Posted 14 Tháng 9, 2009 Sơn - hướng và trạch http://nhadat.thanhnien.com.vn/TinTuc/ChiT...huong-va-trach/ Xét riêng môn Bát Trạch, ta thấy các khái niệm chính được đưa ra không kèm theo một định nghĩa nhất quán và do đó đã đưa đến những quan niệm trái ngược về Tả, Hữu, Sơn, Hướng, Trạch mệnh… Sau khi căn cứ vào biến quái và quan hệ sinh khắc để định Bát Trạch du niên, người ta căn cứ vào vị trí các cung cát hung để quy ra Đông Tứ Trạch và Tây Tứ Trạch phối hợp với Đông tứ mệnh và Tây tứ mệnh từ 8 Quái mệnh. Cách định danh Trạch không được quy định chặt chẽ nên sách này theo Hướng, sách kia theo Sơn. Người học theo sách phối hợp Trạch và Mệnh quái không biết thế nào là đúng. Với quan điểm Âm trạch có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ cháu con trong khi Dương trạch chẳng qua chỉ thích nghi với một chủ gia đình, Khoa Phong Thủy Dương trạch hẳn chỉ là phần ngọn của trái núi băng mà thôi. Vì người ta cho rằng khoa Âm Trạch dựa trên những đặc tính đảo chiều của Dương Trạch, nên khó tin rằng Phong Thủy Âm Trạch có mức độ lý luận hoàn hảo hơn Phong Thủy của Dương Trạch. Có lẽ Phong Thủy – như nhiều người đã khẳng định – là một thuật quý tộc, ban đầu chỉ dành cho vua chúa và giới thượng lưu sử dụng. Những tầng lớp này dùng PT để chọn đất làm kinh đô, xây thành lũy, đền đài, cung điện và dinh thự. Những công trình này bao giờ cũng có hình dáng có thể quy về hình vuông, có tỷ lệ diện tích xây dựng trên chiều dài tường bao thuận lợi hơn cả. Những công trình này đặc biệt thích hợp cho việc áp dụng các quan hệ Bát quái đơn thuần hoặc các quy tắc của thuật Bát Trạch. Những tác giả sau này của giới Phong Thủy Trung Quốc cũng nhận thấy những nhược điểm trong hệ thống lý thuyết của Phong Thủy, nhất là của Bát Trạch nên họ cố gắng đưa ra những định nghĩa cho các khái niệm chủ yếu của Phong Thủy nói chung và Bát Trạch nói riêng như Eva Wong, Joey Yap… Sau tham khảo những tư liệu của họ. Tôi có suy luận sau, có thể anh em cùng tham khảo, chỉnh lý. Xuất sứ của Sơn và Hướng Có tác giả đưa ra nhận định rằng, người xưa khi chọn chỗ xây nhà thường dựa trên quan điểm ghế bành, tức là phải có Sơn để tựa lưng và hai bên Tả Hữu che chắn cho an toàn. Chính vì ưu tiên làm nhà tựa lưng vào gò, núi nên mới có từ Sơn chỉ lưng nhà, chứng tỏ những người lập ra môn Phong Thủy vốn sinh sống ở vùng nhiều núi, như Nam Trung Quốc ngày nay. Quan điểm tìm chỗ dựa lưng này cũng thể hiện trong thuật tác chiến, tự vệ. Như Hồ Dzếnh đã nói đến trong tác phẩm của ông, cho đến giữa thế kỷ trước TQ có hai loại người chính, một loại làm lụng kiếm ăn còn loại kia chuyên đi ăn cướp. Nếu lập một gia trang có ba mặt được thiên nhiên bảo vệ trừ mặt trước, chắc chắn việc phòng vệ sẽ dễ dàng hơn cho người trong nhà. Như vậy, chắc chắn sẽ có những học giả hoặc những người ứng dụng Phong Thủy xuất phát từ thực tế đi chọn đất làm nhà mà xem Sơn quan trọng hơn Hướng. Nếu những dân tộc du mục trên thảo nguyên lập ra môn Phong Thủy, chắc sẽ không có danh từ Sơn. Ta có thể tin rằng họ sẽ xem Hướng quan trọng hơn vì phải bố trí cửa lều thích hợp tránh ảnh hưởng gió mạnh. Nếu Phong Thủy là một học thuật ứng dụng được trên toàn cầu, nó sẽ phải trút bỏ những giới hạn gây ra bởi ngôn ngữ như từ Sơn… hoặc những ảnh hưởng mang tính thực dụng phụ thuộc vào địa phương, khu vực văn hóa… Thực ra, để tránh những xung đột của hai cách định danh Hai dạng cư xá theo Hướng hoặc theo Sơn ta chỉ cần hiểu các khái niệm Đông Tứ Gia, Tây Tứ Gia căn cứ vào hai nhóm chính phân bố các cung Cát, Hung của Nhà ở và của Mệnh để phối hợp sao cho hợp lý là đủ. Điều quan trọng ở đây là phải xác định được Hướng hậu (Sơn) hay Hướng tiền (Hướng), yếu tố nào có tác dụng mạnh hơn đối với con người cư ngụ trong căn nhà hay căn hộ đó. Xác định Hướng Theo nhiều tác giả và hợp với suy luận, Hướng hậu và Hướng tiền gọi chung là Hướng nhà phải nằm trên một đường thẳng đi qua tâm nhà. Xác định được Hướng tiền sẽ biết Hướng hậu. Xuất phát từ một căn nhà tiêu chuẩn hình vuông, Hướng nhà sẽ đi qua điểm giữa cạnh trước và cạnh sau của nhà. Ở đây lại nẩy ra một khái niệm mới: Trước (và Sau), thế nào là Trước. Nếu ta quan niệm một người ngồi mặt, ngực, bụng bao giờ cũng hướng về phía trước thì một cái nhà chắc cũng không thể khác. Nếu Hướng chính là phía mắt ta nhìn tới thì một căn nhà có chiều dài áp sát một minh đường rộng rãi như bãi đá bóng chẳng hạn, ta cũng không thể theo “Thẩm thị Huyền Không học“ mà quyết định rằng đó chính là mặt trước của nhà nếu như bờ tường nhà phía này không có cửa sổ hoặc ít hơn hẳn so với các bờ tường phía khác. Đó là vì căn nhà ấy đang hướng về phía khác thông qua những cặp mắt cửa sổ của nó. Một cửa ra vào có thể thường xuyên đóng kín, nhưng các cửa sổ đưa ánh sáng, không khí vào nhà không mấy khi bị bịt kín. Phong Thủy quan tâm đến Khí, phía tường có nhiều cửa sổ có lẽ là phía tiếp nhận Khí chính của căn nhà. Người ta nói nhiều về thuộc tính của Khí. Kinh nghiệm cũng ít nhiều chứng minh là khi một vật nhọn (tập trung ác khí) chĩa thẳng vào cửa sổ nguy hiểm với người trong nhà hơn là khi nó chĩa vào một bờ tường kín. Ngược lại, một cái cửa ra vào trổ rất đúng cát hướng nhưng nhìn vào bờ tường hàng xóm ở cự ly 1,5 thước thì cái Cát ấy cũng bằng không. Các ngôi nhà, căn hộ trong thực tế có nhiều hình nhiều dạng, có lẽ trực quan người làm Phong Thủy có kinh nghiệm sẽ nhận ra được đâu là Hướng nhà thực sự. Cũng theo quan điểm đã trình bầy trên, Hướng tiền sẽ có ảnh hưởng chính yếu. Trạch là gì Theo Tự điển Hán Việt của Đào Duy Anh từ Trạch có nhiều nghĩa trong đó có một cách viết chữ Trạch mang nghĩa là nhà ở, mồ mả. Từ đó có các từ ghép như trạch-khoán là khế ước bán nhà, trạch-ưu là nỗi buồn trong nhà. Danh từ đặc trưng cho nhà ở chắc phải ra đời ít nhất là khi người ta thôi ở hang và biết cất lều để cư trú. Do đó, nếu người Tàu không có từ nào thông dụng hơn từ Trạch để chỉ nhà ở bình thường /(TP không sành Hán tự )/ thì chắc khó thể chứng minh từ Trạch xuất xứ từ tiếng Việt cổ. Bát Trạch phong thủy. Phong Thủy Lạc Việt đưa ra khái niệm Trạch – như anh Thiên Sứ đã giải thích – khái niệm này không thể lẫn lộn với khái niệm Trạch trong từ Bát Trạch nói trên, vì khái niệm Bát Trạch này được xác định dựa vào Hướng hậu (Sơn) hoặc Hướng tiền (Hướng) của một ngôi nhà. Vì khái niệm Trạch trong Phong Thủy Lạc Việt có tương quan với long mạch, tức là mang yếu tố đường truyền dẫn Khí.Nên ta có thể có nhận xét là: Trạch của một căn nhà là phần nối tiếp của một chi (nhánh) dẫn Khí xuất phát từ một nguồn Khí nhất định. Do Khí tồn tại trong Hình, có những hình thể hiện Khí tụ, ngược lại những con đường là mạch khí vận hành định hướng. Ngõ vào nhà xuất phát từ một con đường xa lộ chắc chắn không thu được Khí tốt như khi xuất phát từ một khu vực tụ Khí. Với suy luận như vậy, Trạch sẽ là một thứ Khí mạch từ xa tới đi qua cửa chính của ngôi nhà và ra khỏi cửa thoái khí trở về với tự nhiên - như anh Thiên Sứ cho rằng: Thiết kế nhà nên tránh hiện tượng bế khí. Nếu vậy Trạch sẽ là con đường thuận tiện nhất để Khí sau khi qua cửa vào trong nhà tìm cửa Thoái khí mà ra ngoài. Nếu nhận xét này là hợp lý ta sẽ thấy nên bố trí nội thất sao cho Khí qua cửa chính đi vào trong nhà có thể qua hết các khu vực sinh hoạt chính để trục hết tà khí đi rồi mới ra ngoài trời. Nhận xét này ít nhất cũng hợp lý ở kinh nghiệm phong thủy, tránh không để cửa ra vào cùng các cửa trong và cửa sổ tường hậu hay cửa hậu thông nhau trên một đường thẳng là đường Khí đi ngắn nhất (Những tai hại xẩy ra không phải chỉ thuần túy vì gió lồng). Trong một cuốn sách Phong Thủy, tác giả tuy không nên khái niệm Trạch, nhưng nhấn mạnh việc phải bố trí Khí khẩu sao cho Khí vào nhà không lưu thông với tốc độ quá cao không chỉ gây gió lồng ảnh hưởng đến sức khoẻ mà còn gây các thiệt hại tài lộc khác. Tác giả đề nghị nên bố trí để dòng khí lưu thông được dễ dàng lần lượt qua các khu vực chính trong nhà. Một cuốn sách khác nhấn mạnh rằng , đối với một tòa nhà thì xét Hướng tiền là quan trọng, nhưng trong nhà phải xét Khí khẩu theo Bát quái du niên, vì phải chú ý đến đường khí lưu chuyển. Nhiều nhà tuy có cửa chính, nhưng phần lớn thời gian trong ngày chỉ dùng cửa phụ. Như vậy Trạch của họ chỉ mang tính lý thuyết. Khi xét cụ thể có lẽ phải xét Trạch của cửa phụ. Cũng qua cách suy luận trên đây ta phải đi đến kết luận là dù Trạch được bố trí tốt đẹp đến đâu, nhưng nếu nó không có nguồn Khí dồi dào nuôi cho thì cũng chỉ là Trạch giả. Thí dụ một căn nhà nhà cao cửa lớn nhưng lối vào phải lách qua mấy cái ngõ nhỏ xuyên qua sân nhà khác. Như vậy ý nghĩa của Trạch theo quan điểm Phong Thủy Lạc Việt không thể tách rời Hình Lý Khí của mội trường kiến trúc. DiaOcOnline.vn - Theo Phong Thủy Đông Phương Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 9, 2009 Tổng Quan Phong Thủy Con người là trung tâm của vũ trụ, thuyết tam tài của triết học Phương Đông là Thiên - Địa – Nhân. Con người chính là sản phẩm hoàn chỉnh nhất của tự nhiên và là trung tâm của Trời Đất. Có Trời có đất rồi qua sự phát triển vận động mà toạ nên con người như một vũ trụ thu nhỏ. Chính vì con người là một sản phẩm của tự nhiên thì tất nhiên phải chịu sự chi phối của tự nhiên. Cũng giống như các sinh vật khác trên trái đất đều phải chịu sự chi phối của thiên nhiên và môi trường. Mỗi con người sinh ra đời tại những thời điểm, những vị trí khác nhau trên trái đất. Khi đó sự vậnhành của các thiên thể trên những quỹ đạo khác nhau, đối với trái đất thì chịu ảnh hưởng mạnh nhất cảu các hành tinh trong hệ mặt trời như mặt trăng, mặt trời, sao kim, sao hoả, sao thổ,… cùng các tia vũ trụ, các yếu tố môi trường tác động vào mỗi con người khác nhau, do đó được hình thành nên với những tố chất trong đục khác nhau. Khoa học hiện đại cũng chỉ ra con người bị chi phối bởi những chu kỳ sinh học, chẳng hạn như chu kỳ trí tuệ, sức khoẻ và tâm lý. Chính vì thế mỗi người có một xuất phát điểm khác nhau, một quá trình sinh hoạt bị chi phối bởi những chu kỳ khác nhau, người xưa gọi đó là “Thiên Mệnh”. Tuy nhiên số mệnh con người lại là một hàm số tổng hợp bởi ngoài “Thiên Mệnh” thì con người còn phục thuộc vào gen di truyền, vào môi trường sinh hoạt, vào vị trí địa lý và nỗ lực mỗi cá nhân. Chính vì vậy hai người sinh cùng một thời điểm nhưng lại có thể có số mệnh khác nhau. Tổng quát ta có thể ước lượng số mệnh con người qua hàm số: Số mệnh = Thiên Mệnh + Địa Mệnh + Nhân Mệnh Trong đó “Địa mệnh” là môi trường xã hội và Phong Thuỷ nơi sinh sống. “Nhân mệnh” là phần nỗ lực học tập, rèn luyện, lao động, tu tâm dưỡng tính của mỗi cá nhân trong cuộc sống. Phần “Thiên mệnh” là cố định nhưng phần “Địa mệnh” và “Nhân mệnh” hoàn toàn có thể cải biến, điều đó cho thấy Phong Thuỷ có vai trò vô cùng quan trọng. Chọn lựa được nhà cửa, văn phòng Phong Thuỷ tốt, nơi phòng ngủ, bàn làm việc phương hướng phù hợp sẽ có tác dụng cải tạo to lớn. Công thức lượng hoá vận mệnh : Thiên mệnh : 60% gồm : 1. Bản mệnh (Tử Vi, Tứ Trụ) 18% 2. Đại vận ảnh hưởng 30% 3. Lưu niên ảnh hưởng 12% Nhân mệnh - Địa mệnh 40 % gồm : 4. Phong Thuỷ Địa lý 10% 5. Ý chí bản thân 10% 6. Tích đức hành thiện 8% 7. Xã hội hoàn cảnh môi trường sống 4% 8. Giáo dục trình độ 4% 9. Tính danh ảnh hưởng 4% Về cơ bản Phong Thuỷ là một bộ môn khoa học về môi trường sống, là những lời diễn dịch của người Trung Quốc xưa về thế giới tự nhiên với mục đích giúp họ xây dựng nên một hệ thống canh tác hiệu quả. Ngoài ra với ý nghĩa sâu xa hơn, Phong Thuỷ còn chứa dựng những kiến thức, hiểu biết về sự chuyển động của các thiên thể mà người Trung Quốc đã nghiên cứu để xác định đường đi của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, những lý lẽ diễn dịch này càng phức tạp và được ghi chép lại bằng chữ viết và được lưu truyền đến ngày nay. Ở Trung Quốc, khoa Phong Thuỷ chi phối toàn bộ cuộc sống nhân sinh. Bằng cách thấu hiểu các khái niệm căn bản về Phong Thuỷ, chúng ta có thể chọn ra các mô hình về thiết kế, những hình ảnh và biểu tượng đầy ý nghĩa từ chính nền văn hoá của mỗi dân tộc để hỗ trợ cho đời sống tinh thần của dân tộc đó. Ngày nay về mặt thực hành, Phong Thuỷ cho chúng ta các lời khuyên về cách kiến tạo ra một môi trường sống thoải mái và tích cực. Những yếu tố bất thường trong đời sống hiện đại đang ngày càng gia tăng sức huỷ hoại và vì vậy ngày càng có nhiều người tìm đén các cách sống khác, mong rằng có thể lấy lại thế quân bình cho đời sống cá nhân và những người thân của họ. Các kiến thức Phong Thuỷ chủ yếu mang đến cho chúng ta cơ hội được sống khoẻ mạnh, hạnh phúc và sung túc vì ý nghĩa căn bản của Phong Thuỷ là giữ gìn và duy trì một cuộc sống hài hoà với môi trường xung quanh ta. Hiểu biết về Phong Thuỷ có thể giúp chúng ta tự đặt mình vào những vị trí có lợi nhất trong môi trường sống của mình. Việc chọn nơi làm văn phòng cũng như các thiết kế nội thất sẽ ảnh hưởng đến mỗi chúng ta theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Thuật phong thuỷ không những giúp ta biết được vị trí thuận lợi nhất đối với ta mà còn chỉ cho ta cách bài trí, chọn mầu sắc và kiểu dáng để hỗ trợ cho chúng ta trong cuộc sống. Việc thể hiện những lý thuyết của thuật Phong Thuỷ vào cuộc sống chắc chắn sẽ mang lại những lợi ích cụ thể cho chúng ta, cho dù chúng ta chỉ mới hiểu biết sơ qua về chúng. Khi hiểu biết nhiều hơn về cuộc sống của mình và bắt đầu có ý thức tích cực thay đổi những nhân tố gây khó chịu cho chúng ta thì cũng đồng thời chúng ta đã bắt đầu hiểu rõ chính bản thân và vai trò của mình trong bối cảnh rộng lớn hơn. Chúng ta đã biết hiện có rất nhiều trường phái Phong Thuỷ khác nhau, trong đó phải kể đến các trường phái chủ yếu là Bát Trạch Minh Cảnh, phái Huyền Không, Dương Trạch Tam Yếu và phái Huyền Thuật. Mỗi trường phái có một lý thuyết căn bản và ứng dụng cho bài trí Phong Thuỷ khác nhau. Tuy nhiên, đều căn cứ từ Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên bát Quái làm lý thuyết căn bản nhất để suy ra các vận dụng riêng rẽ cho Phong Thuỷ. Trong thực tế áp dụng, thật rất khó nhất là cho những người mới bắt đầu nhập môn Phong Thuỷ khi phải lựa chọn một trường phái Phong Thuỷ cho ngôi nhà mà bạn đang xem xét. Vậy nên hiểu, lý giải và ứng dụng thế nào để đảm bảo tính chính xác, tránh mơ hồ dễ gây nên sai lệch khi ứng dụng thuyết Phong Thuỷ ? Để trả lời câu hỏi đó cần nhắc lại rằng, theo triết học Phương Đông thì tất cả mọi việc trên đời đều lấy nguyên lý Thiên - Địa - Nhân làm chuẩn. Theo nguyên lý này thì con người là sản phẩm điển hình nhất của Thiên - Địa, con người luôn là trung tâm của vũ trụ. Sống trên đời, con người luôn hoà hợp với Thiên, Địa, đó là bản chất của việc cầu lành tránh dữ, đem lại hạnh phúc mà may mắn cho con người. Thiên - Nhân tương hợp thì phúc đến, ngược lại thì mang lại nhiều rủi ro. Nói một cách khác, con người phải hoà hợp với thiên nhiên, trời đất thì mới trường tồn và hạnh phúc.Các trường phái khác nhau có những căn bản suy luận khác nhau để ứng dụng vào Phong Thuỷ. ta đi cụ thể hơn như sau : + Phái Bát Trạch dùng mệnh cung phối với hướng để xác định hoạ phúc. Như vậy, đó là sự xác định Thiên Khí phối hợp với Nhân khí để đem lại sự hoà hợp. Đó là nguyên lý Thiên - Nhân tương hợp. + Phái Huyền Không căn cứ sự luân chuyển của các luồng khí trong vũ trụ mà cụ thể là sự vận hành các Phi Tinh trên địa bàn để xác định hoạ phúc chi phối mọi vật trên trái đất. Đó chính là sự nghiên cứu các quy luật vận động vũ trụ, sự phối hợp giữa Thiên Khí và Địa Khí để xác định hoạ phúc. Đó là nguyên lý Thiên - Địa tương phối. Tuy nhiên phái này xem nhẹ ảnh hưởng của Thiên Địa khí đến yếu tố Nhân tức bản thân con người. Xem ra quyền lực của Thiên - Địa có vai trò tuyệt đối lớn. + Các phái khác chủ yếu nghiên cứu sự vận hành của Địa Khí (như một số phái Huyền thuật chuyên nghiên cứu các huyệt vị và âm phầm) và một số yếu tố Nhân vận dụng vào cải biến Phong Thuỷ (Dương trạch Tam Yếu). Tựu trung lại, Phong Thủy cũng như các môn khoa học huyền bí khác đều có đặc điểm dễ học nhưng rất khó tinh tường, dễ sai lệch, đòi hỏi kinh nghiệm rất tốt mới có thể đem khả năng ra giúp đời, giúp người. Nhiều khi sách vở chỉ là căn bản, cần biết vận dụng phối hợp các lý thuyết, các trường phái chi hiệu quả. Có như vậy mới mong ứng dụng Phong Thuỷ được tốt đẹp cho cuộc sống - Cung Sinh khí (Seng Qi): (Thuộc sao Tham Lang, rất tốt) chủ việc vượng tốt cho con nguời, có lợi cho con trai, lợi cho danh tiếng, tạo ra sức sống dồi dào cho con người, tính dục mạnh mẽ. Nếu sinh khí ở khu vệ sinh, phòng kho ,… thì hay mất vặt, thất nghiệp, đẻ non, nhiều bệnh tật. - Cung Thiên y (Tian Yi): (Thuộc sao Cự Môn, rất tốt) Chủ về sức khỏe tốt, lợi cho phụ nữ, vượng tài lộc, tiêu trừ bệnh, tâm tình ổn định, có giấc ngủ ngon, thường có quý nhân phù trợ, luôn đổi mới. Nếu Thiên y ở khu vệ sinh, phòng kho ,… thì mắc bệnh kinh niên, chứng ung thư. - Cung Diên niên (Yan Nian): (Thuộc sao Vũ Khúc, tốt) Đây là cung hoà thuận, tốt cho sự nghiệp và ngoại giao, với các mối quan hệ khác, vợ chồng hoà thuận, tuổi thọ tăng thêm, bớt kẻ địch, tính hoà dịu, với nữ giới có bạn đời tốt. Nếu Diên niên ở khu vệ sinh, phòng kho ,… thì hay cãi vã thị phi, nhà cửa không yên ổn. - Cung Phục vị (Fu Wei): (Thuộc sao Tả Phù, tốt) Đây là cung bình yên, trấn tĩnh. có lợi để bàn thờ. Vững cho chủ nhà, tình duyên nam nữ gắn bó, khả năng tài chính tốt, quan hệ cha mẹ vợ con tốt nhưng tình dục giảm sút. Nếu Phục vị ở khu vệ sinh, phòng kho …. thì gia chủ nóng nảy, luôn cảm thấy bất yên. - Cung Tuyệt mệnh (Jue Ming): (Thuộc sao Phá Quân, rất xấu) ở vào cung Tuyệt mệnh là khu vệ sinh, phòng kho thì chủ nhà có sức khoẻ tốt, tuổi thọ tăng thêm, duyên phận con cái tốt, có tài vận. Nếu cung Tuyệt mệnh vào vị trí tốt : chủ nhân bị bệnh khó chữa, mổ xẻ, đụng xe, mất trộm, trong người cảm thấy không yên ổn, mọi việc tính toán quá đáng, buồn phiền, đau khổ, u sầu, ít nói, ức chế tâm thần, duyên phận con cái bạc bẽo. - Cung Ngũ quỷ (Wu Gui): (Thuộc sao Liêm Trinh, xấu) Nếu Cung Ngũ quỷ là khu vệ sinh, kho thì có thể biến xấu thành tốt. Nếu cung Ngũ Quỷ là vị trí tốt ( cửa ra vào, phòng ngủ, bếp ) thì các sự việc lôi thôi vô cớ ập đến, người nhà mổ xẻ ung thư, tai tiếng thị phi, mất trộm, phá sản, hoả hoạn. - Cung Lục sát (Liu Sha): (Thuộc sao Lộc Tốn, xấu) Nếu Cung Lục sát là khu vệ sinh, kho thì người trong nhà có suy nghĩ đúng đắn, có số đào hoa và lợi cho đuờng tình duyên. Nếu cung Lục sát là vị trí tốt ( cửa ra vào, phòng ngủ, bếp ) thì tình duyên trắc trở, vợ chồng thường cãi nhau, sự nghiệp không tốt. Riêng với nam giới thi không lo làm ăn, hay rượu chè cờ bạc. - Cung Hoạ hại (Huo Hai): (Thuộc sao Lộc Tốn, xấu) Nếu Cung Hoạ hại là khu vệ sinh, kho thì người trong nhà được yên ổn, hoà thuận, sức khoẻ tốt, không xảy ra quan sự. Nếu cung Hoạ hại là vị trí tốt ( cửa ra vào, phòng ngủ, bếp ) thì người nhà bị chia rẽ, quan tai, mệt mỏi vì những việc vụn vặt, hay thưa kiện với người ngoài, thất tài… Phong Thuỷ là môn khoa học tổng hợp của các môn khoa học thực nghiệm và lý thuyết khác như vật lý địa cầu, thuỷ văn địa chất, vũ trụ tinh thể học, khí tượng học, môi trường học và kiến trúc. Người vận dụng phải có kiến thức tổng hợp, biết xem xét thiên nhiên môi trường, cải tạo nó thành môi trường tối ưu cho con người sinh sống để phát triển tốt đẹp. Đích cuối cùng của Phong Thuỷ phải là Thiên - Nhân - Địa hợp nhất, con người đạt đến cái đích thấu hiểu những quy luật của trời đất và sống hoà hợp với những quy luật ấy. Từ trước đến nay những quy luật của thiên nhiên, của trời đất vũ trụ vẫn vô tư tồn tại, chỉ có con người duy ý chí mới cho rằng mình sống không cần phụ thuộc vào nó nên vô tình đã phạm phải những điều gây tai hoạ cho chính bản thân con người. Ngoài ra còn kết hợp với các phương pháp cải biến vận mệnh khác : Làm việc thiện : Có câu “một việc thiện giải trăm việc ác”. Theo quan điểm của Đạo Phật, tích đức hành thiện sẽ thay đổi nghiệp quả ác từ đời trước, tạo nên những nghiệp thiện và nếu làm nhiều có thể báo ứng ngay hiện tại góp phần cải thiện vận mệnh. Các việc thiện có rất nhiều như giúp người khó khăn, chữa bệnh, làm đường xá cầu cống, ủng hộ thiên tai, hiến máu nhân đạo,…Thực tế cho thấy hạnh phúc lớn lao của con người chỉ đạt được khi mà hạnh phúc ấy được chia sẽ với những thành viên khác trong cộng đồng. Đổi danh tính : Danh tính có vai trò rất quan trọng bởi đó là nhân tố thường xuyên tác động đến bản mệnh. Cái tên gọi mỗi ngày sẽ có tác dụng to lớn đến quá trình cải tạo vận mệnh.Vì vậy khoa tính danh học đã phát triển, sử dụng Âm Dương, Ngũ Hành bổ trợ cho vận mệnh. Để biết mệnh của mình thiếu Hành gì phải dùng môn Bát Tự để xem xét, sau đó đặt lại tên để bổ cứu. Y phục và đồ vật đi kèm : Trên cơ sở xem xét bản mệnh thiếu loại ngũ hành gì có thể sử dụng loại màu sắc quần áo, trang phục, xe cộ,… để có Ngũ Hành phù hợp bổ trợ cho chỗ thiếu của mệnh. Ví dụ, mệnh thiếu hành Hoả có thể dùng quần áo nhiều màu hồng, đỏ, xe cũng nên dùng màu đỏ sẽ bổ cứu cho mệnh tốt hơn. Các dụng cụ đồ vật đi kèm cũng nên dùng Ngũ Hành phù hợp, như mệnh cần hành Kim nên dùng nhiều đồ trang sức kim loại, vàng bạc. Mệnh cần hành Thổ nên dùng nhiều loại đá quý, ngọc. Sử dụng phương hướng phù hợp : Căn cứ Ngũ Hành của bản mệnh, xem xét bản mệnh hợp với phương vị nào thì nên sinh sống lập nghiệp ở phương vị đó sẽ tốt hơn là sinh sống lập nghiệp ở phương vị không phù hợp. Ví dụ, mệnh cần hành Hoả thì nên sinh sống ở phương Nam, ở nhà hướng Nam, văn phòng hướng Nam. Mệnh cần hành Kim thì nên sinh sống ở phương Tây, ở nhà hướng Tây, văn phòng hướng Tây. Sử dụng các con số phù hợp : Ngũ Hành của bản mệnh cần bổ cứu hành gì thì sử dụng các con số phù hợp để bổ trợ. Các con số thường sử dụng như số nhà, số điện thoại, biển số xe,…Đại diện ngũ hành của các con số như sau : Số 1,2 thuộc Mộc, số 3-4 thuộc Hoả, số 5-6 thuộc Thổ, số 7,8 thuộc Kim, số 9,0 thuộc Thủy. Chọn nghề nghiệp phù hợp : Căn cứ ngũ hành cần thiết cho bản mệnh mà chọn nghề nghiệp cho phù hợp,. Như mệnh cần hành Thổ nên làm về những ngành nghề thuộc Thổ như sản xuất nông nghiệp, kiến trúc, xây dựng, bất động sản. Chọn vợ chồng và bạn bè, đối tác làm ăn phù hợp : Nên chọn những người có Ngũ Hành bản mệnh phù hợp và bổ trợ tốt cho ngũ hành của bản thân mình. Đặc biệt là người vợ, chồng chung sống suốt đời có vai trò vô cùng quan trọng, vì thế cần phải chọn lựa cẩn thận trước khi tiến đến hôn nhân. Các phương pháp trên sẽ được khảo luận cụ thể ở các mục tương ứng. Trong việc vận dụng lý thuyết của Phong Thuỷ vào thiết kế và bài trí nhà ở, văn phòng, cơ sở kinh doanh đặc biệt là bài trí nội thất, việc quan trọng nhất là hoá giải những cấm kỵ Phong Thuỷ phạm phải, tăng cường những nhân tố tốt theo đúng Phong Thuỷ để cải biến Trạch Vận nhà ở, đem lại điều may mắn. Người xem phải biết vận dụng lý thuyết sao cho phù hợp với thực tiễn của từng địa phương, từng gia đình,phù hợp với lối sống cũng như điều kiện kinh tế. Trong điều kiện đô thị hiện đại, nhà nhà san sát nhau và được xây dựng bê tông kiên cố, việc sửa chữa là vô cùng tốn kém và khó khăn. Chính vì vậy, xây dựng lại một phần hoặc toàn bộ căn nhà là điều khó có thể thực hiện được. Nhưng thuật Phong Thủy kỳ diệu ở chỗ, chỉ cần biết cách phán đoán hợp lý và vận dụng những pháp khí rất nhỏ cũng có thể cải biến khí của toàn bộ căn nhà, hoá giải được hung khí một cách rất hiệu quả vượt ra ngoài những suy nghĩ thông thường. Một bình nước nhỏ cũng đủ để hoá giải luồng sát khí lớn. Khí là vô hình nhưng lại rất thực tế và gần gũi xung quanh ta. Bản chất của khí chính là các nguồn năng lượng, năng lượng chính là khởi nguồn của vũ trụ và vạn vật. Năng lượng biến đổi từ dạng này sang dạng khác với thiên hình vạn trạng. Khí tụ lại thì thành hình, tán ra thì lại trở về khí. Sử dụng các pháp khí như tượng, thuỷ tinh, kim loại,… có tác dụng ngăn cản, chuyển hướng, hoá giải bản chất, biến đổi trạng thái của khí, cải biến được năng lượng và do đó thay đổi được sự tác động của môi trường địa lý thiên nhiên đến con người. Thực tế, những công trình nghiên cứu khoa học cũng chỉ ra rằng, xung quanh mỗi vật thể, và cả con người cũng có những trường điện từ luôn luôn phát xạ với những tần số và cường độ khác nhau. Sự tương tác lẫn nhau giữa môi trường thiên nhiên với con người cũng chính là sự tương tác của các trường điện từ, điện sinh học trên cơ thể. Một quả cầu thuỷ tinh rất nhỏ đặt ở một vị trí sẽ có tác dụng thay đổi trường điện từ xung quanh nó. Những thí nghiệm hiện đại cũng cho thấy thuỷ tinh, thạch anh có tác dụng thay đổi dòng điện từ trường đi qua nó. Hoặc một tượng kim loại đặt tại một vị trí cũng có tác dụng dẫn điện và phát xạ ra những xung điện từ khi bị những luồng điện từ khác hướng đến, chính vì thế nó có tác dụng cải biến năng lượng, thay đổi vận khí tại vị trí ấy. Sử dụng pháp khí Phong Thuỷ là phương pháp chủ yếu để bài trí, cải biến, hoá giải hung khí và tăng cường cát khí đem lại may mắn cho ngôi nhà. Nhưng quan trọng hơn cả là việc sử dụng pháp khí phải được thực hiện đúng theo lý luận của thuật Phong Thuỷ, không được sử dụng bừa bãi, phải tham khảo ý kiến các thầy chuyên môn. Mặt khác, về mặt Âm Dương, Ngũ Hành của các pháp khí cần quán xét cẩn thận đúng theo học thuyết Âm Dương, Ngũ Hành thì pháp khí mới phát huy tác dụng tối đa. Ví dụ một tượng Quan Công bằng Đồng tức thuộc Kim có tác dụng chế hoá khác với một tượng Quan Công bằng gỗ thuộc Mộc và có cách thức sử dụng khác nhau. Các pháp khí trước khi sử dụng phải được thẩm định chất lượng và vật liệu, phải được tẩy trần, khai quang và hấp thu đầy đủ các khí âm dương, có như thế mới phát huy được tác dụng một cách mạnh mẽ và đầy đủ, nếu không chỉ là vật bình thường và tác dụng không đáng kể. Ngoài ra, sau một thời gian sử dụng, năng lượng nội tại của pháp khí sẽ bị hao tán dần và mất đi tác dụng. Sau một thời gian sử dụng cần thay thế bằng pháp khí mới, ví dụ một chuông gió treo cửa nên tiến hành thay chuông gió mới vào mỗi năm để có tác dụng hiệu quả. (Theo Phong thuỷ Việt Nam) blogphongthuy.com Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 9, 2009 Nhận biết về Quái số Đã có nhiều bài viết phong thủy đề cập đến Quái số như một cách nhận biết hướng tốt và xấu đối với bản thân mỗi người. Thế nhưng chắc hẳn chưa nhiều người biết rõ Quái số là gì và cách tính Quái số như thế nào. Quái số của năm sinh là căn cứ để bạn định hướng tốt/xấu theo la bàn phong thủy. Điều này sẽ giúp ích cho bạn trong việc bài trí và sắp xếp đồ đạc trong nhà, văn phòng theo hướng tốt tương đối và né tránh những vị trí xấu có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn. Quái số được chia làm hai nhóm là Đông tứ trạch gồm 1, 3, 4, 9 và Tây tứ trạch gồm 2, 6, 7 và 8. Mỗi quái số đều bao hàm các hướng “cát”, “hung”; trong đó, các hướng Sinh Khí và Diên Niên là các hướng “thượng cát”, hướng Thiên Y là hướng “trung cát” và hướng Phục Vị là hướng “tiểu cát”. Các hướng hung bao gồm Họa Hại, Ngũ Quỷ, Lục Sát và Tuyệt Mệnh. Có 2 cách để tính Quái số của bạn, thứ nhất là căn cứ vào bảng tra cứu năm sinh, thứ hai là làm phép tính. Bảng tra cứu theo năm sinh Khi làm phép tính, vì nam và nữ khác nhau nên khi dùng nhớ “Nam (10-). Nữ (5+)”. Bạn hãy lấy 2 số cuối trong năm sinh của mình cộng và rút gọn lại thành một số. Ví dụ người sinh năm 81, lấy 8+1=9. Nếu là nam, lấy 10-9=1. Nếu là nữ, lấy 5+9=14, rút gọn thành 5. Sau khi có được Quái số, tiếp tục tra bảng dưới đây để xác định các hướng “cát” và "hung" tương ứng với nó: Quái số 5 : Hàng trên số Nam, hàng dưới số Nữ. DiaOcOnline.vn tổng hợp Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 9, 2009 Những kiêng kỵ khi làm mái nhà Trong dân gian lưu truyền khá nhiều những quan niệm kiêng kỵ liên quan đến việc làm mái nhà, như kiêng "góc ao, đao đình", kiêng nhà bị đòn đông chĩa sang, đếm số đòn tay khi lợp mái nhà, xem ngày giờ gác đòn đông... Đao đình chĩa vào nhà gay bất lợi "Nhất góc ao, nhì đao đình" nói lên cách bố cục nhà cần tránh các góc ao cũng như góc cạnh của mái đình, đền, miếu hướng vào chính diện nhà. Khi nhà mở cửa ra hướng góc mái, đồng nghĩa với bố cục của các nhà bị xiên lệch với nhau, dễ gây ra va chạm khi di chuyển, gió lùa theo các cạnh tường, cạnh mái thổi đến nhà mình. Về cấu tạo, điểm góc mái luôn là điểm xung yếu nên mái nhà xưa thường hay có các chi tiết bằng gỗ hay đắp vữa để khóa cứng góc mái, kết hợp tính trang trí tạo thành những đầu đao mang nhiều ý nghĩa tâm linh. Mở cửa ra nhìn vào góc mái chĩa vào nhà mình thì luôn có cảm giác bất an. Nhiều gia chủ thời nay xem việc đổ tấm bê tông trên cùng là... thượng lương để kết thúc phần xây dựng khung xương cơ bản của nhà. Điều này xét về tiến trình xây dựng là đúng, nhưng xét về ý nghĩa xây dựng truyền thống thì không chuẩn xác lắm. Mặt khác, cách cấu tạo lợp mái hiện đại đều không còn sử dụng cây xà gồ trên đỉnh mà là hai cây xà gồ thép đặt gần nhau ở trên đỉnh để thuận tiện hơn cho việc lợp và liên kết ngói đỉnh mái. Ngày xưa, do cây đòn dông nằm giữa nên số đòn tay trong bộ mái nhà xưa luôn là số lẻ, dẫn đến ngày nay nhiều người vẫn còn đếm số lượng đòn tay theo kiểu "sinh lão bệnh tử" mang nhiều màu sắc mê tín. Ngôi nhà truyền thống vốn đa phần quay mặt dài về hướng nam nên phần đỉnh mái nhà kéo từ đông sang tây, mà cư dân nông nghiệp thì xem phương đông là khởi điểm cuộc sống, nơi mặt trời mọc, thuộc mộc, nên cây xà gồ đỉnh mái trong nghi lễ thượng lương thường được bọc vải đỏ hai đầu và treo tấm bùa bát quái ở giữa như một sự trân trọng với bộ phận kết cấu đặc biệt này của ngôi nhà. Hình thế trong phong thủy, nóc nhà có hình tam giác thuộc hành Hỏa mà theo ngũ hành thì hành hỏa khắc Kim (tiền tài) nên nhiều người lo ngại nếu bị chĩa Hỏa sang nhà mình thì tiền tài sẽ hao tổn. Về cấu tạo, ta thấy nóc nhà xưa có các khe hở hai đầu thông gió là nơi thoát khí tích tụ trong nhà ra ngoài, nếu nhà đối diện mở cửa ra gặp ngay "tam giác ấy" thì sẽ bất lợi. Từ đó, không riêng gì cây đòn dông mà các đòn tay lợp mái cũng bị kiêng nếu nhìn thấy chĩa sang nhà của nhau. Xét về văn hóa ứng xử, điều này đem lại sự cẩn trọng khi làm nhà lợp mái, giữ gìn cho người cũng là cầu an lành cho mình. Còn về thực tế xây dựng thì hiện nay nhiều biệt thự lợp mái ngói đã dùng thép tấm làm thành nẹp bịt kín đầu các xà gồ như là một giải pháp an toàn không đụng chạm đến xung quanh. (Theo Nhà đẹp) Phòng Tư vấn thiết kế Kiến trúc & Xây dựng Wedo Share this post Link to post Share on other sites
Posted 21 Tháng 9, 2009 Những tìm hiểu của KTS Trần Thanh Vân về đại địa mạch quốc gia. nguồn: thegioivohinh.com Chuyện 700 năm trước Trong trận đánh Nguyên Mông lần thứ 3 năm 1288, có hai người “phạm lỗi” với Triều đình nhà Trần, nhưng đều đã lập nên chiến công lớn, góp phần không nhỏ vào việc đuổi giặc Nguyên Mông. Đó là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, con nuôi của vua Trần Thánh Tông và Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, con trai thứ 3 của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Sách cũ kể rằng Trần Khánh Dư là người rất có tài, nhưng ăn nói thì quá mạnh bạo mà sinh hoạt thì hơi phóng túng, nên bị nhà Vua tước hết quan chức, bổng lộc và ông buộc phải về quê ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm sống. Nhưng cũng tại nơi đây, Trần Khánh Dư được phục chức và đã trở thành Phó tướng Vân Đồn. Ông đã chỉ huy quân ta phá tan đội thuyền tiếp tế lương thực của quân Nguyên Mông và góp công lớn vào trận chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng. Võ đã giỏi, văn cũng hay, sau này Trần Khánh Dư là người viết lời tựa cho cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Trần Hưng Đạo, ông viết như sau: Người giỏi võ cầm quân thì không cần bày trận Người giỏi bày trận thì không cần đánh Người giỏi đánh thì không thua Người khéo thua thì không chết Sách cũ cũng kể rằng Trần Quốc Tảng là một người có tài đặc biệt về quân sự, nhưng vì lúc nhỏ luôn ở bên cạnh ông nội là Trần Liễu, nên Quốc Tảng từng có biểu hiện muốn cướp ngôi vua từ trong tay dòng thứ, để giành ngôi cho cha mình là dòng trưởng, khiến Trần Hưng Đạo giận, nên đã “đẩy” con trai đi trấn thủ tận Cửa Suốt, là một nơi ở rất xa Triều đình để tránh hậu hoạ. Nhưng cũng tại nơi biên cương Tổ quốc này, Hưng Nhượng Vương đã lập nên kỳ tích trong trận thắng Bạch Đằng Giang năm 1288, khiến cho sau khi ngài qua đời năm 1313, nhân dân đồn rằng Đức Ông Trần Quốc Tảng hiện về nhắc nhở, nên đã xây Đền thờ Ngài cùng nhiều tướng lĩnh ở ngay trên đỉnh núi nhìn ra Bái Tử Long. Ngày nay ngôi Đền Cửa Ông toạ lạc trên núi cao, không khác gì một trạm gác tiền tiêu nhìn ra Vịnh Bái Tử Long, khiến cho hậu thế có nhiều người thắc mắc rằng có thật là hai vị tướng danh tiếng đó do vì có tội nên bị điều ra tận nơi biên cương ấy, hay phải chăng đây cũng là một trong những “bí truyền thư” mà Đức Thánh Trần đã lưu lại để dạy bảo cho chúng ta? Đền Cửa Ông không khác gì một trạm gác tiền tiêu nhìn ra Vịnh Bái Tử Long Khi bí mật không còn là bí mật Cách đây gần 10 năm, trên mạng thông tin quốc tế có một tấm bản đồ thật thú vị: Hình một con rồng rất đẹp mà đầu thì ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), lưng uốn theo hướng Tây Bắc Đông Nam của dãy núi cao thấp dần và đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đã kết thúc ở vùng đại dương sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu 10.800m). Đó là tấm sơ đồ sơn thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm thế giới. Thật kỳ diệu, các triền núi đó không thẳng băng mà uốn lượn như hình con rồng, tạo ra mạch núi và mạch nước tụ lại, rồi lan tỏa ở trên đồng bằng Bắc Bộ nước ta. Sơ đồ đại địa mạch Thế mới biết tại sao vùng đất này luôn luôn bị người ngoài thèm khát và dòm ngó. Và thế mới biết sự uyên bác kỳ tài của Thiền sư Vạn Hạnh và Vua Lý Thái Tổ đã quyết rời bỏ Hoa Lư, để trở về vùng đất Thăng Long và triệt phá được thiên la địa võng mà Cao Biền đã trấn yểm trên thành Đại La cũ 200 năm trước. Cho đến hôm nay, tất cả những người có chút hiểu biết về phong thủy và lý thuyết về địa mạch thì đã hiểu rằng tất cả mọi bí mật xa xưa về đường kinh mạch, về huyệt đạo linh thiêng mà chỉ có các thầy pháp cao tay mới nắm giữ được, thì nay đã bị phơi bày ra tất cả. Cái chính là “thiên hạ” thì biết cả, nhưng những người trong cuộc có ý thức được vấn đề và có những giải pháp mạnh để làm chủ các lợi thế đó hay không? Nhìn vào sơ đồ “vi địa mạch” Trở lại với địa hình núi sông trên miền Bắc nước ta, thì có 8 dãy núi vòng cung tạo thành hình rẻ quạt là dãy Đông Triều, dãy Ngân Sơn, dãy Bắc Sơn, dãy Tam Đảo, dãy Sông Gâm, dãy Hoàng Liên Sơn , dãy Sông Đà và dãy Hoà Bình, trong đó Hoàng Liên Sơn nối từ Hy Mã Lạp Sơn về có đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dương (3143m). Hướng đi của các dãy núi đều hình thành các con sông như sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu… Thế nhưng các dãy núi chỉ “chầu” nên đều đã dừng lại từ xa, còn các con sông thì đã “tụ” lại ở Việt Trì và nối thông với nhau và tỏa ra ở chính vùng Thăng Long. Kỳ diệu hơn nữa là ở ngay trên đất Thăng Long đã “mọc” lên ba ngọn núi khác: đó là cụm núi Ba Vì linh thiêng đầy huyền thoại. Đỉnh núi này nhìn theo đường chim bay thì chỉ cách Hồ Tây chừng 25km. Nhờ khoảng cách không quá xa, nên khi thuyền của vua Lý Thái Tổ đi từ sông Hồng qua sông Tô Lịch vừa rẽ vào Hồ Dâm Đàm từ làng Hồ Khẩu mùa xuân năm 1010, nhà vua có thể nhìn thấy rồng cuộn sóng bay lên, vừa nhìn thấy đỉnh Ba Vì, nên cái tên Thăng Long và tứ văn “Đắc Long bàn Hổ cứ chi thế, tiện núi sông hướng bối chi nghi” mới xuất hiện trong bản Thiên đô chiếu bất hủ. Ngày nay, từ trên bản đồ vệ tinh, ta có thể dễ dàng tìm thấy đỉnh cao 1226m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh, từ đó có một đường kinh mạch đi theo hướng chính Đông, qua khu vực Đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị tiếp giáp với Hồ Tây, ra đến tận Cảng Vân Đồn và Vịnh biển Bái Tử Long, ở đó đã có đền Cửa Ông đầy linh thiêng mà nhân dân và hải quân ta hằng tôn thờ suốt 7 thế kỷ qua. Cảng Cửa Suốt của Đức Ông Trần Quốc Tảng xưa, đã và sẽ mãi mãi là một quân cảng quan trọng nơi Bờ Đông của Tổ quốc. Cũng trên bản đồ vệ tinh, nếu nối một đường theo hướng Đông Bắc-Tây Nam mà mọi người quen gọi là Trục Thần Lộ đi từ đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị, lên đến thành Cổ Loa- Kinh đô 2300 năm trước của vua An Dương Vương và cũng là Kinh đô hơn 1000 năm trước của vua Ngô Quyền, trên trục đó ta sẽ gặp phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077 của Đại tướng Lý Thường Kiệt và Ngã ba sông Thiên Đức, nơi Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương lập đại bản doanh chỉ huy đánh quân Nguyên Mông năm 1284 và năm 1288. Kỳ lạ thay, đường chéo này đi tiếp, rồi đi tiếp nữa, sẽ đến Đồng Đăng, cửa ải phía Bắc của Tổ quốc. Trong kinh dịch, hướng Đông Bắc là hướng Ngũ quỷ, lộc có nhiều mà hoạ cũng lắm, vậy nên chăng phải có đôi mắt tinh anh của Đức Thánh Trần chấn ngữ cửa ải này ? Những người có chút tính hiếu kỳ không thể không kinh ngạc khi phát hiện ra trục kinh mạch nằm ngang ở 21 độ vĩ bắc 3’ 28’’ từ đỉnh Ba Vì và trục Thần Lộ nói trên lại gặp nhau ở chính vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia. Tại sao có cái tên đó? Tại vì nơi đó vẫn sủi bọt mỗi khi mực nước sông Hồng dâng cao, như thể hồ và sông là cái bình thông nhau. Nhiều người vẫn còn nhớ vào chiều thu nắng đẹp ngày 11/9/1955, người ta đã chứng kiến chính nơi đó đã có cột nước bất chợt phụt lên làm lật úp ba chiếc thuyền gỗ khiến 4 người bị thiệt mạng. Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Thế Hùng ở Viện Vật lý nghe mô tả lại hiện tượng đó thì đoán rằng chắc có kẻ nào đó đã chui xuống đáy hồ sờ soạng, khiến mạch nước có áp suất lớn bỗng bật lên như khi người ta mở nút chai rượu champagne? Am Mỵ Châu thờ ai? Lúc sinh thời, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng rất hay được mời đi nói chuyện ở nơi này nơi khác. Với giọng nói đầy tự tin, giàu hình ảnh và hơi ngang ngang, giáo sư Vượng có cách truyền đạt ý tưởng rất thuyết phục, khiến cho người nghe chưa tin lắm mà vẫn phải tin, đặc biệt với người không theo học ngành sử, hiểu biết sử liệu rất ít mà cũng trở thành rất “am hiểu” về lịch sử. Xin kể đôi điều câu chuyện ông giải thích về am Mỵ Châu ở thành Cổ Loa như sau. Trong một dịp ngày 8 tháng 3, chúng tôi được nghe một bài giảng của giáo sư Trần Quốc Vượng về tầm quan trọng của Cổ Loa Thành và am thờ nàng Công Chúa Mỵ Châu đối với Thủ đô của chúng ta. Giọng đầy vẻ bí mật, giáo sư Vượng hỏi: - Các cô có hiểu tại sao hơn 2000 năm qua, nhân dân ta, kể từ vua chúa đến thường dân đều thành kính thờ một người con gái cụt đầu có tên là Công chúa Mỵ Châu trong một cái am nho nhỏ ở Đền Cổ Loa hay không? - Dạ không Đó chính là ta thờ Người Mẹ Tổ Quốc của chúng ta đó. Chuyện tình duyên của Mỵ Châu Trọng Thuỷ là chuyện bịa đặt, nhưng chuyện dân tộc ta vì quá nhân hậu và thiếu cảnh giác nên trót đặt trái tim lên đầu để Triệu Đà cướp mất nước là có thật. Đạo gốc của dân tộc ta là Đạo Mẫu. Bản chất người mẹ là bản chất nhân hậu và dễ bị lừa. Xưa kia dân tộc ta đã từng bị lừa, hiện nay cũng đang bị lừa và có thể ta còn bị lừa nữa, bởi vậy nàng Công Chúa Mỵ Châu cụt đầu là hiện thân của Người mẹ Tổ quốc đã và đang đau khổ nhắc ta phải luôn cảnh giác.” - Vậy câu chuyện nỏ thần là có thật hay không? - Không! Ta có một bí mật quốc gia quý hơn nỏ thần nhiều nhưng không ai ăn cắp được. Từ 2000 năm trước bí mật đó đã không còn là bí mật nữa rồi, nhưng kẻ thù đã từng ra sức phá. Hiện nay chúng cũng đang phá bằng khẩu hiệu “bài đế phản phong” để ta tự phá ta, để ta quên đi ta đang có báu vật trong tay. - Vậy làm cách nào để khắc phục? - Thiên cơ bất khả lộ. À, có cô nào thích xem tử vi không? - Có ạ, có ạ! - Tốt, tôi sẽ lập lá số cho từng người và sẽ có lời khuyên riêng từng người. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng rất giỏi khoa tử vi, ông chỉ hỏi ngày sinh tháng đẻ rồi bấm bấm ngón tay mấy cái là phán như thánh phán. Ông cười nhạo, nói: “Tử vi liên quan đến số phận riêng của từng người thì ai cũng quan tâm, nhưng cứ giấu giấu giếm giếm như kẻ ăn vụng. Còn có cái khác quan trọng hơn Tử vi liên quan đến vận mệnh đất nước thì hễ ai quan tâm đều bị coi là nhảm nhí. Thế mới khổ!” Trần Thanh Vân Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 9, 2009 Những kiêng kỵ trong phong thủy của người Đài Loan nguồn www.archi.vn Người Đài Loan hiện nay vẫn rất chú ý đến sự kiêng kỵ khi thiết kế nơi làm việc và bố trí nội thất. Theo quan niệm phong thủy xưa cần nên tránh một số điểm sau: Kiêng kị khi bố trí văn phòng Kiêng đặt văn phòng ở cuối hành lang trung tâm vì sát khí của tòa nhà đó sẽ gây ảnh hưởng không tốt đối với người trong văn phòng. Nếu ở vào vị trí bất lợi nay, có thể hóa giải nó bằng cách dùng màn chắn lại như vậy có thể khiến cho sát khí chuyển hướng không trực tiếp truyền vào văn phòng. Bàn làm việc của giám đốc phải đặt vào vị trí phù hợp với tuổi của người đó. Kích thước của bàn cũng cần phù hợp để đem lại sự cát lợi. Một số công ty người ta còn cố định chân bàn xuống sàn nhằm để cho vận may không mất đi. Kiêng kỵ khi bố trí nội thất Người Đài Loan hiện nay khi bố trí nội thất, bày biện đồ đạc trong phòng, đặc biệt là giường ngủ, rất chú ý tới quan niệm phong thủy. Cách bài trí theo quan niệm phong thủy do xuất phát từ quan niệm muốn cho con người sống trong nhà bình an, vui vẻ, luôn gặp may mắn và hấp thu được nhiều tinh túy của đất trời. Người ta kiêng kê giường ngủ thẳng hàng với hai cửa đi vì cho kê như thế, giường sẽ là một vật cản ngăn chặn dòng không khí, khiến khí không lưu thông mà sẽ lẩn quẩn trong nhà. Kiêng đặt giường đối diện với tấm gương lớn dễ gây ảnh hưởng đến tinh thần, tạo cảm giác khó chịu. Phòng vệ sinh là nơi nước vào nhà và thoát đi nên nó tượng trưng cho sự chi tiêu, thu nhập của chủ nhà, bởi vậy phải đặt càng xa cửa chính càng tốt. Điều đó có nghĩa việc chi tiêu của chủ nhà sẽ hợp lý, có cân nhắc. Nếu phòng vệ sinh đối diện với cửa ra vào, phải treo một bức mành để không nhìn thấy cửa trực tiếp. Bếp và phòng ăn là nơi tượng trưng cho của cải vì thế không nên bố trí gần cửa ra vào vì như vậy sẽ mất hết tiền bạc và hao tổn sức khỏe. Kiêng bức tường sát phòng ngủ dùng làm chỗ thờ vì mắc tội bất kính, sẽ không được tổ tiên phù hộ. Kiêng đặt bàn thờ trên cao, dưới để rác hoặc đặt thùng rác, không những phạm tội bất kính mà còn mang họa. Kiêng xà ngang đè đầu, ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần. Nơi làm việc phải xoay mặt ra cửa chính hoặc chếch với cửa chính, kiêng quay lưng ra cửa dễ làm hiệu suất công việc sút kém, phát sinh bệnh tâm thần. Kiêng dùng làm buồng ngủ có góc nhọn, không theo quy tắc nào vì vợ chồng lấy nhau lâu sẽ không có con. Kiêng giường nằm bằng kim loại vì khó có con. Kiêng đặt gương chiếu vào giường vì không ngủ ngon. Kiêng nhà vệ sinh bẩn thỉu, hôi thối vì hôn nhân dễ biến đổi theo chiều hướng xấu. Kiêng để cạnh bàn thu tiền có rãnh nước, không lợi vì để của ra đi. Kiêng phòng ngủ đối diện với buồng tắm, dễ sinh chán chường. Kiêng kỵ hoa đặt ở bàn thờ thần tài, không có sức sống, làm ăn sẽ giảm sút. Kiêng các phòng thông cống đến tận cùng, vì dễ có nhiều sự phát sinh. Kiêng kỵ nhà tắm bẩn, không phát tài. Kiêng kỵ những thứ như đồ chơi, chuông gió quá nhiều, không có lợi cho tình cảm. Kiêng buồng vệ sinh đặt gần buồng ngủ lõm vào, sẽ bất lợi cho chủ nhà. Kiêng bày biện trong phòng ngủ nhiều thứ đẹp, dễ gây mê muội. Kiêng phòng ngủ ẩm thấp, không có không khí lưu thông, trai gái dễ bị bệnh ác tính, khó kết lương duyên. Kiêng phòng ngủ ẩm thấp, không có không khí lưu thông, trai gái dễ bị bệnh ác tính, khó kết lương duyên. Phòng ngủ của nam nữ chưa kết hôn, tránh dùng nhiều vật sắc nhọn sẽ bị ảnh hưởng xấu của góc nhọn gây ra dễ xung nhau, tình cảm xấu.Kiêng để cửa sổ quá thấp hoặc điều hòa nhiệt độ thổi thẳng vào người trong buồng ngủ sợ sinh hoạt bất lợi khó sinh đẻ. Kiêng cửa thông các buồng nối liền nhau sẽ sinh chuyện ngoại tình, lăng nhăng, khó bình yên. Kiêng làm tủ lõm vào tường ở đầu giường, ảnh hưởng đến trạng thái tinh thần. Kiêng các vật trang trí như chim ưng, cú mèo sẽ bất lợi cho phụ nữ có mang. Kiêng trang trí đổ cổ, đặc biệt mặt nạ dùng trong nghi thức tôn giáo vì rất không lành với phụ nữ mang thai, trẻ em, người ốm. Kiêng kỵ nóc nhà đặt hình bát quái. Xưa bát quái thường dùng làm phù chú, đuổi tà ma nên phải đặt chính xác phương vị. Vị trí bát quái sai sẽ bất lợi. Kiêng treo bảo kiếm lâu dài vì bảo kiếm ngày xưa phải vấy máu người do chém giết thì mới tốt, dùng để trừ tà ma. Đó là hung khí, treo lâu ngày trong nhà không lành. Kiêng treo quần áo lót không sạch trên ban công vì quần áo lót sẽ đè vận thế nhà, không vươn lên được. Kiêng đặt những thứ tạp nham lên bàn thờ Phật, sẽ mắc tội bất kín và gặp tai họa. Kiêng đặt bàn thờ đối diện với nhà vệ sinh vì mắc tội bất kính, sẽ gặp rủi ro. Kiêng thay quần áo hoặc phơi quần áo trước bàn thờ vì như vậy là bất kính, không hay. Kiêng cửa nhà bếp đối diện với nhà vệ sinh, không lành. Kiêng bàn thờ thần tài có nước dò rỉ từ mái nhà xuống, làm ăn sẽ không may, thất tài. Kiêng bốn góc nhà bị lệch hoặc thiếu góc, hình nhà kiểu chữ thập, đại hung, tuyệt đối tránh. Kiêng cửa nhà, cửa buồng nối liền nhau chĩa thẳng vào cầu than điện, không lành. Kiêng có góc cột quá nhiều trong các buồng vì dễ làm tâm thần mất ổn định, không yên tĩnh, kỵ nhất là vợ chồng mới cưới hoặc học sinh chuẩn bị thi cử. Kiêng nhà ở nhỏ mà làm hình tròn hoặc hình vòng cung vì trong nhà sẽ không yên lành. Kiêng cửa buồng tân hôn có ao bẩn hoặc cây khô, không có lợi cho tình cảm, nhất là vợ chồng mới cưới. Kiêng buồng vệ sinh đặt ở tận cùng hành lang, đại hung. Kiêng để chậu cây cảnh héo úa, xơ xác dễ làm vận chuyển khí xấu. Phòng họp hoặc chỗ ngồi của lãnh đạo không nên mở cửa sau lưng, không dựa vào đâu nên sẽ có quyết định sai hoặc do dự không có quyết định. Kiêng nhà vệ sinh sát nhà bếp vì sợ vận nhà sẽ lùi. Kiêng văn phòng làm việc sát với nhà vệ sinh vì sẽ trở ngại cho sự phát triển. Kiêng trong nhà có nhiều đèn thạch anh, dễ gây căng thẳng thần kinh. Kiêng phòng ở có các tiêu bản động vật, nhất là các động vật lớn nếu không sẽ gặp ngang trái, không lành. Cửa được coi như miệng của ngôi nhà, do đó người ta rất coi trọng việc đặt cửa, để tiếp thiên khí, đón lành, tránh dữ. Cửa đón được vượng khí của đất trời mới mang lại vượng khí cho gia chủ. Cửa phụ phải nhỏ hơn cửa chính, nếu cửa hậu lớn hơn cửa chính, khí thoát đi nhiều hơn khí vào nhà, sẽ có sự suy giảm về sức khỏe và thất thoát về tài chính. Góc nhà phải chạy theo hình bát giác để khí lưu thông tốt và các góc lỗi được xem là kém may mắn thì phải đặt gương vào chỗ đó để khí lưu chuyển dễ dàng. Cầu thang không được chạy thẳng ra hướng cửa chính vì người ta cho rằng làm như vậy sẽ làm thất thoát tiền bạc và vượng khí trong ngôi nhà. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 10, 2009 5 Nguyên Tắc Phong Thủy Lớn Để Bạn Được Thăng Chức Làm người ai cũng mong cho sự nghiệp của mình thuận buồm xuôi gió, vậy mà có những lúc tâm nguyện với sự thực vẫn trái chiều nhau. Nếu có thể xem xét để tìm xem có nguyên nhân từ Phong Thủy nơi làm việc hay không? Nay xin tổng kết thành 5 vấn đề lớn về Phong Thủy Trận của nơi làm việc cung cấp cho các bạn, mong rằng các bạn có thể dựa vào đó mà tăng gia thêm Sự Nghiệp Vận. Đương nhiên là các bạn trước hết phải hết sức nỗ lực làm việc, khi đó tất có hy vọng thăng chức tăng lương!A. Phong Thủy Để Có Quý Nhân Tương Trợ:Phong Thủy Học khẳng định sau lưng bạn có chỗ như núi để tựa, đại biểu cho bạn có quý nhân giúp đỡ, cho nên tại chỗ bạn ngồi nơi phòng làm việc nhất thiết sau lưng cần có tường để dựa. Nếu như sau lưng của bạn có cửa ra vào hoặc chỗ đặt máy in ấn, các đồng sự thường xuyên qua lại in in ấn ấn, nó sẽ tạo ra sự quấy rầy cho bạn, trong vô hình sẽ làm mất đi năng lực hỗ trợ của quý nhân. Để hóa giải trong trường hợp này bạn nên sử dụng một ghế nhồi có lưng tựa cao, hoặc thêm một cái bình phong, để tăng cường thêm hiệu lực. Nếu tình huống có thể cho phép, bạn nên dùng thêm một vài phương pháp hóa giải sau. Tại sau mặt ngoài của ghế ngồi (Tức mặt ngoài) dán một mảnh giấy vàng, ý là tượng trưng cho Sơn, có tác dụng ngăn cách. Cũng có thể dùng 8 viên đá đặt tại (Gắn lên cũng được) sau ghế, như thế cũng tức là có sơn, có chỗ để dựa. B. Vật Phẩm Phong Thủy Bố Trí Trợ Giúp Theo Tuổi:Tuổi con Giáp là một nhân tố ảnh hưởng trong yếu đến vận số sự nghiệp của bạn, 12 con Giáp có thể căn cứ chia ra theo Ngũ Hành gồm bốn tổ hợp riêng biệt, khi được sắp đặt bày đúng vị trí nơi phòng làm việc sẽ có được lợi ích, giúp chp quan vận thêm hanh thông. Các con Giáp thuộc Thủy gồm Tý, Thân, Thìn ứng với các con vật bằng kim loại hoặc màu trắng xám, trắng bạc, phát huy công hiệu “Kim sinh Thủy”. Thuộc Hỏa gồm Dần Ngọ Tuất nên dùng các con vật bằng gỗ để trợ vượng cho Hỏa, dùng các màu xanh lá cây, phối hợp thêm với các chậu cây cảnh nhỏ cũng là sự lựa chọn không sai. Còn như Hợi Mão Mùi thuộc Mộc, do “Thủy sinh Môc” nên dùng các con vật màu đen, hoặc phối thêm các loại cây thủy sinh. Còn lại Tỵ Dậu Sửu thuộc Kim mà “Thổ vượng Kim”, chop nên bày các cón vật màu vàng, cà phê, mận chất liệu bằng đất đá. C. Phong Thủy Để Xúc Tiến Nhân DuyênKhông nên hiểu đơn thuần nhân duyên là chuyện tình yêu nam nữ. Nhân Duyên là cơ hội gặp gỡ giao tiếp nói chung. Điều này trong thăng tiến quan vận cực kỳ quan trọng. Nhiều khi chỉ là cuộc gặp rất tình cờ mà cơ hội lại thênh thang mời bạn tiến bước. Có khi chỉ vì lỡ mất một cuộc hẹn mà bạn đành ôm hận suốt đời.Tại nơi làm việc, trước khi bày các vật phẩm, cần lưu ý, vốn là nam nữ có vị trí vượng không giống nhau. Người nữ thì lấy góc bên trái treo những sợi dây màu đỏ được bện kết thành các hình cát tường không đầu không cuối gọi là Vô Cực Tơ (Sợi tơ không cùng) hoặc đặt giá để tài liệu, nó sẽ tăng cường cho nhân duyên của bạn. Đồng sự cùng làm việc tự nhiên vui vẻ, công tác cũng tự nhiên xứng tâm vừa ý, mà như thế tất nhiên Sếp của bạn sẽ vô cùng hài lòng. Còn như người nam, nên tại góc phải của phòng bố trí những viên thủy tinh, hoặc lợn hoặc chó, có khả năng trợ giúp cho sự nghiệp. (Sẽ có bài viết riêng về các vật phẩm hỗ trợ nhân duyên) D. Vận Khí Phong Thủy Của Số Điện Thoại:Số cuối cùng của điện thoại có ảnh hưởng nhất định đối với Vận Khí Sự Nghiệp. Các số bất lợi như 2, 3, 5. Số 2 dễ dẫn đến tính chậm chạp trong công việc, như sinh ra bệnh tật, yếu mệt. Số 3 dễ đưa bạn vào chuyện thị phi, dễ bị công ty sa thải. Số 5 dễ đưa đến sự cố bất ngờ, bao gồm trong nhà đột nhiên có vấn đề, làm cho bạn phải nghỉ việc ở cơ quan. Vì thế nếu bạn có đuối của số điện thoại nội bộ, để bàn, cầm tay là các số này thì nên cẩn thậnđề phòng. Phương pháp hóa giải nếu như là số 3bạn dùng “Giấy Đỏ” dán nơi điện thoại bề bàn hoặc cầm tay, cứ 9 ngày đổi bỏ một lần. Còn như có số 2 và 5 tất dùng Giấy Trắng dán điện thoại, mỗi tháng thay một lần. Còn như đuôi số là các số 1, 4, 6, 8, 9 là các số tương đối tốt theo Huyền Không Tử Bạch. Số 1 – 4 là Văn Xương, 6 là thăng chức, 8 là Tài Tinh Đắc Lệnh (Từ năm 2004 – 2023), số 9 là Hỷ Khánh Tinh lại đang là sao Sinh Khí rất có tương lai. (Sẽ có bài viết thêm về số điện thoại). E. Phong Thủy Để Kiềm Chế Tính Nóng NảyMát tính hiện nay là vật không thể thiếu trong văn phòng làm việc của mỗi cá nhân. Thậm chí nó còn được luôn luôn mang theo bên mình (Laptop). Máy Tính được xếp vào Kim Tính trong Ngũ Hành, nếu như trong một phòng làm việc có quá nhiều máy tính, dễ làm cho người ta trở nên nóng nảy, suy nghĩ rối loạn, không có cách gì tập trung vào công việc được. Phương Pháp hóa giải lại rất đơn giản, các bạn nên đặt một cái chén thủy tinh trong suốt hoặc màu trắng, trong đó đổ 6/10 nước. Đó là vì lấy Thủy để tiết giảm Kim Tính, làm cho đầu óc con người trở lên trong sáng, giảm bớt nóng này, hạ nhiệt các ý nghĩ thái quá, các bạn cũng có thể dùng luôn đồ chén cốc uống nước, mỗi lần uống rót độ 6/10 là ổn. (Sẽ có bài viết riêng về Phong Thủy chó Máy Vi Tính). A Tư Tiểu Khang (Tổng Hợp). Vô Thường Phái Phong Thủy và Chương Trọng SơnThuật Huyền Không Phong Thủy Phái Vô Thường gắn liền với Tên Tuổi Chương Trọng Sơn và Họ Chương nhà ông. Ông họ Chương, tự là Trọng Sơn, hiệu là Vô Tâm Đạo Nhân, chỗ ở là “Thiên Mặc Am” , người Vô Tích Giang Tô. Trong khoảng từ đời Gia Khánh đến Đạo Quang nhà Thanh, Huyền Không có tất cả 6 phái lớn, gọi là Huyền Không Lục Đại Phái: Vô Thường Phái, Điền Nam Phái, Tô Châu Phái, Thượng Ngu Phái, Tương Sở Phái, Quảng Đông Phái.Vô Thường Phái cũng đứng ngang hàng trong các phái. Phái này nguồn gốc từ Vô Tích, phát triển khắp Thường Châu! Cho người bên ngoài thường gọi là Vô Thường Phái. Vô Thường Phái lấy sự biến đổi vô thường làm sáng chỉ của phái, Chương Công ( Trọng Sơn) chính là tông sư khai sáng môn phái! Chương Trọng Sơn là người cự phách của Huyền Không Địa Lý sau Tưởng Đại Hồng, Vũ Tiến Lý đã ca ngợi “Độc ngữ chân thuyên, thục thôi sinh khắc chế hóa chi dụng, cát hung tiêu trưởng chi lý, Thần minh kỳ đạo vu đại giang nam bắc tam thập niên – Tức là :Một câu là rõ ràng, đã nhuần nhuyễn cách dùng sinh khắc chế hóa, tốt xấu tiêu trưởng cũng rõ lý, là bậc Thần Minh suốt hai bờ nam bắc Trường Giang 30 năm”.Sách ông viết gồm “Biện Chính Trực Giải”, “Lâm Huyệt Chỉ Nam”, “Thiên Nguyên Ngũ Ca Giản Nghĩa”, “Tâm Nhãn Yếu Chỉ”, “Huyền Không Yếu Chỉ” . Trở thành người kế tiếp sau Tưởng Đại Hồng thành một lãnh tụ của Huyền Không. Trải qua đời con đời cháu các thế hệ vẫn tiếp nối. Học trò có :Đồng Hương Trần Liễu NguTrường Châu Kha Viễn PhongKim Quỹ Tiền Kinh SơnNgô Huyện Từ Gia CốcHồ Châu Trần Đào SinhKim Quỹ Đaò Khang Cát.Đến đầu đời Dân Quốc, hay có người là truyền nhân của Vô Thường Phái hành thuật bí mật trong đời, cầu được thật không dễ. Sách do Chương Trọng Sơn viết công khai không nhiều, con cháu môn sinh cũng không viết sách lưu truyền. Hầu như chỉ có vài cuốn như sau : 1. “Âm Dương Nhị Trạch Lục Nghiệm” : là viết năm Gia Khánh thứ 8 Quý Dậu ( 1813) năm 1874 Thẩm Trúc Nhưng và Hồ Bá An, dùng rất nhiều vàng đưa cho hậu nhân của Chương Trọng Sơn đề mượn đọc, rồi trong một đêm chép bằng tay mà về. Về sau họ bổ chú, cải thành “Trạch Đoán” đưa vào “Thẩm Thị Huyền Không Học”, nhưng cũng chỉ đưa 54 ví dụ về Âm Trạch, 17 ví dụ về Dương Trạch mà thôi. Đàm Dưỡng Ngô trong “Đại Huyền Không Thực Nghiệm” có đưa vào cuốn “Lâm Huyệt Chỉ Nam”, đầu có lời Tự của Trương Trọng Sơn, họ Đàm do có liên hệ với thầy Dương Cửu Như truyền thụ, toàn bộ sách có 200 hình, chỉ trích 30 hình; “Đại Huyền Không Lộ Tú” trong có “Nhị Trạch Huyền Cơ” hai di cảo, cũng là của Dương Cửu Như trao cho. Duyệt qua nội dung hai họ Thẩm và Đàm đều là dùng các tư liệu bị tiết lộ, chỉ là các cái đầu đề, mà toàn bộ đều là trích dẫn từ tư liệu của họ Chương vậy. 2. “Địa Lý Biện Chính Chân Giải” : Hoàn thành vào giữa xuân năm Đạo Quang nguyên niên Tân tỵ (1821) hoặc sớm hơn.3.”Huyền Không Bí Chỉ Phê Chú” : Hoàn Thành vào năm Đạo Quang thứ 3 Quý Mùi (1823) , sau đưa vào “Tâm Nhãn Yếu Chỉ”.4.”Tâm Nhãn Yếu Chỉ” : Theo sách Chương Trọng Sơn tự thuật lại : “Tôi vào mùa đông năm Đinh Hợi đời Đạo Quang đến chơi Ngô Môn”, có thể cuốn này hoàn thành tại Đạo Quang thứ 7 (1827) đến khoảng Đạo Quang 16 Bính Thân ( 1836). theo sự hoàn thành“Tâm Nhãn Yếu Chỉ” của tác giả thì thấy, Chương Trọng Sơn về già tập chung vào viết sách, và cuối cùng cuốn “Tâm Nhãn Yếu Chỉ” đã trở thành đại biểu cho ông. Sách gồm ba cuốn : Cuốn 1 là họ Chương tự thu thập, cuốn hai là Tôn Trúc Điền viết, cuốn ba là Thẩm Vũ Bình đọc.Sau này Trọng Sơn có chú thêm : “Thiên Nguyên Ngũ Ca Xiển Nghĩa” 5 cuốn, “Huyền Không Bí Chỉ Phê Chú” cùng “Bảo Mộ Lương Quy” một thiên.Trọng Sơn từng nói “Nhãn lấy hình tượng mà nói, gốc vậy. Tâm lấy lấy Lý mà nói, là dụng vậy.”. “Nhãn” chỉ mắt thịt thấy được cái gì thì đó hình Loan Đầu “Hình Thế”, “Tâm” là chỉ cái không thấy được, tất phải dùng tính toán trong lòng để mà thấy cái Lý Khí vô hình ( Phương vị, Tinh Quái). “Tâm Nhãn Yêu Chỉ” tức tại chỗ làm rõ Loan Đầu và Lý Khí là hai bộ phận liên quan mật thiết quan trọng. Xan Hà Đạo Nhân Diêu Đình Loan nói : “Loan Đầu là thể, Lý Khí là dụng. Toàn bộ Loan Đầu do chân tay người, ngũ quan từ đó mà thành hình; Lý Khí như có tai mắt, tất có đức tính thông sáng. Cho nên Loan Đầu Lý Khí khuyết một đều không được. Nếu mà Loan Đầu không kiêm Lý Khí, là có tai mà tai không thông, có mắt mà mắt không sáng. Khô khan vô dụng như cái cây héo úa; Nếu chỉ nói Lý Khí không cầu Loan Đầu , tất muốn thông mà không có chỗ đề thông, muốn sáng mà làm sao để sáng. Nếu chỉ là lời nói kỹ xảo, mà cuối cùng cũng không có kết quả gì , thì làm sao mà giúp đỡ đây !”( Lời tự “Âm trạch Tập Yếu” năm 1744) . Huyền Không Địa Lý nói Nhân Hình Cầu Lý, Nhân Khí Sát Hình, Nhân Tinh Đo Tượng, Lấy Tượng Biết Sao. Các Minh Sư thời xưa như Dương Quân Tùng, Ngô Cảnh Loan, Liêu Kim tinh, Hoàng Diệu Ứng, Mục Giảng Sư, Lưu Bá Ôn, Tưởng Đại Hồng ai chẳng không thông Loan Đầu với Lý Khí. Chương Trọng Sơn là người nổi bật, là đệ nhất Minh Sư vùng Giang Chiết, đương nhiên là phải thông hai Pháp : Hình và Khí.Thế Anh Tổng Hợp.Bái Gặp Truyền Nhân Phong Thủy Của Tưởng Đại Hồng Tôi có dịp đến tại thành phố Đài Nam – Đài Loan. Thật may mắn được bái thăm truyền nhân đời 83 của Phong Thủy Tưởng Phái, pháp hiệu là Pháp Hinh Cư Sĩ, nói chuyện rất vui, được biết rằng Địa Lý Biện Chính không phải là đầy đủ của lý luận của Tưởng Đại Hồng về Phong Thủy. Căn cứ theo lời ông nói bốn cột trụ lớn của Lý Khí Phong Thủy của Tưởng Công gồm : Ai Tinh ( Chia làm 24 Sơn Ai Tinh Đại Quái và 64 Quái tiểu quái Ai Tinh ), Thiên Tinh ( Vận dụng thất chính tứ dư chọn ngày, cách Cục bố Cục), Quan Thần ( Bát Quan Quan Thần và 12 Quan Quan Thần), Quái Khí ( 14 Quái Khí), thiếu một không thành. Buổi gặp đó tôi thu hoạch khá nhiều ! Sách Của Pháp Hinh Cư Sĩ Có Cuốn : "Bí Truyền Tam Nguyên Dương Trạch Đại Thành" là xuất sắc !Khám Phá Quái Lý Của Phái Bát Trạch Phong Thủy Trong thuật Kham Dư Địa Lý của Trung Quốc, đối với sự kết hợp tốt xấu của nhà ở, lý luận của phái Bát Trạch có chỗ đứng rất quan trọng, các tác phẩm kinh điển của môn phái này như “Dương Trạch Tam Yếu” , “Bát Trạch Chu Thư” , “Bát Trạch Minh Kính” ( “Bát Trạch Minh Kính” được dịch giả Thái Kim Oanh dịch ở Việt Nam với cái tên là “Bát Trạch Minh Cảnh” ) do các tác giả thời xưa viết vẫn được lưu hành rộng rãi và đều được các nhà nghiên cứu hiện nay lấy nó làm căn cứ. Phái Bát Trạch tương truyền do một vị cao tăng đời nhà Đường có Pháp Hiệu là Đường Nhất Hạnh tổng hợp sáng tạo ra. Lý luận căn bản của nó là lấy Dịch Lý Tiên Thiên Hà Đồ làm lý luận căn bản, lấy phương vị Hậu Thiên Bát Quái làm ứng dụng. Ngoài ra nó còn phảng phất một số tri thức của phái Phong Thủy Mũ Đen trong Phật Giáo Tây Tạng Mật tông.Bát Trạch phái được các thuật sĩ hành nghề trong dân gian ứng dụng rất nhiều, nó phân ra làm hai loại trạch ( Nhà hoặc Mồ mả) : Đông tứ trạch và Tây tứ trạch rồi phối theo người mà phán định tốt xấu. Càn Khôn Cấn Đoài là Tây tứ trạch, Khảm Ly Chấn Tốn là Đông tứ trạch. Tọa sơn lập hướng là Tây tứ trạch thì dùng bốn phương vị Tây làm cát để kê đặt bếp, mở cửa, dùng cho người ở, còn bốn phương vị Đông thì là hung, không thể mở cửa, làm bếp, người ở càng không nên. Đông tứ trạch cũng suy như thế. Cần nhắc lại một lần nữa nguyên tắc chủ yếu là lấy phương vị hậu thiên bát quái để đoán định, tuy nhiên thực tế là Lý Luận Bát Trạch lại xuất phát từ Tiên Thiên Bát Quái. Nó dựa trên quy luật của sự âm dương phối hợp, giao cấu, sinh thành..........Bát Trạch phái lý luận xuất phát từ Tiên Thiên Hà Đồ Bát Quái, nhưng ứng dụng vào phương vị Hậu thiên bát quái. Nó rất có Dịch lý! Có thể nói trong Phong Thủy Học thì ứng dụng ở tầng 1 là dùng Bát Trạch Pháp. Tầng thứ hai là dùng Tam Nguyên long Tam Nguyên Quái để tiến hành. Tầng thứ 3 là dùng thuyết Nguyên Vận, Linh Chính, Giao cấu cùng Long Sơn Hướng Thủy phối hợp để làm. Mỗi bước tiến qua một tầng lại ẩn chứa nhiều điều bí mật. Ở tầng thứ 2 và 3 thường là mật truyền , thế nhân biết được rất ít. Bát Trạch phái là một học phái phong thủy rất cổ lưu truyền rất rộng rãi, là tầng thứ nhất khi tác pháp. Thông thường khi truyền pháp trong Bát Trạch thường truyền kỹ thuật mà không truyền nguyên lý khiến cho người học sinh ra nghi ngờ, vu cho là ngụy pháp. Hiện nay xã hội thật giả lẫn lộn, cỏ lúa cùng mọc , cho nên tôi mạnh dạn chia sẻ bí mật nguyên lý của Bát Trạch Phái cho mọi người được rõ . Trước hết trợ duyên cho các học giả có thêm niềm tin và kiến thức tiếp tục nghiên cứu sâu thêm về Bát Trạch Phái ( Còn rất nhiều bí mật xung quanh các pháp ứng dụng của Bát Trạch ). Thứ nữa chiêu tuyết án oan nghìn năm “Ngụy Pháp” cho Tổ Sư Đường Nhất Hạnh của phái Bát Trạch.Thế Anh. Chú Thích : Ngụy Pháp là từ được “Thẩm Thị Huyền Không Học” dùng để chỉ lý luận Bát Trạch của Đường Nhất Hạnh thiền sư.Phong Thủy Văn Xương Tốt Tất Đỗ Đạt 文昌及第好風水 Người đọc sách ở Trung Hoa, phảm muốn đỗ đạt, không thể không tính mệnh cầu văn xương, đeo khôi tinh trên người, không được ăn thịt bò. Bái Văn Xương Quân, cầu Văn Xương Vị, chiếm văn xương phòng, sửa Văn Xương phương thật nhiều cách.- Dưới đây tác giả xin giới thiệu qua về Văn Xương Thần, cùng làm thế nào để Cầu Văn Xương Vị, sửa Văn Xương Vị, gia tăng thêm Văn Xương Khí, cùng các biện pháp Phong Thủy để bố trí phòng đọc sách, nghiên cứu sáng tạo theo tiêu chuẩn Văn Xương. 1. Thần Văn XươngThần Văn Xương, đương nhiên phải là Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu Tử, từ triều nhà Đường về trước, phàm là người đọc sách đều bái Khổng Phu Tử là Văn Xương Thần. Mà Hàn Dũ là đại học giả mà cũng thân đến lễ bái tại Khổng Miếu gọi là Phúc Đức Chính Thần, cho nên Hàn Dũ được người đọc sách đời sau cung kính lập “Xương Lê Từ” để thờ phụng.Đến Tống Triều, lại có Chu Hy là người tập thành Phái Lý Học ( Tống Nho), nguyên vì sự khoa cử thi thố mà đem Tứ Thư Ngũ Kinh ( Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung, Mạnh Tử; Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu) giảng giải thuyết trình. Bởi lẽ các kiến giải của Chu Hy là chính xác cho nên người đọc sách thời đó không thể không tôn ông là Văn Xương Thần tức “Chu Văn Công”. Nguyên là Hoàng Đế sợ các nhà bái “Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu tử” rồi học thức nâng cao từ đó sẽ phê bình triều đình, liền ban quy định người thường không được tự mình xây “Khổng Miếu”, cho nên dân gian chỉ được tự mình tế bái 5 vị Văn Xương Thần sau :- Khôi Tinh.- Trương Á Tử.- Tiên ông Lã Động Tân.- Quan Công.- Chu Y Nhân.2. Tế Bái Văn Xương Thần Thế Nào.Dân gian tùy thời mà đến tế bái năm vị Văn Xương hoặc Tiên Sư Khổng Tử. Người Nhật Bản vào thời nhà Đường do đọc và học tập theo “Văn Võ Điển Chương Chế Độ” của Trung Hoa cũng tế bái Khổng Tử làm Thần Văn Xương, đến tận ngày nay mỗi khi thi cử người Nhật cũng đến thắp hương tại Khổng Miếu. Đặc biệt tại các kỳ thi Đại Học, những người tham dự thường lấy các miếng gỗ hình dáng đẹp viết nguyện vọng của mình, rồi treo ở một hoặc hai bên Đại Thành Điện, sau khi thi xong thì đến để quyên góp tiền cho Miếu. Tác giả thường mỗi năm mới ( Khoảng từ mùng 1 – 5 tết ), đều đến tế bái tại Khổng Miếu. Đương nhiên đến ngày 28 tháng 9 là ngày Tết Thầy Cô (Ở Trung Quốc) có thể đem con nhỏ đến bái lạy, lại mua cho cháu một tờ giấy đỏ “Hộ Thân Hương Hỏa”, Đài Bắc cũng như Nhật Bản vào các ngày lễ Khổng Miếu đều có bán Giấy này. Mua một tờ rồi đem vào Đại thành Điện làm lễ, lại thỉnh Khổng phu Tử bảo hộ phù trì cho tương lai con cái “ Học Vấn Có Thành Tựu”, cầm tờ giấy xông trên khói hương ( Qua Lửa). Tờ giấy này có thể bỏ vào túi mang theo người hoặc kẹp vào sách học. Đối với trẻ nhỏ tờ “Khổng Tử Hương Hỏa” lúc bình thường treo tại bàn học hoặc giá sách, trên tường, đến khi thi cử, nên mang trong người vào phòng thi. Ngoài ra khi đến Khổng Miếu nhớ mua một cây bút chì mang vào tế bái ( Bút máy, bút nguyên tử, bút lông cũng được) sau này đi thi nhớ mang cây bút này theo tất trúng.3. Tìm Văn Xương Phòng.Văn Xương có Văn Xương của mỗi người, Văn Xương của Nhà, Lưu Niên Văn Xương, trong Phong Thủy thường nói về Văn Xương nhà ở và Văn Xương lưu niên. Văn Xương nhà ở tức dùng phép “Tử Bạch Cửu Tinh” đề bài bố, tìm cho được phương vị có 1 – 4. Nhất Bạch là một cát tinh nửa là Văn Xương, nửa là Thăng Quan; Mà Tứ Lục thì hoàn toàn là Văn Xương. Trong sách “Dương Trạch Tập Đại Thành” của Địa Lý Đại Sư đời nhà Thanh là Xan Hà Đạo Nhân rất đề cao cặp 1 – 4 là Văn Xương Tinh, xin đưa một đoạn như sau : “Phàm làm phòng đọc sách, nên tại phương nhất bạch tứ lục của bản trạch mà đặt. Trong khoảng không gian 1 – 4 lại nên mở cửa, lối đi tại phương 1 – 4 . Lưu niên thấy 1 – 4 bay đến phương ấy, cửa ấy, đường ấy là 1 – 4 đồng cung, hoặc là hoàn cung phục vị, tất chủ phát đẹp đẽ.” Phàm nhà ở khu vực nơi có sao Nhất Bạch hoặc Tứ Lục tốt nhất là đặt phòng đọc sách, mà Tứ Lục hoàn toàn là Văn Xương tuyệt đối không được đặt nhà vệ sinh, nếu không sẽ làm ô nhiễm Văn Xương. Như nhà là Tọa Bắc triều nam, tất Tứ Lục Văn Xương phương tại Đông Bắc , nếu như đã chót đặt nhà vệ sinh, thì nên ở bên ngoài cửa nhà vệ sinh treo một xâu hoặc một đóa hoa lụa để an phủ Văn Xương Thần, cũng là để Thần Văn xương không thấy mùi xú uế mà chạy mất. Hy vọng Thần Văn Xương lưu lại trên đóa hoa đó, từ đó có thể tùy thời mà giúp cho lớn nhỏ trong nhà học tập thi cử đỗ đạt. Nếu như căn cứ bản trạch mà phương vị Nhất Bạch đã làm nhà vệ sinh hoặc bếp thì không thể đặt bàn đọc sách học tập được, lúc đó chỉ còn căn cứ theo lưu niên Nhất Bạch Tứ Lục để tìm chỗ đọc sách mà thôi. 4. Bố Cục Cho Phòng Đọc Sách: Cần tránh không quay mặt vào tường đọc sách. Phòng học nên sáng sủa lợi lộc. Trên bàn học đặt vật cát tường. Bàn học nghế ngồi nên là gỗ thiên nhiên. Dưới gầm bàn nên đặt một tấm gỗ , thảm hoặc đệm. 5. Các Vật Cát Tường Dùng Khi Đi Thi:Cuống Rốn Trẻ nhỏ sau khi sinh mấy ngày, sẽ rụng cuống rốn, nếu như giữ gìn được, đến lúc đi thi cử, mang trong mình vào phòng thi, tất tâm thần an định. Bởi vốn dĩ bà mẹ và đứa trẻ liên thông với nhau qua cuống rốn, cho nên làm thế có tác dụng tâm lý rất lớn, cũng có thể coi như đây là một tập tục dân gian, song có một điều kỳ lạ là mỗi khi con nhỏ gặp nguy cấp thường hay khóc gọi mẹ ! Có sự liên quan gì ở đây không !?Lá Quế Hoa Mỗi khi đi thi đem theo một cành hoa quế tất như gặp được quý nhân giúp đỡ, sở dĩ có tục này vì người xưa thường nói người đi thi đỗ là bẻ được cành quế trên cung trăng ( rất khó khăn). Nếu như sau nhà có trồng Hoa Quế tất như có được quý nhân thường đến - có Quý Khí.Lá Bưởi Lúc đi thi mang trên người mấy nhành lá bưởi, giống như được tổ tiên phù trì mà thi đỗ. Trong nhà hoặc trước mộ có trồng bưởi, đều là có ý “Giúp Đỡ Cháu Con” vậy. Thế Anh Tổng Hợp.Phép Trừu Hào Hoán Tượng Của Huyền Không Đại Quái 玄空大卦之抽爻換象 Địa Lôi Phục hào 1 nhất dương sinh ở Hạ Chí , Thiên Phong Cấu hào 1 nhất âm sinh Đông Chí . Đó là ví dụ về Trừu Hào Hoán Tượng điển hình !Như thế chúng ta xử lý Huyền Không 64 Quái thế nào thì gọi là Trừu Hào Hoán Tượng ?Trong vòng 360 độ có môn phái lấy tám phương vị mà dùng , có môn phái lấy 24 phương vị mà dùng , Huyền Không Đại Quái dùng 64 phương vị , riêng tôi thường sử dụng vào các trường hợp sau , dùng một hào trong 6 hào ngoài biên ! Đó gọi là Trừu Hào Hoán Tượng !Trong phép rút hào có nhiều phương pháp xử lý tình huống khác nhau ! Ví dụ : Lúc rút hào sơ lại xuất hiện hình tượng oa hoặc đột ! Đột là quản nhân đinh , oa là quản tiền tài , mà cùng lúc , không thể nói là đơn giản , cần xem lại xem Thiên Quái Hào và Địa Quái Hào nếu là Thập Hợp , Sinh Thành , Tương Đồng , Hợp Ngũ là Cát .Lập Hướng đường tuyến la kinh đè lên hào nào thì đó là hào dụng , là động , không dụng là tĩnh . Động tất âm biến dương , âm biến dương . 64 quái , mỗi quái đều có thời vận của nó , như quẻ Di là vận 3 , đang dùng hào sơ , nhị , tam , tứ , ngũ và thượng hào thì biến vận . Sơ hào biến quẻ Bác 6 , Nhị hào biến Quẻ Tổn 9 , Tam Hào biến Bí 8 , Tứ Hào biến Quẻ Phệ 6 ; Ngũ Hào biến quẻ Ích 9 , Thượng Hào biến quẻ Phục 8 . Như lập hướng tại giữa 2 hào , tất biến vận bất đồng , Như đang dùng là vượng địa , tính toán như thế nào đến lúc vận suy , thì cần biến hào nào để được Tam Nguyên Bất Bại Cục . Chung Nghĩa Minh Đại Sư giảng – đây là khẩu quyết nghìn năm không truyền Thế Anh Lược Dịch !blog.timnhanh.com Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 10, 2009 Lò Bếp Trong Phong Thủy Bát Trạch Phái Lò bếp tại bát trạch phái phong thủy rất được coi trọng , lò bếp là nơi nấu các thứ đồ ăn , đối với sức khỏe của các thành viên trong gia đình rất là quan trọng , có thể nói tất cả họa phúc bệnh tật đều từ đó mà ra . Bát Trạch đối với sự bố trí lò bếp có khác với các pahis Phong thủy khác có chút khác biệt , không chỉ luận chỗ đặt bếp mà còn luận Táo Hướng ( Chỉ hướng miệng bếp ) . Thời hiện nay các gia đình đại đa số sử dụng bếp khí , Táo Hướng ( Miệng bếp ) là nơi núm vặn . Táo Tòa ( Nơi đặt bếp ) chỉ luận vị trí bất luận phương hướng , Táo Khẩu ( Hướng Bếp ) tất chỉ luận hướng mà không luận vị trí . Lò Bếp bản thân không tốt không xấu . Thời xưa do bếp đun bằng các nguyên liệu thô sơ nên khói bụi rất nhiều nên thường được đặt vào các vị trí xấu của bản mệnh . Táo Khẩu là nơi không khí tiến vào , kết hợp với nguyên liệu đun để nấu thức ăn , cho nên miệng bếp nên quay về nơi tốt của bản mệnh . Bát Trạch phái bài trí bếp theo nguyên tắc “ Tọa Hung Hướng Cát !” . Nói một cách ngắn gọn : Đông Tứ Mệnh nên đặt bếp Tây Tứ Quái , Miệng bếp tất quay về Đông tứ Quái ! Đó là chân lý an bếp của Bát Trạch Phái !Có thế tham khảo vị trí đặt bếp dưới đây :Bếp đặt :Tuyệt Mệnh khỏe mạnh sống lâu , nhân tài lưỡng vượng .Ngũ Quỷ hoạch phát tư tài , không tai họa trộm cướp .Lục sát phát đinh phát tài , không bệnh không kiện cáo .Họa hại vô tai vô bệnh , không thoái tài tổn nhân .Sinh khí đinh tài không vượng , tài sản tổn hao .Diên niên hôn nhân khó thành , vợ chồng bất hòa .Thiên y bệnh suốt nằm giường , trong người rất nhiều bệnh .Phục vị không tiền không thọ , cả đời nghèo khổ .Đến hướng bếp , tất nên theo hướng tốt của mệnh , hướng sinh khí sinh tài phát đinh , hướng thiên y chủ không bệnh tật trừ tai , hướng diên niên tất chủ tiến tài khỏe mạnh . Hướng Phục vị chủ mọi sự thuận lợi !Thế Anh lược dịch từ www.taiwanme.com Dương Trạch Loan Đầu Tứ Đại Cục Dương Trạch tứ đại cục thái cực sinh , lưỡng nghi sinh tứ tượng , tứ tượng sinh bát quái . Tứ tượng bao gồm : Thái Âm , Thái Dương , Thiếu Âm , Thiếu Dương . “Chu Dịch” theo đó mà nói rằng : Đạo là bắt đầu sáng tạo ra trời đất vạn vật , theo đó mà giúp cho vật lợi cho dân . Đó là vì người xưa đã qua một quá trình quan sát lâu dài , dùng hình thức vẽ các quái , để diễn tả mô hình của trời đất , quá trình hình thành của vũ trụ , gồm các quy luật vận động của vũ trũ . “ Hệ Từ Thượng” nói : “ Dịch có thái cực , sinh ra hai nghi ( Âm Dương ) , hai nghi sinh bốn tượng , bốn tượng sinh tám quái .” Đó là toàn bộ quy luật của Vũ Trụ .Cục Thứ Nhất – Đãng Khí Cục Đãng khí cục : Nhà ở mà xung quanh không có hộ cục , tám mặt bị gió thổi tất cả tán đãng , nhân vì Âm Phong rất nhiều không hàm chứa được sinh khí bao nhiêu nên còn gọi là Thái Âm Cục .“Dương Trạch Chỉ Nam” quyết viết : Nhất không tam bế thị hào gia , tam không nhất bế loạn như ma ; nhược thông bế lý cầu không pháp , lập địa trân châu mãn lộc xa . Tam không nhất bế , tức là chỉ một nhà ở mà ba mặt thụ phong , gọi là Nhà ở thuộc Cục thứ nhất Nhất Đãng Khí Cục .Thái Âm Hình Cục : 1. Sinh ra người lười biếng , được sao biết vậy .2. Không có trách nhiệm , sợ việc , sợ làm phiền . 3 . Không can đảm . Thái Âm ( Đãng Khí Cục ) sinh nhiều tật bệnh về phổi thận . Bách Khí Cục ( Khí dồn nén ) sinh các bệnh gan , tim . Thận phổi thuộc dương ( Kim thủy là âm ) tính chất là thu tụ . Mà Đãng Khí Cục , khí không thu mà lại đãng , nên bất lợi cho thận phổi . Gan tim thuộc dương ( Mộc Hỏa là dương ) tính chất là tán phát . Gặp Bách Khí Cục không tán , phát mà lại áp bức , cho nên bất lợi gan tim . Đãng Khí Cục chủ trong nhà xuất kẻ du đãng , không muốn về nhà Đệ Nhị Cục – Bách Khí Cục Bách Khí Cục : Nhà ở bốn bên bị áp bức , như thú nhốt trong truồng , bốn mặt không có sinh khí hoặc rất ít sinh khí đi vào trong nhà , do đó mà dưỡng khí không đủ . Bách Khí Cục mức độ áp bức quá mạnh gọi là Thái Dương Cục .Bách Khí Cục sinh ra người tính thô bạo , Bách Khí Cục như tình trạng bị nhốt trong lồng , khí không lưu thông , sinh ra uất bí , nên sinh ra tính người thô bạo . Như thế trong nhà ngày tranh đêm cãi . Dễ phát các bệnh sốt nóng : Nguyên nhân vì Bách Khí Cục không khí không lưu thông , ẩm thấp nóng bức phát tán , đến không khí trầm uất nóng bức , tất nhiên sẽ phát sốt . Bách Khí Cục việc lưu thông không khí không đều , nên khó có được dưỡng khí nên dễ sinh bệnh gan , tim , chảy máu não . Đệ Tam Cục – Thừa Khí Cục Thừa Khí Cục : Nhà ở có tường bao bọc xung quanh , mở ra một cửa nạp khí . Thừa khí cục thao thiên thời gọi là Thiếu Dương Cục . “Dương Trạch Chỉ Nam .” : Nhất không tam bế , tức là ba mặt che gió , một mặt mở thu khí . Đó là cục chứa khí ( Tốt ) .Đệ Tứ Cục – Tụ Khí Cục Tụ Khí Cục : Nhà ở mà bốn mặt được bảo vệ , lại không phạm vào áp bức ( Bị đè nén ) , có khoảng không để khí trời và khí đất dung hợp tụ vào trước nhà , từ đó đi vào nhà và người trong nhà hấp thu được . Tụ khí cục còn gọi là thiếu âm cục .“Dương Trạch Chỉ Nam .” nói : Cái lý của sự đóng là phép tìm ở chỗ không , cái đó Phong Thủy Học gọi là phương pháp Tàng Phong Tụ Khí . Tức là nhà ở bốn mặt che gió mà lấy trung gian tụ khí . Thế Anh Dịch từ www.fengshui-chines.com Ngũ Hoàng Sát Hóa Giải Bí PhápAi Cũng Biết Sao Ngũ Hoàng Là Tối Độc Hại ! Sát Khí Cực Mạnh Đến Đâu Gây Họa Đến Đó ! Lưu Niên Ngũ Hoàng Hung Tinh :Mỗi năm khi Ngũ Hoàng hung tinh bay đến phương vị nào mà động thổ , xây dựng , mở cửa nơi đó , dễ mang đến họa huyết quang , phá tài , sức khỏe phá tổn các loại đều phát sinh :1.5 : Chủ bệnh về tai , bệnh phụ nữ , thiếu máu , trúng độc , bệnh về mắt , hoặc tử cung có tật .2.5 : Bệnh lai rai không hết , ung thư dạ dày , bệnh tỳ vị , ly nạn tử vong hung tai .3.5 : Chân có tật , trúng độc , bệnh gan , bệnh lâu dài hoặc độc trùng cắn .4.5 : Bệnh ở cổ , thủng dạ dày , khói độc , ung thư vú , chơi bời phá nghiệp .5.5 : Bệnh tỳ vị , mưng mủ , dâm lọa , hình ngục , bại tài cùng tổn thương con người .6.5 : Não đọng máu , ung thư xương phần đầu có tật , ung thư phổi , kết sỏi ở các nơi .7.5 : Tranh cãi , trúng độc , bệnh phổi , ruột già có tật , tố tụng hoặc có bệnh ở cổ họng .8.5 : Bệnh dạ dày , nhọt ở mũi , đau lưng , dầu phù thũng sưng nề bệnh thần kinh , hoặc sự nghiệp đình trệ .9.5 : Ruột non ung thư , có vấn đề về mắt , 12 chỉ trường có mụn , hỏa tai , chảy máu dạ dày .( Nhất ). Ngũ Hoàng Đáo Môn : năm ấy phá tài , người trong nhà nhiều bệnh , công tác không thuận lợi , nếu động thổ , đặt cửa tất cả đều mang tai họa huyết quang đến .Hóa Giải :1. Trên mi cửa đặt sáu đồng tiền cổ Lục Đế .2. Trên cửa treo một cái phong linh .3. Hai bên cửa đặt 1 cặp Tỳ Hưu đồng .( Nhị ) Ngũ Hoàng đến Táo : Người trong nhà nhiều bệnh , con cái trong nhà học tập giảm sút .Hóa Giải :1. Dưới đáy bếp bày 4 đồng tiền bát quái .2. Dưới bếp bày hóa sát thủy .( Tam ) Ngũ Hoàng Đến phòng khách : giống như trên .Hóa Giải :1. Bày một bức họa chữ phúc bằng đồng .2. Hoặc bày bộ tam đa bằng đồng .( Tứ ) Ngũ Hoàng Đáo Thần Vị : Hiện tượng như trên .Hóa Giải :1. Đắp đồi đất ( tại bên cạnh bát hương đặt một bát tro vun thành đống dưới để 6 dồng tiền cổ )2. Treo 6 đồng Lục Đế Tiền Cổ .( Ngũ ) Ngũ Hoàng đáo cửa sổ : Hiện tượng như trên . Hóa Giải :Tại bên cạnh cửa sổ đặt 1 đôi kỳ lân đồng hoặc sư tử đồng .( Lục ) Ngũ Hoàng đến giường : Người trong nhà mệt mỏi lắm bệnh .Hóa Giải :1. Nên tránh được thì tốt , nếu không tránh được thì tại đầu giường treo 6 đồng Luc Đế .2. Bày 6 đồng tiền cổ Lục Đế hoặc 1 cây thước đồng cũng được .Tất cả các biện pháp hóa giải trên , cần phải phối hợp với mệnh trạch của chủ nhà , chọn các ngày định nhật , khai nhật , trừ nhật , linh hoạt mà sử dụng .Thế Anh Dịch .Bẩy Mươi Hai Long Thấu ĐịaDương Công ( Dương Quân Tùng ) lúc đầu chuyên sử dụng địa bàn 24 sơn âm dương Long cùng thuộc tính ngũ hành . Song qua quá trình tham khảo thực tế , Dương Công phát hiện dùng âm dương Long cách là quá thô thiển , trong tình huống thực tiễn rất dễ sai khác . Trải qua quá trình nghiên cứu , lúc đã cao tuổi Dương Công lấy 60 hoa giáp nạp âm ngũ hành biểu thị cho thuộc tính của Long , Long có âm dương ngũ hành từ 4 mặt tám phương đến , điều này phù hợp với thực tiễn . Bát quái vốn phản ánh các phương vị ngũ hành , đó là trạng thái của vũ trụ lúc hình thành . Tất cả đều do âm dương bát quái giao cấu mà biến hóa không ngừng tạo thành thế giới vật chất với các thuộc tính ngũ hành . Ngũ hành là một hệ thống liên quan chặt chẽ đến nhau , vừa khắc vừa sinh , không có hành nào đứng một mình . Bắc phương là Khảm quái thuộc thủy , nhưng tại phương Bắc nơi nơi đều có cây mọc , có kim loại , có đất , có lửa , Đông tây nam cũng vậy . Âm dương ngũ hành tại thực tế không thể có sự phân bố , tồn tại riêng biệt có chăng chỉ là sự ít nhiều , hoặc mạnh yếu hơi khác mà thôi . Kham Dư vốn là triết học Dịch ứng dụng vào thực tế , nó là thực địa khách quan không hề mang tính áp đặt . Đó là sự tương hợp chặt chẽ giữa ngành Kham Dư học với cuộc sống . 72 Long tương ứng với 360 độ chia làm 72 phần bằng nhau , mỗi Long chiếm 5 độ . Mỗi sơn đầu có 3 Long , mỗi quái có 9 Long . Tại chỗ Nhâm sơn giáp với Tý sơn khởi Giáp Tý theo chiều thuận an 1 vòng , tại vị trí 8 can và tứ duy có 3 độ không cách gọi là “Không Vong Long” . Đến chỗ Nhâm sơn tựa hợi sơn là đầy đủ 60 hoa giáp . Không vong Long là căn cứ theo sự di chuyển của Long khí trên thực địa mà xác định . La bàn 24 sơn trên ứng trời , dưới ứng đất , bao hàm hết trời đất . Tứ duy 8 can thuộc Thiên hệ , phản ánh các quy luật của Thiên hệ ; 12 địa chi là Địa hệ , phản ánh các quy luật Địa hệ . Địa có thể tàng chứa Thiên hệ , sở vì có thể tàng chứa can , tức địa chi tàng can , cho nên nói trong địa bao hàm cả thiên can ; thiên ở trong bụng địa , thiên can ngược lại không thể hàm chứa địa khí . Thiên khí mà thuộc dương , khí chất rất nhẹ nổi lên rất cao , không thể lắng xuống đất , do đó thiên khí không nhập vào đất . Long đi dưới đất , ứng dụng lý của 12 địa chi làm quy luật . Phong thủy cơ bản lấy “Thừa sinh khí” làm chính yếu , tứ duy bát can không có Long khí nên không có “Sinh Khí” vận chuyển trong lòng đất nên gọi là “Không Vong Chi Địa” . Dương Công dùng 72 Long gọi là Ai Tinh , lấy 72 Long ngũ hành gọi là “Điên dảo ngũ hành” . “Điên điên đảo , 24 hữu châu bảo” tức là 72 Long ngũ hành . Sau khi phối 72 Long với ngũ hành , trong tám quái , mỗi quái đều có đầy đủ ngũ hành , so với nguyên lai bát quái thì hoàn toàn không giống . Vì vậy Dương Công mới viết trong “Thiên Ngọc Kinh” là : “Phiên Thiên Đảo Địa Đối Bất Đồng , Bí Mật Tại Huyền Không” 72 Long Phân Bố : Khảm cung 9 Long : Nhâm sơn hạ y thứ thị Quý Hợi thủy Long , Không vong Long , Giáp Tý kim Long ; Tý sơn hạ thứ thị Bính Tý thủy Long , Mậu Tý hỏa Long , Canh tý thổ long : Quý sơn hạ y thứ thị nhâm tý mộc long , không vong long , ất sửu kim long . Kỳ trung , kim long nhị , mộc long nhất , thủy long nhị , hỏa long nhất , thổ long nhất , không vong long nhị . Cấn Cung Cửu Long : Sửu sơn hạ y thứ thị đinh sửu thủy long , kỷ sửu hỏa long , tân sửu thổ long ; Cấn sơn hạ y thứ thị quý sửu mộc long , không vong long , bính dần hỏa long ; Dần sơn hạ y thứ thị mậu dần thổ long , canh dần mộc long , nhâm dần kim long . Kỳ trung , kim long nhất , mộc long nhị , thủy long nhất , hỏa long nhị , thổ long nhị , không vong long nhất . Chấn Cung Cửu Tinh : Giáp sơn hạ y thứ thị giáp dần thuỷ long , không vong long , đinh mão hoả long ; Mão sơn hạ y thứ thị kỷ mão thổ long , tân mão mộc long , quý mão kim long ; Ất sơn hạ y thứ thị ất mão thuỷ long , không vong long , mậu thìn mộc long . Kỳ trung , kim long nhất , mộc long nhị , thuỷ long nhị , hoả long nhất , thổ long nhất , không vong long nhị . Tốn Cung Cửu Long : Thìn sơn hạ y thứ thị canh thìn kim long , nhâm thìn thuỷ long , giáp thìn hoả long ; Tốn sơn hạ y thứ thị bính thìn thổ long , không vong long , kỷ tỵ mộc long ; Tỵ sơn hạ y thứ thị tân tỵ kim long , quý tỵ thuỷ long , ất tỵ hoả long . Kỳ trung, kim long nhị , mộc long nhất , thuỷ long nhị , hoả long nhị , thổ long nhất , không vong long nhất . Ly Cung Cửu Long : Bính sơn hạ y thứ thị đinh tỵ thổ long , không vong long , canh ngọ thổ long ; Ngọ sơn hạ y thứ thị nhâm ngọ mộc long , giáp ngọ kim long , bính ngọ thuỷ long ; Đinh sơn hạ y thứ thị mậu ngọ hoả long , không vong long , tân Mùi thổ long , Kỳ trung , hữu kim long nhất , mộc long nhất , thuỷ long nhất , hoả long nhất , thổ long tam , không vong long nhị . Khôn Cung Cửu Long: Khôn sơn hạ y thứ thị kỷ mùi hoả long , không vong long , nhâm thân kim long , Thân sơn hạ y thứ thị giáp thân thuỷ long , bính thân hoả long , mậu thân thổ long . Hữu kim long nhị , mộc long nhất , thuỷ long nhị , hoả long nhị , thổ long nhất , không vong long nhất . Đoài Cung Cửu Long : Canh sơn hạ y thứ thị canh thân mộc long , không vong long , quý dậu kim long ; Dậu sơn hạ y thứ thị ất dậu thuỷ long , đinh dậu hoả long , kỷ dậu thổ long ; Tân sơn hạ y thứ thị tân dậu mộc long , không vong long , giáp tuất hoả long . Hữu kim long nhất , mộc long nhị , thuỷ long nhất , hoả long nhị , thổ long nhất , không vong long nhị . Càn Cung Cửu Long : Tuất sơn hạ y thứ thị bính tuất thổ long , mậu tuất mộc long , canh tuất kim long ; Càn sơn hạ y thứ thị nhâm tuất thuỷ long , không vong long , ất hợi hoả long ; Hợi sơn hạ y thứ thị đinh hợi thổ long , kỷ hợi mộc long , tân hợi kim long . Hữu kim long nhị , mộc long nhất , thuỷ long nhất , hoả long nhất , thổ long nhị , không vong long nhị . Thế Anh Dịch từ tài liệu "Trung Hoa Phong Thủy". Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 10, 2009 Làm Thế Nào Để Tìm Kiếm Tài Vị Và Thôi Tài Tài Vi Chủ Trạch Và Cá Nhân Tài Vị Tiền là nguồn gốc để nuôi sống con người , con người ham muốn có tiền và tìm kiếm tiền đó là Thiên Kinh Địa Nghĩa ; Tác giả trong cuốn “Mệnh lý ứng dụng tinh giải” đã viết “ Mỗi người có một thời gian phát tài một thời gian phá tài , nên tại phương vị lợi mà cầu tài , tại phương vị bất lợi cầu tài , một đời có nhiều chỗ ủng hộ nhiều hoặc ít về tiền tài , trong tứ trụ của mỗi người tàng chữa các thông tin , nếu chúng ta nắm rõ các thông tin này trong tay thì theo đó mưu sự cầu tài , quyết không sai lầm tạo ra thất bại , ít ra cũng đảm bảo 50% thắng lợi . Tuy nhiên thực tế kiểm nghiệm cho thấy việc dựa vào mệnh lý để tăng tài vận thực chất rất thụ động , chỉ duy có tại phương vị lợi lạc làm các biện pháp thôi tài là có tính chủ động hơn , đây tức là vận dụng Phong Thủy Dương Trạch để cải biến tài vận đưa đến . Nếu được thêm tài tinh của cá nhân đương vượng thì năng lực tăng càng mạnh , tất nhiên phát tài , tiền tài có lúc hơn lúc kém , nếu vào thời gian phá tài , nhưng chúng ta vận dụng tốt các biện pháp thôi tài thì tất nhiên vẫn có những thu nhập nhất định . Nói tóm lại xét trong một góc độ nào đó thì các biện pháp thôi tài của Khoa Phong Thủy vẫn mang tính chủ động và là một biện pháp tốt để hỗ trợ các cơ hội tài chính cho con người . Phương Pháp Xác Định Tài Vị Nơi Ở (1)Xác Định Tài Vị Theo Phái “Phái Bát Trạch” Phương pháp xác định tài vị của phái bát trạch không thể tách rời với tám quái vị . Bởi Bát là chỉ tám phương vị , Trạch là chỉ phòng ốc . Liên quan đến sự tính toán tài vị của Phong Thủy Bát Trạch có rất nhiều sách khác nhau , nhưng đại đa số lấy cửa lớn và mệnh quái để xác định , tôi cho rằng cách tính như vậy chưa thật đầy đủ để xử dụng , nhất là hiện nay cũng ta ở trong thành thị thì các căn hộ chung cư , thực tế chỉ có một cửa lớn để khí nhập vào nên khó khăn cho cách tính này . Bởi thế nó không thể đại biểu cho tọa hướng , sắc thái , nạp khí cho toàn bộ các phòng , vì thế tôi đề nghị lấy tọa sơn của nhà làm căn cứ xác định Bát Trạch . Bát Trạch và cửu cung quan hệ lấy tọa sơn khởi phục vị . Bát trạch , tức là tám quái sơn của phòng ốc , đó chính là lý luận cơ bản của “Bát Trạch Phái” . Ví như nhà ở tọa Tý hướng Ngọ , Tý tại phuong bắc thuộc quẻ Khảm , quer Khảm quản 3 sơn Nhâm Tý Quý , nên nhà ở mà tọa vào 3 sơn đó thì đều tính là thuộc quẻ Khảm gọi là Khảm Trạch . Sau khi đã tính được nhà thuộc quẻ gì rồi thì lấy mệnh quái của chủ trạch theo phép du niên biến quái được tám sao , bốn cát bốn hung như sau : Bốn Cát : Sinh Khí , Diên Niên , Thiên Y , Phục Vị . Bốn Hung : Tuyệt Mệnh , Họa Hại , Ngũ Quỷ , Lục Sát . Bát Trạch phái lấy các cung vị này bài bố vào trong nhà , rồi lấy các cung sinh khí , diên niên đặc biệt là Thiên Y làm phương Tài Vị . 2. Phương Pháp Xác Định Tài Vị Của Phi Tinh Phái : Phong Thủy Học có một câu : Sơn quản nhân đinh , thủy quản tài . Chỉ một câu này đã bộc lộ Thiên Cơ của Phong Thủy . Trong phân kỳ của Phong Thủy học muốn xác định tài vị nhất định phải xem thủy . Thủy động Sơn Tĩnh , trong nhà tất cả các vật như hồ nước , bể cá , máy phun sương , máy giặt , phong thủy luân , máy lạnh , cửa , cửa phụ cửa sổ , chỗ trống trải , chỗ lõm xuống tất cả đều là động thủy , kể cả những chỗ ánh sáng có thể xuyên qua , chỗ đáy lõm đều tính là thủy . Thủy trong Huyền Không học , tại mỗi nhà mỗi nguyên vận đều có sự biến hóa không giống nhau , thủy cũng cũng không cố định vị trí nữa . Muốn xác định tài vị trước hết cần lập tinh bàn của nhà đó rồi căn cứ vào đó mà xác định . Quan trọng nhất là hướng tinh , rồi đến sơn tinh , sau cũng đến vận tinh . Tuy nhiên quan trọng nhất phải theo sự phối hợp giữa Hướng tinh và Sơn Tinh mà luận . Sự phối hợp này chủ yếu căn cứ vào Ngũ Hành . Rồi tiếp đến xem xét đến vượng suy . Ví Dụ : 68 , 78, 62 , 72 nếu có một sao đương vượng thì đoán là : Giàu có gần bằng Đào Chu kiên kim gặp thổ . Thêm một số tổ hợp như sau : 1. 28 có nghĩa là : Cự Nhân Cấn Khôn , Điền Liên Thiên Mạch 2. 216 , 217 có nghĩa : Thổ Chế Thủy Phức Sinh Kim Định Sinh Điền Sản Chi Phú 3. 829 có nghĩa : Thiên Thị Hợp Bính Khôn , Phú Kham Địch Quốc . 4. 68 , 78 , 62 , 72 có nghĩa : Giàu có gần bằng Đào Chu ; kiên kim gặp thổ . Ngoài ra các tổ hợp : 16,17,13,14,29,31,39,41,43,49,66,67,76,86,87,99 nếu là đương vượng thì không vượng nhân đinh cũng thúc đẩy phú quý . 3. Kết Hợp Phi Tinh Huyền Không Và Bát Trạch Để Xác Định Tài Vị . Khi kết hợp hai phái này chủ yếu là lấy sự đồng bộ về tin tức . Khi cả hai bên đều cho kết quả tốt thì tất nhiên hiệu quả sẽ mạnh , nếu có sự sai khác tất nhiên hiệu quả sẽ suy giảm . Thông thường kết quả nhiều năm cho thấy nếu có sự sai biệt thì nên lấy phi tinh làm trọng thì hiệu quả sẽ tốt hơn . Bàn Thờ Sắp Đặt Và Thờ Phụng Trong dòng chảy văn hóa truyền thống , đa dạng mênh mông , đặc biệt từ sau khi mở cửa đổi mới , sự cởi mở trong chính sách tự do tín ngưỡng đã khiến các hoạt động thờ cúng rất phát triển , thờ cúng Gia Tiên , Thần Thánh , Phật . Vì thế trong các hoạt động Cúng , Khấn , lễ An Vị Thần tượng rất được coi trọng , bố trí Thần Vị sai dễ dẫn đến các vấn đề xấu , như gia trạch không yên ổn , nhiều đau bệnh , vợ chồng bất hòa , người trong nhà vận khí bại suy , thị phi cãi cõ rất nhiều , trong nhà hay sinh ra quái bệnh , trong nhà sai một ly đi một dặm . Vậy Gia Đình Hoặc Công Ty Nên Đặt , Thờ Thần Linh Gồm Các Vị Sau :Phật – A Di Đà Phật ! Như Lai Phật Tổ ! Dược Sư Phật ! Trường Thọ Phật ! Bồ Tát – Quán Thế Âm Bồ Tát ! Địa Tạng Vương Bồ Tát ! Văn Thù Bồ Tát ! Phổ Hiền Bồ Tát ! Thiên Thần – Thái Thượng Lão Quân ! Thiên Hậu Nương Nương ! Quan Đế ! Mã Tổ ! Tài Thần – Ngũ Lộ Tài Thần ! Quan Đế Tài Thần ! Hoàng ĐạiTiên Tài Thần ! Tổ Tiên nhà mình ! Địa Chủ Tài Thần – thờ ở trong nhà , thờ ngoài cửa gọi là “Môn Khẩu Thổ Địa .” một trong một ngoài , gọi là Thần giữ cho gia trạch bình an . Làm Thế Nào An Thần Vị : Thờ Phụng Thần Linh trước hết nên lưu ý các vấn đề sau : 1. Thờ Thần Linh tốt nhất nên đặt trên tủ thờ hoặc có bàn chắc chắn . Bàn thờ nên đón ánh sáng , không nên tựa vào cửa sổ , hoặc chỗ ánh sáng chiếu đến . 2. Bàn thờ không nên đặt ở chỗ chật hẹp , hoặc đối diện quá gần tường . Chỗ dựa sau lưng nhất định cần ổn định , không nên thường xuyên động mạnh hoặc có gì đó khua khoắng , tốt nhất là dựa tường . 3. Ban thờ không nên hướng ra cửa phòng , không nên đối diện nhà vệ sinh , bếp ; không nên lưng tựa giường ngủ , bếp nhà vệ sinh , không nên đặt trong phòng ngủ . Nguyên nhân vì các nơi đó thường phát tán các khí không trong sạch , như thế là bất kính đối với Thần Phật . 4. Lưng cũng không nên tựa phòng bếp , hoặc đặt trong phòng bếp . Bởi các vị Bồ Tát thường ăn chay nên như thế sẽ làm ô uế đến các vị đó . Riêng Táo Quân thì nên đặt tại nơi bếp nấu . 5. Bàn thờ đại kỵ vô căn tức là treo cách ly khỏi mặt đất . Không thể đặt trên cửa lớn . Bởi cửa lớn là noi qua lại nếu đặt ban thờ chỗ đó khí tất động liên tục khiến Thần Linh không yên vị được ! 6. Trang trí bàn thờ nên nghiêm trang giản dị , sạch sẽ , không nên cẩu thả đặt các vật linh tinh nên ! 7. Bàn thờ nên thường xuyên giữ cho sạch sẽ , nên dọn mỗi ngày , nên cúng trà , hoa tươi , quả . Vì thắp hương mỗi ngày nên dễ phát sinh ô uế , sẽ sinh tạp khí , nên phải dọn dẹp thường xuyên . 8. Vấn đề cao thấp , rộng hẹp của bàn thờ thì phải nghiên cứu sâu , tuy nhiên ban thờ nên cao hơn đầu người sao cho , mát mình không nhìn thằng được vào mắt Thần Tượng . 9. Sắc Thái Thần Tượng nên là hồng hào tươi tắn , biểu hiện cho hỷ khánh cát tường , kỵ nhất là màu đen . 10. Nếu đồng thời thờ tổ tiên thì bàn thờ nên chia làm 3 cấp , trên cao nhất thờ Thần , tiếp là tổ tiên , dưới thờ địa chủ . Kỵ nhất Tổ Tiên và Thần Linh bằng nhau ! 11. Quan Đế , Thổ Địa Tài Thần nên quay mặt ra cửa lớn , đó là truyền thống từ xưa . Bồ Tát thờ tại nhà ở hoặc chỗ buôn bán quay ra cửa lớn thì tác dụng lại không lớn lắm . 12. Thờ Quán Thế ÂM Bồ Tát thì có tam bất hướng : Không hướng về nhà vệ sinh , Không hướng cửa phòng , Không hướng bàn ăn . Không nên thờ Quán Âm Bồ Tát và Quan Đế cúng một chỗ . Quán Âm Bồ Tát là luôn từ bi , nên giới sát sinh , Quan Đế là nghét ác như cừu địch nên , gặp là muốn lập công huân ! Quán Âm Bồ Tát không ăn ngũ huân ( Gia vị nặng mùi ) , cúng chỉ nên dúng hương hoa tịnh quả hoặc trà xanh . Không dúng đồ thịt cá đề cúng , nếu không sẽ khinh nhờn Thần Linh . 13. Bàn thờ kỵ đặt dưới xà ngang , mọi việc sẽ khó yên , hay gãy đổ . 14. Bàn thờ không nên đói diện bề cá , vì hương đốt thuộc hỏa , bể các thuộc thủy tạo thành thủy hỏa tương xung . 15. Bàn thờ không đặt tại bên cạnh máy lạnh , như thế là thủy hỏa tương xung dễ dẫn đến quỷ thai , tranh cãi , trở mặt thành thù . 16. Không nên đặt bàn thờ ở Đông Bắc ( Quỷ Môn ) ; Tây Nam ( Âm Môn ) . Bàn thờ nên đặt tại vị trí Huyền Vũ của nhà , tại trong nhà đứng quay mặt ra cửa bên trái là Thanh Long , bên phải là Bạch Hổ , đằng sau là Huyền Vũ , trước mặt là Chu Tước . Vạn Lịch Hoàng Đế “Bắc Đẩu Thất Tinh” Táng Thức Toàn Cảnh Thập Tam Lăng ( 13 Lăng Mộ Của Các Hoàng Đế Minh Triều ) Trong khu Thập Tam Lăng ( 13 Lăng Táng Các Vua Triều Nhà Minh ) đây là ngôi mộ thứ 10 , nơi đây mai táng vị vua thứ 13 của Minh Triều : Chu Dực Quân ( Niên Hiệu Vạn Lịnh ) , cùng chôn có hai vị Hoàng Hậu là Hiếu Đoan , Hiếu Tĩnh . Vào tháng 5 năm 1956 bắt đầu công việc khai quật , 1957 bắt đầu khai quật đến Huyền Cung là nơi an táng quan tài của Hoàng Đế Vạn Lịch và hai vị Hoàng Hậu . Tuy nhiên đến nay đã qua nửa thế kỷ , cách táng “ Ngửa mặt nhìn trời , tay phải nâng đỡ má” tư thế khác lạ , rất khó giải thích . Ngày 7 tháng 3 năm nay tại Nam Kinh khi kết thúc hội thảo “ Diến Đàn Di Sản Văn Hóa Thế Giới – Lăng Tẩm Minh Thanh Trung Quốc” Nữ Tiến Sĩ Vương Tú Linh của Khu Quần Thể Di Tích Thập Tam Lăng đã trình bày một luận văn , lần đầu tiên đã bóc bỏ tấm màn bí mật trong cách táng của Vạn Lịch Hoàng Đế Minh Triều , cả quyết suy đoán cách nằm nghiêng một bên , hai đùi hơi cong như đang ngủ chính là “Bắc Đẩu Thất Tinh” táng thức – Cách chôn theo hình chòm sao Bắc Đẩu . Thi Thể Vạn Lịch Hoàng Đế tư thế không giống bình thường , Vĩnh Lăng cũng có sự sai khác , gần giống Trường Lăng , chiếm diện tích 18 vạn mét vuông . Sau khi Nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Trung Quốc lập nước thì đã có kế hoạch khai quật khu lăng này ! Do đó đã dần dần mở ra bí mật của Minh Triều Vạn Lịch Hoàng Đế !Căn cứ theo các nghi chép của khoa khảo cổ , toàn bộ khu lăng các phòng , điện đều được kết cấu bằng đá . Hậu Điện ( Huyền Đường ) trên đài cao nhìn thấy 3 miệng quan quách , ở giữa to lớn nhất là quan tài của Vạn Lịch Hoàng Đế Chu Dực Quân . Hai bên chính là hai quan tài hai vị Hoàng Hậu Hiếu Đoan và Hiếu Tĩnh . Theo Vương Tú Linh giới thiệu , trong lúc khai quật , hầu hết mọi người đều chú ý đến bảo tồn thi thể của chủ mộ . Vạn Lịch Hoàng Đế được đặt trên một tấm gấm , hai bên mép gấm cuộn lại , bọc lấy thân thể . Đầu vị Hoàng Đế hướng về Tây chân đạp về Đông , nằm ngửa , cơ thịt đã hủy hoại hết , chỉ còn xương . mặt hướng lên trên , đầu hơi nghiêng về phải , tay phải hướng lên co lại , bàn tay đặt tại bên phải đầu , tay trái rủ xuống , hơi công vào trong , bàn tay đặt trên bụng . Trong bàn tay cầm một xâu chỗi niệm phật . Dùi phải hơi cong , đùi trái duỗi thẳng , hai bàn chân hướng ra ngoài . Hiếu Đoan và Hiếu Tĩnh hoàng hậu cũng có tư thế táng rất khác thường , cả hai đều nằm nghiêng về bên phải , Hiếu Đoan hoàng hậu tay trái rủ xuống , bàn tay đặt ở vùng lưng , cánh tay phải hướng lên duồi thẳng , chân gác lên nhau , bàn chân trái ở trên , chân phải ở dưới . Hiếu Tĩnh hoàng hậu cánh tay trái rủ xuống , bàn tay đặt ở vùng lưng , cánh tay phải hướng lên trên hơi co lại , bàn tay đặt dưới đầu , chân co lại . Vương Tú Linh xác nhận cách táng của Vạn Lịch Hoàng Đế đúng là nghiêng về một bên , bởi thân thể của ông lằm rất tự nhiên bằng phẳng, không dễ gì có sự biến động dẫn đến sai lạc về tư thế so với khi chôn . Vậy thì giải thích thế nào cho cách chôn táng kỳ lạ này . Chúng ta chỉ có thể kết hợp các vấn đề lịch sử với Khoa Phong Thủy Cổ Đại thì mới có được câu trả lời thích đáng . Vị trí lăng mộ , mặt bằng bố cục , cách sắp xếp Huyền Cung ( Nơi Đặt Quan tài Hoàng Đế ) đều có quan hệ với Thiên Tượng ( Hình Tượng thiêng liêng trên trời - Một khái niệm trong Khoa Học Huyền Bí cổ đại Trung Hoa ) . Hoàng Đế vốn là Thiên Tử - con của trời đương nhiên cách chôn táng cũng phải theo Thiên Tượng . Người xưa coi Sao Tử Vi là biểu tượng cho Hoàng Đế . “Thất Tinh Bắc Đẩu” vào thời cổ đại được coi là Cực Tinh , tại hướng chính bắc , vị trí trung tâm của bầu trời , trong địa phận tinh tú nó thuộc vòng ngoài khu vực Tử Vi Cung . Người xưa hay lấy thiên tượng thay đổi để dự đoán cát hung cho mọi việc , Tử Vi là tương ứng với Hoàng Đế hiện tại trong nhân gian . Vì vậy cực tinh bắc đẩu được cho là nơi Thiên Đế cư trú . Cho nên sau khi mất các vị Hoàng Đế cũng lấy Thất Tinh Bắc Đẩu làm chỗ an nghỉ cuối cùng cho mình , tức là muốn vĩnh viễn nằm trong vị trí dẫn đầu thiên hạ nhân gian . Trong Thập Tam Lăng , Lăng Táng vị Hoàng Đế khai sáng nhà Minh là Chu Nguyên Chương là Hiếu Lăng , chủ yếu cũng lấy kiến trúc chạy theo hướng Bắc ( Chính Bắc ) tạo thành bố cục Thất Tinh Bắc Đẩu . Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng , chính vì lấy tọa hướng lăng mộ của mình ở vào chính thuyến Nam Bắc mà sau này con cháu của Chu Nguyên Chương đã tạo ra một cảnh “Huynh Đệ Tương Tàn , Nồi Da Xáo Thịt” . Ngoài việc căn cứ theo Thất Tinh Bắc Đẩu thì tại lăng mộ nói chung thường đặt yêu cầu có núi bốn phía , ứng với Thiên Tượng là Tiền Chu Tước ( Chim Sẻ Màu Đỏ - Ở phía trước mặt ) , Hậu Huyền Vũ ( Con Rùa Đen - Ở phía sau lưng ) , Tả Thanh Long ( Rồng Xanh - Ở phía bên trái ) , Hữu Bạch Hổ ( Hổ Trắng - Ở bên phải ) . Đây là bốn chòm sao trên không trung theo quan niệm của khoa chiêm tinh cổ đại Trung Quốc và như vậy đương nhiên cung điện của Hoàng Đế được đặt vào vị trí trung tâm của không gian , năm quyền chủ tể tất cả vạn vật . Theo góc độ nhìn của Khoa Phong Thủy cổ đại , “Bắc Đẩu Thất Tinh” là chòm sao có hình chữ S là một hình thế có tác dụng “Tụ Khí” rất mạnh . Ngoài ra quan niệm của của người xưa còn cho rằng bố cục “Thất Tinh Bắc Đẩu” còn có thể trừ bỏ tà ma , tà khí , quan niệm này đặc biệt phát triển trong Đạo Giáo và cực thịnh hành tại triều đại nhà Minh ( Con thứ của Chu Nguyên Chương là Chu Quyền là một Đạo Sĩ ) . Hoàng Đế chọn đất xây lăng mộ , luôn chọn nơi “Tụ Khí Tàng Phong – Khí Tụ Lại , Giữ Được Gió ” , đảm bảo phải có “Sơn Hoàn Thủy Bão – Sông Núi Bao Bọc ” , bởi “Sơn Hoàn Thủy Bão Tất Hữu Khí – Sông Núi Bao Bọc Tất Có Sinh Khí ” . Lại thêm quan niệm “Khúc Tắc Hữu Tình – Quanh Co Uốn Lượn Tất Là Có Tình” yêu cầu đường đi và đường thủy phải quanh co uốn khúc thì mới tốt . Khu cực Thập Tam Lăng chính là được tuyển chọn theo các tiêu chuẩn của Khoa Phong Thủy . Chiếu theo câu “Sự Tử Như Sự Sinh” thì quan điểm của các vị Hoàng Đế cho rằng mọi thứ sau khi họ chết đi không hoàn toàn mất hết mà vẫn y như lúc họ sống , hơn nữa họ còn chủ ý đặt mộ của họ sao cho hấp thu tối đa sinh khí để con cháu của họ vạn đời tốt đẹp . Như vậy có thể kết luận rằng tư thế nằm của Hoàng Đế Vạn Lịch cùng hai vị Hoàng Hậu chính là căn cứ theo hình chòm sao Thất Tinh Bắc Đẩu nhằm mục đích Tụ Khí cho lăng mộ và hài cốt một cách tối đa , đảm bảo duy trì uy quyền , sự thịnh vượng cho con cháu muôn đời . Tuy chỉ mới khai quật một lăng mộ trong mười ba lăng mộ , nhưng Tiến Sĩ Vương Tú Linh cũng mạnh dạn đưa ra suy đoán là tất cả các vị được chôn táng trong Thập Tam Lăng đều có tư thế chôn táng như vậy .Lịch sử đã qua đi với bao biến cố "đau thương , bi thảm" dường như chỉ để chứng minh một quy luật không hề thay đổi , đó là : “Mãi Mãi Không Có Gì Là Vĩnh Viễn Trường Tồn” . Các vị Hoàng Đế nhà Minh đã thi hành rất nhiều biện pháp từ lúc sống đến lúc chết , từ Dương Luật đến Âm Quy nhằm lưu giữ một cách ích kỷ quyền lực cho gia tộc , nhưng bánh xe lịch sử vẫn vận hành theo quy luật của nó . Triều Đại nhà Minh đã kết thúc trong sự "Bi Thảm" cuả Lịch Sử . Thậm chí ngay cả khu Thập Tam Lăng sau này cũng bị Triều Đình nhà Thanh phá hoại ( Với mục đích duy trì quyền lực cho Vương Triều Thanh , ngăn cản sự trở lại của Nhà Minh ) để rồi cuối cùng thì Triều Đình Nhà Thanh cũng kết thúc trong tiến trình vô cùng của dòng thời gian . Lịch sử như một biển sóng mênh mông , lớp trước đè lớp sau , không có gì vĩnh viễn , cũng không có gì mất hết . Lật giở những trang quá khứ giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn trong thực tại . Đó là điều bổ ích !Thế Anh Phóng Dịch .Xí Sở Phong Thủy Nhà ở nhất thiết phải có chỗ tiêu thoát nước thải và nhà vệ sinh , đó là nơi tiêu thoát và tích chứa nước bẩn , trong toàn thể bố cục nhà thì vị trí đặt nhà vệ sinh và chỗ tiêu thoát nước bẩn có quan hệ rất lớn đến sức khỏe , tài vận của toàn bộ nhà , đường nước thải cần nhất là đi ở khu vực ngoại vi của nhà ở , bể phốt cũng nên tránh khỏi ngoại vi nhà từ 3m trở nên thì sẽ giảm được cái xấu . Bố trí nhà vệ sinh và đường thoát nước quan hệ rất mật thiết tới sinh hoạt hàng ngày của chúng ta , trong Tướng Trạch ( Học thuật về Phong Thủy Hình Thế ) cho rằng nó có liên quan đến sức khỏe và tài vận , nhà vệ sinh là nơi tàng chứa uế khí , là nơi mọi người bài tiết các chất thải , do đó dễ ảnh hưởng tới khả năng tư duy của chúng ta nếu ở gần quá . Nhà Cầu , Phòng Tắm , Đường thoát nước đều thoát nước bẩn bằng các đường ống , nên những người nghiên cứu thiết kế các hạng mục này rất cần chú ý đến đường đi của các đường ống này . Cps một số người muốn tiết kiệm nguyên liệu nên đã tìm cách rút ngắn các đường thoát nước bẩn này bằng cách cho đi thẳng qua trung tâm nhà ra ngoài . Đây là một điều tối kỵ trong học thuật Phong Thủy cũng như các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường hiện nay . Tuyệt đối tránh phạm phải . Nó dễ đưa lại các bệnh tật cho người trong nhà , tài vận suy sụp , thậm chí đưa đến đột tử khi ngủ do sự thẩm thấu các khí độc hại qua nền nhà tác động vào con người trong một số điều kiện đặc biệt ( Như thời tiết oi bức , người đang lúc ốm yếu ) . Hơn nữa cửa lớn là nơi cúng ta đưa khí tốt vào nhà , nếu để nước thải đổ ra đây thì vô tình cúng ta lại đưa hơi khí độc của nó ngược trở vào nhà làm ô nhiễm không khí trong toàn bộ nhà . Điều này đôi khi chúng ta không để ý ( Vì chưa chắc đã có dấu hiệu gì rõ ràng ) . Không phải đến nay người ta mới quan tâm đến khu vực vệ sinh trong kiến trúc nhà ở . Từ rất lâu rồi đã có vô số đề cập của khoa học Phong Thủy ( Tức là môn Kiến Trúc của người xưa ) đề cập đến vấn đề này . Xin dẫn chứng vài ví dụ sau : “Phong Thủy Tạp Luận” nói kỵ đặt nhà xí tại Đông Bắc ( Cung Cấn – Quỷ Môn ) Tây Nam ( Cung Khôn – Âm Môn ) đây là 2 cũng có âm khí rất nhiều nên nếu đặt nhà vệ sinh nơi này dễ dẫn đến trong nhà tích tụ quá nhiều âm khí dễ này sinh bệnh tật . “Hà Lạc Tinh Uẩn .” viết : Kỵ đặt nhà vệ sinh tại trung ương ( Nhà hoặc phòng ) vì trung cung là chủ quản khí trường 8 cung còn lại nên nếu nó ô nhiễm thì thật tồi tệ . “Bát Trạch Minh Kính” cho rằng : Nhà vệ sinh kỵ đặt ở phía Nam là cung Ly hành hỏa , biểu chưng cho Danh Tiếng , Phát triển . “ Trạch Kinh .” đồng một quan điểm với “Hà Lạc Tinh Uẩn .” cho rằng không nên đặt nhà vệ sinh nơi trung cung nhà . “Hám Long Kinh” chủ trương không quay cửa phòng vệ sinh về phía Tây cung Đoài ( Thiếu Nữ - Cúng là Bạch Hổ ) và Phía Bắc hành thủy . Dễ phạm Kim Thủy Dâm Tình , hoặc bệnh về thận . Trong thực tế nếu bể phốt chúng ta đặt cách ngoại vi nhà ở được 3m trở lên thì sự nguy hại của khu vệ sinh đã giảm đi rất nhiều rồi . Tuy nhiên do ngày nay đất chật người đông nên thường chỉ đặt cách nhà khoảng ½ m , hơn nữa có một thói quen rất dở là chúng ta hay đặt nhà vệ sinh nằm trong khu vực bếp nấu ăn . Đây là một sự nguy hại vì một cái rất cần sự vệ sinh an toàn , còn một cái lại rất ô nhiễm . Hai cái này không nên gần nhau . Theo quan điểm của Phong Thủy học nó sẽ gây hại cho phụ nữ trong gia đình và phát sinh các bệnh về tiêu hóa . Ngoài các vấn đề đặt khu vệ sinh ở đâu trong bố trí kiến trúc nhà ở thì vấn đề bên trong nội thất nhà vệ sinh cũng rất quan trọng . Vấn đề này các sách cổ về Phong Thủy không đề cập chi tiết nhưng trải qua quá trình khảo sát cụ thể , người kiến trúc về Phong Thủy có thể dễ dàng rút ra một số kiến thức khá thú vị . Hiện nay trong kiến trúc nhà ở , người ta có thói quen là nhét các khu vệ sinh vào những chỗ đầu thừa đuôi thẹo , như gầm cầu thang , góc trong bếp , đầu cửa phòng ngủ giáp với cầu thang . Khu vệ sinh thường là cái được chú ý sau cũng trong quá trình thiết kế . Đây là cái sai lầm ! Khu nhà vệ sinh cần được coi trọng như các khu vực khác , nó cũng phải được dành ra một không gian thoáng đãng nhất định , tránh các trường hợp quá nhỏ mà bố trí quá nhiều thứ : Nào bồn cầu , chậu rửa mặt , bồn tiều , máy giặt , thậm chí cả một cái bồn tắm trình ình được nhét trong một diện tích chưa đầy 4 m2 . Nếu các diện tích không cho phép mở rộng chúng ta cần chia nhỏ các chức năng này một cách hợp lý . Như tách phòng tắm ra khỏi chỗ đi vệ sinh , để nó trở thành hai hạng mục riêng biệt có diện tích hợp lý . Bởi nếu quá nhiều đồ trong diện tích nhỏ dễ tạo thành các góc khuất cản trở sự lưu thông của dòng khí dẫn đến tích tụ khí uế tạp , trần cũng nên thiết kế cân đối không quá cao tạo cảm giác bất an , cũng không quá thấp tạo sự đè nén của khí trường . Đối với sự sắp đặt bên trong nên lưu ý : Bồn tắm nên bố trí khi sử dụng mặt phải quay ra nhìn được cửa , bồn cầu thì tránh nhìn trực diện với cửa , trong nhà vệ sinh nên có các thiết bị khử mùi tiêu độc . Lắp quạt thông gió rất tốt , nhưng người ta thướng chỉ lắp một cái hút ra ngoài , thật ra nên lắp hai cái tại hai hướng khác nhau , một hút , một đẩy ra ( Đẩy ra ngoài nhà ) . Cánh cửa sử dụng cho phòng vệ sinh nên dùng loại cửa xếp mở sang một bên , vì khi dúng cánh cửa tấm lớn mỗi khi chúng ta đóng mở , vô tình chúng ta đã đẩy uế khí của phòng vệ sinh vào trong nhà , điều này đặc biệt xấu khi nhà vệ sinh nằm trong khu vực nấu ăn . Trong phòng vệ sinh ngoài việc trang trí cho đem lại cảm giác đẹp , sạch sẽ , nếu diện tích cho phép chúng ta co thể đặt thêm một số loại cây có sức sống tốt , nó đem lại sinh khí cho không gian và giúp giảm bớt khí độc . Hệ thống tiêu thoát nước nên chú ý thật tốt để giảm tối đa sự tích tụ hơi ẩm trong nhà vệ sinh , xóa bỏ điều kiện phát triển mạnh của vi khuẩn . Phong Thủy Nhà Xí 15 Điều Nên Tránh [/size]Nhà xí mà đối diện với phòng ngủ hoặc đối diện cửa phòng ngủ đối với sức khỏe rất bất lợi , trong nhà phụ nữ dễ mắc bệnh phụ khoa hoặc lông tóc . Nhà xí đối diện cửa trước dễ phá tài , nếu đối diện với bồn cầu , tất tình trạng mất tiền càng nặng . Giường nằm ngang cửa nhà xí , hôn nhân dễ sinh chuyện xấu , vợ chồng hay tranh cãi , lâu ngày ảnh hưởng đến sức khỏe của cả hai vợ chồng , nếu xung thẳng vào sẽ dẫn đến bệnh về long tóc hoặc đau đớn . Đầu giường đầu trực tiếp xung vào nhà xí chủ ly tán trong tình cảm thường không muốn về nhà . Đầu giường dựa vào tường nhà vệ sinh , người trong nhà dễ gặp các chuyện thị phi , rất nhiều tiểu nhân bên mình . Nhà xí đối diện với cửa phòng bếp ảnh hưởng đến sức khỏe phụ nữ trong nhà , nếu gần trong phòng dễ gây bệnh về bệnh đường ruột . Nhà xí đối phòng ăn , trong nhà thường không đủ người ăn . Nhà xí nên giữ cho luôn khô thoáng , nếu không dễ phát sinh âm khí . Nhà xí luôn đóng cửa sổ hoặc không có cửa sổ , uế khí tích tụ không tán , dẫn đến tụ âm khí , đưa dén gia đình bất hòa , ảnh hưởng nhà ở , nên đặt thực vật trong nhà để hóa giải . Tối kỵ nhà xí ở trung cung , dễ phá tài , trong nhà bệnh tật liên miên . Nhà xí quá gần cửa lớn dễ phá tài , trong nhà hay tranh cãi , muốn đỡ xấu nên thường đóng cửa . Trong nhà xí nên dùng các màu tươi sáng , không nên dùng các màu đen tối , bởi nhà xí vốn là nơi thiếu dương khí ,nếu dùng các màu tối thì giống như đổ dầu vào lửa , mời gọi âm linh . Cửa nhà vệ sinh không nên mở thường xuyên , sẽ làm tổn hại sức khỏe , tốt nhất nên đóng thường xuyên . Tốt nhất nên dúng cửa rút . Nếu phải đi qua phòng bếp rồi mới vào nhà vệ sinh dễ gây ra các bệnh đường ruột . Nhà xí tương xung với ban thờ , hoặc thờ Thần Phật hoặc Tổ Tiên , gia trạch bất yên , dễ bị tiểu nhân ám hại Các Điều Cần Chú ý Khi bố Trí Nhà XíNgày nay do đời sống ở đô thị rất cao nên người ta coi trọng việc xây dựn công trình phụ , tuy nhiên do chú trọng đến tính tiện lợi mà người ta thường đặt nhà vệ sinh trong phòng ngủ , gần vị trí giường ngủ , hoặc trong bếp nên dễ phạm vào các điều cấm kỵ mà không biết . Ngày xưa do nhà vệ sinh rất nặng uế khí nên các Cụ thường kiêng đặt nó ở nơi đầu gió . Bồn cầu không nhất định phải có phương hướng mà cần linh hoạt đặt cho hợp . Nhà xí chính xung với bếp , trong nhà phụ nữ bất an , nên cải tổ ngay . Nhà xí xung với bàn học bàn công tác dẫn đến ngồi đó bất an . Nhà xí xung với két đựng tiền , hao tài tốn của . Tốt nhất thì nên bố trí nó ở bên Bạch Hổ . Nếu bắt buộc phải bố trí nhà xí ở sau ban thờ thì nên tránh đặt bồn cầu trực tiếp ở phía sau . Bếp cũng vậy .Thế Anh dịch và tổng hợp từ www.fengshui-chinnesen.com Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 10, 2009 13 "Chiêu" Phong Thủy Phòng Ăn Gia Đình Một phòng ăn có Phong Thủy tốt không những có thể quy tụ tâm sức của các thành viên gia đình, mà còn có khả năng chiêu dẫn tài lộc. Tục ngữ có câu: “Gia Hòa Vạn Sự Hưng”, phòng ăn là nơi quan trọng để các thành viên trong gia đình tiếp xúc với nhau hàng ngày. Đối với văn hóa Á Đông thì cách thứ của Phòng Ăn là cực kỳ quan trọng, cả nhà mỗi ngày ít nhất đều cùng nhau ăn một bữa cơm tại phòng ăn, tình cảm sẽ chan hòa hơn nhiều. Chiêu Thứ Nhất: Cách Cục Theo góc độ Phong Thủy Học mà nói, phòng ăn của bạn nên cũng giống như các phòng khác, cách cục nên vuông vắn, ngay ngắn, không nên để các góc khuyết hoặc lồi ra. Hình chữ nhật hoặc vuông là cách cục tốt nhất, cũng nên trang hoàng một cách giản dị nhẹ nhàng. Chiêu Thứ Hai: Vị TríPhòng ăn nên lập tại phòng khách hoặc phòng bếp, hoặc ở tại trung tâm nhà. Cách cục kiểu này có thể thăng thêm sự quan hệ tốt đẹp giữa cha mẹ và con cái. Phòng ăn rất kỵ lập tại nơi mà trên tầng 2 là nhà vệ sinh, bởi như thế vận khí tốt của phòng ăn sẽ bị khắc chế. Chiêu Thứ Ba: Trang Hoàng Năng lượng mang lại cho toàn thể gia đình có thể nói phần lớn là từ các đồ ăn. Phòng ăn chính là nơi mọi người đi vào và ăn uống đồ ăn, cho nên nó căn bản có quan hệ rất lớn đến sự giàu có lớn của một gia đình. Chiêu Thứ Tư: Vị Trí Xấu Phòng ăn nên đặt tại vị trí trung tâm của nhà, nhưng lại không nên để đối diện trực tiếp với cửa trước cũng như cửa sau. Cũng có một số điểm cần lưu ý để tránh. Ví dụ như các nhà thiết kế cao tầng thì phòng ăn không nên để ở tầng trên cao; tại phòng ăn các bên tường không nên mở các cửa đối diện với nhau, bởi Khí đi vào cửa này ngay lập tức lại theo cửa kia thoát đi, sẽ không đạt tiêu chuẩn tụ Khí, bất lợi cho Khí Vận của chủ nhà. Nên tránh tận dụng các không gian gần nhà vệ sinh để làm phòng ăn của gia đình, nếu như không còn cách nào khác, thì nên cố gắng tránh xa bàn ăn. Chiêu Thứ Năm: Hòa Hợp Âm Dương Cần bố trí phòng ăn sao cho cân bằng giữa hai yếu tố âm dương, song lại phải nhấn mạnh đến yếu tố Dương của không gian. Theo tiêu chuẩn của Kinh Dịch là tỷ lệ Âm / Dương là 2/3. Để tăng gia được Khí Dương, ảnh ông bà tổ tiên đã mất, hoặc các đồ vật bằng xương, da thú là âm khí rất nặng không nên bày ở phòng ăn. Âm Khí quá nặng sẽ hại đến Vận Khí của chủ nhà. Mặt khác, cũng nên lưu ý nếu Dương quá thịnh cũng dễ dẫn đến sự bất hòa trong gia đình. Chiêu Thứ Sáu: Mũi Tên Độc Mũi nhọn sắc của nhà cùng trụ cột xà sẽ tạo ra Sát Khí, nên dùng các đồ gia cụ và chậu cảnh để hóa giải các góc nhọn này, đồng thời nên tránh ngồi dưới xà đè, như nếu không thể tránh khỏi có thể dùng hai cây sáo trúc treo bằng dây đỏ hai bên xà. Có thể dùng Đèn để chiếu sáng hóa giải Sát Khí. Tuy nhiên cũng lưu ý các bạn khi dùng các biện pháp hóa giải cần ntham khảo ý kiến các nhà chuyên môn. Để tránh phạm sai lầm khi dùng. Bởi trên thực tế có nhiều kỹ thuật đã không được phép công khai hoặc rất khó để thực hiện. Chiêu Thứ Bảy: Chế Tạo Một Bàn Ăn Thật Đẹp Hình dáng kiểu cách của bàn ăn có ý nghĩa Phong Thủy rất quan trọng. Bàn ăn tốt nhất là hình tròn hoặc hình bầu dục, như thế có thể tránh được các góc nhọn sắc của bàn. Nó cũng tượng trưng cho gia nghiệp hưng phong và đoàn kết. Như nếu sử dụng bàn ăn hình vuông, chữ nhật thì nên tránh không để người ngồi vào chỗ góc của bàn, tránh sát Khí xung xạ. Chiêu Thứ Tám: Các Con Số May Mắn Số kích thước bàn ăn rơi vào có ảnh hưởng đến vấn thế gia đình rất lớn. Về Lý các số thuộc về 6, 8, 9 đều thuộc các số may mắn. Tuy nhiên số người trong mỗi gia đình khác nhau, vì thế nên tùy theo mà phân định chỗ ngồi cho thoải mái cho các thành viên trong gia đình. Chiêu Thứ Chín: Phương Vị Cát Mỗi thành viên trong gia đình nên hướng mặt bốn hướng tốt của bản mệnh mỗi người khi ăn, nếu được cả vị trí ngồi càng tốt. Nên ưu tiên cho người có quyết định tới toàn bộ gia đình. Cha Mẹ nên ngồi tại vị trí Diên Niên, bởi đó là đại biểu cho sự êm ấm lâu dài của gia đình. Con cái còn học tập thì nên quay về phục vị hoặc Sinh Khí tì có hiệu quả Văn Xương. Những người già nên quay về Thiên Y tất sẽ bảo toàn sức khỏe. Chiêu Thứ Mười: Gương Kính Tại phòng ăn nên bố trí lắp kính ở vị trí thích hợp một tấm gương lớn soi thấy bàn ăn, nó phản chiếu thức ăn tại bàn tạo ra hiệu ứng giàu có. Tuy nhiên có một lưu ý đó là tại phòng ăn độc lập. Còn nếu tại phòng ăn liền bếp tốt nhất không nên lắp gương kính. Tránh bị tai nạn ngoài ý hoặc hỏa hoạn. Chiêu Thứ Mười Một: Vật Cát Tường Tại phòng ăn hợp nhất là bày tượng Tam Đa – Phúc Lộc Thọ - nó tượng trưng cho sức khỏe và trường thọ. Ngoài ra, các tranh về hoa quả, đồ ăn. Cũng măng lại vận Khí tốt. Quả quất đại biểu giàu sang, quả đào biểu hiện sức khỏe sống lâu, Lựu đại biểu đông con nhiều cháu. Chiêu Thứ Mười Hai: Dụng Cụ Ăn Người việt năm cùng một số nước Á Đông có thói quan dùng đũa gỗ, tre để ăn, chúng ta nên phát huy điều này, hạn chế dùng dao zĩa theo cách ăn của người phương tây, tránh bị xung xạ. Sẽ có người đặt câu hỏi tại sao người phương tây vẫn dùng dao zĩa lại vẫn giàu có. Theo quan điểm của Phong Thủy Học phương Tây thuộc hành Kim, thể chất con người ở đó cũng mang nhiều kim tính, phù hợp với các dụng cụ ăn bằng kim loại. Còn phương Đông thuộc về Mộc nên thể chất người Á Đông kỵ bị Kim khắc nên không hợp với đồ ăn bằng kim loại. Trên thực tế thức ăn của người Tây Âu gồm nhiều thịt nên dùng dai zĩa để cắt xé rất hợp, ngược lại thức ăn của người Á Đông nhiều ngũ cốc thực vật ăn đũa phù hợp hơn. Bát ăn nên dùng các hình trang trí như Rồng – thăng tiến phú quý; Biển Bức – Phúc lộc; Quả Đào – Trường thọ khỏe mạnh. Người Á Đông có thói quen sau khi ăn xong uống nước trà, để giảm trừ những vị béo, ngọt, mùi …của thức ăn còn dư. Chiêu Thứ Mười Ba: Lễ Nghi Tại Bàn Ăn Khi bước vào ngồi ăn, nên nói các câu chuyện nhẹ nhàng vừa phải, tránh nói chuyện quá vui cười nghiêng ngả, cũng tránh nói chuyện buồn, làm không khi nặng nề u ám. Càng không nên tranh cãi to tiếng gây nên bất hòa. Vào bữa ăn người ít tuổi (Không phải trẻ con) nên xới cơm gắp thức ăn cho những người già cả, mọi người ăn uống nên nhường nhịn nhau cho tốt, tránh nảy si nh đố kỵ, bực tức. Cũng nên ăn uống tự nhiên không nên khách sáo. Có thế gia đình mới hòa giai vui vẻ, văn xương tụ hợp. Tốt cho gia vận. Nguồn : Theo - Giaidapphongthuy Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 10, 2009 13 "Chiêu" Phong Thủy Phòng Ăn Gia Đình Một phòng ăn có Phong Thủy tốt không những có thể quy tụ tâm sức của các thành viên gia đình, mà còn có khả năng chiêu dẫn tài lộc. Tục ngữ có câu: “Gia Hòa Vạn Sự Hưng”, phòng ăn là nơi quan trọng để các thành viên trong gia đình tiếp xúc với nhau hàng ngày. Đối với văn hóa Á Đông thì cách thứ của Phòng Ăn là cực kỳ quan trọng, cả nhà mỗi ngày ít nhất đều cùng nhau ăn một bữa cơm tại phòng ăn, tình cảm sẽ chan hòa hơn nhiều. Chiêu Thứ Nhất: Cách Cục Theo góc độ Phong Thủy Học mà nói, phòng ăn của bạn nên cũng giống như các phòng khác, cách cục nên vuông vắn, ngay ngắn, không nên để các góc khuyết hoặc lồi ra. Hình chữ nhật hoặc vuông là cách cục tốt nhất, cũng nên trang hoàng một cách giản dị nhẹ nhàng. Chiêu Thứ Hai: Vị TríPhòng ăn nên lập tại phòng khách hoặc phòng bếp, hoặc ở tại trung tâm nhà. Cách cục kiểu này có thể thăng thêm sự quan hệ tốt đẹp giữa cha mẹ và con cái. Phòng ăn rất kỵ lập tại nơi mà trên tầng 2 là nhà vệ sinh, bởi như thế vận khí tốt của phòng ăn sẽ bị khắc chế. Chiêu Thứ Ba: Trang Hoàng Năng lượng mang lại cho toàn thể gia đình có thể nói phần lớn là từ các đồ ăn. Phòng ăn chính là nơi mọi người đi vào và ăn uống đồ ăn, cho nên nó căn bản có quan hệ rất lớn đến sự giàu có lớn của một gia đình. Chiêu Thứ Tư: Vị Trí Xấu Phòng ăn nên đặt tại vị trí trung tâm của nhà, nhưng lại không nên để đối diện trực tiếp với cửa trước cũng như cửa sau. Cũng có một số điểm cần lưu ý để tránh. Ví dụ như các nhà thiết kế cao tầng thì phòng ăn không nên để ở tầng trên cao; tại phòng ăn các bên tường không nên mở các cửa đối diện với nhau, bởi Khí đi vào cửa này ngay lập tức lại theo cửa kia thoát đi, sẽ không đạt tiêu chuẩn tụ Khí, bất lợi cho Khí Vận của chủ nhà. Nên tránh tận dụng các không gian gần nhà vệ sinh để làm phòng ăn của gia đình, nếu như không còn cách nào khác, thì nên cố gắng tránh xa bàn ăn. Chiêu Thứ Năm: Hòa Hợp Âm Dương Cần bố trí phòng ăn sao cho cân bằng giữa hai yếu tố âm dương, song lại phải nhấn mạnh đến yếu tố Dương của không gian. Theo tiêu chuẩn của Kinh Dịch là tỷ lệ Âm / Dương là 2/3. Để tăng gia được Khí Dương, ảnh ông bà tổ tiên đã mất, hoặc các đồ vật bằng xương, da thú là âm khí rất nặng không nên bày ở phòng ăn. Âm Khí quá nặng sẽ hại đến Vận Khí của chủ nhà. Mặt khác, cũng nên lưu ý nếu Dương quá thịnh cũng dễ dẫn đến sự bất hòa trong gia đình. Chiêu Thứ Sáu: Mũi Tên Độc Mũi nhọn sắc của nhà cùng trụ cột xà sẽ tạo ra Sát Khí, nên dùng các đồ gia cụ và chậu cảnh để hóa giải các góc nhọn này, đồng thời nên tránh ngồi dưới xà đè, như nếu không thể tránh khỏi có thể dùng hai cây sáo trúc treo bằng dây đỏ hai bên xà. Có thể dùng Đèn để chiếu sáng hóa giải Sát Khí. Tuy nhiên cũng lưu ý các bạn khi dùng các biện pháp hóa giải cần ntham khảo ý kiến các nhà chuyên môn. Để tránh phạm sai lầm khi dùng. Bởi trên thực tế có nhiều kỹ thuật đã không được phép công khai hoặc rất khó để thực hiện. Chiêu Thứ Bảy: Chế Tạo Một Bàn Ăn Thật Đẹp Hình dáng kiểu cách của bàn ăn có ý nghĩa Phong Thủy rất quan trọng. Bàn ăn tốt nhất là hình tròn hoặc hình bầu dục, như thế có thể tránh được các góc nhọn sắc của bàn. Nó cũng tượng trưng cho gia nghiệp hưng phong và đoàn kết. Như nếu sử dụng bàn ăn hình vuông, chữ nhật thì nên tránh không để người ngồi vào chỗ góc của bàn, tránh sát Khí xung xạ. Chiêu Thứ Tám: Các Con Số May Mắn Số kích thước bàn ăn rơi vào có ảnh hưởng đến vấn thế gia đình rất lớn. Về Lý các số thuộc về 6, 8, 9 đều thuộc các số may mắn. Tuy nhiên số người trong mỗi gia đình khác nhau, vì thế nên tùy theo mà phân định chỗ ngồi cho thoải mái cho các thành viên trong gia đình. Chiêu Thứ Chín: Phương Vị Cát Mỗi thành viên trong gia đình nên hướng mặt bốn hướng tốt của bản mệnh mỗi người khi ăn, nếu được cả vị trí ngồi càng tốt. Nên ưu tiên cho người có quyết định tới toàn bộ gia đình. Cha Mẹ nên ngồi tại vị trí Diên Niên, bởi đó là đại biểu cho sự êm ấm lâu dài của gia đình. Con cái còn học tập thì nên quay về phục vị hoặc Sinh Khí tì có hiệu quả Văn Xương. Những người già nên quay về Thiên Y tất sẽ bảo toàn sức khỏe. Chiêu Thứ Mười: Gương Kính Tại phòng ăn nên bố trí lắp kính ở vị trí thích hợp một tấm gương lớn soi thấy bàn ăn, nó phản chiếu thức ăn tại bàn tạo ra hiệu ứng giàu có. Tuy nhiên có một lưu ý đó là tại phòng ăn độc lập. Còn nếu tại phòng ăn liền bếp tốt nhất không nên lắp gương kính. Tránh bị tai nạn ngoài ý hoặc hỏa hoạn. Chiêu Thứ Mười Một: Vật Cát Tường Tại phòng ăn hợp nhất là bày tượng Tam Đa – Phúc Lộc Thọ - nó tượng trưng cho sức khỏe và trường thọ. Ngoài ra, các tranh về hoa quả, đồ ăn. Cũng măng lại vận Khí tốt. Quả quất đại biểu giàu sang, quả đào biểu hiện sức khỏe sống lâu, Lựu đại biểu đông con nhiều cháu. Chiêu Thứ Mười Hai: Dụng Cụ Ăn Người việt năm cùng một số nước Á Đông có thói quan dùng đũa gỗ, tre để ăn, chúng ta nên phát huy điều này, hạn chế dùng dao zĩa theo cách ăn của người phương tây, tránh bị xung xạ. Sẽ có người đặt câu hỏi tại sao người phương tây vẫn dùng dao zĩa lại vẫn giàu có. Theo quan điểm của Phong Thủy Học phương Tây thuộc hành Kim, thể chất con người ở đó cũng mang nhiều kim tính, phù hợp với các dụng cụ ăn bằng kim loại. Còn phương Đông thuộc về Mộc nên thể chất người Á Đông kỵ bị Kim khắc nên không hợp với đồ ăn bằng kim loại. Trên thực tế thức ăn của người Tây Âu gồm nhiều thịt nên dùng dai zĩa để cắt xé rất hợp, ngược lại thức ăn của người Á Đông nhiều ngũ cốc thực vật ăn đũa phù hợp hơn. Bát ăn nên dùng các hình trang trí như Rồng – thăng tiến phú quý; Biển Bức – Phúc lộc; Quả Đào – Trường thọ khỏe mạnh. Người Á Đông có thói quen sau khi ăn xong uống nước trà, để giảm trừ những vị béo, ngọt, mùi …của thức ăn còn dư. Chiêu Thứ Mười Ba: Lễ Nghi Tại Bàn Ăn Khi bước vào ngồi ăn, nên nói các câu chuyện nhẹ nhàng vừa phải, tránh nói chuyện quá vui cười nghiêng ngả, cũng tránh nói chuyện buồn, làm không khi nặng nề u ám. Càng không nên tranh cãi to tiếng gây nên bất hòa. Vào bữa ăn người ít tuổi (Không phải trẻ con) nên xới cơm gắp thức ăn cho những người già cả, mọi người ăn uống nên nhường nhịn nhau cho tốt, tránh nảy si nh đố kỵ, bực tức. Cũng nên ăn uống tự nhiên không nên khách sáo. Có thế gia đình mới hòa giai vui vẻ, văn xương tụ hợp. Tốt cho gia vận. Nguồn : Theo - Giaidapphongthuy hi Cám ơn Thiên Đồng đã đưa bài. Để mọi người đỡ nhầm tưởng ........... tượng, trước tiên nên chọn bài có chất lượng, thứ hai ghi thêm câu :" Đọc hướng dẫn sử dụng trước khi dùng". Như bài phòng ăn này, chẳng có gì để đọc cả, lại dễ gây lầm tưởng cho mọi người thì rẩt nguy. Chúc Thiên Đồng càng có nhiều bài hay cho mọi người đọc Thân mến Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 10, 2009 Đã nói là "Góp nhặt" mà anh Gạo, phải có cát sỏi đá, có nếp có tẻ mới thấy cái nào hay cái nào dở chứ. Học cái dở của người để thấy cái hay của mình. Học cái hay của người để thấy cái dở mình. Nhặt xong, mình bỏ vô sàn, mình sàn lại. Thôi, Đồng đi nhặt nữa à! :P Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 10, 2009 Nhận biết về Quái số Đã có nhiều bài viết phong thủy đề cập đến Quái số như một cách nhận biết hướng tốt và xấu đối với bản thân mỗi người. Thế nhưng chắc hẳn chưa nhiều người biết rõ Quái số là gì và cách tính Quái số như thế nào. Quái số của năm sinh là căn cứ để bạn định hướng tốt/xấu theo la bàn phong thủy. Điều này sẽ giúp ích cho bạn trong việc bài trí và sắp xếp đồ đạc trong nhà, văn phòng theo hướng tốt tương đối và né tránh những vị trí xấu có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn. Quái số được chia làm hai nhóm là Đông tứ trạch gồm 1, 3, 4, 9 và Tây tứ trạch gồm 2, 6, 7 và 8. Mỗi quái số đều bao hàm các hướng “cát”, “hung”; trong đó, các hướng Sinh Khí và Diên Niên là các hướng “thượng cát”, hướng Thiên Y là hướng “trung cát” và hướng Phục Vị là hướng “tiểu cát”. Các hướng hung bao gồm Họa Hại, Ngũ Quỷ, Lục Sát và Tuyệt Mệnh. Có 2 cách để tính Quái số của bạn, thứ nhất là căn cứ vào bảng tra cứu năm sinh, thứ hai là làm phép tính. Bảng tra cứu theo năm sinh Khi làm phép tính, vì nam và nữ khác nhau nên khi dùng nhớ “Nam (10-). Nữ (5+)”. Bạn hãy lấy 2 số cuối trong năm sinh của mình cộng và rút gọn lại thành một số. Ví dụ người sinh năm 81, lấy 8+1=9. Nếu là nam, lấy 10-9=1. Nếu là nữ, lấy 5+9=14, rút gọn thành 5. Sau khi có được Quái số, tiếp tục tra bảng dưới đây để xác định các hướng “cát” và "hung" tương ứng với nó: Quái số 5 : Hàng trên số Nam, hàng dưới số Nữ. DiaOcOnline.vn tổng hợp Chào anh Thiên Đồng!Nếu tra hướng theo quái số như cách trên thì trái với Phong thủy Lạc việt phải không ạ. VD: Nam sinh năm 1973 có quái số là 9 hợp với Đông tứ, còn Lạc Việt thì ngược lại phải không ạ? Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 10, 2009 Chào anh Thiên Đồng! Nếu tra hướng theo quái số như cách trên thì trái với Phong thủy Lạc việt phải không ạ. VD: Nam sinh năm 1973 có quái số là 9 hợp với Đông tứ, còn Lạc Việt thì ngược lại phải không ạ? Theo PTLV, quái số 9 ứng với Đoài, thuộc Tây Tứ! :P Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 10, 2009 Yeucon mến, Thực tế đã chứng minh một cách rỏ ràng và hiển nhiên cho việc chuyển đổi cung phi: Tuổi ai được tính theo sách Tàu là cung Đoài thì nay được chuyển thành cung Ly theo sách Việt. Tuổi ai được tính theo sách Tàu là cung Ly thì được chuyển thành cung Đoài theo sách Việt. Vấn đề này được chứng minh trong sách " Hà Đồ trong Văn minh Lạc Việt" của Thày Thiên Sứ, Nguyễn Vũ Tuấn Anh và thực tế chứng minh. Phần còn lại là tin theo hay không mà thôi. Thiên Đồng Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 10, 2009 thần tài phong thủy Người Hoa thờ thần Tài Một nhân vật lịch sử là Phạm Lãi cũng được coi là Tài thần. Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù vua Ngô Phù Sai. Người Hoa thờ thần Tài Một nhân vật lịch sử là Phạm Lãi cũng được coi là Tài thần. Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù vua Ngô Phù Sai. 1. Người Hoa là cộng đồng được coi là sở trường về doanh thương nên tập tục thờ thần Tài đã trở nên quan yếu và phổ biến có phần lâu đời trong lịch sử tín ngưỡng. Ngược lại, người Việt là cư dân “dĩ nông vi bản” nên bảo thủ tập tục thờ thần Đất và tín lý phồn thực. Đến cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, thần Đất và thần Tài ở xứ ta vẫn chưa khu biệt rõ. Trong Đại Nam quốc âm tự vị (Sài Gòn, 1895), tác giả Huỳnh Tịnh Của cắt nghĩa Thổ thần và Tài thần đều là “thần Đất, thần giữ tiền bạc” (Tome II, tr. 336) và đến tận bây giờ, thần Tài và Thổ Địa vẫn cứ được thờ chung như một cặp đôi bất khả phân li ở khắp nơi, từ văn phòng công ty, tiệm quán, tư gia... thậm chí ở trên nóc tủ bán thuốc lá lẻ lề đường. Và điều đáng chú ý là, hình tượng vị thần Tài của người Việt, xét về mặt đồ tượng học, là một biến thể của Thổ Địa Phước đức chính thần của người Hoa. Đây là bằng chứng chỉ ra một cách thức ảnh hưởng tín ngưỡng Hoa đối với người Việt. 2. Trong thực tế, đối với người Hoa, Thổ Địa cũng là một trong các thần Tài. Nói cách khác, cũng do nông nghiệp chiếm vai trò quan trọng trong lịch sử nên đất đai cùng các loại nông phẩm từ đất sinh ra là thứ của cải, tài sản chủ yếu nên thần Đất cũng là thần Tài. Mặt khác, thần Đất có công năng là thần Tài là do thuyết ngũ hành tương sinh: Thổ sinh kim. Điều cần lưu ý là tín lý về thần Đất của người Hoa rất đa dạng, thậm chí là phức tạp, bởi chúng được quy chiếu theo những lý sự đa tạp khác nhau. Ở đây không trình bày tường tận dài dòng được. Đại thể, ở đây, vị thần Đất chủ quản cả vùng Chợ Lớn (Sài Gòn phố thị xưa) được thờ ở Nhị phủ hội quán (tục gọi là “chùa Ông Bổn”). Theo bài vị thờ tên gọi chính thức của thần là “Nhị phủ miếu Đại Bá Công”, được đồng nhất với ông Bổn (Bổn Đầu công Châu Đạt Quan). Trên bức hoành treo trước chính điện Nhị phủ miếu ghi rằng “Ngô Thổ Địa dã” (Ta là Thổ Địa đây) và công năng chính của thần là bảo trở việc tài lộc. Điều này cho thấy đây là vị thần Tài, thần Đất và nhân thần; song thực chất đây là vị thần thuộc “ngũ thổ”: thần Thổ Phủ, bảo hộ kho chứa hàng hóa, hiểu rộng là chợ búa và hiểu rộng hơn là vùng Chợ Lớn/Bazar Chinois. Ở các xóm người Hoa cư trú tập trung (khu phố, con hẻm, đường phố...) có miếu thờ Thổ Địa Phước đức chính thần. Đồng thời ở các cơ sở thờ tự cũng thờ Thổ Địa Phước đức chính thần bảo hộ cho đền, miếu bên cạnh môn quan. Tại tư gia, vị thần Đất bản gia (được thờ ngay trước cửa, bệ thờ giản dị, đặt sát nền hiên) được định danh là Môn khẩu Thổ Địa tiếp dẫn Tài thần. Vậy là công năng vị thần Thổ Địa này là tiếp dẫn tài lộc cho chủ nhà. Chức năng kép của thần Đất được biểu thị rõ ở câu đối sau đây: Thổ sinh nhất kim, ngũ hành chúng trân quý Địa trưởng vạn vật, tứ quý ca bình vinh. 3. Ngoài thần Đất được thờ tự để cầu tài, người Hoa còn thờ nhiều thần Tài khác. Phổ biến và tôn quý nhất là thần Tài “Tài Bạch tinh quân”, “tinh quân” là ngôi sao trên thượng giới. Đây là vị thần thường thờ tự tôn kính ở các đền miếu, đặc biệt phổ biến là các cơ sở thờ tự thuộc nhóm phương tộc Triều Châu. Tài Bạch tinh quân gồm 5 vị thần, chủ bộ Tài lộc thiên giới, do Kim long Như ý chánh nhốt Long hổ Huyền đàn chân quân (tức Triệu Nguyên soái/Triệu Công Minh) đứng đầu và 4 phụ tá: Chiêu Bảo thiên tôn, Nạp Trân thiên tôn, Chiêu Tài sứ giả, Lợi Thị tiên quân. Thần Tài theo người Việt: Trên trời có Tài Bạch tinh quân, dưới đất cũng có thần Tài âm phủ. Hình tướng vị thần Tài này giống một phán quan, đen thui, trên đầu đội mũ ống cao, có dòng chữ “Nhất kiến phát tài”. Vị thần Tài này đầu tiên thờ ở Điện Ngọc Hoàng và gần đây mới có mặt ở một số chùa Hoa khác. Tục truyền, trước đây, người ta đến cầu xin giải hạn: lấy vải thô trắng quấn quanh tượng và thi thoảng các tay cờ bạc mới đến cầu tài. Nay thì, vị thần Tài âm phủ này được nhiều người cầu cúng, vay tiền thiêng để đem về mua may bán đắt. Kế đó là thần Tài Lưu Hải. Hình tướng vị thần Tài này thấy ở trên cột trước Tam sơn hội quán và trên bờ nóc Điện Ngọc Hoàng: một chàng trai trẻ, tay cầm một sợi dây ngũ sắc buộc một con cóc ba chân hay mang trên vai một sợi dây buộc những quả trứng với các đồng tiền vàng. Theo truyền thuyết Trung Quốc, Lưu Hải là tể tướng dưới triều Lương Thái Tổ (907 - 926). Ông từ quan ở ẩn, được Lữ Đồng Tân (một trong Bát tiên) truyền bí pháp luyện quặng vàng thành linh đơn trường sinh bất tử. Truyền thuyết khác lại kể rằng, Lưu Hải là con trai một lái buôn người Phước Kiến. Ông đã câu được con cóc ba chân ở một cái giếng cạn, biểu thị cho việc phát tài (cóc có âm là “thiềm”, đồng âm với “tiền”). Giới thương buôn thường thờ Lưu Hải, dán tranh vẽ trên hai cánh cửa tiệm, quán để cầu tài. Trong những năm gần đây, tượng cóc ba chân và miệng ngậm tiền được tạo hình độc lập (không gắn với Lưu Hải) được bày bán rộng rãi. Người ta mua về chưng ở nơi thờ thần Tài - Thổ Địa hay nơi trang trọng trong nhà để biểu thị cho việc cầu tài lộc. Phổ biến không kém Lưu Hải là cặp nữ thần Tài Hòa Hợp nhị tiên. Hình tướng thường thấy của cặp thần Tài này là cô gái: một hài âm cầm bó hoa sen (sen: hà, hài âm “hòa”) hay bó lúa (lúa: hòa); và một bưng cái hộp (hài âm “hợp”). Cặp nữ Tài thần này là đề tài của điêu khắc gốm, chạm gỗ phổ biến của ngành công nghệ miếu vũ của người Hoa. Thần tích là một truyền thuyết kể về hai chị em Hòa và Hợp buôn may bán đắt. Họ buôn món hàng gì cũng đắc lợi, kể cả những việc cố ý phá bỏ cũng phát tài. Ở Trung Quốc, Hòa Hợp nhị tiên là đối tượng sùng bái của những người sản xuất đồ gốm sứ, thợ nung vôi và người bán quạt. Một nhân vật lịch sử là Phạm Lãi cũng được coi là Tài thần. Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù vua Ngô Phù Sai. Sau khi đã toại chí, Phạm Lãi không màng công danh phú quý nên bỏ đi ở ẩn. Dã sử kể rằng Phạm Lãi với người đẹp Tây Thi bỏ trốn đi dạo chơi ở Ngũ Hồ. Sau khi bỏ đi, Phạm Lãi trở thành một nhà thương buôn thành đạt và giàu có nổi tiếng ở thôn Đào (?) nên được người đời gọi là Đào Công. Phạm Lãi được tôn là Tài thần. Trong dịp khai trương tiệm quán, cơ sở kinh doanh, người Trung Quốc và người Hoa hay tặng nhau tấm đại tự “Đào Công phất nghiệp” để chúc nhau việc kinh doanh, buôn bán thành đạt. nguồn:phongthuythuchanh.com Chỉ để tham khảo. Đây không phải là quan niệm chính của Phong Thủy Lạc Việt. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 17 Tháng 10, 2009 Kiêng Kị Về Mai Táng Thời Tấn (Trung Quốc) Táng thi là một cuốn sách trình bày những điều kiêng kỵ khi mai táng thời Tấn. Người dân thời đó tin rằng: Chuyện họa phúc, sang hèn, giàu nghèo của mỗi người được quyết định bởi phong thủy nhà ở, phần mộ tổ tiên tốt hay xấu. Sách thời đó giải thích rất rõ từ “phong thủy”: “táng (chôn cất) là nhận sinh khí, phàm là khí âm dương, thở thì thành gió, bay lên thành mây, rơi xuống thành mưa, lưu hành trong đất thành sinh khí, sinh khí chuyển động trong lòng đất mà sinh ra vạn vật, con người ta được cha mẹ cho thể xác, hình hài được khí, di thể (xác chết) được ấm (phúc ấm). Do vậy, sống là sự ngưng tụ của khí, kết thành xương cốt, khi chết chỉ còn lại xương, do vậy táng là phản khí nội cốt để sinh phúc ấm. Người ta tin rằng khí cảm ứng quỷ mà phúc cho người, vì thế núi ở phía tây lở, thì linh ứng núi ở phía đông. Khí vận hành trong đất, theo địa thế mà vận hành, địa thế mà dừng thì khí tụ lại. Núi non là xương, gò đống là chi (nhánh), khí theo đó mà vận hành. Khí gặp gió tất tản mát, gặp nước chặn lại ắt dừng, người xưa làm cho khí tụ lại mà không tản đi, khiến vận hành mà có lúc dừng lại. Theo phong thủy, đắc thủy là tốt nhất, tàng phong là thứ hai… nông hay sâu để nhận được (sinh khí), là tự thành phong thủy. Đất là mẹ của khí. Có đất tất có khí. Khí là mẹ của nước. Có khí tất có nước, do đó, nơi khô ráo thì nên táng nông, nơi bằng phẳng thì nên táng sâu. Ngoài ra, có năm dạng sơn (núi) không thể táng. Khí sinh nhưng núi trọc. Khí đến theo hình nhưng núi đứt đoạn. Khí vận hành theo đất nhưng núi là núi đá. Khí đã dừng theo thế nhưng núi vẫn vượt qua. Khí long hội nhưng gặp độc sơn (núi đứng một mình). Như vậy có nghĩa các dạng núi: trọc, đứt, đá, quá, độc đều không được táng, nếu không, sẽ “sinh tân hung, tiêu kỷ phúc” (sinh điều dữ, mất phúc vốn có). Huyệt có 6 điều dữ: Âm dương không khớp. Phạm giờ phạm năm. Lực nhỏ tham vọng lớn. Chỉ dựa vào phúc lực. Nịnh trên đe dưới. Ứng biến quái kiến. Vì thế khi mai táng, phải chú ý Thanh long bên trái, Bạch hổ bên phải, Chu tước đằng trước, Huyền vũ đằng sau. Huyền vũ cuối đầu, Chu tước dang cánh, Thanh long uốn khúc, Bạch Hổ quy thuận. Hình thế mà ngược lại như trên sẽ bị tan vỡ, chết chóc. Vì vậy người ta quan niệm hổ ngồi là “hàm thi” (ngậm xác chết), rồng nằm “kỵ chủ” (căm ghét chủ), Huyền vũ không cúi đầu thì chỉ là một cái xác khổng lồ, Chu tước không lượn thì bay mất đi. Dùng thổ khuê (thước đo đất) đo phương vị, dùng ngọc xích đo dài ngắn, lấy hai chi là long, hổ lấy vết tích của đến và dừng lại ở đồi, gò, nếu như hình khủy tay thì gọi là hoàn bao (ôm lấy). Lấy nước làm Chu tước, thì sự suy thịnh ứng với hình thế, nước chảy xiết thì rất kỵ, gọi đó là bi khấp (đau buồn chảy nước mắt). Kiêng kỵ về địa hình thời Ngụy Tấn (Trung Quốc) Người thời Ngụy Tấn có một số kiêng kỵ khi chọn địa hình như sau: Nước chảy đến mà xông thẳng tới như tên bắn, chảy xiết réo ào ào, hoặc nhảy dựng lên như cánh cung bị lật, thì đều không tốt. Nếu nước không có tình, chảy đến mà không nhập đường, thì có nước cũng như không. Nếu nhìn bằng mất không thấy nước, nhưng giẫm lên thì ướt đế giày, hoặc đào hồ thì có nước chảy ra, nhưng đến thu, đông thì khô hạn, như vậy là mạch yếu tản mát, không tốt. Nếu nước có mùi khai thối như nước tiểu bò lợn thì xấu nhất. Nếu nước bùn, gặp mưa thì nổi lên, trời lạnh thì khô kiệt, như vậy là địa mạch rò rỉ, cũng không tốt. Nước xú uế, đàn bà băng lậu, đàn ông bị trĩ, nhà cửa sa sút. Phản thủy: nước dội ngược lại chỗ đầu rồng nhà tan cửa nát, người ly tán. Ngược lại, nước lành là nguồn nước vươn xa thì long khí vượng phát phúc lâu dài. Nguồn nước ngắn thì phúc ngắn. Nước phải nhập dương, lại có nơi đón nhận phía dưới, hoặc thủy phong phù trợ ngầm, đều có nước lành. Nước chảy đến, dù quanh co uốn khúc, dù chảy ngang rồi quanh lại, dù chảy đi nhưng phải tỏ ra vương vấn, quạy lại và có vẻ dừng. Nếu là nước biển thỉ sóng triều phải cao và sóng bạc đầu (có màu trắng) là cát (tốt lành). Nếu là sông thì nước quanh co uốn lượn là cát. Nếu là suối, êm đềm phẳng lặng. Nếu là hồ đầm, mặt hồ phẳng như gương thì tốt. Nếu là ao thì giữ được nguyên trạng (như vốn có) thì tốt. Nếu là giếng trời, thì sâu và không khi nào cạn là tốt. Con người không được tùy tiện san lấp ao bờ, cũng không được đào hồ khơi rãnh, vì làm như vậy sẽ tổn thương địa mạch, địa mạch mà bị thương thì nước không thể lành. Ngoài ra, người ta còn cho rằng: Can thủy tán khí: can thủy (đông chính) nhưng chảy nghiêng, có vẻ gấp khúc mà không gấp khúc, ốm mà không ốm, lại không có chi nhánh để làm nổi khí, thì không bao giờ kết huyệt. Chỉ thủy giao giới: trên dưới trái phải đều có dòng nước chảy đều, bên trái và bên phải đều hướng về, thì kết huyệt ở giữa, hưởng phúc cực lớn. Can thủy thành hoàn: Dòng nước cực lớn, như thân của cây, thủy thanh ôm quanh, có kết huyệt. Khúc thủy triều đường: Nước chảy quanh co mà tới, ôm lượn rồi đi, có thể kết huyệt. Chỉ can: Nước lớn, mênh mông, tác huyệt ở chi can sẽ làm đến Tam công. Đậu bao: Bờ phải có ao hình cái túi, phú quý không bao giờ dứt. Phi long: Rồng bay, con cháu nhiều may mắn. Nhị long: Hai rồng gặp nhau thì gọi là thư hùng (đực cái) phú quý, làm đến Tam công. Kiêng kỵ về núi xung quanh huyệt Theo quan niệm của người Trung Quốc, núi xung quanh huyệt phải tránh những điểm sau: + Núi gầy: Người đói + Núi lở: Người có chuyện bi thương + Núi quay đi: Người ly tán. + Núi co lại: Người thấp hèn. + Núi âm u: Người mê muội. + Núi nghịch: người hết hơi Sách “Bác Sơn chiên” cho rằng: “Sa núi quanh huyệt của thủy khẩu cực kỳ lợi hại, giao thoa chặt chẽ, lòng thần mới tụ. Tẩu thế thuận mà bay đi, thì chân long tất cũng đi. sa có ba loại: đầy đặn, tròn, nghiêm chỉnh, là phú cục; thanh tú, nhọn, đẹp là quý cục, nghiêng, sưng bủng là tàn cục. Sa nào cũng có sát. Sa nhọn như mũi tên, sa vỡ tới đỉnh, sa ló đầu ra, sa quay mình về hướng ngược lại, sa vươn theo nước, sa từ cao đè xuống huyệt, đều là hung tướng (tướng dữ). Lại có tương quan, phá toái (vỡ nát), trực cường (thẳng cứng), hiệp bức (kiềm cặp), đê hiểm thụt xuống) tà loạn (nghiêng ngả lung tung), thô dại (thô, sù sì), sấu nhược (già yếu), đoản túc (co quắp), ngang đầu (ngẩng lên), bối diện (mặt trái), đoạn yêu (gãy lưng) đều là sa gây họa”. Tất cả những sa không thuận mắt đều là “hung” (xấu, dữ), “họa” (gây tai họa). Không được lấy huyệt khi gặp những sa nêu trên. Nếu đất huyệt mà bốn bên đều có sa phú quý thì chủ cát (tốt lành). Sự sắp xếp của sa phải có tầng lớp, có thứ tự trước sau, đồng loạt nghiêng vào trong, như là có tình ý. Chân sa mà có nước chảy róc rách, lượn lờ uốn quanh, thì đó là sa tốt. Ngoài ra, phải chú ý: Khí không thuận hòa, sơn không có cây cối, không thể cắm huyệt. Nếu như có văn lạ trong tầng đất thì có thể cắm. Khí chưa dừng, sơn vẫn đi, thì không thể cắm. Hoặc yêu kế, hoặc hoành long, theo phép có thể cắm. Khí chưa hội tụ mà sơn cô độc (chỉ có một mình) thì không thể cắm trừ phi được bình dương cục bảo vệ, theo phép có thể cắm. Khí không đến, mạch đứt lại nối, không thể cắm. Tự nhiên mà đứt, đứt rồi lại đứt, theo phép có thể cắm. Khí không vận hành, đá chồng chất, không thể cắm. Nói như trên có nghĩa là, sơn mà không tụ khí thì không thể điểm huyệt (cắm huyệt). Theo(Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin) Cải Táng Cuối năm, khi những cơn gió lạnh mùa đông đến, theo tập quán của người Việt, những gia đình có người chết quá 3 năm thì tiến hành bốc mộ. Đây là công việc gây nhiều lo lắng, hoang mang cho mỗi gia đình. Những người con cháu quan niệm rằng, đây là cơ hội cuối cũng lo lắng cho người đã quá cố. Ngoài việc giữ trọn đạo hiếu với người đã khuất, đây còn là dịp để quan tâm đến Phong Thuỷ âm phần, theo truyền thống tâm linh người Việt, ngoài việc giúp cho vong linh được an lành, còn góp phần thúc đẩy sự thành công và may mắn cho các thành viên trong gia đình sau khi cải táng. Để giúp bạn đọc có những kinh nghiệm cần thiết trước khi tiến hành việc này, tôi sẽ hệ thống lại các công việc cần thiết theo Phong Thuỷ, cho mỗi gia đình tham khảo trước khí tiến hành việc đại sự … 1. Chọn lựa thời điểm : Chọn lựa thời điểm để cải táng là một việc vô cùng quan trọng. Theo phong tục của người Việt Nam, người mất sau 3 năm thì cải táng, cũng là lúc con cháu mãn tang, tức là hoàn toàn hết để tang vong linh. Vì thế, việc cải tháng thường được tiến hành sau 3 năm chôn hung táng. Tuy nhiên, hiện nay thực tế môi trường địa lý và khí hậu có nhiều thay đổi, các hoá chất được sử dụng nhiều trong đất để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng sau 3 năm xác người chết chưa phân huỷ diễn ra khá phổ biến, nên nhiều gia đình lựa chọn giải pháp là để thời gian cải táng lâu từ 4 đến 5 năm để tránh hiện tượng trên. Năm để tiến hành cải táng phải lựa chọn theo tuổi của vong, tránh những năm xung sát. Ngoài ra còn phải căn cứ theo tuổi của trưởng nam trong nhà, vì khi vong đã mất thì mọi sự may rủi đều gánh trên vai của người trưởng nam. Năm để tiến hành cải táng cũng phải được phù hợp với tuổi của người trưởng nam. Một vấn đề được quan tâm nhiều nhất, đó là trường hợp mộ kết. Theo quan niệm của Phong Thuỷ, khi được chôn vào huyệt tốt thì sau một thời gian mộ sẽ kết phát. Nếu mộ kết phát thì con cháu sẽ thuận lợi, nhiều thành tựu, may mắn. Nếu mộ kết mà tiến hành cải táng thì không những mộ bị mất kết mà còn gặp nhiều điều rủi ro cho gia đình. Vì thế cần thẩm định kỹ mộ trước khi cải táng xem mộ có phải là mộ kết hay không. Nhìn mộ có thể đoán định được bằng các đặc điểm sau : - Huyệt đất trước khi tiến hành hung táng là một huyệt đất mới chưa được đào xới - Mộ có đất vững chắc, nếu lấy một cây gậy cắm vào mộ thì đất rất chắc, khó có thể cắm được. Mộ không có nứt lún hoặc các hang hốc do các loài vật làm tổ. - Khí của mộ tươi tốt, cỏ cây trên và xung quanh mộ được xanh tươi - Đất của mộ nổi cao lên rõ rệt, xung quanh và trên mộ đất đùn lên trông thấy kích thước phát triển quá mức ban đầu. Các bạn lưu ý rằng, nên nhờ một thầy chuyên gia có kinh nghiệm Phong Thuỷ chính tông tiến hành xem xét cẩn thận trước khi cải táng, nếu không biết mà tự ý tiến hành thì sẽ dẫn đến những hậu qủa khó lường. Nếu là mộ kết thì không nên cải táng, xây dựng, mà chỉ cần trông coi mộ cho cẩn thận, hoặc chỉ xây hàng rào thấp bao xung quang mộ. 2. Chọn lựa huyệt đất mới : Khi đã chọn lựa được thời điểm tiến hành thì người trong gia đình sẽ phải chọn lựa một huyệt đất mới để chuyển hài cốt sang. Ngày xưa, điều kiện đất đai còn rộng lớn thì việc này tương đối dễ dàng. Ngày nay, đất chật người đông, diện tích đất dành cho người chết cũng rất hạn chế. Thường ở địa phương sẽ tiến hành bố trí cho gia đình một huyệt đất mới ở cùng nghĩa trang nơi hung táng. Nếu các gia đình có nhu cầu chọn lựa phải mua đất ở nơi khác rồi chuyển hài cốt về. Việc chọn lưạ huyệt đất là tương đối khó khăn, để tìm được vị trí mới tốt lành, cần lưu ý các điểm sau đây : - Huyệt mộ là nơi đất mới chưa từng bị chôn lấp, đào xới. Khí đất của huyệt tươi tốt, đất rắn chắc tươi tắn. Nếu là vùng đồng bằng thì đất tươi mịn, có mùi thơm, đào lên phía dưới độ 60 -70cm đất đặc quánh, có màu vàng nhạt hoặc màu nâu đậm. Nếu là miền sơn cước thì đất mịn màng, tuy khô nhưng có màu vàng nhạt. - Kỵ nhất là huyệt là nơi đất tơi xốp, có chứa nhiều rác rưởi, hoặc có nguồn nước thải bị ô nhiễm. Đào lên ở đáy huyệt phải có mạch nước ngầm chảy dưới huyệt. Màu sắc của nước trong xanh, mùi thơm, tránh nước bị ô nhiễm hoặc nước có mùi hôi. Những huyệt ở đồng bằng thì kỵ không có nước ở dưới huyệt. - Ở các vùng nghĩa trang nơi quy tập nhiều mộ, thường bị tình trạng quá tải về diện tích, các mộ chen lấn nhau. Tránh huyệt bị các mộ xung quanh lấn chiểm, hoặc nằm án ngữ ngay trước phần mộ, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh mộ. Nếu chọn được huyệt phía trước rộng thoáng, lại nhìn ra ao hồ hay sông suối là đắc cách. Trường hợp đất đai quá hiếm không chọn được huyệt có phía trước thoáng rộng thì tối thiểu cũng phải có một khoảng đất trống nằm ngay phía trước huyệt mộ. - Quan sát cẩn thận hệ thống đường đi xung quanh huyệt. Nếu huyệt có đường đi đâm thẳng vào giữa hoặc đâm xuyên sang hai bên thì chủ về phá bại không thể dùng. . Đường đi sát ngay phía sau huyệt cũng tối kỵ chủ tổn hại nhân đinh. Tốt nhất chọn huyệt nơi yên tĩnh xa cách với đường đi lối lại quanh khu vực mộ. - Ở vùng núi non thì cần thẩm định huyệt theo những tiêu chí của địa lý chính tông. Huyệt cần được bao bọc có long hổ hai bên ôm lấy huyệt, phía sau có cao sơn che chắn, phía trước có minh đường thuỷ tụ… Các bạn lưu ý rằng, nên nhờ một thầy chuyên gia có kinh nghiệm Phong Thuỷ chính tông tiến hành xem xét cẩn thận trước khi cải táng, nếu không biết mà tự ý tiến hành thì sẽ dẫn đến những hậu qủa khó lường. 3. Các bước tiến hành : Bước 1 : Chọn ngày giờ Hoàng đạo : Cần tiến hành chọn lựa thời điểm phù hợp, tháng được chọn nên tránh tháng xung khắc với tuổi trưởng nam, tuổi của vong linh. Trong tháng chọn ra 2 ngày tốt gần nhau để tiến hành việc đào huyệt, xây mộ mới và ngày giờ tiến hành đưa hài cốt sang huyệt mộ mới. Ngày giờ tiến hành xây huyệt mộ mới thường chọn trước ngày bốc mộ khoảng 1 tuần. Những giờ tiến hành bốc thường là các giờ về đêm, theo quan niệm âm dương, hài cốt thuộc âm thì nên tiến hành vào các giờ âm để tránh xung hại. Các giờ này là các giờ Hợi, Tí, Sửu, Dần (11h đêm đến 5h sáng) Bước 2 : Nghi thức tiến hành : Vào ngày tiến hành động thổ xây huyệt mộ mới. Trước giờ khởi công, trưởng nam cùng gia đình sắm sửa lễ để cúng quan thần linh, vì theo quan niệm của tín ngưỡng Việt nam, trước khi làm việc gì cũng phải xin phép Thần Linh bản cảnh chứng giám để gia đình tiến hành công việc được thuận lợi. Lễ vật gồm hoa quả, tiền vàng, lễ mặn, gạo muối,…. Sau khi khấn Thần Linh thì tiến hành động thổ xây dựng. Huyệt thường được đào và xây vuông xung quanh huyệt, phía dưới không xây chỉ để lớp đất bằng để hạ quách dựng hài cốt xuống. Lưu ý : Kích thước xây chỉ vừa đủ rộng hơn quách mỗi chiều khoảng 10-20cm. Phía dưới không được láng xi măng để tránh bị âm dương ngăn cách. Nếu đất rắn chắc thì không cần xây tường xung quanh huyệt. Độ nông sâu của huyệt cũng cần được xem xét rất cẩn thận, phải đào hết lớp đất mặt, thường đào đến lớp đất thịt khoảng 50-60 cm. Tuy nhiên, cần phải nhờ một thầy có kinh nghiệm thẩm định độ nông sâu của huyệt. Công việc chính và quan trọng nhất là tiến hành đưa hài cốt sang huyệt mộ mới. Hài cốt sau khi được bốc, xếp gon gàng vào tiểu sành sẽ được đưa sang huyệt mới để hạ xuống và lấp đất lên. Sau đó gia đình sẽ tiến hành hoàn thiện phần xây dựng mộ. Mộ xây dựng bao giờ cũng phải có phần thông thiên, tức khoảng đất trên mặt mộ để dương khí giáng xuống. Bước 3 : Hoàn tất Sau khi mọi việc xây dựng đã hoàn tất, bước cuối cùng là nghi lễ tiến hành lễ tạ phần mộ và cúng cho vong linh được yên ổn, siêu thoát. Theo phong tục truyền thống, lễ vật chuẩn bị bao gồm lễ mặn và lễ chay, ngoài ra còn có đồ mã như ngựa, quần áo, vàng mã. Sau đó gia đình tiến hành lễ tạ quan Thần Linh, lễ điền hoàn long mạch. Những gia đình có truyền thống Phật giáo thì tổ chức nghi lễ cầu siêu cho vong linh được siêu thoát. Trên đây là những cách thức cơ bản về Phong Thuỷ và tâm linh cho việc cải táng, một việc làm cuối cùng để yên tâm cho người sống và người đã khuất. Ngoài những yếu tố vô hình về Phong Thuỷ và tâm linh, đây còn là dịp để mọi người có cơ hội thể hiện lòng hiếu thảo với cha ông của mình, sum họp với gia đình và dòng họ, một việc làm rất có ý nghĩa trong trong cuộc sống hiện đại ngày nay. http://blog.timnhanh.com/ Tả Ao và địa mạch núi Tản Viên Từ thưở bé, ông nội tôi thường kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ của địa phương. Ông cũng thường đọc cho tôi nghe những câu ca dao, tục ngữ, những câu sấm, câu vè được lưu truyền ở xứ Đoài. Một trong những câu chuyện mà tôi rất ấn tượng đó là chuyện về ông thầy địa lý Tả Ao. Chuyện rằng: Ngày xửa ngày xưa, làng La ở xứ Đoài (cách làng tôi 4 km) có đón được thầy địa lý Tả Ao về để xem đất. Thầy ở trong làng hàng năm trời. Dân làng thay nhau cung phụng ông. Hàng ngày dâng lên ông toàn những món ăn ngon. Sáng sớm, khi ông thức dậy là có một chiếc chậu đồng sẵn nước nóng để ông rửa mặt. Đêm thì đệ lên một chậu để ông ngâm chân. Rồi ông tìm được cho làng một cuộc đất tốt để làm đình, phát 18 quận công. Khi ông dời chân đi, dân làng nói chuyện tạ ơn ông. Ông nói: Dân làng với tôi đã rất thịnh tình, tôi không nhận gì nữa, chỉ xin một khóm tre non để tôi trồng ở góc ao đình. Sau này, làng phát văn võ quận công, tôi quay lại, xin ngả bụi tre đó, chẻ lạt để xâu tiền. Xâu được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Thế rồi ông xách tay nải lên đường. Đình làng để ở nơi đất đẹp, trước đình có ao làm minh đường. Làng vượng lắm, có đến 18 quận công, nổi danh trong triều ngoài trấn. Sau, bụi tre lên xanh um. Dân làng mới họp bàn rằng, nếu cứ để bụi tre thế này, sau ông thầy Tả Ao về thì biết bao nhiêu tiền cho đủ để ông xâu tiền, mới lại bàn triệt búi tre đi. Bẵng đi một thời gian, ông Tả Ao lại thăm làng. Chuyện trò hồi lâu ông mới hỏi đến bụi tre thì dân làng nói nó đã chết lụi rồi. Ông buồn lòng nhưng cũng làm như không có chuyện gì xảy ra. Ông mới bảo làng có muốn phát nữa không, thì dân làng còn muốn phát nữa, cả văn lẫn võ, cả đinh lẫn tài. Ông bảo vậy thì hãy xẻ núi Tản Viên, dẫn nước về ao đình để thủy tụ nữa. Dân làng tưởng thật, xẻ núi dẫn nước về ao. Núi Tản Viên bị xẻ, động vào chân voi chân ngựa, toàn long mạch cả, khiến cho đất đào lên cứ đỏ như thịt trâu thịt ngựa, nước thì đỏ như máu. Chỉ trong một thời gian ngắn, làng La lụn bại. Làng mắc dịch và chết gần hết, số còn sống sót thì phiêu bạt khắp nơi. Làng La thành ra một làng không còn một bóng người. Ngày nay, địa phận làng La chính là làng Nhân Lý, xã Yên Mỹ, ngoại thị Sơn Tây. Dân làng Nhân Lý chính là người dân trong vùng, sau một thời gian kéo đến ở, ăn thừa tự trên đất làng La xưa. Ca dao cổ Xứ Đoài có câu rằng: Bây giờ có “Thủy nhập điền” Gặt mùa vừa đoạn thì liền cấy chiêm Đằng trong có một làng La Bởi một nhời nói ấy mà tiệt tông Tả Ao đóng hướng bảo lại lấy công Rằng làng mới cãi rằng không kia mà Tả Ao mới bảo bạc bội kia mà Tả Ao mới bảo làng là đào sông Tả Ao mới bảo đào sông Nó đứt mạch đất tiệt tông kia mà. Trưa 31 tháng 7 năm 2008 Nguyễn Xuân Diện P/S: Việc xẻ núi Tản Viên (Ba Vì) xin chớ lấy làm chơi. Cách đây khoảng hơn 10 năm, người ta đào bới, xẻ núi ở địa phận xã Minh Quang, huyện Ba Vì. Nước chảy ra trâu bò uống đều bị trụy thai cả. Dân cư dùng nước đó đều ốm yếu, mắc bệnh. Khi ấy, tôi và Đỗ Doãn Hoàng (Báo Lao Động) đã thăm bà con, hỏi chuyện và viết bài lên tiếng thì người ta mới dừng chuyện đào bới. http://nguyenxuandien.blogspot.com Ao Hồ TRong Phong Thủy[/size] [/i]Ngày xưa khi làm ăn phát đạt, ai cũng muốn xây một ngôi nhà thật đẹp, trong khuôn viên ngôi nhà đào một cái ao hoặc để nuôi cá chơi, hoặc tạo ra thế giàu sang. Nhưng về khía cạnh phong thủy, ít ai biết rằng chính những cái ao đó lại mang họa đến nhiều hơn là phúc. Các nhà phong thủy học Trung Quốc và Việt Nam đã tổng kết: Có đến 80% những người sống trong khuôn viên hoa lệ ấy, mấy ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra như bà chủ luôn phải đi bệnh viện lâu ngày, hoặc trong nhà có người mắt kém, trẻ em tinh thần nhu nhược, hoặc gia đình không hòa thuận, tâm trạng mọi thành viên trong gia đình luôn nặng nề... Những hiện tượng đó phần lớn có liên quan đến ao hồ. Ao hồ theo cách nói của phong thủy học bao gồm cả giếng nước, về vị trí và hình dáng có các trường hợp xảy ra như sau: - Nếu có một ở bên Đông, một ở bên Tây, phạm điều đó, trong nhà sẽ không có người phát câm thì phát điên. - Đằng sau nhà có hai cái ao, hoặc bên trái, bên phải hay trước nhà đều có ao, phong thủy cho đó là thế chân rồng chân hổ giẫm lên nhau, dâm dục không nghi ngờ gì nữa. Đây là thế hình sát cho biết không khí dâm dục có đầy trong nhà. - Trước nhà, sau nhà có ao cũng rất hung, người xưa nói: "Tiền đường hạ cấp đường, nhi tôn huyền tiểu vong", nghĩa là ao trước ao sau nhà, con cháu chết sớm. - Vị trí và hình dạng ao không thống nhất cũng gây họa, như: có cái lồi ra, có cái thụt vào hoặc hình như quả bầu, có cái nhỏ cái to nối liền nhau, bệnh tật và tai họa sẽ đến với nam chủ nhân. Người xưa thường nói "Thượng đường liên hạ đường, quả phụ thủ không phòng, phong tật bất ly sàng", nghĩa là ao trên liền ao dưới, vợ góa giữ phòng không, ao to nối ao nhỏ, bệnh phong chẳng rời giường. - Hai hoặc ba ao liền nhau, báo chủ nhà nước mắt ròng ròng, nghĩa là thế nào sự cố bi thảm cũng xảy ra. Nếu hình dáng ao trông như hoa mai, thì nhà có ba bốn bà vợ góa. Như vậy, có ao trong khuôn viên trong nhà là mang họa cho người ở, nhưng phong thủy cũng cho rằng ao có thể mang điều tốt đến. Nếu chưa nói đến quy định về khoảng cách, hãy chỉ nói đến hình dáng thì ao có hình bán nguyệt là khá tốt. Trước nhà có ao như vậy thì có tiền của. Người xưa nói: ao bán nguyệt sinh tiền, hàng nghìn kho lúa, trẻ con rớt không chết đuối. Tuy nhiên, cũng nên đề phòng trẻ em về nạn sông nước. Ao có hình vuông như nghiên mực là tốt nhất, người xưa nói: "Tiền đường tự nghiên trì, tử lục đăng cao đệ, đường thanh do như kính, quý sinh minh", nghĩa là ao trước nhà giống cái nghiên mực, con cháu thi đỗ cao, nước ao mà trong như gương, sinh con quý mà thông minh. Trước nhà có ao như vậy là tốt, nhưng vị trí ao phải xa cửa nhà, sao cho ánh nắng chiều tà không được phản xạ tia nắng chiếu vào nhà. Trường hợp ao hoặc bể bơi gần nhà, để ánh sáng mặt trời phản xạ được vào trong nhà, phong thủy học gọi cái ao hay bể bơi này là "gương soi chậu máu" hoặc "vạn đạo kim quang" chiếu vào nhà. Gặp trường hợp như vậy, người xưa nói không thất vận lúc tiền vận thì hậu vận thất vận, chủ nhà ắt sẽ bị điên cuồng hoặc bệnh nặng. Nếu hướng giường của chủ nhà lại ở phương vị hung sát, không kể già trẻ, hẳn bị tai nạn liên miên, thậm chí mất mạng, trừ phi cát tinh soi chiếu! Có nhà đào ao trước cửa ở thế "gương soi chậu máu", giữa cửa nhà có treo một cái gương to (hoặc để trấn trạch, hoặc để chơi) thì sát khí càng mạnh, độ hung càng lớn. Để hóa giải tình trạng "gương soi chậu máu", phong thủy đưa ra phương án thả bèo kín ao để giảm tia nắng khúc xạ vào nhà. Cũng có phương án trồng cây trúc phía bờ ao đối diện ngôi nhà. Trúc dễ trồng, mọc nhanh, sẽ chắn những tia nắng khúc xạ vào nhà khi chiều tà, sát khí giảm hẳn. Trong xã hội hiện đại, đất chật người đông, đối với những nhà có ao tù, nước không lưu thông, bẩn, không có lợi cho sức khỏe, đồng thời theo phong thủy học, nơi đó cũng dễ gây nên hung tướng cho người ở. Gặp trường hợp này, phong thủy học cho rằng tốt nhất là lấp ao, làm vậy sẽ trừ được hết hung tướng. Nhưng lưu ý một điều, để loại trừ hết sát khí miền đất có ao, trước khi lấp ao phải hút hết nước, làm cho ao khô đi, bốc hết bùn ở đáy ao. Nếu thấy làm như thế phiền phức quá thì cứ để vậy mà lấp cũng được, vì nó cũng không gây nên tai họa. Song mọi ống nước dẫn vào ao, dù bằng vật liệu nào, dạng nào... cũng phải gỡ đi, vì chúng gây nên sát khí ảnh hưởng đến ngôi nhà. Nếu khuôn viên khu nhà rộng cần có một ao, thì phải bố trí ở phương vị đông nam, cách nhà từ 18 mét trở lên; nhưng tốt nhất là không có, mà có thì nên lấp. Có loại ao thuộc dạng chảy vòng quanh, xung quanh trồng cây mà không có đông người tụ tập, như khách sạn, nhà hàng, công ty, công xưởng thì không phát sinh vấn đề gì, có khi lại biến thành cát tướng. Vậy những bể bơi tư gia thì sao? Ở những thành phố lớn, các khu nhà ở cao sang... người ta thường bố trí bể bơi gần kề. Nếu quan niệm những bể bơi đó là "gương soi chậu máu" theo thuật phong thủy, thì ắt mọi người sống trong đó sẽ điên cuồng cả hay sao? Trong môi trường thành phố khác với các vùng trống trải, như ở nông thôn hay thị trấn nhỏ, không hẳn là như vậy. Ở nơi thoáng đãng, ánh mặt trời chiếu xuống ao hồ phản xạ vào nhà không có gì che chắn, nên chúng mới nguy hiểm. Ở thành phố, các bể bơi được xây giữa các cụm nhà cao tầng, chỉ chịu ánh mặt trời chiếu vào giữa trưa, nên không có "vạn đạo kim quang" tức là tia nắng phản xạ chiếu vào nhà, nên không có hung khí. Song không phải bể bơi bố trí giữa các nhà cao tầng không thể trở thành "gương soi chậu máu". Đó là trường hợp một căn nhà ba tầng có bể bơi ở giữa khu nhà cao tầng, bình thường chỉ chịu sự chiếu nắng mặt trời từ 11h trưa đến 2h chiều. Tuy vậy, bể bơi ở đây có vấn đề không hay đứng về mặt phong thủy, nếu như khi thiết kế, xây dựng người ta để ý đến một chút. Thực tế đã có trường hợp người ta làm cửa thông hơi chắn bằng kính để chếch ra ngoài như một mái hiên. Lúc mặt trời từ đỉnh đầu chếch về phía tây, ánh nắng chiếu xuyên thẳng xuống bể bơi, phản xạ lên tấm chắn cửa thông hơi, từ đây ánh nắng lại một lần nữa phản xạ vào nhà tạo các hình lốm đốm. Nếu lúc đó dưới bể bơi có người, hình ánh nắng trong nhà càng lay động. Lúc này, bể bơi của gia đình trở thành "gương soi chậu máu". Trường hợp này chỉ cần vứt bỏ tấm kính chắn ở cửa thông hơi thì mọi việc tốt đẹp. Trong xã hội nông nghiệp cổ xưa, ao hồ là nơi cấp nước cho cuộc sống con người, do vậy việc đào ao quanh và gần nơi ở là tất yếu. Phong thủy học cũng phát hiện ra mối quan hệ giữa ao hồ với con người và đưa ra những khuyến cáo như nói ở trên, ngoài ra còn có thuyết cho rằng: "ao mà có hình vuông thì hưng vượng (với điều kiện không trở thành "gương soi chậu máu"), ao như cái chảo, phú quý vô cùng; nhà to ao nhỏ, nam cô độc, nữ yểu mạng; nhà nhỏ ao to, tài bạch lưu tán; ao to trước cửa, người không thọ; ao to sau nhà, yểu mạng từ nhỏ. Ngoài ra, những dạng ao sau dù không ở thế "gương soi chậu máu" cũng là hung, như: ao trước nhà thẳng và dài; ao sau nhà hẹp và nhỏ; nhà kẹp ở giữa ao trước và ao sau; ao trước nhà có góc nhọn chĩa mũi vào cửa; trong nhà có bể nước; giữa ao có thủy đình; trong ao có núi giả; nước ao như bùn hoặc màu vàng. Những ao như vậy tốt nhất là san lấp đi. Trên đây là quan niệm của phong thủy học về ao, hồ, giếng nước đối với người ở, những quan niệm này chỉ có giá trị tham khảo khi nghiên cứu nhận thức của người xưa. (Theo Thế Giới Mới) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 11, 2009 Sách Dương Cơ Chứng Giải http://www.mediafire.com/?2nmmytmixdg Share this post Link to post Share on other sites
Posted 25 Tháng 11, 2009 Vòi nước hướng về phía bếp là xung sát trong phong thủy!!! Thông thường khi làm nhà, ta bố trí trong nhà bếp sao cho thuận lợi về chổ nấu ăn và nơi rửa chén bát.Nhưng ít ai chú ý đến cửa phòngbếp và vòi nước nơi bồn rửa chén bát có ảnh hưởng gì đến phong thủy hay không ?… Sách xưa có câu: “Dương trạch tam yếu môn phòng táo”. Ý muốn nói ảnh hưởng của bếp nấu tới phong thủy của nhà ở vô cùng quan trọng. Trong “ Bát trạch minh kính” có câu: “Oa táo nhân giai thị vi tế tiểusự,nhi bất tri vi trạch chi yếu vụ”. Ý nói: Con người thường coi bếp núc là chuyện nhỏ,nhưng chưa biết được nó quan trọng như thế nào đối với gia trạch. Hiện nay,bếp nấu thường được đặt trong nhà bếp,là nơi để nấu thức ăn, điều này cũng gây ảnh hưởng nhất định đến con người.Người xưa thường nói: Bệnh từ miệng mà vào,họa từ miệng mà ra. Nếu bếp nấu,nồi cơm điện đặt ở hướng hung,thì hung khí sẽ đi vào thức ăn lúc chúng ta nấu,nếu ăn thường xuyên những thức ăn này thì sức khỏesẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong đó có hai trường hợp cần phải chú ý khi bố trí bếp lò trực xung với cửa phòng nhà bếp,và vòi nước trực xung với bếp lò. Khi bố trí bếp lò bị trực xung với hai trường hợp trên: Thì người trong nhà hay bị bịnh đường ruột,dạ dày,những thành viên trong gia đình hay nóng nảy thất thường,cải cọ với nhau,mặc dầu chẳng có lý do gì chính đáng,hoặc là những chuyện vặt vỉnh cũng thành to tiếng với nhau,cải vả thường xuyên,thậm chí dẩn đến ly hôn… 1-Điều cấm kỵ thứ nhất là: Bếp lò không được đặt trực xung với cửa phòng bếp,thì sẽ không bị khí ở cửa nhập vào,thì không phạm vào môn xung sát. - Nồi cơm điện dùng để nấu cơm,công dụng giống như bếp,cần phải tránh môn xung sát. 2-Điều cấm kỵ thứ hai: Bồn rửa chén bát.Có hai cách đặt bị trực xung với bếp lò,thứ nhất là bồn rửa đối diện với bếp lò,thứ hai là bồn rửa trực xung ngang với bếp lò (đặt cùng dảy với bếp lò),vì nếu là bếp ga thì đối diện hay bên hông,thì đều bị xung cả. -Trên bồn rửa có vòi nước,có thể quay được,nhưng không được quay về hướng bếp lò hoặc nồi cơm điện.Bồn rửa không nên đặt gần bếp lò,vì bồn rửa có nước thuộc về thủy,còn bếp lò thuộc hỏa,thủy hỏa xung khắc.Tốt nhất nên di dời bồn rửa tránh trực xung với bếp lò. -Từ bờ bồn rửa đến bờ bếp lò,khoảng cách tối thiểu phải là 60 cm (0,6 m). -Nếu lở bị vòi nước trực xung với bếp lò,nhất là trực xung bên hông bếp lò,mà khó sử lý,thì ta có thể làm một vách ngăn đơn giản,cao vừa tầm che khuất vòi nước trực xung vào bên hông bếp lò,tuy nhiên phải làm sao cho vén khéo và đẹp là được. -Dưới bếp không nên đặt ống thoát nước hoặc ống dẩn ga chảy qua,vì như vậy sẽ phạm phải xuyên tâm sát,hung.Mà nên đặt ống thoát nước và ống dẩn ga áp sát tường,sẽ không gây ra ảnh hưởng xấu cho những thành viên trong gia đình. Ngày nay, sự thần bí của phong thủy vẫn còn tồn tại trong mỗi chúng ta trong bản tóm tắt này, phong thủy nghiên cứu môi trường dẫn đến sự hài hòa trong cuộc sống xung quanh. Qua việc cân bằng âm dương ... nhằm tránh được những sự rắc rối trong cuộc sống xung quanh bạn.Những điều kiêng kỵ cần tránh hậu quả: 1. Đặt giá sách trong phòng ngủ: Hành động này như những mũi tên độc toả ra nhiều âm khí 2. Đầu giường không được kê sát vào tường: Đây là một nguyên nhân gây nên bệnh đau đầu kích thích cơ thể 3. Kê giường dưới quạt: Bạn hút âm khí từ bên ngoài. 4. Đặt giường ở giữa phòng (2 đầu đều không được kê sát vào tường): Điều này giống như việc làm cho bạn bị trôi nổi trong không trung mà không có điểm tựa. Đây là điều tối kỵ 5. Đầu giường kê đối diện với cửa ra vào: Làm cho bạn bị suy sụp về sức khoẻ và luôn khiến bạn cảm thấy mệt mỏi 6. Ngủ trên sàn nhà: Làm cho âm khí tăng lên, đó là nguyên nhân những rủi ro và ốm đau 7. Đầu giường ngủ bị xà ngang đè lên (xà ngang ép đỉnh): Ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ, là nguyên nhân của bệnh đau đầu và đau nửa đầu 8. Giường ngủ bị gương chiếu thẳng vào: Phản chiếu lại khí phát ra từ cơ thể bạn trong khi ngủ, khiến bạn suy sụp về sức khoẻ và công việc 9. Đặt hoa mẫu đơn trong phòng ngủ: Nguyên nhân của sự không chung thuỷ trong cuộc sống vợ chồng 10. Đặt tivi đối diện với giường ngủ: Từ trường phát ra từ ti vi sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ của bạn 11. Tập trung quá nhiều người trong phòng ngủ: Ngăn chặn sự lưu thông của không khí 12. Những con số 2, 4 và 5: Đây là những con số thường mang đến bệnh tật và ốm đau 13. Đặt những tấm bình phong theo hình chữ chi: Tạo quá nhiều góc nhọn sẽ làm tỏa ra nhiều sát khí 14. Ngồi ăn ở nơi góc nhọn hoắt của bàn; ăn hình vuông, hình chữ nhật : Ảnh hưởng của nó như những mũi tên độc chĩa về phía bạn 15. Đặt hoa khô trong nhà: Những bông hoa khô toả ra rất nhiều âm khí 16. Treo những chiếc đèn chùm có 5 bóng: 5 bóng đèn tượng trưng cho âm khí 17. Đặt bếp cạnh chậu rửa : Thuỷ hoa xung khắc 18. Đặt bếp đối diện với cửa ra vào chính: Cửa nhìn thẳng vào bếp nấu sẽ dẫn khí từ ngoài xộc thẳng vào, không có lợi, gây mất mát 19. Xà ngang đi qua bếp: Hại cho sức khoẻ vợ chồng, là nguyên nhân của sự mất mát về tài chính 20. Đặt bếp đối diện với cửa nhà vệ sinh : Hại đến sức khoẻ, tạo nên sự xung khắc giữa lửa và nước Tất cả những điều trên được nghiên cứu nhằm kiếm sự cân bằng trong môi trường sống của bạn. Cho dù những điều này không thuyết phục bạn, bạn hãy nghĩ lại những vấn đề của phong thủy như là sự kiểm chứng của cuộc sống được chắc lọc từ xa xưa để đem lại điều tốt lành cho người sử dụng nó. nguồn: nhadatphuongnam.com. (Chỉ để tham khảo) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 26 Tháng 11, 2009 DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU. Trích từ nhantrachoc.net.vn (Tài liệu tham khảo) Sau khi đã lược sơ qua về 1 số thiết kế cho nội thất như cửa cái , bếp , phòng ngủ...và 1 số yếu tố ngoại vi , nay KIM YEN xin giới thiệu với các anh chị ,các bạn 1 trường phái trong PT , đó là trường phái DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU. Dương Trạch thì chúng ta đã biết là để chỉ nhà ở của người sống chúng ta , còn Tam Yếu là gì ? Theo phái này luận , thì trong 1 ngôi Dương Cơ có 3 điểm chính yếu , đó là : CỬA CÁI- BẾP(ở đây ý nói là Hỏa Môn tức Hướng miệng Bếp ) - SƠN CHỦ hay PHÒNG CHỦ . Do đó mới gọi là Tam Yếu , tức chỉ 3 điểm trọng yếu này. Cũng như trường phái Bát Trạch Minh Cảnh , trường phái này cũng chia 8 cung Bát Quái ra làm 2 nhóm : Đông Tứ Trạch và Tây Tứ Trạch. _ Đông Tứ Trạch gồm các cung Khảm, Ly, Chấn, Tốn. _ Tây Tứ Trạch gồm các cung Càn, Đoài, Cấn, Khôn. Người có Quái số ở nhóm Đông Tứ Trạch thì 3 điểm chính yếu nên an trí trong 4 cung thuộc Đông Tứ Trạch. Ví dụ như : Người có Quái số là 9, là cung Ly , thuộc nhóm Đông Tứ Trạch ; vậy thì 3 điểm chính yếu trong nhà cũng nên an vị ở các cung Khảm , Ly, Chấn , Tốn. Người có Quái số ở nhóm Tây Tứ Trạch thì 3 điểm chính yếu nên an trí trong 4 cung thuộc Tây Tứ Trạch. Ví dụ : Người có Quái số là 7 , là cung Đoài thuộc Tây Tứ Trạch ; vậy thì 3 điểm chính yếu trong nhà cũng nên an vị ở các cung thuộc Tây Tứ Trạch là Càn , Đoài , Cấn , Khôn. A/. PHÂN LOẠI TRẠCH : Theo trường phái này , nhà ở được chia làm 2 loại : Đơn Trạch và Phức Trạch. Sự phân chia này do việc nhà có phân ngăn hay không. Nhà từ trước ra sau không phân chia ra ngăn nào cả thuộc về Đơn Trạch , tức là nhà đơn giản. Vậy thì ta có thể hiểu Phức Trạch nói nôm na là nhà bố trí phức tạp hơn , hay là nhà có phân ngăn. TỊNH TRẠCH thì lấy 3 điểm chính yếu là : CỬA CÁI - BẾP - PHÒNG CHỦ ( tức là căn phòng ngủ của gia chủ , căn phòng nằm ở 1 góc nào đó trong nhà ). Phức Trạch lại chia ra làm 3 loại , mỗi loại có sự sắp xếp các sao trong các ngăn khác nhau. Sự phân loại này dựa trên số ngăn mà nhà đó có : _ Từ 2 đến 5 ngăn : Là Động Trạch. _ Từ 6 đến 10 ngăn : Là Biến Trạch. _ Từ 11 đến 15 ngăn: Là Hóa Trạch. Các loại nhà thuộc dạng Phức Trạch lấy 3 điểm chính yếu là : CỬA CÁI - BẾP - và SƠN CHỦ ( với SƠN CHỦ là mặt hậu của nhà , đối nghịch với hướng vậy ). 2/. CÁCH XÁC ĐỊNH CUNG CỦA 3 ĐIỂM CHÍNH YẾU : _ CỬA CÁI : Từ mặt tiền nhà kéo 1 đường thẳng vuông góc với mặt tiền , lấy 1 đoạn bằng nửa chiều ngang mặt tiền. Đó chính là điểm đặt La bàn để xác định vị trí cửa cái dùng La bàn nhìn về hướng Cửa Cái xem đó là cung gì , đánh dấu vào sơ đồ nhà tên cung Cửa Cái. _ BẾP : Từ trung tâm phòng Bếp ( nếu là Phức Trạch ) , hay trung tâm nhà ( nếu là Đơn Trạch ) , đặt La bàn nhìn về hướng Bếp , xác định xem Hỏa Môn xoay hướng gì , thì đó là cung của Bếp vậy. Cũng trong phái này có 2 ý kiến khác nhau : Phái thì lấy ví trí đặt Bếp như bên Bát Trạch Minh Cảnh _ là đặt ở vị trí xấu , ngó về hướng tốt _ ; Phái thì lấy vị trí đặt Bếp là tốt , ngó về hướng tốt luôn. Và 2 phái này cứ tranh cãi suốt , luôn cho mình là đúng , đối` phương là sai. Riêng NCD thì chủ trương theo phái đầu , tức đặt ở phương Hung trấn áp cái xấu , nhưng Miệng Bếp phải xoay hướng tốt. Tuy vậy , NCD tôi không chê cách nào cả , chỉ vì bản thân NCD thử nghiệm cách đầu trúng nên theo luôn , chưa thử qua cách sau , nếu quý vị nào muốn thì hãy thử xem. _ PHÒNG CHỦ : Phòng Chủ không nhất thiết Trạch Chủ phải ngủ trong đó. Một căn Tịnh Trạch có thể có 1 phòng , có thể có nhiều phòng nhưng không phân ngăn thôi. Nếu có nhiều phòng thì phòng nào CAO-RỘNG-LỚN nhất sẽ được xem là phòng chủ. Nếu chỉ có 1 phòng thì dù phòng đó nhỏ hẹp vẫn là Phòng Chủ. Một căn buồng chỉ che bằng màn , hay kê bằng tủ không được xem là Phòng Chủ ; phải có tường vách hẳn hoi mới tính. Từ trung tâm nhà đặt La bàn nhìn về hướng Phòng Chủ xem đó là cung gì , thì đó là cung của Phòng Chủ vậy. _ SƠN CHỦ : Từ vách mặt hậu , cũng làm như đối với mặt tiền , tức là kéo 1 đường thẳng vuông góc với mặt hậu , lấy 1 đoạn bằng nửa chiều ngang mặt hậu , đó là điểm đặt La bàn. Từ điểm đó , đặt La bàn nhìn về mặt hậu ấy xem là cung gì thì đó là cung của SƠN CHỦ vậy, phải nhìn theo đường vuông góc ấy mới chính xác nhé ! 3/. AN DU NIÊN CHO TRẠCH : Theo trường phái này , 1 ngôi nhà có 1 Du niên ảnh hưởng đến sự Hưng Suy của nhà đó , tùy theo đó là Du niên tốt hay xấu. Để an Du niên cho nhà , thì TỊNH TRẠCH và PHỨC TRẠCH hơi khác 1 tý. _ TỊNH TRẠCH : Từ cung của CỬA CÁI biến tới cung của PHÒNG CHỦ , được Du niên gì thì đó vừa là Du niên của PHÒNG CHỦ , vừa là Du niên của Trạch vậy. Thí dụ : Cửa cái là ở cung Càn , còn Phòng Chủ là ở cung Cấn , 2 cung biến vơio1 nhau , Càn phối Cấn là THIÊN Y , vậy Du niên của Phòng Chủ là Thiên Y , mà Du niên của Trạch cũng là Thiên Y. Ta gọi đó là nhà THIÊN Y TRẠCH. _ PHỨC TRẠCH : Từ cung Cửa Cái biến tới cung của Phòng Chủ ( Sơn Chủ ) , được Du niên gì thì đó là Du niên của Trạch , cũng là Du niên của Sơn Chủ vậy. Thí dụ : Cửa cái là ở cung Khảm , nhưng Sơn chủ là ở cung Khôn , 2 cung Khôn_Khảm phối với nhau ra Du niên Tuyệt Mạng , vậy Du niên của Trạch là Tuyệt Mạng , và Du niên của Sơn Chủ cũng là Tuyệt Mạng vậy. Ta gọi đó là nhà TUYỆT MẠNG TRẠCH. Do có sự phân chia thành 2 nhóm Đông Tây , nên khi phối hợp với nhau tất có tốt ,có xấu. Các cung cùng nhóm phối với nhau sẽ cho ra các Du niên tốt , các cung khác nhóm khi phối với nhau sẽ cho ra các Du niên xấu vậy. Các anh chị , các bạn có thể xem lại các bài 4 & 5 của chị NHDT khởi đăng trên mục PT này , để thấy cách phối hợp giửa các cung BQ với nhau. Mỗi 1 Du niên tốt xấu đều có 1 Sao đi kèm với nó, và vì sao đó thể hiện rõ tính tốt xấu của Du niên đó. Nghĩa là : Du niên tốt thì đi kèm với Cát Tinh , Du niên xấu thì đi kèm với Hung Tinh. Dưới đây, NCD xin kê ra tên và sự tương ứng của các Du niên với các sao để quý vị tiện xem nhé! _ Sanh Khí : ứng với sao THAM LANG , thuộc hành MỘC. _ Thiên Y : ứng với sao CỰ MÔN , thuộc hành THỔ. _ Diên Niên : ứng với sao VŨ KHÚC , thuộc hành KIM. _ Phục Vì : ứng với sao PHỤ BẬT , thuộc hành MỘC. _ Tuyệt Mạng : ứng với sao PHÁ QUÂN , thuộc hành KIM. _ Ngũ Quỹ : ứng với sao LIÊM TRINH , thuộc hành HỎA. _ Lục Sát : ứng với sao VĂN KHÚC , thuộc hành THỦY. _ Họa Hại : ứng với sao LỘC TỒN , thuộc hành THỔ. Vì trường phái này lấy việc phân ngăn làm căn cứ phân chia loại Trạch, nên cũng phân bố từng Sao cho mỗi ngăn 1 cách chi ly. Hôm nay NCD xin giới thiệu về cách tính Sao cho từng ngăn. PHIÊN TINH ( sắp xếp Sao ). A/. TỊNH TRẠCH : Với TỊNH TRẠCH thì rất đơn giản. Từ cung Cửa Cái , biến tới cung Phòng Chủ xem được Du niên gì , thì đó là Du niên của Phòng Chủ , cũng là Du niên của Trạch. Đương nhiên vì Sao tương ứng với Du Niên đó cũng là Sao của Phòng Chủ, và là Sao của Trạch luôn vậy. Từ cung Cửa Cái , biến tới cung của Cửa Buồng , ta sẽ có Du niên & Sao của Cửa Buồng _ đây là 1 yếu tố phụ để luận đoán thêm về người ngủ ở phòng đó vậy. B/. PHỨC TRẠCH : I / AN DU NIÊN VÀ SAO CHO NGĂN ĐẦU : Do Phức Trạch có nhiều ngăn , nên việc phân bố Du niên & Sao cho các ngăn cũng phức tạp hơn. Việc an Du Niên & Sao của các ngăn sau, trong Phức Trạch, phụ thuộc rất lớn vào việc An Du Niên cho ngăn đầu , nếu sai ngăn đầu coi như các ngăn sau sai hết. Vì sao thế? Bởi trong Phức Trạch , các Sao tịnh tiến vào trong theo chiều tương sanh của Ngũ Hành của các Sao. Ví dụ như : Ngăn đầu ta có Lục Sát Thủy đi , thì ngăn kế sẽ là Mộc , tương ứng với Sao Tham Lang - Du niên Sanh Khí ; ngăn kế nữa sẽ là hành Hỏa , tương ứng với Sao Liêm Trinh - Du niên Ngũ Quỹ... Do đó , việc An Du Niên cho ngăn đầu thật chính xác rất quan trọng !!! Để An Du niên cho ngăn đầu trong Phức Trạch , ta cần xác định Cửa Cáithuộc CHÍNH MÔN hay là THIÊN MÔN. Cửa Cái CHÍNH MÔN là cửa ngay chính giửa nhà vậy , trường hợp nhà xưa có 3 gian , có 3 bộ cửa , đương nhiên phải xét cửa nào là cửa chính thường được sử dụng nhất rồi . Khi ấy , không tiện thì ta có thể sử dụng cửa bên , nếu nó tạo ra hiệu quả tốt ( Việc này NCD sẽ có chứng minh bằng ví dụ trong phần sau ). Như vậy ta dễ dàng hiểu ra cửa nằm 1 bên nhà là cửa THIÊN MÔN rồi. Với mỗi vị trí CHÍNH hay THIÊN thì cách phối hợp Sao cũng khác. 1/. CỬA CHÍNH MÔN : Cửa này là cửa trùng với Hướng nhà. Với cửa CHÍNH MÔN thì cách phối hợp là bình thường : Từ cung CỬA CHÍNH MÔN biến tới cung SƠN CHỦ , ta được Du niên gì , ứng với Sao gì ,thì đó là Du niên của Trạch ,Du niên của Sơn Chủ ,cũng là Du niên của ngăn đầu _ Sao tương ứng với nó cũng được An cho ngăn đầu. Ví dụ : Nhà Tọa Càn , Hướng Tốn , có cửa Chính Môn , có 4 ngăn. Trước tiên , ta thấy cửa Chính Môn thì trùng với Hướng , vậy đó là Cửa Tốn. Từ Cửa Tốn biến tới SƠN CHỦ Càn ( SC chính là Tọa , là mặt hậu của nhà ) , ta được Du niên Họa Hại & Sao ứng với nó là Sao Lộc Tồn thuộc Thổ. Ta có ngăn đầu là Lộc Tồn_Họa Hại Thổ Ở ngăn kế sẽ là Vũ Khúc _Diên Niên Kim Ngăn kế nữa là Văn Khúc_Lục Sát Thủy Và ngăn cuối là Tham Lang_ Sanh Khí Mộc. Nhà đó sẽ được gọi là nhà HỌA HẠI TRẠCH. 2/. CỬA THIÊN MÔN : Trước tiên ta hãy dùng La Bàn xác định cung của Cửa Thiên Môn này đã. Kế đến từ cung của cửa THIÊN MÔN biến tới HƯỚNG NHÀ ,đó chính là Du niên của ngăn đầu vậy. Muốn xác định Du niên của Trạch , Du niên của Sơn Chủ thì ta lấy từ cung của cửa THIÊN MÔN biến tới cung SƠN CHỦ , đó là Du niên của Sơn Chủ , và Du niên của Trạch vậy. Thí dụ : Nhà Tọa Ly , Hướng Khảm ,cửa bên trái thuộc cung Càn , nhà có 3 ngăn. Trước tiên ta lấy từ cung Cửa biến tới Hướng : Càn với Khảm phối nhau cho ra Du niên LỤC SÁT Thủy , ứng với Sao VĂN KHÚC. Ta An Sao này và Du niên này vào ngăn đầu để tính tiếp các ngăn sau. Ngăn đầu ghi vào đó là Văn Khúc _ Lục Sát Thủy. Ngăn giửa ghi vào Tham Lang _ Sanh Khí Mộc. Ngăn cuối ghi vào Liêm Trinh _ Ngũ Quỹ Hỏa. Kế đến ta tìm Du niên cho Trạch & Du niên cho Sơn Chủ. Từ cung của cửa thiên môn biến tới cung của Sơn Chủ , ta có Càn phối với Ly là Tuyệt Mạng , đó là Du niên của Sơn Chủ lẫn Du niên của Trạch vậy. Ta gọi nhà đó là TUYỆT MẠNG TRẠCH. II/ CÁCH PHÂN BỐ SAO Ở ĐỘNG TRẠCH ( từ 2 đến 5 ngăn ) Cách mà NCD di chuyển Sao như trên là cách di chuyển Sao của loại Động Trạch này đó. Đọc đến đây ắt sẽ có quý vị thắc mắc : Sao thì có đến 8 Sao , trong đó có 2 sao Kim , 2 sao Thổ , 2 sao Mộc , vậy gặp ngăn phải phân Sao Mộc hay sao Kim thì dùng Sao nào ? Xin thưa rằng ở Động Trạch chỉ dùng 5 Sao làm chính , đó là :Tham Lang , Văn Khúc , Vũ Khúc , Liêm Trinh & Cự Môn. Trừ trường hợp các Du niên phối nhau ra các sao Lộc Tồn, Phá Quân & Phụ Bật thì mới an Sao đó vào ngăn đầu thôi. Ngoài ra ,các trường hợp Du niên ngăn đầu không phải là Họa Hại , Tuyệt Mạng , Phục Vì thì chỉ dùng 5 Sao kia. III/ CÁCH PHÂN BỐ SAO Ở BIẾN TRẠCH ( từ 6 đến 10 ngăn ). Trong trường hợp An Sao cho Biến Trạch , thì mới dùng thêm 4 sao phụ ngũ hành kia. Tuy gọi là 4 sao nhưng thực tế chỉ có...3 rưởi thôi , vì Sao Phụ Bật chỉ có tác dụng phân nửa thôi, lực nó yếu hơn hẳn các sao khác. Như vậy ngoại trừ THỦY và HỎA chỉ có 1 Sao , còn lại các nhóm ngũ hành kia đều có 1 đôi sao. Trong trường hợp gặp các nhóm ngũ hành có đôi sao thì dùng liên tiếp cả đôi sao cho 2 ngăn liền nhau. Tuy nói vậy , nhưng không phải nhà BIẾN TRẠCH nào cũng dùng hết các đôi sao , còn tùy thuộc vào số ngăn của nó : _ Biến Trạch có 6 ngăn : Chỉ dùng đôi sao đầu tiên mà nó gặp. _ Biến Trạch có 7 ngăn : Chỉ dùng 2 đôi sao đầu mà nó gặp. _ Biến Trạch có 8-10 ngăn mới dùng đú cả 3 đôi sao. Đến đây lại nảy sinh vấn đề : Thế gặp đôi sao thì an sao nào trước ? Đây là mấu chốt của vấn đề , nếu quý vị nào đọc đến đây mà nêu ra câu hỏi ấy liền thì chắc chắn vị đó rất ham mê tìm tòi về PT vậy. Ngoại trừ trường hợp ngăn đầu & ngăn kế có đôi sao , vì khi đó đã có sao ở ngăn đầu tính theo Du niên biến ra. Các trường hợp ở sau thì sự an bố các đôi sao theo luật nhất định : _ Gặp đôi sao thuộc Mộc thì : PHỤ BẬT trước , THAM LANG sau. _ Gặp đôi sao thuộc Kim thì : VŨ KHÚC trước , PHÁ QUÂN sau. _ Gặp đôi sao thuộc Thổ thì : LỘC TỒN trước , CỰ MÔN sau. IV/ CÁCH PHÂN BỐ SAO CHO HÓA TRẠCH :(từ 11 đến 15 ngăn ) Vẫn áp dụng như phần Biến Trạch, và cứ thế xoay cho đến ngăn chót. NGĂN CHÁNH & SAO CHÚA ********** Như ta thấy , mỗi ngăn có 1 sao trấn giữ , Du niên chỉ là cái để ta tìm ra Sao ở các ngăn thôi , thật ra , chính các Sao đó mới chi phối sự Cát Hung của các ngăn đó vậy. Sau khi an Sao cho từng ngăn rồi , người ta mới tìm 1 Sao làm Sao Chúa. Vì sao phải cần 1 Sao Chúa ? Do trong Phức trạch có nhiều ngăn , nên cần chọn 1 ngăn chánh có Sao tốt để phát huy hiệu lức vượt trội của sự tốt đẹp , hầu trấn áp các ngăn xấu hại có Hung Tinh , nhất là với các căn nhà có tên Ác hại _ tức các Hung Du niên Trạch. Thường khi chọn Ngăn Chánh , người ta ít chọn các ngăn đầu lắm , vì nó xa Sơn Chủ. Trong PT , khi không xét đến LONG , thì Sơn Chủ biểu tượng cho Trạch Chủ vậy , nên người ta luôn tìm cách củng cố nó , bồi bổ nó , hỗ trợ nó. Chính vì thế , khi chọn Ngăn Chánh người ta mới thường chọn ngăn gần với Sơn Chủ , hoặc trực ngộ Sơn Chủ. Một căn cao lớn hơn , rộng rãi hơn , sạch sẽ hơn các ngăn khác mới đáng gọi là Ngăn Chánh. Nói 1 cách dễ hiễu nhất , cứ căn cứ vào Thể Tích của Ngăn , thể tích ngăn nào lớn nhất thì đó là Ngăn Chánh vậy. Đây chính là 1 điều mà 1 số thầy PT trong trường phái này lầm lẫn. Cứ nhìn thấy Diện Tích lớn hơn đã vội vàng cho đấy là Ngăn Chánh thì tai hại vô cùng Ví dụ : Một ngăn ngang 3m, dài 4m,cao 6m (vì không vướng gác lửng bên trên , lại không có la-phông) ; một ngăn ngang 4m, dài 4m , cao 3m. Nếu chỉ nhìn sơ theo diện tích tất phán đoán rằng ngăn sau lớn hơn ngăn trước. Ta thử làm phép tính nhân xem : 3m x 4m x 6m = 72 m3 4m x 4m x 3m = 48 m3. Một trời một vực phải không quý vị ? Nếu như Ngăn chọn lầm đó mà do 1 Hung Tinh trấn ở đó thì thử hỏi tai hại cỡ nào? Trong Pt , chỉ cần 1 tính toán sai lầm của người thầy ,thì có thể tai họa lập tức giáng xuống đầu gia chủ liền tức thời. Do đó , nếu muốn chọn Ngăn Chánh với Sao tốt hỗ trợ cho nhà , thì xin hãy cẩn thận xét cả chiều cao của ngăn đó !!! Ngăn Chánh thì Sao của nó được gọi là SAO CHÚA. Cùng với Du Niên Trạch , Sao Chúa góp phần chi phối sự lành dữ , cát hung của những người sống ở nhà đó. Do vậy , phải chọn Sao Chúa là 1 Cát Tinh mới đem lại lợi ích cho những người sống ở nhà đó. Và tốt hơn nữa , Cát Tinh đó phải hữu lực như : Đắc Vị , Đăng Điện hay tốt bậc nhất là NHẬP MIẾU. _ Cát Tinh Đắc Vị là chỉ Sao TƯƠNG SANH với cung. _ Cát Tinh Đăng Điện là chỉ Sao CÙNG NGŨ HÀNH với cung. Ví dụ như : 2 cung Cấn -Đoài biến ra Vũ Khúc-Diên Niên Kim. vậy thì so với cung Cấn thì Sao Vũ Khúc Đắc Vị , nhưng so với cung Đoài thì Sao Vũ Khúc là Đăng Điện. _ NHẬP MIẾU là chỉ trường hợp Ngăn Chánh là ngăn cuối cùng , tức Sao Chúa trực ngộ Sơn Chủ , giáp với Sơn Chủ. Khi 1 căn nhà đã có Du Niên Trạch là 1 Cát Du Niên , lại thêm Sao Chúa là 1 Cát Tinh hữu lực thì khác nào như Gấm thêu hoa , như Rồng mây gặp hội , nhà càng hưng thịnh lâu bền. Khi 1 căn nhà có Du Niên Trạch là 1 Hung Du Niên , ta càng cần chọn 1 Sao Chúa là Cát Tinh hữu lực , nhắm áp chế bớt Hung Tinh. Trường hợp này , các nhà PT gọi là YỂM SÁT TRẠCH. Khi gặp trường hợp này , thì tác dụng tốt của Sao Chúa sẽ bị giảm đi 1/3 đến 1/2 hiệu lực tốt đẹp vốn có của nó ; thời gian còn lại , hiệu lực của nó rất yếu , khó chống ngăn nếu có thêm Hung Tinh nào nữa TUYỆT ĐỐI KỴ lấy Sao Chúa là 1 Hung Tinh , nếu Hung Tinh này Đắc Vị , Đăng Điện hay Nhập miếu nữa thì càng thập phần nguy khốn cho gia chủ. Ví như 1 kẻ hôn quân bạo chúa mà lên nắm quyền sinh sát vậy , tha hồ mà hành hung tác ác , gieo tai rắc họa. Bất đắc dĩ lắm người ta mới dùng Cát Tinh Thất Vị ( là chỉ Sao tương khắc với Cung ) làm Sao Chúa. Vì 1 Cát Tinh Thất Vị có khác gì cá trên cạn , cọp xuống đồng bằng đâu , chẳng làm được gì. CUNG VÀ SAO ***** Ở đây, ta chỉ xét các Cung trọng ( tức là các Cung : Cửa Cái , Bếp và Sơn Chủ hay Phòng Chủ ) , không bàn đến các Cung Khinh ( tức là các Cung : Cửa ngõ , Cửa Bếp , Cửa Buồng ) . Trong 3 Cung Trọng này lại chia ra làm 2 : Cung bên ngoài và Cung bên trong. _ Cung bên ngoài ( ngoại ) là Cửa Cái. _ Cung bên trong ( nội ) là Bếp và Sơn Chủ hay Phòng Chủ Điều đầu tiên mà NCD muốn nói đến là 1 điều...xưa như Trái Đất : 1/. CÔ ÂM BẤT SINH , ĐỘC DƯƠNG BẤT TRƯỞNG Vâng , điều này NCD luôn nhắc mãi. Đây là LÝ của Dịch , cũng là LÝ của PT_ dù theo bất kỳ trường phái nào thì cũng không thể gạt bỏ ý này , xin hãy nhớ !!! Vậy thì khi nào sẽ rơi vào trường hợp này ? Ấy là khi 2 Cung Thuần Âm hay Thuần Dương. Khi ấy , dù cho có giao phối nhau cho ra Cát Du Niên , thì sự tốt đẹp ấy cũng không được bền lâu. Cũng như 2 vợ chồng vậy thôi , người này nóng (Dương )thì người kia phải nguội (Âm ) chứ , nếu không chắc tan hoang nhà cửa quá. Việc phân cung Âm , Dương này ta có thể chủ động được , nên khi phối Cung , ta không chỉ xét Du Niên tốt , mà nên xem cả việc nó có đú Âm Dương chưa? Nếu thiếu thì ta tìm cách bổ khuyết vào. Ví dụ 1: Nhà có cửa Tốn , Sơn Chủ Khảm. Phối với nhau được Sanh Khí Trạch , lại đủ Âm Dương tất phát dài lâu vậy. Ví dụ 2: Nhà có Cửa Cái Khảm , Sơn Chủ Chấn. Phối với nhau được Thiên Y Trạch , nhưng đây là 2 Cung Thuần Dương không sanh hóa , ở lâu nhà này sẽ dẫn tới tuyệt tự. Ta có thể dùng BẾP LY Âm để trung hòa lại , tất phát bền lâu vậy. Các Cung Bát Quái phân Âm Dương , NCD đã có nói rồi , nay xin nhắc lại : _CUNG DƯƠNG : Càn vi Lão Ông, Khảm vi Trung Nam, Cấn vi Thiếu Nam, Chấn vi Trưởng Nam _CUNG ÂM : Tốn vi trưởng Nữ , Ly vi Trung Nữ , Khôn vi Lão Mẫu , Đoài vi Thiếu Nữ. 2/. NGOẠI SINH NỘI _ NỘI SINH NGOẠI : Ngoại sinh nội , là ngoài sinh vào trong , như Cung Cửa Cái sinh Cung Bếp , Cung Cửa Cái sinh Cung Sơn Chủ (hay Phòng Chủ). Quan hệ này gọi là SINH NHẬP. Hiệu ứng tốt đẹp sẽ đến sớm và nhanh , sự hanh thông trong gia đình thuận lợi hơn và dễ dàng hơn. Ví dụ : Cửa Tốn , Sơn Chủ Ly. Được Thiên Y Trạch , lại có Cửa Tốn Mộc ở ngoài sinh vào trong cho Sơn Chủ Ly Hỏa nên phát rất nhanh. Tuy 2 Cung này Thuần Âm , nhưng ta có thể dùng Bếp Khảm , hay Bếp Chấn trung hòa thì vẫn phát lâu bền được. Nội sinh ngoại , là ở trong sinh ra ngoài , như Cung Sơn Chủ (hay Cung Phòng Chủ ) sinh ra Cung Cửa Cái , Cung Bếp sinh ra Cung Cửa Cái. Quan hệ này gọi là SINH XUẤT. Hiệu ứng tốt đẹp sẽ đến trễ và chậm vì nhịp độ thưa thớt , sự hanh thông trong gia đình do cần lao đưa đến hơn là duyên may. 3/. NỘI KHẮC NGOẠI_ NGOẠI KHẮC NỘI : Nội khắc ngoại là ở trong khắc ở ngoài. Là Cung Sơn Chủ ( Phòng Chủ) khắc Cung Cửa Cái , Cung Bếp khắc Cung Cửa Cái. Quan hệ này gọi là KHẮC XUẤT . Trong trường hợp này , dù người trong nhà chống chế được ngoại cảnh , nhưng cuối cùng vẫn là sự hao tổn tinh thần và vật chất. BÁN HUNG. Ngoại khắc nội là ở ngoài khắc vào trong. Là Cung Cửa Cái khắc Cung Sơn Chủ ( Phòng Chủ ) , Cung Cửa Cái khắc Cung Bếp. Quan hệ này gọi là KHẮC NHẬP. Rơi vào trường hợp này , nạn tai sẽ đến nhanh và bất ngờ , không biết đâu mà lường và khó ứng phó , xoay trở , họa này do bên ngoài đưa đến. _ Cung bị khắc là Càn : Người đàn ông lớn tuổi trong nhà , cha , ông bệnh đau , họa hoạn , vô năng , bất lực vì không thể thi thố được tài trí của mình. _ Cung bị khắc là Đoài : Khốn khổ cho con gái út , cháu gái nhỏ. _ Cung bị khắc là Khôn : Tổn hại cho Lão mẫu , người bà-mẹ-vợ trong nhà _ Cung bị khắc là Ly : Tổn hại cho con gái , cháu gái giửa , trung nữ. _ Cung bị khắc là Tốn : Tổn hại cho con gái , cháu gái lớn , tức hạng nữ nhân trung tuổi trong nhà. _ Cung bị khắc là Chấn : Tổn hại cho hàng nam nhân trọng tuổi như con trai trưởng , cháu trai trưởng trong nhà. Đặc biệt nếu chỗ đó là Từ Đường thì bất kể Trưởng Tử , Trưởng Tôn nội , ngoại đều bị khắc cả. Xin cẩn thận !!! _ Cung bị khắc là Cấn : Tổn hại cho con trai nhỏ , con trai út , cháu trai nhỏ , thiếu nam ( ở đây cũng có thể là...con trai dòng thứ ) _ Cung bị khắc là Khảm : Tổn hại cho con trai giửa , cháu trai giửa , trung nam trong nhà. 4/.NGOẠI CHIẾN _ NỘI CHIẾN : Sao được coi là yếu tố bên ngoài , vì nó còn phài do các Cung hỗ biến với nhau mà ra , như là các yếu tố ngoại lai vậy. Các Cung được xem là các yếu tố bên trong , bởi chúng là yếu tố có sẵn nằm trên địa bàn , như cái gốc rễ bên trong vậy. _ Sao khắc Cung : Là ngoài khắc vào trong , được gọi là ngoại chiến , ví như kẻ gây chiến từ bên ngoài đến vậy. _ Cung khắc Sao : Là trong khắc ra ngoài , được gọi là nội chiến , như người trong nhà ra ngoài sinh sự vậy. Theo Dương Trạch Tam Yếu thì cho rằng : Mỗi trường hợp Nội Chiến sẽ giảm 50% tốt. Mỗi trường hợp Ngoại Chiến sẽ giảm 30% tốt. Như vậy nghe có vẻ không hợp lý ! Vì sao? Ta thử nghĩ xem nhé ! Nội Chiến là Cung khắc Tinh , là trong khắc ra ngoài , ví như người trong thắng thế , tức Cung còn khả năng chế ngự Hung Tinh , khiến Hung Tinh cũng phải kiêng dè không dám hành hung nữa. Vậy thì phần xấu phải giảm đi nhiều hơn chứ , sao lại giảm đến 50% tốt ??? Còn Ngoại Chiến là Sao khắc Cung , là ngoài khắc vào trong , ví như người trong nhà yếu thế. Khi ấy Hung Tinh thắng thế , ví như tiểu nhân đắc chí , tha hồ tác yêu tác quái , hoành hành bá đạo. Thế thì phần Hung Hại của chúng càng nhiều hơn , sao chỉ giảm có 30% tốt ??? SƠN CHỦ VÀ CỬA CÁI ******** KIM YEN xin giới thiệu qua các câu thiệu về từng trường hợp Sơn Chủ phối với Cửa Cái : 1/ SƠN CHỦ LÀ CẤN : Phối với Cửa Cái là : _ Cấn : Trùng trùng , điệp điệp , thê tử thương _ Chấn : Long phó Sơn trung , thiểu nhi lang. _ Tốn : Phong sơn quả mẫu , đa phạp tự. _ Ly : Hỏa Sơn phụ cương , bất điều kinh _ Khôn : Địa Sơn thổ trùng , điền sản túc. _ Đoài : Trạch Sơn tăng phúc , tiểu phòng vinh. _ Càn : Thiên lâm Sơn thượng , gia phú quý. _ Khảm : Thủy ngộ Sơn khắc , phạp tự tình. 2/. SƠN CHỦ LÀ CHẤN : Phối với Cửa Cái là : _ Chấn : Thê tử tương khắc , Chấn mộc trùng. _ Tốn : Phong Lôi công danh tợ hỏa sung. _ Ly : Hỏa Lôi phát phúc , lương-hiền nữ. _ Khôn : Nhân lâm Long vị : mẫu sản vong. _ Đoài : Hổ nhập Long oa : lao cổ phế. _ Càn : Quỷ nhập Lôi môn thương trưởng tử. _ Khảm : Thủy Lôi phát phúc duy tuyệt tự. _ Cấn : Lôi Sơn tương kiến : tiểu nhi ương. 3/. SƠN CHỦ TỐN : Phối với Cửa Cái là : _ Tốn : Nhi nữ gian nan thị trùng Phong _ Ly : Hỏa Phong :đinh hi, gia hảo thiện. _ Khôn : Nhân mai địa hộ :lão mẫu vong _ Đoài : Hổ phùng hạn địa diệc âm thương. _ Càn : Càn Tốn sản vong , tâm thối thống. _ Khảm : Thủy Mộc vinh hoa , phát nữ tú ! _ Cấn : Sơn ngộ Phong môn quả mẫu tuyệt. _ Chấn : Lôi Phong tương phối tốc phát phúc ! 4/. SƠN CHỦ LY : Phối với Cửa Cái là : _ Ly : Hỏa diệm trùng trùng , nam nữ thương. _ Khôn : Nhân môn kiến Hỏa đa quả phụ. _ Đoài : Hổ Hỏa viêm chung : nữ thiếu vong. _ Càn : Càn Ly : quả cư , sinh nhãn tật. _ Khảm : Ký tế danh tỳ : Đại kiết xương ! _ Cấn : Sơn phùng Hỏa hủy cương phụ nữ. _ Chấn : Lôi Hỏa quang minh : Phú quý xương ! _ Tốn : Phú quý , phạp tự : Phong Hỏa đương. 5/. SƠN CHỦ KHÔN : Phối với Cửa Cái là : _ Càn : Thiên môn đáo địa : Vinh hoa chủ ! _ Khảm : Thủy Thổ hình nam _ tử trung niên. _ Cấn : Sơn Địa điền sản đa tấn ích ! _ Chấn : Long nhập nhân môn , mẫu qui tiên. _ Tốn : Phong đáo nhân môn , vong tiên mẫu. _ Ly : Hỏa đáo nhân môn , tuyệt tự liên. _ Khôn : Trùng địa , cô quả chưởng gia viên. _ Đoài : Trạch Địa : Tài long, dị tính quyền. 6/. SƠN CHỦ ĐOÀI : Phối với Cửa Cái là : _ Khôn : Địa Trạch tấn tài , tuyệt tự vương. _ Đoài : Trạch trùng tiếu phụ chưởng quyền binh _ Khảm : Trạch ngộ Thủy tiết , thiếu nữ vong. _ Càn : Thiên Trạch tài vượng : Đa loạn dâm. _ Cấn : Sơn Trạch nhơn vượng , gia phú quý. _ Chấn : Long tranh, hổ đấu trưởng nam thương. _ Tốn : Phong sinh hiện hổ thương trưởng phụ. _ Ly : Ly Đoài quang hỏa : thiếu nữ thương. 7/. SƠN CHỦ CÀN : Phối với Cửa Cái là : _ Khảm : Thủy tiết Càn khí : Dâm , bại , tuyệt. _ Cấn : Sơn khởi Thiên trung , tử vinh , hiền. _ Chấn : Long phi Thiên thượng , vong ông lão _ Tốn : Phong Thiên đông thống , trưởng phụ viên( =>viên tịch ) _ Ly : Ly Càn giao phối , nữ đoạt tiên _ Khôn : Địa khởi Thiên môn : Đa phú quý ! _ Đoài : Trạch Thiên quả nữ chưởng binh quyền _ Càn : Càn Càn thuần Dương thương phụ nữ. 8/. SƠN CHỦ KHẢM : Phối với Cửa Cái là _ Cấn : Quỷ ngộ uông dương : Lạc thủy thương. _ Chấn : Lôi Thủy : Phạp tự , đa hành thiện. _ Càn : Thiên môn lạc Thủy : Xuất dâm cuồng. _ Ly : Âm Dương chính phối : tam đa cục ! _ Tốn : Thủy Phong : ngũ tử đăng khoa tường ! _ Đoài : Bạch hổ đầu giang : Vong lục súc. _ Khôn : Khôn Khảm trung nam mạng bất tồn. _ Khảm : Thủy nhược trùng phùng thê tử ly. DU NIÊN TRẠCH ******** Như ta đã biết , 1 căn nhà chịu ảnh hưởng rất lớn bởi Sao Chúa và Du niên Trạch. Nay KIM YEN xin giới thiệu 7 loại Du Niên Trạch ? Sao chỉ có 7 loại ? Vì Phục Vị Trạch thực tế gần như không có , và nó chỉ là 1 Du Niên trung bình không đáng để luận. SANH KHÍ TRẠCH : 1/. CỬA CÁI KHẢM -SƠN CHỦ TỐN : THỦY MỘC VINH HOA : PHÁT NỮ TÚ. Nếu nhà có tác dụng , thì ngay khi còn nhỏ , Trưởng nữ đã mỹ mạo , thông minh ; lớn lên thì đoan trang , hiền thục ,hiếu để ,đem lại danh giá cho gia đình. Nếu cặp vợ chồng trẻ ở nhà này , người đàn bà không những tú lệ mà còn vượng phu ích tử , 1 tay đắc lực giúp chồng xây dựng và củng cố gia nghiệp. Là nhà tốt đệ nhất của Đông Tứ Trạch , lại thêm ngoài Thủy sinh Mộc trong , phát đạt đến cấp kỳ , đắc cả phú lẫn quý , vừa giàu sang vừa danh giá , con hiếu cháu hiền , nam thanh nữ tú , của cải ngày một phát đạt. Nếu được nhà-3-tốt ( là 3 cung Cửa Cái _Bếp _Sơn Chủ hay Phòng Chủ biến với nhau có đủ : THIÊN Y-SANH KHÍ-DIÊN NIÊN , gọi là nhà-3-tốt ) , thì có thể duy trì cơ nghiệp đến 80 năm. Thời hiệu này còn có thể tăng hơn nữa ,nếu gia chủ cũng có Quái Số thuộc nhóm Đông Tứ Trạch. Khi ấy nhà sẽ sản sinh ra bậc cái thế anh hùng , hiền lương đạo đức , giúp dân giúp nước , làm nên đại nghiệp. 2/. CỬA CÁI TỐN -SƠN CHỦ KHẢM : NGŨ TỬ ĐĂNG KHOA THỊ PHONG THỦY. Nhà có 5 con đỗ đạt , 5 là số tượng trưng cho sự tối đa của cách Sanh Khí Mộc này , không nhất thiết phải là 5. Nhà thuộc 2 cách này , con cháu ngày càng đông đảo và tài trí hơn người. Khoa hoạn và quý hiển của nhà này nối tiếp nhiều thế hệ, vì nhà này không có dân giả tầm thường. ***Đặc biệt : Nếu nhà Cửa Tốn -Chủ Khảm - Hướng Ly , tức là nhà trổ cửa thiên môn bên trái (từ trong nhìn ra ) : Nên làm 2 ngăn với ngăn cuối làm Phòng Chúa , để Sao Vũ Khúc Kim Đắc Vị Nhập Miếu (Tinh sanh Cung ). Nếu làm 4 ngăn thì hãy để ngăn cuối cao rộng hơn hết , để Sao Tham Lang Mộc Đắc Vị Nhập Miếu ( Cung sanh Tinh ) ; TUYỆT ĐỐI KỴ trong trường hợp này là làm 3 ngăn với ngăn 3 lớn nhất , khi đó Sao Lục Sát Đăng Điện Nhập Miếu , gia cư tán bại , Danh giá vùi xuống bùn nhơ !!! Do đó , được cuộc đất lợi thế chưa phải là đủ. Xin hãy cẩn thận !!! 3/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ CẤN : ĐỊA SƠN THỔ TRÙNG : ĐIỀN SẢN TÚC. Nhà này có nhiều ruộng vườn , gia súc ; con hiếu cháu hiền , gia đạo hòa thuận , ai cũng thọ mạng nên nhà đông cả nam lẫn nữ. Chỉ nên làm 3 ngăn với ngăn 3 làm Phòng Chúa , để có Sao Cự Môn Thổ Đăng Điện Nhập Miếu. Nếu làm 4 ngăn thì ngăn 4 lớn hơn để Sao Vũ Khúc Kim Đắc Vị Nhập Miếu. 4/.CỬA CÁI CẤN -SƠN CHỦ KHÔN : SƠN ĐỊA ĐIỀN SẢN ĐA TẤN ÍCH. Ngoài những đặc tình giống cách trên , nhà này còn có triệu Hỷ Lạc , vì tượng quẻ là Mẹ (Khôn) gặp Con (Cấn). Giàu sang, phú quý , thọ mạng. 5/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ LY : LÔI HỎA QUANG MINH : PHÚ QUÝ XƯƠNG. Ngoại sanh nội , lại đủ cả Âm Dương : Phu phụ tương thân ,tương kính ,con cái hiển đạt ,gia đình vẻ vang ,sự hưng phát của nhà này đầy khí thế đều nhở Chấn và Sanh Khí Mộc lâm cung Ly, sanh cho Sơn Chủ Ly. Điền sản đã phong thịnh , người đã hiển đạt danh giá` , trai tuấn tú , gái mỹ lệ , lại còn người nào cũng thuần hậu , hiền lương , thật là người xứng của. 6/. CỬA CÁI LY -SƠN CHỦ CHẤN : HỎA LÔI PHÁT PHÚC : PHỤ NỮ LƯƠNG. Đạt cách cục Mộc_Hỏa thông minh. Nhà Sanh Khí Mộc lâm Chấn Mộc : Sanh Khí Đăng Điện => Đại thịnh vượng, đại cát xương. Nhà đầy trai thanh gái lịch , thông minh lại lương thiện , công danh rỡ ràng hiển hách. Nhà này còn được các nhà PT đặt cho cái tên gọi nữa là " Bình địa nhất thanh lôi ", hiển đạt bất ngờ , từ bần hàn thành phú quý rất nhanh chóng. 7/. CỬA CÁI CÀN -SƠN CHỦ ĐOÀI : THIÊN TRẠCH TÀI VƯỢNG : ĐA DÂM LOẠN ! Cách cục này sinh tài lộc vượng , nhưng chỉ được lúc đầu thôi. Càng về sau càng chịu nhiều lời tai tiếng , không còn quý hiển nữa. Đoài vi Thiếu Nữ , ví như gái còn tơ măng mơn mởn , mà ưng giao phối cùng ông già_ Càn vi Lão Ông, dú có thật vì tình nghĩa cũng khó tránh dị nghị , ảnh hưởng đến thuận hợp gia đạo. Chồng giả cỗi , vợ còn trẻ măng đầy xuân sắc sung mãn , tất chồng già say mê cô vợ trẻ rồi kiệt lực , ngày càng suy nhược , có thể chết bỏ lại vợ trẻ giữ gia sản. Đây chính là cách cục thường gặp của nhà này : Mẹ kế còn trẻ măng tranh chấp gia sản với con riêng chồng lớn tuổi hơn , hay vợ trẻ lang chạ ngoại tình _ vì chồng già không tương hợp về nhiều mặt vậy. 8/. CỬA CÁI ĐOÀI -SƠN CHỦ CÀN : TRẠCH THIÊN QUẢ MẪU CHƯỞNG TÀI NGUYÊN. Cũng tương tự như trên , lão ông sủng ái cô vợ trẻ....dẫn đến lắm chuyện phiền toái vậy ! DIÊN NIÊN TRẠCH 1/. CỬA CÁI CÀN -SƠN CHỦ KHÔN : THIÊN MÔN ĐÁO ĐỊA : CHỦ VINH HOA. Diên Niên kim gặp cung Khôn Đắc Vị , nên càng đem nhiều phước lợi cho nhà : Con hiếu cháu hiền , vừa giàu có vừa hiển đạt , có danh thơm tiếng tốt , vửa được ban thưởng phong tặng. Càn vi Lão Ông , Khôn vi Lão Mẫu , nên có thể nói đây là cách cục Âm Dương tương phối rất xứng , lại thêm là nhà Diên Niên , chủ về hạnh phúc lứa đôi, nên ở nhà này vợ chồng sẽ chung sống hài hòa , hạnh phúc , lại thêm thọ mạng. Nếu chủ nhà có Quái Số thuộc Tây Mạng thì....trên cả tuyệt vời ! 2/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ CÀN : ĐỊA KHỞI THIÊN MÔN : PHÚ QUÝ XƯƠNG ! Càng thêm thuận lợi hơn cách trước , bởi bây giờ là Cửa ngoài sinh vào Sơn trong , nên sự phát đạt càng mau chóng hơn nữa , dễ dàng hơn nữa. Sơn Chủ Càn kim gặp Vũ Khúc kim thật tương hòa , tương mỹ. Có 2 điều lợi thế trong cách này : _ Cửa Cái sinh Sơn Chủ giúp phát mau. _ Diên niên Kim tỷ hòa Sơn Chủ Kim tạo thành nhà Vượng Cách , cực kỳ tốt. Nếu gia chủ là tây mạng nữa thì như gấm thêu hoa , trai anh hùng gặp gái thuyền quyên. Chính vì vậy , trong cách này mới tượng quẻ là " Xương ". 3/. CỬA CÁI CẤN -SƠN CHỦ ĐOÀI : SƠN TRẠCH NHƠN VƯỢNG : GIA PHÚ QUÝ . Đây cũng là 1 trong những nhà thuộc Đệ Nhất Cách của Tây Tứ Trạch. Ở cách này , những người trẻ tuổi sớm thành đạt. Sự thuận lợi cho nhà này tương tự cách thứ II , vì Cửa sinh Chủ , Diên Niên Kim tỷ hòa với Sơn Chủ Kim nên Đăng Điện Vượng Cách. Đây cũng là sự giao phối tương xứng giửa Âm Dương , Cấn vi Thiếu Nam , Đoài vi Thiếu Nữ , rất xứng đôi phải lứa. Và kiến trúc này dễ gặp hơn cách Càn Khôn ở trên. Nhà này chẳng những phát mau mà còn khiến gia đạo thuận hòa , vợ chồng mãn ý. 4/. CỬA CÁI ĐOÀI -SƠN CHỦ CẤN : TRẠCH SƠN TĂNG PHÚC : TIỂU PHÒNG VINH. Nhà này Sơn Chủ sinh ra Cửa nên tuy phát nhưng gia chủ ắt hẳn cũng phải cực nhọc , lo toan không ít , nhất là với những người " tiểu phòng " . Hai chữ này ở đây ám chỉ thứ thê , thiếp trẻ , hay nói nôm na là....vợ nhỏ , cùng con cái của những người này. Nói chung về đặc tính tốt thì cũng tương tự 3 loại trên , duy chỉ cực nhọc hơn thôi , và người nhà này kém chững chạc hơn so với 2 cách đầu , và kém hiển hách hơn so với cách III 5/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ TỐN : LÔI PHONG TƯƠNG PHỐI : TỐC PHÁT PHÚC ! Cả 2 đều cùng hàng trưởng , đủ cả Âm dương , cũng như vợ chồng chính phối , đồng đẳng xứng đôi. Chấn Tốn cùng là Mộc nên Mộc khí cường thịnh , thành ra 1 loại "Danh Mộc , Thần Mộc ". Nay gặp Vũ khúc kim biến chế tất Mộc thành vật hữu dụng , quý giá. Ví như Mạng Tòng Bá Mộc sanh mùa xuân , trong ngày giờ có Kim vậy. Cho nên nhà này từ 1 bậc thường dân 1 bước nhảy vọt lên công danh hiển hách bất ngờ, đang bần cùng khốn khổ , chỉ trong sớm tối trở nên Đại Phú Đại Quý. Vì chỉ có 1 bước mà đường mây thênh thang rộng mở , nên cần xử sự hợp đạo và cận nhân tình. Ngoài Chấn , trong Tốn , tượng quẽ là Lôi Phong Hằng. Thoán từ của kinh Dịch có nói : Hằng ;hanh, vô cữu , lợi trinh, lợi hữu du vãng. Như vậy thì hàm ý sự việc chậm 1 tý thì lâu dài , không phải âu lo ; giữ theo chính đạo thì có lợi , tiến hành việc gì cũng thuận lợi. HẰNG tự nó là mang ý lâu dài , bền bĩ , chậm rãi rồi , nên trong trường hợp này cần cư xử cho hợp đạo mới vững bền. 6/. CỬA CÁI TỐN-SƠN CHỦ CHẤN : PHONG LÔI : CÔNG DANH NHƯ HỎA THÔI. Gió ở trên , Sấm ở dưới , gió thổi mạnh thì Sấm càng vang xa. Cách này và cách trên còn gọi chung là " Bình Địa Nhất Thanh Lôi ". Công danh thịnh đạt như trở bàn tay. Cách này giống cách trên ở chỗ từ bạch đinh thoáng chốc đã thành đại phú ông. Nếu dám chấp nhận nguy hiểm làm lợi ích cho người khác thì càng vang danh hơn. Chớ hãnh tiến quá mà mang họa vào thân , phải biết tiến thoái , biết nghĩ đến những người xung quanh mình ( ý quẻ Phong Lôi Ích : Ích chi đạo , dữ thời giai hành ). Phải cố hành thiện tích đức thì mới giử được cái phú quý lâu bền được (kiến thiện tác thiện , hữu quá tác cải ) , có sai thì phải biết sửa sai , chớ ngông ngênh làm càn mà mang tiếng " tiểu nhân đắc chí ". Cần xử sự khéo léo , tiến thoái hợp lẽ là ý chung cho 2 trường hợp này. Xin chớ vì đắc ý nhất thời mà buông lung sẽ khó mà giữ được lâu dài. 7/.CỬA CÁI KHẢM -SƠN CHỦ LY : THỦY HỎA KÝ TẾ : ĐẠI CÁT XƯƠNG ! Trung nam sánh duyên Trung nữ , vợ chồng chính phối , đồng đẳng. Gia đình hài hòa , hạnh phúc , người đông , của nhiều , giàu có lại danh vọng. Đây là Quẻ Thủy Hỏa Ký tế. Ký tế là đã xong , là được hanh thông rồi , nếu chịu làm hết các việc nhỏ còn lại và củng cố những việc đã thành tựu thì mới được lợi. Mới đầu được tốt nhưng cuối cùng sẽ loạn ( sơ cát chung loạn ). 8/. CỬA CÁI LY-SƠN CHỦ KHẢM : ÂM DƯƠNG CHÍNH PHỐI : PHÚ QUÝ CỤC . Nhà này đắc cả Tam Đa : Phúc -Lộc -Thọ , gia tư phong thịnh , giàu sang , quý hiển , trường thọ. *** Lưu ý : Hai cách sau này là nhà nằm trên trục Nam Bắc , nên nhà ở chịu ảnh hưởng của 2 cực trên Trái đất , ở lâu tất sinh bịnh đau mắt, hại tim , bụng đau nhức , khắc vợ , nhà khắc khẩu. Muốn phá giải nên đặt bếp Chấn hoặc Tốn , lấy Mộc làm trung gian hòa giải nước và lửa. Ngoài ra , sự hóa giải này còn 2 điều lợi : _ Khảm sinh Chấn : Tạo ra sự hanh thông , thịnh cát. _ Chấn Mộc sinh Ly Hỏa : Cách cục Mộc Hỏa thông minh => người trong nhà sẽ mỹ lệ , thông minh tài trí. THIÊN Y TRẠCH : 1/. CỬA CÁI CÀN - SƠN CHỦ CẤN : THIÊN LÂM SƠN THƯỢNG : GIA PHÚ QUÝ Giàu tiền bạc ,của cải , ruộng đất. Sang trọng , có chức vị lớn trong xã hội, người đời trọng vọng. Thiên Y với Sao Cự Môn là Phúc Tinh , rất hợp với Tây Tứ Trạch. Sao Cự Môn nếu Đăng Điện sẽ đem lại thịnh vượng ở mức độ sâu dầy , con cháu đông , điền sản nhiều , danh giá lớn , con hiếu cháu hiền. Tuy nhiên , do 2 cung Thuần dương nên sự tốt đẹp đó chỉ được khoảng 20-30 năm , sau đó nhà này sẽ khiến khắc chế vợ con , ở lâu sẽ tuyệt tự. 2/. CỬA CÁI CẤN -SƠN CHỦ CÀN : SƠN KHỞI THIÊN TRUNG : TỬ QUÝ HIỂN. Sự hanh thông , hưng vượng dễ dàng hơn và mau chóng hơn cách trên , nhờ Cửa sinh Sơn Chủ. Thiên Y thổ lâm Sơn Chủ Càn kim Đắc vị => Nhà được cả danh vọng lẫn tiền bạc , của cải , người nhân từ hay làm việc thiện. Đàn ông sống lâu , đàn bà chết sớm vì nhà Thuần Dương , chẳng nên ở nhà này lâu quá 30 năm kẻo tuyệt tự. 3/. CỬA CÁI KHẢM -SƠN CHỦ CHẤN : THỦY LÔI PHÁT PHÚC , CỮU : TUYỆT TỰ . Trong vài ba mươi năm đầu , nhà này con cái đông đảo , công danh hiển đạt , nhà đầy hỷ lạc vì nhiều người hiền lương , trung nghĩa. Ở lâu hơn nữa , điền tài suy giảm , hậu tự khó khăn bởi cách Thuần Dương. 4/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ KHẢM : LÔI THỦY : PHẠP TỰ , ĐA HÀNH THIỆN. Dù Cửa và Sơn Chủ tương sinh , nhưng nội sinh ngoại , nên người trong nhà cực nhọc hơn , nếp sinh hoạt rộn ràng hơn cách trên. Chỉ giúp phát đạt , đông đảo lúc đầu . Về sau , khắc chế vợ con , gia cảnh lụn bại , bởi Thuần dương. 5/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ ĐOÀI : ĐỊA TRẠCH : TẤN TÀI , TUYỆT HẬU TỰ. Thiên Y thổ gặp Đoài kim Đắc vị , lại là Ngoại sinh Nội , nên ruộng vườn , tài sản hưng phát ,người nhà nhơn đức. Về sau , nhà Âm thịnh tất Dương suy , bất lợi cho đàn ông , con trai. Âm khí nặng nề sẽ tổn hại cho sự thanh khiết. Mẹ già góa chìu chuộng con rễ quá mức ( vì yêu thương con gái : do Khôn sinh Đoài ) khiến gia pháp chẳng nghiêm ,lần lần kẻ khác họ kế tự. 6/. CỬA CÁI ĐOÀI -SƠN CHỦ KHÔN : TRẠCH ĐỊA : TÀI LONG , DỊ TÁNH CƯ. Dị tánh là người khác họ , ở đây ám chỉ người dưng rặt ,tỷ như chỉ có bà con với dâu hay rễ thôi. Những người này đấn ở chung nhà , ban đầu chỉ là tạm thời , dần dà chiếm được lòng tin yêu hoặc do sự cần thiết của gia đình , họ trở thành những nhân vật quan trọng , cuối cùng có thể đi tới chỗ chiếm đoạt cơ nghiệp. Cách này tiền bạc , ruộng vườn dồi dào , gia đạo hoan hỷ , vì cả nhà đều phước thiện. Hiềm nổi nhà này Âm thịnh Dương suy , nam nhân lần hồi thưa thớt , nữ quản gia tư và quyền quản lý có thể về tay người khác. 7/. CỬA CÁI TỐN -SƠN CHỦ LY : PHÚ QUÝ , PHẠP TỰ : PHONG HỎA ĐƯƠNG Đắc cách Mộc Hỏa thông minh => Đàn bà con gái trong nhà đều mỹ lệ , vừa đẹp vừa tài trí , giáu có , sang trọng. Người nhà giàu lòng nhân ái , xử thế khéo léo . Nhưng tiếc rằng nhà này Thuần Âm , nên cũng không tránh khỏi kết cục tuyệt hậu như trên. 8/. CỬA CÁI LY -SƠN CHỦ TỐN : HỎA PHONG : ĐINH HI , GIA HẢO THIỆN. Nhà này đắc cả Phú lẫn Quý , nhà toàn hiền lương , trung hậu. Nữ nhân nắm quyền , nam nhân ít ỏi , có thể phải nhận con nuôi kế tự cũng vì cách Thuần Âm. ***LƯU Ý : Nhà Thiên Y không bằng nhà có Sao Chúa là Cự Môn Đắc vị hay Cự Môn Đăng Điện Nhập Miếu,vì nó đắc cách nên có thể phá giải cô Âm-độc Dương mà vẫn đạt được sự tốt đẹp của Cự Môn. Nhà Thiên Y tất cả đều vướng cách Thuần Âm hay Thuần Dương, nên dùng Bếp để có đủ Âm Dương , thì mới ở lâu dài được. NGŨ QUỸ TRẠCH : 1/. CỬA CÁI CÀN -SƠN CHỦ CHẤN : QUỶ NHẬP LÔI MÔN : THƯƠNG TRƯỞNG TỬ. Tai họa ở cách này đến cấp kỳ , đú cả : khẩu thiệt , quan phi , đạo tặc , tù tội , cha con bất hòa , gia súc nuôi chết , hiện tượng quái dị phát sinh trong nhà; tim , bụng đau nhức , con cái chưa nên gia thất đã vong mạng , sinh kế trở ngại , điền sản tiêu tan. 2/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ CÀN : LONG PHI THIÊN THƯỢNG : LÃO ÔNG ƯƠNG . Tuy chủ khắc cửa cái , nhưng Sao Liêm Trinh Hỏa khắc Sơn Chủ Càn Kim , khiến cho gia chủ lực bất tòng tâm. Từ việc gia chủ bất mãn , sinh ra sa đà vào trụy lạc trác táng. Ngoài ra , cách này còn dễ phát sinh án mạng , hoặc người trong nhà bị chết dữ ( tai nạn, ửa đốt,nước sôi ); khắc hại vợ con , phải cưới thê thiếp nhiều lần , lại thêm mục tật , sản nạn , ung nhọt độc hại. 3/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ TỐN : NHÂN MAI ĐỊA HỘ : LÃO MẪU VONG. Nói về Âm Dương thì : Dương là minh , thanh...;Âm là ám , trọc... Nhà này đã Thuần Âm lạ phạm Ngũ Quỷ , Âm Khí càng nặng nề , trong nhà nhiều điều lầm lỗi như : đam mê tửu sắc , dâm bôn , sanh sứa chuyện điên cuồng ; con gái lớn khắc mẹ già ; người thì dễ mắc bệnh tỳ vị hay bộ máy tiêu hóa yếu ; dễ mắc vạ mồm miệng , quan tụng . Nam đoản mạng , nữ góa bụa. Lâu ngày dẫn đến tuyệt tự. 4/. CỬA CÁI TỐN - SƠN CHỦ KHÔN : PHONG ĐÁO NHÂN MÔN : MẪU TIÊN VONG . Cửa cái Tốn Mộc khắc vào trong Sơn Chủ Khôn Thổ , bao nhiêu tai họa từ ngoài đưa đến trút cả lên người mẹ lãnh hết , nên chết sớm. Nhà như có ma quỷ phá vậy , tai nạn đến bất kỳ. Trưởng nữ lộng hành , mẹ con ( hay bà và cháu gái )tương khắc lẫn nhau , nhiều điều lo buồn đưa đến , phát sinh bệnh tỳ vị , da vàng , phù thũng. Người nhà yểu vong. Phát sinh chuyện phóng đãng , trụy lạc , đạo tặc , làm tán gia bại sản. Nhà này không nên ở lâu , sẽ tuyệt tự ở vài thế hệ sau. 5/. CỬA CÁI CẤN -SƠN CHỦ KHẢM : QUỶ NGỘ UÔNG DƯƠNG : LẠC THỦY THƯƠNG. Lạc thủy thương ở đây ám chỉ những vụ : Gieo đầu xuống sông , xuống giếng tự vẫn , hay bị hỏa nạn thủy tai. Trong nhà , anh em tương chiến tưng bừng , con cái bất hiếu , ngỗ nghịch.Là nhà khắc hại vợ con , tai vạ đến ào ào không kịp chống đỡ , gia sản tiêu tan . 6/. CỬA CÁI KHẢM -SƠN CHỦ CẤN : THỦY NGỘ SƠN KHẮC : TU PHẠP TỰ . Là Sơn Chủ Cấn Thổ khắc ra ngoài Cửa Cái Khảm thủy , nội khắc ngoại , gia chủ còn gắng gượng chống đỡ được , nhưng cuối cùng cũng lụn bại , gia nghiệp tiêu tan , đặc biệt nhà này rất khó nuôi con nít , nên khó giữ hương lửa. Còn nhỏ thì bị Sát chụp; lớn lên nếu không tự thắt cổ , nhảy sông , uống thuốc rày thì cũng tương tranh , huynh đệ thủ túc tương tàn , gia đạo cực kỳ hỗn loạn. ***LƯU Ý : 2 cách 5 & 6 này Nam Nhân tranh chiến rất ác liệt. 7/. CỬA CÁI ĐOÀI -SƠN CHỦ LY : HỔ HỎA VIÊM CHUNG : NỮ THIẾU VONG . Nhà này trong khắc ra ngoài. Ly mãi mê đốt Đoài , khắc Đoài , rốt cuộc lại thì Ly cũng tắt. Nhà này nữ nhân lộng hành , đoạt quyền chồng , gây điều tệ hại. Có người bệnh phổi , ho lao. Không khí trong nhà này luôn ngột ngạt , căng thẳng , nặng nề. Và nhất là bùng ra những vụ Hung Tử , Bạo Tử bất chợt , dẫn đến gia nghiệp tiêu tan. 8/. CỬA CÁI LY -SƠN CHỦ ĐOÀI : LY ĐOÀI HỎA QUANG : THƯƠNG THIẾU NỮ . Ám chỉ những Hỏa nạn như : Phỏng lửa , tự thiêu , cháy nhà. Nhà này là ngoài khắc vào trong => Người ngoài đời khinh rẽ người trong nhà , mà người trong nhà khó nỗi chống chế. Ly lại là tượng phụ nữ. Nên khiến người đàn bà từ ngoài đến làm loạn kỷ cương , gia chủ buồn phiền sinh lao tổn rồi chết. *** LƯU Ý : 2 cách 7 & 8 này Nữ Nhân giao chiến , lộng quyền. HỌA HẠI TRẠCH : 1/. CỬA CÁI KHẢM -SƠN CHỦ ĐOÀI : TRẠCH NGỘ THỦY TIẾT : THIẾU NỮ VONG. Tai họa xảy đến cho cả chủ nhà và con gái út ( con gái -cháu gái nhỏ). Nhà này khiến tán tài , nhiều tai biến xảy đến , dẫn tới phá tan gia nghiệp , hàng phụ nữ trẻ , thiếu phụ phải chết non , chủ nhà lao tổn quá độ sinh bệnh ở phổi và những cơ quan liên hệ. 2/. CỬA CÁI ĐOÀI -SƠN CHỦ KHẢM : BẠCH HỔ ĐẦU GIANG : LỤC SÚC THƯƠNG. Cửa Đoài , Sơn Chủ Khảm , là Đông Tây giao chiến , Kim bị Thủy làm tiết khí ( vì Kim phải sinh Thủy mà ) , nên Đoài chịu thua , ví như thiếu nữ sao bì với sức trai tráng trung niên được ? Lại thêm Đoài sinh xuất bị hao tổn tinh khí , nên nhà này tổn thương lục súc , ăn mòn phúc lộc , khuyết gia nghiệp rồi lụn bại hẳn luôn. 3/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ CHẤN : NHÂN LÂM LONG VỊ : MẪU SẢN VONG . Nhà này có thể xảy ra 1 trong 4 điều sau : _ Người mẹ sinh con trai thì bị sản nạn chết. _ Mẹ con bất hòa trầm trọng. _ Trước tổn hao tiền của , sau thoái bại nhân khẩu. _ Giữ được tiền của thì nhân số giảm dần , nếu giữ được nhân số thì tiền của suy hao , tán gia bại sản 4/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ KHÔN : LONG NHẬP NHÂN MÔN : THƯƠNG LÃO MẪU Nhà này con trai trưởng khắc mẹ già ( Chấn vi trưởng nam, Khôn vi lão mẫu ,Chấn mộc khắc Khôn thổ ) , làm mẹ già khốn khổ , sinh bệnh bao tử và bệnh về bộ máy tiêu hóa. Sự xung đột lên đến cao độ , có thể tới mức mẹ con không còn nhìn mặt nhau , và lão mẫu phải thoát ra khỏi nhà mới mong tồn tại. Nhà Họa Hại là Sao Lộc Tồn Thổ , nó tỷ hòa với Sơn Chủ , nên lúc đầu cũng rộn rịp , đông người ở , tiền bạc dư dả , về sau phải mất 1 trong 2. 5/. CỬA CÁI TỐN -SƠN CHỦ CÀN : PHONG THIÊN ĐÔNG THỐNG : SÁT TRƯỞNG PHU Nhà này nội khắc ngoại , người trong nhà mạnh thế , kẻ bên ngoài có ghét cũng chẳng làm gì được. Trong nội bộ gia đình thì hoặc chồng khắc vợ , hoặc cha khắc con gái. Khằc thì ngoài mặt chẳng ưa , hoặc nặng hơn thì chửi rủa ,đánh đập. Có khi chỉ khắc trong thần khí,làm nữ này bịnh đau triền miên rồi yểu mạng. Cách Họa Hại này thuận với Sơn Chủ ( thổ và kim ) , vì vậy về ý thức hệ : Chuyện Họa Hại nhiều khi chỉ được sửa đổi ngoài mặt , nhưng kỳ thực Hung hại như được Sơn Chủ (người đàn ông lớn tuổi trong nhà , người chồng , người cha , người trụ cột trong nhà đó ) bao dung, che lấp. Nên thỉnh thoảng lại có 1 hình thái tai họa nổi lên (như say rượu về đánh vợ con,đập phá đồ đạc..) Mặt khác , Cửa Tốn lại chống chế nổi Họa hại này. Theo thời gian , sức chịu đựng , sự nhẫn nhục được chấp nhận như là thứ định mạng. Hơn nữa , sự chịu đựng được giúp sức bằng những đợt tài lộc thỉnh thoảng đáo lai , vì Càn khắc Tốn mà cũng làm Tốn thành vật hữu dụng. Nhà này chì thành đạt đoản kỳ. 6/. CỬA CÁI CÀN -SƠN CHỦ TỐN : CÀN TỐN SẢN VONG , TÂM THỐI THỐNG. Đây là cách từ ngoài khắc vào trong , tai họa đến liên miên , thưa kiện rối ren , người bệnh , của tiêu tan , đàn bà bị chết vì sanh đẻ (sản nạn) , yểu vong , trộm cướp ; thường dễ bị các bệnh về tim , mông đau nhức. ***LƯU Ý : CÁCH SỬA CHỮA ở 2 cách 5 & 6 này : _ Gặp cách 5 : Nên biến thành Tịnh Trạch với Cửa Tốn, Phòng Chủ Khảm chẳng hạn. từ nhà Họa hại sẽ thành nhà Sanh Khí. _ gặp cách 6 : Nên đổi từ Chính Môn Càn ra Hữu Thiên Môn Khảm ( từ trong nhìn ra , cửa nằm bên tay phải gọi là Hữu thiên Môn ). Thiết kế theo Động Trạch với 2 ngăn, và ngăn 2 là Ngăn Chính cao lớn nhất : Nhà từ Họa Hại sẽ biến ra nhà với Sao Tham Lang Mộc Đăng Điện Nhập Miếu. 7/. CỬA CÁI CẤN -SƠN CHỦ LY ; SƠN PHÙNG HỎA HỦY : PHỤ NỮ CƯƠNG. Cấn là Dương thổ đã là đất khô ráo , nay lại bị thêm lửa Ly thiêu đốt , nên càng cháy tiêu hết dưỡng chất , trở thành đất chết không dùng được nữa. Nữ nhân trong nhà rất cương cường , khắc nam nhân , khiến gia đạo bất hòa , gây điều điên đảo. Họa hại thổ , Cấn cũng thổ, cả 2 hòa hợp , Họa Hại xu mị Cấn như kiểu chồn nịnh gà , nên cuối cùng Cấn thổ te tua mà Ly cũng rã rời. 8/.CỬA CÁI LY -SƠN CHỦ CẤN : HỎA SƠN PHỤ CƯƠNG : KINH BẤT ĐỀU. Nhà này là cách phụ nữ tiếm quyền , gia phong trong nhà rối ren , bại hoại , mọi việc như loạn cả lên. Là cách ngoài khắc vào trong ,. mà Ly vi trung nữ , Cấn vi thiếu nam , là tượng đàn bà từ bên ngoài đến làm loạn , làm hại thiếu nam trong nhà ( con tri út , cháu trai nhỏ , con trai vợ thứ ). Du niên Họa Hại hợp cả Cấn lẫn Ly , cho nên cách Họa Hại này cực kỳ nguy hiểm , gia chủ phải phước đức thật sâu dầy mới mong tránh khỏi được. Loại Họa Hại này , tai ách như cứ được bao che , dung túng bởi người trong cuộc , làm tác dụng của nó có tính dai dẳng . So với các loại Hung Du Niên khác thì cách Họa Hại thường rất khó chuyển đổi dù trên nhân thân hay trên nhà cửa. *** LƯU Ý :Nhà này có thể đổi sang Cửa Hữu thiên Môn Khôn , nhà làm 4 ngăn với ngăn sau cao-lớn nhất : Nhà từ Họa Hại sẽ thành nhà Sanh Khí Trạch , và có Sao Chúa Cự Môn Thổ Đăng Điện Nhập Miếu , từ xấu trở thành cực kỳ tốt vậy. TUYỆT MẠNG TRẠCH : 1/. CỬA CÁI CÀN - SƠN CHỦ LY : CÀN LY : QUẢ CƯ , SINH NHÃN TẬT. Ly hỏa chỉ chuyên khắc đối vật , đối nhân , thế của nó là lửa cháy nên rất mạnh mẽ , hung hãn nên ở trong nhà này rơi vào cảnh cô độc là chuyện thường . Ly vi trung nữ , Càn vi lão ông , trung âm sung sức khắc lão dương yếu đuối : Những người lớn tuổi sức khoẻ suy nhược , bại vong , chẳng những chết mà còn chết lãng , chết vô duyên , chưa đáng chết mà chết nữa. Thương sinh các chứng bệnh nhức đầu , mờ mắt , cao huyết áp. 2/. CỬA CÁI LY - SƠN CHỦ CÀN : LY CÀN : LÃO CÔNG CHỦ BẤT CỮU. Nhà này Âm thịnh Dương suy. Cửa Cái Ly Hỏa từ ngoài khắc vào trong Sơn Chủ Càn Kim , tai họa đến nhanh và bất kỳ , vô phương chống đỡ. Nhà này thường sinh ra chuyện tán tài , tuyệt tự , nữ nhân nắm quyền , các bệnh về mắt , ho hen do Hỏa thịnh , viêm khí quản -phổi , lao phổi. 3/. CỬA CÁI CẤN - SƠN CHỦ TỐN : SƠN NGỘ PHONG MÔN : QUẢ MẪU , TUYỆT. Tốn Mộc khắc Cấn Thổ , Tốn vi trưởng nữ , Cấn vi thiếu nam. Là tượng em trai bị chị lớn khắc hại , sao chịu nổi. Cấn vì bị tốn khắc nên trẻ nhỏ khó nuôi , dễ bị yểu mạng.Âm trấn áp Dương khiến Dương tuyệt , cón lại Cô Âm Bất Sinh, nên dẫn đến tuyệt tự. Du niên Trạch là Tuyệt Mạng kim lai khắc trở lại Tốn mộc => nhà này đàn bà chịu cảnh góa bụa , lại thêm bộ máy tiêu hóa suy nhược , vàng da , phù thũng => Đây là cảnh Âm cũng phải vong khi Dương đã tuyệt. Thường thấy ở cách này là : Chị gái và anh rễ chiếm lĩnh cơ ngơi ,tài sản cha mẹ để lại , em trai bị khống chế và cho ra rìa. 4/. CỬA CÁI TỐN - SƠN CHỦ CẤN : PHONG SƠN : QUẢ MẪU ĐA , PHẠP TỰ. Là ngoài khắc vào trong , tai họa đến như " sét đánh không kịp bưng tai " , vừa nhanh vừa bất ngờ khó chống đỡ. Do Cấn thiếu nam bị khắc nên trẻ nhỏ càng khó nuôi hơn , nam nữ gì cũng tai ương. Trạch chủ sống cô độc , âm thầm chịu đựng 1 cách vô vọng. Nhà này khiến sinh ra nhiều đàn bà góa. con cái hiếm muộn . Thường thấy ở cách này là : Em trai hưởng gia nghiệp , bất ngờ CÁC bà chị đã xuất giá ở đâu cũng về tranh chấp , lại còn mắng chửi. đe dọa. 5/. CỬA CÁI KHẢM - SƠN CHỦ KHÔN ; THỦY THỔ TƯƠNG KHẮC : TRUNG NAM TỬ. Tuyệt mạng vì Khôn khắc Khảm làm trung nam phải chết. Nhưng cách cục này có thể chậm chết hoặc èo uột , sống mà như chết rồi , hoặc không chết bất ngờ vì : _ Sao Phá Quân Kim sinh Khảm , như giúp thêm sức chịu đựng. _ Sao Phá Quân Kim làm Khôn Thổ phải hao tán khí lực vì sinh nó. Đa Thủy thì Khôn Thổ không khắc nổi còn phải thọ nguy khốn nữa. Cách này ác độc ở chỗ nó làm tiêu hao tất cả sinh lực của tất cả người trong nhà , suy yếu dần , như hành hạ từ từ cho chết lần chết mòn vậy. 6/. CỬA CÁI KHÔN - SƠN CHỦ KHẢM : KHÔN KHẢM : TRUNG NAM MẠNG BẤT TỒN. Là người đàn bà lớn tuổi ở ngoài khắc trung nam ở trong , ngoại khắc nội ,tai họa đến nhanh và khó lường trước. Nhà này gia chủ bất lực trước các sự tàn phá , xâm hại từ ngoài đưa đến vô phương chống đỡ. Sự nghiệp lần hồi tiêu tan , sức khoẻ ngày một suy sụp ; dễ mắc các chứng sỏi , sạn , khí huyết ngưng trệ. Đến khi áp lực bên ngoài hết thì cũng đủ cho tan hoang nhà cửa rồi vậy. 7/. CỬA CÁI ĐOÀI - SƠN CHỦ CHẤN : HỔ NHẬP LONG OA : LAO CỔ PHẾ. Lao do thể chất mệt nhọc , tinh thần lo lắng buồn phiền vì phải liên tục chống đỡ những tai họa từ ngoài đưa đến. Cổ là 1 căn bệnh chứng đầy , cứ như căng trướng lên. Cửa Đoài Kim khắc Sơn Chủ Chấn Mộc , trưởng nam không chết cũng tàn mạt , suốt đời không làm nên được việc gì. Nhà này Âm khắc Dương , khắc chồng , hại con , bất hòa , lâu dần sinh tuyệt tự. 8/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ ĐOÀI : LONG TRANH HỔ ĐẤU : ƯU THƯƠNG TRƯỞNG. Âm nhỏ bức hại Dương lớn , nhà này khơ6ng còn tôn ti trật tự gì , hỗn loạn đến cùng cực. nếu xét theo hướng nội ngoại , thì cách cục trên tuy Dương lớn bị bức bách , nhưng ít ra nó cũng còn ở ngôi Chủ vị ( Chấn ở SC) , còn trong cách này , Âm chiếm địa vị chủ , lại còn truy diệt Dương ở ngôi khách bên ngoài. Nói rộng ra , Âm đã lộng hành bức đuổi Dương khỏi ngôi vị gia chủ , mà còn muốn tận diệt bậc trưởng thượng. Nếu xét theo mức độ nặng nhẹ : Cách Cấn + Tốn thì Dương mới bị Âm lấn bức , thì ở cách Chấn + Đoài , Dương bị tán bại đến tận xương, nhất là cách 8 này : Dương bị tàn diệt đến tột độ: Sinh ra nhiều vụ chết chồng,chết vợ ,chết con trai trưởng , cháu trai trưởng khiến họa diệt tộc luôn treo lơ lững trên đầu. Đấy là mới nói đến nạn chết chóc , ngoài ra còn : Tranh chấp , bệnh đau , kiện thưa , tù tội , chém giết , phá sản... Dương tượng trưng cho những gì sáng sủa , hanh thông , hưng thịnh , phát triển....Âm tượng cho sự tối ám ,ngưng trệ , cùng khốn , lụn bại.... Dương thắng thì những sự tốt lành sẽ đưa đến. Âm thắng thì tất cả các điều Hung hại sẽ nổi lên như nấm và cách cục Cửa Chấn -Sơn Chủ Đoài là cách Tuyệt Mạng Ác Nhất !!! Xin cẩn thận. Cách Tuyệt Mạng Ác Độc thứ nhì chính là : Cửa Cái Ly -Sơn Chủ Càn. Không cứ gì Càn phải là cụ già , nói chung là người đàn ông lớn tuổi trong nhà , bậc trưởng thượng hay rường cột chính , trụ cột của gia đình thì người đó là Càn vậy. Ly diệt Càn tức là diệt trực tiếp người lao động chính , tất nhà ấy sụp đổ thôi. Giống như cắt đứt rễ đuôi chuột , rễ cái của cây rồi thì dù cây không chết , gió thổi cũng trốc gốc dễ dàng thôi. CÁCH HÓA GIẢI : _ Với cách CHẤN - ĐOÀI : Sửa từ cửa giửa thành cửa bên trái , cửa Cấn , Sơn Chủ Đoài , nhà từ Tuyệt Mạng thành nhà Diên Niên vậy. Có thể làm nhà % ngăn , với ngăn chót làm Phòng Chúa , hoặc ít ra cũng 4 ngăn với ngăn chót làm Phòng Chúa. _ Với cách LY- CÀN : Tốt nhất là sửa thành Đơn Trạch , bởi dù có sửa thành Thiên Môn , tìm Cát Tinh làm Sao Chúa , dùng thế yểm Sát Trạch thì cũng không được tốt. Chi bằng sửa thành Đơn Trạch , ta có thể chủ động chọn Phòng Chủ tìm Du Niên tốt cho Trạch vậy LỤC SÁT TRẠCH : 1/.CỬA KHẢM -SƠN CHỦ CÀN : THỦY TUYỆT CÀN KHÍ : DÂM , BẠI , TUYỆT. Nhà này giúp thịnh đạt lúc đầu , khoảng chừng 10 năm trở lại. Nhưng càng về sau càng phát sinh ra những chuyện thói hư tật xấu , rượu chè cờ bạc , trai gái đàng điếm , đủ thứ chuyện tệ hại. Lúc đầu thịnh đạt là nhờ 2 cung tương sanh , nhưng nội sanh ngoại , trong sinh ra ngoài khiến gia chủ hao tổn tinh lực. Nhà này thường sinh các chứng bệnh về phế phổi , về ruột già. 2/. CỬA CÁI CÀN -SƠN CHỦ KHẢM : THIÊN MÔN LẠC THỦY XUẤT DÂM CUỒNG. Lục Sát ứng với Sao Văn Khúc thuộc Thủy , Sơn Chủ cũng thuộc Thủy , Hung Tinh càng được dịp thả sức tung hoành không ai càn trở. Văn Khúc tinh là Sao chủ về sự dâm dật , cộng thệm tượng của quẻ Khảm là hiểm , nên mức độ của nó càng trầm trọng thêm. Cách này nhờ từ ngoài sinh vào nên phát đạt lâu hơn cách trên 1 tý , nhưng sự dâm loạn , phóng đãng cũng nhiều hơn lên vậy. Cả 2 cách đều đưa đến việc khắc hại vợ con , gia cơ tán bại vì những chuyện trụy lạc của cánh đàn ông trong nhà vậy.Thêm vào đó , cả 2 cách đều thuần Dương , ở lâu tất tuyệt tự là điều khó tránh khỏi. 3/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ CẤN : LONG PHÓ SƠN TRUNG : THIỂU NHI LANG. Rồng đến núi trong tư thế khách mạnh chủ yếu ( Chấn mộc khắc Cấn thổ ) , từ ngoài khắc vào trong , tai họa đến mau và bất ngờ , ảnh hưởng nặng nhất là các thiếu nam , các con trai nhỏ , cháu trai nhỏ trong nhà. Là tượng anh lớn khắc em nhỏ , lại thêm thuần dương , nhà này càng ở lâu càng tuyệt tự 4/. CỬA CÁI CẤN - SƠN CHỦ CHẤN : LÔI SƠN TƯƠNG KIẾN : TIỂU NHI ƯƠNG. Nhờ nội khắc ngoại nên đỡ hơn cách trên. Tuy nhiên sự hình khắc dù từ trong ra ngoài hay từ ngoài vào trong , sau cùng đều mang lại kết quả xấu cả. Khi trẻ nhỏ bị khắc , thì người lớn cũng chẳng ích lợi gì. Cả 4 cách đều thuần Dương , Dương thịnh tất Âm suy , tất hại cho các nữ nhân trong nhà vậy , dù trong tượng quẻ không nói đến. Hai cách đầu thì nhà thịnh được lúc đầu , không khí trong nhà cũng rộn rịp lắm , nhưng là sự rộn rịp của việc ăn nhậu , dâm bôn trác táng , cờ bạc. Sự tranh chiến trong nhà ít gay go. Tất cả nam nhân trong nhà , từ già đến trẻ đều say mê "hái mận , bẻ đào " mà dẫn đến bại tuyệt. Hai cách sau có sưa tranh chiến trong nhà , như huynh đệ tương tàn , anh em tranh giành đàn bà với nhau mà trở mặt. Cả 4 cách đều dẫn tới tán gia bại sản , không người thừa kế vậy. 5/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ LY : NHÂN KIẾN MÔN HỎA : ĐA QUẢ MẪU . Âm thịnh tất Dương lại suy , cánh đàn ông qua cách này lại bị tổn hại , sinh ra nhiều đàn bà góa trong nhà , khó có người thừa kế hương hỏa. Nội sinh ngoại làm cho Trạch chủ tổn hao tinh lực chống đỡ , cố gắng giữ vững gia nghiệp cho đến kiệt lực vậy. 6/. CỬA CÁI LY -SƠN CHỦ KHÔN : HỎA ĐÁO NHÂN MÔN : QUẢ PHỤ , TUYỆT. Đỡ hơn cách trên đôi chút nhờ từ ngoài sinh vào trong thôi , nên trong lúc đầu nhà này vẫn phát đạt. Về sau , do nhà thuần Âm nên nam nhân đoản mạng , để lại nhà toàn bà góa. 7/. CỬA CÁI TỐN -SƠN CHỦ ĐOÀI : PHONG SINH HIỆN HỔ : THƯƠNG TRƯỞNG PHU. Là cách nội khắc ngoại , từ trong khắc ra ngoài , nên Trạch Chủ còn gắng gượng chống chọi được 1 thời gian trước ngoại cảnh. 8/. CỬA CÁI ĐOÀI - SƠN CHỦ TỐN : HỔ PHÙNG HẠN ĐỊA DIỆC ÂM THƯƠNG. Là ngoại khắc nội , gia chủ lâm vào cảnh cọp vào thế đất cùng , vào chỗ hãm địa , tất phải chịu thọ khốn thôi. Cả 4 cách sau này đều là Thuần Âm , tất Dương suy , thương tổn nam nhân , và hậu quả tất yếu , khi đàn ông bị diệt tuyệt rồi thì đàn bà chịu cảnh góa bụa thôi ***LẠM BÀN : Các cách 1-2-5-6 ta thấy như tương sanh , nhưng thực tế đó chỉ là giả sanh , các cung tương phối tạo ra Hung Du Niên thì gọi là Giả Sanh vậy. Khi có trường hợp Giả Sanh , ta phải hiểu : Sự hung hại ở đây đã có sự âm thầm đồng lõa , hoặc làm ngơ để thủ lợi , để rút rỉa công sức người khác. Cách Lục Sát của Càn Khảm => Sự toa rập vi phạm đạo lý. Cách Lục sát của Khôn Ly => Sự giả trá với hệ quả tương hại của nó Ngoài ra , cách Khôn Ly còn biểu hiện sự điêu toa , đểu giả , vì Ly đã Giả Sanh Khôn , mà tạo ra Lục Sát , để rồi Sao Văn Khúc Thủy quay lại khống chế Ly Hỏa. Cho nên sự Hung Hại cứ chồng chéo mà triền miên cho đến tận diệt mới thôi , rất hung hiểm. Hơn nữa , Lục Sát Văn Khúc là Hung Du niên , cho nên Ly sinh Khôn mà cũng diệt Khôn vậy <= Ly Hỏa đốt làm khô đất Khôn Thổ vậy. Cho nên sự thuận tùng giửa đôi bên chỉ có ngoài mặt (Giả Sanh mà ), nhưng bên trong thực ra chất chứa oán hờn , bực bội. Nhưng Ly chẳng dám chống Khôn , vì Ly ở thế yếu , sự đối kháng nếu có chỉ là ngầm trong lòng mà thôi. Tốn Đoài cũng thuần Âm mà tương khắc, đây là tượng " nhị nữ đồng cư" , tựa như 2 gái lấy 1 chồng vậy : Chị thì ỷ mình lớn khôn hơn , em thì cậy mình trẻ đẹp hơn. Do đây là cách tương khắc , nên không còn là sự tranh đấu ngấm ngầm nữa. Bên nguýt qua , bên háy lại , lời qua tiếng lại là nhẹ , thậm chí còn chửi mắng nhau , đánh lộn Mặt khác , Khôn Ly kẻ nhỏ thiệt thòi thì cách này Tốn Đoài gái trẻ thắng thế Sao Lục Sát chẳng những hại người mà còn hại cho súc vật nuôi trong nhà. Rộng thêm , trong thời hiện đại này , xe cộ cũng tượng như súc vật ( người ta chẳng gọi nó là "ngựa sắt" là gì ). Nên nhà phạm Lục Sát dễ bị tai nạn giao thông , xe cộ mất mát hư hao , tứ chi thương tật vậy. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 11, 2009 HỒNG VŨ CẤM THƯ Dạy về thuật Phong thủy có phụ họa đồ Lập minh để truyền thụ cho học trò gồm có bốn mục: 1. Truyền thụ luận 2. Định minh thệ 3. Nghi thức lập minh 4. Tựa truyền phái Truyền phái tiết lậu thiên cơ Kiền là tượng trưng chức ngự sử Cấn là tượng trưng chức trạng nguyên Khôn là tượng trưng chức tể tướng Tốn là tượng trưng chức an phủ Thân là tượng trưng chức thái thú Hợi là tượng trưng chức quan huyện Dần là tượng trưng người thứ dân Tỵ là tượng trưng chức vị tướng quân Nói về thế bút sơn có năm thế: 1. Thế phát khôi giáp 2. Thế phát văn chương 3. Thế phát thư sinh 4. Thế phát áp mục 5. Thế phát thái họa (hội họa) Truyền phái tiết lậu cơ trời Ông Dương Quân Tùng tên chữ là Trường Mậu, tên hiệu là Cứu Bần, ông Tăng Văn Địch tên hiệu là Chân Tiên Nhân: khi Tăng Công còn nhỏ, có biệt danh là Liên Vũ, tu ở núi Kim Tinh dồn hết tinh hoa phát huy huyền bí tiết lậu cơ trời tức là bộ Địa lý (thuật Phong thủy) chính tông này, do ông Dương Quân Tùng phát minh truyền đến ông Tăng Văn Địch tên hiệu là Liêu Vũ. Chính những người theo học phải hiểu thế đất thế nào? Phải biết nhận ra những hình thế miệng truyền mắt thấy, thế kia thế khác v.v… nên có câu rằng: Phần phiên âm Lương điển cánh tác tử tôn lụy, Châu ngọc chung vi thể tử tai, Nhất quyển kinh truyền hiền tiếu giả, Thủ chi bất kiệt dụng vô nhai Giải nghĩa Ruộng nương chỉ để con mang lụy Châu ngọc hay gì vợ mắc tai Một quyển kinh này khôn giữ được Lấy dùng không hết cứ còn hoài. Lại có câu Kinh rằng: Phần phiên âm Cộng âm cộng hưởng cộng lai long, Bách tính cư chi tổng nhất đồng Tiền diện nhất ban thị tham lang, Nhất gia phú quý nhất gia cùng Giải nghĩa Cũng âm cũng hưởng cũng rồng chầu Trăm họ cùng nhau ở đã lâu Trước mắt tham lang ngay ở đó Người giàu kẻ khó bởi vì đâu? KINH HỒNG VŨ CẤM THƯ Môn Địa lý (thuật Phong thủy) mới chép Vậy sách địa lý là sách học để xem đất lành dữ tốt xấu. Cho nên người quân tử xem đất để cầu yên thân, đâu phải để cầu vinh thân vậy. Ví bằng nay không có sách, không học hỏi thì biết đâu là đất lành dữ, cốt phải xem rộng biết nhiều, mới mong thấu triệt được. Bảy mươi hai nhà học thức nghiên cứu phép tắc họa đồ, việc nào chỗ nào đã để bụng và để mắt, đều chép thành một tập gom lại thành bộ Hồng Vũ Cấm Thư này, để cho ai nấy xem mà hiểu biết. Hồi ấy đương khi Hồng Vũ yến ẩm, các vương tước ở trong bảo điện nghe tiếng người Châu Bắc Đôi là ông Lý Bá Tuyền tinh thông Địa lý, vua mới vời vào bệ kiến, vua dụ rằng: “Ta nghe người rất giỏi về môn Địa lý, vậy nên hết sức giúp cho nhà ta, chớ vì điều lợi nào mà đổi lòng”. Bấy giờ ông Lý Bá Tuyền lạy tạ mà thưa rằng: “Thần là một người quê mùa ở đất Bắc Đôi, trước theo học ở Kinh Giang, một hôm vào chùa Hoa Kinh ở trên núi Đôi Châu thấy có một quyển sách đề là: Địa Lý Diệu Ngữ Thần Kinh, thưa chính đó là do ý trời xui khiến để giúp nhà vua”. Rồi một ngày kia vua khiến biên chép những thế đất nào là đệ nhất, ngõ hầu giúp nhà vua biết được đến chỗ tinh vi huyền diệu. Khi Bá Tuyền được ở bên nhà vua biên tập thành một quyển sách bút ký bao la, mấy ngày viếtxong dâng lên vua ngự lãm. Vua lấy làm vừa ý lắm, mới đề mục rằng: Một thiên đại lục. Liền phong cho Lý Bá Tuyền là Tĩnh An tiên sinh, cho cả mũ áo chức ngự sử. Thời bấy giờ là niên hiệu Hồng Vũ, năm Canh Tý, tháng Thân, giờ Thìn, đức quỹ đồng mà chứa ở trong cung Ngọc Hoa vậy. Luận về Ngũ hành tương ngộ Năm hành: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ. Thần đọc sách địa lý đã nhiều, nhưng chỉ thấy bàn về chỗ thuộc ngũ hành, chứ chưa ai biết ngũ hành cùng gặp. Xin đem định lý trước sau để cùng bàn luận, vì phép hay càng nên hiểu biết. Nước gặp nước thì nam nữ tính dâm Phương Bắc mà có nước thấm nhập thì trai gái hẳn là có tính dâm Lửa gặp lửa thì lắm điều kiện tụng Phương Nam có hỏa hình. Phương Kim lại gặp Kim là vượng, của cải tất nhiều tự nhiên tới. Phương Tây có Kim hình. Phương Mộc lại có Mộc tinh tương sinh tất nhiên trai gái giàu sang. Phương Đông có Mộc tinh càng tươi tốt vậy. Đất lại có đất ở trên, thì con trai mù lòa, con gái sầu não. Đất ở trung ương là minh đường. Mộc hình gãy (núi ở phía đông đứt gãy) tất nhiên tổ không có chim nghĩa là không có tử tức. Đất thấp: (tức là thổ sơn đê hãm) không dựng nên việc cửa nhà. Gió buồm nổi lên là khách giang hồ nghĩa là núi bên ta bên hữu ở đằng trước có mấy miếng đá nổi lên như cánh buồm. Đằng văn vũ hậu chết phương xa. Nghĩa là đàng sau có nước, đàng trước như mây cuốn chỉ ham đi ra ngoài. Bạch hổ có nước ngấm vai thì con gái tất nhiên tham tà hiếu sắc. Bạch hổ nước ngấm vào huyền vũ, vào vai thanh long. Thanh long vai có nước chảy đi con trai phải chết dữ. Vai thanh long có nước chảy về huyền vũ, hay có đường đi ngược về huyền vũ. Thanh long nối đuôi là con út phải tai nạn giết chóc. Đuôi thanh long nổi ngọn, con út tất phải khốn khổ vì việc quan. Trên vai bạch hổ như bay cao là con gái tính dâm. Trên vai bạch hổ có nước chảy là tính hay đi. Nước chảy quanh núi thủy sơn là có mệnh sứ thần. Nước đứng lặng chung quanh núi bản sơn thì tất nhiên có chức mệnh sứ thần. Bút thần, sông tới hẳn là sinh con quý tử. Núi bút thần bên vai tả có sông lớn vòng vào, hẳn sinh con trạng nguyên. Gió thổi nước tan con bỏ cha. Gió thổi nước chảy đi, con gái chẳng theo cha tùy trên dưới mà phân biệt. Hoa mai xuân muộn dẫu được một thời phú quý. Hoa mai ấy là bên tả có một ngọn núi trọn, chu tước lại có một ngọn là phú quý thời. Nước chảy hình nhọn gái giết chồng. Bạch hổ có nước chảy, lại như hình nhọn là gái giết chồng rồi ở góa. Cung không có lá liễu thì tất nhiên con cháu không đông đúc cửa nhà. Núi bản sơn lại có một ngón núi không cao hay có cao mà không có dáng bao bọc tất nhiên là ít con cháu vậy. Hình thế nếu chẳng được nghiêm chỉnh ấy là dấu hèn. Là ý nói huyền vũ không được tôn nghiêm thì phát sinh nghèo hèn. Cửa đóng không mở con trai con gái ngu muội là ý nói minh đường không khai thông vậy. Hình dáng gặp nhiều cái xấu hẳn là suy vi. Là ý nói núi bản sơn có nhiều hình dáng xấu tất nhiên là hỏng. Hình như vách lở, không con nghèo là chết non là nói long hổ đều không, có nước xa không có núi mọc người ấy chết non và côi cút. Ba dấu lành, sáu dấu xấu, xấu tốt phải cần ở con mắt của người ta. Nghìn biến vạn hóa nhưng dầu có biến hóa cũng là ở tâm thân tinh tường của con người. Rất cần phải xét ở chỗ mạnh chỗ yếu. Cái khí thế mạnh yếu là cốt tìm ở chỗ đột khởi lên hoặc ở chỗ hình núi hình nước uốn vòng về bởi chỗ tinh thần tụ hội. Núi bản sơn mà xấu con trai nghèo khổ. Là ý nói núi huyền vũ mà thô sơ xấu xí quá con trai chỉ có ba. Nhiều nước chảy xói, con gái biệt ly là ý nói bạch hổ có lỗ nước chảy xói một bên hẳn là biệt ly. Thế trước, trước tới, đứng hướng trước. Núi dương bắn thẳng nhiều người nghèo khổ. Thanh long bắn thẳng con trai có ba. Thế ngầm chảy dài định rằng con gái bị hình Bạch hổ chạy dài đi thẳng là con gái vì chồng mà bị hình phạt vậy. Thế như ba quân ra trận là tất sinh tướng mạnh. Hai trò ôm vai tất sinh ra hủ nho. Muôn trùng ngọn núi mọc thì lấy thế quang nhuận xa xa. Nước chảy quanh hai đầu nên tìm sắc ngọc lắng trong Trước đón nước bể nên cầu xuân sắc như gương. Là ý nói rằng trước minh đường bên trong có bể nước mọc ngọn núi tròn như gương thì tất nhiên phát sinh trạng nguyên hoàng hậu. Đàng sau như mây cuốn mùa thu có sương. Là ý nói rằng đàng sau núi có mây như sương xuống cỏ cây tươi tốt nhà hẳn thịnh. Bên thanh long có ngọn núi như bút xinh như măng ngọc xinh tươi là phát trạng nguyên. Thiên ngoại có văn tinh đẹp tựa đan trì đối chiếu. Thiên ngoại: tức là chu tước đó có mọc ngọn núi như sao cao lên là điểm phát nho học vậy. Phép Diệu Ngũ Thần Kinh Mây đùn sấm dậy núi chầu Hiển vinh tiên tổ con giàu cháu sang Là ý nói huyền vũ có núi tròn như mây ùn lên. Minh đường cũng tròn trĩnh như quả trống là phát con giàu cháu sang hiển vinh tiên tổ. Nước chảy vòng về ngọn núi mọc cao là cha làm quan sinh con tuấn tú. Là ý nói thanh long có nước chảy vòng bao bọc, ngoài lại có núi cao tròn như ngọn bút nhọn, ắt là sinh con tuấn kiệt vậy. Giăng treo trên núi, con trai lấy được vợ hiền. Là ý nói bạch hổ bên vai có ngọn núi tròn theo nước mà hiện ra sáng sủa trong sạch ấy là người con trai lấy được vợ hiền vậy. Che ao núi thẳng từng hàng Cô nương gặp được anh chàng rể sang Nghĩa là ùn ùn núi mọc cao thẳng che ngoài ao bạch hổ nhà có con gái được chàng rể quý. Nước lặng chảy thêm theo, cha với con trai chẳng làm quan khanh thì quan phó. Thanh long ngoài có sông dài nước trong lại có núi tròn nhọn như cán bút, lại có sông nhỏ ôm theo bên trong, con trai hẳn phát đạt giàu sang phú quý. Bể nam mà có ngọc châu Con gái chẳng giàu thì cũng vẻ vang Là ý nói chu tước có ao hồ vòng ôm lại có núi nhỏ ngọn tròn đứng trong bể thì là con gái vẻ vang phú quý. Bắc lâu vách trống không đâu, Ông thọ trăm tuổi, nhà hầu ít khi Là ý nói chu tước có sông dài bao bọc làm ăn thì hẳn phát sinh giàu sang. Nhưng huyền vũ không cao dày mà thấp yếu hẳn là không có người thọ sống lâu trăm tuổi được. Nối liền trâm ngọc trùng trùng, Sinh con tuấn tú nối dòng trượng phu Là ý nói thanh long có núi tròn tranh vanh tươi tốt, trùng trùng điệp điệp, lại có sông dài nước chảy bao bọc vòng về hẳn là sinh con tuấn tú thông minh. Thiên các (Đằng trước mộ) tên gọi là Chu Tước, mà có sông dài vòng đấy lấy làm án thì trong nhà thường sinh con phú quý vinh hoa. Huyền Vũ (đằng sau mộ) tên gọi là Bích Đài xúm xít xum vầy, cao dày hồn hậu, là đất phát làm quan lộc hưởng lâu dài truyền gia mãi mãi. Bên tay phải gọi là Bạch Hổ, mà có đình chùa miếu mạo thần Phật hoặc là ngõ đi vườn tược bức vào, hoặc là lỗ sâu ủng tắc ấy là người chồng hẳn chết trước vậy. Bạch lâm thấy ở phương Nam thì quý (Bạch lâm ấy là gió thổi vậy, như gió thổi vào bản cung hoặc thổi vào đầu não huyệt mà núi thấp không được núi nào cao ở đàng sau chứa lại, thì ít lâu con cũng chết vậy. Về phương Sửu mà có đường đứt hay có hồ sâu hoặc là ao chuôm thì việc nuôi trâu bò tất không thành công vậy. Phương Tý, đường thấp mà nông, người giúp việc gia nô không tốt. Là ý nói: Tý phương là cung nô bộc, nhược bằng gió thổi nước tan thì người ở(gia nô hẳn chết. ) Cấn phương: Âm thần – Bức vách ngặt quá ở đàng trước thì là sinh chứng đau mắt, sưng mắt vậy. Dương đới thô mà gấp: con trai bị gãy chân. Là ý nói bên tả có núi to mà xấu, cấp bách bức quá thì con trai bị khổ gãy chân. Nước trong sạch lại có núi vuông, thì phát sinh ra người tính tình cương trực. Nước chảy yếu nhưng có núi tròn tròn, phát sinh ra người mềm mại, mà hiền hậu giỏi giang. Là ý nói sau núi có nước lại có ngọn núi tròn phát sinh ra người tính tình mềm mại mà hiền lành. Thái Bạch (đàng trước mộ) có nước chảy lại trước mặt thì gọi là Trạc y (giặt áo đằng trước) thì người con trai bụng sẽ phát phì. Dực tinh thấy ở giữa trời, thì người con trai đầu hẳn tròn. Dục tinh nghĩa là đàng trước có núi hình tròn hoặc ở bản cung có núi tròn trặn đẹp như sao thì người con trai đầu tròn mà xinh tươi. Trước minh đường có ao hồ là kiểu đất đón được người rể quý. Vách không nhà trống than phiền hiếm con. Sân thềm khóc cô mụ. Núi non táp nháp, âm không cầu dương không ứng, công việc dở dang không thành, nước nông than côi cút. Thanh long bốn mùa không có nước, mặc dù tuy có nước trời mưa, thì trước được danh lợi phú quý hiển đạt, nhưng hiềm vì vợ chết sớm. Tổng vịnh bốn câu văn vần: Minh đường trước án quy mô, Gặp chàng rể quý cơ đồ vẻ vang Thái không lốc ngốc thở than, Âm dương không ứng nát tan chẳng thành. Nước theo chảy về hướng bắc, con gái lấy chồng xa là ý nói Bạch Hổ nước chảy đi không trở lại, thì con gái hẳn lấy chồng xa. Núi chạy thẳng phương nam, con trai lìa cố quốc. Là ý nói Bạch hổ núi chạy thẳng đi không quay lại, thì con trai tất lìa tổ quốc. Huyệt sâu tuyết giá tự tử chết oan. Dẫn chứng: Mộ tổ ông Khuất Nguyên vi huyền vũ có lỗ sâu nên ông bị chết uổng. Mũi nhọn dài (kim tinh) vòng cung nhọn phá hẳn là bị chết vì khí giới. Đàng trước có hình như cây gỗ đổ bị gãy thì con gái bị bệnh đọa thai. Trực hỏa sau minh con trai mắc tai họa. Là ý nói đàng sau mình trong có dáng như ôm lấy mình ngoài, lại có như tên nhọn bắn vào mình, thì là con trai mắc tai họa. Nhời Diệu Quyết Khánh An Áo hoàng bào giá yêu sau, Cháu con vinh hiển dài lâu sang giàu Nhời chú giải rằng: Hai vai đều có ngọn núi tròn, ngoài có núi tròn nữa, hình như chiếc áo hoàng bào, con cháu tất nhiên vinh hiển. Trên vai thanh long và bạch hổ, có núi hình như cái ấn, con cháu sang trọng mà hiền tài. Thái bạch (kim tinh) có núi hình tròn đối chiếu, làm chính án, con cháu tất đỗ trạng nguyên. Giải nghĩa văn vần: Hổ long có ấn trên vai, Cháu con phú quý hiền tài vinh hoa, Thái bạch trước án đối xa Cháu con thi đỗ hẳn là trạng nguyên Bốn bên bốn thú ưu tiên Cháu con phát đạt thần tiên trên đời Tam thai ngọc ấn châu rơi Cháu con phú quý đời đời vẻ vang. Nhời chú giải rằng: Huyền Vũ, Chu Tước, Thanh Long, Bạch Hổ bốn cái đó gọi là tứ thú vậy, mà đều chầu vào mộ thì con cháu hẳn là phú quý. Tam thai ấy là ý nói đàng trước có ba núi tròn trong lại có núi ấn vuông đẹp như hạt ngọc thì con cháu sang trọng được gần vua chúa luôn luôn. Thanh long núi mọc trùng trùng, con cháu sang trọng mà thông đạt nhiều. Là ý nói long ngoại, long nội bao bọc trùng trùng thì trước có con hiền, sau lại có cháu hiền sang trọng và thông minh hiển đạt. Tổng vịnh văn vần: Thanh long núi mọc trùng trùng Cháu con sang trọng mà thông đạt nhiều. Bạch hổ hàng lẻ tẻ, sanh ra con cái ngu si là ý nói bạch hổ trong ngoài không tiếp ứng (thân lìa tức là không có khí) con gái bị ngu si. Bạch hổ nước chảy không chầu vào minh đường (gọi là bạch ngạch thủy vô qui) thì trong nhà của cải hao tổn. Đàng trước không có án hay thấp yếu quá thì trong nhà ít người đỗ đạt cũng như thiếu người học thức. Là ý nói đàng trước không có cái gì làm án, hay có mà thấp yếu quá thì không có người đỗ đạt. Hai khách thấy như đứng chầu trước cửa là kiểu đất thăng quan tiến chức được mọi người tôn trọng. Là ý nói trước minh đường có ngọn núi tròn nhọn hình như người đứng chực hai bên là con cháu tất thăng quan tiến chức phú quý vẻ vang được mọi người tôn trọng. Hình như con ngựa chạy lại phương nào là con trai ấy được giàu sang vinh hiển. Hình như con kỳ lân đứng vào chỗ nào thì con trai ấy đỗ cao. Long vị ôm mình vào chỗ nào là con trai ấy thi đỗ. Bạch hổ trên vai có núi như ngôi sao sinh con tú nữ được thiên tử rước vào rong cung. Là trúc rơi sau nhà, con cháu chết non và cùng khổ. Nghĩa là nói Huyền vũ có đường như chữ đinh, con cháu chết non khốn cùng, còn hay bị mất trộm cắp hay là chó cắn trộm vậy. Cành thông nằm ngang ngoài đường xá, con cháu đói khát và chết non. Là ý nói đàng trước có dáng ngã ba thì con chau đói khát và chết non vậy. Thanh long, Bạch hổ đều giữ chắc chắn, trong lại có nước lắng trong, thì con cháu tất nhiên thông minh. Bạch hổ có nốt nhọn như kim tinh bắn vào, hẳn là bị giặc cướp trộm cắp. Bạch hổ bị bức tối không quang đãng được thì con gái chết ở làng khác, là ý nói ằng bạch hổ bị vườn ao đường ngõ xóm làng bức bách, thì người con gái chết ở làng khác. Thanh long nước phản ra không bao bọc vào nhà, trong nhà ấy tất nhiên không có của cải gì. Là ý nói rằng thanh long nước đã không bao bọc vòng về, mà lại chảy phản ra, thì nhà ấy tất nhiên bán hết ruộng vườn trong nhà không còn của cải gì. Thanh long sáng sủa nhuần nhã mà dài, con cháu đẹp đẽ mà có vẻ văn chương. Huyền vũ thanh tú mà hồn hậu thì con cháu sống lâu, làm ăn thịnh vượng Thêm câu vần để dễ nhớ: Cao dày Huyền vũ vững vàng Vẻ vang con cháu giàu sang thọ tràng Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 11, 2009 Nguồn ở đâu vậy Thiên Đồng ? Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 11, 2009 Thần Kinh Dị Pháp Phú Núi sông non nước thiên nhiên, long mạch lưu hành muôn hình trên mặt đất thực bởi thợ trời khéo xếp dành cho người có phúc, bày ngay trước mắt người ta nhưng có biết nhận ra mới thấy. Đấy như thần kinh dị pháp cao kỳ, cũng bởi các bậc cao nhân thấu hiểu huyền vi xưa nay trải đã bao rồi mà cái điều thông dụng chẳng khá đổi thay được vậy. Người phương bắc đất cao nên lấy huyền vũ làm núi bản sơn, Huyền vũ cao hậu thì tất quan cao chức cả, người phương nam thì xem lại hơi khác là lấy minh đường làm gốc. Minh đường có nước, làm quan chức trọng quyền cao. Núi: Trông nên ngay thẳng chính bình hoặc là vuông, cho nên nói rằng không nên hướng vạy trông xiên. Điểm huyệt chớ nên lệch lạc Kinh có câu rằng: Hình chính mà huyệt lại thiên Con cháu khó tuyền yên việc làm ăn. Trước minh đường có núi vuông như ấn ngọc làm quan đến chức thượng thư. Cá vàng trên nước, làm quan võ đến chức tướng quân. Mạch đến chỗ chỉ, nên xét xem khí tụ ở đâu Là ý nói mạch đi đến chỗ đứng, nên xét xem khí thế thế nào? Có được nhật nguyệt tinh thần sương móc mưa sa lắm gội thì tất nhiên cây cỏ tốt tươi, ấy bảo rằng: là gió chẳng thổi được vậy. Hình thế hoàn toàn, nên chi mới chứa được gió lại ở trong Trong thẳng mà ngoại lại câu, Ấy là đất quý thật mầu nhiệm thay, Trong câu ngoài thẳng cũng rầy Là hình thô bỉ khó bày cho nên. Núi như yên ngựa nên được ngựa: là ý nói ngoài thanh long trong minh đường có núi hình giống loài ngựa thì ngoại lại cầu như hình ngựa. Thế như tình hình sao lại cầu được như sao. Minh đường đàng trước có hồ ao, ngọc tinh chiếu sáng bóng, trong có núi nhỏ như sao. Bạch hổ núi nhọn chân, gọi là cát hình hổ chết. Là ý nói đã nhọn chân lại có lỗ sâu hoặc có ngõ hay ao hồ có nước chảy đứt, tất nhiên không có rễ quý. Thanh long không có cá định là trạng thái đồi long. Là ý nói không có cá tức là hanh long minh không chắc chắn vòng ôm, nhược bằng có vòng ôm thì con cũng làm nên được vậy. Minh đường phải nên kiêng rằng mùa đông không có nước. Là ý nói trước minh đường chẳng nên không có nước bao giờ mặc dù mùa đông cũng thế. Nếu không có nước ấy là tiền phú hậu bần. Chính minh đường nên phòng gió bấc thổi. Là ý nói bản sơn phải đủ sức bao bọc chẳng nên để cho gió bấc lọt vào. Huyền vũ đất thấp tất nhiên không thọ khảo. Núi đằng sau có nước ngấm vào thì tiếc rằng có bà góa. Huyền vũ có nước thấm vào không chảy đi được hẳn là có người góa bụa. Bạch hổ liền lại hai lần: gọi là vợ chồng hai hổ, trong ngoài chẳng liên tiếp vậy. Thanh long: thượng long, hạ long, cùng đứt, thời là anh em chẳng có hòa thuận vậy. Nước phương nam ly cung, chẳng chầu vào nhà, thất bại hoặc có ngã ba sông ở ly phương, sông lớn qua sông con. Phương Tốn có ngọn núi cao là quỷ lại ma Cái phép phân kim: Phương Tốn (Tỵ) nổi cao, người con trai mạnh chẳng giữ chắc. Dương ngắn âm dài biết rằng nhà không quý tử. Dương dài âm ngắn nên phòng ra đời có nước có nhà. Giải nghĩa văn vần Tự thần đóng ở phương đông Trai không có vợ trông mong nổi gì Thần tiên ở bên tây thì, Gái không chồng lấy cũng vì đấy chăng Biết rằng muôn nước triều dâng, Hẳn là gặp gỡ trăm phần mừng vui Bao nhiêu thế núi châu hồi Phát nên quan cả tài bồi non sông Bài phú rất hay dùng Đành rằng bao nhiêu cốt yểu huyền vi Nhưng biết tìm được lẽ của nó mà suy rộng cho ra là cũng thấy, ấy những bậc ấy chỉ là những bậc chân nhân xa xét rộng tìm phát minh ra những chỗ thói đời ròm nom nông cạn mà chưa khám phá được chi. Kìa như nghìn ngọn thanh long khởi mạch mà vua Cao Tổ nhà Hán khởi nghiệp được hơn bốn trăm năm. Bạch thổ có liền muôn phái mà ông Lý Uyên xây dựng cơ đồ nhà Đường có ba trăm năm. Muôn hình vạn trạng theo người biết, Trăm núi nghìn sông đãi kẻ hay Thanh long đới thủy gần non Con trai phú quý sinh giàu vẻ vang, Nước theo Bạch hổ vòng ngang, Con gái vinh hiển lại càng giàu sang Trọn nguồn cảnh đẹp thật là quý Nước ấp sông ôm cũng rất vinh Thế đây kiểu dài, nếu càng được dài thì càng quý. Hình câu đối mà tròn, nếu được rất là tròn thì được rất là hay. Hình như cái măng tươi mùa xuân, thì nên xem thế chân (căn bản). Hình thế như rồng mây thì nên xem đàng đầu đẹp hay xấu. Rồng cuốn mây bay thì nên để ý xem chỗ nó quay đầu về. Quỷ sơn mà đối với thần sơn ấy là đất phát có quý nhân ra đời. Là ý nói rằng huyền vũ cao, dày là núi quỷ sơn, vậy nếu được vai ngoài thanh long có ngọn núi nhọn tròn như cái măng tươi hoặc là như cái bút nhọn ấy là đất phác có bậc kẻ sĩ thần đồng ra đời vậy. Nếu Bạch hổ bắn vào thanh long thì con trai chết non Thanh long bắn vào bạch hổ thì con gái bị thương. Thanh long bạch hổ hoàn toàn Con trai con gái vẻ vang sang giàu. Học đường thêm văn thủy, định rằng cái thẻ tuấn xinh. Nghĩa là thanh long có nước chảy qua phương Tỵ gọi là học đường thủy. Ví bằng minh đường được rộng rãi có nước thì gọi là văn học thủy. Thanh long bạch hổ vòng vào, Nên xem béo tốt tay nào cũng tươi Hổ đầu có ngấn xinh tươi Hãy xem có núi mọc nơi thêm vào Long hổ mà có miều thần phật tự, tất nhiên nội sát tai ương. Thế như ngọn nhọn, hẳn bị tai vạ ở ngoài. Là ý nói thanh long bạch hổ có núi nhọn tất nhiên bị tai vạ ở ngoài. Bên thanh long có nước ra vào thì con trai hoán thiếp đổi thê. Ngoài thanh long thì nên có núi nước bao bọc minh đường nếu bị nước ra vào bất thường, thì là cách hoán thiếp đổi thê vậy. Bạch hổ có tên nhọn bắn thẳng vào là gái giết chồng giết con. Huyền vũ có núi như chữ phẩm nhất định rằng quan cao thọ khảo danh tiếng vẻ vang. Minh đường có ba ngọn nước chảy đổ vào là nhà có học thức, phúc đức truyền gia vậy. Chính án có ngọn núi như mây thì đời ấy qua đời khác tất nhiên hiển vinh phú quý. Là ý nói đàng trước có núi tròn làm chính án đó vậy. Nước chảy hình như cầu vồng, bao bọc quanh thanh long thì đời ấy qua đời khác phú quý vẻ vang. Thanh long đầm phá vỡ bờ Con trai bị chết bất ngờ gớm ghê Hổ sâu bạch hổ tràn trề Bị thương con gái hại về thất gia Ngã ba nam ứng hỏa tà, Nhưng lại được nước chắc là không sao Giao kim đôi nước chầu vào Dẫu rằng không núi tí nào cũng hay. Nghĩa là ý nói ngã ba phương nam hẳn bị hỏa ứng tất nhiên nhà bị khô ráo nhưng nếu đã được có nước thì không sợ gì tai vạ cả. Đôi nước đây là ý nói long hổ thủy vậy nếu không có núi bao bọc, thì dẫu có phát phú quý một thời rồi cũng chóng hết vậy. Minh đường rộng rãi quy mô, Tất nhiên giàu có muôn kho bạc tiền. Hổ long ra mà đâm xiên Chắc là nghèo khó liên miên một đời Hổ long dài chắc cả hai Sống như Bành Tổ ai ai chả mừng Long thô hổ lãm lừng khừng, Nhan Hồi mạnh yểu chết chừng trẻ trung Đường dài thần miếu ở chung Hoài âm chết nhục đường cùng mới đau. Mộc tinh án ngắn ngang đầu, Kình Bố nuốt hận chịu rầu trướng trung. Bên Thanh long mà có giếng nước sâu thì người con trai tài cao tót vậy. Bạch Hổ mà có nước thấm vào đầu thì người con gái có tính dâm đãng. Phần phiên âm Đương tri phú quý bất hư, Tín vi tại thị, Khả kiến thọ yểu hữu mệnh, khởi hữu tha tai. Giải nghĩa Giàu sang có đất phải không, Cho người có phúc và công đức nhiều Thọ khang chết yểu bao nhiêu Mạnh trời đã định có điều nào sai Núi chủ tròn dày là đất phát. Phú quý chủ nhân ông. Huyền vũ có núi tròn dày, đấy là phát phú quý. Cho nên nói rằng: “Được đất tốt, thời giàu có, vì huyền vũ thuộc bắc phương địa vị vậy. Trước án mà được thanh nhã quang minh, là đất phát vinh hoa phú quý. Nghĩa là ý nói: Đàng trước mà được quang đãng thanh nhã, sáng sủa, là chủ phát phú quý. Cho nên nói rằng đắc hồ thiên tắc quí, nghĩa là được hưởng khí trời thời sang, vì rằng chu tước thuộc nam phương địa vị vậy. Thiên trụ vững vàng cao dày lại đeo hai ấn là phát thọ được bảy tám mươi tuổi. Bắc khuyết núi tròn lại lìa khỏi hai bên thanh long bạch hổ thì khó mà sống qua được đến tuổi ba mươi. Ao nghiên núi bút đàng hoàng Phát sinh văn sĩ mở đàng vinh quang. Gươm hẻo cờ trống nghênh ngang, Trời sinh quan võ vẻ vang giống nòi Hình chính mà huyệt thiên thì con cháu chẳng được vẹn tuyền. Hình thiên mà huyệt chính thì con cháu hiển vinh thịnh vượng. Luận về mạch Kìa như khí mạch tốt xấu phải đem hết tinh thần nhãn lực xét xem mạch lạc thế nào. Mạch có khi ẩn khi hiện, có khi chìm vào trong, khi nổi ra ngoài. Những mạch hiển hiện rõ rệt thì người ta dễ thấy. Những mạch nào ẩn tàng ở trong thì người ta khó biết được. Mạch có khi chứa trong hồ, có khi ngay ở chỗ khoáng đãng, hoặc ở trong đá, hoặc ở đáy nước. Mạch trong đáy nước khó thay, Người không thần nhãn sao hay được mà Mạch đi trong đá sâu xa Không phải bậc trí dễ mà biết ru? Luận về núi Nào là núi tốt bởi chi Xanh tươi mạch lạc người thì biết xem Kìa khi người ta xem núi, nên nhận xem khí thế thanh nhã sáng sủa đoan trang, không nên thô nỗi, cũng không nên quá cương mà cũng không nên quá nhu. Khí thế rõ ràng triều củng chầu về, chứ không nên ở chỗ tối tăm loạn tạp. Đại để bàn về những điều thiết yếu cần nhất ở chỗ tinh thần. Phàm nhà ở vai bên tả có nước chảy, thì gọi là sinh khí. Bên hữu có đường dài thì gọi là tiến khí, đàng trước có ao đầm thì gọi là tụ khí. Đàng sau có gò đống thì gọi là khảo sơn (núi nương tựa). Nghĩa là cái núi cái gò đống gì hình như là có chỗ nương tựa làm thế vững chắc được thì rất tốt rất quý vậy. Bên đông có nước chảy vòng bên ngoài là tốt, mà có đường đi lớn là xấu, phía bên bắc có đường đi lớn là xấu. Nhưng phía bên nam có đại lộ thì phát đạt vinh hoa phú quý. Bàn về Thanh Long và Bạch Hổ Khi người ta để ý xét xem, tất nhiên phải xem thanh long và bạch hổ trước. Thanh long và Bạch hổ của hai bên. Bên hữu thuộc âm, bên tả thuộc dương. Âm nên béo tròn mà không quá ngắn, Dương nên vòng lại mà cũng không nên quá dài. Cung nam thấy dậy chỗ nào là người con trai ấy phát quý. Thứ vị người con gái chỗ nào đáng kêu ca thì người con gái ấy bị hại. Đấy như thế đất phương nào thế nào rất tốt. Núi thanh nhã mà lại được nước bao quanh thì dương sinh xán lạn. Thế núi Huyền vũ cao chót vót, hai bên thanh long bạch hổ phân khoảng bao bọc ôm chắc chầu vào phần mộ. Lưỡng hổ đới hồng phát thành tiết phụ trùng long núi bút xa xa tức là phát hiền nhân ứng hiện. Minh đường nước chảy rốc đi thì con trai không có vợ. Huyền vũ hố sâu thăm thẳm thì con gái không chồng. Khí thế liên tu không phân biệt ra được thế nào? Nhưng thấy hình như nước chảy đến chỗ trũng ấy là biết rằng có huyệt vậy. Bạch hổ nước ngấm dầm sanh ra vợ dâm dục. Thanh long nước chảy quay đi nhưng vô tình ấy là đất phát sinh ra người du đãng. Sơn khê to lớn, chỗ cùng phát sinh ra người nam không chức vụ. Bên bắc có đường thẳng thì con gái không lấy chồng. Chẳng cứ gì việc cốt yếu nào là đã có trật tự nhất định chỉ thiết tha rằng nên tìm những cái gì được rõ ràng thích đáng. Hình trong dẫu yếu mà ngoài mạnh, cầu vồng vòng lại càng dài càng hay, được hết cả núi sông chầu về vòng về bao bọc lấy thì tất nhiên con trai được vua yêu dấu gần kề. Phần phiên âm Thượng long đoan thi: Thượng long chi ngoại hữu sơn cường Trưởng tử đa nam tự cát xương, Nhược kiến đại giang hồi thả bão Tất nhiên tử tức cận quân vương Giải nghĩa văn vần Hình trong dẫu yếu ngoài cường, Cầu vồng vòng lấy thế thường càng hay Núi sông chầu cả vui thay, Tất nhiên giai được vua hay gần kề Giải nghĩa Thượng long đoán thơ rằng: Thượng long ngoài thấy có non tròn, Trưởng tử giàu sang lại lắm con Bằng thấy sông to quanh bọc lại, Tất nhiên con cháu giúp vua luôn. Phần phiên âm Trung long đoán thì: Trung long chi ngoại hữu sơn thanh, Trung tử chi nam tất quí vinh Nhược hữu đại giang hoàn thả bão, Tất nhiên tử tức tọa triều đình Giải nghĩa Trung long thơ đoán rằng: Trung long sát cạnh có non xanh Con giữa sinh con tất hiển vinh Nếu có sông to vòng bọc lại, Tất nhiên con cháu ở triều đình Phần phiên âm Hạ long đoán thơ rằng: Hạ long chi ngoại hữu sơn kiều, Quý tử sinh nam lập tại triều, Nhược kiến ngoại sơn hoàn cố tổ, Tất nhiên tôn tử đoạt cao tiêu. Giải nghĩa Hạ long đoán thơ rằng: Hạ long ngoài lại có sơn kiều Con út sinh con đứng ở triều Núi ngoài ngoài lại quay chầu tổ. Con cháu khôi khoa chiếm bảng nhiều nguồn vnthuquan.net Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 11, 2009 VĂN CHƯƠNG ĐỊA LÝ LUẬN Địa lý cũng giống như văn chương, chỉ muốn cầu lấy mỹ lệ chứ chẳng muốn thô lỗ xấu xí làm gì. Nếu được chỗ ấm áp nhuần nhã có sông núi vòng về bao bọc lấy, thì phát sinh tất nhiên hiền sĩ nho phong. Được thế hợp bên thanh long vững vàng thì người con trai tất nhiên lấy được người vợ hiền chính đáng. Bạch hổ có ao hồ vòng lấy ấn là đất phát con gái lấy được chồng hiền. Trên thu về dưới hợp lại là con trai có trưởng thành. Bên trong có khe nước chảy đi, không trở lại là đất không có tử tức. Đàng sau khuyết hãm trông không thế là không chính ngôi, tất nhiên con trai góa bụa. Phần phiên âm Văn chương địa luận: Trùng sơn trùng thủy lưỡng tranh quang, Hồ hải tuyền hoàn chính diện đang, Nhược kiến tiêm sơn lai tác án, Tất nhiên tôn tử thụ phong vương. Giải Nghĩa Trùng sơn trùng thủy khéo là may, Hồ hải vòng về giữa mặt đây? Núi nhọn mọc xinh trình án đó, Cháu con hưởng thụ đức vua thay Phần phiên âm Minh đường thi Minh đường quảng khoát thế hùng lượng, Long hổ tương giao tại diện đương, Nhược kiến sơn tiền hình tự bảng, Danh cao cập đệ cận quân vương Giải nghĩa Minh đường có thơ rằng: Minh đường chính tẩm rộng khang trang, Long hổ giao nhau đối vững vàng Bảng sơn đàn trước non là án, Đỗ đạt vua yêu tiếng vẻ vang Luận về núi án Cổ nhân có nói rằng: Phần phiên âm Luận án sơn Cổ nhân vân viễn tắc sinh nhân kiệt, Cận tắc sinh sát nhân, Cao nhi viễn tử tôn nhân kiệt, Cận nhi bức tử tôn bại tuyệt, Giải nghĩa Án xa thì sinh nhân tài Án gần sát hại người hoài khổ thay Cao mà xa cũng còn may Gần mà bức bách thì hay khốn cùng. Đất nơi bình dương mà có chỗ nước giao hội nghìn dặm thì đất ấy tất sinh ra bậc thánh hiền. Ví bằng được chỗ chân chính mạch uyển chuyển sâu bề đất phát sinh ra người phú quý. Luận về thủy khẩu Thủy khẩu được cẩn mật thì tốt. Ôi người ta sinh ra cũng bởi nước mà sát hại người ta cũng bởi nước. Thấy nước chảy đi như chữ huyền chữ ất, lặng sâu mà không nông cạn, ấy là nước sinh người. Thấy nước úng tắc hay chạy thẳng chảy tuốt hay câu lưu tù hãm, ấy là nước sát hại người ta vậy. Luận về đất có thần Phật Kìa như đất có thần từ phật tự, nhưng ở về phía tây nam thì tốt, đông bắc thì xấu, đàng tây có nước chảy phá thì con gái dâm tà. Phía tây nam có làng xóm hoặc có thần miếu là đất có quan tước. Nhược bằng phía bắc đằng sau thấp xuống, thì chỉ được một thời rồi cũng sa sút. Cái đất nghèo nàn hèn hạ thì thế đất ấy. Thế đất như tên bắn loạn xạ, người ta sinh ra tính lỗ mãng. Như có nước phạm vào phương Càn, Khảm, Cấn là đất tuyệt tự phạm vào thần phương cũng tuyệt tự. Phạm vào phật phương thì sinh ra bệnh tật. Phàm bên tả có núi mọc như lâu đài, bên hữu có núi mọc như chuông trống. Đàng trước có núi mọc là lầu rồng. Đàng sau có núi mọc là bảo điện. Đàng sau thanh long ở bên tả là Thiên Ất. Ở bên hữu là Thái ất. Hình như chầu chực cân đối bên tả bên hữu là phụ bật. Bên tả là văn quan, bên hữu là quan võ. Luận về chữ Đức Kìa như người ta thường nói tiên tích đức nhi hậu tầm long, thì việc tu nhân tích đức thật là việc gốc để thu đất vậy. Đã gọi là tích đức thì không phải một ngày hai ngày mà đã làm nên được. Cho nên nói phải cần trước nhất, nếu chỉ biết đi tìm đất mà không biết tích đức tu thân, thời trời cũng che mất tinh thần con mắt của ta đi, làm tối tăm lòng ta, thì chẳng bao giờ tìm được đất phúc đức, còn hòng gì được hưởng bổng lộc ơn trạch bình yên của thần linh, phúc khánh của con cháu. Thế cho nên người quân tử một khi để ý việc sau này tất nhiên phải lấy việc tu thân tích đức làm gốc. Rồi mới đi tìm đất tốt cho mình chắc sẽ gặp ngay trời đất an bài, thần minh giúp đỡ, như thế chẳng những phần hồn yên lành sảng khoái, mà con cháu đời ấy qua đời khác vinh hiển giàu sang phúc lộc lâu dài vậy. Luận về huyệt Âm dương bí yếu mụ diêu nói rằng: Đại phàm khi người ta muốn xem huyệt lớn, trước hãy nhận lấy núi làm chủ, sau tự thấy núi nào là khách. Hai núi cần phải tương đối viên mãn, trung chính đều đặn. Núi bên tay tả, nước bên tay hữu thời là thuận khí hóa của trời đất. Núi bên hữu, nước bên tả: thời là nghịch trời đất. Tả thanh long không có bạch hổ thì lấy huyệt bên hữu, hữu bạch hổ không có thanh long, thì lấy huyệt bên tả. Thanh long mạch mà theo hổ, bạch hổ mạch mà theo thanh long ấy là nhân thượng vậy. Phủ việt ấy là bên thanh long. Kim mâu ấy là bên bạch hổ. Hơi núi vẫn phải triều củng vòng vào nhau, trông nhau. Nhưng nếu thanh long bức gần quá thì con trai thứ phải chết, Bạch hổ bức gần quá thì người con gái thứ bị chết. Ba mươi sáu phép huyền cơ dạy chọn huyệt Trước hết hãy xem chỗ nước chảy lại gọi là thiên môn thủy. Xem chỗ nước chảy đi gọi là địa bộ. Bất kiêng là núi chạy thẳng, nước chảy thẳng, song song hình như hai cái đuổi nhau. Đó gọi là chỗ âm dương cô quả vậy. Chia tay ít ấy thì là quỷ long, chia tay nhiều ấy thì là kiếp long lùi lũi lầm lì lìa tan ấy thì gọi là du long dung đổ, lở rách ấy là bênh long, giải tán không nương tựa vào đâu được ấy là tử long. Cô đơn một mình ấy là tuyệt long. Như then cửa trời, như trục xe của đất ấy gọi là nhũ long. Cá đi đến rùa rắn ấy là cát long. Sơ long thì phát chóng, trung long thì phát chậm, tận long thì phát cũng chóng Luận chia 24 hướng làm 3 huyệt... Ba huyệt ấy là thiên địa nhân vậy. Canh là thiên huyệt, Bính là địa huyệt. Nhâm là nhân huyệt. Càn, Khôn, Cấn, Tốn, Tý, Ngọ, Mão, Dậu đó là tám hướng thiên huyệt. Khi táng thì nên để cao. Giáp, Bính, Canh, Nhâm, Ất, Tân, Đinh, Quý đó là tám hướng địa huyệt. Khi táng thì nên để thấp. Dần, Thân, Tỵ, Hợi, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, đó là tám hướng nhân huyệt. Khi táng thì không nên cao quá, mà cũng không nên thấp quá. Âm dương trái ngôi là dữ, thuận theo trời đất ấy là lành. Trái trời đất ấy là dữ, Thiên huyệt ở trong lòng người ta. Địa huyệt ở âm nang người ta Nhân huyệt ở rốn người ta Thiên khiếu ở giữa, địa khiếu ở bên hữu Nhân khiếu ở bên tả, Người nam táng ở thiên huyệt, Người nữ táng ở địa huyệt. Thật là một quy mô nhất định không thể thay đổi được. Hình chính huyệt chính con cháu tất thịnh. Hình chính huyệt lệch, con cháu không toàn. Thế lớn hình lớn, phú quý vinh hoa Thế nhỏ hình nhỏ, sinh người nghèo khó. Thế nhỏ hình lớn con cháu không còn. Thế ngắn thì chẳng vinh hoa Hình ngắn là người chết non Lại có câu rằng: Huyền vũ cúi đầu duyên thay Án chi đàng trước múa may chầu vào. Thanh long uyển chuyển thanh tao Bạch hổ đứng doãng vòng bao minh đường Ấy là hình thể đại cương, Nếu không như thế tất thương tiếc hoài Sáu năm dương: Những năm Dần, Ngọ, Tuất thuộc hỏa sát ở nam. Những năm Thân, Tý, Thìn thuộc thủy sát ở bắc. Sáu năm âm: Những năm Hợi, Mão, Mùi thuộc mộc sát tại đông. Những năm Tỵ, Dậu, Sửu thuộc kim sát tại đây. nguồn: vnthuquan.net Share this post Link to post Share on other sites
Posted 1 Tháng 12, 2009 Bài phú nói chung về khoa địa lý Phần phiên âm Địa lý phú: Phù pháp viết: Xuyên ngư ngọa mã, đặc bạng địa trục chi phương (thư hùng địa trục, tại Dậu Mão chi phương dã). Đột giả quật, tu triệt quật giả đột, mạc khứ đảo trượng, (Dương công) vô sai ư trượng pháp. Giao cầm tu hợp cát cầm, thiên thương cốc tướng triều phần phú kham địch quốc. Phượng hoàng kỳ lân nhập huyệt quý bất khả ngôn, Mạch tòng giả thảo mộc mậu phồn, khí toàn giả uyên nguyên hoàn tụ. Tử tôn hiển đạt, tuy do huyệt chi sinh thành Môn hộ suy vi, đặc úy nhập phong chỉ xuy khởi Giải nghĩa Kìa phép xưa địa lý nói rằng: Cá xâu từng hàng Ngựa về nằm nghỉ, Địa trục tìm phương, Mão Dậu phân kim hướng chỉ, Nhớ đến câu: Thư hùng địa lý, Đột quật chi ly, Phải nhận ra, Chợt khác là mồ Chỗ đặc biệt mới là nơi tụ khí Còn phải hay rành khoa Đảo trượng. Chớ có sai trượng pháp mà nguy Giao cầm phải được cát cầm, Cốc trưởng giàu sang nghĩ sao phải nghĩ. Kỳ lân nhập huyệt là hay Ấp ủ phượng hoàng càng quý Mạch lành cây cỏ tốt tươi Sông bọc núi chần tinh túy ở nơi thủy chi. Cháu con phát đạt vẻ vang Tổ mộ núi sông tuyệt mỹ Cửa nhà sa sát suy vi Gió thổi lọt vào mới bị. Vì rằng gió ấy là nộ khí của trời đất. Đất đi hình khác thế núi có bao tàng thì long mạch mới bao tàng. Hình núi tản mát rời rạc thời long mạch cũng tản mác. Gió thổi Thiên môn khuyết hãm gió vào Ly hương đã vậy của đào bán trơn Thiên môn ấy là phương Càn vậy. Nếu phương Càn bị khuyết hãm để gió thổi vào được thì nhà ấy tất bán hết gia tài sản nghiệp rồi bỏ làng đi xa. Địa hộ thưa không gió thổi vào thì bị điên cuồng và bị ngã cây. Là ý nói địa hộ tức là phương tốn vậy. Nhược bằng phương tốn thưa không, gió thổi vào được, thì người ra điên cuồng và bị ngã cây. Nhân môn gió thổi vào thì người đẻ rơi. Nhẫn môn ấy là phương khôn vậy. Nhược bằng phương khôn bị gió thổi vào thì người ta sẽ bị đẻ rơi. Quỷ môn gió thổi vào thì người chết làm ra bệnh ôn dịch. Quỷ môn ấy là phương Cấn vậy. Nếu phương Cấn bị gió thổi vào thì người chết rồi lại làm ra ôn dịch. Truyền tống gió thổi lại, người con trai hồn bướm bay cao. Truyền tống ấy là phương thân vậy. Nếu phương thân để gió thổi vào được thành ra như thế. Công tào gió thổi vào thì người con gái bị hổ lang làm khốn. Công tào ấy là phương Dần vậy. Nhược bằng phương Dần bị gió thổi vào thời ra như thế vậy. Phương Tỵ gió thổi lại, thì bị rắn làm hại. Phương Hợi gió thổi vào thì cỡi cá kình mà đi. Nhâm phương bị gió thổi vào thì người bị trầm hà mà chết. Bính phương bị gió thổi vào thì người bị đau mắt. Giáp phương bị gió thổi vào thì chết đường. Canh phương bị gió thổi vào thì bị chứng trĩ mà chết. Khảm phương bị gió thổi vào thì trầm hà, viễn phối Ly phương bị gió thổi vào thì nhà nóng hại tằm. Chấn phương bị gió thổi vào thì của cải hòm dương rỗng tuếch. Đoài phương bị gió thổi vào thì sớm hôm không thăm viếng thờ phụng bên ngoại. Đinh phương bị gió thổi vào thì lở lang khổ sở. Quý phương bị gió thổi vào thì bị thuốc độc. Tân phương bị gió thổi vào thì bị bệnh lưỡi Ất phương bị gió thổi vào thì con gái dâm dục. Mùi phương bị gió thổi vào thì bị ho hắng Sửu phương bị gió thổi vào thì bị chết trận. Thìn phương bị gió thổi vào thì bị hại lục súc. Tuất phương bị gió thổi vào thị bị thuốc độc giết người. Núi mà khuyết hãm gió vào, Thổi qua là hại xiết bao dữ lành Đường đi xa lộ bộ hành, Rõ ràng lợi hại đành dành phải kiêng Vậy nên theo dõi thiên nhiên Mỗi con đường vượng là tiên trên đờ Chớ nên lạc lõng theo chơi, Vào nơi suy tuyệt chết thời hết ra Đường thời có chính có tà Hình có lành dữ biết mà chọn nên. Những cửa vượng là: 1. Trường sinh 2. Đế vượng 3. Dưỡng 4. Mộ Những đường suy là: Mộc dục, quan đới, lâm quan, suy, bệnh, tử Tuyệt, thai Mộc tinh thì hình thẳng Kim tinh thì hình uốn cong lên, Hổ tinh thì hình nằm ngang Thủy tinh thì hình uyển chuyển, chất chứa. Bên tả có đường cần nên uốn vòng vào gọi là thế vẫy cờ, chấn phương ấy vậy. Bên hữu có đường cần nên vòng lại, gọi là cờ bay là canh phương ấy vậy. Bên tả là quan văn từ học. Bên hữu là chức quan võ uy quyền. Phần mộ bị đường góc hẹp (Càn, Khôn, Tốn, Cấn). Gọi là tứ duy thì người ta hay bị tật ác sang mụn nhọt lở lang. Mồ mả hoặc là dương trạch bị đường đi có chữ thập sinh ra nhiều người nghèo khổ góa bụa. Đường trước giao nhau gọi là giang thi. Đàng sau dầu có nhiều đường giao nhau gọi là tự ải (tự thắt cổ chết). Ví bằng đường đàng sau có nhiều đường giao nhau thì là tự ải vậy. Tự nhiên thấy hình như kim treo là cách bỏ làng đi kết bạn xa. Hình như cắm chữ đinh, ấy là bị sấm sét hoặc bị chết vì khí giới. Đường tiếp đến thần tự hoa viên quản xá thì dễ tin. Đường gặp chỗ giao bằng thì say đắm phong nguyệt. Mộ để Cấn phương thì sớm đóng hương tồn. Càn phương giao trên thì hay bị đè nén. Tốn phương giao trên thì hay bị tranh tụng. Mộc tinh đóng ở phương nam nhà bị thất hỏa. Mộc tinh đóng ở phương bắc người bị rơi xuống sông Mộc tinh lại gặp mộc ở phương đông thì người ra điên cuồng hoặc là bị ngã cây. Mộc tinh mà ở kim phương, Tai bay vạ gió thường thường xảy ra. Như tơ dứt chẳng dứt ra, Là dấu tự ải nghiệp nhà oan khiên. Vô tình trái lại đảo điên. Ly hương xuất xứ liên miên quê người Xung phần đâu phải chuyện chơi Thắng ngay tới mộ của thời mất trơn Sông ở bên tả thì bên con trai mất trước. Sông ở bên hữu thì bên con gái mất trước, nam nữ hai cung phạm vào cung nào thì cung ấy bị hại. Khảm, Cấn, Chấn là nam cung. Ly, Khôn, Đoài là nữ cung Dâu rể hai vị bị xung vị nào thì vị ấy bị mất (Thìn Tuất là hai vị dâu rể). Share this post Link to post Share on other sites