức mãi mãi không phai mờ của dân tộc. “Trở lên là (kỉ) Hồng Bàng thị, từ Kinh Dương vương được phong năm Nhâm tuất, cùng thời với Đế Nghi [Phương Bắc – ct.], truyền đến cuối thời Hùng vương, ngang đời Noãn vương nhà Chu năm thứ 57 (258 t. c. n.) là năm Quý mão thì hết, tất cả 2.622 năm (2879 – 258 t. c. n.)” (16). Đó là đoạn Toàn thư kết lại để chuyển sang kỉ Hùng vương (18). Cương mục hầu như cũng chép y nguyên như Sử cũ (ở đây là Toàn thư), chỉ khác cách sắp xếp như tấu nghị, dụ chỉ, phàm lệ đã bàn khá cụ thể. Do cách quan niệm về sử, nên truyền thuyết Mẹ Âu Cơ và Trăm trứng (trăm con trai) chỉ được đặt vào phần lời chua thêm, lại lược bỏ hẳn hai truyền thuyết Thánh Gióng, Sơn Tinh – Thuỷ Tinh; nhưng lại căn cứ vào sách Cương mục tiền biên của Lý Kim Tường và Thông chí của Trịnh Tiều để chép việc sứ thần Việt Thường thị sang Trung Hoa tiến rùa thần, trên lưng có chữ khoa đẩu (kiểu chữ thời nhà Chu, 1134 – 250 tr. c. ng.), khiến vua Nghiêu phải sai quan chép lấy, gọi là Quy lịch (lịch rùa) (19). Không chỉ thời Hùng vương, huyền sử còn là giai đoạn Thục Phán An Dương vương trị vì nước Âu Lạc (Âu Việt + Lạc Việt) (*). So với Toàn thư, rõ ràng Cương mục thể hiện một tinh thần duy lí, khoa học ở mức độ cao hơn. Ở Toàn thư, phần phụ chỉ có lời bình của sử gia, còn ở Cương mục là những tiểu mục cẩn án, lời chua rất chi tiết, cụ thể, có đối chiếu với nhiều thư tịch cổ của Trung Hoa, sách sử của danh sĩ trong nước, có trích dẫn nguyên văn các sách ấy, do Quốc sử quán biên soạn. Riêng sách đối chiếu, có đến hàng chục bộ: Đường thư địa lí chí; Thái Bình hoàn vũ kí của Nhạc Sử triều Tống; Kinh Thi; An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng; Lịch sử cương mục bổ; Thông giám tập lãm; Dư địa quận quốc thiên hạ; Đại Thanh nhất thống chí; Địa dư chí của Nguyễn Trãi (đời Hậu Lê); Kinh Thư; Tập truyện kinh Thư của Thái Trừng; Thông chí của Trịnh Tiều; Cương mục tiền biên của Lý Kim Tường; Sử kí của Tư Mã Thiên; Phương dư kỉ yếu… Đặc biệt, lại có thêm lời châu phê của Tự Đức. Xin dẫn một phần của một lời chua tiêu biểu như sau: “Truyền mười tám đời: ‘An Nam chí nguyên’ của Cao Hùng Trưng chép: “Giao Chỉ khi chưa đặt làm quận huyện, bấy giờ có ruộng Lạc, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng; khai khẩn ruộng ấy là Lạc dân, thống trị dân ấy là Lạc vương, người giúp việc là Lạc tướng, đều dùng ấn đồng, thao xanh. Nước gọi là Văn Lang. Phong tục thuần hậu, mộc mạc, chưa có chữ nghĩa, còn dùng lối thắt dây làm dấu ghi nhớ; truyền được mười tám đời”” (20). Nói đúng hơn, huyền sử với các thần thoại, truyền thuyết, kể cả ca dao có dấu vết lịch sử (như Chàng về thiếp một theo mây, Con thơ để lại đất này ai nuôi) là sự thật lịch sử được phản ánh bằng thi pháp đặc trưng của tư duy cổ đại. Nhưng không chỉ thế. Các thư tịch cổ Trung Hoa và Việt Nam thuở xa xưa được tra cứu nói trên cũng đã góp phần quan trọng để chứng minh giai đoạn huyền sử này: lịch sử thời Hùng vương dựng nước là có thật, chứ không phải là huyền hoặc. Sự thật lịch sử thời Hùng vương dựng nước này và cả thời Thục Phán An Dương vương cũng còn được chứng minh một cách không thể bác bỏ bằng các ngành khoa học hiện đại về sau: khảo cổ học, nhân chủng học, dân tộc học, ngôn ngữ học (phân môn ngữ âm lịch sử); địa lí học nhân văn, cổ sinh vật học với sự vận dụng các thành tựu của các khoa học thực nghiệm như hoá học, vật lí học, địa chất học… Văn học cũng có sự đóng góp nhất định cho sử học. Cho đến nay, các công trình sử học của các nhà nghiên cứu sử đã đi sâu vào việc này. 4 Tinh thần khoa học đích thực đối với huyền thoại, truyền thuyết và ca dao lịch sử Không thể nói khác được, rõ ràng các sử gia Trần – Lê – Nguyễn đã dần dà đẩy các huyền thoại, truyền thuyết, ca dao lịch sử về phía văn học, ngành khoa học chuyên nghiên cứu các sản phẩm của nghệ thuật hư cấu! Không những Cương mục thẳng thừng gạt bỏ những truyền thuyết lịch sử thuần chất hoặc pha đậm yếu tố cắt nghĩa hiện tượng thiên nhiên – xã hội cực kì tuyệt vời như Thánh Gióng, Sơn Tinh – Thuỷ Tinh mà cả những cổ tích phản ánh tự nhiên – xã hội thời Lạc Long quân như chùm truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh, thời Hùng vương như An Tiêm, Chử Đồng Tử – Tiên Dung, Trầu cau, Bánh chưng bánh dầy cũng bị gạt nốt ở Toàn thư! Không nghi ngờ gì nữa về hiện thực phản ánh, đó là thời Hùng vương dựng nước, khi mỗi câu chuyện cổ ấy đều bắt đầu: “Ngày xửa ngày xưa, vào thời vua Hùng thứ 6…”; “ngày xửa ngày xưa, vào thời Hùng vương thứ 18…” (21). Tất nhiên văn học không bao giờ từ chối những di sản quý báu đến thế! Đó là di sản cổ không có gì có thể thay thế nổi. Khi nhận định rằng có sự tiến bộ về tinh thần khoa học lịch sử của các thế hệ sử gia từ triều Trần, đến Hậu Lê và kế tiếp sau đó là triều Nguyễn, không thể không nhớ lại câu nhắc nhở của Tự Đức trong bản dụ chỉ II (12. 9. 1856) về việc biên soạn Cương mục. Bấy giờ, vua Tự Đức nêu một câu hỏi khá sắc lạnh để nhắc nhở phương châm của sử gia: “Vậy thì, đối với nghĩa ‘bỏ việc quái dị, nói việc bình thường’ của nhà làm sử, có thể chép như thế được không?” (14). Tuy nhiên, thế là khoa học nhưng thật sự chưa phải khoa học. Gạt bỏ phần quái dị, thực thực hư hư của các yếu tố hoang đường, thần thánh, ma quỷ xen lẫn với nhân vật, sự kiện lịch sử trần phàm là do ý thức duy lí của nhà nho. Tuy nhiên, nói một cách khái quát, mức độ khoa học ấy còn hạn chế, ở chỗ chưa bảo lưu toàn vẹn vốn cổ thời hồng hoang, cổ đại của nhân loại nói chung, tổ tiên người Việt Nam chúng ta nói riêng. Ở trình độ khoa học hiện đại, phát triển đến mức cao hơn thế kỉ XIX trở về trước, các nhà nghiên cứu lịch sử chính trị – xã hội (bao gồm cả kinh tế, văn hoá…) và các nhà nghiên cứu văn học đều khai thác bằng phương pháp giải mã các yếu tố hoang đường, thần tiên và quái dị, để tìm thấy những dấu tích của sự thật lịch sử vốn đã được mã hoá. Trào lưu giải huyền thoại hiện nay lại thô bạo, phá phách, tục tĩu, thực chất là phản khoa học và vô ơn đối với cổ nhân. Tôi chợt nhớ một câu danh ngôn: “Bắn vào quá khứ bằng súng lục, quá khứ sẽ nã vào hiện tại và tương lai bằng đại bác”. Tp. HCM., khởi thảo vào 15 giờ 12’ chiều ngày 19. 06. 2004 (02. 05. Giáp thân HB4); viết xong : 15 giờ 59’, 20. 06. HB4 (03. 05. G. thân HB4). Cước chú của bài Giai đoạn huyền sử trong Đại Việt sử kí toàn thư…: (1) Đại Việt sử kí toàn thư, (gọi tắt là Toàn thư), bản in nội các quan bản (1697), bản dịch (3 tập), tập 2, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2003, tr. 55 (BK. [bản kỉ], q. V, tờ 33a – 33b). TXA. in nghiêng (ing.) và in đậm (iđ.) tên bộ sử (chỉ gồm bốn chữ: Đại Việt sử kí) do Lê Văn Hưu và Quốc sử viện triều Trần soạn. (2) Xin phân biệt với bộ sử hoàn chỉnh, cũng lấy lại nguyên tên sách (ĐVSKTT.), khắc in về sau, vào năm 1697. ĐVSKTT. (1697), thường được gọi tắt là Toàn thư (1697) vốn đã chỉnh lí, tục biên từ bộ sử hoàn thành năm 1479 bởi Ngô Sĩ Liên và Sử quán triều Hậu Lê. Xin xem thêm bài khảo cứu “ĐVSKTT., tác giả, văn bản, tác phẩm” của GS. Phan Huy Lê, được đặt ở phần giới thiệu đầu bản dịch Toàn thư, tập 1, sđd., tr. 13 – 110. (*) Những thời điểm hoàn tất và khắc in các kỉ tiền biên và các kỉ chính biên (từ kỉ thứ nhất đến kỉ thứ ba chính biên) của bộ Đại Nam thực lục, là trước 1879. Ba kỉ chính biên kế tiếp, từ kỉ thứ tư [1847 – 1883] đến kỉ thứ năm [1884 – 1885], kỉ thứ sáu [1885 – 1888], được biên soạn và khắc in trong thập kỉ cuối của thế kỉ mười chín (XIX), thập kỉ đầu của thế kỉ hai mươi (XX). (3) Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1884) (gọi tắt là Cương mục), tiền biên và chính biên, bản dịch, 2 tập, Nxb. Giáo Dục, 1998. (4) Cương mục, sđd., tập 2, tr. 378 (Chb. [chính biên] XXXIV, tờ 40 – 41). (5) Toàn thư, bản dịch, tập 1, sđd., bài giới thiệu của GS. Phan Huy Lê, “ĐVSKTT., tác giả, văn bản, tác phẩm”, tr. 46. (6) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 127 & 128 (Phl. [phàm lệ], tờ 1a & tờ 1b – 2a). (7) Toàn thư, sđd., tập 3, tr. 114 (BK., q. XV, tờ 24b). Xem thêm cước chú của hai dịch giả Hoàng Văn Lâu & Ngô Thế Long về ghi nhận của Phan Huy Chú: để tiện đọc! (8) Xem cước chú (9): Cước chú của dịch giả Ngô Đức Thọ: Ý nói, vua chỉ cho phép thường mà trị nước, không bày đặt chính lệnh phiền nhiễu. (9) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 150 (Tl. [tổng luận], tờ 3b – 4a). TXA. in đậm (iđ.), in nghiêng (ing.) & chua thêm (ct). (10) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 17 (Dch. [dụ chỉ] I, tờ 1). (11) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 21 – 23 (Tng. [tấu nghị], tờ 3 – 4). (12) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 25 – 26 (Tng., 6 – 7). (13) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 27 (Tng., 8). Mỗi tiểu mục có 2 phần: cương (tiêu đề, cốt yếu) và mục (diễn giải chi tiết). (14) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 29 – 30 (Dch. II, 9 – 10). (15) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 55 (Tnb. [tiến biểu], 3). Trong những ngày sau cuộc Kinh đô quật khởi và bị thất thủ (05. 7. 1885), “… cái đã làm cho chính Nguyễn Văn Tường cũng phải khóc là việc thiêu huỷ kho lưu trữ ở hầu hết các Bộ và của Thư viện Quốc gia; những thiệt hại của các phòng viết sử biên niên (Quốc sử quán), của Quốc gia ấn quán, các bản gỗ rời khắc lịch sử bằng chữ Hán đã biến mất” (Jean Chesneaux [dẫn lời thú nhận của linh mục Pène-Siefert, kẻ đi theo đoàn quân xâm lược], “Đóng góp vào lịch sử dân tộc Việt Nam” [Contribution à l’Histoires de la Nation Vietnamiene], tr. 134), dẫn lại từ: Nguyễn Đắc Xuân, Hỏi đáp về triều Nguyễn và Huế xưa, tập 6, Nxb. Trẻ, 2003, tr. 56 – 57. May thay, bản thảo gốc Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1884), Đại Nam thực lục, tiền biên & ba kỉ chính biên (I, II, III [từ Gia Long đến Thiệu Trị]), và phần lớn châu bản thời Tự Đức – Hàm Nghi vẫn còn tồn tại, nên hôm nay giới sử học có được tư liệu gốc để nghiên cứu! (16) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 171 – 178 (NK., q. I, tờ 1a – 5b). TXA. ct.. (17) Chỉ: vùng đất; giao: giao long. Không phải theo cách giải thích sai lầm: hai ngón chân cái giao nhau. Xem: Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hoá – Thông tin tái bản, 2002, tr. 35: Vùng đất của nhân tộc xem Giao Long là vật tổ (tô-tem): Con rồng cháu tiên. (18) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 174 (NK., q. I, tờ 2b): Trong kỉ Hồng Bàng thị, Ngô Sĩ Liên có lời bình về hôn nhân đồng huyết: “Xét sách ‘Thông giám ngoại kỉ’ nói: Đế Lai là con Đế Nghi; cứ theo sự ghi chép ấy thì Kinh Dương vương là em ruột Đế Nghi, thế mà kết hôn với nhau, có lẽ vì đời ấy còn hoang sơ, lễ nhạc chưa đặt mà như thế chăng?”. Cước chú của dịch giả: “Thông giám ngoại kỉ” là phần ngoại kỉ thuộc bộ sách “Tư tri thông giám” của Tư Mã Quang (đời Tống). (19) Theo chú thích của dịch giả Ngô Đức Thọ: Về Việt Thường thị, sách Thuỷ kinh chú, Cựu Đường thư cho là ở quận Cửu Đức (tức Hà Tĩnh nước ta hiện nay); nhưng các sách Văn hiến thông khảo, Minh sử, Minh nhất thống chí lại cho là thuộc vùng đất về sau thành nước Lâm Ấp (Chiêm Thành). (*) Xin xem bài “An Dương vương, ‘giặc Thục’ hay anh hùng bi tráng?” (Trần Xuân An). (20) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 73 (Tb.I, 2). TXA. iđ.. (21) Có người cho rằng các cổ tích này được gia công về sau (thời Lý – Trần: Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp; thời Trần: Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên)! Đó không phải là ý kiến thoả đáng. (14) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 29 – 30 (Dch. II, 9 – 10). TXA. iđ.. TRầN XUÂN AN Ngày đăng: 12.4.2008 - Số lượt xem : 478
-
GS. Tương Lai: Lựa chọn văn hóa, giải quyết "bi kịch" sử 17/10/2008 08:57 (GMT + 7) Nguồn: Tuần Vietnamnet Một khi cái giả biến thành cái thật, được đem rao giảng cho thế hệ trẻ thì khác nào chất axít gậm nhấm tâm hồn họ. Sự thật lịch sử bị vùi lấp, xuyên tạc bởi bất kỳ lý do gì cũng làm giảm sút, nao núng lòng tin, lòng tự hào về lịch sử dân tộc của lớp trẻ - chất ximăng kết dính những tâm hồn Việt Nam. Nhìn lại lịch sử triều Nguyễn chính là cách Việt Nam nâng cao bản lĩnh dân tộc - GS. Tương Lai >> Đột phá trong nhận thức về chúa Nguyễn, triều Nguyễn Nhìn lại chuyện học môn lịch sử ở nước ta “Lịch sử là một thành phần mà thiếu nó thì không một ý thức dân tộc nào đứng vững được” (Fernand Braudel). Chính vì thế, hiểu biết sâu sắc về lịch sử đất nước mình, tự hào về những trang sử vẻ vang của dân tộc mình là nền tảng cơ bản để hình thành lòng yêu nước, một phẩm chất đặc biệt và cũng là một động lực lớn lao của con người Việt Nam qua mọi thời đại. Năm 2006 trong 4622 thí sinh thi vào Đại học Sư phạm Hà nội, 655 thí sinh bị điểm 0 môn sử (chiếm 15%) và chỉ có 6 thí sinh được điểm 8 trở lên, so với năm 2005 là 103/5399, nếu tính gộp cả bốn trường đại học, trong đó ba là Sư phạm, nghĩa là trường đào tạo ra những người thầy dạy lịch sử, thì 58,5% thí sinh có điểm lịch sử từ 1 trở xuống. Thế rồi, năm 2007, có 150.234 thí sinh bị điểm từ 0 đến 4,5 điểm, chiếm tỷ lệ tới 95,74% tổng số thí sinh khối C, số bị điểm 0 gần 6000!) Vì thế, “môn lịch sử giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước, các giá trị truyền thống và cách mạng, góp phần xây dựng nhân cách, bản lĩnh con người, giữ gìn bản sắc dân tộc” như sự khẳng định của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chủ tịch danh dự của Hội khoa học lịch sử Việt Nam trong thư gửi “Hội thảo bàn về thực trạng dạy và học sử” cách đây hai năm khi xã hội rung chuông báo động về việc học sinh đang chán học môn sử, điểm thi môn sử quá kém. Đã có nhiều phân tích sâu sắc, trong đó, sự phê phán tập trung vào Bộ GD&ĐT. Chuyện ấy không oan tí nào. Song, nếu chỉ đổ hoàn toàn cho Bộ GD&ĐT thì liệu có thể giải quyết tận gốc vấn đề học sinh không thích học môn lịch sử không? Sách giáo khoa lịch sử có nhiều vấn đề, điều ấy Bộ GD&ĐT phải chịu trách nhiệm, thế còn những công trình nghiên cứu lịch sử chất lượng kém thì do ai chịu trách nhiệm? Chất lượng của công trình nghiên cứu lịch sử đã được xuất bản là điểm tựa để đảm báo tính chính xác khoa học của sách giáo khoa lịch sử, là sức hấp dẫn người soạn sách giáo khoa lịch sử. Khi chất lượng ấy có vấn đề thì trách nhiệm thuộc về ai? Ai chỉ đạo xây dựng những công trình đó, trình độ khoa học và bản lĩnh của nhà sử học có ảnh hưởng gì đến chất lượng công trình lịch sử nước nhà hay không? Không thể đặt bộ môn lịch sử riêng rẽ trong hệ thống kiến thức khoa học mà thế hệ trẻ cần được giáo dục, khi mà một quan điểm chính thống đã được áp đặt vào việc nghiên cứu và xuất bản các công trình nghiên cứu lịch sử và biên soạn các sách giáo khoa lịch sử thì cho dù có không ít những ý kiến không đồng tình cũng không thể xoay chuyển được tình thế chung. Ấy thế mà vấn đề viết sách giáo khoa lịch sử không chỉ nhận được sự quan tâm tán thành hay phản đối về nội dung, sự kiện và quan điểm của công chúng trong nước, mà có khi lại là một cuộc đấu tranh ngoại giao phức tạp giữa các quốc gia từng có những mối quan hệ lịch sử. Chuyện Hàn Quốc phản đối một số nội dung được đưa vào sách giáo khoa lịch sử của Nhật là một ví dụ. Và cũng đừng quên rằng, hiện nay vẫn đang diễn ra tình trạng in và lưu hành công khai những xuyên tạc lịch sử nhằm vào những mưu đồ đen tối mà chúng ta không thể không cảnh giác phát hiện và đấu tranh. Chỉ có thể hiểu sâu những điều này khi đặt những công trình nghiên cứu lịch sử và sách giáo khoa lịch sử trong hệ thống các khoa học xã hội và nhân văn, và hệ thống ấy nằm trong nền văn hóa dân tộc. Lịch sử và tầng sâu văn hóa của một dân tộc Thành Gia Định (Sài Gòn) vẽ theo tư liệu của bản đồ Bruyn 1795, Trần Văn Học 1815 Chỉ khi chúng ta suy ngẫm và hiểu ra được về những gì đã hun đúc nên văn hoá Việt Nam, hình thành cốt cách con người Việt Nam, chúng ta mới hiểu rõ bộ môn khoa học lịch sử giữ một vị trí quyết định như thế nào trong nền văn hóa ấy. Bởi lẽ, văn hoá không phải là một hệ thống đóng kín những giá trị loại biệt mà là một tổng hợp đang phát triển của các thành tựu vật chất và tinh thần của một dân tộc. Văn hóa là một cấu trúc có bề sâu. Cuộc sống xã hội được phản chiếu ở bề mặt, dưới bề mặt đó, văn hóa được phân chia theo những tầng khác nhau, thường tiềm ẩn và vô thức. Ở độ sâu này, ta thấy có một sự sắp xếp của các quy tắc văn hóa điều chỉnh bề mặt ở bên trên. Nói đến “sức mạnh văn hoá”, “bản lĩnh văn hoá”, “bản sắc văn hoá”, chính là nói đến sự tiềm ẩn và vô thức này nằm chìm trong đời sống của dân tộc. Chính cái đó làm nên ý thức dân tộc, tạo ra sức mạnh Việt Nam, ý thức và sức mạnh làm cho đất nước này, dân tộc này tồn tại và phát triển. Đúng là: lịch sử là một thành phần mà thiếu nó thì không một ý thức dân tộc nào đứng vững được. Không có ý thức đó thì không thể có một nền văn hóa dân tộc và cũng chẳng thể nào xây dựng được một xã hội Việt Nam hiện đại và văn minh. Dòng chảy lịch sử là bất tận, nó tạo nên sức mạnh bất diệt của một dân tộc. Thế hệ trẻ Việt Nam phải được hiểu kỹ về dòng chảy bất tận đó, phải được tắm mình vào trong dòng chảy bất tận đó để tự hào về ông cha mình đã bao đời kiên cường, bất khuất dựng nước, mở nước và giữ nước để trao lại cho thế hệ hôm nay gìn giữ và phát triển. Không có niềm tự hào về dân tộc, tự hào về nền văn hóa dân tộc sẽ không thể vững tin mà đến với thế giới. Ở thời đoạn quá trình phát triển và hội nhập đi vào chiều sâu, càng phải nâng cao sự hiểu biết của thế hệ trẻ về lịch sử, hiểu rõ về ông cha mình, thấy ra được chỗ mạnh và chỗ yếu của dân tộc mình. Trên ý nghĩa đó, việc dạy và học lịch sử, những công trình khoa học lịch sử chất lượng cao có tác động lớn đến việc đào luyện con người, con người Việt Nam hôm nay đang phải đối diện với những thách đố chưa từng có. Tính trung thực lịch sử và bản lĩnh người viết sử Đội nhã nhạc triều Nguyễn. Ảnh từ Internet Một trong những vấn đề quan trọng nhất, cũng có thể nói đó là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất lượng công trình nghiêu cứu lịch sử, điểm tựa để đảm bảo tính chính xác khoa học của sách giáo khoa lịch sử, tiền đề hết sức quyết định của việc cuốn hút, hấp dẫn và có tác động mãnh liệt đến tình cảm tư tưởng của thế hệ trẻ, giúp vào việc xây dựng nhân cách và bản lĩnh cho thế hệ trẻ, đó là tính trung thực lịch sử. Một khi mà tính trung thực lịch sử của một số công trình đã đến với đông đảo công chúng chưa cao, điều mà phần lớn những nhà sử học có nhân cách đều biết, song cho đến nay, dường như vấn đề này vẫn chưa được đặt ra một cách sòng phẳng, nghiêm túc và minh bạch. Đương nhiên trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, tính chân lý lịch sử sẽ phải được công bố như thế nào còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, song dù chưa công bố thì rồi tính chính xác khoa học của lịch sử sớm muộn cũng phải thể hiện ra. Vì vậy, cùng với việc nâng cao chất lượng sách giáo khoa lịch sử, nâng cao trình độ dạy sử của người thầy và ý thức đối với việc học sử của học trò nhằm bồi dưỡng tình cảm yêu nước và tinh thần dân tộc cho thế hệ trẻ, phải đặt ra vấn đề chất lượng khoa học của các công trình nghiên cứu lịch sử mà ở đó, tính trung thực của tác giả công trình nhằm làm sáng tỏ chân lý lịch sử là điều có ý nghĩa rất quyết định. Liệu có cần nhắc lại ở đây một khuyến cáo của ông Mittrrand “thái độ của giới trẻ với lịch sử là thước đo sự tín nhiệm chính trị với chế độ”. Vị tổng thống đương nhiệm của nước Pháp vào những năm 80 của thế kỷ XX ấy, khi sang thăm Việt Nam, đã đến xem xét tận nơi chiến trường Điện Biên Phủ trước đây, biểu thị một ứng xử văn hóa sâu sắc thể hiện thái độ sòng phẳng với lịch sử. Ai cũng có thể hiểu được rằng Điện Biên Phủ đã trở thành một sự kiện lịch sử đánh dấu sự thảm bại của một đế chế thực dân, kéo theo sự sụp đổ hệ thống thuộc địa trên thế giới. Sự kiện lịch sử ấy đã để lại một dấu ấn như thế nào trong lịch sử quân đội Pháp nói riêng và nước Pháp nói chung. Liệu có thể hiểu ứng xử văn hóa ấy của vị Tổng thống Pháp cũng là biểu thị của tính trung thực lịch sử không? Tính trung thực lịch sử ấy lại càng phải đậm nét trong các công trình nghiên cứu lịch sử mà ở đó, thể hiện tập trung trình độ chuyên sâu và bản lĩnh của nhà sử học. Gợi lên hình ảnh trên để khỏi phải nhắc lại chuyện mà hầu như nhà sử học nào cũng biết việc cả ba anh em người viết sử nước Tề dù rơi đầu dưới lưỡi gươm của Thôi Trữ vẫn không chịu sửa một chữ của sự thật lịch sử là “Thôi Trữ giết vua của mình là Trang Công”. Bản lĩnh ấy của người viết sử, của người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử là điều xã hội đang trông chờ. Lựa chọn văn hóa và giải quyết "bi kịch" lịch sử Phải chăng để đáp ứng sự trông chờ đó mà có Hội thảo khoa học về “chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn” ngày 18 và 19 tháng 10 năm 2008 tại Thanh Hóa - nơi phát tích của nhà Nguyễn - nhân kỷ niệm 450 năm Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa và sau đó là Quảng Nam, mở đầu một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của dân tộc. Đúng như Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam nhấn mạnh: “việc nhìn nhận, đánh giá lại chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn ngày càng trở thành một nhu cầu, đòi hỏi bức thiết, đầu tiên là của giới sử học, sau đó là của tất cả những nhà khoa học xã hội, và trở thành đòi hỏi của xã hội ”. Vì rằng, mặc dầu “triều Nguyễn đã để lại một di sản khổng lồ, vĩ đại mà không triều đại nào trong lịch sử có thể sánh được” nhưng ngót một thế kỷ qua, sự thật lịch sử đó đã bị vùi lấp. Đó là một bi kịch lịch sử lớn. Nguyên nhân của bi kịch ấy có nhiều, song đúng như phân tích của Gs. Phan Huy Lê “về sử học thuần túy, đó là thời kỳ mà nền sử học Macxít đang hình thành, nên sự ấu trĩ, giáo điều, công thức buổi đầu là không tránh khỏi”. Cùng với vấn đề phương pháp luận sử học của các nhà nghiên cứu, cần phải nói thêm là việc tồn tại thói độc quyền tư tưởng, áp đặt tư duy, tùy tiện quy kết của một số người có quyền, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa đã là nguyên nhân trực tiếp và kéo dài khiến cho nhiều sự thật lịch sử đã không được trình bày một cách khách quan, trung thực. Theo cách nói của Phạm Văn Đồng thì đó là “lấy lòng mong muốn thay cho thực tế. Trong cách nghĩ và cách làm sai lầm này, điều nguy hiểm nhất là bất chấp quy luật của lịch sử”. Với sự nghiệp Đổi mới, từ sự đổi mới tư duy về kinh tế mà đổi mới về tư duy nói chung để thấy ra sự phi lý của những quan điểm chính thống “quay lưng lại với bao sự thật hàng ngày diễn ra trước mắt mình để lao vào những sai lầm với những giá đắt phải trả. Rõ ràng đây là một sự thiếu sáng suốt trong nhận thức và hành động, trong lý luận và thực tiễn”. Những quan điểm gọi là chính thống ấy khi áp đặt vào việc biên soạn sách giáo khoa sử học cũng như từng áp đặt cho các công trình nghiên cứu lịch sử thì “những giá đắt phải trả” là khó mà có thể đo đếm được. Khi một cái giả biến thành cái thật, được đem rao giảng cho thế hệ trẻ thì khác nào chất axít gậm nhấm tâm hồn lớp trẻ, làm sao đo đếm được cái chất axít gậm nhấm tâm hồn ấy? Sự thật lịch sử bị vùi lấp, tệ hơn, bị xuyên tạc do nhiều động cơ và nguyên nhân khác nhau, nhưng cho dù bởi bất kỳ lý do gì, thì cũng làm giảm sút hay làm nao núng lòng tin của lớp trẻ vào những trang lịch sử hào hùng của dân tộc, hun đúc nên lòng tự hào dân tộc, chất ximăng kết dính những tâm hồn Việt Nam, tạo nên sức mạnh Việt Nam để phấn đấu bứt lên thoát khỏi nổi nhục nghèo nàn và lạc hậu để sánh vai cùng thế giới. Vả chăng, “văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội” như Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ thì lịch sử dân tộc với những khúc tráng ca và bi ca có sức lay động mãnh liệt tinh thần và tình cảm của con người Việt Nam mọi thời đại có ý nghĩa quyết định đến nền tảng tinh thần ấy. Đặc biệt là khi mà tiến trình phát triển và hội nhập của đất nước đi vào chiều sâu thì việc nâng cao bản lĩnh văn hóa có ý nghĩa hết sức quyết định. Bởi lẽ, với tiến trình ấy cần phải nhận thức được rằng “trước hết không phải là chuyện kinh tế mà là chuyện văn hóa, một chuyển động về văn hóa và tư tưởng có khi sâu sắc nhất xưa nay, một thay đổi trong tâm lý dân tộc… đây là sự chọn lựa văn hóa” (Nguyên Ngọc). Sự chọn lựa đó không phải bây giờ mới có. Trong lịch sử đã từng có, ít nhất có thể kể đến hai lần khá tiêu biểu. Lần thứ nhất là cuối thiên niên kỷ thứ nhất, đầu thiên niên kỷ thứ hai với việc từ bỏ cái gốc Đông Nam Á để tiềp nhận nền văn hóa “Hán hóa”, văn hóa Trung Hoa, nhằm tạo ra một nhà nước mạnh đủ sức chống chọi lại với họa xâm lược đến từ phương Bắc để đến thế kỷ XI, Lý Thường Kiệt có thể dõng dạc tuyên bố “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, khẳng định ý chí độc lập tự cường của dân tộc ta. Lời khẳng định đó được xem như “Tuyên ngôn độc lập” lần thứ nhất, để dẫn đến “Tuyên ngôn độc lập” lần thứ hai với “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi. Cuộc chọn lựa khôn ngoan lần thứ hai của Nguyễn Hoàng, đưa đến một đất nước mở rộng với tư duy “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, phi Hán hóa không chỉ về măt văn hóa, tư tưởng mà còn với sự lùi xa “cương vực” về phía Nam, từ đèo Hải Vân đến Hà Tiên, hình thành một quốc gia lớn mạnh đủ sức cho Quang Trung đại phá quân xâm lược đến từ mọi phía. Nhân kỷ niệm 450 năm Nguyễn Hoàng mở đầu một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của dân tộc, hy vọng rằng “Hội thảo khoa học về chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn” sẽ là một dấu ấn đậm nét về một thời kỳ phát triển mới của ngành khoa học lịch sử góp phần nâng cao bản lĩnh văn hóa dân tộc, góp phần củng cố “nền tảng tinh thần của đời sống xã hội”. GS. Tương Lai Nhời bàn của Sư Thiến. Để chỉ một triều Nguyễn được quan tâm, người ta đưa ra rất nhiều câu cú ồn ào có tính tiêu chí và phương pháp nuận. Chẳng ai bảo là dở. Nhưng cả một cội nguồn dân tộc từ gần 5000 năm văn hiến - thời Hùng Vương - tụt cái xoạch xuống còn 300 năm với "liên minh 15 bộ lạc" và những người dân "ở trần đóng khố" thì im re . Chẳng thấy cái mặt nào lên tiếng. Tôi đang có ý tưởng viết cuốn " Thời Hùng Vương qua những di sản còn lại" phát triển trên cơ sở cuốn: "Thời Hùng vương qua truyền thuyết và huyền thoại". Nhưng xem thấy câu này của G.S Tương Lai bên cạnh những ý tưởng khác trong bài viết rất ư ấn tượng của ông, khiến Sư Thiến tôi lại phải cẩn thận một tý: "Đương nhiên trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, tính chân lý lịch sử sẽ phải được công bố như thế nào còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, song dù chưa công bố thì rồi tính chính xác khoa học của lịch sử sớm muộn cũng phải thể hiện ra". Cứ theo cách nhìn này thì có lẽ sự kiện của ông Lê Mạnh Thát rơi vào trường hợp "Tính chân lý lịch sử sẽ phải được công bố như thế nào còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố". Hì! :unsure: . H :unsure: íc!
-
Bổ sung thêm bài này để học hỏi cách dùng từ của các giao sư hàng đầu: Kêu như mõ những rỗng tuyếch. Buồn ngủ quá! Mai sẽ gõ tiếp vậy. Sẽ tranh luận công khai 3 vấn đề chính với Thiền sư Lê Mạnh ThátChủ nhật, 16/03/2008, 01:51 (GMT+7) Nguồn: sggp.org.vn Trao đổi với phóng viên Báo SGGP trong ngày 15-3, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho biết, Thường vụ hội đã họp bàn các vấn đề liên quan và cho rằng, tất cả những phát hiện mới về lịch sử dân tộc đều đáng trân trọng, tuy nhiên để khẳng định một vấn đề cần có những tranh luận công khai, minh bạch về mặt khoa học, cần có những cứ liệu khoa học xác đáng, đủ sức thuyết phục. Với trách nhiệm của mình, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam quyết định sẽ tiến hành thảo luận công khai về những vấn đề mà Thiền sư Lê Mạnh Thát đưa ra. Hiện nay Thường vụ hội đã giao cho nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam liên hệ với Thiền sư Lê Mạnh Thát để tiến hành thảo luận theo 1 trong 2 phương thức: Tổ chức một hội thảo bàn tròn mang tính chuyên gia với sự có mặt của thiền sư cùng những bạn đồng nghiệp của thiền sư và một số nhà khoa học đầu ngành về lịch sử và những ngành liên quan như khảo cổ học, thư tịch Hán Nôm, ngôn ngữ học...; tổ chức thảo luận công khai trên Tạp chí Xưa và Nay (cơ quan ngôn luận của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam). Tại đây các học giả có thể tham dự bằng các bài viết tham gia thảo luận, sau đó hội sẽ tiến hành tổng kết một cách khách quan, trung thực. Nếu thấy cần thiết, Tạp chí Xưa và Nay sẽ dành toàn bộ nội dung để đăng các bài thảo luận, tranh biện trong một thời gian, đảm bảo chuyển tải hết nội dung cuộc tranh luận khoa học này và những vấn đề liên quan. Theo GS Phan Huy Lê, do các công trình nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát liên quan đến rất nhiều vấn đề, nên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đề nghị tập trung vào 3 vấn đề lớn mà Báo Thanh Niên đã nêu lên và dư luận xã hội đang chờ đợi ý kiến của giới sử học: 1. Thời An Dương Vương và nước Âu Lạc có tồn tại trong lịch sử hay không? 2. Cuộc xâm lược của Triệu Đà và thời kỳ đô hộ của nhà Triệu, nhà Hán cho đến khởi nghĩa Hai Bà Trưng có thực hay không? 3. Sự ra đời và phát triển đến trình độ cao của chữ viết thời Hùng Vương đã có cơ sở khẳng định chưa? Cơ sở tư liệu cần mở rộng cho tất cả các nguồn sử liệu liên quan, từ tư liệu thành văn trong thư tịch của ta, của Trung Quốc, trong hệ thống kinh và văn học Phật giáo, cho đến tư liệu khảo cổ học và các tư liệu văn học truyền khẩu trong kho tàng văn hóa dân gian. “Đây là những vấn đề về lịch sử dân tộc nên cần thảo luận trên cơ sở phương pháp luận của khoa học lịch sử. Vì vậy, cuộc thảo luận cần đảm bảo tính dân chủ, cởi mở, thẳng thắn, trung thực trên tinh thần thân ái, tôn trọng lẫn nhau, cùng chung sức tìm tòi, khám phá sự thật lịch sử, với ý thức trách nhiệm cao của giới sử học trước nhân dân và lịch sử dân tộc!” - GS Phan Huy Lê nhấn mạnh. Trần Lưu
-
Nếu Mậu Ngọ là trai - có lẽ vậy thì từ năm 2007 đến hết 2015 cưới vợ năm bào cũng được, chẳng có gì là khắc kỵ cả.Cố gắng tính toán đám cưới sao cho sinh con năm Kỷ Sửu là xuất sắc.Chúc vạn sự an lành.
-
Ngày mai thị trường chứng khoán lên so với ngày hôm nay.
-
Theo quẻ này:Thương Xích khẩu - mua vào thì dễ , bán rất chậm và khó bán. Tùy Nam quyết định.