Trần Phương

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    449
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Trần Phương

  1. Kính thưa quý vị quan tâm đến cội nguồn văn hóa sử dân tộc. Hôm nay lướt web tôi vô tình tìm được bài văn này của GS Trần Quốc Vượng. Bài viết được thực hiện hồi năm 2002 và được đăng trên bản tin của ĐHQG Hà Nội. Xin chép toàn bộ nội dung của bài viết lên đây giới thiệu cùng quý vị, hi vọng sẽ cho thấy rõ hơn vì sao giới sử học chuyên ngành lại chỉ tính thời điểm lập quốc đầu tiên của nước ta chỉ vỏn vẹn trong giới hạn ở đồng bằng sông Hồng (!) TP. ------------------------- Trung thực và dũng cảm - lời thề chung cho các nhà sử học Tại hội nghị bàn về phương hướng xây dựng giáo trình Lịch sử Việt Nam và Lịch sử Văn hóa Việt Nam, GS. Trần Quốc Vượng đã trình bày một bản báo cáo vô cùng tâm huyết, hết sức sâu sắc và đầy tinh thần trách nhiệm của một nhà khoa học, một nhà giáo dục đầu ngành... Ngày 24 - 25/6/2002, trong khuôn khổ thực hiện đề tài độc lập cấp Nhà nước về Lịch sử Việt Nam do PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc - Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV làm chủ nhiệm, Hội nghị đã được tổ chức. Tại hội nghị bàn về phương hướng xây dựng giáo trình Lịch sử Việt Nam và Lịch sử Văn hóa Việt Nam, GS. Trần Quốc Vượng đã trình bày một bản báo cáo vô cùng tâm huyết, hết sức sâu sắc và đầy tinh thần trách nhiệm của một nhà khoa học, một nhà giáo dục đầu ngành. Từ đó đến nay, PGS. Nguyễn Quang Ngọc vẫn giữ bản báo cáo này như một "bảo bối" cho toàn bộ quá trình triển khai bộ "Lịch sử Việt Nam" 4 tập mà trong đó GS. Trần Quốc Vượng cũng là một tác giả. Bản tin ĐHQGHN xin trân trọng giới thiệu bài viết này như một lời căn dặn của người quá cố về một thái độ dũng cảm và trung thực trong khi viết về lịch sử. 1. Mỗi giáo trình đại học theo đúng nghĩa phải là một công trình nghiên cứu khoa học chất lượng cao. Chất lượng cao là gì? ở những phần sau sẽ nói, nhưng ở đây cần nói ngay rằng toàn bộ và trong từng phần cuốn sách nó phải là một công trình suy tư - nghiên cứu đã nhiều năm đau thiết của một/ những giảng viên đại học có nhân cách khoa học (Personnalité) được xã hội trí thức trong ngoài nước thừa nhận, tuy vẫn có thể được tranh cãi. Tất nhiên là nó phải có tính sư phạm với văn phong khá trường quy. 2. Thời đại mà tất cả các trường đại học trong nước chỉ dùng một giáo trình duy nhất đã qua rồi!. Kinh nghiệm giáo trình "Lịch sử Việt Nam" là vậy, và giáo trình "Cơ sở văn hoá Việt Nam" cũng là vậy. Cái ta sẽ viết là giáo trình cho ĐHKHXH&NV- trước hết là cho Khoa Sử của ĐHQGHN. Thế thì và nhất là ở thời buổi "đổi mới" hiện nay, ta chẳng ngần ngại gì mà không thừa nhận tính trường phái của giáo trình do Khoa Sử biên soạn, thậm chí tính cạnh tranh trong khoa học, dù ai đó có thể phê phán chúng ta là có tính đố kỵ hay thậm chí là tính biệt phái - hay bè phái. Miễn là từ tâm - óc, chúng ta trung thực và hoàn toàn tự nguyện tuân thủ phương pháp luận sử học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa macxit sáng tạo và tư tưởng Hồ Chí Minh sáng tạo và hội nhập với trào lưu sử học tiến bộ của Loài người từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, theo cách ta Học - Hỏi - Hiểu - Hành. Chẳng hạn như, nếu cấp trên giao cho tôi chủ biên giáo trình "Lịch sử Văn hoá Việt Nam" dùng cho Khoa Sử trường ĐHKHXH&NV - ĐHQGHN, tôi phải có quyền lựa chọn các cộng tác viên trong ngoài trường cùng "gu sử học" với tôi. Nếu không, tôi xin đứng ngoài, không thắc mắc gì và chỉ làm những cái gì và với ai mà tôi thích. Trong trường hợp đó xin chớ phê phán tôi là cá nhân, tiêu cực. Trước mắt tôi là con đường về hưu, hưởng thú thanh nhàn cho đến khi từ giã cõi đời giả tạm này. 3. Chúng ta sẽ viết giáo trình chất lượng cao, để đời. Đời sống của nó là một vài chục năm, cứ cho rằng tới khoảng 2020 sẽ "lạc hậu", quá thời. Và sẽ có một thế hệ khác viết lại. "Il a fait son temps" là một thành ngữ Pháp có tính phổ quát cho mỗi nhà khoa học, cho mỗi công trình khoa học. 3.1. Khối tư liệu dùng để biên soạn nên nó phải phong phú - đa dạng, có tính cập nhật cao. Như thế, đòi hỏi mỗi người viết sách giáo trình phải cập nhật cao, với trong nước và với quốc tế. Thí dụ về trước Công nguyên, tôi phải đưa vào giáo trình bài "Việt ca" và một bài thơ có nhắc đến Âu Việt - Lạc Việt cùng sự giải mã của học giả Nhật, học giả Trung Hoa và học giả Việt Nam (tuy họ giải mã khác nhau) cũng như tôi phải đưa vào các tài liệu khảo cổ hữu thể sưu tầm được cho đến 2002 (Lung Leng, Eo Bồng, Trà Kiệu, Lý Nhân, Cần Giờ, Domea...). 3.2. Không chỉ hiện đại về tư liệu mà tôi phải xử lý mối quan hệ biện chứng giữa Phá bỏ - Bảo tồn - Sáng tạo. Đừng mong hòng một cách ảo tưởng rằng Sử học là một khoa học tuyệt đối khách quan, phát hiện ngay được những quy luật khách quan của sự Vận động lịch sử. Có Histoire-Réalité và tôi không phải là một kẻ làm sử (Faire Histoire) hư vô chủ nghĩa (annihiliste) hay thực chứng (positiviste). Nhưng cái đó nói như Giáo sư Sử học lớn J.Furet - người tổng kết 200 năm lịch sử cách mạng Pháp (1789-1989) - luôn luôn còn ở phía chân trời của mỗi nhà sử học chân chính. Với đầy lòng kính trọng của một kẻ hậu tử với bậc tiền bối, tôi buộc mình không dối lòng khi nói rằng cụ Trường Chinh chưa phải là người tổng kết lịch sử Cách mạng tháng 8/1945 hay nhất, đúng nhất. Cụ Tảo Trang viết tặng tôi đôi câu đối của đức Phan Bội Châu : “Hậu tử thường đa tân tuế nguyệt Tiền trình bất thị ác phong vân." Tôi vô cùng cảm ơn nhưng vẫn để đấy để ngẫm suy. Trước mắt chúng ta vẫn chỉ có - và chỉ có thể có - cái Historie Conxience. Lịch sử gắn liền với nhà sử học, với nhân cách và nhận thức của họ. Viện sĩ Mounier, trong công trình De la connaissane Historique bảo: nhà sử học viết sử cũng chỉ như nhà hoạ sĩ vẽ chân dung (Portraitriste)! Hoạ sĩ vẽ chân dung tôi - một hiện thực khách quan đối với ông ta - nhưng cũng đồng thời họ vẽ chân dung họ, theo cách họ hiểu về tôi. Tôi vừa được đọc một tài liệu mới nhất: Học thuyết Tương đối luận của A.Einstein cũng chỉ là tương đối mà thôi !. Vì vậy mà hơn một chục năm trước, tôi đã viết bài "Giải ảo hiện thực Đống Đa” và năm nay tôi đã và sẽ viết bài "Giải ảo hiện thực Đồng Đậu” cùng bài "Giải ảo hiện thực núi Đá Bia" (Phú Yên). Tôi không muốn là kẻ quấy nhiễu sân cỏ lịch sử như Neuville quấy nhiễu sân cỏ World cup Korea - Japan. Số phận tôi là vậy và tôi buộc phải "đảm đương thân phận”- nói kiểu Từ Chi ! Chẳng hạn, tôi mong các nhà sử học - bạn tôi hãy suy nghĩ và viết lại - chí ít dưới khía cạnh "Lịch sử văn hoá Việt Nam” - về Triệu Đà (Lê Văn Hưu, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh có viết như ta trong các giáo trình thập kỷ 60, 70 không?), về Sĩ Nhiếp, về Cao Biền. Vì sao "Việt điện u linh" (1329) - và tâm thức dân gian cùng nhiều nhà sử học khác, gọi ngài là "Sĩ vương" và lập đền thờ cúng. Vì sao trong tờ "thủ chiếu" của đức vua khai sáng nhà Lý, lại gọi "Cao Biền" là "Cao vương"? v.v... Dựa trên suy tưởng của tôi đã có nhà sử học viết rằng: Cái gọi là thời Bắc thuộc về hiển thể chính trị chỉ là quyền tự trị địa phương. Giáo trình mới của Khoa Sử nên xem lại những chuyện đó, dù khuôn nó vào lĩnh vực Histoire mentale (lịch sử tâm thức), một phần của lịch sử văn hoá Việt Nam. Là một đơn vị được phong tặng danh hiệu cao quý - Đơn vị Anh hùng thời đổi mới, dưới sự chèo chống của ông PGS.TS. Chủ nhiệm Khoa “đức xứng kỳ chức”, với các giáo sư tài ba danh vọng vượt bậc Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang..., tôi chỉ mong toàn Khoa Sử, qua bộ giáo trình mới này, "đổi mới mạnh mẽ và kiên quyết" tư duy Sử học để thế hệ trẻ - như đứa cháu ngoại Phan Quang Anh, tức Bờm của tôi, mới bắt đầu học lớp 9 mà kiên quyết học để được tuyển thẳng vào Khoa Sử - được “phận nhờ” (cháu không chỉ đọc sách giáo khoa phổ thông (“ngắn quá”) mà đã dám đọc “Tiến trình lịch sử Việt Nam") và người già như tôi, ông Hãn, ông Lâm cũng sẽ được ngậm cười ở... thế giới bên kia! 4. Giáo trình mới không nên viết, chẳng hạn "Văn hoá Đông Sơn là văn hoá Lạc Việt”, “Trống đồng Đông Sơn là trống đồng Lạc Việt” như giáo trình Đại học Văn khoa thời thầy tôi, cố GS. Đào Duy Anh rồi gắn cái văn hoá đó với thời Văn Lang - Âu Lạc. Tôi có điên không? Có lẽ tôi cũng có máu điên trong người, nhưng... tôi tự cho là... vẫn còn "tỉnh". Học giả ngoại quốc biết bao lần đã nói vào cái "bản mặt" tôi rằng: Cái "giọng" của giới sử các ông Việt Nam rất chi là... "chauvin", "nationalist", tuy... ông là đỡ hơn cả đấy! ở Đại học Tổng hợp Hà Nội, tôi đã nêu luận điểm từ khi thành lập ngành Khảo cổ: Khi anh/ chị nghiên cứu những nền văn hoá tiền - sơ sử thì... hãy tạm thời quên đi những biên giới chính trị của các quốc gia hiện nay. Văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn chẳng hạn là của toàn Đông Nam á, cả lục địa và hải đảo. Đến khi được cấp trên chỉ thị thành lập ngành Văn hoá học, tôi lại nêu luận điểm: Không gian văn hoá và không gian chính trị là khác nhau. Và rất thường khi Biên giới chính trị cắt "ngang xương" một không gian văn hoá, ở châu Phi là vậy. ở Đông Nam á, ở Việt Nam cũng là vậy. Khi còn sinh thời GS. Phạm Huy Thông, lúc ông làm Viện trưởng Viện Khảo cổ học, tôi đã nài được ông cho thuyết trình ở Viện rằng: Cái không gian trống đồng loại I Heger là nằm trong một "tam giác đồng” (tôi nhái khái niệm “Tam giác Vàng") mà 3 đỉnh là Vân Nam - Việt Nam - Lưỡng Quảng ngày nay và nhấn mạnh rằng: ở thời đó nó vẫn là một không gian "Phi Hoa - Phi ấn", gọi là "Không gian Việt cổ" cũng được, nhưng Việt cổ là một khái niệm khá mơ hồ, chỉ nhìn "cái răng, cái tóc là góc con người" thì cũng đủ biết: “Người Đông Sơn” vừa búi tóc (tư liệu Việt Khê, Hải Phòng), vừa xoã tóc (tư liệu Đào Thịnh, Yên Bái), vừa tết tóc (tư liệu nhiều dao găm cán hình người Đông Sơn), có răng nhuộm đen, có răng để trắng: Bao nhiêu "mộ thuyền" đã chứng tỏ điều đó. "Sống xen kẽ giữa các tộc người" ở Việt Nam, dù Nam Á, Nam Đảo hay các ngữ hệ Tạng Miến... gì gì đi nữa đã là một quy luật lịch sử lâu đời để nhà khảo cổ học Thụy Điển, GS. Olov Janse rút ra một kết luận bất hủ: "Vietnam, Carrefour des Peuples et des Civilisations". Việt Nam hôm nay có sự thống nhất văn hóa và ngôn ngữ, nhưng cũng có sự đa dạng, nếu không muốn nói “huỵch toẹt” ra là có cái “đa văn hóa” (multicultural) và “đa ngôn ngữ” (multilinguistic). Thì có sao đâu ở trong một cái khuôn thể chế chính trị thống nhất, dân chủ? Vậy những người anh hùng ở Khoa Sử nên viết "Lịch sử Việt Nam" chứ không phải là "Lịch sử người Việt" cho dù tộc Kinh - Việt hiện nay là chủ thể quốc gia. Mà cái gọi là người Việt như ta hiểu cũng xuất hiện khá muộn mằn trong lịch sử... và cũng đa dạng lắm, từ Bắc - Trung tới miền Nam đất nước. Từ lâu, người Pháp đã phân biệt Histoire de France và Histoire des Francais. Ta nên tham khảo họ. Người Nhật (và cả người Hoa) cũng đã nhìn thấy nhiều “văn hoá Trung Hoa” rồi đấy (cùng lắm thì họ gọi là "Một văn hoá Trung Hoa có nhiều local cultures". 5. Cho nên cách viết "Lịch sử Việt Nam" nói chung, "Lịch sử văn hoá Việt Nam" nói riêng rất nên là cách viết một thời không gian liên tục kiểu A.Einstein, hay, nói theo một hướng tiếp cận hiện đại, là kết hợp nghiên cứu Lịch đại (Diachronic Studies) và nghiên cứu Vùng - Tiểu vùng (Area Studies). Đừng “lờ” một hiện tượng lịch sử quan trọng và kéo dài "Nam tiến" (The March to the South) hay còn gọi là Migration horizontale của người Kinh - Việt trong khi ở các nhóm H’mong - Yao, thì đó lại là migration vertical (Di cư theo chiều dọc). Đừng dùng các khái niệm đã mòn, thậm chí cái thủ thuật "đánh tráo khái niệm” bằng ngôn từ điêu xảo. Hãy gọi sự vật bằng chính cái tên của nó. Nếu có một lời thề chung cho các nhà sử học thì, theo tôi, nên là: "Trung thực và dũng cảm". Thư bất tận ngôn. Ngôn bất tận ý ! Hà Nội, 23/ 6/2002 GS. Trần Quốc Vượng [bản tin ĐHQG Hà Nội - số 173, tháng 7/2005]
  2. Anh TÂM NGHIÊN CỨU à, anh Sapa post bài lên mục này để góp phần giải trí cho thư giãn đấy mà (mà vui đấy chứ). Đâu cần phải căng thẳng dằng dai mãi thế, bởi tôi nhận thấy rằng, dù gì trong tranh luận học thuật (bên mục Luận Âm Dương) thì ai cũng vì chút cái Tâm với đất Việt cả, chứ có ai nói xấu đâu. Nhân ở mục Giải Trí này, mạn phép nhảy vô đứng giữa 2 người : xin can, hì... ! :(
  3. Hoàng Sa-Trường Sa Mãi Mãi là của Việt Nam Đinh Kim Phúc - Ngày đăng: 20.1.2010 Một tấm bản đồ thế giới có tuổi đời hơn 400 năm,, vừa được trưng bày tại thư viện Quốc hội Mỹ. Báo China Daily cho biết, Matteo Ricci - một nhà truyền giáo người Italy - vẽ tấm bản đồ vào năm 1602 theo yêu cầu của vua Minh Thần Tông Nó là một trong hai bản sao còn được giữ ở trạng thái tốt. Một người sưu tầm tại Nhật Bản đã giữ nó trong nhiều năm trước khi bán cho Quỹ James Ford Bell vào tháng 10 năm 2009 với giá 1 triệu USD. Với mức giá đó, nó trở thành tấm bản đồ đắt giá thứ hai từng được bán. Do đây là một trong những bản đồ quý và dễ hư hại nên nó đã được in lên 6 tờ giấy gạo cỡ lớn. Theo hảng tin AP, tấm bản đồ có kích thước 3,65 m x 1,52 m. Chất liệu của tấm bản đồ này được làm bằng giấy hồ – một loại chất liệu được sử dụng rất phổ biến ở Trung Quốc vào thế kỷ XVII. Nó biểu thị nhiều khu vực trên thế giới bằng hình vẽ và lời chú giải. Ricci đề tên nhiều nước tại châu Mỹ, như Chih-Li (Chile), Wa-ti-ma-la (Guatemala) và Ka-na-ta (Canada). Bang Florida của Mỹ được mô tả là “vùng đất của các bông hoa”. Châu Phi được chú thích là “nơi có dãy núi cao nhất và dòng sông dài nhất thế giới”. Ford W Bell-một trong những người quản lý Quỹ James Ford Bell-nói với tờ Pittsburgh Tribune-Review rằng bản đồ được trưng bày trong thư viện Quốc hội Mỹ là một trong số hai bản đồ cổ có chất lượng tốt nhất. “Ricci là một nhà truyền giáo cực kỳ thông thái. Ông đặt Trung Quốc vào trung tâm của thế giới mới để ghi nhận sự quan trọng của đất nước này. Tất nhiên, Ricci là người phương Tây đầu tiên tới Bắc Kinh. Người Trung Quốc kính trọng Ricci và ông được chôn tại Trung Quốc”. Không có bất kỳ phiên bản nào của tấm bản đồ Ricci được tìm thấy tại Trung Quốc. Hãng tin AP cho biết thêm, chỉ có vài bản sao chép được lưu giữ trong các thư viện của Tòa thánh Vatican và các nhà sưu tầm ở Pháp, Nhật Bản. Theo kế hoạch tấm bản đồ của Matteo Ricci cũng sẽ được số hóa để đưa lên mạng. (Hình 1) Bản đồ nầy do nhà truyền giáo Italia, dòng Tên, Matteo Ricci(1552-1610) sáng tác trên đường truyền đạo ở Trung Quốc. Trong thời Nhật Bản “bế môn tỏa cảng” (1793-1858), phiên bản nầy đã được du nhập vào Nhật Bản, gây ảnh hưởng lớn đên nhận thức thế giới của người Nhật trong thời Edo(1603-1868). Ricci đã sáng tác tấm bản đồ thế giới đầu tiên bằng tiếng Hán theo bản đồ được vẽ ở Châu Ấu, hiện nay tấm bản đồ nầy đã thất lạc. Viên quan nhà Minh tên là Lý Chi Tảo(李之藻) đã dày công vẽ lại thành “phiên bản Lý Chi Tảo” với tên gọi là “Khôn dư vạn quốc toàn đồ”. Nguyên tác là bản vẽ một màu nhưng phiên bản (vẽ trên gỗ) sang Nhật bản được sao lại được tô thành nhiều màu, và một phần địa danh được sửa lại, vì vậy trong bản đồ phổ biến hiện nay có những địa danh phiên âm theo tiếng Nhật (Katakana). Bản khắc trên gỗ có 6 tấm nhưng phiên bản nầy chỉ có 2 tấm đông-tây mà thôi. Phiên bản nầy hiện nay được trưng bày tại Thư Viện Tỉnh Miyagi (thành phố Sendai ) và thư viện Đại Học Kyoto. Tiểu sử Matteo Ricci : Matteo Ricci (6 tháng 10 năm 1552 - 11 tháng 5 năm 1610), là một linh mục Thiên Chúa giáo người Ý. Matteo Ricci sinh năm 1552 tại Macerata, ông bắt đầu học thần học và luật tại trường Thiên Chúa Giáo Roma. Năm 1577, ông đăng ký trở thành thành viên của một đoàn thám hiểm tới Ấn Độ và chuyến đi bắt đầu từ tháng 3 năm 1578 từ Lisboa, Bồ Đào Nha. Ông tới Goa, một thuộc địa của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, vào tháng 9 năm 1578 và bốn năm sau đó được đưa tới Trung Quốc. Năm 1582, Ricci bắt đầu học về ngôn ngữ và phong tục Trung Quốc tại Ma Cao, một trạm giao thương của Bồ Đào Nha ở miền Nam Trung Hoa, và trở thành một học giả phương Tây hiếm có đã học được văn bản chữ viết cổ điển của Trung Quốc. Năm sau, 1583, thì Ricci bắt đầu du thám vào sâu đại lục, nhờ chuyến thăm tới Triệu Khánh thuộc Quảng Đông, từ lời mời của Tổng trấn Triệu Khánh thời đó là Wang P'an, người đã nghe về tài toán học và vẽ bản đồ của Ricci. Ông ở đó từ năm 1583 tới năm 1589 trước khi phải rời đi sau khi bị trấn tổng mới nơi này trục xuất. Chính tại Triệu Khánh, Ricci đã vẽ bản đồ thế giới đầu tiên bằng tiếng Hoa. Trong các chuyến du hành sau đó, Ricci tới Nam Kinh và Nam Xương năm 1595, Thông Châu năm 1598 và sau đó tớiBắc Kinh lần đầu tiên vào ngày 7 tháng 9 năm 1598. Tuy nhiên, do cuộc chiến tranh Nhật Bản-Triều Tiên vào thời điểm đó nên ông không được thăm cung điện hoàng gia. Sau hai tháng chờ đợi, Ricci rời Bắc Kinh để tới Nam Kinh và rồi dừng chân tại Tô Châu thuộc tỉnh Giang Tô. Năm 1601, Ricci trở lại Bắc Kinh, tuy lần đầu ông không được diện kiến hoàng đế Trung Hoa nhưng sau khi tặng hoàng đế chiếc đồng hồ rung chuông, Ricci cuối cùng cũng được phép tận tay trao món quà cho hoàng đế Minh Thần Tông tại cung điện và Ricci cũng chính là người phương Tây đầu tiên được mời vào Tử Cấm Thành của Trung Quốc. Dù cho Ricci được quyền tự do vào Tử Cấm Thành nhưng ông lại không được gặp mặt Minh Thần Tông, nhưng bù lại ông được Minh Thần Tông trao cho chức vụ Tổng giám mục về Thiên chúa Giáo tại Trung Quốc. Nhờ đó mà Ricci có cơ hội được gặp nhiều quan chức cũng như các nhân vật hàng đầu về văn hóa tại Bắc Kinh thời đó. Ricci học rất nhiều về lịch sử và văn hóa Trung Hoa và ông cũng là người phương Tây đầu tiên tìm hiểu về cộng đồng người Do Thái ở Trung Hoa. Ông từng được liên hệ riêng bởi một thành viên của cộng đồng dân Do Thái tại Bắc Kinh vào năm 1605. Dù không bao giờ gặp mặt cộng đồng này ở Hà Nam một cách chính thức nhưng Ricci cũng gửi một người truyền giáo tới đó ba năm sau vào năm 1608, đây là một trong rất nhiều nhiệm vụ được ủy quyền bởi Giáo hội. Ricci sống tại Trung Quốc cho tới khi ông qua đời ngày 11 tháng 5 năm 1610 tại Bắc Kinh. Một phát hiện mới Trong tấm bản đồ này (Hình 2), (Hình 3), các chú thích được ghi bằng hai ngôn ngữ: tiếng Hoa và tiếng Nhật, tại phần lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã được Ricci chú thích, phần chú thích này rất quan trọng. Đoạn tiếng Hoa (Hình 4) được chú thích trên vùng biển Đông được đọc là: “Đại Minh thanh danh văn vật chi thịnh tự thập ngũ độ chí tứ thập nhị độ giai thị kỳ dư tứ hải triều cống chi quốc thậm đa thử tổng đồ lược tải nhạc độc tỉnh đạo đại lược dư tường thống chí tỉnh chí bất năng đàn thuật”. “Thanh danh văn vật [triều] Đại Minh thịnh vượng, nhiều nước trong bốn biển - ở khoảng 15 độ đến 42 độ - đều đến triều cống. [bức] tổng đồ này [chỉ] diễn tả chung về núi, sông, tỉnh, đạo. không thể vẽ tường tận cụ thể như [sách] Nhất thống chí,Tỉnh chí ghi chép…” Và 4 chữ (hàng dọc) (Hình 5) đọc là: Vạn lý trường sa Những dòng chữ ghi chú trên được hiểu như thế nào ? Ở đây, cần nhắc lại quá trình Nam tiến trong lịch sử Việt Nam. Năm 1471 khi đi đánh Champa, lấy được kinh đô Vijaya, Lê Thánh Tông có ý dừng lại, chia làm cương vực ở đó. Mặc dù bấy giờ như ta đã biết, vương triều Vijaya đã suy mà Đại Việt thì đang trong thời thịnh trị. Nhà Lê không muốn và chắc chắn cũng sẽ không nghĩ tới việc cố thôn tính một quốc gia khác mà chỉ mong sự yên ổn lâu dài trên biên giới phía Nam. Vua Lê thân chinh, theo như tuyên bố, là vì Champa đã quấy nhiễu biên giới, cũng vì một quan niệm là “Đại Chiêm và Cổ Lũy trước là đất của ta, gần đây bị mất về nước Champa, nên lấy lại được hết, sai các ngươi trấn thủ”. Vua đã lấy cả vùng Vijaya nay là Bình Định liền một dải với Cổ Lũy để có địa giới tự nhiên hiểm trở ở phía Nam là đèo Cù Mông, lập nên đạo Quảng Nam, nhằm thực hiện ý định đó. Trong cuộc hành quân này, quân Đại Việt còn vượt qua đèo Cù Mông, tiến tới núi Bia Đá (Thạch Bi)(1). “Núi này có một chi, đến bờ biển thành hai… có một khối đá lớn, quay đầu về phía đông như hình người… (Vua Lê) sai mài vách núi dựng bia đá để chia địa giới với Champa”(2). Với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía Nam, vua Lê cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới đèo Cả (hay Đại Lãnh) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh. Lấy lại phần thượng nguyên ở phía tây Hoa Anh – vùng Che Reo để lập nước Nam Bàn. Như vậy, Champa ngăn cách hẳn với Đại Việt bằng hai nước, tuy nhỏ nhưng cũng là tấm đệm từ miền núi ra đến biển. Đầu thế kỉ XVI, nhà Lê suy yếu, tiếp đến việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi (1527), rồi đến việc họ Trịnh làm Chúa, nắm quyền và việc Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ phương Nam để tránh tị hiềm. Lúc đầu (năm 1558), Nguyễn Hoàng được nhận trấn thủ Thuận Hóa (gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế ngày nay), tiếp đó lại xin được giao thêm quyền trấn thủ Quảng Nam (từ Quảng Nam đến Bình Định ngày nay-năm 1570). Ngay khi vừa nhận thêm quyền trấn thủ Quảng Nam, Nguyễn Hoàng đã cử Lương Văn Chính làm Tri huyện Tuy Viễn (một trong hai huyện của tỉnh Bình Định, giáp giới Hoa Anh) và giao nhiệm vụ giữ yên phía Nam. Năm 1578, Lương Văn Chính cầm quân tiến vào Hoa Anh, vây và hạ thành An Nghiệp – thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử Champa, đẩy họ về cương giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Vua Champa, theo niên giám là Po At (1553- 1579), có lẽ đã bị chết trong thời điểm này. Trận đánh chỉ mới nhằm lập lại trật tự cũ, tuy nhiên Lương Văn Chính cũng đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rải rác từ phía Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn. Trong khoảng 10 năm cuối thế kỉ XVI và đầu thế kỉ XVII, Champa lại lấn đất Hoa Anh, giết và đuổi những người nông dân Việt vào cư trú khai khẩn miền đất này. Năm 1611, Nguyễn Hoàng sai Nguyễn Phong làm tướng, đem quân vào đánh lại, Champa bị thua, vua là Po Nit (1603 – 1613) phải bỏ Hoa Anh rút quân về phía Nam đèo Cả. Lần này họ Nguyễn đã lấy hẳn đất Hoa Anh, lập ra một phủ mới là phủ Phú Yên, gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa, lập dinh Phú Yên, đóng quân để phòng giữ. Lương Văn Chính đươc cử làm tham tướng dinh Trấn Biên, sau đó là dinh Phú Yên. Như vậy, Với việc lập phủ và dinh Phú Yên, chúa Nguyễn muốn xác lập hẳn quyền cai trị của mình trên một miền đất đã có sự góp sức khai khẩn của nông dân Việt trong mấy chục năm, muốn chấm dứt sự tranh chấp trên một vùng đệm để có thể yên tâm đối phó với cuộc chiến tranh chinh phạt của chúa Trịnh, một thử thách quyết liệt không thể tránh khỏi đối với chúa Nguyễn ở Đàng Trong(3). Xác định lại thời điểm lịch sử kể trên để thấy rằng, vào năm 1602 (năm mà Matteo Ricci hoàn thành tấm bản đồ của mình), Vạn lý trường Sa không thuộc về lãnh thổ của nhà Minh, mà nó đã thuộc về quốc gia Đại Việt. Điểm đặc biệt thứ hai là lần đầu tiên vùng biển giữa Triều Tiên và Nhật Bản được ghi là biển Nhật Bản (Nhật Bản hải) có lẽ vì là phiên bản lưu hành tại Nhật bản nên đã được thêm vào? Thứ tự ảnh : Trên bên trái qua(Hình 5), (Hình 4) (Hình 3), (Hình 2) Một phần bản đồ (khu vực Viễn Đông) của Matteo Ricci , Phía dưới (Hình 1) Bản đồ nầy do nhà truyền giáo Italia, dòng Tên, Matteo Ricci./. Chú thích: (1) Núi Thạch Bi ở phía Đông Huyện Tuy Hòa, phía Bắc đèo Cả, thuộc Thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên ngày nay. (2) Đại Nam nhất thống chí, T.III, trang 65 (3) Dẫn theo Lương Ninh (Chủ biên), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Giáo Dục, 2005
  4. Ồ không, cụ Sứ hãy xem lại tấm ảnh này, chính là Niềm Tin đấy. HOÀNG SA - TRƯỜNG SA MÃI MÃI THUỘC VỀ VIỆT NAM ... đó là chân lý ! :D
  5. ĐẸP VÀ THƠ (Cô gái Kim Luông) Nam Trân Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết Rằng Thơ thấy Đẹp phải tìm theo. Thuyền qua đến bến, cô lui lại, Vẩy chiếc chèo ngang : giọt nước gieo Đăm đăm mỏi mắt vì chèo, Chèo cô quấy nước trong veo giữa dòng Biết không ? Cô hỡi biết không ? Chèo cô còn quấy, sóng lòng còn xao ! (Huế, Đẹp và Thơ) ----------------------------------- Về tác giả : http://evan.vnexpress.net/News/phe-binh/ph...07/10/3B9ADB1C/
  6. Câu chuyện dưới đây cho thấy nào phải chuyện cổ tích hay điển xưa tích cũ : http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.as...mp;ChannelID=89 Và "Khi yêu thương không còn khoảng cách" : http://www.giacngo.vn/phatgiaotuoitre/2009/11/25/5BD609/
  7. Từ thời Chu Đôn Di, thời kỳ cực thịnh của nhà Tống, đến thời suy vong của nhà Minh ngót cũng đến nửa thiên niên kỷ. Mà những người theo dòng tránh nạn đến đất Việt trong khoảng thế kỷ 17-18 không phải là những người xuất phát từ tầng lớp bình dân mà đa số là các tướng lĩnh và quan lại triều đình nhà Minh cùng tôn thất của mình. Bởi vậy thật khó mà lý giải vì sao họ không có được những tri thức cơ bản của văn hóa phương bắc, như đồ hình âm dương của người Hán ?! Cho nên vấn đề là tại sao các đồ hình âm dương Việt ở nước ta (khắp các vùng miền, như Hội An ở trên) vẫn giữ những nét truyền thống từ xa xưa ? Vậy, tại sao chúng ta không thử đặt thẳng vấn đề là : các đền miếu với các đồ hình âm dương đó (như Hội An chẳng hạn) vốn trước là những nét kiến trúc văn hóa của người Việt (cùng các dân tộc bản địa) và về sau có sự giao lưu - giao thương với những lưu dân khác ? Lịch sử Hội An cũng ghi nhận là : hội quán Phúc Kiến vốn trước là một ngôi miếu thờ nhỏ của cư dân bản địa, tồn tại rất lâu trước khi những người Minh Hương đến và được các chúa Nguyễn cho phép định cư và buôn bán tại đây (cùng các vùng đất phương nam).
  8. Chào bạn Thiên Luân, Về kiến trúc và tín ngưỡng của người Hoa ở hội quán Phúc Kiến - Hội An, cơ bản chúng tương tự như các đền chùa của người Hoa ở TPHCM. Họ, người Hoa - hay còn gọi là người Minh Hương, là những tướng lĩnh và binh sĩ hậu duệ của nhà Minh chạy sang đất Việt lánh nạn vào khoảng thế kỷ 17, họ có cùng một loại tín ngưỡng là thờ bà Thiên Hậu, cho nên bạn có thể đến tìm hiểu và thấy kiến trúc và tín ngưỡng của họ không khác nhau lắm, mà cụ thể bạn có thể đến xem ở chùa bà Thiên Hậu ở đường Nguyễn Trãi - TPHCM, hoặc các kiến trúc có thể hơi cách điệu một chút nhưng vẫn là tín ngưỡng thờ bà Thiên Hậu, như chùa bà Bình Dương, ... Chùa bà Thiên Hậu - 710 Nguyễn Trãi, Q1, TPHCM Còn về đồ hình âm dương ở hội quán Phúc Kiến - Hội An, tôi nhớ không lầm là trên chính giữa chùa Cầu (Lai Viễn Kiều) cũng có một đồ hình tương tự. Chiếc cầu vốn trước do người Nhật xây dựng nhưng do những biến thiên của lịch sử về sau (cùng sự bồi lấp của sông Thu Bồn) mà Hội An không còn là thương cảng thu hút nhiều thương nhân Nhật Bản nữa, nên những người Minh Hương đến sau mới dựng thêm phần chùa, ngói âm dương, ... (chắc vào khoảng đầu thế kỷ 19, tên gọi Chùa Cầu cũng được gọi từ thời điểm đó) như hình dạng ngày nay.
  9. Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến Hoàng Nhuận Cầm Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến Chỉ tiếc mùa thu vừa mới đi rồi Còn sót lại trên bàn bông cúc tím Bốn cành tàn, ba cánh sắp sửa rơi Hò hẹn mãi cuối cùng em đã tới Như cánh chim trong mắt của chân trời Ta đã chán lời vu vơ, giả dối Hót lên ! dù đau xót một lần thôi. Chần chừ mãi cuối cùng em cũng nói Rằng bồ câu không chết trẻ bao giờ Anh sợ hãi bây giờ anh mới nhớ Em hay là cơn bão tự ngàn xa. Quả tim anh như căn nhà bé nhỏ Gió em vào - nếu chán - gió lại ra Hò hẹn mãi cuối cùng em đứng đó Dẫu mùa thu, hoa cúc cướp anh rồi... ---------------------- QUÁN THỜI GIAN Trương Nam Hương Mời em vào quán thời gian Nâng ly ký ức chạm làn hương xưa Mời em vào quán không mùa Ta chia nhau ngọn gió lùa rét căm Mời em vào quán không năm Lặng nghe nỗi nhớ ướt đầm ngón tay Mời em vào quán không ngày Để nghe chiều thả heo may... để buồn Đắng lòng môi chạm yêu thương Thời gian quên bỏ chút đường đấy em...
  10. Ghê thật !!! :lol:
  11. TƠ TRỜI VỚI TƠ LÒNG Còn nhớ hôm xưa độ tháng này Cánh đồng xao xác lá đùa cây Vô tình thiếu nữ cùng ta ngắm Một đọan tơ trời lững thững bay Tơ trời theo gió vướng mình ta Mỗi khắc bên nàng nhẹ bỏ qua Nghiêng nón nàng cười, đôi má thắm Ta nhìn vơ vẩn áng mây xa Tìm dấu hôm xưa giữa cánh đồng Bên mình chỉ nhận lúa đầy bông Tơ trời lơ lửng vươn mình uốn Để nối duyên mình với... cõi không. Thanh Tịnh
  12. Cho Trần Phương hỏi một chút về nấc cục nha. Nấc cục thì ai cũng từng bị không nhiều thì ít, nhưng thú thật mỗi lần bị nấc cục thật là khó chịu, chẳng làm được việc gì cả, có khi tôi còn bị nấc cục suốt đêm. Xin các vị cao nhân ở đây có thể chỉ dùm cách điều trị nấc cục thật đơn giản và nhanh nhất được không ? Hay bằng đông y cũng được. Xin cám ơn trước.
  13. Kính bác Quasar ! Rất cám ơn bác về giả thuyết này. Nhưng tôi vẫn còn một vài băn khoăn : Tuy nhiên, các mẫu đất đá trên mặt trăng cho thấy cấu tạo hóa học của "chị Hằng" gần giống địa cầu. Điều này có nghĩa là mặt trăng không được tạo ra bởi sự va chạm giữa trái đất và một thiên thể. Theo hai nhà nghiên cứu, một cách giải thích hợp lý nhất là: Mặt trăng tách khỏi trái đất nhờ năng lượng bên trong. Họ tin rằng lực đẩy mặt trăng được tạo nên bởi một vụ nổ hạt nhân khủng khiếp. Vụ nổ này là kết quả của quá trình phân rã hạt nhân cực mạnh ở giữa vỏ và lõi của hành tinh xanh. Như vậy 2 nhà khoa học trên vẫn đồng ý quan điểm rằng Mặt Trăng vốn tách ra từ Trái Đất, do cả 2 có thành phần hóa học địa chất như nhau, bởi một vụ nổ hạt nhân lớn trong quá khứ. Nhưng với thuyết này sẽ có rất nhiều vấn đề được đặt ra : - Mặt Trăng chính là sự hội tụ của các khối vật chất xoay quanh quỹ đạo Trái Đất kết tinh lại. Điều này vô lý vì như vậy Trái Đất của chúng ta không chỉ có 1 Mặt Trăng mà có rất nhiều Mặt Trăng với nhiều quỹ đạo khác nhau. - Còn nếu cho rằng vụ nổ hạt nhân này chỉ tách ra một khối là Mặt Trăng hiện nay thì với khối lượng cỡ Mặt Trăng như vậy không thể nào bị từ trường Trái Đất hút lại và "bắt làm tù binh' như vậy được. - Tại sao Mặt Trăng gần như không có phần lõi, hoặc nói cách khác, phần lõi của Mặt Trăng là rỗng ? Bởi lớp từ trường trên bề mặt Mặt Trăng là rất ít nếu không muốn nói là không đáng kể, điều này được chính các nhà khoa học, thiên văn học hiện đại, đã chứng minh. ....................
  14. Đúng là Phật giáo chỉ nói đến Luân Hồi và Giải Thoát chứ chẳng hóa kiếp ai cả. Nhưng tôi thấy bản thân câu chuyện này cũng có nhiều dị bản. Theo một tài liệu nào đó tôi được biết đã lâu thì nội dung câu chuyện này hơi khác : "Anh chàng này gần nửa đời sống bằng nghề ăn trộm (không phải ăn trộm đến lúc già yếu như trên). Một ngày lỡ đường xin tá túc vào nhà một cặp vợ chồng người ăn mày. Qua những những lời tâm sự của cặp vợ chồng này trong đêm mà anh ta tình cờ nghe được : rằng dù họ suốt kiếp có nghèo khổ nhưng lòng vẫn thanh thản vì chưa từng lấy bất cứ thứ gì không phải của mình, lúc này anh chàng mới tỉnh ngộ và xin nương nhờ cửa Phật để làm công quả trong nửa quãng đời còn lại. Anh ta sống nhân hậu và làm việc rất siêng năng khiến sư trụ trì rất hài lòng. Một ngày nọ, nghe đồn ở ngoài suối có một con hổ đang rình tìm mồi, một ông sãi ở chùa sở dĩ có chút ganh tị với anh chàng vốn là một tên trộm này, bèn sai anh ra suối lấy nước, anh ta ra đến suối lấy nước thì gặp con hổ vồ đến định ăn thịt. Anh ta nói với con hổ : "Hãy để tôi gánh nước về cúng Phật rồi sẽ trở lại cho ông ăn thịt". Khi anh ta trở lại thì con hổ bảo thịt anh ta rất cứng nên phải trèo lên cây nhảy xuống cho mềm rồi nó mới ăn. Anh ta bèn làm đúng như lời con hổ nói. Khi vừa từ trên cây nhảy xuống thì bỗng một dãy hào quang thả tới kéo anh ta về cõi Phật. Con hổ cũng chẳng ai thấy đâu nữa. Về phần ông sãi, vì ganh tức mình gần cả đời làm công quả ở chùa mà chẳng được thành Phật nên mới trèo lên cây định làm giống anh trộm nhưng khi nhảy xuống thì bị chết và biến thành cái bình vôi (đúng như câu chuyện trên, nhưng không phải sư trụ trì mà là anh sãi),..."
  15. Đầu xuân khai bút, xin được bắt đầu với tình hình quốc tế này. Xin các quý vị cao thủ ở đây bình luận xem liệu chiến dịch này có thực sự kết thúc cuộc chiến ở Afganistan hiện nay không ? Và cho dù cuộc chiến ở quốc gia châu Á này thành công hay không (không riêng về quân sự) thì liệu có một hiệu ứng ngược : đây sẽ là một trong những hoạt động quân sự cuối cùng của liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương - NATO, tổ chức này sẽ cáo chung vì sự hiện diện của nó không còn cần thiết nữa mà tất yếu tiếp theo sẽ là sự hình thành những liên minh mới (?)
  16. Theo nhau đi mổ đẻ tránh sinh con gái năm Dần Cập nhật lúc 06:56, Thứ Sáu, 12/02/2010 (GMT+7) Nhiều thai phụ đến Bệnh viện Phụ sản Hà Nội và Bệnh viện Phụ sản Trung ương đã có chút lăn tăn vì "không tránh nổi" việc sinh con gái vào năm Canh Dần, vì vướng chút tâm linh rằng "con gái tuổi Dần cao số". Những ai may mắn sinh con trước Tết Nguyên Đán vui mừng ra mặt. Năn nỉ để được mổ đẻ theo ngày tháng Cách Tết khoảng gần 1 tháng, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đã bắt đầu nhận được những yêu cầu của sản phụ và gia đình họ với nội dung: Chọn ngày để mổ đẻ trước Tết Nguyên đán Canh Dần. Sở dĩ phải “đặt hàng” bệnh viện sớm vì nhiều thai phụ sợ bệnh viện có thể đồng ý nhưng không thể phục vụ hết vì quá tải. Tuy nhiên, những người đặt sớm cũng không tránh khỏi cảm giác thất vọng bởi bệnh viện không đáp ứng nhu cầu này. Bác sĩ Lê Thanh Thúy, Trưởng phòng Kế hoạch Tổng hợp của Bệnh viện cho biết: “Nhu cầu khá lớn, bởi chúng tôi nhận được hàng ngày qua nhiều kênh. Song bệnh viện không dám nhận bởi khi sản phụ không có dấu hiệu chuyển dạ tự nhiên mà cố tình can thiệp y tế vào sẽ rất nguy hiểm đối với cả sản phụ lẫn thai nhi, thường dẫn đến việc xảy ra tai biến khó lường”. Nhiều sản phụ muốn chọn sinh mổ theo ngày tháng để tránh tuổi Canh Dần - tuổi được cho là "không đẹp", đặc biệt là đối với việc sinh con gái (Ảnh: C.Q) Bệnh viện đã có chủ trương rõ ràng và đã giải thích với sản phụ nhưng nhiều người vẫn cố năn nỉ để được mổ thai theo ý muốn. Chị Hằng mang thai (siêu âm ở phòng khám ra kết quả là con gái) ở tuần thứ 36. Theo dự kiến của chị và gia đình, nếu mổ thai vào ngày từ 20 đến 24 tháng Chạp thì lúc đó thai nhi đã suýt soát 39 tuần. “Tôi nghĩ có thể đẻ sớm hơn 1 hoặc 2 tuần, con vẫn khỏe. Bởi có những người sinh con từ tháng thứ 8 (tuần 34, 35) mà mẹ con vẫn khỏe. Nhưng năn nỉ mãi bác sĩ vẫn nói là không dám nhận”, chị cho biết. Chị Hằng không giấu được vẻ lo lắng bởi nếu sinh con gái năm Canh Dần, chị e con chị "sẽ lận đận, vất vả, đặc biệt là trong hạnh phúc riêng tư". Trong gia đình chị có hai người tuổi Dần: Một chị chồng sinh năm Giáp Dần (1974) nhưng bỏ chồng. Một em họ sinh năm 1986 (Bính Dần) không yêu ai lâu quá được 4 tháng, dù xinh đẹp, dễ thương. Nỗi lo của chị Hằng càng lớn hơn khi ngay cả những bà mẹ chồng sau này cũng không thích con trai họ lấy con gái sinh năm Dần. “Cũng có cô gái tuổi Dần cũng sung sướng, thành đạt và hạnh phúc nhưng không hiểu sao cả xã hội "định kiến" như vậy rồi cũng làm mình nghĩ theo lối đó”, chị nói. Song chị vẫn cho biết, nếu con chị có sinh vào những ngày đầu xuân năm Canh Dần và cầm tinh con Hổ thì cũng không sao. “Sướng khổ có số rồi”, chị lạc quan. Sinh con trai cũng kén năm Dần ! Không chỉ những sản phụ sinh con gái mà những người sinh con trai cũng tỏ ra “tần ngần” khi sinh con vào năm Canh Dần. “Theo quan niệm dân gian thì tuổi Dần không phải tuổi được chuộng. Sinh con trai thật nhưng vẫn thấy không yên tâm lắm”, chị Hà Hoa, sản phụ khám thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương tâm sự. Tuy nhiên, với những người hiếm muộn, suy nghĩ của họ khác hẳn. Chị Nguyễn Thị Lan (trú tại Cầu Giấy) là một ví dụ. Lấy chồng đã 5 năm mà không có con, vợ chồng chị rất buồn. Trước khi cưới cả 2 đã tính là đứa đầu sinh vào năm 2005, đợi đến 2011 sẽ sinh đứa thứ 2 để tránh năm Dần. Nhưng kế hoạch đổ bể vì chồng bị “trục trặc”. Nhiều người quan niệm sinh con trai hay gái, vào năm nào cũng không phải vấn đề quá quan trọng, bởi "sướng khổ đã có số" (Ảnh: C.Q) Sau một thời gian dài chữa trị ở Khoa Hiếm muộn, cuối cùng chị đã có thai. Cả 2 vợ chồng ngã ngửa ra vì chắc chắn sẽ sinh con vào năm Canh Dần. “Đúng là người tính không bằng trời tính! Với tôi bây giờ, sinh con năm nào cũng được cả. Con nào cũng quý cũng thương. Sướng khổ hay không là do tự thân các cháu sau này thôi”, chị chia sẻ. Trong khi chuyện sinh con năm Canh Dần đang xôn xao trên các diễn đàn trực tuyến và trong cả các câu chuyện hàng ngày thì các cặp đôi chuẩn bị kết hôn đang háo hức đón chờ năm 2010. Ngày 10/10/2010 là ngày được rất nhiều các cặp đôi lựa chọn để làm lễ cưới. Những đôi đã kết hôn năm 2009 nhưng chưa có thai cũng đang xôn xao bàn tán xem nếu không “trì hoãn” được thì nên sinh con vào tháng nào trong năm sau để con được “tốt số”. Đại đa số các thành viên đều nói con trai sinh tháng 9 âm thì đẹp, con gái sinh tháng 3 âm sẽ không khổ. Tuy nhiên, khi không tìm được điểm nào thống nhất, khi “người tính không bằng trời tính” thì câu “sướng khổ có số” vẫn là châm ngôn hàng đầu! Sau một thời gian dài chữa trị ở Khoa Hiếm muộn, cuối cùng chị đã có thai. Cả 2 vợ chồng ngã ngửa ra vì chắc chắn sẽ sinh con vào năm Canh Dần. “Đúng là người tính không bằng trời tính! Với tôi bây giờ, sinh con năm nào cũng được cả. Con nào cũng quý cũng thương. Sướng khổ hay không là do tự thân các cháu sau này thôi”, chị chia sẻ. Trong khi chuyện sinh con năm Canh Dần đang xôn xao trên các diễn đàn trực tuyến và trong cả các câu chuyện hàng ngày thì các cặp đôi chuẩn bị kết hôn đang háo hức đón chờ năm 2010. Ngày 10/10/2010 là ngày được rất nhiều các cặp đôi lựa chọn để làm lễ cưới. Những đôi đã kết hôn năm 2009 nhưng chưa có thai cũng đang xôn xao bàn tán xem nếu không “trì hoãn” được thì nên sinh con vào tháng nào trong năm sau để con được “tốt số”. Đại đa số các thành viên đều nói con trai sinh tháng 9 âm thì đẹp, con gái sinh tháng 3 âm sẽ không khổ. Tuy nhiên, khi không tìm được điểm nào thống nhất, khi “người tính không bằng trời tính” thì câu “sướng khổ có số” vẫn là châm ngôn hàng đầu ! Cẩm Quyên (Vietnamnet.vn) http://www.vietnamnet.vn/xahoi/201002/Theo-nhau-di-mo-de-tranh-sinh-con-gai-nam-Dan-894300/ Trần Phương : Thật chẳng biết nói sao nữa, post bài này lên đây mà thấy trong lòng bực bội, chính tác giả bài báo cũng "vô thưởng vô phạt" với vấn đề này khi cũng chỉ kết luận chung chung. Bản thân TP cũng có vài người thân và bạn hữu đang rất rầu rĩ về chuyện ra tết sẽ sinh con gái (mà lẽ ra phải vui mừng). Thiết nghĩ, là một trung tâm nghiên cứu Lý học có uy tín, Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương nên có bài viết lên tiếng về vấn đề này trên các phương tiện thông tin đại chúng, trước khi mọi việc diễn biến theo chiều hướng xấu (như nạo phá thai,... )
  17. Chào anh VULONG, Xin mạn phép tham gia vài dòng, trước hết, anh có thể cho biết lý so tại sao mà các hội nghị về toàn cầu hóa luôn bị rất đông những người phản đối khi nó được tổ chức không (dù hội nghị diễn ra ở bất cứ quốc gia nào, kể cả Mỹ) ? Qua những gì anh viết, tôi xin góp một ý rằng : chính nước Mỹ, từ xưa đến nay, mới là những người thấu hiểu hơn ai hết về học thuyết Mác đấy. Những vấn đề an sinh xã hội đại loại như : cổ phần hóa, các loại hình bảo hiểm phúc lợi xã hội, trợ cấp thất nghiệp, phổ cập giáo dục,... đều là những vấn đề được đặt ra trong cương lĩnh xây dựng của chủ nghĩa Mác-Lenin, mà cụ thể nó được nêu ra lần đầu tiên tại đại hội quốc tế III Cộng Sản, năm 1919. Tuy nhiên, trong khuôn khổ diễn đàn này, tôi cũng chỉ có ý trao đổi thêm một chút với anh về kinh tế - chính trị quốc tế và xin dừng lại ở đây, chứ thực tình không phải là phản biện, dù có thể trao đổi sâu hơn một chút. Nhưng anh VULONG ạ, tình hình diễn biến kinh tế - chính trị xã hội trên thế giới mỗi lúc mỗi khác, nhận thức mỗi người có thể khác nhau, nhưng có một điều hiển hiện là : nhân loại trên thế giới đang thực sự xích lại gần nhau hơn, ít nhất qua sự đóng góp của tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, không biết anh có cùng nhận định này với tôi không ? Vài lời nông cạn, có gì thiếu thấu đáo mong anh đừng chấp để, chúc anh và gia đình một mùa xuân ấm áp !
  18. Mấy hôm trước tôi cũng định đưa bài này lên mục Mạn đàm để thảo luận nhưng lại e không biết có đụng đến vấn đề thời sự quốc tế nhạy cảm gì không nên lại thôi. Đúng là trong suốt chiều dài lịch sử, Trung Quốc luôn tự cho mình là trung tâm của vũ trụ, nhưng các quốc gia xung quanh chưa bao giờ nghĩ như vậy. Lịch sử địa lý Nhật Bản (và Cao Ly) khác nhiều so với Việt Nam. Hồi thế kỷ 13, việc các võ sĩ đạo Nhật Bản chiến thắng đội quân hung hãn của đế chế Mông Cổ có một phần (may mắn) do cơn bão Thần Phong đã "hạ huyệt" phần lớn các chiến thuyền tinh nhuệ của Mông Cổ, nhưng điều quan trọng nhất là : kể từ đó đế chế Nguyên Mông đã dừng lại ở bờ biển Cao Ly và không tiếp tục các cuộc trường chinh khác về phía đông (đông nam) do bị thất bại (quân sự) liên tiếp ở Đại Việt (kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 và 3).
  19. Hì.. Câu chuyện trên là do tôi tự tưởng tượng dựa theo cuộc thi chửi trong chuyện "Ba Giai - Tú Xuất". Đúng là anh chàng này đã chửi tục đấy, rất tục, nhưng không sai luật vì luật chỉ không cho phép mang gia đình, họ hàng của đối phương ra chửi thôi, còn chửi nhau như thế nào thì cứ thoải mái. Chính vì cái chữ ấy nó quá tục và quá "độc" nên cô hàng chợ mới quíu lưỡi và chấp nhận thua non bởi không biết chửi lại thế nào cho xứng đáng (thực ra cô ấy vẫn có thể tuôn ra hàng giờ những câu đại loại như : "(đồ) súc vật/ kền kền/ kên kên/ chó ăn bả, gà bới c..."). Vì vậy ý của nội dung câu chuyện là từ đó về sau cô ấy vì thua cuộc nên sẽ cạch, không còn (cho mình có quyền) suốt ngày rủa sả mọi thứ trên đời nữa, trả lại sự bình yên cho bà con.
  20. Hì... Vào topic này lại nhớ đến bác tiến sĩ Tầm Nhìn Mới, bác ấy đi đâu vắng nhà lâu thế, vào các mục luận quẻ cũng chẳng thấy, không biết bữa giờ bác ấy có vào đây xem không nhỉ :D :huh: Cuối cùng thì bác tài cũng đã xuất chiêu, nhưng để kết thúc "cuộc chiến" thì e rằng hơi lâu, nếu bà bán cá mà nghỉ ngơi chỉ một phút, hớp một chén trà cho hạ đờm rồi lấy lại công lực thì chắc bác tài (và cả chợ) còn phải chịu đựng lâu... Xin góp một chuyện nhé, Cũng trong một xóm nọ, có một Cô Hàng Chợ (tạm gọi như vậy) tuy còn trẻ nhưng đã nổi tiếng khắp vùng về cái mảng chửi. Nếu không biết hoặc chưa biết thì thôi chứ dân biết rồi luôn tránh đôi co với cô ấy từ câu thứ hai. Cô ấy mà đã chửi thì không chỉ hàng giờ mà cả hàng buổi, bất kể sớm tối chiều trưa, chửi mệt thì vào làm hớp nước trà 0 độ hay âm độ gì đấy để lấy hơi rồi lại ra chửi tiếp. Ban đầu thì còn có vài người đôi co lời qua tiếng lại một chút nhưng riết rồi đều chạy hết, những người chưa được chứng kiến tài chửi của cô này nếu rủi có dây vào mà gân cổ chửi lại cuối cùng đều rút hết vì không thể chịu nổi sức bền bỉ En-ni-zai-zơ gì đấy của cô này. Người lạ nào mới đến đều được cá xóm chợ rỉ tai nên cạch từ xa là tốt nhất. Một ngày đẹp trời nọ, có một anh chàng nọ ghé đến xóm chợ này, tướng mạo phong trần, cũng từng vào ngang ra dọc từ bắc chí nam, sẵn sàng làm đủ thứ nghề từ thượng vàng hạ cám nhưng tuyệt đối sống rất nghĩa khí và hay giúp đỡ người khác, chưa từng ngán một giang hồ nào. Khi vừa vào đến ngõ xóm chợ đã nghe văng vẳng từ xa lời chửi của Cô Hàng Chợ, hỏi thăm thì được biết về tiếng tăm lừng lẫy của cái cô này. Mọi người đã nghe những tiếng chửi của cô ta quen rồi nên cũng ngán ngẩm chẳng ai buồn để ý tới, cứ để cô ta ngân nga giờ này qua giờ khác. Anh chàng Phong Trần (cũng tạm gọi vậy) ngẫm nghĩ : "Đúng là chẳng nên dây dưa vào mấy cái chuyện đàn bà này thật, nhưng cứ như vậy mãi cũng thật quá đáng, bắt cả chợ mỗi ngày phải nghe những lời lẽ thô thiển này sao ? Rồi còn các trẻ em nữa, chúng sẽ thấm vào đầu những gì từ những "bài ca con cá" này nhỉ ? Phải cho cô ta một bài học mới được". Nghĩ vậy, anh chàng nhờ mọi người giúp được diện kiến Cô Hàng Chợ này để đưa ra lời thách thi chửi, mọi người lúc đầu cũng ra sức can gián nhưng vì thấy anh ta rất quyết tâm nên mới dẫn đến gặp cô ta. Thế là lời thách thi của anh chàng được Cô Hàng Chợ chấp nhận. Nhưng trong cuộc thi có một không hai này cũng có luật của nó, luật ban đầu được anh chàng Phong Trần gợi ý đưa ra, về sau được mọi người tán thành, và hội đồng giám khảo chính là tất cả bà con có mặt trong phiên chợ ngày hôm đó. Luật của cuộc thi đưa ra là cả 2 cứ việc chửi nhau thoải mái khi nào khản giọng thì thôi nhưng tuyệt đối không được lôi ông, bà, cha, mẹ, họ hàng... các thứ của nhau ra chửi. Đúng quá rồi, 2 người chửi nhau thì liên quan gì đến tông thất của họ mà lôi ra rủa sả nhỉ ? Chỉ được chửi nhau thôi, chửi nhau thì cứ thoải mái... Và cuộc thi được chính thức bắt đầu, vì là khách nên chàng Phong Trần chấp nhận để Cô Hàng Chợ chửi trước. Cô Hàng Chợ đứng ngẩn người một lúc rồi chẳng biết phải bắt đầu từ đâu vì cô chưa quen với cái kiểu chửi cũng phải có luật này, cô ta nhường lại cho chàng Phong Trần chửi trước, kể ra cô ta cũng khá khôn khéo vì chửi sau cùng lắm thì thủ hòa chứ không thể thua được. Anh chàng Phong Trần nghe vậy hớp một cốc chè tươi rồi dõng dạc vươn vai đứng dậy, cả xóm chợ hồi hộp và nín lặng phăng phắc... Anh chàng chỉ thẳng cô ta và nói lớn : "TÔI ĐÉO CÔ" Cô Hàng Chợ vừa nghe xong thì tức tái mặt, lửa trong lòng thì cứ bừng bừng và mồ hôi thì tuôn nhễ nhại. Tức nhưng không chửi lại được câu nào, vì không thể tìm được chữ nào "độc" đến vậy, mà thủ hòa cũng chẳng xong vì chẳng lẽ lại là "Tôi đéo ông" ? Cô ta ngẩn người một lúc rồi từ từ rút lui khỏi đám đông từ lúc nào không biết, chấp nhận thua non. Anh chàng Phong Trần chiến thắng trong sự vỗ tay tán thưởng và ánh mắt trìu mến của mọi người. *********** Trần Phương chế tác theo câu chuyện thi chửi giữa anh chàng Ba Giai và cô hàng chợ trong tác phẩm "Ba Giai - Tú Xuất"
  21. BƠ VƠ Anh chỉ còn đây một trí thơ Một con đường lạnh dưới sương mờ Một trái tim trong lòng bị héo Một mảnh tâm hồn quá bơ vơ...
  22. Chuyện ở một làng nọ, có hai gia đình hàng xóm nhà ở cạnh nhau từ rất nhiều đời trước. Tuy trong quá khứ cũng có nhiều mối quan hệ thăng trầm tùy theo từng thời kỳ rối ren của xã hội nhưng cho đến nay nói chung là thân hữu, cũng là "tối lửa tắt đèn có nhau". Một gia đình ở trong một Nhà Lớn (Lớn hiểu theo nghĩa là rộng, không đồng nghĩa với Mạnh), còn nhà hàng xóm nhỏ hơn nên gọi là Nhà Nhỏ (cũng theo nghĩa là diện tích nhỏ, không đồng nghĩa với Yếu). Số là bên hông của anh Nhà Nhỏ có một cái ao đầm rộng, từ ao đầm này có thể thông thương thẳng ra sông cái và các vùng ven quanh làng bằng đường ghe thuyền. Ao đầm này vốn trước là sở hữu hoàn toàn của anh Nhà Nhỏ nhưng trải qua bao biến động của thời gian, của loạn lạc, của chiến tranh,... nên gia đình anh Nhà Nhỏ cũng lưu lạc làm ăn sinh sống ở khắp nơi, đến khi những người con gia đình họ đã yên ổn và trở về đoàn tụ thì gặp chút rắc rối với anh bạn láng giềng : cái ao đầm bên hông nhà mình đã được anh Nhà Lớn tuyên bố là chủ sở hữu đến 80%. Do vậy giữa họ mới nảy sinh tranh chấp. Xét về lý thì anh Nhà Nhỏ hoàn toàn có bằng chứng xác đáng rằng : xa thì ao đầm này là của tổ tiên từ đời cụ tổ nhà họ khai hoang lập ấp, gần thì giấy tờ văn bản vài đời trước còn rành rành ra đấy, chuyện này thì cả làng cả xóm đều biết. Nhưng về tình thì cả 2 bên, nhất là anh Nhà Nhỏ, đều không muốn để xảy ra lớn chuyện, dù gì cũng là chòm xóm láng giềng, lớn rồi chứ có phải học sinh lớp 3 đâu mà cứ hở ra là oánh nhau sứt đầu mẻ trán. Thậm chí anh Nhà Lớn còn nhiều lần ngỏ "thiện chí" là "gác lại tranh chấp, cùng nhau sử dụng" nhưng như vậy cũng không ổn, vì làm sao có thể cùng sử dụng chung được trong khi vấn đề quyền chủ sở hữu vẫn chưa rõ ràng. Cho nên cách tốt nhất là trước mắt mọi việc cứ giữ nguyên trạng đấy, không làm gì cho phức tạp thêm. Nói thêm về quan điểm của cả làng nếu vấn đề có đưa ra phân xử. Chuyện này thì họ không đứng về ai cả (bởi làng xóm còn nhiều việc hệ trọng hơn, với lại chuyện cái ao đầm thì đâu chỉ riêng 2 anh này, còn khoảng 3, 4 hộ nữa cũng có liên quan), cho nên chỉ để cho 2 anh giải quyết nội bộ miễn đừng làm gì xáo trộn đến cuộc sống của cả xóm, mặc dù họ biết về lý lẽ thì anh Nhà Nhỏ xác đáng hơn nhiều, còn một điều tế nhị nữa là : dù sao anh Nhà Lớn cũng là gia đình có uy tín vào hàng top của xóm, sản lượng hàng hóa gia dụng bình dân và rẻ tiền họ làm ra cho một nửa cư dân trong làng sử dụng. Nói tóm lại, cứ để nguyên trạng và cư xử cho đúng mực là tốt nhất, đừng làm mất lòng ai, và nhất là tuyệt đối không được để xảy ra xung đột, lớn rồi chứ đâu phải trẻ con. Thế là mọi chuyện vẫn cứ dậm chân tại chỗ như vậy, anh Nhà Lớn có tuyên bố gì đi nữa cũng không được sử dụng. Nhưng có điều rất thú vị là : cứ thỉnh thoảng gia đình dòng họ anh Nhà Lớn lại tổ chức biểu diễn Kungfu trên cái mặt ao ấy, họ biểu diễn khinh công, tung chưởng, nhào lộn, bơi lặn, ... thật đẹp mắt mà người xem không khỏi trầm trồ thán phục. Cứ như người ta sơn đông mãi võ vậy. Nhưng sơn đông mãi võ là để người ta bán thuốc kiếm tiền, còn biểu diễn như vậy để làm gì thì chẳng ai biết, hoặc cứ như họ nói rằng "để tự vệ" gì gì đó cũng được... miễn là có chương trình để thưởng thức cho bớt tẻ nhạt ở cái xóm vốn đang vật lộn với nhiều khủng hoảng kinh tế này. Thế là cứ đến hẹn lại lên, mỗi khi có chương trình biểu diễn võ thuật của gia đình anh Nhà Lớn là trẻ em khắp làng trên xóm dưới nô nức kéo nhau sang xem, hò reo cổ vũ nô nức cả một vùng sông nước, vui đáo để !