Trần Phương

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    449
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Trần Phương

  1. Cồng chiêng Tây nguyên - tầm vóc nhân loại Thứ bảy, 30 Tháng mười 2004, 14:34 GMT+7 TTCN - Một cuộc trình diễn cồng chiêng chưa từng có qui tụ 200 nghệ nhân của tám dân tộc Gia rai, B"râu, Churu, M’nông, Êđê, Mạ, Xêđăng và Bahnar tại khuôn viên Bảo tàng Dân tộc học (Hà Nội) ngày 12-10 vừa qua. Đó cũng là “đề dẫn” cho cuộc tọa đàm “Giá trị văn hóa của các nhạc cụ gõ bằng đồng của VN và các nước trong khu vực”. Cuộc trình diễn nhằm tôn vinh không gian văn hóa cồng chiêng năm tỉnh Tây Nguyên (Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, KonTum, Lâm Đồng), tiến tới lập hồ sơ trình UNESCO xét duyệt như một kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại đợt 3 - 2005. Một nghệ thuật tự nhiên “Một cảm giác hoành tráng, thiêng liêng sẽ trỗi dậy trong ta khi nghe dàn cồng chiêng Gia Rai và Bahnar trình diễn” (GS Tô Ngọc Thanh). Đó chính là cảm giác mà nhiều người đã trải nghiệm qua phần trình diễn của 40 nghệ nhân Bahnar với dàn cồng chiêng tái hiện lễ Đâm trâu, Mừng nhà rông, Mừng lúa mới, Mừng đám cưới, Mừng được mùa, Bỏ mả... Cồng chiêng Tây nguyên là nơi tiết tấu và giai điệu gặp nhau. Mỗi nhạc công chơi một nốt và một mô hình tiết tấu, kết hợp lại thành bè, thành giai điệu. “Cồng chiêng Tây nguyên bảo lưu được hình thức diễn xướng tập thể - cộng đồng, hợp tấu bằng cách nghe nhau, tức phải có tâm linh cộng đồng ứng vào - GS Tô Vũ khẳng định - Hoàn toàn xa lạ với việc cá nhân hóa, nghệ sĩ hóa người biểu diễn, văn hóa cồng chiêng chỉ còn ở Đông Nam Á, và nguyên thủy nhất là ở Tây nguyên”. TS Vũ Nhật Thăng cho rằng cồng chiêng dựa theo hàng âm của ống hơi không khoét lỗ bấm - loại nhạc cụ lâu đời hơn và phổ biến ở Tây nguyên - “cũng có nghĩa là dựa theo thang âm của Trời, vừa thiêng liêng vừa độc đáo”. Mỗi con người Tây nguyên là một nghệ sĩ, nhạc sĩ thực thụ, có thể vừa hát vừa múa, sử dụng từng nhạc cụ hay tham gia vào dàn nhạc cồng chiêng một cách thành thạo. Khả năng âm nhạc của người Tây nguyên được phát triển tự nhiên và phổ biến trong cộng đồng. Ngày trước, nam nữ đến tuổi trưởng thành mà không biết chơi cồng chiêng còn khó lập gia đình! “Cái nôi của cồng chiêng rất có thể là Trường Sơn - Tây nguyên” là giả định của GS Jose Maceda (Philippines) cách đây hơn 20 năm. Đông Sơn đã trở thành tên gọi cho cả nền văn hóa thời kỳ đồ đồng cách đây khoảng 3.500 năm trong khu vực Đông Nam Á. Hiện người Mường ở Thanh Hóa, Hòa Bình vẫn còn những dàn cồng chiêng đến 12 chiếc. Một giả thiết đã được GS Tô Vũ xác nhận: cồng chiêng rất có thể có nguồn gốc Việt - Mường, nhưng về sau trong quá trình dài Hán hóa đã bị mai một đi; chỉ còn lại nhánh “trốn lên núi” (Mường) là lưu giữ được... Một thực tế củng cố thêm giả thiết này là đồng bào dân tộc Tây nguyên vẫn chưa tự chế tác được nhạc cụ cồng chiêng mà phải mua của người Kinh, người Lào, Campuchia. Một nghệ thuật thiêng “Cồng chiêng càng cổ bao nhiêu thì thần chiêng càng mạnh bấy nhiêu... Người chủ nhiều cồng chiêng không chỉ là người nhiều của cải mà cái chính là được sức mạnh của thần chiêng phù hộ” (Tô Ngọc Thanh). “Dòng họ, làng nào có nhiều cồng chiêng sẽ được các dòng họ, làng khác nể nang, nghe theo. Già làng ở làng ấy có thể được tôn lên làm già làng cho cả một vùng” (Phạm Cao Đạt). Cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà một vài người trong vùng có thể đảm nhiệm việc “lên dây” chiêng sau mỗi kỳ sử dụng thường chính là già làng. Ngay khi đứa trẻ vừa ra đời, người ta đã đem cồng đến đánh bên tai nó, gọi là lễ thổi tai. Chiêng cồng luôn có mặt trong các lễ cúng từ khi con người còn là thai nhi trong bụng mẹ cho tới khi vĩnh biệt cuộc đời, chưa kể trong vô số nghi lễ nông nghiệp ở Tây nguyên, kéo dài từ tháng ba đến tháng mười hai. Trong mỗi lễ hội, cồng chiêng là phương tiện duy nhất để con người thông linh (với thần), giao hòa với trời đất và giao tiếp trong cộng đồng. Đánh cho khỉ trên cây cũng quên bám chặt vào cành đến ngã xuống đất/ Đánh cho ma quỉ mải nghe đến quên làm hại người (Trường ca Đam San). Sử thi của người Êđê, M’Nông còn kể lại những cuộc “chiến tranh” giữa các bộ tộc nhằm chiếm đoạt cồng chiêng. Người Xêđăng kể rằng: Thuở xa xưa có lần voi dữ tràn về phá rẫy, phá buôn. Con trai Xêđăng mang theo lao, tên lá cùng hợp sức tiêu diệt thú dữ, đánh nhau suốt mấy ngày đêm, sức tàn lực kiệt mà thú dữ càng hung tợn. Họ chỉ còn biết chắp tay cầu Yàng. Bỗng họ thấy đùn lên một ụ đất, đào xuống thấy một vật bằng đồng tròn như ông mặt trời to bốn người ôm mới xuể. Gõ vào vật ấy phát ra tiếng trầm vang động núi rừng khiến đàn thú dữ ngơ ngác. Rồi các ụ đất liên tiếp mọc lên, mang theo các vật bằng đồng hình dáng tương tự nhưng nhỏ dần, âm càng cao. Khi đã có trong tay hơn 10 chiếc chiêng, đồng thanh gõ lên thì tiếng trầm như thác đổ, tiếng cao như thác reo khiến voi dữ phải chạy vào rừng sâu... “Các tộc người Tây nguyên quan niệm nhạc cụ như con người - càng nhiều tuổi tiếng nói càng được tôn trọng. Cồng chiêng càng lâu năm, trải qua nhiều lần nghi lễ càng thiêng” (Phạm Nam Thanh). Những bộ chiêng tiếng hay và thiêng có giá trị tính bằng 1-2 con voi hoặc 40 con trâu. Người B’Râu cho rằng chiêng tha (gồm hai chiếc chồng và vợ) chính là tổ tiên của họ. Đánh chiêng họ gọi là gọ tha pơi, nghĩa là “mời tha nói”. Thủ tục để mở một bài chiêng rất khắt khe, phải cho tha ăn, cho tha uống, khấn mời trời đất và nhiều người đến chứng kiến... Người Xêđăng Sdrá có chiêng buàr duy nhất một chiếc - chủ nhân phải cất rất kỹ, sợ người ngoài hoặc trẻ con không biết đem ra đánh thì khổ, sẽ bị già làng phạt nặng. Các dân tộc Tây nguyên đều đặt tên chiêng trong một bộ theo vai vế như trong một gia đình và phân biệt chiêng thiêng (có Yàng trú ngụ) với chiêng thường để dùng trong các dịp lễ trọng hoặc sinh hoạt thường ngày. Có bộ chiêng chỉ được đánh khi có vật hiến sinh từ bò trở lên ! Một nghệ thuật đang bị đe dọa Giữa những năm 1970, ước tính tỉnh Đắc Lắc có khoảng 1 vạn bộ cồng chiêng, trong đó người Êđê chiếm gần 7.000 bộ. Mỗi gia đình hầu hết đều có cồng chiêng. Nhà khá giả có tới hàng chục bộ. Sau hơn một thập kỷ “chảy máu”, đến năm 1993, toàn tỉnh còn hơn 4.675 bộ, đến 2003 còn 3.825 bộ = 27.428 chiếc chiêng. Như vậy trong 10 năm gần đây, Đắc Lắc mất 850 bộ cồng chiêng, nhiều bộ đã qua các lò đúc của người Kinh hóa thân thành đỉnh đồng, chân hương cùng các vật dụng khác. Thời phong kiến, nguyên liệu khan hiếm, cồng chiêng từng được đúc bằng tiền. Để làm được một bộ chiêng, phải nung chảy hàng chục cân tiền! Hiện người Gia Rai vẫn lưu giữ được nhiều bộ chiêng như vậy, họ gọi chúng là chiêng Bảo Đại. Nhà nghiên cứu Phạm Cao Đạt (Kontum) còn phát hiện ra hiện tượng “chảy máu ngược”. Từ chuyện tặng nhau cồng chiêng, rồi tặng tiền để đồng bào mua, có huyện đã ra hẳn nghị quyết trích ngân sách cho mỗi làng dân tộc một bộ cồng chiêng. Và họ cử người Kinh đi mua thứ chiêng bày la liệt dọc quốc lộ 1A qua Quảng Nam - Đà Nẵng. Trong quá trình vận chuyển lẫn lộn bộ nọ với bộ kia rồi cứ đếm đủ mỗi làng 11 chiếc là cấp phát. Cao độ sai hết, bộ chiêng chỉ có giá trị... đồng nát. Chưa đầy hai năm, họ đã mua về 31 bộ như thế và báo cáo rằng đã thực hiện nghị quyết nghiêm chỉnh: 100% làng đã có chiêng mới! Vẫn Phạm Cao Đạt cảnh báo: “Việc tách cồng chiêng ra khỏi môi trường sinh hoạt của nó cần hết sức thận trọng. Biến nghệ nhân phải thành diễn viên, thậm chí còn dắt tay chỉ việc cho họ, sân khấu hóa tuốt tuột. Cái quí nhất là sự cộng cảm của sân khấu dân gian không còn. Sinh hoạt cồng chiêng kiểu đó thật sự vô hồn, không còn ngõ nào để nghệ nhân ngẫu hứng sáng tạo cả...”. Sở Văn hóa - thông tin Lâm Đồng dùng một khái niệm khác để chỉ việc này: “Một khi cái thiêng bị giải, đồng nghĩa với cơ hội để chiêng cất lời không còn nguyên vẹn nữa, chiêng trở về với bản thể: thuần túy là nhạc cụ tự thân vang, hoặc có khi là thứ đồng nát rẻ tiền”. Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan lại có một góc nhìn khác: “Vì tính nghệ thuật độc lập nên ngày hôm nay cồng chiêng Tây nguyên đã không chỉ lệ thuộc vào không gian văn hóa tín ngưỡng như trước đây, mà đã đủ khả năng để bước lên không gian của nghệ thuật có bục diễn”. Năm 1974, một dàn chiêng lạ từ huyện Măng Giang (Gia Lai) ra Hà Nội trình tấu theo thang âm bình quân như Tây. Thì ra thanh niên dân tộc đã gò lại chiêng cho có núm hết... để chơi nhạc mới. Cách đánh cũng được cải tiến, chỉ hai người chơi một dàn chiêng treo. Đây chính là loại chiêng thanh niên thịnh hành vào cuối những năm 1970 và bị các nhà nghiên cứu kịch liệt phản đối. Thời điểm ấy, các điệu xoang cũng được biến đổi cho nhanh mạnh, rạo rực hơn... Tới đây, xin mượn ý của nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền: dù cồng chiêng có được công nhận là kiệt tác của nhân loại hay không, việc chúng ta cần làm vẫn là phải biết trân trọng và gìn giữ nghệ thuật chỉ có ở VN này. NGUYỄN MẠNH HÀ Việt Báo.vn (Theo_TuoiTre)
  2. Về thông tin này có lẽ tôi phải sưu tầm lại và bổ sung kiến thức của mình, bởi hình như đến năm 1406 nhà Hồ chưa bị mất nước (!?) Cố Cung ở Bắc Kinh là một điểm tham quan nổi tiếng của Trung Quốc (và cả trên thế giới), có nhiều người đi tham quan rất nhiều lần và lần nào quay lại Bắc Kinh đều muốn vào xem tiếp, họ kể rằng ngoài việc chiêm ngưỡng kiến trúc tuyệt mỹ ra còn cho thấy một nỗi uy nghi (có phần lạnh lẽo và khiếp sợ) của Thiên Triều. Có một điều là trong toàn bộ khuôn viên rộng lớn của Cố Cung tuyệt không hề thấy một bóng cây xanh nào, có vẻ như các vua quan phong kiến Trung Hoa rất sợ bị "thích khách" (!) Nhưng lịch sử quá trình xây dựng Cố Cung lại gắn liền với thời điểm thất bại quân sự đau đớn nhất của dân tộc Việt dưới thời nhà Hồ. Rất nhiều thợ thuyền giỏi bị bắt về để phục vụ Thiên Triều, không riêng gì Cố Cung với kiến trúc sư trưởng công trình Nguyễn An, mà còn rất nhiều ngành nghề khác từ gốm sứ (như gốm Chu Đậu), sau này một số hậu duệ tản mác tái thành lập làng nghề ven sông Hồng sau khi giành độc lập và có tên tuổi đến bây giờ (như gốm Bát Tràng), cho đến các kỹ thuật quân sự ưu việt của Hồ Nguyên Trừng, ... và cả những tội ác (không cần phải nhắc lại) đối với trẻ em và phụ nữ mà "Trúc Nam Sơn không ghi hết tội ... (Bình Ngô Đại Cáo)". Vài lời mạn đàm.
  3. Chào anh Thiên Nhơn, Riêng dòng ở trên thì tôi không nghĩ là như vậy. Thân mến !
  4. Bí ẩn Giếng Chăm cổ VIT - Có thể nói rằng mỗi giếng Chăm cổ là một bí ẩn; bí ẩn từ hình dáng đến cách chọn mạch nguồn nước. Trải qua nhiều biến động lịch sử, sự tồn tại của các giếng Chăm cổ vẫn giữ nguyên những giá trị độc đáo và kỳ bí. Hầu hết giếng Chăm tồn tại đến nay dù trải qua hàng trăm năm (nhiều giếng có trước năm 1471 - khi những lưu dân người Việt đến định cư trên vùng đất này) nhưng nước vẫn trong ngọt, không phèn, mạch không cạn. Đây quả là điều bí ẩn về cách chọn nguồn mạch của người Chăm xưa. Về kiểu dáng "miệng tròn đáy vuông" đã phản ánh rõ nét về tâm thức của người Chăm xưa về tín ngưỡng phồn thực mà chúng ta vẫn thường bắt gặp thông qua việc thờ cúng ngẫu tượng linga - yoni (linga tròn, yoni vuông). Và trên hết, ở đây dường như đã có sự tương đồng về tín ngưỡng tâm linh với người Việt, đó là quan niệm về vũ trụ, trời đất, âm dương “trời tròn đất vuông”, “dương tròn âm vuông”... Giếng “miệng tròn đáy vuông” đã phản ánh rõ nét tâm thức của người Chăm xưa. Ảnh Đất Việt Cùng với sự tiếp nhận những yếu tố văn hóa phi vật thể (lễ hội, ẩm thực, ngành nghề…) thì các lưu dân Việt cũng biết tiếp nhận những yếu tố văn hóa vật thể để phục vụ cho chính mình mà sự hiện diện của các giếng Chăm trong cộng đồng người Việt đã minh chứng rõ nét cho sự giao thoa văn hóa của hai dân tộc. Song song với các giếng gạch có kiểu dáng “miệng tròn đáy vuông” cũng thấy xuất hiện một mô típ giếng được xây bằng đá; đây là một kiểu dáng khá độc đáo đòi hỏi sự tinh xảo trong chế tác và xây dựng. Các giếng này tập trung nhiều nhất tại các xã Duy Thu, Duy Tân (Duy Xuyên), đặc biệt là khu vực thôn Chiêm Sơn, Duy Trinh. Đó là các giếng Chùa Vua, giếng Ông Tư Giản, giếng Tiên… Hầu hết các giếng này được xây dựng bằng các phiến đá ghép lại từng lớp với nhau, trong đó mỗi lớp đá gồm 5 phiến được đẽo tỉ mỉ cụm lại thành vòng tròn ghép chồng khít theo từng lớp cao dần đến mặt đất để cuối cùng được hàn lại bằng một vòng đá tròn bên trên. Giếng hình vuông đáy lát bằng gỗ thời Chăm Pa. Ảnh Đất Việt Nguyên vẹn và đẹp nhất có lẽ là giếng trước sân nhà ông Dương Ngọc San ở thôn Thanh Chiêm 1, Điện Phương (Điện Bàn) - giếng là sự chồng ghép của hơn 10 lớp đá granit dày 45cm - 50cm được đẽo tạc tỉ mỉ với những đường cong chính xác chồng ghép lên nhau, kẽ hở giữa 2 mảnh ghép kề nhau không quá 0,5cm, đỉnh trên cùng thành giếng là vòng tròn bằng đá có kích thước dày 30cm x đường kính 75cm. Tuy trải qua hàng trăm năm nhưng đến giờ giếng này vẫn là nơi lấy nước dùng trong sinh hoạt của nhiều gia đình xung quanh. Đến bây giờ vẫn còn nhiều tranh luận thú vị về nguồn gốc ra đời của một số giếng, đặc biệt là các giếng tại Hội An như giếng Bá Lễ, giếng nhà thờ tộc Trần, hoặc giếng Ông Tư Giản (Duy Xuyên)… Mỗi giếng là một câu chuyện dài về thuở sơ khai khi những lưu dân đầu tiên đến định cư trên mảnh đất này; đó là câu chuyện về dòng họ Trần đào giếng lấy nước, dòng họ Bùi đào giếng Bá Lễ… được truyền miệng qua nhiều thế hệ con cháu. Nếu như sự hiện diện của các đền tháp gợi cho chúng ta sự thâm nghiêm ngưỡng vọng, sự chiêm nghiệm về những gì thoát tục cách biệt với thế giới con người, thì các giếng Chăm luôn gợi nên sự bình lặng, dân dã của một vùng quê, sự an cư lạc nghiệp của một cộng đồng. Mỗi giếng Chăm là một minh chứng sống động về một vùng đất cùng những giá trị văn hóa đã qua… Phương Ly (theo vitinfo.com.vn)
  5. Kính cẩn nghiêng mình trích đăng ý của đoạn thơ này - bài thơ này, để gửi tặng anh Thiên Sứ trong ngày sinh nhật của mình. (Hôm nay chắc mọi người uống rượu vui vẻ lắm nhỉ, cho TP gửi cạn một chén nhé) :lol:
  6. MÙA XUÂN NHO NHỎ Thanh Hải Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi, con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng ... Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy quanh lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao... Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc. Mùa xuân - ta xin hát Câu Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế.
  7. Theo những thông tin cập nhật cho biết thì hiện ở Nga cũng đã phát triển được loại thuốc chống đại dịch H1N1 : Nga thử nghiệm thành công loại thuốc có thể tiêu diệt virus cúm A/H1N1 ở mọi giai đoạn phát bệnh. (10:23, 11/09/2009) P.V. (NuocNga.net) theo News.ru Các nhà khoa học vùng Ural của Nga đã nghĩ ra cách chiến thắng căn bệnh cúm A H1N1 đang hoành hành trên thế giới hiện nay. Theo tin mới phát trên truyền hình Vesti, các nhà khoa học Nga đề nghị sử dụng một loại thuốc mới để chống cúm H1N1 có tên là "Triazfverine". Loại thuốc bột màu vàng này đã được làm ra 15 năm trước theo một dự án khoa học chống vũ khí hóa học, tuy nhiên công trình này không được phổ biến rộng rãi và hồ sơ bị đưa vào kho lưu trữ. Giờ đây khi thế giới đang phải đối mặt với căn bệnh cúm có tốc độ lây lan mạnh H1N1 thì các nhà khoa học Nga đã "sực nhớ đến" dự án này và quyết định thử nghiệm trên động vật. Thuốc Triazaverine hồi đó hữu hiệu đối với mọi loại bệnh cúm đang phát triển ở mọi giai đoạn, kể cả trong thời gian bệnh đã phát. Theo lời ông Oleg Chupakhin, lãnh đạo bộ phận nghiên cứu khoa học của Viện tổng hợp hữu cơ trực thuộc phân viện hàn lâm khoa học Nag vùng Ural, 2-3 tuần trước Viện cúm Peterburg, cơ quan đã nhận được mẫu virus cúm H1N1 từ WHO, đã tiến hành thử nghiệm loại thuốc này trên động vật, kết quả cho thấy thuốc có hiệu quả đối với loại virus này. Triazaverin cũng đã "xuất sắc" trải qua thử nghiệm trên người khỏe về độc tính và phản ứng phụ. Hiện nay các nhà khoa học đang chờ Bộ Y tế và phát triển xã hội Nga cho phép thử nghiệm trên bệnh nhân H1N1. Ưu điểm quan trọng của Triazaverine là nó có khả năng tiêu diệt virus ở bất kỳ giai đoạn nhiễm bệnh nào, trong khi những loại thuốc tương tự hiện nay, kể cả ở nước ngoài, chỉ có tác dụng trong một số ngày đầu nhiễm bệnh. Ông Chuparin cũng khẳng định nếu được sản xuất đại trà loại thuốc này của Nga sẽ rẻ hơn nhiều so với thuốc cùng loại trên thế giới hiện nay. http://www.nuocnga.net/default.aspx?tabid=...&CateID=259
  8. Quê hương tôi có Bà Trưng Bà Triệu Cưỡi đầu voi dấy nghĩa trả thù chung Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến Hưng Đạo Vương mở Hội nghị Diên Hồng Trích thơ Nguyễn Bính Thân mến chia sẻ cùng các bạn ! :rolleyes:
  9. Đã đọc những dòng từ biệt của anh Nhatnguyen52 từ trưa nay nhưng không biết phải lên tiếng như thế nào. Chỉ xin có lời chia sẻ với nỗi buồn của tất cả những thành viên diễn dàn khi không còn được đọc những bài nghiên cứu rất sâu sắc của anh Nhatnguyen52. Nếu được, Trần Phuơng xin nguyện làm thay tất cả những công việc của anh liên quan đến kỹ thuật vi tính, có gì anh hãy PM cho TP nhé. Kính gởi đến anh và gia đình sức khỏe và vạn sự thành công. TP.
  10. Phát kiến vĩ đại của khảo cổ Việt Nam ! Trong một cuộc hội thảo quốc tế về khảo cổ học với sự tham gia của các nhà khoa học hàng đầu thế giới từ Nga, Mỹ và Việt Nam diễn ra tại... I Rắc, các nhà khoa học trình bày về những phát kiến mới nhất vê khảo cổ học ở nước mình. Các nhà khoa học Nga đứng lên hùng hồn, bắt đầu bằng những phát hiện của mình: Họ đã đào sâu dưới 1000 mét đất vùng Xi-bia và tìm thấy một mẩu dây đồng. Họ kết luận rằng 1000 năm về trước, tổ tiên của họ đã có điện thoại. Một tràng pháo tay hưởng ứng dành cho các nhà khảo cổ Nga vang lên. Đến lượt các nhà khảo cổ học Mỹ công bố những phát kiến vĩ đại của mình: Họ đào sâu trên 5000 mét đất vùng đất miền Tây Texas và thật kỳ lạ họ đã phát hiên những sợi dây thuỷ tinh trong suốt. Và kết luận được đưa ra là 5000 năm trước, tổ tiên của người Mỹ đã sử dụng cáp quang. Lần này những tràng vỗ tay hưởng ứng nhiệt liệt còn to hơn và còn kéo dài hơn nữa. Cuối cùng là đến lượt các nhà khoa học Việt Nam. Một vị khảo cổ học đứng lên tuyên bố hùng hồn: "Chúng tôi đã triển khai dự án cách đây 10 năm, đào sâu 10.000 mét dưới chân tháp Rùa - Hà Nội và cuối cùng....Các bạn có biết chúng tôi đào được gì không?" Cả hội trường xì xào rồi nín lặng nhìn vị khảo cổ học....Đại biểu Việt Nam nhìn quanh rồi tiếp lời : "Chúng tôi đã ... không tìm thấy gì hết. Vì vậy, kết luận của các nhà khảo cổ Việt Nam chúng tôi là : 10.000 năm trước, tổ tiên người Việt đã có vệ tinh và điện thoại di động..." Cả hội trường ngỡ ngàng trong giây lát rồi vang lên những tràng vỗ tay như sấm dậy. Những tiếng "Việt Nam muôn năm !" vang lên không dứt... Rutto (st) Theo nguồn : www.thegioidienanh.vn
  11. Nhìn ai có cặp có đôi Còn tôi sớm tối lẻ loi phát rầu Buồn tình ngồi ngắm bồ câu Nó cũng hai đứa, ôi sầu càng tăng !!! :lol: :lol:
  12. Nước Văn Lang theo sử cũ chép lại có 15 “bộ”. Lần theo địa danh các “bộ”, các nhà khảo cổ đã phân định được các trung tâm kinh tế chính trị của thời Hùng Vương, ít ra đã phân định được 11 trung tâm như vậy chủ yếu ở các vùng đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ. ........................ PGS-TS Trịnh Sinh (theo báo CAND) http://antg.cand.com.vn/vi-VN/ktvhkh/2009/4/69111.cand --------------------------------------------- Về bài viết này của GS Trịnh Sinh thì tôi cũng định post mấy lần nhưng nội dung cũng gần giống với bài "Thời Hùng Vương : từ tâm thức đến lịch sử" trên báo Lao Động và lại dài tới 2 trang báo nên cũng ... làm biếng đăng :rolleyes: , tuy ông Trịnh Sinh cũng thừa nhận có giao lưu văn hóa thời Hùng Vương.
  13. Chào bạn Liên Hương, Về cách xưng hô thì không có gì quan trọng đâu, cứ gọi thế này cho thân mật nhé. Xin lỗi vì mình đã đọc bài của Liên Hương rồi nhưng bây giờ mới trả lời được vì mấy ngày gần cuối tuần mình lu bu quá. Thực ra chương trình tour mà bạn chọn là một chương trình rất phổ biến ở TPHCM từ lâu (khoảng 10 năm), bản thân mình đã làm tour này với rất nhiều các đối tác là xí nghiệp (cho công nhân đi nghỉ dưỡng cuối tuần) hoặc các trường học (cho học sinh). Vì vậy, trước khi đi vào vấn đề "ngon - bổ - rẻ" như bạn nói, có thể cho mình hỏi vài câu được không : - Liên Hương đi với gia đình hay bạn bè ? Số lượng ? - Hay chỉ đi một mình ? Nếu là chỉ đi một mình (hoặc cùng với một vài người thân) thì đó là đi tuyến vé lẻ, hiện chỉ những công ty lớn có tên tuổi mới thường xuyên duy trì các tour này (tour vé lẻ), còn những công ty nhỏ hơn thì ít hoặc chỉ có thể hợp tác để ghép tour với các đối tác khác. Còn nếu bạn đi với số lượng trên 10 người và trên 1 xe độc lập thì hầu hết các công ty lớn nhỏ ở TP đều có thể thiết kế cho bạn với thời gian đi - về hoàn toàn linh động theo ý bạn chọn; về vấn đề này (hơi tế nhị, hì ...) thì mình thấy các công ty nhỏ ít tên tuổi làm rất tốt bởi họ buộc phải linh động hơn vì nguyên nhân khách quan là yếu thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp có tên tuổi. Một vấn đề nữa về chọn loại hình du lịch, (nếu tổ chức đi 1 đoàn) thì cũng có 2 trường hợp : - Đi cùng gia đình. - Đi cùng bạn bè. Nếu là đi cùng gia đình thì bạn nên chọn loại hình du lịch thuần túy, bạn cứ liên hệ trước để bên đơn vị tổ chức sắp xếp hướng dẫn viên chuyên về văn hóa sử, các món ăn, và sinh hoạt nghỉ dưỡng cho phù hợp. Còn nếu đi cùng bạn bè thì bạn nên chọn loại hình du lịch dã ngoại, về loại hình này thì các HDV có khuynh hướng thiên về hoạt náo và khuấy động nhiều hơn, ... Về việc "ngon - bổ - rẻ", mình xin bàn về chữ "rẻ" nhé. Về rẻ thì cũng có 2 trường hợp đấy, trước tiên là rẻ theo kiểu "tiền nào của ấy" chẳng hạn như lưu trú : Resort, Hotel, hay Nhà rông ? Về loại này thì mình không có ý kiến vì khách hàng mới là người lựa chọn. Mình chỉ bàn với bạn loại hình "rẻ" khác, cái này về chuyên môn mà mình biết, hì, đó là tất cả các đơn vị tổ chức du lịch trong và ngoài nước đều có hợp tác với các đơn vị liên quan như : nhà hàng, KS, các khu vui chơi giải trí, ... cho đến phương tiện vận chuyển như xe cộ, tàu thuyền, ... nên chắc chắn giá cả khi bạn tham gia tour trọn gói (của các DN) sẽ thấp hơn nhiều so với bạn tự bỏ tiền đi, mặc dù có thể việc tự tổ chức đi sẽ thoải mái hơn trong giờ giấc và sinh hoạt vui chơi (nhưng không có HDV). Đôi điều tâm sự với bạn như vậy, chúc bạn và người thân một chuyến du lịch như ý. Thân mến.
  14. Chào bạn Liên Hương, Bây giờ TP mới ghé trang Cafe này và biết được ý định của bạn. Không biết bạn đã tìm được tour như ý chưa, nếu bạn không chê thì TP xin mạn phép tư vấn dùm Liên Hương. Mọi người cứ yên tâm, TP chỉ tư vấn trong giới hạn ý định của bạn Liên Hương và sẽ giấu những thông tin cần giấu và tuyệt đối không hề có ý quảng cáo hay gì đâu. Thân mến.
  15. Chúng ta hi vọng rằng, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, mức sống và trình độ văn hóa của người dân các vùng thôn quê ngày càng nâng cao, thì đến một ngày nào đó các cô gái VN sẽ chu du khắp thiên hạ để học tập, nghiên cứu và làm việc, như các cô gái Nhật hiện nay chẳng hạn. Và điều tất yếu tiếp theo là sẽ tìm được cho mình những tấm chồng như ý ở bất cứ nơi nào trên thế giới do bản thân mình lựa chọn, chứ không còn phải đứng xếp hàng cho những người đàn ông ngoại quốc chọn lựa làm vợ nữa.
  16. VE NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM VÀ ĐỊA ĐÀNG PHƯƠNG ĐÔNG CỦA OPPENHEIMER Nguyễn Quang Trọng Trong báo Thế Kỷ 21 (số tháng 12 năm 2001, nam California, USA) ông Nguyễn văn Tuấn có đặt lại vấn đề nguồn gốc (Tàu) của dân tộc và văn minh Việt Nam sau khi ông đọc cuốn "Địa đàng ở phương Đông" của Stephen Oppenheimer. Với nhiều điểm mới dựa trên sự tổng hợp tài liệu nhiều ngành (khảo cổ học, ngữ học, di truyền học, dân tộc học) và kết quả nghiên cứu của chính Oppenheimer, "Địa đàng ở phương Đông" phát giác sự đóng góp quan trọng của vùng Đông Nam Á trong lịch sử nhân loại. Ngô thế Vinh đã giới thiệu sách này trong bài "Tìm về phương Đông- Địa đàng lại đánh mất" trong Thế Kỷ 21 số tháng tư năm 2000. Việc Nguyễn văn Tuấn (NVT) tóm tắt cuốn sách đồ sộ này (560 trang với kiểu chữ nhỏ) và thêm những dữ kiện mới thông báo rất đáng ca ngợi. Những thuyết mới về nguồn gốc dân tộc khi được thông báo cho cộng đồng người Việt Nam giúp hiểu thêm về cội nguồn tổ tiên, xóa bỏ mặc cảm tự ti (nếu có). Tuy nhiên, do tầm quan trọng của vấn đề, khi sử dụng những số liệu và dữ kiện để chứng minh quan điểm của mình, có lẽ chúng ta cần thận trọng để tránh các bẫy rập tự tôn, duy chủng tộc, duy dân tộc quá khích. Tự tôn dân tộc - Tự tôn chủng tộc. Người Tàu rất tự tôn, không riêng ở cái tên Trung Quốc tự xưng, mà còn vì thói quen hay tự nhận là "người đầu tiên" sáng chế ra nhiều thứ (dù có phần nào sự thật). Tính tự tôn này đôi khi cũng thể hiện trong lãnh vực khoa học. Một số khoa học gia Trung Quốc muốn chứng minh đất Trung Hoa là nơi phát sinh ra giống dân Á châu, và văn minh tộc Hán là văn minh trung tâm thế giới. Họ cố tình che dấu, giảm thiểu, hay vơ chung vào văn minh tộc Hán những nền văn minh rực rỡ cổ xưa tìm thấy trên đất Trung Hoa nhưng không thuộc vùng ảnh hưởng Hán tộc. Điển hình là trường hợp văn minh Sanxingdui phía bắc Thành Đô (Chengdu, thuộc tỉnhTứ Xuyên), phía nam thượng lưu sông Dương tử. Năm 1986, một nhóm thợ lò gạch tình cờ tìm được một hố tế lễ chứa đầy đồ đồng, vàng và ngọc thạch. Khi đoàn khảo cổ Tứ Xuyên đến đó khai quật, họ tìm ra hố thứ hai. Tổng số đồ vật trên 800 món, với nhiều thức tuyệt xảo bằng đồng, kích thước to, trong đó có tượng người cao bằng người thật (1.72 m), nhiều đầu người và mặt nạ bằng đồng. Đây là tượng đồng to nhất tìm thấy ở Trung Hoa. Tượng có mắt to và xếch, mũi lớn, lông mày rậm dày và miệng thật rộng, rõ ràng không phải chân dung tiêu biểu người Hán. Hơn nữa nền văn minh đời Thương, là văn minh cổ nhất của Tàu, không hề có đồ đồng mang dạng người. Trung Hoa xem đó là cổ vật thuộc nhóm dân Ba- Thục, và xếp chúng vào thời đại cuối thời Thương. Một nhóm khảo cổ Hoa Nhật khám phá ra thêm một thứ đền "kim tự tháp" ở Longma, phía tây- nam Thành Đô, có cùng những đường nét văn hóa. Đền này nằm tại trung tâm thành cổ, trong khi đền thờ, nơi tế lễ cổ và thuần Trung Quốc (Hán) đều nằm ngoài vòng thành. Các nhà khảo cổ Nhật ước tính tuổi cho nền văn minh này là 3000 đến 4700 năm về trước. Khám phá này được công bố ở Kyoto, Nhật vào tháng 10 năm 1996, hình ảnh được đăng trên những báo lớn và sau đó trong những sách, báo Anh và Pháp ngữ, trong khi báo Trung Hoa không hề đăng, và rất ít thường dân Tàu biết đến tin này. Trên thực tế, Trung Hoa không muốn chấp nhận sự hiện diện một nền văn minh khác, rực rỡ và xưa hơn văn minh Hán tộc vốn dĩ được xem là văn minh gốc của cả nước. Vào nửa đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ Ấu châu đặc biệt chú trọng đến việc khai quật các di tích tiền sử ở những nước thuộc địa. Nhưng vì dựa vào mô hình các giai đoạn phát triển kĩ thuật ở châu Ấu để nghiên cứu các dữ kiện khảo cổ nên họ đã đưa đến những kết luận nhuộm màu ưu / duy chủng tộc trong chiều hướng tôn cao văn minh dân da trắng. Nhà khoa học Áo Heine-Geldern nổi tiếng về thuyết thiên di ở Đông Nam Á, đã cố sức chứng minh văn hoá Đông Sơn bắt nguồn từ văn hoá phương tây người Kimmer, hay người Tokhara (tức người Nhục Chi) từ vùng Hắc Hải thiên di đến (thật ra người Tokhara chỉ đến vùng nam Tây Bá Lợi Á). Mansuy, người Pháp đã phát giác ra các di vật ở Bắc Sơn (vùng Cao Bằng Lạng Sơn),- theo Hà Văn Tấn- đã "gắn sự xuất hiện của kĩ thuật mài đá trong văn hoá Bắc Sơn với yếu tố tộc người da trắng có nguồn gốc phương Tây." Nhà tiền sử học Mĩ Movius xem sự kiện trường tồn của đồ đá đặc thù Á Châu "Choppers/Chopping-tools" là biểu hiện tính chất kém phát triển của văn hoá Đông phương so với Tây phương cùng thời. Coedès, hàn lâm viện sĩ Pháp, từng là Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ danh tiếng, cũng cho rằng cư dân bản địa Đông Dương vốn thiếu óc sáng tạo, ít khả năng tiến hoá và khó tiến bộ nếu không có sự đóng góp của bên ngoài. Nói thẳng ra, tất cả các nhà khảo cứu này cho rằng cư dân Đông phương cổ mọi rợ, không văn minh bằng cư dân Tây phương cổ. Vô tình hay hữu ý, các nhà khoa học thời đó đưa ra những lí lẽ biện minh cho chính sách thuộc địa mà kết luận đưa ra là dân Tây phương (có bổn phận) đem ánh sáng văn minh đến cho những dân tộc bán khai địa phương. Đó là tính tự cao chủng tộc của người da trắng. Nhưng Đông Nam Á thời tiền sử có thật sự kém văn minh như người ta tưởng không ? Ngày nay đa số khoa học gia công nhận rằng không thể áp dụng mô hình các giai đoạn kĩ thuật ở Ấu Châu để định tuổi cho dụng cụ đá tại Đông Nam Á, và qua đó định tuổi các nền văn hoá Đông Nam Á, là vùng có khí hậu và môi trường sống hoàn toàn khác. Dụng cụ chặt đẽo choppers sở dĩ không thay đổi trong một thời gian dài là vì người Đông Nam Á thời đó đã biết dùng tre, gỗ chế biến thành dụng cụ cần thiết cho đời sống hằng ngàỵ. Nhưng người ta không tìm ra được các thứ vật dụng này vì chúng đã bị tiêu huỷ trong môi trường Đông Nam Á nóng ẩm ; và chính công cụ đá đã được sử dụng trong việc chế tạo tre, gỗ thành đồ dùng. Đó là mô hinh gỗ / mộc , tức "lignic" model, hay bamboo-karst model. Người ta có thể khẳng định như thế nhờ những phương pháp tiếp cận khảo cổ học mới sau này (dựa vào kinh tế học, sinh thái học và xã hội học). Một trong các bằng chứng thực tiễn là cuộc sống của bộ lạc nhỏ Tasaday trên đảo Mindanao (Phi luật Tân). Dân bộ lạc này vẫn còn sống theo kinh tế săn bắt-hái lượm như người "thời đồ đá", nhưng họ hầu như không có (vì không cần) công cụ làm bằng đá. Dân tiền sử Đông Nam Á sống thiên về hái lượm cây, trái, đào củ và săn, bắt, bẫy các loài thú nhỏ hơn là thú lớn như dân xứ lạnh Ấu châu (bò rừng, tuần lộc...), nên không cần dùng khí giới lao, cung với lưỡi ngọn lao, mũi tên làm bằng đá đẽo. Họ săn heo rừng, khỉ, nai, nhím, chim... bằng cung nỏ với tên tre chuốc nhọn hay bằng ống thổi (blow-pipe) với mũi tên (là) gân lá tẩm thuốc độc, như dân các bộ lạc miền núi Việt Nam và trong rừng Indonesia ngày nay. Trong vùng nhiệt đới nóng ẩm, rừng nhiều cây lá, nếu cần che thân, sử dụng vỏ cây hay lá cây thì mát mẻ, dễ chịu và tiện lợi hơn da thú ; và vì không cần da thú nên họ không cần công cụ đá để nạo da thú như người tiền sử Ấu châu; họ bắt cá, săn thú, xẻ thịt, với các cạm bẫy, dao chế biến từ tre, lá, như thổ dân trên đảo Mentawai xứ Indonesia ngày nay. Nói chung những bộ lạc miền nhiệt đới chưa "văn minh" hiện nay vẫn chế tạo rất nhiều đồ dùng từ tre, mây, gỗ, lá. Đó là dấu vết kinh nghiệm cư dân cổ bản địa truyền lại. Các hình vẽ thú, cảnh đi săn, trên vách nhiều hang động Ấu Châu thời tiền sử (peintures rupestres), cho biết thịt là món ăn chính của người tiền sử tại đây. Trong khi đó, người cổ Hoà Bình ăn nhiều sò ốc, bằng chứng là vỏ các loài ốc núi và ốc nước ngọt tìm thấy trong những đống rác bếp trong hang động trên mười ngàn năm trước (ở vùng Hoà Bình và vịnh Hạ Long); cũng như sau đó người sống dọc bờ biển từ vịnh đến bắc Trung Phần đều vẫn ăn sò, điệp biển và để lại hàng đống vỏ lớn. Cư dân Bắc Việt cổ đã ăn ốc từ 15000 năm trước (và bây giờ ta vẫn ăn), điều này không thấy trong di tích người tiền sử Ấu châu. Sau những phát hiện khảo cổ chấn động thế giới vào thập niên 60 tại Thái Lan, Malaysia, Indonesia, một số nhà tiền sử học đã đặt lại vấn đề tiền sử Đông Nam Á. Solheim II, giáo sư Đại học Hawaii, viết một loạt bài từ năm 1967 về sự ra đời sớm của việc trồng trọt, làm gốm, đóng thuyền, đúc đồ đồng thau... Solheim đã đi ngược lại các luận điểm của Heine-Geldern (nguồn gốc từ người Tokhara, Kimmer) về cuộc thiên di của người Nam Đảo (Austronesian) và nguồn gốc văn hoá Đông Sơn. Theo Solheim, đóng góp của văn hoá cư dân Đông Nam Á vào văn hoá Bắc Trung Quốc thật quan trọng ; ông đưa thuyết mạng lưới buôn bán đường biển liên đảo, gọi là mạng Nusantao, ở khắp vùng Thái bình Dương từ Nhật xuống đến các đảo phía nam từ trên mười ngàn năm trước. Những nhà hàng hải Nusantao này là cư dân vùng thềm Sunda phía đông Indonesia và nam Phi luật Tân, đã buộc lòng phải dùng đường biển khi mực nước dâng cao làm ngập đất họ sống. Tuy nhiên, Hà văn Tấn cho rằng luận điểm của Solheim chưa có hay không có cơ sở vững chắc, với nhiều điểm "phi lý, hỗn loạn" và dễ bị chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi lợi dụng. Sau Solheim, một số nhà khảo cổ học khác như Meacham ở Hong Kong, Higham ở Tân Tây Lan, Pookajorn ở Thái Lan đều đồng ý là vùng Đông Nam Á, từ Thái Lan xuống Indonesia qua bán đảo Đông Dương, là cái nôi của văn minh Nam Á (Austroasiatic)- Nam Đảo (Austronesian). Và mới đây, Oppenheimer còn đi xa hơn nữa, khi đưa ra thuyết rằng văn minh Đông Nam Á là cội nguồn của văn minh phương tây, rằng khi cư dân thềm Sunda di tản tránh biển dâng, họ đã đến vùng Lưỡng Hà - Trung Đông, mang theo kinh nghiện trồng trọt, làm đồ gồm và ... sự tích Đại hồng thủy. Bác sĩ Oppenheimer, nhà thám hiểm, nhà nghiên cứu, người bạn các dân tộc Đông Nam Á. Oppenheimer tốt nghiệp bác sĩ Đại học Oxford bên Anh năm 1971. Năm 1972 ông sang vùng Viễn Đông hành nghề tại nhiều bịnh viện trong vùng, mà độc đáo nhất là khi ông làm "bác sĩ bay" (flying-doctor) ở Borneo. Ở vùng này gần hai mươi năm, ông du hành và nghiên cứu về nhân học khắp Đông Nam Á lục địa (kể cả Việt Nam) và các đảo Thái bình Dương. Ông không ngại nguy hiểm, lặn lội nơi thâm sâu cùng cốc, tìm đến những bộ lạc còn giữ ngôn ngữ xưa hay cổ tích truyền khẩu... Trong sách nói trên có vài bức ảnh do tác giả chụp. Có một ảnh nhà sàn với hàng chữ : nhà sàn thành phố không đất Sitankai (cất trên bải san hô ngầm) giữa biển Sulu, tác giả chú thích rằng người tiếp viên trên tàu (ship's steward) ở góc phải hình đã cứu tác giả và ý trung nhân của ông thoát khỏi tay lính Phi. Ông kể giai thoại đó như sau: Lần đó ông cùng ý trung nhân người Tàu đi du lịch, và gặp hai người Tây phương tại nam Phi Luật Tân. Hai người này khuyên đôi tình nhân trẻ đi "fun trip" bằng tàu trên vùng biển Sulu đầy đảo nhỏ phía nam Mindanao (Philippins)-bắc Borneo. Họ nghe theo, đáp một tàu lớn chuyên chở hành khách địa phương lẫn hàng hoá qua các hải đảo Sulu. Đến mỗi làng, tàu thả người xuống, và cho khuân lên những bao hải sâm (sea cucumber) món hàng đắt tiền rất được các nhà hàng ăn ở Hong Kong ưa chuộng. Tàu được một nhóm lính vũ trang đi theo bảo vệ chống hải tặc trong vùng. Một lần, đám lính ấy nhậu say, toan "dòm ngó" cô vợ sắp cưới của ông. Khi tình trạng đến hồi nguy hiểm thì thuỷ thủ đoàn đến kịp lúc, đưa hai người lánh lên boong trên, cứu họ thoát nạn. Nhờ giai thoại này độc giả biết thêm một phần đời tư tác giả, một người yêu Đông Nam Á và yêu người Đông Nam Á (cô ấy sống ở Nam Trung Hoa, có lẽ thuộc chủng Nam Mongolic, như các dân Đông Nam Á khác). Đầu thập niên 80 ông chuyển qua ngành nhi khoa nhiệt đới, và làm việc ở Madang, vùng phía bắc New Guinea (Tân Guy nê, đảo phía bắc Úc Châu). Ông rất ngạc nhiên khi thấy quá nhiều trẻ mới sinh bị thiếu máu (anaemic) mà không thiếu sắt (iron deficiency). Đem mẩu máu lấy từ cuống rún trẻ về trường y khoa nhiệt đới ở Liverpool (ở Anh) phân tích, ông nhận thấy trẻ sơ sinh thiếu máu vì hồng huyết cầu hình dạng không bình thường, rất dễ vỡ trong một "bịnh" di truyền gọi là a-thalassaemia (aT), do thiếu một trong hai gene (di tố) tạo ra a (alpha) globin; alpha globin là một trong bốn protein a,b,d,g ; (bệnh b- thalassemea do thiếu gene hợp với phần tử heme chứa chất sắt tạo thành haemoglobin (viết tắt HbA, F) nằm trong tế bào máu đỏ (hồng cầu). Khi các genes này có "vấn đề", các Hb tạo nên (A, F) không theo tỉ lệ bình thường hoặc cấu trúc bị biến dạng (HbS, HbC, HbE.) khiến cho hồng cầu biến dạng, dễ vỡ. Thí dụ hồng cầu có hình liềm (HbS) hoặc cầu tròn thay vì hình cầu lõm hai mặt. Tuỳ theo mức độ các "vấn đề" là giảm, thiếu globins hay chuyển đổi các thành phần nucleic acids tạo di tố, và tuỳ các đôi di tố tương hợp hay dị hợp mà các hậu quả mất máu nặng nhẹ khác nhau. Tính miễn nhiễm sốt rét là một hậu quả (tốt bất) ngờ của sự biến dạng và dễ vỡ của hồng cầu. Khi nghiên cứu kĩ sự phân bố trẻ sơ sinh aT trên đảo, ông thấy trẻ có cha mẹ gốc vùng núi cao bên trong đảo ít bị sốt rét hơn trẻ trong các làng vùng thấp, ven biển hay trên đảo nhỏ xung quanh. Để biết rõ nguyên nhân, ông bỏ thì giờ đi thăm từng gia đình các em bé được phân tích máu, hỏi gốc gác và tiếng nói của họ. New Guinea là nơi có số ngôn ngữ cao nhất thế giới (750 thứ tiếng) đa số là thổ ngữ Papua, các tiếng còn lại thuộc họ Nam Đảo, tiếng nói người sống ven biển. Điểm nghịch lí là số trẻ aT không phân bố theo gốc gác tiếng nói, mà phân bố theo độ cao nơi gia đình sống. Những trẻ aT đều thuộc gia đình miền núi cao chưa hề bị sốt rét. Nhờ lấy mẩu máu này ở New Guinea đem về Anh phân tích gene mà ông thành ngườI đầu tiên khám phá ra sự liên hệ giữa a-thalassaemia và sự phân bố bịnh sốt rét trong vùng New Guinea ; kết quả này công bố trên báo The Lancet năm 1984. Ông đi đến kết luận là những người không bị sốt rét nhờ hưởng gene aT của ông cha tổ tiên, vì chỉ những người có gene đột biến aT mới sống còn qua sự "tuyển lựa tự nhiên" của bịnh sốt rét. Bịnh sốt rét là bịnh gây tử vong cao cho loài người: ngày nay sốt rét vẫn làm chết người trên thế giới nhiều hơn các bịnh khác. Trong bệnh này, các trùng Plasmodium vào người theo vết cắn muỗi Anopheles, vào gan và hồng huyết cầu kí sinh để tiếp tục sinh sôi tăng trưởng. Oppenheimer khám phá ra là trùng sốt rét Plasmodium falciparum không tấn công được hồng huyết cầu aT, và trùng này bị chận không lan tràn được trong cơ thể người bị muỗi nhiễm trùng cắn. Đây là một kết quả quan trọng, nhất là cho dân Đông Nam Á ( hay bị sốt rét và bị "thiếu máu"-anemia- do thalassaemia), được công bố trên báo khoa học hàng đầu thế giới (Nature) năm 1997.. Những đợt đột biến đưa đến sự tuyển chọn gene kháng sốt rét thay đổi tùy nơi, nên cùng là aT mà di tố đột biến ở Việt Nam và ở New Guinea chẳng hạn, không giống nhau, gây ra hiện tượng "thiếu máu" anemia nặng hay nhẹ tùy theo di tố truyền lại cho dân đó. Căn cứ theo bản đồ những vùng có di tố "chống sốt rét" và nhiều dữ kiện văn hoá phong tục khác, ông suy ra rằng dân Đông Nam Á đã di cư đến Trung Đông (dân Trung Đông cũng hay bị thalassaemia) và lập văn minh cổ Ur và Ai cập. Khi nghiên cứu về sốt rét, Oppenheimer để ý thấy vùng phân bố các nhóm dân New Guinea có liên hệ đến huyền thoại-cổ tích : những bộ lạc nói tiếng khác nhau nhưng có cùng cổ tích truyền khẩu thì có cùng di tố. Thế là ngoài nghiên cứu y khoa, ông còn tìm hiểu sâu về dân Á châu, về cổ tích, tiền sử, ngôn ngữ, tập quán của họ. Từ những kiến thức đa dạng này, ông có một số ý niệm về sự hình thành của hai nhóm dân chính Đông Nam Á, là dân nói tiếng Nam Á (Austroasian) và dân nói tiếng Nam Đảo (Austronesian). Để tiếp tục công trình, ông làm giáo sư nhi khoa tại Đại Học Hongkong từ 1990 đến 1994; ông nghiên cứu về những đường thiên di đưa người nói tiếng Nam Đảo đi chiếm lĩnh các hải đảo trên một vùng biển rộng lớn, trải từ Madagascar ở bờ tây Ần độ dương đến đảo Hawaii và đảo Phục Sinh ( Iles de Pâques) phía đông Thái Bình dương. Trở về giảng dạy ở Đại học Oxford sau khi rời Hongkong, ông không ngừng tìm hiểu về hai giống dân Nam Á- Nam Đảo mà ông đã từng chung sống trong hai mươi năm. Tình cảm đặc biệt của ông đối với dân và đất Đông Nam Á đã thể hiện qua cuốn sách "Địa đàng ở phương Đông". "Địa đàng ở phương Đông" Như Nguyễn văn Tuấn đã nhận xét, cuốn sách này tập trung những dữ kiện nhiều mặt, cũ mới, về vùng Đông Nam Á. Ông NVT đã lược qua đầy đủ những điểm chính của sách, nên tôi không trở lại. Nói chung, Oppenheimer tổng hợp các tài liệu trong đó có kết quả nghiên cứu của chính mình bao gồm y khoa, ngôn ngữ, nhân chủng, xã hội học để đưa ra một thuyết hoàn toàn mới mẻ về nguồn gốc một số dân tộc và văn minh Á châu cũng như thế giới. Điểm độc đáo chính là sự kết hợp nhiều bộ môn nói trên, cổ điển và hiện đại, khoa học chính xác và khoa học nhân văn. Trong kết hợp này, các huyền thoại, cổ tích truyền khẩu giữ vai trò đặc biệt. Việc sử dụng các truyền thuyết có một sức thuyết phục nào đó, thí dụ khi ta thấy quả thật Việt Nam, ngoài một số tập tục, cũng có những cổ tích và huyền thoại truyền miệng khá giống những vùng xa phía nam như New Guinea. Tích Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Trầu Cau của ta nói về hai người cùng yêu/tranh chấp một cô gái với một số khúc mắc éo le tương tự như tích Kulabob và Manup của các bộ lạc trên những hòn đảo nam Thái bình Dương. Theo Oppenheimer, chuyện tích này rất dài, nhiều tình tiết, ở vùng đảo ấy người ta kể cả ngày; thỉnh thoảng phải ngưng kể để... ăn trầu. Kulabob trong tích vùng New Guinea được xem là thuỷ tổ dân nói tiếng Nam Đảo. Manup là anh ; còn người em Kulabob, đôn hậu, giỏi giang, đã sáng chế ra thuật xâm mình, chế tàu đi biển và Kulabob lái tàu đánh cá rất điêu luyện.... Một hôm đi săn, Kulabob bắn lạc một mũi tên khắc chạm tinh vi. Lúc đi tìm mũi tên, Kulabob bị chị dâu (vợ Manup) "dụ dỗ", quyến rủ. Cô này dấu mũi tên và nằn nì Kulabob xâm một hình đẹp trên chỗ kín của mình. Kulabob không muốn nhưng cuối cùng đã xiêu lòng chìu ý chị dâu. Trong một dạng chuyện kể, hai người đã ái ân với nhau lúc đó. Khi người anh khám phá ra chuyện ngoại tình này, đi tìm giết em mình. Hai anh em đánh nhau dữ dội bằng đủ cách, kể cả pháp thuật, nhưng bất phân thắng bại. Cuối cùng để tránh huynh đệ tương tàn, Kulabob làm một chiếc tàu to bỏ đi về hướng biển cả, chở theo người, cây, thú vật và đồ đạc, từ đó lập thành các nhóm dân hải đảo Thái bình Dương. Oppenheimer xem tích Kulabob này là cổ tích gốc của tất cả các dân liên hệ huyết thống đến giống dân Nam Đảo, vi có rất nhiều dạng kể khác nhau trong vùng đảo. Theo ông, chuyện cổ Cain/ Abel ở Cận Đông và Adonis/Attis/ Osiris ở Ai Cập được ghi lại sau đó bắt nguồn từ tích Kulabob, cũng như truyền thuyết đại hồng thủy ghi lại thành thiên trường ca Gilgamesh xứ Ur cổ xưa bắt nguồn từ một tích gốc Nam Đảo và do thảm kịch nước biển dâng ngập đại lục thềm Sunda mà ra. Từ các chuyện cổ và từ những chi tiết như dấu xâm mình, mắt xếch trên tượng Ur cổ, Oppenheimer kết luận là nền văn minh Lưỡng Hà và Ai Cập đã bắt nguồn từ văn hoá Nam Đảo nông nghiệp. Sự phân chia ngôi thứ xã hội, tổ chức chính trị, tín ngưỡng, phù phép (magic) đều do những người sống trên thềm Sunda mang đến Trung Đông bằng đường biển khi Sundaland bị nhận chìm dưới nước. Thuyết về nguồn gốc xưa của văn minh Đông Nam Á và đường thiên di người Nam Đảo nói chung rất "quyến rủ", có mạch lạc, giá trị, nhưng không thể khẳng định vì chưa có những phương pháp định "tuổi" các truyền thuyết, cho phép xếp chúng theo thứ tự trước sau, thêm vào đó những chứng minh về ảnh hưởng Nam Đảo trên hai nền văn minh cổ sáng chói này theo tôi không đủ sức thuyết phục. Bởi vì vùng Cận Đông là vùng có người hiện- đại H. sapiens sống từ rất lâu (-100 000 năm ). Những người ở đấy cũng lập nên làng xã từ gần 10 000 năm nay, từ Turkey đến Israel, và từ lâu đã sống bằng nghề canh nông (lúa mạch, lúa mì), chăn nuôi (dê, cừu, bò...). Cái nôi các giống lúa mạch, lúa mì, dê, cừu, bò. thuần dưỡng của cả nhân loại chính là ở nơi đó. Tuy nghề làm đồ gốm ở đấy có niên đại sau đồ gốm Jomon bên Nhật (khoảng -10 000 năm ), nhưng các kĩ thuật khác (đi ngựa, làm xe, làm đồ vật bằng đồng thau, bằng sắt ) được biết rất sớm. Ngày nay người sống trong vùng này giống người Ấu hơn người Á Châu. Giả thuyết của Oppenheimer sẽ thuyết phục hơn nếu có thêm những bằng chứng khác. Những điểm có thể gây ngộ nhận trong bài N. V. Tuấn. Tôi muốn bàn đến một số điểm trong bài của N..V. Tuấn dễ gây ngộ nhận, có thể đưa đến nhận định không chính xác về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. 1- Thuyết "Bắc tiến" (của người cổ Việt Nam), theo kết quả mới về nghiên cứu di truyền? Quả có "Bắc tiến" cách đây trên 50 000 năm, từ vùng Đông Nam Á lên Trung Hoa. Tuy nhiên, ở đây phải hiểu theo hiện tượng thiên di người cổ nói chung. Mới đây, nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới hợp tác nhau để so sánh genes người ở vùng Đông Á châu và đã đưa ra một kết luận quan trọng đăng trên hai bài báo (xem tác giả Chu, Su, phần sách tham khảo) : người cổ thuộc giống người hiện- đại (sapiens) đến từ Phi châu, ghé vùng Đông Dương trước, rồi từ đó thiên di lên phía bắc đến nam Trung Hoa, và sau đó hợp chủng với người Altaic (từ Trung Á đến sau qua đường thiên di bắc Á châu) thành dân "mới hơn" sống ở đông Siberia -Tây Bá Lợi Á. Dĩ nhiên trên đường thiên di đầu tiên từ Phi châu xuống phía nam, tổ tiên dân Á Đông đã ghé bán đảo Ần Độ trước khi đến Đông Nam Á, nên người Ần Độ không thể "có gốc gác Đông Nam Á" được như Nguyễn Văn Tuấn đề nghị. Ần Độ sau đó đã đón nhận rất nhiều luồng thiên di khác, trong đó có cả chủng da trắng aryen đến từ phía tây bắc. Oppenheimer có đưa ra ý kiến là một trong những chủng sống ở đông bắc Ần Độ, chủng Munda nói tiếng thuộc họ Nam Á như người Việt và dân Đông Nam Á lục địa, là di dân Nam Á đến từ phía đông (là Thái Lan, nơi có vết tích lúa xưa) vào thời tiền sử, mang theo kĩ thuật trồng lúa. Oppenheimer có thể có lí về điểm này, nhưng ông không hề nói dân Ần nói chung có gốc gác ở Đông Nam Á. Nhóm dân rất cổ tại Ần Độ là Dravidians (hiện còn người kế thừa ở nam Ần) gần với tổ tiên Phi châu, nhưng cũng đã lai với các chủng đến sau. Chỉ có thổ dân các hòn đảo đông Ần Độ (Nicobar...) còn nhiều nét của tổ tiên đến từ Phi châu là cổ hơn cả, vì họ ít gặp di dân khác để lai giống. Chúng ta biết rằng càng gần gốc Phi châu, các di tố càng đa dạng. Genes của dân Đông Nam Á đa dạng hơn genes những dân phía đông bắc Á châu, nghĩa là dân Đông Nam Á gần tổ tiên Phi châu hơn Đông Bắc Á. Cần nói thêm là kết luận của bài Chu & Su (xem sách tham khảo) được rút ra từ kết quả mới về phân tích genes các giống dân thiểu số tại nam Trung Hoa (kết hợp với kết quả phân tích genes khác như thổ dân Đài Loan v..v..); genes "Đông Nam Á" là genes (một) người Kampuchia, còn genes người Việt Nam không có trong những genes nghiên cứu !. Trung Hoa đã đóng góp nhiều vào kết quả này qua chương trình "Chinese Human Genome Diversity Project". Kết luận tương tự thật ra đã được Ballinger rút ra ở di truyền học từ 1992 (xem phần sách tham khảo). Ba mươi năm trước, Bình Nguyên Lộc cũng đề nghị là người cổ Việt Nam (ông gọi là "Mã Lai đợt I, hay Lạc bộ Trãi") đã từ phía nam tiến lên làm chủ phía bắc Trung Hoa, nhưng sau đó bị giống dân phía bắc (lai dân Nhục Chi) đẩy lùi trở xuống. Kết quả phân tích genes của các nhóm Chu/ Su cho biết nói chung dân Đông Nam Á gần "tổ" Phi châu, nhưng không đủ chi tiết để cho biết những sự lai giống trước sau nào đã đưa đến các giống dân khác nhau hiện nay. Tất cả các dân tộc trên thế giới ngày nay đều đã lai "giống" (ít) nhiều dù tất cả đều cùng gốc tổ Phi Châu, vì người hiện- đại đã không ngừng thiên di từ lúc sinh ra hơn trăm ngàn năm trước tại Phi Châu. 2- Có phải Người Hoà Bình tràn lan về phía nam (Indonesia ?), lên hướng bắc (Trung Hoa ?) và sang hướng tây (Thái Lan ?). Văn hoá Hòa Bình (với giai đoạn muộn từ 7000 đến 12000 năm trước đây) được bà Colani, nhà khảo cổ Pháp, khai quật, nghiên cứu và đề xuất ra vào cuối những năm 1920. Văn hoá này có những đặc trưng về dụng cụ đá cuội (pebble) ghè trên một hay hai mặt thành chopping tools và về nơi cư dân sống : hang động đá vôi. Cho đến nay người ta chưa có bằng chứng trực tiếp về sự nảy sinh nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam, mặc dù có những bằng chứng gián tiếp, như môi trường, sự khủng hoảng về cách tìm thức ăn, sự xuất hiện của rìu đá mài. Danh từ "Hoà Bình" ngày nay được các nhà khảo cổ thế giới dùng trong khái niệm techno-complex (phức hợp kĩ thuật) để chỉ những di tích khảo cổ loại này. Nhiều hang động có di tích người tìm thấy ở Thái Lan qua những thập niên gần đây được xếp vào techno-complex loại Hoà Bình. Khi nghiên cứu phấn hoa trong tàng đất khảo cổ ở nhiều hang, đặc biệt trong Spirit Cave tại Thái Lan, người ta nghĩ là chủ nhân chúng đã bắt đầu trồng một số cây như trầu cau, bầu bí.vào giai đoạn cuối của thời săn bắt-hái lượm. Theo thói quen trong ngành, người ta dùng tên của nơi mà đặc trưng về di tích khảo cổ được tìm thấy lần đầu -Hoà Bình- để chỉ di tích có đặc trưng đó tìm được sau này, ngay cả khi chúng được tìm ra trong vùng khác. "Người Hoà Bình" là những người thuộc văn hoá đặc trưng tiền đá mới (pre-neolithic) này. Tôi nghĩ không phải dụng cụ đá tìm được ở Úc Châu là từ Hoà Bình mà ra, vì tuổi di tích Úc già hơn, bởi niên đại sớm nhất của văn hoá Hoà Bình, theo khảo cổ học Việt Nam, là 18 ngàn năm trước (với rất ít di tích trong khoảng thời gian từ đó đến 12 ngàn năm trước). Người sống ở Hoà Bình khó lòng vượt mấy ngàn cây số để đến Úc từ 14 000 đến 20 000 năm trước. Theo tôi, chữ "người Hoà Bình" dùng cho các di tích ở nơi khác không có nghiã là người ở Hoà Bình -Bắc Việt- vào thời điểm đó (7 000 đến 12 000 năm trước) đã tràn lan đến những nơi khác như Thái Lan, Indonesia, Úc, Trung Hoa. Về văn hoá Hoà Bình, các nhà khảo cổ Việt Nam đã đóng góp rất nhiều qua các công trình nghiên cứu quan trọng được công bố, thiết tưởng không cần nói thêm. Độc giả nào muốn biết thêm về việc có một hay nhiều văn hoá Hoà Bình, văn hoá hay phức hợp kĩ thuật, có thể xem "Theo dấu các nền văn hoá cổ" của giáo sư Hà văn Tấn. 3- Kĩ thuật làm đồ đồng thau (dụng cụ, vũ khí) của cư dân Đông sơn có trình độ cao nhất nhì thế giới ? Trình độ đúc đồng của cư dân Đông Sơn ( 700 năm trước công nguyên đến sau công nguyên) quả rất cao, nhưng không thể nói là cao hơn trình độ thợ các nơi khác, trong các nền văn minh có lâu trước Đông Sơn. Điển hình là nền văn minh Sanxingdui nói trên, xưa hơn Đông Sơn đến mấy ngàn năm. Nền văn minh bắc Trung Hoa thời Thương (thiên kỷ thứ hai trước công nguyên) đã làm ra hàng loạt đỉnh đồng to như trống Đông Sơn với nhiều khắc chạm độc đáo. Còn đồ đồng tìm thấy ở Thái Lan tuy không to bằng nhưng xưa hơn Đông Sơn khá nhiều (một ngàn năm ) và cũng có sắc thái riêng. Đó là không kể đến những đồ đồng làm tại các đô thị văn minh cổ ở Irak, vùng Cận Đông, Ai cập sớm hơn đồ đồng Đông Sơn rất nhiều. Đồ đồng Đông Sơn có mặt trễ hơn đồ đồng của rất nhiều nơi khác, tôi tự hỏi biết đâu cư dân Đông Sơn cũng đã có dịp học hỏi thêm kĩ thuật đến từ những nơi gần Việt Nam. Kết quả khảo cổ cho thấy cư dân Phùng Nguyên chỉ mới bắt đầu luyện đồng mà chưa biết đúc vật dụng. Đến thời Đồng Đậu trên dưới 3000 năm trước đây, đột nhiên cư dân sống ở đấy đúc được nhiều đồ kĩ thuật cao như lưỡi giáo, mũi tên. Phải chăng có một (hay nhiều?) thời kì cư dân bản địa được dịp tiếp xúc, gặp gỡ các kĩ thuật khác qua những sứ giả, thương khách? Hay một lí do khác? (Tôi sẽ trở lại về thay đổi này ở phần sau) Nghĩa là thợ Đông Sơn vào khoảng 2500 năm trước đã chứng minh khả năng sáng tạo kĩ thuật và mĩ thuật, khi làm được một số lượng lớn trống to giá trị cao, dùng trong lãnh vực thương mại, ngoại giao khắp cõi Đông Nam Á, nhưng khả năng nội tại này không loại trừ việc kết hợp và ứng dụng các đặc tính nhân bản là hiếu học, óc tò mò, ý muốn cách tân. 4- "Đồ gốm Việt Nam xuất khẩu khắp Đông Nam Á đến tận Melanesia, trước khi có ảnh hưởng của Ần Độ" ?. Tôi e rằng có nhầm lẫn về điểu này: Việt Nam cổ xuất khẩu trống đồng chứ không xuất khẩu đồ gốm. Đồ gốm thời Phùng Nguyên, trước Đông Sơn, có hoa văn độc đáo, sau đó được dùng trang trí đồ đồng Đông Sơn. Gốm Đông Nam Á nổi tiếng thế giới là gốm Lapita xưa 3500 năm, tìm được ở nhiều đảo vùng nam Thái Bình Dương. Gốm Lapita nổi tiếng không phải chỉ vì đẹp, mà còn vì dính dáng đến nguồn gốc các thuyết thiên di của giống dân nói tiếng Nam Đảo. Đó là thuyết "chuyến tàu nhanh" (express train) chở dân Nam Đảo đi từ Đài Loan đến khắp vùng biển nam Thái Bình Dương của Bellwood, và thuyết "hai chuyến tàu, nhanh và chậm" của Oppenheimer. Cả hai đều không nhắc nhở đến gốm Phùng Nguyên. Theo thuyết "chuyến tàu nhanh" của Bellwood, người nói tiếng Nam Đảo từ Đài Loan dùng thuyền vượt biển đến chiếm lĩnh nhanh chóng chuỗi đảo hoang trong vùng nam Thái bình Dương, liên tiếp đảo này đến đảo kia trong vòng vài trăm năm ; họ mang theo đồ đạc, kĩ thuật (làm gốm Lapita), thú nuôi, cây trồng, vào 3500 năm trước đây. Còn Oppenheimer chủ trương rằng trước chuyến tàu nhanh này, đã có "chuyến tàu chậm" "chở người tị nạn hồng thuỷ" (ở thềm Sunda ), từ bắc Borneo đến vùng đảo Nam Thái Bình Dương nói trên vào 9000 hay 10000 năm trước. Ở mỗi nơi họ ngừng lại một thời gian, "lai giống" với người bản địa thuộc chủng Australoid, họ sinh sống và sinh sôi trước khi lên đường tiếp tục đi qua đảo khác. Đồ gốm Á Châu nổi tiếng thế giới, gốm Jomon của cổ dân sống ở bắc Nhật, là gốm sớm nhất thế giới (trên 10 000 năm trước), có nét đẹp riêng biệt, không thể đến từ Hoà Bình, vì Hoà Bình là văn hoá không có đồ gốm, hay có rất ít vào thời kì cuối ( Bắc Sơn ). Nhưng người Nhật ngày nay là con cháu của người thuộc văn hoá Yayoi, không có cùng genes với chủ nhân gốm Jomon nổi tiếng này, cũng như người Thái hiện tại có gốc ở vùng Vân Nam chứ không là hậu duệ trực tiếp của chủ nhân các văn hoá cổ trên năm ngàn năm (Ban Chiang, Ban Kao.). Chủ nhân văn hoá Yayoi đến Nhật chỉ vài trăm năm trước công nguyên, mang theo nghề trồng lúa, và có khả năng là người U Việt di tản khi nước U Việt bị ngườI Hán thôn tính (xem R. Shiba). Tôi cũng không tin rằng hai nền văn hoá Yangshao và Longshan (bắc Trung Hoa) đến từ Hoà Bình như N. V. T đã viết. Vùng Bắc Trung Hoa hầu như không có dấu vết văn hoá Hoà Bình trong nghiã "phức hợp kĩ thuật". Thật vậy, nền văn hoá Yangshao (5000 năm trước) nổi tiếng với gốm vẽ hình màu đen trên nền gốm đỏ là văn hóa gốc của tộc Hán ở Thiểm Tây (bắc Trung Hoa) vốn là những người trồng kê, sống trong nhà thấp đào sâu dưới đất, và văn hoá Longshan (tỉnh Sơn Đông) nổi tiếng về đồ gốm rất mỏng, màu đen bóng (đưa đến nền văn hoá triều Thương), là những văn hoá đặc thù, hoàn toàn khác với văn hoá sống trong nhà sàn, trồng lúa nước, ở Bắc Việt. 5- "Quê hương của kĩ thuật trồng lúa là ở quanh vùng Đông Nam Á" ? Ngay ông Oppenheimer cũng không dám khẳng định như thế. Khi nói về vết tích hạt lúa theo ông cổ nhất thế giới ở Thái Lan, Oppenheimer hai lần nhấn mạnh "nếu phần định tuổi này được xác nhận là đúng". Thật vậy, nhà khảo cổ Thái Pookajorn, người khám phá ra dấu vết lúa cổ trong gốm thời đồ đá mới, đã định tuổi theo loại hình di vật tìm được trong các hang Sakai, Ban Kao...vào giai đoạn nối tiếp văn hoá loại Hoà Bình (tìm thấy trong lớp đất bên dưới), là khoảng 9260 - 7620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, đa số di tích, di vật tìm thấy ở Thái Lan, khi định tuổi lại thì thấy "trẻ" hơn nhiều so với tuổi định ban đầu. Ngoài ra, so với Thái Lan, số chỗ có di tích lúa tìm thấy dọc theo nam sông Dương tử không những nhiều hơn, mà còn rất xưa hơn. Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, -13 000 năm, được một nhóm khảo cổ Mỹ -Trung hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan phía nam sông Dương tử (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này đã biết thử nghiệm các giống lúa và cách trồng trong thời gian dài tiếp theo đó. Điều này đã được nhóm khảo cổ chứng minh qua sự tăng độ lớn phytolith của lúa ( phần thực vật hoá thạch, tồn tại nhờ giàu chất silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được đăng trên báo khoa học hàng đầu thế giới Science, năm 1998. Các nhà khoa học nghiên cứu về phytoliths- thạch thể lúa - này đã chứng minh rằng từ 9000 năm trước dân cổ ở vùng đó đã ăn nhiều gạo của lúa trồng hơn lúa hoang. Nhóm cư dân bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô xốp bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm đã đưa đến nghề trồng lúa trong toàn vùng nam Dương tử. Di tích xưa thứ hai, chín ngàn năm trước (9000), là Pengtou, gần hồ Động Đình phía nam sông Dương tử (Trường giang). Hơn bốn mươi chỗ có di tích lúa cổ hàng ngàn năm đã được tìm thấy ở vùng nam Trường giang. Gần cửa biển nam Trường giang, di tích văn hoá Hemudu cho thấy văn minh lúa nước trong vùng lên đến trình độ rất cao vào 7000 năm trước (sớm hơn cả di tích làng trồng kê Banpo xưa nhất của tộc Hán phương bắc). Hemudu là một làng vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa sông Tiền Đường. Dân Hemudu đã trồng lúa, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu dày 25- 50 cm (còn dính một số hạt lúa), có nơi dày đến cả thước, trên diện tích 400 thước vuông. Có thể đó là lớp "rác" để lại trên sân đập lúa. Di chỉ thực vật (củ ấu, củ năng, táo.) và di cốt động vật hoang (hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, cá sấu...) cho thấy khí hậu vùng nam sông Dương tử bấy giờ thuộc loại nhiệt đới, hoàn toàn thích hợp với việc canh tác lúa nước. Nền văn hoá Hemudu xưa bảy ngàn năm (7000) có nhiều điểm gần gũi với văn hoá Phùng Nguyên- Đông Sơn vốn là những văn hoá trẻ/trễ hơn nhiều (sau hơn 3000 năm). Cư dân vùng nam Trường giang lúc ấy có lẽ gần với cư dân Bắc Việt về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân bắc Trung Hoa. Khuôn mặt đắp từ sọ người Hemudu trưng bày ở Viện Bảo tàng Hemudu cho thấy họ giống người thuộc chủng nam Mongolic, tức là chủng của người Việt Nam từ thời Đông Sơn về sau. Sau văn hoá Hemudu, hàng loạt văn hoá lúa nước khác đã sinh ra dọc Trường giang khoảng 4000 năm trước (Liangzhu, Majiabin, Quinshanyang, Qujialing, Daxi, Songze, Dadunze.). 6-Tổ tiên chúng ta đã phát triển và ứng dụng kĩ thuật trồng lúa, hay tổ tiên chúng ta là thầy dạy người Hán trồng lúa nước? Theo tôi, diều này đúng. nếu ta chấp nhận rằng cư dân trồng lúa sống ở phía nam Trường giang(thuộc nhóm Bách Việt, theo sử Tàu ) là tổ tiên của dân Việt Đông Sơn hoặc là anh em ruột với tổ tiên người Việt Đông Sơn, mà vì lí do nào đó tổ tiên này đã rời vùng nam Trường Giang về trụ tại Đông Sơn. Vì người Hán đã học được nghề trồng lúa với dân nam Trường giang (Nam Trung Hoa) trước khi tiếp xúc thẳng với người Việt cổ ở Đông Sơn vào những năm trước công nguyên. Và các kết quả về di truyền lẫn hình dáng sọ cho thấy là các bộ tộc Nam Trường giang khác với chủng gốc bắc Trung Hoa. Trong các dân đã "dạy" người Hán trồng lúa, phải kể đến dân U Việt . Mà dân U Việt vùng Cối Kê lại là con cháu của cư dân trồng lúa lâu đời tại Hemudu. Ngoài ra, tuy người Việt Đông Sơn đã biết trồng lúa, nhưng di tích lúa tìm được ở Việt Nam không xưa như di tích lúa ở Thái Lan, và không thể nào xưa hơn di tích lúa vùng nam Trường giang. Di tích xưa nhất là những hạt gạo cháy thành than tìm thấy trong văn hoá Đồng Đậu ở châu thổ sông Hồng, nằm trong trấu trộn với đất làm đồ gốm, không quá 3500 năm trước. Do đó, tôi xem vùng nam Trường Giang mới thật là quê hương đầu tiên của lúa, không như Oppenheimer, ông xem Thái Lan là quê hương của lúa nhưng Oppenheimer (xin lập lại lần nữa ) cũng lưu ý là thời điểm có lúa cổ ở Thái Lan cần được xác quyết. 7- "Trước khi tiếp xúc với người Hán, tổ tiên chúng ta có một nền văn minh rất cao, nếu không muốn nói là cao nhất Đông Nam Á "? Thế nào là văn hoá "cao nhất" Đông Nam Á, và Đông Nam Á nào, có kể luôn vùng đất rộng lớn Sundaland bị biển dâng làm chìm ngập không ? Ta có thể nói văn hoá Việt Nam vào thiên kỷ một trước công nguyên có bản sắc riêng, không "thua kém" ai, và được lưu truyền từ cư dân cổ hơn sống trong cùng vùng, chứ không phải ngoại nhập. Điều này đã được các nhà khảo cổ Việt Nam chứng minh rõ ràng qua tính liên tục của các nền văn hoá nối tiếp nhau trên vùng Bắc Việt. Nếu tính rằng Việt Nam có "bốn ngàn năm văn hiến" với truyền thuyết các vua Hùng ở Bắc Việt thì có thể xem giai đoạn Văn Lang tương ứng với nhiều nền văn hoá liên tục từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Văn hoá Đông Sơn cũng là nền văn hoá độc lập cuối cùng trước khi ngườI Hán chiếm Bắc Việt Nam và đô hộ một ngàn năm. Văn hoá Đông Sơn tuy nổi tiếng về trống đồng to đẹp, từng được mua bán trao đổi đến tận Mã Lai, Indonesia, nhưng lại là một văn hoá nằm trong thời kì đồ sắt, tức là thời nằm sau thời đồng thau trong quá trình tiến triển văn minh các nơi trên thế giới theo thứ tự trước sau là : đồ đá cũ, đồ đá mới (đá mài), đồ đồng thau, đồ sắt. Nghĩa là cư dân ấy vẫn còn quá "lưu luyến" đến đồ đồng thau (vì tuy đã biết nhưng không chú ý nhiều đến đồ sắt ?! ). Đồ sắt có những điểm trội hơn đồ đồng trên phương diện kinh tế và quân sự : sắt cứng chắc, kiếm sắt chặt gãy kiếm đồng, và tên sắt xuyên qua áo giáp đồng. Thời Đông Sơn quả có sản xuất nhiều đồ đồng thau chạm trổ tinh vi : vũ khí (dao găm, qua, giáp che ngực, lưỡi lao...) và cả lưỡi rìu, lưỡi cày (tuy lưỡi cày sắt đã xuất hiện). Người Hán chính nhờ phát triển mạnh kĩ thuật đồ sắt vào thời Chiến Quốc nên đã thắng các nhóm dân giáp ranh phía nam còn mãi bám vào đồ đồng thau, như nước U Việt ba trăm năm trước công nguyên. Các di tích quân Tần ( ở Xi'an) cho thấy họ mang khí giới và giáp sắt. Người Hán tiếp tục thanh toán các nước Mân Việt, Ấu Việt, rồi... diệt luôn Ấu Lạc thời Đông Sơn ! Hay nói cách khác, nếu văn hóa ta xưa kia "cao nhất", mà lại bị Hán đô hộ, ấy bởi ta "thua" họ về sức mạnh, kĩ thuật, kinh nghiệm chinh chiến; nghĩa là ta không xem kĩ thuật, quân sự như một thành tố của một nền văn hóa ! 8- "Đô thị cổ xưa nhất trong vùng là do tiền nhân chúng ta xây dựng" ? Đô thị cổ xưa nhất trong vùng? Tuỳ theo vùng xem xét có bao gồm... cả nam Trung Hoa hay Ần Độ không. Thành Cổ Loa xưa nhất Việt Nam xây vào thời An Dương Vương, hơn hai trăm năm trước công nguyên. Về kiến trúc hiện nay không còn gì nhiều. Theo truyền thuyết, thành xây hình trôn ốc, gồm 9 vòng, có hào nước thông với sông Hoàng Giang nối với sông Cầu và sông Hồng. Hiện nay chỉ còn những đoạn lẻ của ba vòng thành đất, với vòng lớn nhất chu vi 9 km. Trong khi đó, phía bắc vùng đất Loa thành là Trung Hoa, nước lớn nhất thế giới vào thời đó. Vua Trung Hoa, Tần Thuỷ Hoàng Đế thu phục được nhiều thành trì bằng đá (còn dấu vết đến ngày nay) khi đánh bại những nước vùng bắc và trung nước Tàu. Tần Thuỷ Hoàng còn cho xây Vạn Lý Trường Thành ngăn dân phía bắc xâm lấn. Xưa hơn nữa, một ngàn năm trước đó, nhà Thương, nhà Ấn xây thành bảo vệ các thủ đô vùng bắc Trung Hoa, và ở nam sông Dương tử nền văn minh Sanxingdui cũng có thành trì rất xưa ở Tứ Xuyên, đến ngày nay vẫn còn. Đó là chưa kể đến Persepolis, thủ đô cổ 3600 năm ở Ba Tư (Iran), với thành quách bằng đá còn rất nhiều hình phù điêu cũng như tài liệu viết bằng ba thứ tiếng khắc trên đất nung. Cũng như các thành phố tối cổ có tường gạch dày với nhà hai tầng có cả phòng tắm và hệ thống cống thoát nước, ở vùng Ần hà (Mohenjo Daro và Harappa, Pakistan), tất cả đều trong Á châu. Cổ Loa là một công trình lớn đối với dân Đông Sơn, nhưng không so sánh được với Trung Hoa và Sanxingdui thời trước đó. Theo Oppenheimer có thể cũng đã có thành quách xây trên thềm Sunda hay thềm Nam Hải nhưng chưa ai nghiên cứu được vì ngày nay các thềm này nằm dưới biển. Ông có đưa ra hình chụp những tảng đá to hình bậc thang nằm dưới đáy biển phía đông Đài Loan, nhưng lại nói các nhà khoa học chưa đồng ý với nhau là đá đó do thiên nhiên bào mòn hay nhân tạo. Như vậy, "cổ nhất vùng" hay không, Cổ Loa là di tích (duy nhất) cho thấy ở Bắc Việt đã có một tập hợp dân đủ mạnh và đủ tài nguyên, năng lực để xây một thành trì lớn. Số lượng lớn các mũi tên đồng nhiều kiểu tìm thấy trong thành Cổ Loa là bằng chứng thủ lãnh cư dân tại đấy đã tổ chức quân đội bảo vệ thành. Thế nhưng Triệu Đà đã chiếm Loa thành và lên làm vua nước Nam Việt. Mà Triệu Đà chỉ là viên tướng nhỏ nhiều tham vọng của Tần Thuỷ Hoàng trong đạo quân mở bờ cõi phía nam Trung Hoa. Nhân dịp Tần Thuỷ Hoàng chết và tướng Nhâm Ngao cầm đầu đạo quân này cũng không còn nữa, Đà xưng vương ở Phiên Ngung, tức thị trấn Quảng Đông (Canton) bây giờ. Truyền thuyết nói rằng Triệu Đà dùng mưu phá nỏ thần giữ Loa thành nên chiếm được Ấu Lạc. Tiếc rằng nay không còn bằng chứng gì về nỏ thần Loa thành, dù có nhiều cơ bẩm nỏ đã được tìm thấy. Các cơ bẩm này tương tự như cơ bẩm nỏ cá nhân quân Trung Hoa sử dụng dưới thời Tần Thủy Hoàng, không phải là thứ nỏ có thể diệt hàng loạt địch quân như truyền thuyết để lại. Vũ khí Trung Hoa có khả năng tiến bộ hơn Đông Sơn vì người Trung Hoa đánh lẫn nhau liên miên trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc (gần trọn thiên kỷ I BC) trên một bình diện rộng lớn. Trong lúc đó, sự tranh chấp quyền lực bằng vũ khí nếu có tại Bắc Việt chỉ có thể xảy ra ở qui mô nhỏ hơn (mức độ bộ lạc hơn là một quốc gia). Có lẽ vì vậy mà vũ khí thời Đông Sơn được chạm trỗ kĩ lưỡng, như đồ dùng trong nghi lễ hơn là khí giới giết người trong các trận chiến. Lại thêm một chi tiết về "sức mạnh kĩ thuật" (hơn Việt) của tộc Hán ! Những điểm nêu trên không nhằm mục đích "hạ uy tín" của tổ tiên dân Việt, chủ nhân các văn hoá từ Hoà Bình đến Đông Sơn. Một vùng nhỏ, ít dân như Bắc Việt không thể so sánh được với các nhóm dân quá đông đúc sống trên một vùng rộng lớn như Trung Hoa. So với cư dân khác tại Đông Nam Á, ngoài trừ kĩ thuật làm trống đồng, văn minh Đông Sơn có lẽ cũng không cao hơn nhiều. Dĩ nhiên về mặt chính trị, Trung Hoa với số dân và chủng tộc quá đông đảo, phải tìm mọi cách để tránh những nổi dậy, yêu sách sắc tộc và/hoặc để cổ động, biện minh cho chủ trương bành trướng, cũng như Việt Nam, để giữ đoàn kết dân tộc, tự vệ trước người láng giềng quá lớn và nhiều tham vọng. Một trong những phương tiện là ra sức chứng minh, khẳng định sự lâu đời và liên tục đồng nhất hoặc hơn trội về cội nguồn văn hoá, chủng tộc của mình. Nhưng quả là liều mạng khi xem "Đông Nam Á là một trung tâm văn hoá lớn ngay từ thời cổ đại, trong đó Việt Nam là nơi hội tụ ở mức độ đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hoá khu vực", như một học giả trong nước đã viết (theo Tạ Chí Đại Trường, xem phần sách tham khảo) mà không đưa ra lí luận cũng như bằng chứng thuyết phục. Nhìn lại nguồn gốc dân Việt Khi xét về nguồn gốc dân Việt, chúng ta cần tổng hợp các nguồn tài liệu khác nhau, trong đó có khối lượng đồ sộ về khảo cổ tích tụ từ thời Pháp thuộc. Các nhà khảo cổ Việt Nam hiện đại đã đóng góp phần rất quan trọng trong việc khai quật, sắp xếp, phân tích các di tích văn hoá cổ trên đất Việt Nam. Tuy nhiên di truyền học (có lẽ vì quá mới mẻ ? và nhiều tốn kém ?) gần như vắng mặt trong những nghiên cứu này. Di truyền học là một ngành không thể thiếu trong việc nghiên cứu gốc gác chủng tộc. Thật vậy, văn hoá có thể vay mượn, và ngôn ngữ phần lớn tuy có liên hệ với nguồn gốc, nhưng những dây liên hệ rất phức tạp; khi có sự hợp chủng, ngôn ngữ không những chịu ảnh hưởng của sự lai giống, mà còn tuỳ vào những yếu tố như sức mạnh tương đối các giống dân, số đông và khả năng chuyên chở rõ ý tưởng. Trong tình trạng thiếu hiếm dữ kiện di truyền học về dân Việt các miền và về những sắc tộc có liên hệ gốc gác với người Việt như Tày, Mường, Ba-Na, Gia-Rai..., "Địa đàng ở phương Đông" là một nguồn tư liệu rất quý. Tính chất cổ xưa của di tố các dân tộc toàn vùng Đông Nam Á do Oppenheimer nêu ra, kết hợp với kết quả nghiên cứu sọ cổ, đưa đến kết luận là "người hiện- đại" đến từ Phi châu đã sống trong vùng Đông Nam Á từ sáu mươi ngàn năm trước cho đến thời đá mới (khoảng 8 ngàn năm trước). Họ là người thuộc chủng Australoid- Melanesian cổ. Tuy có những thay đổi đặc điểm nhân chủng theo khí hậu và môi trường (qua sự lựa chọn, đột biến tự nhiên của genes), cư dân trên đất Việt trước thời đá mới (thuộc các văn hoá Sơn Vi, Hoà Bình, Bắc Sơn) là những người thuộc chủng nói trên, cũng như các nhóm dân khác sống trong cùng vùng lúc ấy và cùng khí hậu (ở Ần độ, Miến Điện -Myanmar-, Thái Lan, Cao Miên -Kampuchia-....). Họ có đại diện cùng chủng ở New Guinea, nơi cư dân cổ sống trong những vùng hẻo lánh, ít tiếp xúc với các chủng khác. Họ có đặc điểm như mũi to, tóc quăn, mặt rộng, cung mày rộng, vùng chân răng (prognath ) vẩu, đầu to dài, da ngâm đen. Xuất phát từ cùng một nhóm người với cùng ngôn ngữ gốc Austric, nhưng sống trên một vùng quá lớn, những nhóm cư dân Australoid này tất nhiên có những ngôn ngữ khác nhau. Từ tiếng nói chung lúc đầu, hai nhóm tiếng chính thành hình: nhóm nói tiếng Nam Đảo (austronesian, như tiếng Indonesia và thổ ngữ các đảo Thái Bình Dương), và tiếng Nam Á (austroasiatic) là tiếng nói của người Việt Nam, Munda, Khmer, Môn và một số thổ dân Thái Lan, Mã Lai. Phương pháp ngôn ngữ tỉ hiệu không chỉ xét những tiếng giống nhau trong những ngôn ngữ, mà còn xét giọng nói, cấu trúc và thứ tự từ ngữ trong câu. Bởi thế mà tiếng Việt được xếp vào nhóm tiếng Nam Á. Tiếng Nam Á là tiếng đơn lập (mà đơn vị cơ bản là một âm tiết có nghĩa) không "dấu" (atonal, như tiếng Khmer), nhưng do ảnh hưởng tiếng Tàu, tiếng Việt trở thành có "dấu" (tonal). Benedict, và sau này Blust, Oppenheimer đều đồng ý rằng tiếng Austric cũng là ngôn ngữ gốc của nhóm thứ ba, là nhóm nói tiếng Thái-Kadai, trước đây sống miền cực Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa, về sau họ di cư một phần xuống Lào và Thái Lan. Thật ra tiếng Việt Nam, tuy được xếp vào nhánh Nam Á, lại có nhiều từ thuộc ngôn ngữ Nam Đảo, và rất nhiều từ Hán Việt. Từ Hán chỉ thâm nhập vào Việt Nam kể từ thời Hán Vũ Đế về sau. Trái lại các từ thuộc ngôn ngữ Nam Đảo có gốc trước đó. Bình Nguyên Lộc phân tích kĩ về tiếng Việt dân gian gốc "Mã Lai". Tiếng "Mã Lai" cổ của ông bao gồm tiếng nói thuộc hai nhánh chính Nam Á và Nam Đảo mà ông gọi là "Mã Lai đợt I" và "Mã Lai đợt II". Vấn đề cần giải thích là cách nào tiếng Nam Đảo đã ảnh hưởng nhiều đến tiếng nói người Việt cổ (Nam Á). Những từ ngữ "Nam Đảo" trong tiếng Việt có thể do vay mượn, hoặc do quan hệ gốc gác (di truyền). Vay mượn xảy ra khi hai nhóm dân sống chung đụng trong một thời gian. Nhưng dân Việt chỉ sống chung đụng nhiều với dân Chàm nói tiếng Nam Đảo từ khoảng ngàn năm nay, khi nước Việt bành trướng xuống phương nam. Nước Lâm Ầp nói tiếng Chàm (sau trở thành Chiêm Thành) được sử Tàu nói đến ngay từ đầu công nguyên như nước giáp ranh với nước Việt, lúc đó là quận Giao Chỉ của Tàu. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh (và tiền Sa Huỳnh) nói tiếng Nam Đảo có mặt từ lâu trước công nguyên trên bờ biển miền Trung Việt Nam hẳn đã là một trong những văn hoá gốc của những vương quốc Chàm này. Văn hóa Sa Huỳnh là một văn hoá rực rỡ của dân nói tiếng Nam Đảo vào thiên kỷ thứ nhất trước công nguyên, với những đồ sắt tiến bộ trước cả văn minh Đông Sơn, với nhiều đồ trang sức đẹp đặc biệt bằng đá và bằng thuỷ tinh (bông tai bốn hoặc ba mấu, bông tai tạc hình đầu thú ở hai đầu, chuỗi đeo...), và tục táng người trong mộ vò. Căn cứ vào số lượng và kĩ thuật làm đồ thuỷ tinh, tôi cho là cư dân Sa Huỳnh đã làm ra thuỷ tinh đầu tiên trong vùng Đông Nam Á (không nơi nào khác có di tích thuỷ tinh vào cùng thời); và có kĩ thuật cao đến độ chế được đồ trang sức khá cầu kì : ngoài hạt chuỗi các loại, người ta tìm được một khuyên tai hai đầu thú bằng thủy tinh đang làm dở dang. Như vậy Sa Huỳnh không kém vùng Cận Đông, là nơi làm thủy tinh sớm nhất thế giới, vào thế kỷ 7 trước công nguyên. Trung Hoa mãi đến sau công nguyên mới bắt đầu sản xuất đồ thuỷ tinh, còn trước đó họ nhập từ nơi khác. Sách cổ Trung Hoa cho biết con cháu cư dân Sa Huỳnh, người nước Lâm Ầp, làm được bát thuỷ tinh, là đồ quý, đem cống vua Trung Hoa ở những thế kỷ đầu công nguyên. Việc dân Sa Huỳnh khám phá ra thủy tinh sớm xem ra hợp lý về mặt khoa học. Muốn có thủy tinh phải có cát mịn (silica) trộn vỏ sò nát (calcium carbonate), là những món có sẵn ngay trên bờ biển họ sống. Khi luyện sắt gần bờ biển, rất có thể cư dân địa phương tình cờ tạo ra trong lò những mảng thủy tinh sáng bóng, và từ đó phát minh việc chế đồ trang sức bằng vật liệu nhân tạo này. Ngành khảo cổ chứng minh cư dân Sa Huỳnh đã buôn bán trao đổi với những dân Nam Đảo khác, như thổ dân Phi Luật Tân-Philippins-, Mã Lai-Malaysia-, Nam Dương - Indonesia -. Người cổ Sa Huỳnh bán đồ sắt, đồ gốm, đồ trang sức., và có mua trống đồng.từ Đông Sơn ! Ngành khảo cổ thế giới xem văn hoá Sa huỳnh quan trọng không kém văn hoá Đông Sơn. Từ sự có mặt của di vật văn hóa này ở vùng bờ biển hay hải đảo khác nhưng không có dấu vết chế tạo tại chỗ, ngườI ta suy ra là có sự buôn bán trao đổi. Theo Solheim, gốm Sa Huỳnh có liên hệ với gốm Kalanay của dân Phi Luật Tân cổ. Solheim đưa ra thuyết "mạng buôn bán trao đổi Nusantao" của dân Nam Đảo trên khắp biển Thái Bình Dương mấy ngàn năm trước công nguyên. Dù cư dân Sa Huỳnh sau đó chịu ảnh hưởng nặng của văn hoá Ần Độ, nhưng tiếng nói Nam Đảo vẫn còn tồn tại lâu sau đó trong dân Lâm Ầp và Chàm, cho.đến khi họ bị dân Việt đồng hoá dần vào thiên kỷ II sau công nguyên. Một số cư dân cổ này đã lên trên cao nguyên miền Trung, là tổ tiên những thổ dân nói tiếng Nam Đảo còn sống đến ngày nay như người Gia-Rai, Rha- đê. Những bộ lạc khác trên cao nguyên (cùng gọi là "Thượng" như các bộ lạc Nam Đảo) lại nói tiếng Nam Á, và có tổ tiên sống từ lâu ở vùng núi đồi khắp vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên các bộ lạc nói tiếng Nam Á này cũng biết luyện sắt từ đất quặng để chế thành dụng cụ như người tiền sử Sa Huỳnh; chắc rằng họ học kĩ thuật làm đồ sắt qua các bộ lạc Nam Đảo gốc gác văn hoá Sa Huỳnh. Ngoài tiếng nói, người Việt còn chịu nhiều ảnh hưởng khác của văn hoá Nam Đảo. Yếu tố Nam Đảo trong phong tục người Việt gồm tục xâm mình, ăn trầu, việc trồng, ăn khoai từ, khoai môn, và gồm cả những chuyện cổ tích gốc Nam Đảo như chuyện Sơn Tinh, Trầu Cau... Theo Hà văn Tấn, văn hoá Sa Huỳnh có gốc ở văn hoá Bàu Tró (từ Nghệ An đến Thừa Thiên), và chủ nhân văn hoá Bàu Tró có thể là của "người Nam Đảo". Vậy người Nam Đảo từ đâu đến, và gốc gác thế nào? ■ Áp dụng lập luận Oppenheimer (về sự thiên di của dân sống trên thềm lục ra đi khi biển dâng) vào việc phân tích dữ kiện khảo cổ Việt Nam và Đông Nam Á, tôi xin phác họa hình thành của người cổ Bắc Việt Nam như sau. Người cổ thiên di từ Phi châu về phía Đông Nam Á. Đến khi gặp biển Đông (Nam hải, nói theo Tàu) ngăn chận, họ phải theo hai hướng. Về phía bắc, họ đến sống vùng nam Trung Hoa và dần dần tràn lên Mông Cổ, khi núi băng tan bớt, càng đi dần về phía bắc. Về phía nam, họ thiên di đến trên thềm Sunda, khi đó còn nối liền lục địa với các đảo phía nam đến tận Úc châu. Tất cả đều là người thuộc chủng Australoid (da đen, tóc quăn, mũi to...). Tại phía bắc Đông Á châu người thuộc chủng Australoid thay đổi dần nhân dạng sau thời gian dài sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng. Khoảng 15 ngàn năm trước, chủng Altaic thiên di từ Tây Á, dọc theo mạn phía đông nam nước Nga đến vùng Tân Cương, lai với thổ dân đông bắc Á Châu Australoid này, thành chủng Bắc Mongoloid (da trắng vàng, mắt hí, tóc thẳng). Dân Mông Cổ thuộc chủng này và nói tiếng Altaic. Chủng Bắc Mongoloid sinh sôi, ngày càng mạnh lên, bành trướng về phía bắc và qua eo biển Beringia lúc ấy còn đóng băng, trở nên di dân đầu tiên ( thổ dân Amerindians) của châu Mỹ. Khoảng 5000 năm trước, tổ tiên tộc Hán sống ở Bắc Trung Hoa là dân trồng kê thuộc chủng Bắc Mongoloid. Miền Nam Trung Hoa sau cuối kỳ băng tan có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Cư dân Australoid cổ có thể đã lai chủng bắc Mongoloid ít nhiều. Dân thuộc chủng Bắc Mongoloid bành trướng ngày càng mạnh về phía nam, gặp cư dân Australoid tại giữa đất Trung Hoa, sống đan xen với nhau và lai thành chủng Nam Mongoloid (da ngâm đen, tóc dợn sóng...), kết quả là càng về phía bắc và càng về sau, cư dân càng nhiều nét Bắc Mongoloid và càng về nam dân càng nhiều nét Nam Mongoloid. Chủng lai Nam Mongoloid là chủng tạo thành người Việt, Khmer, Thái, Miến, Mã Lai, Nam Dương, hải đảo Thái Bình Dương.. Người Nam Mongoloid có những nét của cả hai chủng Australoid và Mongoloid nhưng với những mức độ đậm nhạt khác nhau tuỳ theo lai nhiều ít. Càng về phía nam Đông Nam Á, nét Australoid càng đậm, vì ảnh hưởng giống Mongoloid hãy còn mới. Ở vùng đảo Thái Bình Dương, du khách đi từ đầu tây về phía đông trên những đảo (như ở Indonesia) có thể thấy dễ dàng tỷ lệ lai Australoid tăng dần. Hiện tượng Australoid lai Mongoloid trên đất Việt Nam có lẽ không phải do lai thẳng với người Mongoloid chính cống phương bắc, mà lai qua người nam Trung Hoa, vì người ta không tìm thấy sọ thuần chủng Bắc Mongoloid nào ở Việt Nam trước thời người tộc Hán trên phía Bắc đến đô hộ. Trong thời Bắc thuộc, lai với chủng Bắc Mongoloid đến đô hộ, cư dân bắc Việt tuy có thêm nhiều từ ngữ gốc Hán, nhưng lại mất đi dần dần một số phong tục như xâm mình và kĩ thuật như tài lặn dưới nước, đóng thuyền to, đi biển, là những kĩ thuật của thành phần Nam Đảo. Nước Lâm Ầp (và sau đó là Chiêm Thành) của con cháu người nói tiếng Nam Đảo nhờ không bị người Hán đô hộ trực tiếp nên vẫn giữ được phong tục, tiếng nói, và nghề đi biển : Chế Bồng Nga đã đem chiến thuyền vượt biển đánh phá Thăng Long ! Trên đất Việt Nam, vào thời đồ đá, cư dân thuộc chủng Australoid ban đầu nói cùng tiếng gốc Austric, dần dần phân thành hai nhóm dân nói tiếng khác nhau theo vùng họ ở, vì cách sinh sống khác nhau. Nhóm nói tiếng tiền-Nam- Á sống phía trong lục địa, trú trong hang động vùng cao (văn hoá Hoà Bình). Nhóm thứ hai nói tiếng tiền- Nam- Đảo sống vùng đồng bằng ven biển, vào lúc ấy mức biển thấp, vùng này lan ra xa ngoài đường biển hiện tại trên vịnh Bắc Việt do thềm lục địa lài /thoai thoải. Tại vùng vịnh Bắc Việt, dọc từ bờ biển Móng Cái tới Quảng Ngãi qua đến đảo Hải Nam, đáy vịnh sâu nhất ngày nay không quá 100 mét . Từ bờ ra khơi 20 km, mực sâu dưới 25 m ! (trong khi ngoài khơi Trung Việt nơi núi ra tận biển và nhiều mũi, nhiều hòn như mũi Dinh, hòn Trâu, hòn Tre.bờ biển thật dốc, sụp sâu rất nhanh, không có thềm). Mười hai ngàn năm về trước, toàn vùng vịnh Hạ Long là đất liền trải dài về phía đông đến bên kia đảo Hải Nam và Đài Loan, và về phía bắc lên đến cửa sông Dương Tử. Nhờ các di tích khảo cổ thuộc văn hoá Soi Nhụ trong những hang cao trên trên bờ vịnh Quảng Ninh-Hải Phòng hay đảo Cát Bà mà ngày nay ta biết đã có cư dân sống ít nhất từ 15 ngàn năm trước, trên thềm lục địa Hạ Long, trước khi mực biển dâng cao. Những di tích khác về cuôc sống của cư dân sống trên thềm đã bị ngập ở tại đấy (Meacham gọi là Nanhailand, theo tên Nam Hải, vùng vịnh Bắc Việt), cũng như tại thềm Sunda, không thể khai quật được. Trong chừng mực nào đó, vùng vịnh Bắc Việt, kể cả (đảo) Hải Nam có thể xem là lãnh thổ của một phần tổ tiên người Việt, thuộc thành phần nói tiếng Nam Đảo, từ 15 ngàn năm trước ! Văn hoá Hạ Long và các văn hoá tiền Nam Đảo khác sau đó đã góp phần quan trọng vào sự hình thành văn hoá và con người Việt Nam. Nhóm nói tiếng tiền-Nam- Đảo không chỉ sống giới hạn ở vùng thềm lục địa ngay trên vịnh Hạ Long mà có lẽ sống rải rác về phía bắc trên cùng thềm lục địa, vì người ta tìm thấy hàng loạt di tích con cháu họ ở vùng HongKong trên những doi cát giống như cư dân sống dọc biển Bắc và Trung Việt Nam. Đến khoảng 7 ngàn năm trước, nước đã lên cao hơn gần một trăm mét so với mức 12 ngàn năm trước. Cư dân ở đấy phải dời đi nơi khác, mang theo kĩ thuật, phong tục, tiếng nói, và . các di tố. Việc đi lại trên thềm lục địa từ nam Trường giang đến vịnh Hạ Long dễ dàng hơn trong đất liền vì không có trở ngại thiên nhiên (độ cao trung bình dưới 50 thước). Lúc nước lên cao nhất, khoảng 3 đến 5 m trên mức nước biển ngày nay, vào 4000 năm trước, các thềm lục địa đã nằm sâu dưới biển. Như vậy trong suốt mấy ngàn năm, dân sống trên thềm lục địa đã phải dần dà, lần lượt di cư hoặc tìm cách lánh biển tiến. Theo Oppenheimer, có người lùi dần vào phía đất cao trong lục địa, có người đóng tàu đi biển, người ở lại thì phải cất nhà sàn. Có thể một số nhỏ đã vượt biển, nhưng số đông chọn giải pháp đơn giản đối với họ là tiến vào chỗ đất liền gần nhất ; đối với cư dân vịnh Hạ Long, đó là vùng bờ biển Nam Bắc phần và Bắc Trung phần Việt Nam. Chủ nhân các văn hoá ven biển như Đa Bút, Quỳnh Văn, Bàu Tró, và cả Bàu Dủ, Sa Huỳnh do đó đều là những người Nam Đảo tị nạn biển tiến. Riêng dân sống trên thềm lục địa biển vùng đông nam Trung Hoa, một số lùi vào phía HongKong trong lục địa, một số lên chỗ cao bên ngoài là đảo Đài Loan. Di tích xưa ở bắc Đài Loan Dapengeng có gốm hoa văn thừng và hoa văn chải bằng "lược", cùng loại với nhiều di tích trên bờ biển Nam Trung Hoa và Bắc Việt Nam, và cư dân nơi ấy cũng ăn sò nhiều, cũng dùng chày đập vỏ cây. Ngưòi sống trên lục địa này sau đó bị Hán hoá. Xem qua di tích khảo cổ, tại Đài Loan ngoài các di tích, thổ dân trên núi còn giữ tiếng Nam Đảo và một số phong tục đến bây giờ (thí dụ ăn trầu). Những di tích nầy được Trung Hoa xem như di tích của người "Yue" (Việt) cổ. Ngày nay các nhà khảo cổ đều đồng ý là cư dân nam Trung Hoa cổ, và thổ dân chưa bị lai hoàn toàn, không thuộc chủng tộc Hán. Cư dân vùng cực nam Trung Hoa (Quảng Đông và QuảngTây, Vân Nam, Quế Lâm) và cực bắc Việt Nam nói những thứ tiếng thuộc nhiều nhánh khác nhau của ngôn ngữ gốc Austric như Môn, Thái, Kadai, Yao, Miêu., nhưng thổ dân miền núi cao Đài Loan chỉ nói những tiếng thuộc một nhánh của ngôn ngữ Austric: nhánh Nam Đảo. Vì những thổ dân trên núi cao ít tiếp xúc với người Hán (đến trễ và chỉ ở vùng đồng bằng ven biển), nên có thể xem thổ dân này còn giữ genes nguyên thuỷ, và văn hoá cổ. Mặt khác, dân Đài Loan cổ có nhiều liên hệ văn hoá thời đá mới (xưa trên 6000 năm) với các văn hoá của cư dân vùng Phúc Kiến, đảo Quemoy (Kim Môn), Hongkong, Quảng Đông, và Bắc Việt cổ (qua di vật như gốm hoa văn thừng, rìu tứ giác và rìu có vai mài nhẵn). Nếu như ta chấp nhận những cư dân cổ này có cùng gốc, thì họ là người nói tiếng (tiền-) Nam Đảo, như thổ dân Đài Loan, và quê hương của họ là thềm lục địa chung quanh đã bị biển tràn ngập. Vậy thì tại sao không thể xem vùng thềm biển này, trước khi hồng thuỷ đến, là một trung tâm văn hoá lớn của dân nói tiếng Nam Đảo ? Đây là một trung tâm văn hoá Nam Đảo lớn vì đông dân, so với những vùng được xem như trung tâm gốc của người nói tiếng Nam Đảo theo đề nghị của Solheim (vùng nam Philippins & bắc Indonesia) hay Oppenheimer (đông bắc Borneo) hoặc Bellwood (đảo Đài Loan). Thật vậy, những người rời thềm lục địa trải dài từ vịnh Bắc Việt đến Đài Loan- Hongkong đến tị nạn ở vùng đất không bị biển ngập gần đấy đã lập nên nhiều nền văn hoá nối tiếp, để lại rất nhiều di tích khảo cổ thời đá mới trên bờ biển vịnh Hạ Long và vịnh Hongkong, cũng như trên đảo Đài Loan. Một phần cư dân thềm biển nam Trung Hoa (nói tiếng tiền- Nam- Đảo trong thuyết tôi đưa ra ở đây) hẳn đã di chuyển trên thềm lục địa từ Trung Hoa đến Bắc Việt để tìm nơi khô ráo. Thật thế, vì núi cao ra đến tận bờ biền ở rìa lục địa gần Hongkong, nên cư dân trên thềm đi xa hơn về phía nam, xuống tận Bắc Việt. Di tích khảo cổ tại những vùng này, từ Hongkong đến Bắc Việt, cho thấy một dụng cụ đặc biệt của văn hóa Nam Đảo. Đó là chày đập vỏ cây cho mềm để làm khố che thân, chày mà ngày nay dân Đa Đảo (như Tonga), cũng như dân Toraja sống trên đảo Sulawesi vẫn còn dùng. Bắt đầu từ thời đá mới, nghề làm rẫy phát triển với cây có củ (khoai từ, môn..), và cây ăn trái (bầu, bí, mướp.) khiến số dân nói tiếng Nam Á ở trong đất liền, và dân nói tiếng Nam Đảo dọc biển Bắc Việt tăng nhanh. Đất sống bị thu hẹp trong khi dân số tăng lên, đến một lúc nào đó, hai nhóm dân tràn lan về vùng châu thổ các sông, trồng thêm lúa, nuôi thêm lợn, và sống định canh đan xen nhau. Sự hợp chủng của hai nhóm dân này có lẽ đã xảy ra khoảng 4000 năm trước đây. Phải chăng sự gặp gỡ này đưa đến truyền thuyết Lạc Long Quân Nam Đảo từ phía biển lên và Ấu Cơ Nam Á, tiên nữ vùng núi xuống ? Và cuộc gặp gỡ & sống chung có lẽ xảy ra một cách tương đối hoà bình. Vì đôi bên đều cùng chủng tộc và ngôn ngữ gốc, và họ có những kinh nghiệm sống bổ túc cho nhau. Dân Nam Đảo đã đem nghề miền biển : đóng tàu, đi biển, đánh bắt hải sản góp vào cuộc phối hợp. Dân Nam Á thì đóng góp nghề lục địa trồng trọt (kể cả lúa gạo), bắt ốc núi, nghề luyện quặng đồng thau. Cả hai nhóm đều biết săn bắt - hái lượm và làm đồ gốm (Bắc Sơn cho nhóm Nam Á, và Quỳnh Văn, Bàu Tró cho nhóm Nam Đảo...) Nhưng họ cũng có các kĩ thuật đặc trưng riêng. Nhóm Nam Đảo mặc đồ (khố, váy) bằng vỏ cây đập mềm : các nhà khảo cổ tìm thấy 18 cái chày trong một lần khai quật văn hoá Phùng Nguyên ở châu thổ sông Hồng. Nhóm Nam Á có lẽ dùng đồ dệt bằng sợi thảo mộc se bằng dọi ; nhiều dọi đất nung được tìm thấy ở châu thổ sông Hồng. Đấy là nơi gặp gỡ hai nhóm văn hoá biển- lục địa. Người ta tìm thấy trong địa bàn văn hóa Phùng Nguyên di tích của cả hai nhóm Nam Á & Nam Đảo : rìu tứ giác không vai và rìu có vai có nấc, chày đập vỏ cây và dọi se sợi. Như vậy Tiên Ấu Cơ Nam Á và Rồng Lạc Long Quân Nam Đảo là tổ tiên Lạc Việt lẫn Bách Việt (phía Nam Trường giang), và những Viêm Đế hay Thần Nông của huyền thoại Hán xa xưa, nếu có, có lẽ không dính dáng đến tổ tiên tộc Việt. Cuộc phối hợp văn hóa hoàn tất vào thời Đông Sơn, tạo thành môt văn hóa chung cho cư dân bản địa, như các tượng người trên những đồ vật bằng đồng toàn vùng Đông Sơn có cùng nét mặt, cùng y phục trang sức. Cũng như trên đồ đồng, vừa có hoa văn hình kĩ hà tròn- vạch, vừa có hình thuyền to (chứa nhiều người). Những hình thuyền to khắc trên trống đồng cho thấy dân Đông Sơn đã thừa hưởng kinh nghiệm đóng thuyền từ người nói tiếng Nam Đảo. Tất cả các nhà khoa học đều đồng ý là dân nói tiếng Nam Đảo có kinh nghiệm lâu đời về nghề đóng thuyền và hàng hải vì sống nhờ nguồn lợi từ biển, và vì đã biết dùng thuyền thiên di khi biển dâng. Trong khi người Phùng Nguyên sống sâu trong đất liền nên không cần thuyền to ; cho dù họ có dùng thuyền đi trên sông, hồ, nhưng có lẽ không coi là quan trọng, vì không thấy hình thuyền lên hoa văn đồ gốm. Như nói ở trên cuộc sống chung này tương đối hoà bình vì các di tích khai quật cho thấy tại Đồng Đậu, cư dân "đột nhiên" biết chế tạo vũ khí. Để tự vệ ? Để giải quyết những tranh chấp về quyền lợi và ảnh hưởng ? Từ đó đưa đến những khủng hoảng mất mát chia lìa (năm mươi con theo cha, năm mươi con theo mẹ?.) hoặc đến lúc suy vi sau thời kì sung mãn. Nhờ người nói tiếng Nam Đảo mà trống đồng Đông Sơn đã được chở đi khắp Đông Nam Á bằng đường biển (người ta biết vậynhờ đào được ở Mã Lai một trống Đông Sơn còn gắn/cột dính vào ván thuyền). Dân cổ trong nhiều vùng ở Indonesia, đặc biệt là dân Toraja, đến nay còn giữ truyền thống Đông Sơn, có lẽ là di dân (khá đông, nên gia tài mang theo được lưu truyền) đi từ Bắc Việt (khi những người con xuống biển theo bên cha ? hoặc/và) trễ lắm là họ tị nạn lúc Trung Hoa chiếm Việt Nam. Bởi vì hoa văn trên đồ (trống) đồng Việt sau khi bị Hán chiếm đã bị/có ảnh hưởng mĩ thuật của người Hán. Trong khi dân Toraja ngày nay vẫn còn làm vật lưu niệm, đồ trang sức trang trí với hoa văn kĩ hà thuần Đông Sơn, và họ vẫn ở nhà rông cất đúng theo hình trên trống đồng Đông Sơn. Họ cử hành đám táng với quan tài hình thuyền kiểu Đông Sơn. Kiều Quang Chẩn gần đây nhắc lại đề nghị của nhiều học giả Tây Phương về nguồn gốc Đông Sơn của nhóm dân Dayak sống tại bắc đảo Borneo, cách khá xa dân Toraja ở đảo Sulawesi trong quần đảo Indonesia. Trong chuyến đi Indonesia khảo cứu về trống đồng, ông ghi nhận là dân Dayak cũng có nhà rông mái cong, trồng lúa nước và tục đưa linh hồn người chết bằng thuyền. Kĩ thuật làm trống đồng còn được lưu truyền nhiều thế kỷ sau công nguyên tại Indonesia (trong đó trống nhỏ còn được làm lâu sau đó), mà Hà văn Tấn gọi là trống bản địa vì hình dáng hoặc trang trí, hoa văn trên nhiều trống đào được ở Indonesia mang nhiều ảnh hưởng địa phương (cảnh hiện thực người, ngựa, voi, công.). Kiều Quang Chẩn, cũng như nhiều học giả Indonesia cho là hầu hết các trống to (loại Heger I) nhập từ Bắc Việt thời Đông Sơn (kể cả sau khi Bắc thuộc). Chỉ tiếc là ngày nay kĩ thuật phức tạp dùng để đúc trống (cần thợ giỏi nhiều ngành) mà di dân Đông Sơn để lại tại Indonesia đã thất truyền, chỉ còn mĩ thuật hoa văn trên đồ dồng cỡ nhỏ. Nơi xa nhất có đồ đồng Đông Sơn là đảo Flores, gần Úc châu. Đồ đồng đó là một chiếc "thuyền mỹ nghệ" giống kiểu thuyền khắc trên trống đồng Đông Sơn. Thuyền được dân địa phương xem như di sản tổ tiên họ đem đến bằng đường biển với câu chuyện kể trong một bài hát chỉ được hát trong những lễ đặc biệt. Tổ tiên ấy cũng là một số người Việt Đông Sơn (không chịu nổi ách đô hộ của người Tàu hoặc kháng chiến quân Việt bị Tàu truy nã ?) lên đường theo lối cũ của bà con vượt biển chạy lụt thuở trước hay vì óc mạo hiểm, muốn tìm miền đất hứa nào đó ? Có lẽ không bao giờ ta biết được, vì người Việt Đông Sơn không để lại chữ viết. Ngoài các huyền thoại, truyền thuyết bằng miệng, không một sự việc, lịch sử, hay câu chuyện nào ghi lại bằng chữ viết hay hình vẽ trên đá, trên gỗ- giấy, hoặc khắc trên đất nung, mu rùa. Trong khi đó người ta biết nhiều sự việc xảy ra thời "tiền sử" ở Trung Hoa, Ai Cập, hay các xứ vùng Cận Đông, Ần Độ, Trung Hoa, hay của cổ dân Trung Mỹ ngày nay, qua các chữ hay kí hiệu khắc trên các vật liệu giữ được lâu nói trên là mu rùa, đất nung, đá. ■ Như những dân tộc khác, dân Việt đã lai nhiều trong suốt thời tiền sử và trong thời Hoa thuộc (thời Pháp thuộc quá ngắn nên phần lai rất ít). Nhưng các di tích về gốc gác trên miền bắc Việt Nam còn rõ rệt, và gốc này có liên hệ sâu xa với những tộc nói tiếng Nam Á và Nam Đảo. Nói về chủng tộc theo di truyền học, dân Việt xa xưa có chung cội rễ với người cổ vùng Hoa Nam và người cổ Đông Nam Á. Tuy nhiên văn hoá Việt Nam biệt lập và đầu tiên thành hình từ văn hoá bản địa của những tộc nói tiếng tiền- Nam Á trong lục địa và tiếng tiền-Nam Đảo ở vùng thềm lục địa đông bắc Bắc Việt. Và vẫn giữ được độc lập quốc gia và bản sắc văn hoá riêng cho đến nay. Trong khi toàn vùng Nam Trường giang đều bị Hán hoá. Ảnh hưởng của văn hoá Nam Đảo trên văn hoá Việt cổ đã được Hà Văn Tấn đề cập rải rác trong các bài viết tập hợp trong cuốn "Theo dấu các nền văn hoá cổ". Tôi chỉ căn cứ vào lập luận của Oppenheimer và kết quả mới về di truyền học Đông Nam Á, để làm rõ nét thêm nguồn gốc dân tộc Việt. Ai chẳng hãnh diện về một quá khứ đặc thù tốt đẹp? Nhất là khi quá khứ tốt đẹp ấy có thể giúp một dân tộc hiện tại nghèo nàn lạc hậu phấn đấu tiến lên cho khỏi hổ thẹn với tổ tiên. Tự ti hay tự tôn đến từ những nhận xét chủ quan, dựa vào những chứng cớ và lí luận. Lí luận có thể khác nhau nhưng chứng cớ khoa học phải được tôn trọng, cho đến khi tiến bộ khoa học về sau lại phủ nhận sự chính xác hiện tại của chúng. Điều quan trọng hơn là làm thế nào cho nước Việt, dân Việt hiện nay có thể tiến bộ để bắt kịp, hay vượt qua, những nước trong cùng vùng. Đó là một thách đố cho tất cả người Việt Nam ngày nay. Nguyễn Quang Trọng - Rouen 01/2002 • Diamond JM (1988) Express train to Polynesia. Nature 336:307-308 • Ballinger SW, Schurr TG, Torroni A, Gan YY, Hodge JA, Hassan K, Chen K-H, et al Southeast Asian mitochondrial DNA analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migrations. Genetics 130, 139- 152 (1992) Trích bản tóm tắt: Human mitochondrial DNAs (mtDNAs) from 153 independent samples encompassing seven Asian populations were surveyed for sequence variation. The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNAs with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians. • Bellwood P (1991) The Austronesian dispersal and the origin of languages. Sci Am 265:70-75 • Blust R, Subgrouping, circularity, and extinction: some issues in Austronesian comparative linguistics, Symp Ser Ins Linguist Acad Sinica, 1, 31 (1999) • Capelli C, Wilson JF, Richards M, Stumpf M PH, Gratrix F, Oppenheimer S, Underhill P, Pascali V, Ko T, Goldstein DB, A Predominantly Indigenous Paternal Heritage for the Austronesian-Speaking Peoples of Insular Southeast Asia and Oceania Am. J. Hum. Genet., 68:432-43, 2001. • Hà văn Tấn, Theo dấu các nền văn hóa cổ , Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội (1998) • Hà văn Tấn, Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam , Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội (1994) • Higham C, The bronze age of southeast Asia, Cambridge University Press (1996) • Khảo cổ học Việt Nam, I Thời đồ đá, và II, Thời đại kim khí Việt Nam, Hà văn Tấn Ed, Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội (1998) • Kiều Quang Chẩn, Văn hoá Đông Sơn ở Indonesia- một thoáng nhìn, Thế kỷ 21, tháng 6 năm 2001 • Meacham W, On the improbability of austronesian origins in south China, Asian perspectives, 25 (1), 100 (1985) • Nguyễn văn Tuấn, Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt, Thế kỷ 21, tháng 12 năm 2001 • Oppenheimer S, Eden in the East The Drowned Continent of Southeast Asia, Phoenix, 1999 • Solheim WGH, Southeast Asia and Korea : from the beginning of food production to the first states, in History of humanity: scientific and cultural development, vol. 1 (Prehistory and the beginning of civilization) Ch. 45, UNESCO/Rouletge, 468-80 (1994) • The slow birth of Agriculture, trong Special section : Archeology : Transition in prehistory, Science, 282, 1446,(1998) •Tạ Chí Đại Trường, Tham gia đối thoại sử học, Văn Học, Westminster (USA), tháng 9, 9-33 • Shiba R., Việt và Nhật, nguyên tác đăng trên Bungei Shunju tháng 2-1990, Vĩnh Sính dịch, Diễn Đàn Forum (Pháp), tháng 1-1993, 24-25 • Bình Nguyên Lộc, Nguồn Gốc Mã lai Của Dân Tộc Việt Nam (The Malay origin ofVietnamesepeople),Bách Bộc,Saigon,1971) • Hemudu, Zhonghua Yuangu Wenhua Zhiguang (Hemudu, light of ancient culture in China), ISBN 7-81035-572-4/K.066 (1998) • Su B, Xiao J, Underhill P, Deka R, Zhang W, Akey J, Huang W, Shen D, Lu D, Luo J, Chu J, Tan J, Shen P, Davis R, Cavalli-Sforza L, Chakraborty R, Xiong M, Du R, Oefner P, Chen Z, Jin L, Y-chromosome evidence for a northward migration of modern humans into eastern Asia during the last Ice Age, Am J Hum Genet, 65, 1718-1724 (1999) • Chu J Y, Huang W, Huang SQ, Xu JJ, Chu Z T, Yang Z Q, Lin K Q, Li P, Wu M, Geng Z C, Tan C C, Du R F, Jin L, Genetic relatioship of populations in China, Proc Nat Acad Sci USA, 95, 11763 (1998) ■ (Dưới đây là bản đồ và chú thích J) Bản đồ vùng Đông Nam Á lục địa, từ Nam Trung Hoa đến Trung Việt Nam. Bờ biển phía đông (đường liên tục __) được thềm lục địa (độ sâu dưới 100 m, đường vẽ-) bọc bên ngoài đến tận đảo Đài Loan và Hải Nam. Những mũi tên chỉ hướng đi của dân nói tiếng Nam Đảo từ ngoài thềm lục địa di tản vào đất liền dọc bờ biển Bắc Việt khi vùng vịnh Hạ Long bị biển ngập. Địa điểm di tích các văn hóa: 1- Soi Nhụ; 2- Hạ Long; 3- Đa Bút; 4- Quỳnh Văn; 5- Bàu Tró; 6- Sa Huỳnh; 7- Hong Kong (cửa sông Châu giang); 8- Dapengeng; HB: Hoà Bình. 2- Các di tích dọc sông Dương tử, kể từ thượng nguồn (bên trái): a- Sanxingdui, b- Pengtou; c- Diantonghuan; d- Hemudu Theo : http://www.nhanvan.com/magazines/hopluu/64/nguyenquangtrong_venguongoc.htm
  17. Nhận được thư em lúc nhá nhem Bồi hồi xúc động mở ra xem Trong thư vỏn vẹn dăm ba chữ : "Anh ạ, ngày mai họ cưới em" Ra vậy, ngày mai em lấy chồng Đừng tưởng rằng thế đã là xong Anh về mài lại con dao quắm Tìm kẻ yêu em kiếm bộ lòng Thơ Thẩn Kh :P :D
  18. Còn 2 bài nữa của T.T.Kh đăng nốt đi chị tittynguyen :rolleyes: , TP có nhớ 1 câu hay tuyệt tác của nữ thi sĩ T.T.Kh trong "Bài thơ cuối cùng" : Giận anh em viết dòng dư lệ Là chút dư hương điệu cuối cùng T.T.Kh :(
  19. Cảm ơn anh Công Minh đã có thiện tình mời ! TP cũng ở TPHCM và cũng đã "trên từng cây số" trên khắp các nẻo đường Sài Gòn nên cũng biết khá nhiều nơi. Nếu được TP xin làm khổ chủ trước vậy. Rất mong một ngày đẹp trời được hội ngộ và cạn chén cùng anh. Cũng là (mượn thơ Bác nhé) : Đường non khách tới hoa đầy Rừng sâu quân đến tung bay chim ngàn :( Kính anh !
  20. Đã nhiều lần đọc các bài thơ của nữ thi nhân bí ẩn T.T.Kh nhưng sao hôm nay đọc lại vẫn thấy bâng khuâng. Dù thế nào đi nữa thì những bài thơ của "nàng" vẫn trẻ mãi và xứng đáng là những vần thơ tình trác tuyệt vượt tất cả mọi không gian và thời gian. Còn việc truy tìm "nàng" là ai ư ? Người ta đã giải mã nhiều rồi. Với TP, chuyện đó không quan trọng :( Chỉ xin được gọi T.T.Kh là tri kỷ nhé ! "Tê Tê Ka Hát" (T.T.Kh) là em nhỉ ! Đã đến cùng ta cạn chén đầy Ai người tri kỷ phương trời ấy Có nhớ đêm nào một cuộc say ? TP.
  21. THƯ GỬI CON GÁI TRONG NGÀY TÌNH YÊU Con gái yêu của Ba ! Tháng 2-2009: Con gái yêu của Ba tròn 8 tuổi và đã học đến lớp 2. Con chỉ biết, những ngày này là qua Tết Nguyên đán Kỷ Sửu và mới phải đi học nhưng con vẫn dậy sớm đến trường và thánh thót khoe với Ba mẹ những điểm 9-10 sau mỗi ngày tới trường từ sáng đến tối. Xung quanh con lúc này, chỉ có những bài học; những phút vui cùng bạn bè, cô giáo ở ngôi trường giữa lòng Hà Nội xanh ngắt cây lá và ngập tràn sắc màu xanh đỏ của những bé con má đỏ, môi hồng...; xung quanh con là đầy đủ, no ấm và con chỉ phụng phịu mỗi khi Ba mẹ tắt ti vi trong giờ ăn, không để con dán mắt vào màn hình chiếu Clip quảng cáo, hay phim dành cho thiếu nhi, nhan nhản trên truyền hình cáp... Tháng 2-1979: Ba cũng tròn 8 tuổi và cũng học lớp 2 như con bây giờ. Hồi ấy, ông nội của con mới phục viên sau hơn 10 năm chiến đấu trong binh chủng tên lửa của Quân đội nhân dân Việt Nam (1965-1978) và cũng theo chân những đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn trong năm 1975. Ký ức của Ba về ông nội là chiếc ba lô to đùng đằng sau lưng, trên đó có 1 chiếc khung xe đạp (sau này được lắp thành chiếc xe đạp để ông đi khắp nơi "buôn" chè, củ ấu... nuôi ba và cô Hương, cô Yến học xong Đại học), 1 con búp bê biết nhắm và mở mắt, 1 chiếc ca bằng đuya ra (còn gọi là hăng gô) của lính Mỹ (sau đó và bây giờ, bà Nội của con vẫn dùng để múc nước ở cái bể nước mưa xinh xinh ngay dưới hàng cau trước cửa nhà ở quê)... Thế nhưng, ký ức mãi không thể quên trong tâm trí của Ba là buổi sáng 18-2-1979 (1 ngày sau khi Trung Quốc cho quân bất ngờ tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc), ông Thành, ông Hòa và mấy ông ở gần nhà (cùng đi bộ đội, cùng phục viên, vẫn cùng tụ tập đến nhà mình uống nước trà mỗi tối) đến thì thầm nói chuyện với ông Nội. Câu chuyện của những cựu binh đó là gì, đến khi lớn rồi ba mới hiểu: Các ông thông báo cho nhau tin Trung Quốc tấn công Việt Nam và cùng nhắc nhau chuẩn bị quân tư trang, chuẩn bị lên đường nếu có Tổng động viên. Ba vẫn nhớ: Buổi trưa ngày hôm đó, ông Nội hì hục chuẩn bị quần áo, tư trang gọn vào chiếc ba lô bộ đội và gọi bà Nội bế cô Yến (sinh năm 1977) cùng Ba và cô Hương cũng mới 5 tuổi ra và dặn dò công việc ở nhà. Lúc ấy, trí óc non nớt của Ba mới cảm nhận : Giặc là gì? Là kẻ đã kéo người thân của Ba ra khỏi ngôi nhà và làm xáo trộn cuộc sống gia đình yên ấm... Tháng 2 và 3 năm 1979, rút cục ông Nội cũng chỉ lên Huyện đội tập trung, huấn luyện sau thời gian ngắn và vẫn ở lại cùng gia đình. Mỗi tuần, chỉ phải trực tự vệ cùng cơ quan. Tuy nhiên, cuộc sống thời chiến thì không chỉ đơn giản trong việc mỗi tuần, ông phải ở cơ quan 2 đêm, thi thoảng lại về nhà muộn, mệt nhoài vì đào hầm hào, huấn luyện... mà cuộc sống thời chiến còn tác động trực tiếp đến Ba và gia đình bé nhỏ của nhà mình. Hồi ấy và sau này này nữa, Ba say mê đọc những cuốn truyện tranh kể về chiến công của những anh bộ đội - dân quân - du kích chiến đấu với giặc Trung Quốc ở nơi biên giới, những thủ đoạn thâm độc của những kẻ đội mũ vải, đeo "tiết đỏ" và mặc áo 4 túi chỉ muốn chiếm đất của Tổ quốc mình.. Hồi ấy, Ba cùng các bạn trong lớp cũng phải cùng các anh chị, thầy cô trong trường cấp 1 đào giao thông hào ngay trong sân trường (Bây giờ, đoạn giao thông hào ấy đã bị lấp. Nhưng có dịp, Ba đưa con về quê mình, trèo lên núi Voi gần nhà bà Nội, con vẫn thấy những đoạn giao thông hào bị cỏ che kín mà Ba và các anh chị, thầy cô đã đào thời đó). Hồi ấy, mọi nhà đề phải đào hầm, nhà Nội mình cũng đắp 1 chiếc hầm kèo ngay giếng nước. Lúc mới đào xong, Ba và cô Hương - cô Yến cứ rúc rích chui ra, chui vào chơi trốn tìm. Cạnh nhà mình, có nhà bà Dung, kinh tế khá giả nên đào hầm ngầm: Vách trát xi măng, nắp làm bằng bê tông, bậc lên xuống cũng xây gạch, thế nhưng cứ sau mỗi trận mưa, nước lại tràn vào... lưng hầm và rắn rết, ễnh ương - chão chàng bơi lằng nhoằng, đẻ trứng đầy trong đó... Cứ như vậy đó, Ba lớn lên với những câu chuyện kể ở trường, những trang truyện tranh đọc "ké" ngoài hiệu sách phố huyện, những câu chuyện - lời bàn tán của ông Nội cùng những người bạn bên bàn nước vàng ệch màu đèn dầu và cả những tiếng nói bập bõm, ngang ngang giọng người nước ngoài nói tiếng Việt Nam chìm trong tiếng sôi sè xè phát ra từ chiếc đài chạy pin bé tí mà ông vặn nhỏ hết cỡ, ghé tai vào nghe để biết "tình hình chiến sự"... Tất cả đã dần hình thành trong tâm tưởng Ba về một nỗi ám ảnh, nguy hiểm và đe dọa thường trực được gọi là Trung Quốc. Tháng 3-2008: Con tròn 7 tuổi và học lớp 1. Buổi sáng Ba ra xe đón lên Nội Bài, bay vào Nha Trang để ra công tác quần đảo Trường Sa, con đứng ngoài đầu ngõ vẫy tay: "Ba về sớm và mua quà cho con nhé!" và lại tất tưởi ngồi sau xe để mẹ chở đến trường, cùng líu lo hát "Em vui vào trường Thành Công B, lấp lánh ban mai chim ca. Em vui vào trường Thành Công B, lá biếc hoa thơm ngọt ngào. Em luôn được thầy cô yêu thương với trái tim của mẹ hiền. Lấp lánh cho con bay cao, giữa trời xanh chim tung cánh bay..." với má đỏ môi hồng cùng lớp. Con có biết, những ngày sau đó, Ba đã cùng hơn 100 người con đất Việt, kề vai nhau trên con tàu HQ 996 của Vùng 4, Hải quân đè sóng biển Đông, xuất phát từ quân cảng Cam Ranh, Khánh Hòa ra với dải đất Trường Sa thân thương đang ưỡn lưng bảo vệ vòng cung hình chữ S Nửa tháng ra với bộ đội, ở với bộ đội, hóa thân thành bộ đội, cảm nhận - chia sẻ cùng bộ đội và vui - buồn - căm hờn cùng bộ đội, Ba càng thêm yêu Tổ quốc của mình và đau cùng Tổ quốc của mình. Buổi trưa trước khi làm lễ tưởng niệm cho gần 100 cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã hy sinh vì lưỡi lê, báng súng, dao găm và đạn AK bắn gần, pháo hạm của lính Trung Quốc khi làm nhiệm vụ giữ đảo trên vùng biển Cô Lin - Gạc Ma xanh ngăn ngắt, lặng lẽ sóng, Ba đã bật khóc ngay trên mũi tàu HQ996. Khóc thật sự và nước mắt thật sự uất ức, chảy tràn trên má, làm ướt mềm quai mũ cứng gắn quân hiệu sao vàng con ạ!. Con có biết không? Những người lính đang nằm dưới biển sâu kia còn rất trẻ. Ba đã vào phòng Truyền thống của E131, Hải Quân và nhìn lại gương mặt họ qua những tấm ảnh. Họ trẻ trung và trong sáng như thể còn ở tuổi học sinh Trung học. Ngay cả những người thuyền trưởng chỉ huy mới mang hàm cấp úy cũng còn trẻ trung, điệu đàng (nhưng đã quyết chiến dùng mọi hỏa lực sẵn có trên những chiếc tàu chỉ có chở đất, đá, bê tông ra xây đảo để bắn trả mãnh liệt vào tàu xâm lược và cho tàu phóng thẳng lên bãi cạn để đánh dấu chủ quyền)... Vậy mà họ đã nằm xuống vĩnh viễn dưới lòng biển. Họ nằm xuống trong khi ngăn chặn lính Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo với trang bị đến tận răng. Họ nằm xuống bởi họ là lính công binh Hải quân chỉ có quần đùi, mũ mềm và... tay không ra xây dựng đảo. Họ nằm xuống bởi họ không được "lệnh" từ 1 nơi bí ẩn, nghiêm mật giữa đô thị đầy ánh sáng và no đủ: "Chỉ được ngăn chặn bằng biện pháp mềm dẻo, không được kháng cự, đánh trả"... Dĩ nhiên, da thịt của họ chẳng phải là sắt thép, để chịu đựng những nhát đâm điên cuồng bằng dao găm, lưỡi lê. Gân cốt họ cũng chẳng phải titan để chống lại đạn nhọn của đám lính Trung Quốc điên cuồng xiết cò súng AK để sẵn ở nấc bắn liên thanh... Họ lần lượt nằm xuống, cùng nhau nằm xuống, như vẫn cùng nhau chia ngọt sẻ bùi trong những tháng ngày quân ngũ ít ỏi. Không nằm xuống sao được khi phải căng mắt nhìn lũ ăn cướp thản nhiên, thoải mái giết đồng đội mình và chính bản thân mình?.. Tháng 3-2008 ở Trường Sa, sau khi đã làm lễ truy điệu những cán bộ - chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đang nằm dưới vùng biển Gạc Ma - Cô Lin, Ba và những đồng đội của Ba đã tràn ra hết mũi tàu, 2 bên boong tàu lặng nhìn xuống biển xanh nhớ thương những người con đất Mẹ và không ai bảo ai, tất cả đều quay mặt nhìn về tòa nhà cao vài tầng sừng sững của lính Trung Quốc chiếm đóng trên đảo chìm đã chiếm của ta. Lúc ấy, ánh mắt của ai cũng rất lạ, từ Trung tướng Trưởng đoàn công tác cho đến cô Hạ sĩ đoàn văn công Quân khu 4. Ai cũng ráo hoảnh, chong mắt nhìn tàu địch - công sự của địch chứ không rưng rưng nước mắt khi những bó hương dành cho liệt sĩ cháy bùng lên, cuộn khói bay vòng tròn như những dấu hỏi... Lúc ấy, ba càng thấm thía về Tổ quốc trong tim và Ba đã viết "Viết cho con từ Trường Sa" ngay trong khoang tàu, trong giàn giụa nước mắt, không hiểu con đã đọc trên Blog của Ba chưa ?.. Tháng 3-1988: Lúc ấy Ba đã học lớp 11. Cái buổi chiều đông ngày hôm ấy, Ba cùng ông Nội đã sững sờ khi nghe cô phát thanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam đọc chậm danh sách những cán bộ - chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam hy sinh và mất tích trong khi bảo vệ chủ quyền Tổ quốc tại vùng biển Cô Lin - Gạc Ma. Không thể diễn tả cảm xúc lúc ấy, chỉ biết rằng, đến bây giờ hình như vẫn còn nguyên trong Ba: Uất ức - bức bối như thể có tảng đá đang đè trên ngực (Cảm giác này càng nhân lên gấp bội và thành ám ảnh khi Ba ra với Trường Sa). Ngay sáng ngày hôm sau, cái lớp 11B3 của Ba ngày ấy đã không thể học được và hết thảy, những thằng con trai trong lớp đã làm đơn tình nguyện đi bộ đội, cùng con trai các lớp khác kéo đến đứng đen đặc, câm lặng trước phòng thầy Hiệu phó cũng đang đỏ hoe mắt vì có con trai đang đóng quân trên quần đảo Trường Sa. Con có biết không? Ở gần nhà bà Nội mình có 1 dãy núi, gọi là núi Xuân Sơn, cạnh núi có 1 đoàn 679 của Quân chủng Hải quân đóng và trong dãy núi đó có rất nhiều hầm để bộ đội chứa tên lửa đất đối hải. Thi thoảng, những chiếc xe hàng vài chục bánh lại phun khói chở những ống tên lửa khổng lồ đi đâu đó. Hồi ấy, Ba và các bạn rất muốn vào bộ đội tên lửa Hải quân để điều khiển những quả tên lửa bắn nát tàu Trung Quốc... Tháng 2 năm 2009 này: Tròn 30 năm ngày Trung Quốc cho quân bất ngờ tấn công dọc tuyến biên giới nước ta; gần tròn 21 năm Trung Quốc cho quân đánh chiếm một số đảo chìm, bãi cạn của Tổ quốc ta trên quần đảo Trường Sa. Ngày Tình yêu 14-2,ngày Thứ 7. Ba không đưa con đi mua quà tặng cho mẹ Hằng mà ngồi từ trưa đến tối để vào mạng, đọc những dòng của các ông - các bác cựu binh viết về sự kiện tháng 2-1979 và tháng 3-1988. Đọc xong để viết những dòng này cho con và mẹ Hằng cùng những bạn bè của Ba đang ấm cúng bên vợ - người yêu - người tình bên nến hồng, rượu vang. Viết để nhớ một thời bao người đã đổ máu, góp xương cho mỗi tấc đất biên cương nơi xa hút. Sau này, con có đi Lạng Sơn sắm đồ Tàu, lên Trùng Khánh - Cao Bằng ăn hạt dẻ, ngắm thác Bản Giốc, lên Hà Giang tắm nước nóng Thanh Thủy, lên Lào Cai nghỉ ở Sa Pa, lên Lai Châu tắm thuốc người Dao, ngắm ruộng bậc thang, xem hoa Ban đầu xuân, ra Trường Sa câu cá chuồn đêm trăng... Con hãy nhẹ chân và vào nghĩa trang liệt sĩ thắp hương cho các ông, các bác, các chú đã nằm xuống trong những năm tháng chống giặc xâm lược Trung Quốc trên những vùng đất yên thương của TỔ QUỐC mình con nhé!.. Hà Nội, 21 giờ ngày 14-2-2009 Thành viên Mai Thanh Hai (trích đăng trong website của Trung Tâm Dữ Liệu Hoàng Sa - Diễn đàn HS)
  22. Trung Quốc có dám ....không ? Đinh Kim Phúc 1. Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là điều thiêng liêng của mỗi dân tộc. Biên giới của mỗi quốc gia là biểu hiện của nền độc lập dân tộc bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia đó. Quốc gia bao hàm trong nó 3 vấn đề lớn: dân tộc, chủ quyền và lãnh thổ. Biên giới luôn luôn gắn liền với lãnh thổ nên luật pháp và tập quán quốc tế thừa nhận tính bất khả xâm phạm của biên giới quốc gia. Biên giới được định nghĩa theo khía cạnh chủ quyền là “cái khung” của chủ quyền. Do đó, việc bảo vệ biên giới cũng chính là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ chống lại mọi hình thức ngoại xâm. Trong lịch sử hình thành của thế giới, từ thời cổ đại đến thời hiện đại đã xảy ra hàng trăm cuộc tranh chấp biên giới giữa các quốc gia. Nguyên nhân của những cuộc tranh chấp đó có rất nhiều nhưng nguyên nhân chính vẫn là những tham vọng về đất đai. Chúng ta hãy thử nhìn ra trên phạm vi toàn thế giới: Các quốc gia trên bán đảo Balkan đã xảy ra nội chiến triền miên, gây thiệt hại biết bao nhiêu tài sản và sinh mạng cũng vì tranh chấp biên giới lãnh thổ. Israel và Palestin cũng xảy ra tranh chấp lãnh thổ hàng nửa thế kỷ mà vẫn chưa đi đến kết quả cuối cùng cho tiến trình hòa bình ở Trung Đông. Hay giữa Chile và Argentina đã liên tục xảy ra tranh chấp lãnh thổ ở vùng núi Andes. Mãi đến năm 1902 thì hai nước mới đạt được một hiệp ước ngừng bắn và cùng quyết định đem tất cả đại bác trong cuộc chiến đúc thành bức tượng Chúa Jesus khổng lồ cho nhân dân hai bên biên giới cùng nguyện cầu cho hòa bình và hai nước đã cam kết không đánh nhau nữa. Thế nhưng chỉ 9 năm sau đó lại nổ ra một cuộc tranh chấp khác. Đến năm 1966 lại ký kết một hiệp ước nhưng vẫn không chấm dứt đươc tranh chấp. Những diễn biến hiện nay ở khu vực Đông Âu, Trung Đông, Nam và Đông Nam Á… đã cho chúng ta thấy rõ vấn đề biên giới là rất nhạy cảm và là nguyên nhân chính dễ dẫn đến bùng nổ tranh chấp. Loài người chúng ta, từ thời xa xưa, đã biết xử dụng biển làm nguồn cung cấp muối ăn và một phần thực phẩm cho mình trong mối giao lưu ven bờ biển của một quốc gia hay rộng hơn là giữa các quốc gia trong khu vực. Khoảng 2.000-3.000 năm trước Công nguyên, đảo Grete chỉ rộng hơn 8.000km2 nhưng đã biết tận dụng và phát huy ưu thế của biển nên đã trở thành một quốc gia phồn vinh với một nền văn minh rực rỡ. Liên bang biển Athenes đã xuất hiện từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên với trung tâm của nó là hòn đảo Delos chỉ rộng có 3 km2. Do đã thực hiện chế độ miễn thuế nên Delos đã trở thành một trung tâm thương mại ở vùng Địa Trung Hải. Cho đến ngày nay trên biển và trên đại dương đã trải qua hai thời kỳ biến chuyển mang tính toàn cầu. Thời kỳ thứ nhất: Bắt đầu từ thế kỷ XV với những phát kiến địa lý vĩ đại, trong đó có sự kiện Christophe Colomb tìm ra Châu Mỹ vào năm 1492 đã dẫn tới sự bành trướng như vũ bão của các nước tư bản Châu Âu trên các đại dương khiến cho nền kinh tế thế giới đã phát triển một bước nhảy vọt hình thành nên một thị trường thế giới duy nhất. Các đế quốc Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đã trở nên hùng mạnh và phồn vinh là do họ đã biết tận dụng ưu thế của biển để đi xâm chiếm các thuộc địa. Thời kỳ thứ hai: Bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới thứ hai với đặc trưng là con người đã quan tâm nhiểu đến biển trước nhu cầu của con người và trước sự phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt là khoa học kỹ thuật biển. Giáo sư người Pháp, Yves Lacoste đã viết: “Trước đây hàng trăm, hàng ngàn năm các quốc gia chỉ tranh nhau các vùng đất nổi, nhưng ngày nay các nhà nước cố gắng mở rộng tối đa chủ quyền trên biển và trên các đại dương. Trên các bản đồ, các đường biên giới được vạch qua màu xanh của biển, các vùng yêu sách đôi khi ra tới hàng ngàn ki-lô-mét cách bờ; ngay cả Bắc Băng Dương, người ta cũng cãi cọ nhau về các quyền lịch sử đối với mõm đá bốn bề sóng vỗ”. Thật vậy, ngày nay con người đã coi biển và đại dương là niềm hy vọng của loài người, là nguồn cung cấp vô hạn thức ăn, nguyên liệu và năng lượng cho con người một khi mà dân số trên trái đất này ngày một tăng cao mà tài nguyên trong lòng đất lại ngày càng cạn kiệt. Một học giả người Mỹ đã viết: “Chúng ta đang ở vào một buổi bình minh của thời đại mới: thời đại biển”.Có lẽ vì thế mà con người đã, đang và ngày càng quan tâm nhiều đến biển thậm chí tham vọng của họ còn hướng tới cả những hải đảo ở xa tít ngoài khơi. Năm 1955, Nữ hoàng Anh đã ra lệnh cắm cờ và dựng bia chủ quyền tại Rock All là một mõm đá rộng 3m2 cách nước Anh 200 hải lý và đến năm 1977, bà đã ra lệnh cho một viên sĩ quan hải quân Anh ra sống ở đó trong một tiềm thủy cầu được buộc vào đá Rock All trong vòng 40 ngày để nước Anh có cơ sở tuyên bố rằng trên Rock All đã có thần dân Anh sinh sống và do đó Rock All là thuộc chủ quyền của Anh và nó hoàn toàn có quyền có vùng đặc quyền kinh tế. Nhật Bản đã bỏ ra khoảng 200 triệu Mỹ kim để xây dựng một công trình bảo vệ bãi đá Okinotorishina chỉ rộng mấy mét vuông ở ngoài khơi Thái Bình Dương, cách nước Nhật 1.700km. Cuối thế kỷ XIX, những cuộc khảo sát biển của nước Anh phát hiện dưới đáy biển, bên ngoài lãnh hải, có một phần đất rộng lớn tiếp giáp đất liền, có nước biển phủ lên trên, nhưng chưa xác định cụ thể nó là gì? Giá trị của nó đối với đời sống của người ra sao? Năm 1916, nước Nga thông báo với thế giới rằng: một số đảo mới phát hiện ở phía Bắc Siberi là “phần kéo dài về phía Bắc thềm lục địa Siberi”. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “thềm lục địa” và cả khái niệm “phần kéo dài của thềm lục địa” được sử dụng. Ngày nay, khoa học xác định được rằng bên ngoài lãnh thổ của quốc gia ven biển cũng có một dải đất bằng phẳng, với kích thước khác nhau dưới đáy biển, có độ dốc rất thoải, dần dần đi xuống thấp cho đến một vùng rất sâu, gọi là “bình nguyên sâu thẳm”. Phần đáy biển trung gian giữa đất liền và bình nguyên sâu thẳm, đó chính là thềm lục địa. Tổng diện tích thềm lục địa bao quanh các châu lục lên đến khoảng 27.500.000 km2, bằng 8% diện tích đáy biển. Phân bổ rất không đồng đều giữa các nước ven biển do cấu trúc địa chất của các nước không giống nhau. Có nước hầu như không có (Colombia), hoặc có thềm lục địa hẹp các nước Ảrập, châu Phi). Có nước có thềm lục địa rộng bao la (Hoa Kỳ, Nga, Canada, Ireland, Argentina, Australia, Srilanka...). Hai nguyên tắc cơ bản về luật biển, hình thành từ thế kỷ XVIII, không còn phù hợp (lãnh hải rộng 3 hải lý và tự do biển cả). Xuất hiện xu hướng mở rộng tối đa quyền tài phán quốc gia ra các vùng biển nhằm mục đích xác định chủ quyền đối với tài nguyên sinh vật và không sinh vật, tăng cường vị thế nước ven biển trong khu vực và trên thế giới. Hoa Kỳ là nước đầu tiên nêu yêu sách về thềm lục địa. Tháng 9 năm 1945, Tổng thống Hoa Kỳ Truman tuyên bố: Chính phủ Hoa Kỳ coi các tài nguyên của lòng đất dưới đáy biển thuộc thềm lục địa là thuộc về Hoa Kỳ và đặt dưới quyền tài phán và kiểm soát của mình. Một số nước Mỹ Latinh cũng đơn phương tuyên bố mở rộng các vùng biển quốc gia đến 200 hải lý. Trong khi đó Anh vẫn bám giữ lập trường đã lỗi thời về chiều rộng lãnh hải bằng 3 hải lý... Hai hội nghị lần thứ nhất (1958) và thứ hai (1960) của Liên hợp quốc về Luật biển đã thất bại trong việc xây dựng một công ước quốc tế toàn diện, quy định chế độ pháp lý quốc tế mới đối với các vùng biển quốc gia và đại dương, đáp ứng lợi ích chính đáng của các nước. Tình hình đó làm gia tăng mâu thuẫn quyền lợi chiến lược kinh tế - quốc phòng giữa các nước ven biển và không có biển, các nước có công nghệ cao về khai thác độ sâu đáy biển và đại dương, các nước có bờ biển tiếp giáp hoặc đối diện nhau trong việc phân định thềm lục địa. 2. Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển (United Nations Convention on the Law of the Sea -UNCLOS), cũng gọi là Công ước Luật biển hay cũng được những người chống đối nó gọi là Hiệp ước Luật biển, là một hiệp ước quốc tế được tạo ra trong Hội nghị về luật biển Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 cho đến 1982 với các chỉnh sửa đã được thực hiện trong Hiệp ước thi hành năm 1994. Công ước Luật biển là một bộ các quy định về sử dụng các đại dương của thế giới, chiếm 70% diện tích bề mặt trái đất. Công ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã hết hạn. UNCLOS có hiệu lực năm 1994, và đến nay, hơn 150 quốc gia và Cộng đồng châu Âu đã tham gia Công ước này. Hoa Kỳ không tham gia vì nước này tuyên bố rằng hiệp ước này không có lợi cho kinh tế và an ninh của Hoa Kỳ. Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý các tài nguyên thiên nhiên đại dương. Các sự kiện mà thuật ngữ đề cập trong Công ước là: Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 1, Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 2, Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 3. Công ước này là kết quả của Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 3 và cũng mang tên gọi Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc. Trong khi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc nhận được các công cụ phê chuẩn và gia nhập và Liên Hiệp Quốc quy định ủng hộ các cuộc họp của các quốc gia là thành viên của Công ước thì Liên Hiệp Quốc không có vai trò hoạt động trong việc thi hành Công ước này. Tuy nhiên các tổ chức liên chính phủ tự trị như: Tổ chức Hàng hải Quốc tế, Ủy ban Cá voi Quốc tế và Cơ quan quản lý Đáy biển Quốc tế được Công ước này thành lập lại có một vai trò trong việc thực thi Công ước. UNCLOS đã tỏ ra cần thiết do tính pháp lý yếu của ý niệm “quyền tự do về biển”có từ thế kỷ XVII: quyền của các quốc gia đã bị giới hạn trong một vành đai lãnh hải mở rộng ra từ các bờ biển của quốc gia đó, thường là 3 hải lý, theo quy định phát đạn pháo được thẩm phán người Hà Lan Cornelius Bynkershoek phát triển. Tất cả các lãnh hải nằm ngoài biên giới quốc gia được xem như lãnh hải quốc tế - tự do cho tất cả các quốc gia, nhưng không thuộc quốc gia nào cả (nguyên tắc mare liberum được Grotius công bố). Đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia biểu lộ ý muốn mở rộng quyền tuyên bố chủ quyền quốc gia nằm đưa các nguồn tài nguyên khoáng sản, bảo vệ nguồn cá và có các phương tiện để thực thi kiểm soát ô nhiễm. Hội Quốc Liên đã tổ chức một hội nghị năm 1930 tại Hague để bàn về điều này, nhưng hội nghị không đạt được thỏa thuận nào. Một quốc gia phản ánh nguyên tắc luật bất thành văn quốc tế về quyền một quốc gia để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của mình là Hoa Kỳ, khi năm 1945, Tổng thống Harry S. Truman đã mở rộng sự kiểm soát quốc gia trên các tài nguyên thiên nhiên ở trong thềm lục địa của mình. Các quốc gia khác cũng nhanh chóng ganh đua theo Hoa Kỳ. Giữa năm 1946 và 1950, Argentina, Chile, Peru và Ecuador đều nới rộng chủ quyền của mình ra khoảng cách 200 hải lý nhằm bao quát cả ngư trường trong hải lưu Humbol của họ. Các quốc gia khác đã nới rộng vùng lãnh hải đến 12 hải lý. Đến năm 1967, chỉ có 25 quốc gia vẫn sử dụng giới hạn 3 hải lý, 66 quốc gia đã quy định giới hạn lãnh hải 12 hải lý và 8 quốc gia đưa ra giới hạn 200 hải lý. Nhìn bảng các tuyên bố hàng hải được Liên Hiệp Quốc biên tập, chúng ta thấy rẳng đến ngày 27 tháng 7 năm 2007, chỉ có vài nước sử dụng giới hạn 3 hải lý là (Jordan, Palau và Singapore). Giới hạn 3 hải lý này cũng được sử dụng ở một số đảo của Australia, một khu vực của Belize, một vài eo biển của Nhật Bản, một vài khu vực của Papua New Guinea, và một vài lãnh thổ phục thuộc của Anh Quốc như Anguilla. Năm 1967, vấn đề về các tuyên bố khác nhau về lãnh hải đã được nêu ra tại Liên Hiệp Quốc. Năm 1973, Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 về Luật biển (Third United Nations Conference on the Law of the Sea) được tổ chức tại New York. Để cố gắng giảm khả năng các nhóm quốc gia thống trị đàm phán, hội nghị dùng một quy trình đồng thuận thay cho bỏ phiếu lấy đa số. Với hơn 160 nước tham gia, hội nghị kéo dài đến năm 1982. Kết quả là một công ước có hiệu lực từ ngày 16 tháng 11 năm 1994. Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển gồm 17 phần với 320 Điều, và 4 Nghị quyết kèm theo (các nghị quyết về: Ủy ban chuẩn bị cơ quan về đáy biển và Tòa án về Luật biển; Bảo vệ nguồn vốn đầu tư ban đầu trong giai đoạn hoạt động đầu tiên ở đáy biển; Các lãnh thổ bảo hộ; Các phong trào giải phóng dân tộc). Những điều khoản quan trọng nhất quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường biển, trạng thái biển đảo, và các chế độ quá cảnh, các vùng đặc quyền kinh tế, quyền tài phán thềm lục địa, khai khoáng lòng biển sâu, chính sách khai thác, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, và dàn xếp các tranh chấp. Đây là một văn kiện pháp lý quốc tế có tính chất tổng hợp toàn diện, bao quát tất cả các vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển và đại dương, đáp ứng lợi ích quốc gia dân tộc của tất cả các nước thành viên Liên Hiệp Quốc.Công ước Luật Biển năm 1982 được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ sau Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Việt Nam được mời tham dự Hội nghị Luật Biển từ khóa họp lần thứ 6 (tháng 3-7/1977), tức là trước khi được kết nạp vào Liên Hiệp Quốc. Việt Nam đã tích cực góp phần vào việc thương lượng để hoàn chỉnh dự thảo Công ước, là một trong những nước đầu tiên ký và phê chuẩn Công ước của LHQ về luật Biển năm 1982. Trong số 60 quốc gia đầu tiên ký kết đã có nhiều nước lớn như Brazil, Ai Cập, Indonesia, Mehico... Việt Nam cũng phê chuẩn một số Công ước biển chuyên ngành về Hàng hải quốc tế IMO, Công ước SOLAS về cứu hộ trên biển, London 1/11/1974, Công ước về mớn nước, Công ước MARPOL chống ô nhiễm tàu thuyền (Prevention of Pollution from Ships) ngày 2/11/1973 và phần bổ sung năm 1978 về phòng chống ô nhiễm biển. UNCLOS có ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam, là quốc gia có bờ biển dài trên 3.200km, tiếp giáp hoặc đối diện với nhiều nước láng giềng có biển và không có biển trong khu vực xung quanh biển Đông. UNCLOS đã xác nhận và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng biển và thềm lục địa phù hợp các tuyên bố ngày 12/5/1977 và 12/11/1982 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về các vùng biển Việt Nam, phù hợp chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam nhằm giải quyết những tranh chấp về các vùng biển và thềm lục địa với các nước láng giềng thông qua thương lượng hòa bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, phù hợp luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của LHQ về luật Biển năm 1982. Trên tinh thần đó, Việt Nam đã đàm phán giải quyết tốt đẹp việc phân định ranh giới vùng biển và thềm lục địa cũng như các vùng chồng lấn với hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á. Cho đến đầu thế kỷ thú XX, Trung Quốc vẫn là một quốc gia lục địa chưa quan tâm nhiều đến biển. Thế mà ngày nay, nhà nước Trung Quốc đã coi biển là “lối thoát” của dân tộc Trung Hoa để sinh tồn và phát triển và “Biển lịch sử” là một khái niệm mà nhà nước Trung Quốc dùng làm cơ sở cho ranh giới đường lưỡi bò chiếm 75% diện tích trên biển Đông (2,6 triệu km2). Đây là một khái niệm không hề tồn tại trong UNCLOS hay trong công pháp quốc tế về chủ quyền. Trên thực tế, ngoại trừ Trung Quốc, không có nước nào dùng khái niệm biển lịch sử và cũng không có nước nào chủ trương chiếm 2.6 triệu km2 trên biển. Trong lịch sử nhà nước Trung Quốc chưa hề tuyên bố chủ quyền trên vùng biển mà ngày nay họ cho là biển lịch sử của họ. Hởi “láng giềng hữu nghị” Trung Quốc, nếu 75% diện tích biển Đông là thuộc về “Quý quốc”, Trung Quốc có chấp nhận cùng Việt Nam gặp tại các nơi dưới đây không? - Tòa án Công lý quốc tế (tiếng Anh là World Court hay International Court of Justice). Tòa án này có thể xử tranh chấp giữa hai quốc gia nếu hai quốc gia này chấp nhận thẩm quyền của tòa án. - Tòa án luật biển Liên Hiệp Quốc (tiếng Anh là International Tribunal on the Law of the Sea). Tòa án này có thể xử tranh chấp trong UNCLOS nếu hai quốc gia có tranh chấp chấp nhận thẩm quyền của toà án. Ngoài ra, án lệ quốc tế còn phân xử tranh chấp lãnh thổ theo các nguyên tắc sau: Sự chiếm hữu lãnh thổ vô chủ theo luật quốc tế. Trong giai đoạn từ đầu thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, các nước Hà Lan, Anh, Pháp cũng phát triển dần trở thành cường quốc, bị đụng chạm quyền lợi, không chịu chấp hành sắc lệnh của Giáo Hoàng Alexandre VI ký ngày 4 tháng 5 năm 1493 xác định nguyên tắc phân chia các vùng lãnh thổ mới phát hiện ngoài Châu Âu. Từ thực tế này, các nước đã tìm ra nguyên tắc mới về thiết lập chủ quyền trên những vùng lãnh thổ mà họ phát hiện. Đó là thuyết “quyền ưu tiên chiếm hữu” một vùng lãnh thổ thuộc về quốc gia nào đã phát hiện ra vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Đó chính là thuyết “quyền phát hiện”. Trên thực tế, việc phát hiện như trên chưa bao giờ tự nó đem lại cho quốc gia phát hiện chủ quyền lãnh thổ vì rất khó xác định chính xác thế nào là phát hiện, xác nhận việc phát hiện và xác định giá trị pháp lý của việc phát hiện ra một vùng lãnh thổ. Vì thế việc phát hiện đã mau chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu vết trên vùng lãnh thổ mà họ phát hiện. Sau hội nghị Berlin về châu Phi năm 1885 của 13 nước Châu Âu và Hoa Kỳ và sau khóa họp của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne ( Thụy Sĩ) năm 1888, nguyên tắc chiếm hữu thật sự trở thành quan điểm chiếm ưu thế trên thế giới. Điều 3, điều 34 và 35 của Định ước Berlin ký ngày 26 tháng 6 năm 1885 xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các điều kiện chủ yếu để có việc chiếm hữu thật sự như sau: - “Phải có sự thông báo về việc chiếm hữu cho các nước ký định ước trên”. - “Phải duy trì trên những vùng lãnh thổ mà nước ấy chiếm hữu sự tồn tại của một quyền lực đủ để khiến cho các quyền mà nước ấy đã giành, được tôn trọng…”. Tuyên bố của Viện Pháp luật quốc tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh “mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên một danh nghĩa sở hữu độc quyền… thì phải là thật sự tức là thực tế, không phải là danh nghĩa”. Chính tuyên bố trên của Viện Pháp luật quốc tế Lausanne đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu thật sự của định ước Berlin có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế chứ không chỉ có giá trị với các nước ký định ước trên. Nội dung chính của nguyên tắc chiếm hữu thật sự là : 1.Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành. Tư nhân không có quyền thiết lập chủ quyền lãnh thổ vì tư nhân không có tư cách pháp nhân quốc tế, vì quan hệ quốc tế là quan hệ giữa các quốc gia. 2. Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ thật sự là vô chủ (res nullius) hoặc là đã được quốc gia làm chủ chủ động từ bỏ (derelicto). Dùng võ lực để chiếm một vùng lãnh thổ đã có chủ là một hành động phi pháp. 3. Quốc gia chiếm hữu trên thực tế phải thực hiện những hành động chủ quyền ở mức độ tối thiểu phù hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó. 4. Việc thực hiện chủ quyền phải liên tục trên vùng lãnh thổ đó. Ngày 10 tháng 9 năm 1919, công ước Saint Germain đã được các cường quốc lúc bấy giờ ký tuyên bố hủy bỏ định ước Berlin năm 1885 với lý do là trên thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa và như thế nguyên tắc chiếm hữu thật sự không còn giá trị pháp lý nữa. Song do tính hợp lý của nguyên tắc này, các luật gia trên thế giới vẫn vận dụng nó khi phải giải quyết các vụ tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. Như phán quyết của tòa án trọng tài thường trực quốc tế La Haye tháng 4 năm 1928 về vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Hoa Kỳ và Hà Lan, phán quyết của toà án quốc tế của Liên Hiệp Quốc tháng 11 năm 1953 về vụ tranh chấp các đảo Minquiers và Écrehous giữa Anh và Pháp. Ngày nay theo luật quốc tế, sự chiếm hữu lãnh thổ phải bao gồm cả hai yếu tố vật chất và tinh thần. Yếu tố vật chất được thể hiện qua việc chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền trên lãnh thổ đó. Điều này có nghĩa là quốc gia chiếm hữu phải có sự hiện diện thường trực trên lãnh thổ được chiếm hữu, và phải có những hoạt động hoặc những hành vi có tính quốc gia đối với lãnh thổ đó. Sự hành xử chủ quyền phải có tính liên tục. Còn yếu tố tinh thần có nghĩa là quốc gia phải có ý định thực sự chiếm hữu mảnh đất đó. Phải hội đủ hai yếu tố vật chất và tinh thần trên thì sự chiếm hữu mới có hiệu lực. Và sự từ bỏ lãnh thổ cũng phải hội đủ cả hai yếu tố: vật chất, tức là không hành xử chủ quyền trong một thời gian dài, và tinh thần, tức là có ý muốn từ bỏ mảnh đất đó. Phải hội đủ cả hai yếu tố: từ bỏ vật chất và từ bỏ tinh thần thì lãnh thổ đó mới được xem như bị từ bỏ, và trở lại quy chế vô chủ. Ngoài phương pháp chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền (occupation và effectivité), một quốc gia cũng có thể thụ đắc chủ quyền qua những phương pháp khác như chuyển nhượng (cession), thời hiệu (prescription), củng cố chủ quyền bằng danh nghĩa lịch sử (consolidation par titre historique),… Phương pháp “củng cố chủ quyền bằng danh nghĩa lịch sử” được áp dụng nếu quốc gia đã sử dụng lâu đời một lãnh thổ khác mà không có phản đối của một quốc gia nào khác. Những tiêu chuẩn trên đã được áp dụng thường xuyên bởi án lệ quốc tế, trong những bản án về tranh chấp đảo Palmas, đảo Groenland, đảo Minquier và Ecrehous… Trung quốc có dám không ? Đinh Kim Phúc - Ngày đăng: 5.7.2009 (theo vanchuongviet.org)
  23. Ui, hôm qua TP viết lộn đoạn này, hì, xin đính chính thêm là : Bạn TrangPhan, Đồng ý với bạn là chúng ta Không có cái gì để gọi là "nhục" cả, tôi chưa bao giờ tự ti mình là người VN mà ngoài ra còn có rất nhiều bạn bè nước ngoài, nhưng thực sự dưới con mắt của một số nước, ít nhất ở phạm vi những nước Đông Nam Á có GDP phát triển hơn VN, thì họ vẫn chưa có cái nhìn đúng đắn về VN, họ cứ làm như ở VN ý thức của người dân đối với môi trường và di sản là con số 0 vậy (mặc dù riêng về vấn đề này ở ta còn nhiều việc phải làm, vẫn còn nhiều những "con sâu làm rầu nồi canh"). Đến giờ này mà vẫn còn có người cho rằng VN là một nước "không có di sản văn hóa" và ý thức trong cộng đồng xã hội thì "tùy tiện nhất thế giới" đấy. Câu chuyện tôi kể ở trên về đòan du khách VN sang du lịch Malaysia là có ý như vậy. À mà cũng xin kể một câu chuyện thế này nữa : tôi có quen một anh bạn người Mỹ làm việc ở 1 công ty đầu tư lớn ở TPHCM, tôi quen anh ta một cách rất tình cờ mà lỗi đầu tiên là do ... tôi. Hôm đó tôi ra đường lúc sáng sớm (khoảng gần 5h sáng), theo thói quen đường vắng thì cứ phóng ào ào và chẳng quan tâm gì đến đèn giao thông, đang vi vu thì khi đến một đoạn ngã tư bất chợt gặp một ông khách băng ngang đường theo lối người đi bộ, tôi liền thắng "kít" sát mép lằn ranh, ông khách chợt giật mình lùi lại và nhìn tôi ngạc nhiên, tôi liền chào "Good morning" rồi đưa tay ra hiệu rằng ông ấy cứ việc đi qua ... :rolleyes: Và chúng tôi quen nhau từ lúc đó sau chầu cà phê buổi sáng, lúc ấy ông ta có nói chuyện là "Giao thông ở VN kinh thật nhỉ !", tôi đáp "Vâng, giao thông ở VN là lộn xộn có trật tự", và ông ta phá ra cười. Chuyện đó xảy ra đã lâu rồi, sau này người đó vẫn thường xuyên qua lại VN và ngày càng hiểu VN hơn. Vài lời mạn đàm cho cuộc sống thêm phần màu sắc. :rolleyes:
  24. Ngẫm lại thì bạn xuquang nói đúng đấy, dù không phải hoàn toàn. Tôi có một anh bạn thường xuyên qua lại bên Trung Quốc làm ăn, theo lời anh ta kể thì người Trung Quốc quả là có tinh thần dân tộc rất cao, đừng nói là chỉ ở những khách sạn cao cấp mới có nhiều nhân viên biết tiếng Anh (các KS thường rất ít hoặc thậm chí nhiều KS nhân viên hoàn toàn không biết tiếng Anh) mà ngay cả khi ta lưu trú ở những khách sạn này tốt nhất cứ nên giao tiếp tiếng Hoa nếu muốn chiếm được cảm tình của họ (dĩ nhiên là ta phải biết nói vài câu tiếng Hoa tối thiểu). Nhất là hồi năm ngoái có sự kiện động đất ở Tứ Xuyên, đi đến đâu cũng nghe lời kêu gọi quyên góp, du khách thập phương đến cũng có được lời đề nghị thêm khoản đóng góp này trong hóa đơn tính tiền. Còn ở hải ngoại thì khỏi nói, chúng ta đã nghe nhiều về việc người Hoa đi đến bất cứ nơi nào trên thế giới mà tìm được cộng đồng của họ thì chắc chắn sẽ không "chết" được, họ sẽ được giúp đỡ mọi mặt từ cộng đồng của họ, người ta hay ví von là "ở đâu có khói thì ở đó có người Hoa" mà. Còn về cách nhìn của các nước đối với người Việt ta thẳng thắn mà nói, theo lời cô em ruột tôi từng học tập và làm việc ở một nước Đông Âu cho biết, thì vẫn còn ... "nhục" lắm. Cứ đi đến khu vực nào cũng bị chính quyền sở tại săm soi đủ thứ, nhất là khi di chuyển sang một nước khác qua trung gian một nước thứ ba, vì họ cho rằng cứ sang được các nước giàu sẽ tìm cách trốn và không trở lại nữa, chẳng hạn như : "Sang đó làm gì ? Có người thân bên đó không ? Gia đình có bao nhiêu người ? Bao lâu thì trở lại ? ..." toàn những việc liên quan đến đời tư; còn công việc làm ăn buôn bán thì hay ... trốn thuế, ... Trong lĩnh vực du lịch, xin kể một câu chuyện bức bối của một đoàn du khách VN sang tham quan Malaysia, theo lệ thường thì khi du khách quốc tế đến địa phương nào thì phải do hướng dẫn viên nước sở tại hướng dẫn và điều hành, sẽ không có gì phàn nàn nếu anh hướng dẫn viên người Malaysia này ca ngợi những danh lam thắng cảnh và ý thức văn hóa của người dân sở tại đối với tài nguyên môi trường của đất nước họ nếu như anh ta không cứ thêm vào sau mỗi câu đại loại như "khác với ở bên Việt Nam ...". Thú thật, nhiều người đi về trút mọi bực dọc với tôi là : "Nếu anh này mà sang VN gặp tớ thì biết tay", ... Tâm sự vài dòng như vậy để nhìn thẳng vào vấn đề chứ phải để tự ti.