Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Trời ơi, giải thích cái vụ này thì...phải đưa đọc nguyên một cuốn sách. Tốt nhất là tìm đọc cuốn "Hà đồ trong văn minh Lạc Việt" của tg Nguyễn vũ Tuấn Anh, Thiên Sứ thì mới hiểu rỏ nguồn cơn. Còn bây giờ thì cứ biết là: Theo sách Việt, Phong Thủy Lạc Việt thì người Tây Tứ Trạch sẽ có 4 hướng tốt: Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây. TRong trường hợp cụ thể này thì người mạng Cấn: Đông Nam là cung Sinh Khí Tây Bắc là cung Thiên Y Đông Bắc là cung Phục Vị Tây là cung Phúc Đức. Vậy thôi. Còn muốn hiểu nữa thì...đi học. Thiên Đồng.
  2. Bình tĩnh đi nè, Đông Nam là quá tốt cho tuổi người chồng 1974 rồi đó. Cứ về nói rằng nhà này theo Phong Thủy Lạc Việt thì được cách gọi là Sinh Khí trạch. Rất tốt. Không cần phải lo. Theo sách Tàu, bảo là hướng Tuyệt mệnh thì là sai rồi. Phần còn lại là thuyết phục sao thôi.
  3. Phương án II: Với phương án II, về mặt cảm quan, kiến trúc mái tạo cảm giác nặng nề và khó chịu, bởi bề mặt mái bị đâm xuyên bởi các cột chống đỡ. Phương án I: Với phương án I, về mặt cảm quan thấy nhẹ nhàng dể chịu hơn. Nên chăng, không tạo con đường đi trực thẳng lên Bi Mộ mà chỉ nên tạo hai lối đi lên hai bên thôi. Phía trước nên tạo thành một khuôn viên với những khóm cây cảnh tạo hình, những hình tượng biểu trưng văn hóa Việt. Ví dụ biểu trưng lấy từ trên trống đồng. Một vài thiển ý. Thiên Đồng
  4. Để ý kỷ sẽ thấy: -Xoáy Âm Dương không có hai chấm tròn nhỏ. -Luôn luôn có hình Ông Hổ. -Ông Hổ ngồi trên trống đồng. Đây là sự khác biệt rất lớn giữa Việt và Tàu.
  5. Phong thủy trong Kiến trúc và Quy hoạch Xây dựng: Mê tín hay khoa học ? Phong thủy lâu nay vẫn được coi là một lĩnh vực “nhạy cảm”, rộng lớn, liên quan đến nhiều vấn đề trong đời sống con người, vậy nên Viện Kiến Trúc (Hội Kiến trúc sư Việt Nam) và Viện Kiến trúc Nhiệt đới (Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội) được coi là khá mạnh bạo khi lần đầu tiên tổ chức hội thảo “Phong thủy trong kiến trúc và quy hoạch xây dựng” (tại Đại Lải – Vĩnh Phúc). Và cũng chính vì sự nhạy cảm của chủ đề mà Ban tổ chức đã đưa ra đầu bài: Hội thảo tập trung đề cập đến phần “dương trạch” quan hệ đến kiến trúc (KT) và quy hoạch xây dựng (QHXD)… Khái niệm đa chiều Có rất nhiều ý kiến định dạng phong thủy (PT) được đề cập tại hội thảo. Theo Ths.KTS Phan Đăng Trình, PT là một hiện tượng văn hóa có từ thời cổ đại, là thuật số đón lành, tránh dữ, phong tục dân gian lưu truyền sâu rộng, là quan niệm về mối quan hệ giữa con người với môi trường. PGS Lê Kiều thì “định nghĩa”: PT là địa thế, địa hình, là đất và nước quanh ta. PT là môi trường sống mà con người tồn tại trong đó. PT còn có nghĩa rộng là những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, sao trời, vũ trụ trái đất, khí tượng, địa thế làm nhà, đặt mồ mả nên PT vừa gần gũi vừa xa lạ với con người… Còn KTS Lý Thái Sơn thì đưa ra nhận định: PT là nơi đan xen nhiều chiều (không chỉ về không gian địa lý, lịch sử, chủng tộc, dân tộc), phức tạp giữa các yếu tố khoa học tự nhiên và kỹ thuật (kiến trúc, xây dựng, quy hoạch đô thị - nông thôn, môi trường sinh thái, nghệ thuật tạo hình và tổ chức không gian) và khoa học xã hội nhân văn (tâm lý cư trú cá nhân, cộng đồng tín ngưỡng dân tộc, cách tư duy, kiểu sống) giữa vật thể và phi vật thể… Câu hỏi đặt ra là, vì sao lâu nay PT vẫn được coi là lĩnh vực nhạy cảm, không được nhìn nhận công khai? PGS.TS Doãn Minh Khôi cho biết: PT phân biệt thành hai loại dương trạch và âm trạch. Dương trạch nghiên cứu về thế giới “dương”, nơi con người sống và làm việc, đó là nhà ở, công sở, đô thị. Trong khi đó, âm trạch nghiên cứu về thế giới “âm”, nơi con người an nghỉ vĩnh viễn, đó là các công trình lăng mộ… Một lý do khác khiến PT càng trở nên “nhạy cảm” là vì “việc lãnh hội thi hành PT khó, nên lâu nay hình như ta chỉ nhìn nhận PT qua khía cạnh “pháp thuật” (ý kiến của ông Nguyễn Cảnh Mùi). Hay “Lý luận cơ bản của PT (kinh dịch, âm dương ngũ hành) thì rất trừu tượng, thuật ngữ sử dụng khác xa so với ngôn từ dùng hàng ngày… tạo ra một vẻ bí hiểm. Đọc và nghe về PT thấy một không khí sống chết đan xen, trời đất hòa hợp, rõ không ra rõ, mờ không ra mờ làm cho quần chúng có thể tin, có thể không tin nhưng cũng sợ (PGS Lê Kiều). Đơn giản hơn do “thiếu nghiên cứu, thiếu tư liệu, PT đã được xem như là một lĩnh vực huyền bí, siêu thực (GS.TS Nguyễn Bá Đang). Sức hấp dẫn của phong thủy Chính vì không được nhìn nhận một cách công khai nên trong các công trình xây dựng công cộng hay tư nhân, nếu có tham khảo PT thì cũng chỉ là tự phát, tùy tiện, dựa cách ngẫu nhiên vào lòng tin của chủ công trình với một thầy phong thủy nào đó mà không qua bất cứ hội đồng kiểm nghiệm, đánh giá nào. Ông Nguyễn Văn Vịnh nêu một thực tế là giờ đây vào bất cứ nhà sách nào cũng có thể tìm thấy hàng loạt các cuốn sách viết về xây dựng, kiến trúc, sắp sếp nội thất, ngoại thất theo phong thủy… Nhiều sách đến mức những người iét kinh nghiệm chẳng biết mua sách nào cho phù hợp mục đích sử dụng. Theo ông Vịnh, tình hình này chứng tỏ hai vấn đề. Thứ nhất, PT được thừa nhận là cần thiết và có giá trị sử dụng. Thứ hai, xã hội thật sự có nhu cầu hiểu biết, ứng dụng thuật PT. Còn theo ghi nhận của giới báo chí, hội thảo thu hút hàng trăm kiến trúc sư trong cả nước tham dự. 24 người đã gửi bài tham luận, trong đó có những bài tham luận dày cộm, thể hiện quá trình nghiên cứu công phu. Các diễn giả diễn thuyết say sưa, tranh luận đến cùng… Tất cả các yếu tố này cho thấy giới làm nghề kiến trúc đặc biệt hứng thú, quan tâm đến phong thủy. Thái độ nào dành cho phong thủy? Cho dù cách tiếp cận vè PT còn khác nhau, cách hiểu cũng chưa hẳn đồng nhất nhưng các ý kiến tại hội thảo có điểm có điểm chung là nghiên cứu, nhìn nhận PT theo hướng khoa học. TS.KTS Lê Đình Tri cho rằng: “Nếu nhìn trên khía cạnh khoa học, PT chính là quan hệ tự nhiên vốn có giữa từ trường trái đất, địa tầng và sức khỏe sinh lý con người”. PGS.TS Nguyễn Minh Sơn thẳng thắn bày tỏ quan điểm: PT không thể là một bộ môn bí hiểm, thần kỳ, càng không phải là loại tri thức cao siêu thần bí từ các thầy địa lý nói ra. PT chỉ đơn giản là phương cách để chúng ta lựa chọn sắp đặt ngôi nhà của mình cho an toàn và tốt đẹp hơn. Ths. KTS Phan Đăng Trình đồng tình: “Lý luận PT về dương trạch có nhiều yếu tố hợp lý đáng để chúng ta tam khảo khi xây dựng, sửa chữa nhà ở”. Đến đây, vấn đề mà các đại biểu quan tâm là có thể ứng dụng, tham khảo PT trong kiến trúc, quy hoạch xây dựng như thế nào? Ông Nguyễn Cảnh Mùi cho rằng: PT theo cách của kiến trúc hiện đại là phải đáp ứng những nguyên tắc như có cảnh quan tự nhiên đẹp, địa thế hài hòa, cao ráo, kết cấu vững chắc, ánh sáng đầy đủ, không khí trong lành, nguồn nước sạch sẽ, không có tiếng động, ồn ào, giao thông thuận lợi. Cảnh quan nhân văn thuận theo đạo lý tự nhiên… TS Doãn Quốc Khoa thì bày tỏ quan điểm cá nhân: Ngoài những giá trị về lịch sử, văn hóa nói chung, những giá trị của PT có thể học tập, kế thừa trong QH xây dựng chủ yếu ở khía cạnh nhận thức và phương pháp. Cụ thể, đó là phương pháp tư duy tổng hợp; tính biện chứng trong nhận thức về cấu trúc của không gian xây dựng; giá trị nhận thức về mối quan hệ tác động con người – môi trường xây dựng, giá trị về vận dụng triết lý Phương Đông trong tổ chức không gian; giá trị về tính linh hoạt, không giáo điều trong vận dụng các nguyên tắc tổ chức không gian. Giá trị về tính hài hòa, cân bằng. Giá trị về kiến trúc – quy hoạch xây dựng nhiệt đới Việt Nam. Phát biểu hội thảo, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam Nguyễn Tấn Vạn kết luận: PT là một loại hình văn hóa được xã hội, người dân Châu Á nghiên cứu, xem xét, truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay, PT cũng đã bắt đầu tràn sang các nước Châu Âu, bằng chứng là nhiều KTS Châu Âu đã đặt vấn đề nghiên cứu PT trong các dự án đô thị, nhà ở. Các bài tham luận tại hội thảo đều cho rằng PT là khoa học, có giá trị ứng dụng trong thực tế cuộc sống, giúp con người có môi trường sống tốt hơn. Do vậy, nên chăng PT cần tiếp tục được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn để nhận dạng bản chất khoa học và nếu thực sự PT là khoa học thì cũng nên chăng cần được nghiên cứu ứng dụng trong kiến trúc, quy hoạch xây dựng và đưa vào giáo trình đào tạo kiến trúc sư. Theo Xây Dựng nguồn: http://24x7.vn/showthread.php/phong-th-y-t...a-h-c-7191.html
  6. Kiêng Kị Về Mai Táng Thời Tấn (Trung Quốc) Táng thi là một cuốn sách trình bày những điều kiêng kỵ khi mai táng thời Tấn. Người dân thời đó tin rằng: Chuyện họa phúc, sang hèn, giàu nghèo của mỗi người được quyết định bởi phong thủy nhà ở, phần mộ tổ tiên tốt hay xấu. Sách thời đó giải thích rất rõ từ “phong thủy”: “táng (chôn cất) là nhận sinh khí, phàm là khí âm dương, thở thì thành gió, bay lên thành mây, rơi xuống thành mưa, lưu hành trong đất thành sinh khí, sinh khí chuyển động trong lòng đất mà sinh ra vạn vật, con người ta được cha mẹ cho thể xác, hình hài được khí, di thể (xác chết) được ấm (phúc ấm). Do vậy, sống là sự ngưng tụ của khí, kết thành xương cốt, khi chết chỉ còn lại xương, do vậy táng là phản khí nội cốt để sinh phúc ấm. Người ta tin rằng khí cảm ứng quỷ mà phúc cho người, vì thế núi ở phía tây lở, thì linh ứng núi ở phía đông. Khí vận hành trong đất, theo địa thế mà vận hành, địa thế mà dừng thì khí tụ lại. Núi non là xương, gò đống là chi (nhánh), khí theo đó mà vận hành. Khí gặp gió tất tản mát, gặp nước chặn lại ắt dừng, người xưa làm cho khí tụ lại mà không tản đi, khiến vận hành mà có lúc dừng lại. Theo phong thủy, đắc thủy là tốt nhất, tàng phong là thứ hai… nông hay sâu để nhận được (sinh khí), là tự thành phong thủy. Đất là mẹ của khí. Có đất tất có khí. Khí là mẹ của nước. Có khí tất có nước, do đó, nơi khô ráo thì nên táng nông, nơi bằng phẳng thì nên táng sâu. Ngoài ra, có năm dạng sơn (núi) không thể táng. Khí sinh nhưng núi trọc. Khí đến theo hình nhưng núi đứt đoạn. Khí vận hành theo đất nhưng núi là núi đá. Khí đã dừng theo thế nhưng núi vẫn vượt qua. Khí long hội nhưng gặp độc sơn (núi đứng một mình). Như vậy có nghĩa các dạng núi: trọc, đứt, đá, quá, độc đều không được táng, nếu không, sẽ “sinh tân hung, tiêu kỷ phúc” (sinh điều dữ, mất phúc vốn có). Huyệt có 6 điều dữ: Âm dương không khớp. Phạm giờ phạm năm. Lực nhỏ tham vọng lớn. Chỉ dựa vào phúc lực. Nịnh trên đe dưới. Ứng biến quái kiến. Vì thế khi mai táng, phải chú ý Thanh long bên trái, Bạch hổ bên phải, Chu tước đằng trước, Huyền vũ đằng sau. Huyền vũ cuối đầu, Chu tước dang cánh, Thanh long uốn khúc, Bạch Hổ quy thuận. Hình thế mà ngược lại như trên sẽ bị tan vỡ, chết chóc. Vì vậy người ta quan niệm hổ ngồi là “hàm thi” (ngậm xác chết), rồng nằm “kỵ chủ” (căm ghét chủ), Huyền vũ không cúi đầu thì chỉ là một cái xác khổng lồ, Chu tước không lượn thì bay mất đi. Dùng thổ khuê (thước đo đất) đo phương vị, dùng ngọc xích đo dài ngắn, lấy hai chi là long, hổ lấy vết tích của đến và dừng lại ở đồi, gò, nếu như hình khủy tay thì gọi là hoàn bao (ôm lấy). Lấy nước làm Chu tước, thì sự suy thịnh ứng với hình thế, nước chảy xiết thì rất kỵ, gọi đó là bi khấp (đau buồn chảy nước mắt). Kiêng kỵ về địa hình thời Ngụy Tấn (Trung Quốc) Người thời Ngụy Tấn có một số kiêng kỵ khi chọn địa hình như sau: Nước chảy đến mà xông thẳng tới như tên bắn, chảy xiết réo ào ào, hoặc nhảy dựng lên như cánh cung bị lật, thì đều không tốt. Nếu nước không có tình, chảy đến mà không nhập đường, thì có nước cũng như không. Nếu nhìn bằng mất không thấy nước, nhưng giẫm lên thì ướt đế giày, hoặc đào hồ thì có nước chảy ra, nhưng đến thu, đông thì khô hạn, như vậy là mạch yếu tản mát, không tốt. Nếu nước có mùi khai thối như nước tiểu bò lợn thì xấu nhất. Nếu nước bùn, gặp mưa thì nổi lên, trời lạnh thì khô kiệt, như vậy là địa mạch rò rỉ, cũng không tốt. Nước xú uế, đàn bà băng lậu, đàn ông bị trĩ, nhà cửa sa sút. Phản thủy: nước dội ngược lại chỗ đầu rồng nhà tan cửa nát, người ly tán. Ngược lại, nước lành là nguồn nước vươn xa thì long khí vượng phát phúc lâu dài. Nguồn nước ngắn thì phúc ngắn. Nước phải nhập dương, lại có nơi đón nhận phía dưới, hoặc thủy phong phù trợ ngầm, đều có nước lành. Nước chảy đến, dù quanh co uốn khúc, dù chảy ngang rồi quanh lại, dù chảy đi nhưng phải tỏ ra vương vấn, quạy lại và có vẻ dừng. Nếu là nước biển thỉ sóng triều phải cao và sóng bạc đầu (có màu trắng) là cát (tốt lành). Nếu là sông thì nước quanh co uốn lượn là cát. Nếu là suối, êm đềm phẳng lặng. Nếu là hồ đầm, mặt hồ phẳng như gương thì tốt. Nếu là ao thì giữ được nguyên trạng (như vốn có) thì tốt. Nếu là giếng trời, thì sâu và không khi nào cạn là tốt. Con người không được tùy tiện san lấp ao bờ, cũng không được đào hồ khơi rãnh, vì làm như vậy sẽ tổn thương địa mạch, địa mạch mà bị thương thì nước không thể lành. Ngoài ra, người ta còn cho rằng: Can thủy tán khí: can thủy (đông chính) nhưng chảy nghiêng, có vẻ gấp khúc mà không gấp khúc, ốm mà không ốm, lại không có chi nhánh để làm nổi khí, thì không bao giờ kết huyệt. Chỉ thủy giao giới: trên dưới trái phải đều có dòng nước chảy đều, bên trái và bên phải đều hướng về, thì kết huyệt ở giữa, hưởng phúc cực lớn. Can thủy thành hoàn: Dòng nước cực lớn, như thân của cây, thủy thanh ôm quanh, có kết huyệt. Khúc thủy triều đường: Nước chảy quanh co mà tới, ôm lượn rồi đi, có thể kết huyệt. Chỉ can: Nước lớn, mênh mông, tác huyệt ở chi can sẽ làm đến Tam công. Đậu bao: Bờ phải có ao hình cái túi, phú quý không bao giờ dứt. Phi long: Rồng bay, con cháu nhiều may mắn. Nhị long: Hai rồng gặp nhau thì gọi là thư hùng (đực cái) phú quý, làm đến Tam công. Kiêng kỵ về núi xung quanh huyệt Theo quan niệm của người Trung Quốc, núi xung quanh huyệt phải tránh những điểm sau: + Núi gầy: Người đói + Núi lở: Người có chuyện bi thương + Núi quay đi: Người ly tán. + Núi co lại: Người thấp hèn. + Núi âm u: Người mê muội. + Núi nghịch: người hết hơi Sách “Bác Sơn chiên” cho rằng: “Sa núi quanh huyệt của thủy khẩu cực kỳ lợi hại, giao thoa chặt chẽ, lòng thần mới tụ. Tẩu thế thuận mà bay đi, thì chân long tất cũng đi. sa có ba loại: đầy đặn, tròn, nghiêm chỉnh, là phú cục; thanh tú, nhọn, đẹp là quý cục, nghiêng, sưng bủng là tàn cục. Sa nào cũng có sát. Sa nhọn như mũi tên, sa vỡ tới đỉnh, sa ló đầu ra, sa quay mình về hướng ngược lại, sa vươn theo nước, sa từ cao đè xuống huyệt, đều là hung tướng (tướng dữ). Lại có tương quan, phá toái (vỡ nát), trực cường (thẳng cứng), hiệp bức (kiềm cặp), đê hiểm thụt xuống) tà loạn (nghiêng ngả lung tung), thô dại (thô, sù sì), sấu nhược (già yếu), đoản túc (co quắp), ngang đầu (ngẩng lên), bối diện (mặt trái), đoạn yêu (gãy lưng) đều là sa gây họa”. Tất cả những sa không thuận mắt đều là “hung” (xấu, dữ), “họa” (gây tai họa). Không được lấy huyệt khi gặp những sa nêu trên. Nếu đất huyệt mà bốn bên đều có sa phú quý thì chủ cát (tốt lành). Sự sắp xếp của sa phải có tầng lớp, có thứ tự trước sau, đồng loạt nghiêng vào trong, như là có tình ý. Chân sa mà có nước chảy róc rách, lượn lờ uốn quanh, thì đó là sa tốt. Ngoài ra, phải chú ý: Khí không thuận hòa, sơn không có cây cối, không thể cắm huyệt. Nếu như có văn lạ trong tầng đất thì có thể cắm. Khí chưa dừng, sơn vẫn đi, thì không thể cắm. Hoặc yêu kế, hoặc hoành long, theo phép có thể cắm. Khí chưa hội tụ mà sơn cô độc (chỉ có một mình) thì không thể cắm trừ phi được bình dương cục bảo vệ, theo phép có thể cắm. Khí không đến, mạch đứt lại nối, không thể cắm. Tự nhiên mà đứt, đứt rồi lại đứt, theo phép có thể cắm. Khí không vận hành, đá chồng chất, không thể cắm. Nói như trên có nghĩa là, sơn mà không tụ khí thì không thể điểm huyệt (cắm huyệt). Theo(Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin) Cải Táng Cuối năm, khi những cơn gió lạnh mùa đông đến, theo tập quán của người Việt, những gia đình có người chết quá 3 năm thì tiến hành bốc mộ. Đây là công việc gây nhiều lo lắng, hoang mang cho mỗi gia đình. Những người con cháu quan niệm rằng, đây là cơ hội cuối cũng lo lắng cho người đã quá cố. Ngoài việc giữ trọn đạo hiếu với người đã khuất, đây còn là dịp để quan tâm đến Phong Thuỷ âm phần, theo truyền thống tâm linh người Việt, ngoài việc giúp cho vong linh được an lành, còn góp phần thúc đẩy sự thành công và may mắn cho các thành viên trong gia đình sau khi cải táng. Để giúp bạn đọc có những kinh nghiệm cần thiết trước khi tiến hành việc này, tôi sẽ hệ thống lại các công việc cần thiết theo Phong Thuỷ, cho mỗi gia đình tham khảo trước khí tiến hành việc đại sự … 1. Chọn lựa thời điểm : Chọn lựa thời điểm để cải táng là một việc vô cùng quan trọng. Theo phong tục của người Việt Nam, người mất sau 3 năm thì cải táng, cũng là lúc con cháu mãn tang, tức là hoàn toàn hết để tang vong linh. Vì thế, việc cải tháng thường được tiến hành sau 3 năm chôn hung táng. Tuy nhiên, hiện nay thực tế môi trường địa lý và khí hậu có nhiều thay đổi, các hoá chất được sử dụng nhiều trong đất để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng sau 3 năm xác người chết chưa phân huỷ diễn ra khá phổ biến, nên nhiều gia đình lựa chọn giải pháp là để thời gian cải táng lâu từ 4 đến 5 năm để tránh hiện tượng trên. Năm để tiến hành cải táng phải lựa chọn theo tuổi của vong, tránh những năm xung sát. Ngoài ra còn phải căn cứ theo tuổi của trưởng nam trong nhà, vì khi vong đã mất thì mọi sự may rủi đều gánh trên vai của người trưởng nam. Năm để tiến hành cải táng cũng phải được phù hợp với tuổi của người trưởng nam. Một vấn đề được quan tâm nhiều nhất, đó là trường hợp mộ kết. Theo quan niệm của Phong Thuỷ, khi được chôn vào huyệt tốt thì sau một thời gian mộ sẽ kết phát. Nếu mộ kết phát thì con cháu sẽ thuận lợi, nhiều thành tựu, may mắn. Nếu mộ kết mà tiến hành cải táng thì không những mộ bị mất kết mà còn gặp nhiều điều rủi ro cho gia đình. Vì thế cần thẩm định kỹ mộ trước khi cải táng xem mộ có phải là mộ kết hay không. Nhìn mộ có thể đoán định được bằng các đặc điểm sau : - Huyệt đất trước khi tiến hành hung táng là một huyệt đất mới chưa được đào xới - Mộ có đất vững chắc, nếu lấy một cây gậy cắm vào mộ thì đất rất chắc, khó có thể cắm được. Mộ không có nứt lún hoặc các hang hốc do các loài vật làm tổ. - Khí của mộ tươi tốt, cỏ cây trên và xung quanh mộ được xanh tươi - Đất của mộ nổi cao lên rõ rệt, xung quanh và trên mộ đất đùn lên trông thấy kích thước phát triển quá mức ban đầu. Các bạn lưu ý rằng, nên nhờ một thầy chuyên gia có kinh nghiệm Phong Thuỷ chính tông tiến hành xem xét cẩn thận trước khi cải táng, nếu không biết mà tự ý tiến hành thì sẽ dẫn đến những hậu qủa khó lường. Nếu là mộ kết thì không nên cải táng, xây dựng, mà chỉ cần trông coi mộ cho cẩn thận, hoặc chỉ xây hàng rào thấp bao xung quang mộ. 2. Chọn lựa huyệt đất mới : Khi đã chọn lựa được thời điểm tiến hành thì người trong gia đình sẽ phải chọn lựa một huyệt đất mới để chuyển hài cốt sang. Ngày xưa, điều kiện đất đai còn rộng lớn thì việc này tương đối dễ dàng. Ngày nay, đất chật người đông, diện tích đất dành cho người chết cũng rất hạn chế. Thường ở địa phương sẽ tiến hành bố trí cho gia đình một huyệt đất mới ở cùng nghĩa trang nơi hung táng. Nếu các gia đình có nhu cầu chọn lựa phải mua đất ở nơi khác rồi chuyển hài cốt về. Việc chọn lưạ huyệt đất là tương đối khó khăn, để tìm được vị trí mới tốt lành, cần lưu ý các điểm sau đây : - Huyệt mộ là nơi đất mới chưa từng bị chôn lấp, đào xới. Khí đất của huyệt tươi tốt, đất rắn chắc tươi tắn. Nếu là vùng đồng bằng thì đất tươi mịn, có mùi thơm, đào lên phía dưới độ 60 -70cm đất đặc quánh, có màu vàng nhạt hoặc màu nâu đậm. Nếu là miền sơn cước thì đất mịn màng, tuy khô nhưng có màu vàng nhạt. - Kỵ nhất là huyệt là nơi đất tơi xốp, có chứa nhiều rác rưởi, hoặc có nguồn nước thải bị ô nhiễm. Đào lên ở đáy huyệt phải có mạch nước ngầm chảy dưới huyệt. Màu sắc của nước trong xanh, mùi thơm, tránh nước bị ô nhiễm hoặc nước có mùi hôi. Những huyệt ở đồng bằng thì kỵ không có nước ở dưới huyệt. - Ở các vùng nghĩa trang nơi quy tập nhiều mộ, thường bị tình trạng quá tải về diện tích, các mộ chen lấn nhau. Tránh huyệt bị các mộ xung quanh lấn chiểm, hoặc nằm án ngữ ngay trước phần mộ, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh mộ. Nếu chọn được huyệt phía trước rộng thoáng, lại nhìn ra ao hồ hay sông suối là đắc cách. Trường hợp đất đai quá hiếm không chọn được huyệt có phía trước thoáng rộng thì tối thiểu cũng phải có một khoảng đất trống nằm ngay phía trước huyệt mộ. - Quan sát cẩn thận hệ thống đường đi xung quanh huyệt. Nếu huyệt có đường đi đâm thẳng vào giữa hoặc đâm xuyên sang hai bên thì chủ về phá bại không thể dùng. . Đường đi sát ngay phía sau huyệt cũng tối kỵ chủ tổn hại nhân đinh. Tốt nhất chọn huyệt nơi yên tĩnh xa cách với đường đi lối lại quanh khu vực mộ. - Ở vùng núi non thì cần thẩm định huyệt theo những tiêu chí của địa lý chính tông. Huyệt cần được bao bọc có long hổ hai bên ôm lấy huyệt, phía sau có cao sơn che chắn, phía trước có minh đường thuỷ tụ… Các bạn lưu ý rằng, nên nhờ một thầy chuyên gia có kinh nghiệm Phong Thuỷ chính tông tiến hành xem xét cẩn thận trước khi cải táng, nếu không biết mà tự ý tiến hành thì sẽ dẫn đến những hậu qủa khó lường. 3. Các bước tiến hành : Bước 1 : Chọn ngày giờ Hoàng đạo : Cần tiến hành chọn lựa thời điểm phù hợp, tháng được chọn nên tránh tháng xung khắc với tuổi trưởng nam, tuổi của vong linh. Trong tháng chọn ra 2 ngày tốt gần nhau để tiến hành việc đào huyệt, xây mộ mới và ngày giờ tiến hành đưa hài cốt sang huyệt mộ mới. Ngày giờ tiến hành xây huyệt mộ mới thường chọn trước ngày bốc mộ khoảng 1 tuần. Những giờ tiến hành bốc thường là các giờ về đêm, theo quan niệm âm dương, hài cốt thuộc âm thì nên tiến hành vào các giờ âm để tránh xung hại. Các giờ này là các giờ Hợi, Tí, Sửu, Dần (11h đêm đến 5h sáng) Bước 2 : Nghi thức tiến hành : Vào ngày tiến hành động thổ xây huyệt mộ mới. Trước giờ khởi công, trưởng nam cùng gia đình sắm sửa lễ để cúng quan thần linh, vì theo quan niệm của tín ngưỡng Việt nam, trước khi làm việc gì cũng phải xin phép Thần Linh bản cảnh chứng giám để gia đình tiến hành công việc được thuận lợi. Lễ vật gồm hoa quả, tiền vàng, lễ mặn, gạo muối,…. Sau khi khấn Thần Linh thì tiến hành động thổ xây dựng. Huyệt thường được đào và xây vuông xung quanh huyệt, phía dưới không xây chỉ để lớp đất bằng để hạ quách dựng hài cốt xuống. Lưu ý : Kích thước xây chỉ vừa đủ rộng hơn quách mỗi chiều khoảng 10-20cm. Phía dưới không được láng xi măng để tránh bị âm dương ngăn cách. Nếu đất rắn chắc thì không cần xây tường xung quanh huyệt. Độ nông sâu của huyệt cũng cần được xem xét rất cẩn thận, phải đào hết lớp đất mặt, thường đào đến lớp đất thịt khoảng 50-60 cm. Tuy nhiên, cần phải nhờ một thầy có kinh nghiệm thẩm định độ nông sâu của huyệt. Công việc chính và quan trọng nhất là tiến hành đưa hài cốt sang huyệt mộ mới. Hài cốt sau khi được bốc, xếp gon gàng vào tiểu sành sẽ được đưa sang huyệt mới để hạ xuống và lấp đất lên. Sau đó gia đình sẽ tiến hành hoàn thiện phần xây dựng mộ. Mộ xây dựng bao giờ cũng phải có phần thông thiên, tức khoảng đất trên mặt mộ để dương khí giáng xuống. Bước 3 : Hoàn tất Sau khi mọi việc xây dựng đã hoàn tất, bước cuối cùng là nghi lễ tiến hành lễ tạ phần mộ và cúng cho vong linh được yên ổn, siêu thoát. Theo phong tục truyền thống, lễ vật chuẩn bị bao gồm lễ mặn và lễ chay, ngoài ra còn có đồ mã như ngựa, quần áo, vàng mã. Sau đó gia đình tiến hành lễ tạ quan Thần Linh, lễ điền hoàn long mạch. Những gia đình có truyền thống Phật giáo thì tổ chức nghi lễ cầu siêu cho vong linh được siêu thoát. Trên đây là những cách thức cơ bản về Phong Thuỷ và tâm linh cho việc cải táng, một việc làm cuối cùng để yên tâm cho người sống và người đã khuất. Ngoài những yếu tố vô hình về Phong Thuỷ và tâm linh, đây còn là dịp để mọi người có cơ hội thể hiện lòng hiếu thảo với cha ông của mình, sum họp với gia đình và dòng họ, một việc làm rất có ý nghĩa trong trong cuộc sống hiện đại ngày nay. http://blog.timnhanh.com/ Tả Ao và địa mạch núi Tản Viên Từ thưở bé, ông nội tôi thường kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ của địa phương. Ông cũng thường đọc cho tôi nghe những câu ca dao, tục ngữ, những câu sấm, câu vè được lưu truyền ở xứ Đoài. Một trong những câu chuyện mà tôi rất ấn tượng đó là chuyện về ông thầy địa lý Tả Ao. Chuyện rằng: Ngày xửa ngày xưa, làng La ở xứ Đoài (cách làng tôi 4 km) có đón được thầy địa lý Tả Ao về để xem đất. Thầy ở trong làng hàng năm trời. Dân làng thay nhau cung phụng ông. Hàng ngày dâng lên ông toàn những món ăn ngon. Sáng sớm, khi ông thức dậy là có một chiếc chậu đồng sẵn nước nóng để ông rửa mặt. Đêm thì đệ lên một chậu để ông ngâm chân. Rồi ông tìm được cho làng một cuộc đất tốt để làm đình, phát 18 quận công. Khi ông dời chân đi, dân làng nói chuyện tạ ơn ông. Ông nói: Dân làng với tôi đã rất thịnh tình, tôi không nhận gì nữa, chỉ xin một khóm tre non để tôi trồng ở góc ao đình. Sau này, làng phát văn võ quận công, tôi quay lại, xin ngả bụi tre đó, chẻ lạt để xâu tiền. Xâu được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Thế rồi ông xách tay nải lên đường. Đình làng để ở nơi đất đẹp, trước đình có ao làm minh đường. Làng vượng lắm, có đến 18 quận công, nổi danh trong triều ngoài trấn. Sau, bụi tre lên xanh um. Dân làng mới họp bàn rằng, nếu cứ để bụi tre thế này, sau ông thầy Tả Ao về thì biết bao nhiêu tiền cho đủ để ông xâu tiền, mới lại bàn triệt búi tre đi. Bẵng đi một thời gian, ông Tả Ao lại thăm làng. Chuyện trò hồi lâu ông mới hỏi đến bụi tre thì dân làng nói nó đã chết lụi rồi. Ông buồn lòng nhưng cũng làm như không có chuyện gì xảy ra. Ông mới bảo làng có muốn phát nữa không, thì dân làng còn muốn phát nữa, cả văn lẫn võ, cả đinh lẫn tài. Ông bảo vậy thì hãy xẻ núi Tản Viên, dẫn nước về ao đình để thủy tụ nữa. Dân làng tưởng thật, xẻ núi dẫn nước về ao. Núi Tản Viên bị xẻ, động vào chân voi chân ngựa, toàn long mạch cả, khiến cho đất đào lên cứ đỏ như thịt trâu thịt ngựa, nước thì đỏ như máu. Chỉ trong một thời gian ngắn, làng La lụn bại. Làng mắc dịch và chết gần hết, số còn sống sót thì phiêu bạt khắp nơi. Làng La thành ra một làng không còn một bóng người. Ngày nay, địa phận làng La chính là làng Nhân Lý, xã Yên Mỹ, ngoại thị Sơn Tây. Dân làng Nhân Lý chính là người dân trong vùng, sau một thời gian kéo đến ở, ăn thừa tự trên đất làng La xưa. Ca dao cổ Xứ Đoài có câu rằng: Bây giờ có “Thủy nhập điền” Gặt mùa vừa đoạn thì liền cấy chiêm Đằng trong có một làng La Bởi một nhời nói ấy mà tiệt tông Tả Ao đóng hướng bảo lại lấy công Rằng làng mới cãi rằng không kia mà Tả Ao mới bảo bạc bội kia mà Tả Ao mới bảo làng là đào sông Tả Ao mới bảo đào sông Nó đứt mạch đất tiệt tông kia mà. Trưa 31 tháng 7 năm 2008 Nguyễn Xuân Diện P/S: Việc xẻ núi Tản Viên (Ba Vì) xin chớ lấy làm chơi. Cách đây khoảng hơn 10 năm, người ta đào bới, xẻ núi ở địa phận xã Minh Quang, huyện Ba Vì. Nước chảy ra trâu bò uống đều bị trụy thai cả. Dân cư dùng nước đó đều ốm yếu, mắc bệnh. Khi ấy, tôi và Đỗ Doãn Hoàng (Báo Lao Động) đã thăm bà con, hỏi chuyện và viết bài lên tiếng thì người ta mới dừng chuyện đào bới. http://nguyenxuandien.blogspot.com Ao Hồ TRong Phong Thủy[/size] [/i]Ngày xưa khi làm ăn phát đạt, ai cũng muốn xây một ngôi nhà thật đẹp, trong khuôn viên ngôi nhà đào một cái ao hoặc để nuôi cá chơi, hoặc tạo ra thế giàu sang. Nhưng về khía cạnh phong thủy, ít ai biết rằng chính những cái ao đó lại mang họa đến nhiều hơn là phúc. Các nhà phong thủy học Trung Quốc và Việt Nam đã tổng kết: Có đến 80% những người sống trong khuôn viên hoa lệ ấy, mấy ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra như bà chủ luôn phải đi bệnh viện lâu ngày, hoặc trong nhà có người mắt kém, trẻ em tinh thần nhu nhược, hoặc gia đình không hòa thuận, tâm trạng mọi thành viên trong gia đình luôn nặng nề... Những hiện tượng đó phần lớn có liên quan đến ao hồ. Ao hồ theo cách nói của phong thủy học bao gồm cả giếng nước, về vị trí và hình dáng có các trường hợp xảy ra như sau: - Nếu có một ở bên Đông, một ở bên Tây, phạm điều đó, trong nhà sẽ không có người phát câm thì phát điên. - Đằng sau nhà có hai cái ao, hoặc bên trái, bên phải hay trước nhà đều có ao, phong thủy cho đó là thế chân rồng chân hổ giẫm lên nhau, dâm dục không nghi ngờ gì nữa. Đây là thế hình sát cho biết không khí dâm dục có đầy trong nhà. - Trước nhà, sau nhà có ao cũng rất hung, người xưa nói: "Tiền đường hạ cấp đường, nhi tôn huyền tiểu vong", nghĩa là ao trước ao sau nhà, con cháu chết sớm. - Vị trí và hình dạng ao không thống nhất cũng gây họa, như: có cái lồi ra, có cái thụt vào hoặc hình như quả bầu, có cái nhỏ cái to nối liền nhau, bệnh tật và tai họa sẽ đến với nam chủ nhân. Người xưa thường nói "Thượng đường liên hạ đường, quả phụ thủ không phòng, phong tật bất ly sàng", nghĩa là ao trên liền ao dưới, vợ góa giữ phòng không, ao to nối ao nhỏ, bệnh phong chẳng rời giường. - Hai hoặc ba ao liền nhau, báo chủ nhà nước mắt ròng ròng, nghĩa là thế nào sự cố bi thảm cũng xảy ra. Nếu hình dáng ao trông như hoa mai, thì nhà có ba bốn bà vợ góa. Như vậy, có ao trong khuôn viên trong nhà là mang họa cho người ở, nhưng phong thủy cũng cho rằng ao có thể mang điều tốt đến. Nếu chưa nói đến quy định về khoảng cách, hãy chỉ nói đến hình dáng thì ao có hình bán nguyệt là khá tốt. Trước nhà có ao như vậy thì có tiền của. Người xưa nói: ao bán nguyệt sinh tiền, hàng nghìn kho lúa, trẻ con rớt không chết đuối. Tuy nhiên, cũng nên đề phòng trẻ em về nạn sông nước. Ao có hình vuông như nghiên mực là tốt nhất, người xưa nói: "Tiền đường tự nghiên trì, tử lục đăng cao đệ, đường thanh do như kính, quý sinh minh", nghĩa là ao trước nhà giống cái nghiên mực, con cháu thi đỗ cao, nước ao mà trong như gương, sinh con quý mà thông minh. Trước nhà có ao như vậy là tốt, nhưng vị trí ao phải xa cửa nhà, sao cho ánh nắng chiều tà không được phản xạ tia nắng chiếu vào nhà. Trường hợp ao hoặc bể bơi gần nhà, để ánh sáng mặt trời phản xạ được vào trong nhà, phong thủy học gọi cái ao hay bể bơi này là "gương soi chậu máu" hoặc "vạn đạo kim quang" chiếu vào nhà. Gặp trường hợp như vậy, người xưa nói không thất vận lúc tiền vận thì hậu vận thất vận, chủ nhà ắt sẽ bị điên cuồng hoặc bệnh nặng. Nếu hướng giường của chủ nhà lại ở phương vị hung sát, không kể già trẻ, hẳn bị tai nạn liên miên, thậm chí mất mạng, trừ phi cát tinh soi chiếu! Có nhà đào ao trước cửa ở thế "gương soi chậu máu", giữa cửa nhà có treo một cái gương to (hoặc để trấn trạch, hoặc để chơi) thì sát khí càng mạnh, độ hung càng lớn. Để hóa giải tình trạng "gương soi chậu máu", phong thủy đưa ra phương án thả bèo kín ao để giảm tia nắng khúc xạ vào nhà. Cũng có phương án trồng cây trúc phía bờ ao đối diện ngôi nhà. Trúc dễ trồng, mọc nhanh, sẽ chắn những tia nắng khúc xạ vào nhà khi chiều tà, sát khí giảm hẳn. Trong xã hội hiện đại, đất chật người đông, đối với những nhà có ao tù, nước không lưu thông, bẩn, không có lợi cho sức khỏe, đồng thời theo phong thủy học, nơi đó cũng dễ gây nên hung tướng cho người ở. Gặp trường hợp này, phong thủy học cho rằng tốt nhất là lấp ao, làm vậy sẽ trừ được hết hung tướng. Nhưng lưu ý một điều, để loại trừ hết sát khí miền đất có ao, trước khi lấp ao phải hút hết nước, làm cho ao khô đi, bốc hết bùn ở đáy ao. Nếu thấy làm như thế phiền phức quá thì cứ để vậy mà lấp cũng được, vì nó cũng không gây nên tai họa. Song mọi ống nước dẫn vào ao, dù bằng vật liệu nào, dạng nào... cũng phải gỡ đi, vì chúng gây nên sát khí ảnh hưởng đến ngôi nhà. Nếu khuôn viên khu nhà rộng cần có một ao, thì phải bố trí ở phương vị đông nam, cách nhà từ 18 mét trở lên; nhưng tốt nhất là không có, mà có thì nên lấp. Có loại ao thuộc dạng chảy vòng quanh, xung quanh trồng cây mà không có đông người tụ tập, như khách sạn, nhà hàng, công ty, công xưởng thì không phát sinh vấn đề gì, có khi lại biến thành cát tướng. Vậy những bể bơi tư gia thì sao? Ở những thành phố lớn, các khu nhà ở cao sang... người ta thường bố trí bể bơi gần kề. Nếu quan niệm những bể bơi đó là "gương soi chậu máu" theo thuật phong thủy, thì ắt mọi người sống trong đó sẽ điên cuồng cả hay sao? Trong môi trường thành phố khác với các vùng trống trải, như ở nông thôn hay thị trấn nhỏ, không hẳn là như vậy. Ở nơi thoáng đãng, ánh mặt trời chiếu xuống ao hồ phản xạ vào nhà không có gì che chắn, nên chúng mới nguy hiểm. Ở thành phố, các bể bơi được xây giữa các cụm nhà cao tầng, chỉ chịu ánh mặt trời chiếu vào giữa trưa, nên không có "vạn đạo kim quang" tức là tia nắng phản xạ chiếu vào nhà, nên không có hung khí. Song không phải bể bơi bố trí giữa các nhà cao tầng không thể trở thành "gương soi chậu máu". Đó là trường hợp một căn nhà ba tầng có bể bơi ở giữa khu nhà cao tầng, bình thường chỉ chịu sự chiếu nắng mặt trời từ 11h trưa đến 2h chiều. Tuy vậy, bể bơi ở đây có vấn đề không hay đứng về mặt phong thủy, nếu như khi thiết kế, xây dựng người ta để ý đến một chút. Thực tế đã có trường hợp người ta làm cửa thông hơi chắn bằng kính để chếch ra ngoài như một mái hiên. Lúc mặt trời từ đỉnh đầu chếch về phía tây, ánh nắng chiếu xuyên thẳng xuống bể bơi, phản xạ lên tấm chắn cửa thông hơi, từ đây ánh nắng lại một lần nữa phản xạ vào nhà tạo các hình lốm đốm. Nếu lúc đó dưới bể bơi có người, hình ánh nắng trong nhà càng lay động. Lúc này, bể bơi của gia đình trở thành "gương soi chậu máu". Trường hợp này chỉ cần vứt bỏ tấm kính chắn ở cửa thông hơi thì mọi việc tốt đẹp. Trong xã hội nông nghiệp cổ xưa, ao hồ là nơi cấp nước cho cuộc sống con người, do vậy việc đào ao quanh và gần nơi ở là tất yếu. Phong thủy học cũng phát hiện ra mối quan hệ giữa ao hồ với con người và đưa ra những khuyến cáo như nói ở trên, ngoài ra còn có thuyết cho rằng: "ao mà có hình vuông thì hưng vượng (với điều kiện không trở thành "gương soi chậu máu"), ao như cái chảo, phú quý vô cùng; nhà to ao nhỏ, nam cô độc, nữ yểu mạng; nhà nhỏ ao to, tài bạch lưu tán; ao to trước cửa, người không thọ; ao to sau nhà, yểu mạng từ nhỏ. Ngoài ra, những dạng ao sau dù không ở thế "gương soi chậu máu" cũng là hung, như: ao trước nhà thẳng và dài; ao sau nhà hẹp và nhỏ; nhà kẹp ở giữa ao trước và ao sau; ao trước nhà có góc nhọn chĩa mũi vào cửa; trong nhà có bể nước; giữa ao có thủy đình; trong ao có núi giả; nước ao như bùn hoặc màu vàng. Những ao như vậy tốt nhất là san lấp đi. Trên đây là quan niệm của phong thủy học về ao, hồ, giếng nước đối với người ở, những quan niệm này chỉ có giá trị tham khảo khi nghiên cứu nhận thức của người xưa. (Theo Thế Giới Mới)
  7. Theo tuổi Bính Tuất thì nhà này thuộc Tuyệt mạng trạch, Nhà này phải chuyển cửa hậu và chuyển bệ bếp sang phía tường tây. Để vậy không được. Có phải từ khi để bếp vậy người mẹ thường hay mỏi mệt hay nhức mỏi cả người, uống thuốc không hết? Nhà này ở lâu chưa?
  8. Gặp Sư, giết Sư. Gặp Phật, giết Phật. Gặp cha mẹ, giết cha mẹ. (A di đà Phật!) Hàng gian, hàng giả, hàng nhái nhiều lém! Tiền dollar còn giả nói chi ba cái bằng cấp chứng nhận. Chánh pháp thì tự nhiên người gần theo, người xa đến, không cần mời gọi, thuyết phục, lôi kéo, Khuếch trương, PR...Tà pháp tà đạo thì mới thường làm như thế. Truyền thuyết ngày xưa khi ngài Cồ Đàm đi tu thì các Ma đạo cũng hiện ra mọi cảnh hay ho, ca hát, khoái lạc, lõa thể...nhưng cũng không lung lạc ngài Cồ Đàm, mà ngược lại tự ma quỷ ấy tự đọa địa ngục. Tích này muốn nói rằng, Tà đạo thường khuếch trương, phô trương, cám dổ, lung lạc...kết cuộc cũng tự diệt. Chánh pháp thì chân như. Lại cũng chuyện kể rằng, khi ngài Cồ Càm đi ngang vùng ấy có người theo đạo Bái Hỏa Giáo, biết rằng có các vị Đạo sư của Bái Hỏa giáo ở đấy và thường giảng đạo cho các tín đồ nghe, ngài Cồ Đàm điều lẩn tránh những thời gian ấy để không làm phiền sự hành đạo của Đạo Sư. Xong, khi thấy mọi người rảnh rổi thì Ngài lại tiếp tục đi khất thực, hóa trai. Các đạo Sư nghe danh Ngài, bèn đến hỏi những điều còn vướng mắc, Ngài trao đổi. Các Đạo Sư ngộ ra điều bấy lâu còn lầm lẫn, liền cạo đầu theo Ngài và thuyết phục các tín đồ theo Ngài. Tích này ý nói, dầu là có nhiều đạo học khác nhau, chánh lý hay tà lý thì kẻ chân chánh pháp cũng phải biết lịch sự sơ đẳng là tôn trọng đối tượng. Vì chân chánh đạo, chân chánh pháp không sợ không có người biết đến, không sợ không có người tin theo...Nghĩa là không cần phải PR. :(
  9. Bác Kyte ơi, Bác lỡ đọc Dịch rồi thì bác đọc luôn cuốn này, 1.Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh. 2.Hà Đồ trong Văn Minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh. 3.Tính Minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Đọc xong rồi, bác cho Thiên Đồng trao đổi học hỏi về Liên Sơn Dịch, thông qua các sách được không? :( Thiên Đồng
  10. Ải bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá, Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi... (Nữ sĩ Ngân Giang)
  11. Uh, nghĩ cũng lạ hén?! Tự nhiên 1 vạch liền thì gọi là Dương 2 vạch liền là Thái Dương. Nghĩa là vượt qua cái Dương, bao la, vô biên không giới hạn của dương. 3 vạch liền thì...ak ak trở lại là...trời. Nghĩa là tập hợp con của cái Thái Dương! Vậy là: 2>1 (hai lớn hơn 1), hợp lý! nhưng lại: 3<2, ba nhỏ hơn hai, vô lý! Đúng ra phải gọi 3 vạch liền là...Cụ Thái Dương, hay Tổ thái Dương chứ nhỉ? Hic. :(
  12. (Bài mang tính chất tham khảo, không phải là quan điểm chính thống của Phong Thủy Lạc Việt) KHÍ TRONG PHONG THUỶ Khi được đề cập trong bài này không phải là không khí, mặc dù sự sống của chúng ta không thể rời không khí. Khí ở đây là một dạng vật chất đặc biệt cũng gắn bó mật thiết với chúng ta, là một phần trong sự sống của chúng ta. Những điều thần bí về khí đã được khoa học dần dần làm rõ. Khái niệm về khí được các triết gia cổ đại Trung Hoa nêu lên rất sớm. Ở thời đó, khí còn được dùng để giải thích nhiều hiện tượng tự nhiên. Ví dụ: năm Chu U vương thứ 2 (năm 782 trước Công Nguyên), ở vùng sông Vị, sông Kinh, sông Lạc (thuộc tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc ngày nay) xảy ra động đất lớn; khi đó Bá Dương Phu, một đại phu Triều Chu nói: “Động đất báo hiệu Triều Chu sẽ bị diệt vong, bởi dương khí, âm khí đã mất đi cái trật tự vốn có của nó. Dương khí bị âm khí ép xuống không bốc lên được, thế là xảy ra động đất. Khí của thuỷ thổ có thông suốt thì vạn vật mới sinh trưởng, bách tánh mới có của cải, còn động đất thì dòng sông bị tắc, vạn vật bị khô cằn, bách tánh loạn lạc”. “Quản Tử, nội nghiệp” dùng khái niệm khí để giải thích nguyên nhân hình thành vạn vật trong trời đất, cho rằng vạn vật khởi đầu từ khí. “Trang tử, tri Bắc du” lần đầu tiên dùng từ sinh khí, nêu lên mối quan hệ giữa khí và đời sống con người: con người sinh sống lá nhờ khí, khí tụ thì sống, khí tán thì chết (nhân chi sinh dã, khí chi tụ dã, tụ tắc vi sinh, tán tắc vi tử). Liên quan đến khí, các nhà tiên triết Trung Hoa còn nêu lên mối quan hệ giữa trời và người (thiên nhân cảm), cho rằng trời là đại vũ trụ, mội con người là một tiểu vũ trụ. Những gì xảy ra trên trời đều ảnh hưởng đến con người. Sự thay đổi của tự nhiên đối với hoạt động khí hoá của con người đều tuân theo quy luật cảm ứng và liên thông lẫn nhau. Điều này được chứng minh qua thực tế. Mỗi khi xảy ra hiện tượng nổ những đốm đen trên mặt trời thì trên trái đất số người bị bệnh tim mạch tăng lên, những bệnh theo thời tiết, khí hậu, bệnh truyền nhiễm ngày càng quần thể hoá. Đây là do đại vũ trụ mất cân bằng dẫn đến tiểu vũ trụ cũng mất cân bằng. “Sử ký, Lạc thư” nếu lên nhận xét: “Trời và người có mối quan hệ với nhau như hình với bóng vậy”. Có thể kể ra đây vài sự kiện xảy ra nhiều nơi trên thế giớim đã được loài người chứng kiến: Mỗi lần sao chổi Halley tới “thăm” trái đất chúng ta thì đều để lại những dấu ấn trên một số trứng gà mà người ta gọi là “trứng gà sao chổi”. Trên vỏ những trứng gà này được khắc lên những hình ảnh không thể xoá được. Năm 1758 ở Đức, năm 1834 ở Hy Lạp, năm 1910 ở Pháp và năm 1986 ở Ý đều xảy những hiện tượng này. Ngày nay ta nói đó là thông tin toàn bộ, còn người xưa thì nói “thiên nhân cảm”. Ngoài cơ thể người có 3 tầng khí: trong, giữa và ngoài. Quách Phác đời Lưỡng Tấn, người đại diện cho thuật phong thuỷ Trung Quốc đã tiếp thu những phát hiện của tiền nhân về khí và đưa vào phong thuỷ. Trong bộ “Táng kinh” nổi tiếng của ông nêu lên sinh khí có ngũ khí, tức khí của ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ). Hàm nghĩa của sinh khí là khí xung hoà âm dương, cụ thể vào địa hình núi sông, sinh khí dồi dào ở những nơi đất dày, sông sâu, thảo mộc rậm rạp. Một định luật nổi tiếng của phong thuỷ là “Sơn hoàn thuỷ bão tất hữu khí”, tức những địa hình có núi sông uốn lượn, ôm ấp là khí tụ. “Táng kinh” còn nêu lên cốt người chết khi đã chôn xuống đất thì có thể phát sinh sự giao cảm giữa khí và cốt và trở thành bất hủ, có thể chuyển thụ đến con cháu đời sau. Đạo gia gọi khí là “Huyền” là “Đạo”. Trong “Đạo đức kinh” miếu tả: “Đạo” có tuổi cao nhất, sinh ra từ thuở trời đất chưa ra đời. Nếu cần đặc cho “Đạo” một cái tên thì đó là “mẹ đẻ của vạn vật”. Ngày nay nói khí của phong thuỷ; những người luyện khí công vận khí là nói khí này. Thế nhưng một số người ở các nước phương Tây lại hiểu lầm khí công là vận dụng không khí. Một học giả người Canada trong bài viết nhan đề “Lột trần chiếc áo thần bí của khí công” nêu lên khí công là “phương pháp làm việc trong không khí”, là “kỹ xảo hít thở không khí”. Nói như thế là hiểu sai bản chất của của khí công. Thực ra, người Trung Quốc cổ đại không gọi khí công mà gọi tịnh toạ (----- ------), đạo dẫn (----- ----), thổ nạp (----- ----- ----), nội đan công (----- ----- ------). Chữ khí (-----) viết là -----, dần dần theo thói quen viết thành-----. Khí là danh từ hết sức trừu tượng và khái quát. Thời cổ đại Trung Hoa chia vật chất thành hai loại, một loại gọi là hình (------), gồm những vật có thể nhìn thấy được, loại kia là khí, không nhìn thấy được. Nhưng hai loại vẫn tồn tại. Một kiến giải cao hơn là hai dạng vật chất ấy có thể chuyển hoá với nhau. Cuối triều Minh, nhà khoa học Tống Ứng Tinh trong tác phẩm “Thiên công khai vật” của mình, ông viết: “động vật, thực vật, khoáng vật đều là một dạng khí. Từ khí biến thành hình, từ hình biến thành khí”. Từ quan điểm nêu trên có thể khám phá được những bí ẩn về những người có công năng đặc biệt, họ đã biến hình thành khí, biến khí thành hình như thế nào. Cuối những năm 70 thế kỷ trước Trung Quốc phát hiện một số thiếu nhi có công năng đặc biệt. Có thể lấy được vật trong bình kín. Cao Oa, Trương Bảo Thắng có thể lấy được những viên thuốc trung bình ra ngoài trong khi nắp bình vẫn đậy kín. Những người có công năng đặc biệt cón có thể nhìn thấy khí và phân biệt được ngũ sắc của khí. Mấy ngàn năm trước đây, trên thế giới lưu truyền những truyền thuyết ly kỳ về khí được truyền bá rộng rãi, như truyền thuyết trên đầu phật tổ Thích Ca Mâu Ni, và chúa Jesus có vần sáng chung quanh.v.v... Người cổ Trung Hoa nêu lên khí là nguồn năng lượng cần thiến cho cơ thể sống. Nó có hai loại âm và dương. Trong sinh vật, khí âm dương cân bằng thì sinh vật khoẻ mạnh, ngược lại thì phát bệnh. Từ thế kỷ 20, khoa học đã chứng minh được xung quanh cơ thể người có một lớp khí bao bọc, đó là một dạng năng lượng có liên quan mật thiết đến sinh mệnh con người. Nó không chỉ bao quanh người mà còn thấm vào cơ thể và phác ra bức xạ. Năm 1988, các nhà khoa học Liên Xô phát hiện xung quanh cở thể người và vật thể khác có sóng điện từ và tác động lẫn nhau. Những người có công năng đặc biệt thì sóng (khí) đó là vật chuyển tải thông tin, trong khoảnh khắc có thể truyền đi hàng ngàn cây số. Điều này có thể giải thích nguyên nhân tại sao khi một người gặp sự không may thì người nhà ở xa hàng ngàn cây số có thể lập tức cảm nhận được. Các học giả phương Tây từng đi vào thế giới vi mô để tìm bản chất của khí, bởi hạt cơ bản là hạt nhỏ nhất trong thế giới vật chất đã được phát hiện vừa có tính hạt vừa có tính sóng như khí. Nhưng bản chất của khí thì phải đi vào “siêu vi mô”. Thế là họ đã đến với triết học phương Đông để tìm đáp án, tìm hiểu điều dự báo của Lão gia về vũ trụ quan cho rằng nguồn gốc của vạn vật là khí là đạo, là siêu vi. Mức độ siêu vi này đã từ thực biến thành hư, tiếp cận với hư vô. Đến mức độ hư vô thì có thể giải thích được giao cảm của khí công và công năng đặc biệt Trương Bảo Thắng, Cao Oa có thể dùng ý thức để lấy những viên thuốc trong bình khi nắp còn đậy kín, tức thông qua ý niệm làm cho vật từ có biến thành hư không rồi trở lại có (hoàn nguyên vật như cũ). Từ thời trung cổ đến nay, người ta phát hiện trong cơ thể một số người có “linh khí” đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả. “Linh khí” đó chính là sóng năng lượng của con người được điều khiển qua ý niệm Khí của phong thuỷ - Vi ba (Micro Ware) Phát hiện vi ba là sự gặp nhau giữa quan niệm truyền thống của văn hoá Trung Hoa về khí và khoa học kỹ thuật hiện đại. Vi ba là thành viên trẻ nhất trong gia tộc Sóng điện từ, có bước sóng 0,001 – 0,3m. Theo bước sóng, các thành viên trong gia tộc sóng điện từ được sắp xếp như sau: sóng dài, sóng trung, sóng ngắn, vi ba, tia hồng ngoại, quang có thể nhìn thấy (visible light), quang tử ngoại, tia X, tia Y. Năm 1978, hai nhà thiên văn học điện xạ người Mỹ là Arno Allan Pensias và Robert Woodrow Wilson đã đoạt giải Nobel vật lý về phát hiện vi ba từ vũ trụ. Tầm quan trọng của thành quả khoa học này như thế nào, chúng ta hãy xem đánh giá của viện Khoa học Thuỵ Điển trong quyết định trao giải Nobel: “Phát hiện của Pensias và Wilson mang ý nghĩa rất cơ bản. Phát hiện của hai ông đã cho chúng ta những thông tin từ rất lâu, khi mà vũ trụ mới bắt đầu tạo ra”. Như vậy, khí là “mẹ đẻ của vạn vật” theo quan niệm của Đạo gia đã được khoa học hiện đại chứng minh. Phát hiện của hai nhà khoa học nêu trên xảy ra trong một trường hợp khá ngẫu nhiên. Năm 1964, tại bang New Jersey, khi dựng Antel thông tin vệ tin hình chảo, họ phát hiện trên đỉnh Antel có tín hiệu lạ. Nhiệt càng cao, tín hiệu càng rõ. Và họ đã kiên trì thí nghiệm trong một năm suốt 4 mùa, xoay chảo Antel theo 4 phương 8 hướng. Kết quả thật kỳ diệu: tín hiệu không thay đổi. Điều này chứng tỏ tín hiệu không phải trong hệ mặt trời mà đến từ vũ trụ. Thế là “mẹ đẻ vạn vật” đã được tìm thấy. Vi ba được các nhà khoa học gọi là “khu vực vàng”, nó xuyên qua tầng điện ly đến với chúng ta. Về y học, sóng vi ba tạo ra hiệu ứng có lợi cho sức khoẻ con người và dễ được chúng tiếp thu. Vi ba có thể làm cho giống cây chóng nảy mầm, rượu mau thuần thục, ví dụ rượu Mao Đài nổi tiếng của Trung Quốc sau khi chế tạo ra còn vị cay, thậm chí đắng, phải cất giữ 5 - 8 năm mới dùng được, nhưng qua xử lý vi ba thì thời gian cất giữ rút ngắn rất nhiều. Người ta đã đo trong cơ thể những người luyện khí công đều có sóng vi ba. Những nhà phong thuỷ chọn những nơi “cát địa”, tức ở đó giàn sinh khí, sóng vi ba dồi dào – Những vị trí sông núi uốn lượn, bao bọc là những nơi sóng vi ba tụ, còn những nơi gió thổi mạnh thì vi ba bị tán. Vạn vật là sản phẩm của tạo hoá. Điều kỳ diệu là mọi sinh vật trên trái đất đều có xu hướng “mở cửa” đón nhận vi ba. Ta chú ý xem những là cây, những bông hoa xoè ra có giống hình chảo Antel không? Năm 1990, một tạp chí khoa học của Ấn Độ đã nổi một dây điện vào là chuối (chỗ dẫn nước trên lá), đầu dây kia nối vào máy thu hình thì phát hiện hình ảnh rõ ràng hơn. Trên cơ thể con người có bộ phận nào thu sóng vi ba không. Điều này chưa rõ. Nhưng con người là loại động vật cao cấp nhất, có thể thông qua các tư thế để tiếp nhận vi ba, còn có thể tìm nơi cư trú tốt hoặc dựng Antel trên nhà để thu sóng vi ba. Tóm lại, vi ba là nguồn của cải vô giá mà vũ trụ ban cho chúng ta, nó cũng cần thiết như không khí vậy. Đúng như người xưa nói “thiên nhân cảm”, Đạo gia nói, con người là tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ. http://24x7.vn/showthread.php/phong-th-y-k...-th-y-7166.html
  13. Khám Phá Lịch Sử Trang Phục Việt 08/10/2009 1:18 Đoàn làm phim trong một cảnh quay ở Huế - Ảnh do HTV cung cấp Hôm qua, 7.10, Đài truyền hình TP.HCM ( HTV) đã họp báo giới thiệu bộ phim tài liệu 24 tập Đi tìm trang phục Việt của đạo diễn Nguyễn Hải Anh (ảnh) chuẩn bị trình chiếu từ ngày 12 - 31.10 trên kênh HTV9. Đạo diễn kiêm tác giả kịch bản Nguyễn Hải Anh đã có ý tưởng về bộ phim này từ năm 2000, xuất phát từ niềm đam mê thời trang cũng như ước muốn khám phá mạch chảy của lịch sử thông qua trang phục dân tộc. Trang phục là một trong những biểu hiện quan trọng của văn minh và văn hóa. Thuở hồng hoang khi con người bắt đầu tiến hóa đã biết lấy vỏ cây hay da thú để làm trang phục che thân, cho đến ngày nay, cũng như lịch sử, trang phục Việt đã trải qua bao thăng trầm, tồn vong. Từ thời Hùng Vương với hình ảnh trang phục được thấy trên trống đồng, trên những pho tượng đã tồn tại hàng ngàn năm, phim cho khán giả thấy những hình ảnh phục dựng vừa đẹp vừa rất gợi cảm. 24 tập phim là trải dài câu chuyện của vải, của áo quần, của những định nghĩa đơn giản mà không phải ai cũng đã biết. Như tại sao tên nước là Văn Lang? Văn Lang là người vẽ hình để chỉ rằng tổ tiên ta đã có một trang phục đặc biệt là vẽ hình lên người xưa. 24 tập phim là một chuỗi lần dở từng trang sử nước Việt mà mỗi thời kỳ, mỗi dạng trang phục là một câu chuyện riêng, sẽ kể cho khán giả nghe về một nét văn minh, văn hóa của người Việt bằng trang phục. Đoàn phim đã đến Trung Quốc, Thụy Sĩ, Pháp, Áo và Bỉ để tìm quay các hiện vật của người Việt hiện có ở các bảo tàng những nước này. Từ các triều đại Lý, Trần, Lê đến nhà Nguyễn... rồi trang phục dân gian đầu thế kỷ 20 và chiếc áo dài đã trở thành quốc phục hiện nay. Đạo diễn Nguyễn Hải Anh cho biết: “Chúng tôi làm phim tài liệu theo cách khám phá mà không áp đặt, cố gắng khách quan, đa dạng phong phú về tư liệu, nỗ lực sáng tác và ngẫu hứng. Phim đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật, lịch sử và khảo cổ không chỉ ở Việt Nam. Có thể phim chưa phục dựng được bức tranh đầy đủ về lịch sử trang phục Việt, nhưng đã phần nào mang lại những nét phác họa cơ bản để khán giả hình dung vẻ đẹp sang cả mà đôn hậu của tổ tiên, ẩn chứa sức sống trường tồn của dân tộc thông qua trang phục”. Cát Khuê
  14. gửi minhhang, Không thành vấn đề nghiêm trọng. Chủ yếu là hợp mẹ là tốt rồi. Tháng tốt là 10, Một (11) , chạp (12), giêng, 2 âm lịch.
  15. thac mac sinh năm 1982 Nhâm Tuất mạng Thiên Thượng Hỏa theo sách Việt. Chồng sinh năm 1980 Canh Thân mạng Thạch Lựu Mộc Con gái sinh 2006 Bính Tuất mạng Ốc Thượng Thổ. Sinh thêm đứa 2011 Tân Mẹo mạng Tùng Bá Mộc. Thiên Đồng
  16. KỂ CHUYỆN THIẾT KẾ NHÀ QUỐC HỘI Cập nhật ngày 06-9-2007 NGÔ KHÁNH LINH Dạo ấy, Bộ Kiến Trúc vừa tách ra khỏi Bộ Thủy Lợi (nay là Bộ Xây Dựng), nửa đất nước phía Bắc, thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế, rồi sôi nổi với kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặc dù chưa đủ cơ sở khoa học, kinh tế lập qui hoạch xây dựng các đô thị, nhưng việc xây dựng đất nước đâu có thể chờ. Nhờ sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, các kiến trúc sư Việt Nam:Hoàng Như Tiếp, Ngô Huy Quỳnh đã nhanh chóng dựng lên phác thảo quy hoạch Thủ đô. Phấn khởi trào dâng, người Hà Nội đi xem triển lãm qui hoạch với những ước vọng tốt đẹp. Người ta đặc biệt quan tâm: Trung tâm thủ đô cả nước sau ngày thống nhất. Quảng trường Ba Đình – tên Ba Đình do bác sĩ Trần Văn Lai, một nhân sĩ yêu nước, làm thị trưởng dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim (3/45-5/45) đặt. Ba Đình là danh xưng căn cứ nghĩa quân Đinh Công Tráng chống Pháp ở huyện Nga Sơn, Thanh Hóa (thơ Tố Hữu: “Chiếu Nga Sơn-gạch Bát Tràng/Vải tơ Nam Định, lụa Hàng Hà Đông). Thời thuộc Pháp, đây là khoảng không lớn,có đảo hoa tròn, phía sau là hai dảy cột tròn cong cong kiến trúc Pháp – kiểu tường trang trí, có tên gọi Ronde point (điểm tròn). Tại đây, người “KTS Việt Minh” đầu tiên Ngô Huy Quỳnh dựng lễ đài để Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau này, cũng vị trí ấy dựng đài xem lễ bằng gỗ rồi bằng gạch và từ 1973 là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát thảo thiết kế nhà Quốc hội năm 1960 Quảng trường Ba Đình, theo qui hoạch hồi đó được xem là trung tâm chính trị trong hệ thống trung tâm thủ đô,từ ven Hồ Tây, khoảng đất xưa là trường đua ngựa và công viên trung tâm(mang tên Thủ Lệ), mở 1 đại lộ tuyệt đẹp nối với quảng trường Ba Đình. Khu đất bây giờ mang tên lô D (18 Hoàng Diệu) là nhà làm việc của 6 Bộ. Miền Bắc lúc ấy chỉ có hơn chục KTS từ Việt Bắc và nước ngoài về, cùng với hơn chục sinh viên kiến trúc mới ra trường. Liên Xô giúp ta làm quy hoạch, Trung Quốc giúp thiết kế nhà Quốc Hội. Một trăm chuyên gia Việt Nam được cử sang Bắc Kinh 9 tháng để nghiên cứu học hỏi thiết kế và thi công nhà quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mang tên đại lễ đường nhân dân tại quảng trường Thiên An Môn. Công trình đồ sộ này vừa khánh thành đầu năm 1960 đang được dư luận rất quan tâm. Cũng trong thời gian này, một đoàn chuyên gia Trung Quốc với kinh nghiệm qua công trình lớn Eye, được chính phủ ta mời sang Việt Nam để cùng các KTS nước ta thiết kế nhà Quốc hội. B ộ kiến trúc lập một bộ phận chuyên trách, gọi là “Tổ Quốc hội” do KTS Trần Hữu Tiềm và Tạ Mỹ Duật phụ trách, hàng ngày trực tiếp nghiên cứu, thiết kế với chuyên gia Trung Quốc. Nhiều phác thảo hồi ấy khá đồ sộ, ý tưởng chính là những khối chạy quanh 4 mặt, bao quanh một hai vườn cây ở giữa. Các khối nhà đối xứng. Những mái ngói nhiều lớp nhô lên ở chính giữa và ở những bộ phận quan trọng. hình thức cổ điển rất Việt Nam. Công việc đang thuận lợi, nhưng vì chiến tranh ở miền Nam, đất nước với sự can thiệp ngày càng sâu của của đế quốc Mỹ nên phải tạm ngừng. Những sinh viên trẻ, những KTS mới ra trường thôi ngước nhìn về phía Hồ Tây – nơi đặt nhà Quốc hội để quay lại, vào Nam chiến đấu. Bởi ý nguyện của Bác, mong mỏi của toàn dân còn chưa được thực hiện. Một quyết định tình thế, để đáp ứng nơi hội họp, năm 1963, hội trường Ba Đình ra đời phục vụ không chỉ Quốc hội mà cả những sự kiện chính trị lớn. Năm 1964, Bác Hồ,trong vòng vây tôn kính của các đại biểu dự hội nghị chính trị đặc biệt, động viên cả nước đứng lên chống Mỹ xâm lược. Đây cũng là nơi diễn ra kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất 6/1976 và cuối năm đó, đại hội đảng toàn quốc lần thứ IV. Các tổng bí thư: Lê Duẫn, Trường Chinh, Đỗ Mười , Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh; Các đời Chủ tịch Quốc hội: Trường Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Lê Quang Đạo, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng; Các đời chủ tịch nước: Tôn Đức Thắng, Trường chinh, Võ Chí Công, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết; Các đời thủ tướng: Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng ,Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng, tất cả đều lấy Hội trường Ba đình làm nơi đăng quang , gánh vác trọng trách quốc gia. Cái thuở năm 1961, 1962, thế kỷ trước, khi các KTS tiền bối vạch nét bút trên bàn thiết kế, cũng chỉ nghĩ là cái phòng họp lớn cho cả nước, đáp ứng yêu cầu trước mắt, chắc là không lâu, nhưng rồi hơn nửa thế kỷ qua sứ mệnh nó gánh vác ngày càng lớn, đã bao lần tu sửa, nâng cấp, mở rộng và trang bị ngày càng hiện đại hơn. Năm 1988, Thủ tướng chính phủ phê duyệt điều chỉnh qui hoạch xây dựng thủ đô, mở rộng hơn nhiều lần. Thủ đô ôm cả vào lòng mình đoạn sông Hồng dài tới 16 Km và nếu tính cả ảnh hưởng thì phải lên tới 40km. Vắt ngang sông cả trên chục cây cầu mà Thăng Long chính là cây cầu đồ sộ thứ nhất được vạch ra trên bản đồ từ những ngày ấy. Hệ thống trung tâm mới được thiết lập: Trung tâm chính trị Ba Đình mà Lăng Bác và lễ đài là chủ thể, trung tâm văn hóa Tây hồ Tây (Xuân La, Xuân Đỉnh), Trung tâm văn hóa thể thao Mỹ Đình. Vị trí nhà Quốc hội được quyết định tại lô D (18 Hoàng Diệu), bao quanh là các đường:Độc Lập, Bắc Sơn, Hoàng Diệu, Hoàng Văn Thụ,diện tích hơn 6ha. Về cơ bản thực hiện qui hoạch chi tiết trung tâm chính trị Ba Đình: Lăng Bác, Đài tưởng niệm liệt sĩ quốc gia, nhà Quốc hội. Một gợi ý: Nhà quốc hội kết hợp trung tâm hội nghị quốc gia cũng trên khu đất này. Nãy sinh hai ý tưởng đối lập nhau: - Tại đây chỉ một nhà Quốc hội, mật độ xây dựng thấp. - Cả hai công trình cùng xây dựng trên khu đất này, mật độ xây dựng lên tới 40%. Hợp khối, đương nhiên là tiết kiệm, nhưng có nen tiết kiệm đến mức độ xô đẩy, chen lấn, một công trình tượng trưng quốc gia, với những sinh hoạt văn hóa thông thường. - Bộ Xây dựng thiên ngả về phương án thứ hai. - Hội KTS VN thiên ngả về phương án thứ nhất. Cũng trong thời gian này nổi lên chuyện hội trường Ba Đình:” Giữ lại như một di sản kiến trúc hay rỡ bỏ để thêm rộng đất xây nhà mới?” là một nội dung để các tác giả thiết kế đề xuất giải pháp. Chủ tịch hội KTS VN khi ấy, KTS Nguyễn Trực Luyện tha thiết: ” ở khía cạnh kiến trúc, công trình tuy chưa phải là tuyệt tác, nhưng là đại diện tiêu biểu của kiến trúc nước nhà trong những năm 60. Xứng đáng được coi là di tích lịch sử văn hóa kiến trúc, một công trình kiến trúc, một công trình đúng đắn về kiến trúc, lại có giá trị lịch sử, tại sao không giữ lại?” Cuối năm 2002, cuộc thi tuyển thiết kế được phát động. Ban tổ chức nhận được 25 phương án dự thi từ 22 tổ chức thiết kế của 12 quốc gia. Hội đồng chấm thi gồm 9 thành viện, 5 người Việt Nam, 4 người nước ngoài do hội liên hiệp KTS quốc tế giới thiệu. Các phương án được bình chọn qua 3 vòng, có 3 phương án đạt tiêu chí đặt ra, trưng bày để lấy ý kiến nhân dân, 13.000 lượt người đến xem, với gần 900 phiếu đóng góp ý kiến, có “phiếu” dày 13 trang. Khảo cổ học phát hiện những kết quả thật lớn, thật bất ngờ, di tích Hoàng Thành, nguyên vẹn dấu vết 1300 năm xưa. Các chuyên gia Nhật Bản coi trọng giá trị ngang với thành La Mã cổ xưa. Dù đã có dự đoán, những điều xảy ra quá lớn. Kho tư liệu khảo cổ vô giá ấy phải được tôn trọng. Một quyết định kịp thời: tiếp tục khảo cổ, chuyển vị trí trung tâm hội nghị Quốc gia vào khu thể thao văn hóa Mỹ Đình để kịp đón sinh hoạt chính trị quốc tế vào tháng 11/2006; hội nghị APEC. Còn vị trí lâu dài, Quốc hội tiếp tục nghiên cứu. Nhiều nhà kiến trúc lão thành chuyện trò ngoài lề với nhau:” trong cái rủi có cái may, không thể gắn 2 công trình này vào nhau trong 6ha đất Mỹ Đình”. Tập đoàn tư vấn thiết kế Cộng hòa Liên bang Đức vừa giành giải nhất thi thiết kế nhà Quốc hội, được giao thiết kế trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình với sự giúp đỡ của lực lượng thiết kế Việt Nam. Thời gian gấp lắm rồi chỉ còn 2 năm.Nhiều chuyên gia qui hoạch kiến trúc rong rủi tìm nơi xây nhà Quốc hội. Có thể kể sơ qua hành trình các” thầy địa lý Tả Ao”: Phía Bắc công trình trên trục không gian dự kiến xây dựng công viên lịch sử gắn với khu di tích Cổ Loa, khu trung tâm đô thị mới Tây hồ Tây, phía Nam công viên Yên Sở, trung tâm thể thao Mỹ Đình gắn liền với trung tâm hội nghị quốc gia đã xây dựng xong… Đồng thời cũng đưa ra nhiều dự kiến trong trung tâm chính trị Ba Đình: khu vực Bộ Ngoại Giao, Nhà khách 37 Hùng Vương, Xí nghiệp thiết bị Bưu điện… Mấy năm trời, bàn thảo trong các chuyên gia, trong Bộ chính trị và thường vụ Quốc hội. Nổi lên một vấn vương huyết mạch. Chẳng ai muốn lâu đài quốc hội xa hẳn chính mảnh đất cụ Lý Công Uẩn đã khẳng định”chốn đế vương muôn đời”. Thời đại dân chủ cộng hòa, mặc dù Hà Nội có quảng trường 1/5 (cung văn hóa Hữu Nghị), nơi năm 1930 đã diễn ra cuộc mít tinh của nhân dân lao động lớn chưa từng có, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; quảng trường Nhà hát lớn (nay là quảng trường 19/8), nơi khởi nguồn tổng khởi nghĩa 19/8 tại Hà Nội; thế nhưng Bác Hồ lại chọn quãng trường Ba Đình để đọc tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945. qui hoạch trung tâm chính trị Ba Đình đã được thủ tướng phê duyệt. Nhiều chuyên gia, nhiều cơ quan văn hóa, kiến trúc đề xuất: “Bảo tồn di tích Hoàng Thành đến mức tối đa, đồng thời vẫn xây dựng nhà Quốc hội. tiêu chí cao nhất là tạo thành quần thể văn hóa trong khu Ba Đình lịch sử: Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, Lễ đài quốc gia, Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch, Nhà Quốc hội, khu di tích Hoàng Thành (18 Hoàng Diệu) khu thành cổ, chùa Một Cột. Nhà Quốc hội được xây dựng trên khu đất hội trường Ba Đình hiện nay chỉ khoảng 0,8ha, với giải pháp thông minh nhất: chỉ có phòng họp lớn và các bộ phận chính gắn liền với phòng họp. Mối kì họp như một chuyến hành hương, các đại biểu Quốc hội vào viếng Bác. Thế là bằng nhiều lí lẽ vô hình và hữu hình, ý tưởng tuyệt vời đã được Quốc hội biểu quyết vào sáng ngày thứ hai 2/4/2007. Văn phòng Quốc hội ở gần đấy đang thiết kế, sử dụng nhà làm việc Bộ Ngoại giao cho Quốc hội cũng là một đề xuất mang tính khả thi. Nhà Quốc hội hoành tráng mà không đồ sộ, không lấn át không gian quần thể Ba Đình. Giao thông thuận lợi, khách quốc tế, đại biểu dự họp, khách tham quan đến sảnh chính nhà Quốc hội từ đường Bắc Sơn được mở rộng thành quãng trường. từ đây có thể chiêm ngưỡng toàn bộ quần thể không gian kiến trúc lịch sử. Cảnh quan đẹp, mở ra các hướng rộng thoáng, không ảnh hưởng đến di tích Hoàng thành. Đáp ứng yêu cầu lịch sử, yêu cầu khảo cổ và hợp lòng dân nhất. Trong xây dựng đô thị, xây dựng công trình, cái khó nhất là xác định được địa điểm. Chúng ta đã qua hơn nửa chặng đường. Việt Nam là quốc gia văn hiến với 4 nghìn năm lịch sử, thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, chẳng thể so sánh với Đamat - thủ đô cộng hoà Seri. Nhưng cái chiều dày lịch sử ấy thật khó kiếm. thăng Long xưa đã hơn 10 lần bị đốt cháy do ngoại xâm, rồi các thế lực phong kiến giành giựt theo kiểu”nhổ cỏ nhổ tận rễ”, nên lòng đất chứa đựng bao bí ẩn. Không thể và cũng không cần thiết giữ lại tất cả. Khoa học kỹ thuật xây dựng hiện đại cho phép có giải pháp dung hoà. Xin trích dẫn bài viết của KTS Tôn Đại trên tạp chí Kiến trúc Việt Nam số 1/2004:” ở Quảng Châu( Trung Quốc) có một khu trưng bày di tích cổ khá hấp dẫn. Trên đại lộ Bắc Kinh có 1 đoạn đường dành cho người đi bộ. Hai bên đường là các cửa hàng quần áo,kim hoàn, sách vở... giữa đường là khu trưng bày, hai bên là đường đi bộ... Lát mặt đường bằng kính, khu vực trưng bày được giới hạn bởi những chậu cây cảnh, có chăng xây xích để ngăn người đi bộ bước vào kính. Dưới kính là di tích những tảng đá kê cột (nhà Tống 960-1279) những con đường bằng đá, bằng gạch xây nghiêng thời Tống (1127-1279) và nhà Minh (1368-1644). Cứ khoảng 20m trưng bày lại có một lối ngang để có thể qua lại hai bên đường.Di tích được bảo vệ ngay tại chỗ, dưới mặt kính, người xem có điều kiện thấy rất rõ các hiện vật và các ghi chú, thuyết minh lại gắn liền với mua sắm, rất thuận lợi. Ở nước ta tuy đã làm tuy có quy mô nhỏ hơn. Sau khi phát hiện nền móng chùa Lân (Yên Tử) – nơi vua Trần Nhân Tông tu hành đã lập nên thiền phái Trúc Lâm, đã dành vài mét vuông trước cửa chùa Lân hiện nay để lập kính bảo vệ phần nền móng cũ . Với hội trường Ba Đình, Quốc hội tranh cãi gay gắt lắm mới ra được nghị quyết về phương án qui hoạch, xây dựng nhà Quốc hội tại ký họp tháng 3/2007. Cái sự chẳng thể giữ nguyên vẹn cũng nên kính cáo các cụ Nguyễn Cao Luyện, Trần Hữu Tiềm – 2 tác giả chính tạo nên hình hài công trình, để không phải là phá mà là dựng lại một mô hình thu nhỏ trong vườn cây hoặc trong nhà như một di sản cho con cháu đời sau chiêm ngưỡng. Xin trích dẫn lại một đoạn trong bài viết của KTS Ngô Huy Giao trên tạp chí Khoa học Tổ quốc số Tết ất Dậu (1+2/2005), Văn nghệ (16/7/2005), Kiến trúc,... “Lâu đài Quốc hội không có tính cấp, vì vẫn có thể họp tại hội trường Ba Đình nhưng cũng không nên quá chậm. Là công trình văn hoá , chính trị trường tồn của cả nước, ảnh hưởng đến cơ cấu qui hoạch, không gian kiến trúc của cả thủ đô. Vị trí này không nên thay đổi để đảm bảo qui hoạch chung”. “ Giá trị khảo cổ học Hoàng thành xưa chỉ tôn vinh thêm lâu đài Quốc hội. Một sự kế thừa truyền thống rất thực mà cũng rất huyền, trùng lặp tuyệt vời”. “Cần cho khoan thăm dò, kết hợp khảo sát địa chất và khảo cổ, phối hợp nghiên cứu kiến trúc và khảo cổ. Chúng tôi nghĩ không nhất thiết và cũng không thể giữ bảo tàng toàn bộ khu đất này, phải xác định trọng điểm”. Trên cơ sở đó lập một phương án tập thể” Lâu đài Quốc hội - Bảo tàng Tăng Long”. Như vậy, mật độ xây dựng sẽ nhỏ hơn, có điều kiện để tạo dựng vườn cây quốc gia,là điểm du lịch văn hoá tuyệt vời và giàu tính truyền thống Giải pháp khoa học để lâu đài Quốc hội vẫn ở vị trí cũ, sẽ làm nhiều lần thêm giá trị cho nơi đây, với 3 thành phần hiện đại và truyền thống, chính trị và văn hoá. Lâu đài Quốc hội - Bảo tàng Hoàng thành - Vườn cây truyền thống. Vậy mới thấy cũng thật gian truân khi xây dựng nhà Quốc hội. Gần chục năm, ý tưởng, nguyện ước mới được thực hiện, thế hệ KTS thứ nhất đã không còn nữa. Cũng đúng thôi! Đó là sự nghiên cứu thận trọng mang tính kế thừa của chúng ta, những người làm qui hoạch kiến trúc và cũng để thể hiện lòng tôn kính với không gian thiêng liêng Ba Đình. [Theo Tạp chí Qui hoạch Xây dựng- số 27] http://www.qhkt.hochiminhcity.gov.vn/web/t...mp;news_id=1551 "Chấm điểm" phương án thiết kế nhà Quốc hội Sáng nay, đa số ủy viên Thường vụ Quốc hội đã đồng tình với phương án thiết kế nhà Quốc hội do Chính phủ trình. Tuy nhiên một số ý kiến đề nghị phải tính tới giá trị sử dụng lâu dài của tòa nhà, tránh tình trạng vừa xây xong đã phải cơi nới. Từ Quảng trường Ba Đình nhìn vào tòa nhà Quốc hội. Ảnh chụp từ mô hình: H.K. Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội phương án kiến trúc đoạt giải A trong cuộc tuyển chọn từ 17 phương án dự thi. Theo giải trình của Chính phủ, phương án này có tính biểu tượng cao, kiến trúc đẹp, tổ chức bên trong mạch lạc, sử dụng được ánh sáng tự nhiên, tạo cơ hội giao tiếp và làm việc tốt. Về thẩm mỹ, công trình thiết kế theo phương án này sẽ tạo được vẻ thanh nhã, mới mẻ, có tính quốc tế, nhưng vẫn đậm đà giá trị Việt Nam. Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Quang Bình nhận xét, hội trường Ba Đình được thiết kế giống "bánh chưng", ôm lấy "bánh dày" là phòng họp Quốc hội. Điều này thể hiện bản sắc dân tộc, nhưng chỉ thích hợp với góc nhìn từ trên cao. "Nhìn từ góc độ khác, mái lại tạo cảm giác ức chế. Tốt nhất nên thiết kế theo hình cầu", ông Bình đề xuất. Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đồng tình: "Quả thật nhìn phòng họp Quốc hội trông rất nặng nề. Giá như phòng họp là hình cầu thì rất đẹp". Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính và Ngân sách Phùng Quốc Hiển cho rằng, một tòa nhà uy nghiêm, bề thế phải thể hiện sự vững chãi ở 4 góc. Nhưng theo thiết kế, 4 góc phòng họp Quốc hội là những mảnh kính ghép vào, rất mong manh. Việc bố trí phòng họp Quốc hội theo kiểu thượng thách, hạ thu (trên to, dưới nhỏ) là không chắc chắn, mà nên bố trí theo hướng ngược lại. Theo ông Phùng Quốc Hiển thì việc bố trí phòng họp Quốc hội theo lối trên to, dưới nhỏ, 4 góc là kính ghép vào sẽ không vững chãi. Ảnh chụp từ mô hình: H.K. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Văn Thuận và Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Hà Văn Hiền lại băn khoăn về tính hiện đại và bản sắc Việt Nam của tòa nhà. "Mặt tiền tòa nhà Quốc hội không uy nghi, không thể hiện rõ đây là trụ sở làm việc của cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước", ông Hiền nói. Giải trình trước Thường vụ, Bộ trưởng Xây dựng Nguyễn Hồng Quân cho rằng để thể hiện bản sắc Việt Nam rất khó. "Quan niệm của ta, nhà phải thiết kế theo kiểu tam quan tứ trụ, kiến trúc có trục là trung tâm, hai ban có tả hữu, thì mới thể hiện bản sắc. Với thiết kế hiện nay, chúng tôi đã tham khảo ý kiến của 40 kiến trúc sư tên tuổi nhất trong nước thì đa số đều đồng tình", ông Quân nói. Nhà Quốc hội phải có giá trị sử dụng 100 năm Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Văn Thuận cho rằng, tòa nhà Quốc hội phải tính tới khả năng có tới 20 ủy ban, thậm chí hơn nữa, chứ không phải chỉ 15 ủy ban như hiện nay. Ông Thuận lấy ví dụ việc xây nhà 35 Ngô Quyền, chỉ sau 5 năm kể từ khi xây dựng đã phải đập phá, cơi nới để đủ chỗ làm việc cho các cơ quan của Quốc hội. Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cũng cho rằng, công trình nhà Quốc hội phải tính tới giá trị sử dụng trong 100 năm, với quy mô dân số không phải là hơn 80 triệu như hiện nay mà phải tới 200 triệu người. "Nếu chỉ nhìn tới năm 2020 thì quá lãng phí", ông Lưu nói. Tổng thể tòa nhà Quốc hội. Sảnh tầng trên lõm vào trong. Ảnh: H.K. Chia sẻ với ý kiến trên, Chủ tịch Hội đồng dân tộc Ksor Phước nói: "Thủ đô sắp tới sẽ mở rộng gấp 3 lần như hiện nay, nhưng trái tim thủ đô thì lại có vấn đề". Ông Phước dẫn chứng ngay tòa nhà Quốc hội theo kiến trúc mới đề xuất vừa bị ràng buộc bởi độ cao (không được cao hơn các tòa nhà xung quanh), vừa bị giới hạn về diện tích, thiếu không gian cây xanh, không gian văn hóa. "Tòa nhà Quốc hội phải có tầm nhìn tới 100 năm, phải thể hiện là quảng trường của hơn 100 triệu dân, chứ không riêng gì của thủ đô Hà Nội. Các cơ quan của Quốc hội phải tập trung làm việc tại tòa nhà này, nếu để phân tán thì rất vô duyên", ông Phước thẳng thắn. Hiện theo bố trí của Văn phòng Quốc hội, do bị giới hạn về độ cao, tòa nhà Quốc hội chỉ là nơi diễn ra các kỳ họp, tổ chức đón tiếp khách quốc tế theo nghi lễ nhà nước và nơi làm việc của chủ tịch, các phó chủ tịch và chủ nhiệm văn phòng Quốc hội. Còn các ủy ban và hội đồng dân tộc sẽ làm việc ở chỗ khác. Dự kiến, nhà Quốc hội khánh thành vào tháng 2 năm 2011. Read more: http://www.xaluan.com/modules.php?name=New...2#ixzz0TtD9rDBK
  17. Hình ảnh 17 phương án thiết kế kiến trúc nhà Quốc hội mới Lao Động Điện tử Cập nhật: 12:16 PM, 05/09/2007 (LĐĐT) - Ngày 2.9, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng nhà Quốc hội mới đã tổ chức triển lãm trưng bày 17 phương án thiết kế kiến trúc nhà Quốc hội mới tại Trung tâm Hội nghị quốc gia để nhân dân xem và tham gia ý kiến. Trong 17 phương án, có một phương án được giải A và bốn phương án đoạt giải khuyến khích. Triển lãm dự kiến kết thúc vào ngày 15.9. Sau đây LĐĐT giới thiệu hình ảnh 17 phương án hiện đang được trưng bày. * Phương án L787 - Giải A. * Phương án H112 - Giải Khuyến khích. * Phương án A206 - Giải Khuyến khích. * Phương án M008 - Giải Khuyến khích * Phương án V027 - Giải Khuyến khích * Phương án M125. * Phương án N223. * Phương án P123. * Phương án P246. * Phương án W258 (V208). * Phương án V234. * Phương án V538. * Phương án V919. * Phương án X891. * Phương án A126. * Phương án C568. * Phương án G807. nguồn: http://www.laodong.com.vn
  18. Gửi minhhang, Vợ 1986 Bính Dần mạng Giảng Hạ Thủy theo sách Việt. chồng 1985 Ất Sửu mạng Hải trung Kim nên sinh con Tân Mão mạng Tùng Bá Mộc là tốt nhất. Cả nhà êm thắm đề huề, an cư lạc nghiệp. Thiên Đồng
  19. Kể từ nay, theo Lạc Thư Hoa Giáp, được chứng minh trong công trình nghiên cứu "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt" của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Thiên Sứ) thì Ai mạng Hỏa theo sách Tàu thì chuyển thành Thủy theo sách Việt. Ai mạng Thủy theo sách tàu thì đổi lại là Hỏa theo sách Việt. Chỉ thay đổi hai hành Thủy Hỏa, các mạng khác không thay đổi. Mến.
  20. Gửi chị muanha, ngày tân mão (TB mộc) 25 tháng quý dâu (KP KIm) năm kỷ sữu giờ thân Đỗ Vô Vong, Luận: quẻ này chủ sự rối rắm, sẽ ổn thỏa trong vòng 2 năm, nhưng bù lại phải chạy vại lo toan, "vặt gáu vá vai", "vặn mũi bỏ miệng" mới vừa vặn số nợ. Nhanh thì 2 năm chậm thì 7 năm trả xong. Đoán là 2 năm thì hoàn tất. Chúc may mắn và thành công. Thiên Đồng.
  21. Gửi ali, Nam tuổi Mậu Ngọ mạng Đại Hải Thủy. Khởi sự tháng 9 âm năm Kỷ Sửu vận Trường Lưu Thủy. Chẳng biết có vợ con gì chưa? Nếu có thì xin bổ sung sau. Thử võ đoán theo quẻ và thời điểm. Ngày tân mão (TB mộc) 25 tháng quý dậu (KP kim) năm kỷ sữu, giờ thân. Thương Tiểu Cát. Luận: quẻ này chủ sự tiểu lợi, lòng khấp khơi lo toan, thực lực thì có nhưng hoàn cảnh đều kiện chưa ủng hộ. Lòng còn đắn đo. Tiểu cát mộc tuy vượng địa nhưng ở đất thế thai dưỡng, nghĩa là đợi chờ như mầm non tách hạt nhú mần. Thương đang quang đới trong thế kềm hảm nhưng vẫn là trở ngại. Đại hải thủy hợp Trường lưu thủy, chứng tỏ việc khởi sự này đang trong lúc bức bách hay hối hả cho quyết định. Cuộc toan tính này cho việc lớn, cơ hội trước mắt thúc bách, tiềm lực sau lưng đẩy tới, nhưng điều kiện phát triển thì kị kiềm hãm. Xét theo quan điểm thị trường thì sự bắt mạnh nhịp độ thị trường ở nhịp nhiễu loạn khó đoán. Quẻ này khởi sự phải chờ thời trước khó khăn sau thành tựu, tháng 10 mới thấy đươc lợi ích, trể thì cuối xuân năm sau. Nên luôn luôn bắt mạnh, không ồ ạt đầu tư. Chỉ là luận thử, không đáng phải tin, chỉ để tham khảo cho vui. Thiên Đồng
  22. Cố Cung - Tử Cấm Thành Bắc Kinh (Vietime) - Cố Cung (cung điện cũ) là quần thể kiến trúc với quy mô lớn nhất, có giá trị nghệ thuật cao được bảo tồn hoàn chỉnh nhất ở Bắc Kinh. Cố Cung do 2 nhà thợ mộc nổi tiếng nhất thời Minh là Khoái Tường và Sái Tín thiết kế và được bắt đầu xây dựng từ thời Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) và ho Cố Cung xưa kia gọi là Tử Cấm Thành. Chữ “Tử” có nghĩa là “màu tím”, lấy ý theo thần thoại: Tử Vi Viên ở trên trời là nơi ở của Trời, Vua là con Trời nên nơi ở của Vua cũng gọi là Tử, Cấm Thành là khu thành cấm dân thường ra vào. Đây là cung điện của 24 đời vua thuộc 2 triều đại Minh - Thanh từ Minh Vĩnh Lạc (1421) 296 năm đến thời Thanh mạt (1911) 267 năm. Bố cục của Cố Cung được xây dựng trên 1 khu đất rộng hình chữ nhật, diện tích khoảng 720.000m2. Cố Cung gồm có: 5 triều đình, 17 điện, trong đó có 8 dinh cơ và khoảng 9.000 phòng. Xung quanh có tường thành cao 10m bao bọc, ven ngoài tường có hào nước rộng 52m. Bốn góc thành có 4 tháp canh, 4 mặt thành có 4 cửa ra vào đối diện nhau: Ngọ Môn, Thần Vũ Môn, Đông Hoa Môn, Tây Hoa Môn. Các kiến trúc quan trọng của Cố Cung đều nằm trên 1 đường trục Nam - Bắc ở chính giữa. Hai bên là các kiến trúc phụ đối xứng nhau. Cửa Ngọ Môn Ngọ Môn là cửa chính để vào Cố Cung nằm ở phía Nam trên trục chính. Ngọ Môn được xây dựng theo kiểu hình chữ U, phía dưới là khối tường thành dày và cao, có trổ 5 cửa vòm. Bên trên xây 1 toà điện lớn 9 gian ngay mặt chính, 4 góc hình chữ U xây 4 điện vuông. Năm toà điện này đều 2 tầng, mái được nối với nhau bằng hành lang cửa sổ có mái che. Ngọ Môn còn có tên là Ngũ Phượng Lầu. Các kiến trúc trong Cố Cung chiếu theo tính chất sử dụng được phân thành 2 khu vực: ngoại triều và nội đình. Ngoại triều: là nơi cử hành các đại lễ, chủ yếu bao gồm quần thể kiến trúc lớn: điện Thái Hoà, Trung Hoà, Bảo Hoà (gọi là Tiền Tam điện) trên trục chính và 4 nhóm kiến trúc giáp ngoài đối xứng với nhau. Khi vào cửa Ngọ Môn, trước mặt là 1 quảng trường có con sông Kim Thuỷ chảy ngang qua hình dây cung. Chính giữa có 5 chiếc cầu bằng đá trắng lớn, hai bên cầu và hai bên sông đều có lan can bằng đá trắng. Đối diện với Ngọ Môn là Thái Hoà Môn thuộc quần thể kiến trúc Tiền Tam điện. Quần thể này được xây dựng trên đài cao 6m, gần giống như hình chữ Thổ (TQ). Đài chia làm 3 tầng, mỗi tầng đều có lan can bằng đá trắng bao quanh, 4 mặt đều xây bậc lên xuống, chính giữa mỗi bậc đều có 1 tảng đá lớn hình chữ nhật, bên trên khắc hình rồng mây rất tinh tế. Cửa Thái Hoà Đây là cửa lớn của 3 điện lớn ở Tử Cấm Thành, đằng trước có 7 gian dựng trên 1 nền đá cao. Ở 2 bên phía trước có con sư tử đồng ngồi ở bệ đá. Sư tử vốn ở Châu Phi, đến đời nhà Hán, quốc vương Sri Lanca dùng sư tử làm vật tiến cống Hoàng đế nhà Hán. Từ đó, sư tử du nhập vào Trung Quốc. Sư tử là loài vật có sức mạnh, lại rất hung dữ, khiến nhiều loài thú rừng khác phải khiếp sợ, vẫn được mệnh danh là Chúa Sơn lâm. Cách bố trí để 2 con sư tử trước cửa nhằm làm tôn thêm vẻ uy nghiêm của kiến trúc và sức mạnh của Thiên triều. Trước Thiên An Môn và trước cửa các kiến trúc quan trọng khác của Tử Cấm Thành đều có đặt sư tử đá và cách bài trí theo 1 kiểu cách nhất định. Tức là bên trái cửa có con sư tử đực đạp chân lên quả cầu, phía phải là sư tử mẹ đang vui đùa với sư tử con. Vua Thuận Trị nhà Thanh lần đầu tiên vào quan nội, khi tiến vào Tử Cấm Thành đã cho cử hành nghi lễ ban chiếu chỉ đầu tiên của nhà vua tại cửa Thái Hoà. Điện Thái Hoà Điện Thái Hoà là ngôi điện quan trọng nhất của Tử Cấm Thành, không chỉ vì vị trí của nó ở trung tâm Tử Cấm Thành mà về hình thể kiến trúc, về trang trí và các mặt khác đều đứng hàng đầu trong quần thể kiến trúc đó. Các kiến trúc của Trung Quốc thời trước to hay nhỏ thường lấy số gian làm chuẩn mực. Điện Thái Hoà có 11 gian, cao 26,9m tính từ mặt đất lên nóc điện. Đây là công trình kiến trúc số 1 thời xưa còn giữ lại. Mái của các kiến trúc ngày xưa có nhiều loại và nhiều kiểu xây dựng khác nhau, 1 tầng hoặc 2 tầng. Tuỳ theo từng kiến trúc to hay nhỏ, mức quan trọng ra sao mà có cách xử lý mái khác nhau. Điện Thái Hoà là công trình quan trọng bậc nhất nên toàn bộ mái lợp bằng ngói lưu ly màu vàng. Khi mặt trời rọi xuống, từ mái điện phản chiếu lên ánh hào quang sáng chói. Toàn bộ tường và cửa sổ màu đỏ dưới nền màu trắng trông thật rực rỡ. Trên nóc điện, ở 2 phía có đắp 2 đầu rồng cao 3m và dọc theo nóc điện có đắp 1 loạt những con vật nhỏ dáng vẻ như đang di động. Các cửa ra vào và cửa sổ đều có những mảng hoa văn. Trong điện Thái Hoà có 6 cây cột giữa sơn son thếp vàng với hình những con rồng vàng lượn khúc. Ở trần nhà, trên đầu 6 cây cột được thiết kế tạo dáng như hình 1 cái giếng hình vuông rồi dần dần thu nhỏ lại, từ hình vuông chuyển thành hình bát giác và trên cùng vẽ hình 1 con rồng lượn khúc mặt nhìn xuống dưới, phía trước là 1 khối thủy tinh hình tròn. Bệ rồng của nhà vua là 1 ngai vàng đặt trên bục gỗ dưới cây cột vàng. Đằng sau ngai vàng là chiếc bình phong 7 cánh, phía trước bình phong có bày nhang án, lư hương, chim công…Nếu cho điện Thái Hoà là trung tâm của Tử Cấm Thành, thì bệ rồng phải là trung tâm của trung tâm. Trang trí ở điện Thái Hoà phần lớn là hoa văn hình rồng. Người Hán coi rồng là tượng trưng cho dân tộc Trung Hoa. Trong giới học giả Trung Quốc, đối với rồng có nhiều giả thiết khác nhau. Người cho rồng là hình tượng tổng hợp của nhiều con vật, như: rắn, cá, trâu, bò, chim muôn…Người cho rồng là hình tượng của mây mưa, sấm chớp. Cũng có người cho rồng là hình tượng của khủng long và cá sấu hợp lại… Thực ra, cho đến nay, người ta chưa kết luận được rằng rồng là loài vật như thế nào nhưng rồng vẫn luôn được nhân dân Trung Quốc coi là con vật thiêng. Từ khi Hán Vũ Đế tự nhận mình là con rồng thì các hoàng đế Trung Hoa sau đó đều tự coi mình là rồng, là con trời, được Thượng Đế phái xuống trần gian để trông coi trăm họ. Do đó, cung điện vua ở gọi là Long cung, quần áo vua mặc gọi là Long bào, ghế vua ngồi gọi là Long kỷ, các đồ dùng của vua đều chạm trổ hoa văn hình rồng và các hoa văn trang trí trong cung điện nhà vua đâu đâu cũng mang hình rồng. Con đường chính nhà vua đi có lát 9 phiến đá lớn, trên mặt chạm trổ 9 con rồng, biểu tượng của Cửu trùng đài. Ở điện Thái Hoà, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, người ta cộng lại tất cả có 12.654 hình con rồng uốn lượn trong mọi tư thế. Điện Trung Hoà và điện Bảo Hoà Điện Trung Hoà là nơi để vua chuẩn bị trước khi tới điện Thái Hoà ngự triều, diện tích hơi nhỏ, bài trí cũng đơn giản. Điện Bảo Hoà là nơi cử hành ngự thi, tức là các khoá sinh thi đậu Tiến sĩ ở các nơi được gọi đến Điện Bảo Hoà để vua đích thân khảo tra lại lần cuối cùng, nên nơi đây có diện tích rộng, được xây dựng và trang hoàng lộng lẫy. Điện Bảo Hoà có 9 gian, còn điện Trung Hoà hình vuông, rộng 5 gian. Cả 3 ngôi điện: Thái Hoà, Trung Hoà và Bảo Hoà đều lợp bằng ngói lưu ly màu vàng, cửa sổ màu đỏ cùng trên nền màu trắng nhưng về khối hình thì 2 lớn 1 nhỏ, mái của 3 ngôi điện khác nhau họp thành 1 quần thể kiến trúc hài hoà, phong phú, đa dạng. Cung Càn Thanh Đây là cung lớn ở phía sau Tử Cấm Thành, nơi ở của Nhà vua và Hoàng Hậu. Ở đây còn là nơi vua tiếp kiến các đại thần và giải quyết công việc hàng ngày. Sau khi lên ngôi, vua Ung Chính (nhà Thanh) dời nơi ở đến điện Dưỡng Tâm nằm ở phía Tây, nên cung Càn Thanh được nhà vua dùng làm nơi giải quyết công việc triều chính, tiếp kiến đại thần, hội kiến với sứ thần ngoại quốc nên trang trí cũng đơn giản. Phía trên nơi vua ngồi có treo bức đại tự với 4 chữ “Chính Đại Quang Minh”. Các hoàng đế Trung Quốc lên cầm quyền bằng chế độ truyền ngôi cho nhau, nên lúc vua còn sống phải công bố rõ ràng ai sẽ là người kế vị tiếp nối sau khi vua băng hà. Vì vậy, sự tranh chấp ngôi vua thường diễn ra rất quyết liệt, khi thầm lén, lúc công khai trong hoàng tộc và quần thần. Hoàng đế Khang Hy nhà Thanh có 35 con trai. Sau 1 thời gian dài tranh chấp, cuối cùng người con trai thứ 4 của ông được kế vị. Sau khi Ung Chính lên ngôi vua, ông rút kinh nghiệm nên đã đưa ra quyết định là lúc vua còn sống không công bố tên tuổi người kế vị, mà chỉ viết tên tuổi người đó vào 2 mảnh chiếu chỉ: 1 mảnh Nhà vua giữ bên mình, còn mảnh kia được để ở cung Càn Thanh, phía sau bức đại tự Chính Đại Quang Minh, chờ khi vua băng hà mới đem 2 mảnh có tên người đó gộp lại và công bố cho mọi người biết. Điện Giao Thái, cung Khôn Ninh Cung Khôn Ninh đời Minh và đầu đời Thanh là nơi ở của Hoàng hậu. Sau này bên trong chia làm 2 phần: phía Đông, Hoàng đế dùng làm nơi động phòng sau buổi kết hôn, phía Tây làm nơi cúng lễ. Ở vào khoảng giữa 2 cung Càn Thanh và Khôn Ninh có điện Giao Thái hình vuông, quy mô không lớn, là nơi để Hoàng hậu tiếp đón Hoàng thân Quốc thích đến chào mừng nhân ngày Lễ, Tết. Nó được trang trí có hoa văn rồng và hoa văn phượng xen lẫn nhau. Rồng tượng trưng nhà vua, còn Phượng tượng trưng hoàng hậu. Lối kiến trúc của 3 ngôi điện lớn ở tiền triều phía trước, nhưng về quy mô to nhỏ, cao thấp, rộng hẹp thì kém nhiều. Ngự hoa viên (vườn Thượng Uyển) Phần phía sau cùng ở Tử Cấm Thành là Ngự hoa viên mà trong các sách Việt Nam thường gọi là Vườn Thượng Uyển. Đó là vườn hoa trong cung đình. Ngự hoa viên có diện tích rộng chừng 11.000m2, có đình, đài, lầu, các. Về thực vật, ngoài các cây vốn sinh trưởng ở miền Bắc Trung Quốc, ở đây còn tuỳ theo thời tiết từng mùa trồng xen vào những bồn hoa, cây cảnh phương Nam và từ khắp nơi trong nước gửi về tiến vua những mẫu hình đá quý, những hòn non bộ được trưng bày trong vườn làm cho Ngự hoa viên có 1 cảnh sắc hoà đồng với thiên nhiên, hoàn toàn khác biệt với cảnh nguy nga tráng lệ của quần thể các cung điện phía trước. Điện Dưỡng Tâm Điện Dưỡng Tâm không nằm ở trục chính giữa của Tử Cấm Thành mà là ở phía Tây, phần Hậu tẩm. Điện vốn là nơi ở của Hoàng Thái hậu, đến đời vua Ung Chính nhà Thanh thì dùng làm nơi ăn nghỉ của nhà vua, còn là nơi tiếp kiến các đại thần, giải quyết công việc thường nhật, nên ở giữa điện không có ngai vàng. Đông Noãn Các trong điện cũng là nơi nhà vua và đại thần nghị sự. Thời vua Đồng Trị nhà Thanh, do bà mẹ là Từ Hy Thái hậu chuyên quyền, nên mỗi lần Nhà vua nghị bàn giải quyết công việc quốc gia thì Hoàng đế ngồi trên ngự kỷ ở Đông Noãn Các, phía sau ghế vua ngồi có 1 tấm màn rủ là 2 bà Đông, Tây Thái hậu ngồi nhiếp chính (huấn dụ). Trên thực tế, Đồng Trị chỉ là ông vua bù nhìn, còn mọi việc triều chính điều hành đều do Từ Hy thái hậu định đoạt. Theo Di sản thế giới - NXB Trẻ http://www.vietime.com/news/
  23. Nguyễn An Kỷ Sư Tài Ba Xây Tử Cấm Thành Trung Quốc Nguyễn An kiến trúc sư tài ba chỉ huy xây dựng cổ thành Bắc Kinh, công trình trị thủy sông Hoàng Hà Nguyễn An quê vùng Hà Đông, từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng và có biệt tài về kiến trúc. Ông không những có công thiết kế, chỉ huy xây dựng cổ thành Bắc Kinh mà còn có tài trong các công trình trị thủy sông Hoàng Hà (Trung Quốc). Chưa đầy 16 tuổi, ông đã tham gia các hiệp thợ xây dựng các công trình kiến trúc tuyệt tác"cung vua Trần". Khối óc thông minh và bàn tay tài hoa tuyệt vời của Nguyễn An đã lọt vào mắt Trương Phụ khi hắn chọn bắt những người Việt Nam có tài khéo nghệ tinh đem về dâng vua Minh (Trung Quốc). Minh Thành Tổ thấy Nguyễn An giỏi tính toán, có biệt tài về kiến trúc lại cương trực, liêm khiết hiếm thấy nên đã giao cho ông chức thái giám. Thành Bắc Kinh xây dựng từ thời nhà Nguyên. Vua Minh thấy quá nhỏ hẹp lại chưa vừa ý. Năm 1437 vua Minh giao cho bộ công xây dựng lại. Viên công bộ thị lang là Thái Tin xin 18 vạn dân phu biết nghề "và tốn phí về vật liệu không biết bao nhiêu mà kể". Vua thấy vậy ủy cho quan thái giám Nguyễn An làm thổng đốc công (tổng công trình sư) xây dựng lại thành Bắc Kinh. Sách Kinh thành ký thắng của Dương Sĩ Kỳ viết về việc xây dựng thành Bắc Kinh hồi ấy nói rõ: "Nguyễn An tự tay vạch kiểu, thành hình là lập được thế, mắt ngắm là nghĩ ra cách làm, tất cả đều đúng với quy chế. Bộ công và các thợ thuyền đành chịu khoanh tay, bái phục, nghe ông chỉ bảo, sai khiến, thật là người đại tài, xuất chúng". Điều đó có nghĩa là từ vẽ đồ án, thiết kế, đào luyện thợ cho các hạng mục công trình đến chỉ đạo thi công đều do Nguyễn An phụ trách. Việc xây dựng lại thành Bắc Kinh gồm các công trình sau: Nội thành xây dựng hai cung, ba điện, năm phủ, sáu bộ và các công thự các ty. Ngoại thành có cửa Chính Dương có một chính lâu, ba gian nguyệt thanh lâu: cửa Sùng Văn, cửa Tuyên Vũ, cửa Triệu Dương, cửa Phụ Thành, cửa Đồng Trực, Tây Trực và cửa Đức Thắng, mỗi cửa có một chính lâu và một nguyệt thanh lâu. Ngoài các cửa đều dựng một cái bi lâu. Góc thành phía tây dựng một giác lâu. Cùng với các công trình xây dựng ấy còn phải đào một hệ thống hào xây gạch thoát nước, làm chín chiếc cầu đá qua hào dẫn vào thành. Khối lượng công việc cực lớn và phức tạp ấy đòi hỏi người tổng công trình sư chẳng những phải có tài về chuyên môn mà phải có tài tổ chức chỉ đạo. Bộ công xin 18 vạn thợ là dễ hiểu. Vậy mà, bằng sự tính toán của mình, Nguyễn An chỉ xin một vạn binh đang có mặt ở kinh sư lúc đó và chỉ làm trong ba năm chứ không năm năm như bộ công yêu cầu. Điều đó khiến cho triều đình nhà Minh sửng sốt, không ít người tỏ ra nghi ngờ. Song, bằng việc chỉ đạo chính xác, khoa học, toàn bộ công trình kiến trúc đồ sộ ấy đã được hoàn thành trong hơn hai năm. Vua Minh xem Nguyễn An như một "kỳ nhân", thưởng cho 50 lạng vàng và nhiều vóc nhiễu quý. Nguyễn An không chỉ là nhà kiến trúc đại tài, có công thiết kế, chỉ huy xây dựng cổ thành Bắc Kinh mà còn là người có tài đóng góp trong các công trình trị thủy sông Hoàng Hà. Những trận lụt lớn vào các năm 1444, 1445, vua Minh đều đặc phái Nguyễn An đến những nơi xung yếu nhất chỉ huy việc hàn khẩu, để lại tấm gương lao động quên mình trong lòng hàng triệu người dân Trung Quốc. Trận lụt lớn năm 1456, đê sông Hoàng Hà ở vùng Trương Thụ (Sơn Đông) bị vỡ, hàn khẩu mãi không được, vua Minh lại phái Nguyễn An đi, chẳng may ông bị bệnh và mất dọc đường. Trước khi mất, Nguyễn An trăng trối: Đem toàn bộ của cải của ông không phải để xây lăng như những người có công thời ấy thường làm, mà là đem phát chẩn cho dân bị lụt ở những nơi Nguyễn An đang đi mà chưa tới. Nguyễn An mất năm 1456 Đọc thêm: 紫 禁 城 (Zi jin cheng) Tử Cấm Thành http://east-asian-history.suite101.com/article.cfm/nguyen_an nguồn: http://kimlong9999.blogspot.com/2008/10/ng...y-xy-dng-c.html NGUYỄN AN-KIẾN TRÚC SƯ THIÊN TÀI VIỆT NAM (1381-1456) Bậc cửa chạm đá Nguyễn An là một kiến trúc sư người Việt sinh ra ở cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, đã từng tham gia các phường thợ xây dựng ở Thăng Long. Khi quân nhà Minh xâm lược nước ta đã bị bắt đưa sang Trung Hoa. Ông đã được vua Thành tổ nhà Minh sử dụng với nhiệm vụ xây dựng thành Bắc Kinh. Những tư liệu còn lưu lại rất hiếm hoi về nhà kiến trúc sư tài danh này nên ông đã không được biết nhiều. Người đầu tiên viết và giới thiệu về ông là Lê Quý Đôn, nhà bác học thời Lê Trịnh ở thế kỷ XVIII, trong tác phẩm nổi tiếng là Kiến văn Tiểu lục như sau: “Nguyễn An trải thờ 5 triều vua: Thái Tông, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông nhà Minh. Làm quan đến chức thái giám. An là người giản dị khắc khổ, cứng rắn, liêm khiết giỏi về mưu mẹo tính toán, rất sở trường về công việc xây dựng, những việc tu tạo thành hào Bắc Kinh 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, công đường nha môn sáu bộ và các trường xưởng, nhà trạm, An đều thân hành xếp đặt, tỏ ra rất có công lao, các tơ tào trong bộ công chỉ theo kế hoạch của An đã lậĐể tìm hiểu rõ về những nhân vật tài danh của đất nước ta sau cuộc xâm lược của nhà Minh ở đầu thế kỷ XV là rất khó khăn, vì quân Minh vơ vét của cải, sách vở, bắt các trẻ em, nhà sư, thợ giỏi các ngành nghề đưa về Yên Kinh (Bắc Kinh) để phục vụ triều đình nhà Minh. Đây là một công việc hết sức gian nan vất vả. Công cuộc chống quân xâm lược của nhà Hồ thất bại, Trương Phụ, Mộc Thạnh sai Đô đốc thiêm sự Liễu Thăng cùng 5 viên tướng Lỗ Lân, Trương Thăng, Du Nhượng, Lương Định, Thân Chí bắt giải Hồ Quý Ly và các con là Hán Thương, Nguyên Trừng, Triết Uông, các cháu là Nhuế, Lô, Phạm, Ngũ Lang, em là Quý Tỳ cùng họ hàng các tướng lĩnh triều đình cộng 13 người, cùng các ấn tín đưa về Kim Lăng để dâng vua Minh. Thời kỳ này Minh thành tổ là Hoàng đế Chu Đệ chuyển kinh đô, từ Nam Kinh lên Bắc Kinh (1403). Bắc Kinh là thành đô có lịch sử ngàn năm trước kia là kinh đô của nhà Nguyên ở thế kỷ XIII, của nhà Kim (1115-1234), nhà Liêu (907-1125). Khi nhà Minh tiêu diệt triều Nguyên xâm lược đã di chuyển lên kinh đô Đại Đô để phát triển thành kinh đô Bắc Kinh. Công việc xây dựng kinh đô mới cần rất nhiều thợ giỏi, kiến trúc sư tài ba để làm việc, chính vì vậy nhà Minh đã bắt rất nhiều thợ giỏi của nước ta đưa về Bắc Kinh để phục vụ cho triều đình, trong đó có Nguyễn An và nhiều người khác như Phạm Hoằng, Vương Cận (Trần Vũ) đã theo vua Minh đi đánh Cao Hú lập nhiều công danh được ban đai ngọc, yên vàng v.v... Nguyễn An và sự nghiệp xây dựng cung điện ở Bắc Kinh Trong nhiều năm nghiên cứu, tìm hiểu trên nhiều nguồn tài liệu quý giá của Việt Nam, Trung Quốc, các nhà nghiên cứu: Yên Tử Trần Đại Sỹ, Thúc Ngọc Trần Văn Giáp, Trịnh Cao Tưởng và Trương Tú Dân (Trung Quốc) trong bài: Nguyễn An nhà kiến trúc thiên tài người Việt Nam đã tham gia công trình kiến thiết đại Bắc Kinh dưới thời Minh (*) với các sử liệu thời Minh cho ta thấy một Nguyễn An đã trưởng thành ở Việt Nam, tham gia các hiệp thợ xây dựng cung điện ở Thăng Long và bị đưa sang Trung Quốc thời Minh. Nguyễn An là người có tài về thư toán, kiến trúc, sinh năm Tân Dậu - niên hiệu Xương Phù thứ 5 triều vua Trần Thuận Tông (1381), quê thuộc vùng Hà Đông, nơi có nhiều phường nghề phục vụ cho triều đình ở kinh đô Thăng Long. Năm 1407 triều đình vua quan nhà Hồ bị quân Minh bắt giải sang Kim Lăng xử tội, sau đó đến các văn nhân, thợ giỏi, thiếu niên, nhà sư để phục dịch triều đình nhà Minh. Vì tài năng của Nguyễn An đã được phát hiện nên năm Vĩnh Lạc thứ 14 (1416) theo lệnh của Minh Thành Tổ (Chu Đệ), Nguyễn An được giao trọng trách “Tổng công trình sư” xây dựng mới khu Tử Cấm Thành Bắc Kinh (Cố Cung) gồm 3 điện lớn: Phụng Thiên, Hoa Cái, Cẩn Thân và 2 cung Càn Thanh, Khôn Ninh. Đây là một công việc hết sức to lớn, ba ngôi điện chính nằm ở trung tâm Tử Cấm Thành. Điện Phụng Thiên có quy mô lớn nhất chiều dài khoảng 64m, rộng 37m, cao 27m với bộ kiến trúc khung gỗ đồ sộ gồm 84 cột và 182 dầm xà ngang dọc chạm khắc tinh vi, sơn son thiếp vàng lớn nhất ở Trung Quốc còn lại đến nay. Nơi đây, chính giữa đặt ngai vàng của các Hoàng đế Trung Hoa. Ba tòa điện này tọa lạc trên một bệ đá ngọc thạch khổng lồ hình chữ I, vì ngôi điện ở giữa (Hoa Cái) nhỏ là nơi chuẩn bị các nghi lễ cho điện Phụng Thiên. Công trình này được hoàn thành sau 5 năm đến năm 1421 thì kết thúc. Nhưng một điều không may là non nửa năm sau, cả ba điện đã bị hỏa tai thiêu cháy. Vì vậy đến năm 1440, tháng 3 năm Cảnh Thống thứ 5, Nguyễn An lại được vua Minh giao cho 7 vạn thợ và ban lệnh xây dựng, trùng tu 3 điện Phụng Thiên, Hoa Cái, Cẩn Thân, cùng 2 cung Càn Thanh, Khôn Minh. Với tài năng kiệt xuất ông đã hoàn thành công việc trùng tu, xây dựng lại trong 1 năm với 3 điện, 2 cung, vào tháng 10 niên hiệu Minh Chính Thống thứ 6 (1441) một cách xuất sắc. Vua Minh Anh Tông đã đặc thưởng cho Nguyễn An 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, 8 súc gấm, vóc, nhiễu và 1 vạn quan tiền (Anh Tông chính thống thực lục - Q84). Năm Minh Gia Tĩnh thứ 41 (1562) đã đổi tên 3 điện này là Hoàng cục điện, Trung cực điện và Kiến cực điện. Sau khi nhà Mãn Thanh xâm lược tiêu diệt nhà Minh và tiến vào Bắc Kinh, các vua Mãn Thanh ở luôn trong Tử Cấm Thành. Năm Thuận Trị thứ hai (1645) Hoàng đế Khang Hy cho đổi tên ba điện này là: Thái Hòa điện, Bảo Hòa điện, Trung Hòa điện, mang ý nghĩa đại diện cho một cung điện lớn nhất của một triều đại mới, với mục đích ổn định lâu dài, bền vững. Trung Hòa là giữ được cái gốc lớn nhất của Thiên hạ, thấu tình đạt lý, hòa hợp trời đất để bình yên, tên điện của Tử Cấm Thành đều có 2 loại văn tự Mãn, Hán. Vị trí 3 ngôi điện được các vua Thanh cai trị. Theo biên niên sử nhà Minh, chúng ta có thể thấy rõ sự nghiệp của kiến trúc sư lỗi lạc Nguyễn An đã được các vua Minh sử dụng, tạo nhiều điều kiện để ông thi thố tài năng trong xây dựng. Năm Chính Thống thứ 2 (1437) Vua Minh Anh Tông giao cho ông làm Tổng đốc công cùng với đốc công người Minh là Ngô Trung có nhiệm vụ làm chín môn lâu thành Bắc Kinh, trước 9 cửa lâu thành làm 9 cầu đá, 9 cống thoát nước, xây kè đá hai bên bờ thành hào, đào sâu hơn nơi trước đây là cầu gỗ, hào đất. Công việc này được làm trong hơn 2 năm. ông đã hoàn thành công việc vào tháng 4 năm Chính Thống thứ 4 (1439). Minh sử còn cho biết nhiều công việc cụ thể của Nguyễn An : “ở Chính Dương Môn đã làm xong một tòa nhà Chính lâu và hai tòa tả, hữu lâu. Còn Sùng Văn môn, Tuyên vũ môn (hai bên của Chính Dương môn). Triều Dương môn ở phụ thành phía đông, Đông trực môn, Tây trực môn ở phụ thành phía tây, An Định môn, Đức Thắng môn ở phía sau, mỗi cửa đều có một chính lâu và một nguyệt thành lâu (thành phụ kiểu ưng thành đây là lối xây thành của người Hán). Bốn góc thành lại dựng vọng gác lâu. Bên ngoài các cửa đều dựng nhà bia (Minh thực lục, Anh Tông Chính thống thực lục, Q26/trg 8). Tác giả Diệp Thanh viết bộ sách “Thủy đông nhật ký” thời Minh còn cho biết Nguyễn An rất coi trọng việc học hành nên ông đã thân chinh làm đốc công xây dựng nhà thái học. Trong Tuyên Phủ miếu ở Bắc Kinh có bia khắc ghi sự việc này. Năm Chính thống thứ 10 (1445) Nguyễn An được lệnh cùng các quan thành nhà Minh sửa chữa, xây gạch toàn bộ mặt ngoài thành nội Bắc Kinh. Thành Bắc Kinh (Đại Đô) được đắp thời nhà Nguyên (1280-1368) thành đắp bằng đất. Đến thời Vĩnh Lạc nhà Minh mới xây một mặt gạch, mặt trong vẫn bằng đất, những năm trời mưa, tuyết rơi lớn làm tường thành nhiều chỗ bị sụt lở, phải tu sửa mất nhiều nhân lực nên đường phố đầy bùn đất, lầy lội bẩn thỉu. Mãi đến nay mới được sửa chữa quy mô, những nơi sụt lở và xây gạch cả hai mặt trong, ngoài (Anh Tông Chính thực lục, Q.130). Theo biên sử nhà Minh thời Chính Thống mới được hoàn thành tường gạch thành Bắc Kinh, hào sâu, cổng thành vững chắc, cầu đá vững bền, vọng lâu quy chuẩn. Trong Hoàng Thành các cung điện lộng lẫy, nguy nga, lầu son gác tía, tráng lệ như căn bản của Bắc kinh ngày nay, được bảo tồn từ thời Minh, đã tiến hành xây dựng mạnh mẽ đại quy mô, trong thời gian dài 8 năm, kể từ niên hiệu Chính Thống thứ 2 (1437) đến năm thứ 10 (1445). Người đảm trách từ khi khởi đầu kế hoạch thảo sang Yên đô là Nguyễn An đã được vua Minh Thành tổ chọn dùng: từ các kiểu mẫu công trình, kiến trúc chính của ba điện, 2 cung, các ty ở phủ bộ thành Bắc Kinh mà ông là người đảm trách thiết kế, lập kế hoạch, theo dõi thi công. Các quan ở bộ công đều không thể thay đổi được, chỉ việc khoanh tay làm theo kiểu mẫu đã vạch ra sẵn (Minh sử thiết hoạn quan. Truyện thứ 3. Quyển 25 trang 6). Tên tuổi của Nguyễn An được ghi trong những bậc tiền bối có công xây dựng kinh thành Bắc Kinh ở một tấm bia trên đồi Thạch Cảnh Sơn (Bắc Kinh) sách Kinh Thành ký thắng của Dương Sĩ Kỳ viết : ...”Nguyễn An tự tay vạch kiểu, thành hình là lập được thế, mắt ngắm là nghĩ ra cách làm, tất cả đều đúng với quy chế. Bộ công và các thợ thuyền đành chịu khoanh tay bái phục, nghe ông chỉ bảo, sai khiến, thật là một người đại tài xuất chúng”. Nguyễn An luôn là người được vua Minh giao cho những trọng trách lớn. Khi đang tái thiết Bắc Kinh, năm Cảnh Thống thứ 9 (1444), năm ấy do mưa lớn kéo dài, đê sông Bồ Cầu bị vỡ hơn 20 đoạn. Nhà vua lại cử ông đi cùng với quan Hữu thị lang Bộ Công là Vương Hựu đi cứu đê sông Bồ Cầu, đặc biệt là khu vực bến đò Yến nhi. Đời sống nhân dân vùng đê vỡ vô cùng nguy khốn. Nguyễn An đã đệ tấu trình xin cấp nhân lực, tiền của và trực tiếp chỉ huy toàn bộ hàn khẩu các đoạn đê vị vỡ sông Bồ Cầu thắng lợi. Hàng triệu dân vùng lưu vực sông Bồ Cầu đã thoát khỏi thảm họa, người dân nơi đây coi ông là vị cứu tinh của Bồ Cầu. Vài năm sau ông còn được giao nhiệm vụ xây dựng công trình thủy sông Tái Dương. Sự thành công đem lại nhiều kết quả to lớn nên được nhiều bộ sử lớn ghi chép, ca ngợi, cảm phục ông, ngoài việc mẫu mực thiết kế, tính toán chi ly để khiến mọi người cứ theo mẫu mà làm. Mặc dù là một đại quan của triều Minh, một công trình sư do chính nhà vua trao nhiệm vụ, ông vẫn thường xuyên có mặt tại hiện trường, theo dõi đôn đốc thi công, thậm chí chính ông tự tay vác cuốc, gánh đất, đắp đất, kéo xích sắt v.v... đồng cam cộng khổ với dân phu để hoàn thành công việc (Minh sử Q34/trang 6, Hoàng Minh Thư Q13/trg17); (Minh Thư Q158/trg 3); (Anh Tông chính Thống Q119); (Thất tu loại cảo Q11/116). Tôi đã được biết công trình kiến trúc của Nguyễn An qua sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, khi qua Trung Quốc được ngắm nhìn những công trình kiến trúc đồ sộ to lớn thật ngỡ ngàng và cảm phục, tự hào về một người Việt Nam đã xây dựng ở đây từ thế kỷ X. Lúc đó là năm 1977 chưa có du lịch như bây giờ, đi bộ qua Thiên An môn, còn tự tay lay cánh cổng gỗ cao lớn, chạy bánh xe gỗ để thử cảm giác thật sự, bên cạnh những người dân Bắc Kinh còn nghèo, đi chơi ra Thiên An Môn hóng mát, còn đi xe đạp mặc áo may ô cởi trần là chuyện bình thường. Cửa Thiên An Môn đồ sộ màu đỏ sậm trước quảng trường có độ cao khoảng gần 40m do 2 nhà kiến trúc sư Khoái Tường và Lục Tường thiết kế được xây năm 1420 với tên Thừa Thiên Môn, đến năm 1651 được xây dựng lại và đổi tên là Thiên An Môn là cổng chính phía nam còn lại tới ngày nay. Khi ta vào tới điện Thái Hòa là một khu vực vô cùng rộng lớn, tọa lạc trên 3 cấp thềm sân đá có thành lan can bằng đá bạch ngọc, với đường ngự lộ 3 cấp, chính giữa chạm khắc rồng mây vô cùng tinh xảo và to lớn. Những phiến đá nguyên khối vô cùng to lớn này, theo tài liệu cổ Trung Quốc mỗi tảng dài hơn 3 trượng, rộng 1 trượng dầy 5 thước, nặng khoảng 180 tấn. Theo Minh sử năm Cảnh Thái thứ 7 (1456) triều vua Minh Cảnh Tông có lụt lớn ở sông Hoàng Hà. Đê ở vùng Trương Thụ thuộc tỉnh Sơn Đông bị vỡ. Triều đình đã tốn nhiều nhân tài, vật lực mà không hàn khẩu được, cả một vùng Sơn Đông rộng lớn bị chìm ngập trong biển nước, dân Sơn Đông vô cùng lầm than cơ cực. Trước tình thế đó Vua Cảnh Tông đã đặc phái Nguyễn An đến chỉ huy cuộc hàn khẩu này. Trên đường đi, ông bị ốm, do tuổi cao đã mất ở dọc đường, hưởng thọ 75 tuổi. “Khi ông mất trong túi không còn quá 10 đồng tiền” (Minh sử liệt truyện. Truyện thứ 12q. Mục hoạn quan. Trg6 ). Trước khi ông mất vẫn chỉ mặc áo vải, đắp chăn vải” ông còn dặn lại “Hiến tất cả của cải được ban cho suốt đời và các của riêng đem nộp làm của công” (Hoàng Minh Thư Q.13, trg 17). Kiến trúc sư thiên tài Nguyễn An mất đi đã để lại nhiều công trình cung điện, là những dấu ấn văn hóa của một tài năng kiệt xuất, đã được sử dụng đúng chỗ để ông phát huy trong xây dựng, kiến trúc, ông đã góp phần làm đẹp cho kinh thành Bắc Kinh tráng lệ, một tòa thành vĩ đại, hoành tráng, diễm lệ, đầy các cung điện lầu son, gác tía, cửa son, ngói hoàng ly lóng lánh. Đó là những đại kỳ quan về kiến trúc của các triều đại phong kiến phương đông từ thế kỷ XV đã tồn tại qua gần 6 thế kỷ. Nguyễn An là một con người đã đi vào lịch sử được nhiều sử sách Trung Hoa ca ngợi về nhiều phương diện, ông còn là một nhà thơ, một tấm gương đạo đức cao đẹp. Nguyễn An xứng danh là một kiến trúc sư thiên tài như nhiều sử sách, báo chí Trung Hoa ca ngợi hết lời. Ông là một danh nhân Việt Nam thời cổ trung đại, được lớn lên và trưởng thành trong nền văn hóa Việt Nam, Trung Hoa, thực sự là ngôi sao Việt Nam tỏa sáng trên nền văn hóa Trung Hoa vĩ đại mà người Việt Nam cần học tập và biết tới để tự hào, tự tin trong công cuộc xây dựng đất nước ta tươi đẹp hôm nay. Trịnh Quang Vũ (*) Tiến bộ Nhật báo - ngày 2 tháng 2 năm 1950 Tài liệu tham khảo 1. Lê Quý Đôn toàn tập Q.II Kiến văn tiểu lục NXB-KHXH 1977 2. Đại việt sủ ký toàn thư - NXB KHXH TII 1985 3. Yên tử củ sĩ - Trần Đại Sỹ Giám đốc Trung Quốc sự vụ viện Pháp á 4. Kiến trúc cổ Việt Nam - NXB xây dựng 2006 Trịnh Cao Tưởng 5. Thúc Ngọc Trần Văn Giáp nhà sử học 6. Tư liệu của tác giả và họa sĩ Đồng Thị Hoàn 7. Nghệ thuật kiến trúc cổ Bắc Kinh - NXB Kim Đồng 9. Bí mật Tử cấm thành NXB Thanh niên 2001 nguồn:http://www.vietnamfineart.com.vn/Story/Tapchimythuat/mythuattruyenthong/2008/9/1841.html
  24. thần tài phong thủy Người Hoa thờ thần Tài Một nhân vật lịch sử là Phạm Lãi cũng được coi là Tài thần. Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù vua Ngô Phù Sai. Người Hoa thờ thần Tài Một nhân vật lịch sử là Phạm Lãi cũng được coi là Tài thần. Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù vua Ngô Phù Sai. 1. Người Hoa là cộng đồng được coi là sở trường về doanh thương nên tập tục thờ thần Tài đã trở nên quan yếu và phổ biến có phần lâu đời trong lịch sử tín ngưỡng. Ngược lại, người Việt là cư dân “dĩ nông vi bản” nên bảo thủ tập tục thờ thần Đất và tín lý phồn thực. Đến cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, thần Đất và thần Tài ở xứ ta vẫn chưa khu biệt rõ. Trong Đại Nam quốc âm tự vị (Sài Gòn, 1895), tác giả Huỳnh Tịnh Của cắt nghĩa Thổ thần và Tài thần đều là “thần Đất, thần giữ tiền bạc” (Tome II, tr. 336) và đến tận bây giờ, thần Tài và Thổ Địa vẫn cứ được thờ chung như một cặp đôi bất khả phân li ở khắp nơi, từ văn phòng công ty, tiệm quán, tư gia... thậm chí ở trên nóc tủ bán thuốc lá lẻ lề đường. Và điều đáng chú ý là, hình tượng vị thần Tài của người Việt, xét về mặt đồ tượng học, là một biến thể của Thổ Địa Phước đức chính thần của người Hoa. Đây là bằng chứng chỉ ra một cách thức ảnh hưởng tín ngưỡng Hoa đối với người Việt. 2. Trong thực tế, đối với người Hoa, Thổ Địa cũng là một trong các thần Tài. Nói cách khác, cũng do nông nghiệp chiếm vai trò quan trọng trong lịch sử nên đất đai cùng các loại nông phẩm từ đất sinh ra là thứ của cải, tài sản chủ yếu nên thần Đất cũng là thần Tài. Mặt khác, thần Đất có công năng là thần Tài là do thuyết ngũ hành tương sinh: Thổ sinh kim. Điều cần lưu ý là tín lý về thần Đất của người Hoa rất đa dạng, thậm chí là phức tạp, bởi chúng được quy chiếu theo những lý sự đa tạp khác nhau. Ở đây không trình bày tường tận dài dòng được. Đại thể, ở đây, vị thần Đất chủ quản cả vùng Chợ Lớn (Sài Gòn phố thị xưa) được thờ ở Nhị phủ hội quán (tục gọi là “chùa Ông Bổn”). Theo bài vị thờ tên gọi chính thức của thần là “Nhị phủ miếu Đại Bá Công”, được đồng nhất với ông Bổn (Bổn Đầu công Châu Đạt Quan). Trên bức hoành treo trước chính điện Nhị phủ miếu ghi rằng “Ngô Thổ Địa dã” (Ta là Thổ Địa đây) và công năng chính của thần là bảo trở việc tài lộc. Điều này cho thấy đây là vị thần Tài, thần Đất và nhân thần; song thực chất đây là vị thần thuộc “ngũ thổ”: thần Thổ Phủ, bảo hộ kho chứa hàng hóa, hiểu rộng là chợ búa và hiểu rộng hơn là vùng Chợ Lớn/Bazar Chinois. Ở các xóm người Hoa cư trú tập trung (khu phố, con hẻm, đường phố...) có miếu thờ Thổ Địa Phước đức chính thần. Đồng thời ở các cơ sở thờ tự cũng thờ Thổ Địa Phước đức chính thần bảo hộ cho đền, miếu bên cạnh môn quan. Tại tư gia, vị thần Đất bản gia (được thờ ngay trước cửa, bệ thờ giản dị, đặt sát nền hiên) được định danh là Môn khẩu Thổ Địa tiếp dẫn Tài thần. Vậy là công năng vị thần Thổ Địa này là tiếp dẫn tài lộc cho chủ nhà. Chức năng kép của thần Đất được biểu thị rõ ở câu đối sau đây: Thổ sinh nhất kim, ngũ hành chúng trân quý Địa trưởng vạn vật, tứ quý ca bình vinh. 3. Ngoài thần Đất được thờ tự để cầu tài, người Hoa còn thờ nhiều thần Tài khác. Phổ biến và tôn quý nhất là thần Tài “Tài Bạch tinh quân”, “tinh quân” là ngôi sao trên thượng giới. Đây là vị thần thường thờ tự tôn kính ở các đền miếu, đặc biệt phổ biến là các cơ sở thờ tự thuộc nhóm phương tộc Triều Châu. Tài Bạch tinh quân gồm 5 vị thần, chủ bộ Tài lộc thiên giới, do Kim long Như ý chánh nhốt Long hổ Huyền đàn chân quân (tức Triệu Nguyên soái/Triệu Công Minh) đứng đầu và 4 phụ tá: Chiêu Bảo thiên tôn, Nạp Trân thiên tôn, Chiêu Tài sứ giả, Lợi Thị tiên quân. Thần Tài theo người Việt: Trên trời có Tài Bạch tinh quân, dưới đất cũng có thần Tài âm phủ. Hình tướng vị thần Tài này giống một phán quan, đen thui, trên đầu đội mũ ống cao, có dòng chữ “Nhất kiến phát tài”. Vị thần Tài này đầu tiên thờ ở Điện Ngọc Hoàng và gần đây mới có mặt ở một số chùa Hoa khác. Tục truyền, trước đây, người ta đến cầu xin giải hạn: lấy vải thô trắng quấn quanh tượng và thi thoảng các tay cờ bạc mới đến cầu tài. Nay thì, vị thần Tài âm phủ này được nhiều người cầu cúng, vay tiền thiêng để đem về mua may bán đắt. Kế đó là thần Tài Lưu Hải. Hình tướng vị thần Tài này thấy ở trên cột trước Tam sơn hội quán và trên bờ nóc Điện Ngọc Hoàng: một chàng trai trẻ, tay cầm một sợi dây ngũ sắc buộc một con cóc ba chân hay mang trên vai một sợi dây buộc những quả trứng với các đồng tiền vàng. Theo truyền thuyết Trung Quốc, Lưu Hải là tể tướng dưới triều Lương Thái Tổ (907 - 926). Ông từ quan ở ẩn, được Lữ Đồng Tân (một trong Bát tiên) truyền bí pháp luyện quặng vàng thành linh đơn trường sinh bất tử. Truyền thuyết khác lại kể rằng, Lưu Hải là con trai một lái buôn người Phước Kiến. Ông đã câu được con cóc ba chân ở một cái giếng cạn, biểu thị cho việc phát tài (cóc có âm là “thiềm”, đồng âm với “tiền”). Giới thương buôn thường thờ Lưu Hải, dán tranh vẽ trên hai cánh cửa tiệm, quán để cầu tài. Trong những năm gần đây, tượng cóc ba chân và miệng ngậm tiền được tạo hình độc lập (không gắn với Lưu Hải) được bày bán rộng rãi. Người ta mua về chưng ở nơi thờ thần Tài - Thổ Địa hay nơi trang trọng trong nhà để biểu thị cho việc cầu tài lộc. Phổ biến không kém Lưu Hải là cặp nữ thần Tài Hòa Hợp nhị tiên. Hình tướng thường thấy của cặp thần Tài này là cô gái: một hài âm cầm bó hoa sen (sen: hà, hài âm “hòa”) hay bó lúa (lúa: hòa); và một bưng cái hộp (hài âm “hợp”). Cặp nữ Tài thần này là đề tài của điêu khắc gốm, chạm gỗ phổ biến của ngành công nghệ miếu vũ của người Hoa. Thần tích là một truyền thuyết kể về hai chị em Hòa và Hợp buôn may bán đắt. Họ buôn món hàng gì cũng đắc lợi, kể cả những việc cố ý phá bỏ cũng phát tài. Ở Trung Quốc, Hòa Hợp nhị tiên là đối tượng sùng bái của những người sản xuất đồ gốm sứ, thợ nung vôi và người bán quạt. Một nhân vật lịch sử là Phạm Lãi cũng được coi là Tài thần. Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù vua Ngô Phù Sai. Sau khi đã toại chí, Phạm Lãi không màng công danh phú quý nên bỏ đi ở ẩn. Dã sử kể rằng Phạm Lãi với người đẹp Tây Thi bỏ trốn đi dạo chơi ở Ngũ Hồ. Sau khi bỏ đi, Phạm Lãi trở thành một nhà thương buôn thành đạt và giàu có nổi tiếng ở thôn Đào (?) nên được người đời gọi là Đào Công. Phạm Lãi được tôn là Tài thần. Trong dịp khai trương tiệm quán, cơ sở kinh doanh, người Trung Quốc và người Hoa hay tặng nhau tấm đại tự “Đào Công phất nghiệp” để chúc nhau việc kinh doanh, buôn bán thành đạt. nguồn:phongthuythuchanh.com Chỉ để tham khảo. Đây không phải là quan niệm chính của Phong Thủy Lạc Việt.
  25. Kính thưa Sư Phụ, Sư Phụ trách đệ tử vì câu nói " Đúng là mê tín hết chổ nói" là đúng. Nhưng chữ "Mê tín" đây, bởi đệ tử hiểu theo cách khác. Cách hiểu của đệ tử rằng "Mê" là không phân biệt hay không có khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu và "tín" là tin tưởng. Như vậy là tin tưởng mà không phân biệt đúng sai, tốt xấu hoặc có khi thái quá cực đoan. Như vậy mê tín này không phân biệt lĩnh vực nào. Giống như một ai đó bệnh cảm thì cứ uống Paracetamol, tin paracetamol trị hết bệnh, một mực cứ cho rằng thuốc uống là hết bệnh, nhưng có ngờ đâu gan và thận dị ứng với Paracetamol thì càng uống hóa ra là tự mình độc mình. Như vậy là mê tín. Trong khoa học cũng có mê tín và cuồng tính. Theo con hiểu là vậy. Sư Phụ nhắc vậy thì lần sau đệ tử lựa chữ mà viết, tránh mọi người hiểu nhầm. Thiên Đồng