-
Số nội dung
526 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Lê Bá Trung
-
Ôi !Cháu nhầm lẫn thiệt rồi :lol: . Sơ ý quá, vì vào topic của Nữ Hoàng Laviedt thấy có chúc mừng diễn đàn sắp tròn 6 tháng tuồi nhưng quên xem lại, quay qua , quay lại diễn đàn đã tròn 1 tuổi, đúng vào ngày 10 tháng 3 Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương...Thật là một ngày trọng đại, ngày con cháu nhớ về nguồn gốc, nhớ về tổ tiên ;) . Đệ tử cám ơn sư phụ rất nhiều ạ. Kính chúc diển đàn ngày càng tiến xa hơn,ngày càng phát triển hơn... :lol: Lê Bá Trung.
-
Kính chào tất cả mọi người trong diễn đàn. Em tên Lê Bá Trung sn 1986 Bính Dần Vợ em tên là Nguyễn Thị Kim Thịnh. sn1988 Mậu Thìn Sang năm vợ em sẽ sanh em bé, sanh vào tháng 3.Em đặt tên bé là Lê Nguyễn Tuấn Anh. Tên như vậy có hợp với ngũ hành không ah. Theo như tên này không có trùng với tên tổ tiên trong gia tộc Kính nhờ mọi người trong diễn đàn góp ý thành thật cám ơn rất nhiều...
-
Kính chào bác Phúc Anh. Hôm nay cháu xin mạn phép làm phiền bác Phúc Anh một lần nữa. Những tên cháu chọn cho con đã được bác phân tích dùm, nhưng gia đình bên ngoại lại thích một tên khác: Lê Phước Sang. Kính mong bác Phúc Anh dành chút thời gian để phân tích giúp cháu. Đây là tên cuối cùng trong những tháng còn lại sau khi sinh.Chân thành cám ơn bác Phúc Anh rất nhiều.kính chúc bác thật nhiều sức khỏe và thành công. Kính gửi. Lê Bá Trung.
-
Kính Gửi Nữ Hoàng Xinh đẹp Laviedt. Nhân dịp Diễn Đàn sắp tròn 1 tuổi. Kính chúc diễn đàn ngày càng phát triển hơn. Nhân tiện cháu nhờ Nữ Hoàng luận quẻ dùm cho cháu. Cháu sinh năm 1986, ngày sinh là 2-3, sinh vào lúc 12:05 Buổi trưa. Vợ cháu sinh năm 1988, tháng 3 này vợ cháu sẽ sanh một bé trai, cho cháu hỏi sau khi sanh bé trai này xong công việc của cháu có tiến triển hơn không ạ? Tại vì ngay thời điểm hiện tại bây giờ công việc của cháu rất còn bấp bênh lắm chưa đâu vào đâu hết. Kính mong Nữ Hoàng Laviedt dành chút thời gian xem qua cho cháu. Kính chúc Nữ Hoàng ngày càng nhiều sức khỏe và vạn sự cát tường. Chân thành cám ơn Nữ Hoàng rất nhiều. Kính Gửi. Lê Bá Trung.
-
Kính chào bác TRAN ANH ANH THU. Cháu rất vui khi bác tham gia trên diễn đàn này. Bài viết của bác rất hay. Đây là mục trao đổi dành chung cho tất cả mọi người không dành riêng cho cá nhân cháu. Kính mong bác viết thêm vài bài nữa để mọi người học hỏi thêm kinh nghiệm.Chúc bác nhiều sức khỏe và vạn sự như ý. Kính Gửi. Lê Bá Trung.
-
Vừa lọt lòng mẹ, con đã được đặt cho một cái tên. Cái tên ấy theo con suốt cả cuộc đời. Tên có thể là niềm tự hào, hãnh diện, là nguồn động viên, nâng mỗi bước con đi. Nhưng cũng có người lại cảm thấy xấu hổ, tủi thân, thậm chí tức giận mỗi khi ai đó gọi tên mình, hoặc khi nghĩ đến người đã đặt tên cho mình. Cái tên nói lên tính cách con người. Hay con người tự rèn luyện mình cho giống với cái tên mình? Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định: tên gọi ảnh hưởng đến tinh thần cũng như sự nghiệp sau này của đứa trẻ. Trong muôn vàn chuẩn bị khi đón bé chào đời, đừng quên nghĩ đến một cái tên. Cho những công chúa theo mẹ lên rừng (A - K) 1. DIỆU ANH Con gái khôn khéo của mẹ ơi, mọi người sẽ yêu mến con 2. QUỲNH ANH Người con gái thông minh, duyên dáng như đóa quỳnh 3. TRÂM ANH Con thuộc dòng dõi quyền quý, cao sang trong xã hội. 4. NGUYỆT CÁT Hạnh phúc cuộc đời con sẽ tròn đầy 5. TRÂN CHÂU Con là chuỗi ngọc trai quý của bố mẹ 6. QUẾ CHI Cành cây quế thơm và quý 7. TRÚC CHI Cành trúc mảnh mai, duyên dáng 8. XUYếN CHI Hoa xuyến chi thanh mảnh, như cây trâm cài mái tóc xanh 9. THIÊN DI Cánh chim trời đến từ phương Bắc 10. NGỌC DIỆP Chiếc lá ngọc ngà và kiêu sa 11. NGHI DUNG Dung nhan trang nhã và phúc hậu 12. LINH ĐAN Con nai con nhỏ xinh của mẹ ơi 13. THỤC ĐOAN hãy là cô gái hiền hòa đoan trang 14. THU GIANG Dòng sông mùa thu hiền hòa và dịu dàng 15. THIÊN HÀ Con là cả vũ trụ đối với bố mẹ 16. HIẾU HẠNH Hãy hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ, đức hạnh vẹn toàn 17. THÁI HÒA Niềm ao ước đem lại thái bình cho muôn người 18. DẠ HƯƠNG Loài hoa dịu dàng, khiêm tốn nở trong đêm 19. QUỲNH HƯƠNG Con là nàng tiên nhỏ dịu dàng, e ấp 20. THIÊN HƯƠNG Con gái xinh đẹp, quyến rũ như làn hương trời 21. ÁI KHANH Người con gái được yêu thương 22. KIM KHÁNH Con như tặng phẩm quý giá do vua ban 23. VÂN KHÁNH Tiếng chuông mây ngân nga, thánh thót 24. ỒNG KHUÊ Cánh cửa chốn khuê các của người con gái 25. MINH KHUÊ Hãy là vì sao luôn tỏa sáng, con nhé. Cho những công chúa theo mẹ lên rừng (K - Y) 26. DIỄM KIỀU Con đẹp lộng lẫy như một cô công chúa 27. CHI LAN hãy quý trọng tình bạn, nhé con 28. BẠCH LIÊN Hãy là búp sen trắng toả hương thơm ngát 29. NGỌC LIÊN Đoá sen bằng ngọc kiêu sang 30. MỘC MIÊN Loài hoa quý, thanh cao, như danh tiết của người con gái 31. HÀ MI Con có hàng lông mày đẹp như dòng sông uốn lượn 32. THƯƠNG NGA Người con gái như loài chim quý dịu dàng, nhân từ 33. ĐẠI NGỌC Viên ngọc lớn quý giá 34. THU NGUYỆT Tỏa sáng như vầng trăng mùa thu 35. UYỂN NHÃ Vẻ đẹp của con thanh tao, phong nhã 36. YẾN OANH Hãy hồn nhiên như con chim nhỏ, líu lo hót suốt ngày 37. THỤC QUYÊN Con là cô gái đẹp, hiền lành và đáng yêu 38. HẠNH SAN Tiết hạnh của con thắm đỏ như son 39. THANH TÂM Mong trái tim con luôn trong sáng 40. TÚ TÂM Ba mẹ mong con trở thành người có tấm lòng nhân hậu 41. SONG THƯ Hãy là tiểu thư tài sắc vẹn toàn của cha mẹ 42. CÁT TƯỜNG Con là niềm vui, là điềm lành cho bố mẹ 43. LÂM TUYỀN Cuốc đời con thanh tao, tĩnh mịch như rừng cây, suối nước 44. HƯƠNG THẢO Một loại cỏ thơm dịu dàng, mềm mại 45. DẠ THI Vần thơ đêm 46. ANH THƯ Mong lớn lên, con sẽ là một nữ anh hùng 47. ĐOAN TRANG Con hãy là một cô gái nết na, thùy mị 48. PHƯỢNG VŨ Điệu múa của chim phượng hoàng 49. TỊNH YÊN Cuộc đời con luôn bình yên thanh thản 50. HẢI YẾN Con chim biển dũng cảm vượt qua phong ba, bão táp. Các hoàng tử theo cha xuống biển (A - N) 1. THIÊN ÂN Con là ân huệ từ trời cao 2. GIA BẢO Của để dành của bố mẹ đấy 3. THÀNH CÔNG Mong con luôn đạt được mục đích 4. TRUNG DŨNG Con là chàng trai dũng cảm và trung thành 5. THÁI DƯƠNG Vầng mặt trời của bố mẹ 6. HẢI ĐĂNG Con là ngọn đèn sáng giữa biển đêm 7. THÀNH ĐẠT Mong con làm nên sự nghiệp 8. THÔNG ĐẠT Hãy là người sáng suốt, hiểu biết mọi việc đời 9. PHÚC ĐIỀN Mong con luôn làm điều thiện 10. TÀI ĐỨC Hãy là 1 chàng trai tài dức vẹn toàn 11. MẠNH HÙNG Người đàn ông vạm vỡ 12. CHẤN HƯNG Con ở đâu, nơi đó sẽ thịnh vượng hơn 13. BẢO KHÁNH Con là chiếc chuông quý giá 14. KHANG KIỆN Ba mẹ mong con sống bình yên và khoẻ mạnh 15. ĐĂNG KHOA Con hãy thi đỗ trong mọi kỳ thi nhé 16. TUẤN KIỆT Mong con trở thành người xuất chúng trong thiên hạ 17. THANH LIÊM Con hãy sống trong sạch 18. HIỀN MINH Mong con là người tài đức và sáng suốt 19. THIỆN NGÔN Hãy nói những lời chân thật nhé con 20. THỤ NHÂN Trồng người 21. MINH NHẬT Con hãy là một mặt trời 22. NHÂN NGHĨA Hãy biết yêu thương người khác nhé con 23. TRỌNG NGHĨA Hãy quý trọng chữ nghĩa trong đời 24. TRUNG NGHĨA Hai đức tính mà ba mẹ luôn mong con hãy giữ lấy 25. KHÔI NGUYÊN Mong con luôn đỗ đầu. Các hoàng tử theo cha xuống biển (N - V) 26. HẠO NHIÊN Hãy sống ngay thẳng, chính trực 27. PHƯƠNG PHI Con hãy trở thành người khoẻ mạnh, hào hiệp 28. THANH PHONG Hãy là ngọn gió mát con nhé 29. HỮU PHƯỚC Mong đường đời con phẳng lặng, nhiều may mắn 30. MINH QUÂN Con sẽ luôn anh minh và công bằng 31. ĐÔNG QUÂN Con là vị thần của mặt trời, của mùa xuân 32. SƠN QUÂN Vị minh quân của núi rừng 33. TÙNG QUÂN Con sẽ luôn là chỗ dựa của mọi người 34. ÁI QUỐC Hãy yêu đất nước mình 35. THÁI SƠN Con mạnh mẽ, vĩ đại như ngọn núi cao 36. TRƯỜNG SƠN Con là dải núi hùng vĩ, trường thành của đất nước 37. THIỆN TÂM Dù cuộc đời có thế nào đi nữa, mong con hãy giữ một tấm lòng trong sáng 38. THẠCH TÙNG Hãy sống vững chãi như cây thông đá 39. AN TƯỜNG Con sẽ sống an nhàn, vui sướng 40. ANH THÁI Cuộc đời con sẽ bình yên, an nhàn 41. THANH THẾ Con sẽ có uy tín, thế lực và tiếng tăm 42. CHIẾN THẮNG Con sẽ luôn tranh đấu và giành chiến thắng 43. TOÀN THẮNG Con sẽ đạt được mục đích trong cuộc sống 44. MINH TRIẾT Mong con hãy biết nhìn xa trông rộng, sáng suốt, hiểu biết thời thế 45. ĐÌNH TRUNG Con là điểm tựa của bố mẹ 46. KIẾN VĂN Con là người có học thức và kinh nghiệm 47. NHÂN VĂN Hãy học để trở thành người có học thức, chữ nghĩa 48. KHÔI VĨ Con là chàng trai đẹp và mạnh mẽ 49. QUANG VINH Cuộc đời của con sẽ rực rỡ, 50. UY VŨ - Con có sức mạnh và uy tín. Nguồn:Tiếp Thị Gia Đình
-
HỌ TÊN & VẬN MỆNH ! Khi 1 đứa trẻ sinh ra, điều đầu tiên mà người ta làm cho nó là đặt tên. Vì vậy, cái tên cũng có nghĩa là sự ảnh hưởng đầu đời đến vận mệnh đứa bé. Bạn có biết điều bí mật này không? Đối với 1 cái tên, nó thể hiện ngầm một điều khiển nào đó đến vận mệnh con người, vì trong cái tên nó hàm chứa một quyền lực mà ta không thể lý giải được, chỉ biết nó thuộc trên phương diện tâm linh và đi theo số phận, để cùng số phận điều khiển vận mệnh con người sau đó. Có quan điểm cho là... tên nó phù hộ cho vận mệnh , nó đem lại sự thuận lợi, ban cho sự may mắn... nếu bạn có được một cái tên phước lành; ngược lại, khi bạn mang một hung tên, thì cái tên đó như là một cái gọng, vô hình đè lên bạn , dù bạn có nổ lực nhiều... thì vẫn có một con mắt đen vô hình nào đó, cản trở, làm bạn gặp nhiều bất hạnh trong đời. Điều thực tế này, bạn có thể nhìn quanh mình và nhận thấy... có sự khác biệt giữa người mang tên phước lành và người mang hung tên... một phản ánh rõ ràng và hệ quả! Cái tên khi được đặt... là báo hiệu cho sự sinh ra trong cuộc sống trần gian của một người. Và cụ thể, nó đi theo sinh mệnh của người mang nó, hàm chứa trong đó quyền lợi và nghĩa vụ mà người đó sẽ có. Người ta có thể biết hay không điều này, những ảnh hưởng , chi phối đến sinh hoạt từ cái tên... thì vẫn là sự hiển nhiên âm thầm trên mặt tâm linh. Phương pháp chọn và xem tên, cũng giống như là phương pháp đoán vận mệnh, nó không có giới hạn rõ ràng. Vì vậy, chúng ta cần thận trọng để dùng cái tên như là người quân tử biết dùng kiến thức giàu có, suy nghĩ sâu xa làm phương thuốc kỳ diệu để giúp đời, tránh biến nó thành lưỡi dao của kẻ sát nhân! CÁCH PHÂN TÍCH HỌ TÊN Phân tích họ tên, ta có thể phán đoán được điềm hung ác trong cái tên đó. Trước tiên, họ tên hàm chứa 5 ý nghĩa trong đó: Thiên Vận, Nhân Vận, Địa Vận, Ngoại Vận và Tổng Vận. 5 ý nghĩa trên còn gọi là ngũ vận hay ngũ cách của cái tên - Thiên vận: là điềm báo do cái họ đem đến - Nhân vận: là điềm báo do sự kết hợp ý nghĩa sâu xa bên trong tên và họ - Đia vận: là điềm báo do cái tên đem đến - Ngoại vận: là điềm báo do sự kết hợp ý nghĩa bên ngoài tên và họ - Tổng vận: là điềm giải đoán chung trên toàn thể tên và họ Phân tích nghĩa của ngũ vận xong, ta phải xét theo số nét hoa chữ Hán để biết ý nghĩa Cát – Hung (tốt – xấu), cấu trúc hài hoà của chữ Hán của tên và họ... CÁC GIẢ THUYẾT VỀ PHÂN LOẠI HỌ TÊN THÔNG DỤNG QUAN ĐIỂM ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH & CÁCH SẮP XẾP Ý NGHĨA ÂM DƯƠNG Ý NGHĨA CỦA TÊN GỌI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ Ý NGHĨA ÂM THUẦN NHẬT VÀ HÁN NHẬT ( NẾU TIẾNG Việt là Âm Thuần Việt và Hán việt ) MỐI LIÊN HỆ GIỮA HỌ TÊN VÀ VẬN MỆNH THẾ NÀO LÀ MỘT CÁI TÊN TỐT ? Điều kiện để tạo nên 1 cái tên tốt gồm rất nhiều yếu tố, nhưng trước tiên quan trọng nhất phải là sự hài hoà giữa họ và tên, nghĩa là phải tương sinh mà không tương khắc. Trong thuật đoán họ tên, điều cơ bản là phải nhìn linh số để có thể phán đoán điềm hung ác trong cái tên. (Linh số có thể hiểu là tâm hồn của cái tên, tức là số nét hoa chứa trong cái tên và để cấu tạo thành ý nghĩa, mà khi phân tích ra từng ý nghĩa nhỏ đều hàm chứa sự sâu sắc). Kế đó, xem về mặt âm dương ngũ hành và âm thanh... để xem có yếu tố nào bất thường hay bất ổn không. Một cái tên tốt lành và may mắn đòi hỏi sự hài hoà và hổ trợ nhau giữa tên và họ. Điều đó thể hiện ở ngoại cảm cái tên như: - Nhìn vào tên, linh cảm tốt. - Nghe cái tên, cảm thấy thân thiện. - Tên có vẽ hợp với họ. - Tên dễ viết. - Tên dễ gọi Về sự tương khắc, tương sinh trong tên họ, Yoshimi nhận thấy như sau: 1. Sự tương khắc, tương sinh có thể xảy ra trong bản thân giữa tên và họ. Ví dụ: + họ thuộc hành Thổ, tên thuộc hành Mộc... tức sẽ có sự xung khắc. (Thổ khắc Mộc) + họ thuộc hành Thổ, tên thuộc hành Hỏa... tức sẽ có sự tương sinh.(Hỏa sinh Thổ) 2. Sự tương khắc, tương sinh nằm giữa tên họ và bản mệnh của người mang nó. Ví dụ: 1 đứa trẻ sinh năm 2003, sẽ có mệnh Mộc. + Nếu đặt tên bé là Ngân (tiền, kim loại) thuộc hành Kim, tên và Mệnh của bé có sự xung khắc. + Nếu bé được đặt tên Thủy (nước), tức tên và Mệnh có sự tương sinh. ** Về họ và tên, như có 1 bài viết Yoshimi có đề cập đến: Họ là Thiên văn vì khi một người chào đời, sẽ phải mang họ của tổ tiên mình để lại. Tên thuộc về Nhân văn vì nó gần hơn, cái tên là sự chọn lựa của cha mẹ tặng cho con cái. Với người Trung Quốc hay Nhật Bản, họ thường gọi nhau bằng họ. Người Việt mình gọi nhau bằng tên. Do đó, tên nên hạp với Mệnh. Còn chữ lót, đóng vai trò thế nào trong tên họ của một người? Có lẽ là chữ lót đi theo tên là chính. Vì nhiều khi ta gọi ai đó bằng chữ lót với tên như: Minh Anh, Quang Dũng... Điểm quan trọng nhất trong việc chọn tên là họ, chữ lót, tên.... phải có sự hài hòa. Ví như xây một ngôi nhà, kết cấu nền móng phải hạp với kiến trúc! "Việc đặt tên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tên họ có vai trò ảnh hưởng rất nhiều đến vận mệnh của cả một đời người. Cái tên của mỗi người chính là biểu tượng phản ánh toàn bộ chủ thể bản thân con người ấy. Cái tên cũng dùng rất nhiều trong giao tiếp, trong học tập, sinh hoạt, công việc hàng ngày. Vì lẽ đó, cái tên tạo thành một trường năng lượng có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến vận mệnh mỗi con người. Từ xa xưa cha ông ta đã lưu ý rất nhiều khi đặt tên cho con cháu mình, thời Phong Kiến, người xưa có quan niệm rằng kỵ đặt tên phạm huý, tức là tên trùng với tên họ của vua quan quý tộc, như thế sẽ bất lợi cho con cháu. Ngoài ra, cũng kỵ đặt những tên quá mỹ miều, sợ quỷ thần ghen ghét làm hại nên lúc nhỏ sẽ khó nuôi. Những người có học hành, chữ nghĩa thì đặt tên con cháu theo những ý nghĩa đặc trưng của Nho Giáo như Trung, Nghĩa, Hiếu, Thiện,… Ngày nay việc đặt tên có xu hướng phóng khoáng hơn xưa nhưng cái tên vẫn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, không những chỉ mang yếu tố mỹ cảm mà về yếu tố Âm Dương, Ngũ Hành cái tên còn có vai trò rất quan trọng trong việc cải tạo vận mệnh của mỗi người. Tổng quan những lý thuyết quan trọng cho việc đặt tên bao hàm những yếu tố sau: - Cái tên được đặt phải phù hợp với truyền thống của mỗi dòng họ. Từ xưa đến nay trong văn hoá Việt Nam nói riêng và văn hoá Á Đông nói chung đề cao vai trò của gia đình, dòng họ. Con cháu phải kế thừa và phát huy được những truyền thống của tổ tiên gia tộc mình. Điều này thể hiện trong phả hệ, những người cùng một tổ, một chi thường mang một họ, đệm giống nhau với ý nghĩa mang tính kế thừa đặc trưng của mỗi chi, mỗi họ như họ Vũ Khắc, Nguyễn Đức,… - Tên được đặt trên cơ sở tôn trọng cha, ông của mình, như tên kỵ đặt trùng với tên ông, bà, chú, bác…điều này rất quan trọng trong văn hoá truyền thống uống ước nhớ nguồn của Việt Nam ta (nhưng lại ngược lại với văn hoá Tây Phương, vì ở Tây Phương khi dùng tên của ông bà, chú bác lại là 1 vinh hạnh). - Tên phải có ý nghĩa cao đẹp, gợi lên một ý chí, một biểu tượng, một khát vọng, một tính chất tốt đẹp trong đời sống. Như cha mẹ đặt tên con là Thành Đạt hy vọng người con sẽ làm nên sự nghiệp. Cha mẹ đặt tên con là Trung Hiếu hy vọng người con giữ trọn đạo với gia đình và tổ quốc. - Bản thân tên phải có ý nghĩa tốt lành, đã được đúc kết và nghiệm lý theo thời gian như tên Bảo, Minh thường an lành hạnh phúc. Kỵ những tên xấu như Lệ, Tài,…vì những tên này có ý nghĩa không tốt đẹp đã được kiểm chứng trong nhiều thế hệ. - Tên bao gồm 3 phần là phần họ, đệm và tên. 3 phần này trong tên đại diện cho Tam Tài Thiên - Địa – Nhân tương hợp. Phần họ đại diện cho Thiên, tức yếu tố gốc rễ truyền thừa từ dòng họ. Phần đệm đại diện cho Địa tức yếu tố hậu thiên hỗ trợ cho bản mệnh. Phần tên đại diện cho Nhân tức là yếu tố của chính bản thân cá nhân đó. Thiên - Địa – Nhân phối hợp phải nằm trong thế tương sinh. Mỗi phần mang một ngũ hành khác nhau, việc phối hợp phải tạo thành thế tương sinh, kỵ tương khắc. Ví dụ như Thiên = Mộc, Địa = Hoả, Nhân = Thổ tạo thành thế Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim là rất tốt. Nếu Thiên = Mộc, Địa = Thổ, Nhân = Thuỷ tạo thành thế tương khắc là rất xấu. Yếu tố này cũng có thể nói gọn là tên phải cân bằng về Ngũ Hành. - Tên phải cân bằng về mặt Âm Dương, những vần bằng thuộc Âm, vần trắc thuộc Dương. Trong tên phải có vần bằng, trắc cân đối, kỵ thái quá hoặc bất cập. Ví dụ như Thái Phú Quốc quá nhiều vần trắc, Dương cường, Âm nhược nên luận là xấu. Tên Thái Phú Minh luận là Âm Dương cân bằng nên tốt hơn. - Yếu tố rất quan trọng của tên ngoài việc cân bằng về Âm Dương, Ngũ Hành còn phải đảm bảo yếu tố hỗ trợ cho bản mệnh. Ví dụ, bản mệnh trong Tứ Trụ thiếu hành Thuỷ thì tên phải thuộc Thuỷ để bổ trợ cho mệnh, vì thế tên phải đặt là Thuỷ, Hà, Sương,… - Tên còn cần phối hợp tạo thành quẻ trong Kinh Dịch, quẻ phải tốt lành như Thái, Gia Nhân, Càn, tránh những quẻ xấu nhiều tai hoạ rủi ro như quẻ Bĩ, Truân, Kiển,…Quẻ cũng cần phối hợp tốt với Âm Dương Bát Quái của bản mệnh. Ví dụ về đặt tên: nữ sinh năm Giáp Thân, trong Tứ Trụ mệnh thiếu Kim, nên dùng tên bổ trợ hành Kim cho bản mệnh. Tên đặt Nguyễn Thái Ngọc Nhi. Sau đây phân tích những yếu tố tốt của tên này: 1. Ngũ Hành tương sinh: Họ Nguyễn = Mộc sinh Thái = Hoả sinh Ngọc = Thổ sinh Nhi = Kim. Ngũ Hành tạo thành vòng tương sinh hỗ trợ cho bản mệnh thiếu Kim 2. Tên này Âm Dương cân bằng vì hai vần bằng trắc cân đối ngụ ý một đời sống an lành, tốt đẹp 3. Ý nghĩa của tên trong Hán văn có nghĩa là viên ngọc quý, hàm ý một đời sống sang trọng, đầy đủ 4. Phối quẻ được quẻ Dự là một quẻ tốt cho nữ số. Những người có tên không tốt hoặc vận mệnh đang gặp khó khăn trở ngại thì đổi tên là một trong những phương pháp hiệu quả để cải tạo vận mệnh của chính mình. Tóm lại, đặt tên tốt là một việc rất khó khăn, bao hàm rất nhiều yếu tố phối kết hợp để tạo thành một tên đẹp theo nghĩa mỹ cảm lẫn Âm Dương, Ngũ Hành, hầu đem lại cho người mang tên đó một sự hỗ trợ cần thiết cho cuộc sống tốt lành trong tương lai, để rạng danh được dòng họ của mình, mang lại sự nghiệp tốt đẹp cho bản thân và xã hội. ...." Tên họ của mỗi cá nhân vô cùng quan trọng, cộng thêm sức rung/ vibration/ frequency của "tên họ" sẽ có sự khác biệt giữa ngay cả hai anh em sinh đôi có cùng 1 lá số Tử Vi/Tử Bình. Tên người nào có Dụng Thần và Hỉ Thần thì cuộc đời được nhiều may mắn thành công hơn và có khi cả tuổi thọ cũng cao hơn. Ngược lại tên họ có Kỵ Thần thì phải vất vả kém may mắn. Nguồn:(Sưu tầm từ Nhân Trắc Học)
-
Kính gửi bác Thiên Sứ cùng toàn thể hội viên trên đàn. :P Sau nhiều lần post ảnh lên mạng nhưng vì ảnh quá to nên bác không thể xem được cho cháu. :( Hôm nay cháu đã làm lại tất cả các anh xử lý nhỏ lại cho bác xem được ạ. :( Nhà cháu phạm phong thủy quá nặng mong bác giúp đỡ. :( Ba cháu sinh năm 1944, tuổi Giáp Thân, Mẹ Sinh năm 1951 Tân Mão. :D Nhà cháu hướng Tây Bắc có tọa độ 310 o. Nhà cháu hình chữ L :( Nhà cháu bị một cái toilet nằm ở Đông Nam. :( Bếp nằm dưới cầu thang,Cầu thang bị đối môn. Kính mong bác cùng hội viên trên diễn đàn xem xét và cho cháu cách giải quyết. :( đây là sơ đồ và kích thước thật của nhà. Còn đây là bản dồ cháu chụp từ vệ tinh, cai khung màu đỏ là nơi cháu ở. Phòng khách. Chổ lồi chữ L cầu thang đối môn. kế bên tường cháu có gắng cái gương to nơi đó là góc khuyết thu hẹp, cháu gắn như vậy có được không ạ.? Không Gian Bếp.Bếp nằm dưới cầu thang. Bàn thờ. hành lang dẫn ra sân thượng. Đây là phòng của cháu. Đây là phòng của chị cháu. Trong đó có 1 cái toilet nhỏ Sân thượng Cây xoài to nằm ở góc Trái căn nhà. Đây là toàn bộ ảnh cháu thu nhỏ, mong bác và tất cả hội viên xem trả lời giúp cháu ạ.Thành thật cám ơn bác và tất cả hội viên trong diễn đàn. :lol:
-
Kính gừi anh Phạm Thái Hòa. Nhờ anh luận một quẻ cho bà chị em xem khi nào bà chị em lên xe tăng, em đợi mãi chưa thấy hồi âm của anh. Bà chị em sinh năm 1984, sinh lúc:5h30 buổi sáng. Cám ơn anh Phạm Thái Hòa. Lê Bá Trung.
-
Cám ơn anh Thiên Luân đã góp ý. Tiếc rằng các hình em gửi lên trên đây đã bị die, em sẽ gửi lại cho anh tham khảo. Phòng Khách. Bàn thờ em đã chuyển sang dưới bàn thờ chính hướng ra cửa, hướng Phúc Đức. Cầu thang. Bếp. Phòng khách cũng là chỗ ngủ của ba mẹ. Phòng bà chị. Phòng bà chị Phòng của em. Huyền Quan.Cửa chính nằm Phía tây có nguy cơ phạm không vong thì phải. Tạm thời em gửi cho anh một số hình và các thành viên khác tham khảo vì link die nên em post lại hình, anh Thiên Luân xem có chỗ nào cần chỉnh sửa góp ý cho em nhé. Cám ơn anh Thiên Luân. Kính Gửi. Lê Bá Trung.
-
Xin chào anh Thiên Luân. Rất cám ơn sự góp ý của anh Thiên Luân. Đúng như anh Thiên Luân nói bên phía Bạch Hổ nhà Trung có một con hẻm, con hẻm này là hẻm cụt không lớn lắm, xe cộ cũng ít có ra vào thường xuyên trong hẻm này người dân dùng để trồng cây kiểng xung quanh. Theo như em nghĩ nhà thiếu mất Bạch Hổ bất lợi cho người nữ trong gia đình. Anh có thể giải thích vì sao nếu khuyết như vậy lại tốt, phía Thanh Long nhà em cũng bị khuyết, bị khuyết cung Ly, và Tốn. Nhà em thuộc đầu voi đuôi chuột, nên phía sau nhà hơi thóp vào thiết kế bếp hơi chật. Bồn rửa chén kế bên bếp, thủy hỏa xung khắc, hiện giờ em đang để 1 tấm thảm xanh ngay đó cho cân bằng chỉ là tạm thời trong thời gian chuẩn bị sửa chửa phong thủy lại. Xin anh Thiên Luân góp ý chỉ bảo thêm ạ. Chúc anh vạn sự cát tường. Kính Gửi. Lê Bá Trung.
-
Thân chào sư huynh Nhị, bài này của tác giả: Nguyễn Phúc Vĩnh Tung. Nguồn:nhadatsaigon.vn Thân chào. Lê Bá Trung.
-
Chúng ta có cơ sở để tự hào về dân tộc chúng ta - tự hào về hơn 4000 năm văn hiến. Văn minh dưới thời vua Hùng giữa Trung Hoa và nước Việt chúng ta không có sự khác biệt, có những lĩnh vực chúng ta hơn hẳn người phương Bắc. Vấn đề là ở chỗ người Hán âm mưu đồng hóa dân Việt mình, cho nên họ đã cấm người Việt học chữ khoa đẩu, là chữ viết riêng của dân Việt. Khi người Việt không đọc được chữ của mình thì lịch sử, văn học, văn minh của một dân tộc không còn nữa. Người Việt chúng ta đã bị biến thành dân mọi rợ ngu dốt, học chữ Hán để chúng dễ dàng biến dân Việt thành dân Hán. Theo những nghiên cứu dựa vào chữ khoa đẩu dưới thời Lý thì lúc đó (thời Hùng Vương) bên đất Việt mình văn minh, võ học, tư tưởng, học thuật có phần hơn Trung Quốc. Về võ học, sử sách còn ghi Vạn Tín hầu Lý Thân thắng các cao thủ trong triều Tần Thủy Hòang, giúp xây Vạn Lý Trường Thành, đánh giặc Hung Nô. Chúng ta có chữ khoa đẩu từ xưa ghi lại văn minh thời vua Hùng, văn minh thời Lĩnh Nam đều chép bằng loại chữ này. Đến thời Hai Bà Trưng, công chúa Phùng Vĩnh Hoa cũng đã tìm được 74.988 bộ sách đã được viết trong suốt các triều đại lịch sử trước kia. Kinh thì có các bộ Bách Tộc, Kinh Dương, Lạc Long... Những sách chép về y học, thiên văn học, lịch số học, cùng với hàng nghìn bộ sách lặt vặt rất nhiều. Có thể nói, lúc đó văn minh hai nước Trung-Việt ngang nhau. Khi Mã Viện đánh thắng Hai Bà Trưng rồi chiếm lấy nước ta, Mã Viện đã ra lệnh thu hết sách vở chở về Lạc Dương, cấm học chữ khoa đẩu hoặc trong nhà người nào có sách bằng chữ khoa đẩu sẽ bị bắt để cho dân Việt chúng ta không còn biết nguồn gốc và xem chúng ta giống như các bộ tộc man di mọi rợ. Cái thành công của tụi Hán là làm cho chúng ta tin mình như vậy. Vì những thư tịch cổ của mình bị mất nên tụi Tàu nó muốn chép láo lếu về dân Việt của mình như thế nào cũng được vì tụi nó nghĩ rằng không còn ai biết để mà sửa lại. Trong bộ Hậu Hán thư của Phạm Việp còn ghi rằng dân Việt lúc đó không biết lễ nghĩa và chính Sĩ Nhiếp là người đầu tiên dạy dân Việt học chữ Hán với lễ nghĩa. Thế mà ngày nay nhiều người Việt còn coi bộ sách này làm khuôn vàng, thước ngọc để tra cứu sử Việt. Cũng may là đến thời nhà Lý vẫn còn công chúa Bình Dương con vua Lý Thái Tông và một số người vẫn còn biết chữ khoa đẩu để mà ghi chép lại, nếu không thì không biết đâu mà tìm. Nếu chúng ta không có 1 nền văn minh tích tụ trước từ thời vua Hùng, người Việt không có nguồn gốc lịch sử, văn học hay võ thuật không thể tự nhiên tình cờ có Hai Bà Trưng cùng với 162 vị anh hùng nổi lên đánh những trận kinh thiên động địa như trận Trường An, Nam Hải, Hồ Động Đình, Tượng Quận... gắn liền với tên tuổi của các vị công chúa Hoàng Thiều Hoa, Thánh Thiên, Phật Nguyệt, Phùng Vĩnh Hoa làm cho tụi Hán phải chống cự vất vả. Những trận chiến kia vẫn còn vết tích để lại trên phần đất Lĩnh Nam của chúng ta mà tụi Tàu chiếm giữ đến ngày nay. Thiên cổ Miếu, thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, TP Việt Trì, nơi thờ hai vợ chồng thày giáo Vũ Thê Lang, thời vua Hùng Nhà giáo về hưu 71 tuổi Đỗ Văn Xuyền (sinh năm 1937), hiện đang sống tại Việt Trì, sau một thời gian để công nghiên cứu đã bước đầu công bố công trình hơn 50 năm trời nghiên cứu “Giải mã chữ Việt cổ” tại Trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam. Để phản biện kết quả nghiên cứu của ông - một số người ngoài ngành tin rằng cần có một hội đồng chuyên gia đa ngành đánh giá và kết luận. Sơ bộ, đó là một thành quả nghiên cứu công phu, nghiêm túc, phản ánh sự lao động kiên trì, giàu nghị lực của tác giả và thành quả là một đóng góp có giá trị giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cội nguồn lịch sử, văn hóa của dân tộc và có thể mở ra "cửa sổ mới" hết sức thú vị để chúng ta hiểu được các thư tịch cổSau nhiều năm nghiên cứu các Ngọc phả tại các đền thờ khác nhau rải rác khắp vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ, ông đã tìm ra 18 nơi thờ các thầy giáo, học trò từ thời An Dương Vương, Hùng Vương. Từ đó ông đưa ra một giả thiết ban đầu của mình là trước năm 186 công nguyên là năm chữ Hán được đưa vào Việt Nam thì dân tộc ta đã có chữ viết riêng - chữ Việt cổ, chữ viết đó được các thầy giáo thời Hùng Vương sử dụng. Giả thiết này hoàn toàn khác với điều đa số người Việt hiện nay vẫn cho rằng là trước khi bị Tàu đô hộ, nước Văn Lang (tức nước Việt) không có chữ viết riêng mà chỉ đến khi người Tàu qua xâm chiếm thì người Việt mới bắt đầu dùng chữ Hán để viết. Qua nghiên cứu các thư viện và tìm đọc các thư tịch trong, ngoài nước của nhiều nhà nghiên cứu tiền bối đã đi sâu vào vấn đề này: Từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... ông đều gặp may bởi họ đã khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ có liên hệ gì với chữ Quốc Ngữ? Chữ Quốc ngữ xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ 17. Nhiều cuốn sách cổ được in từ buổi đầu chữ Quốc ngữ xuất hiện, đến nay hầu như không ai đọc được.Khi đem bộ chữ Việt cổ đã được giải mã thử đọc một số cuốn sách cổ, như cuốn “Từ điển Việt-Bồ-La” (1651) của Alexandre de Rhodes, hay cuốn “Sách sổ sang” của Philip Bỉnh (Giám mục người Việt, ở Thủ đô Bồ Đào Nha những năm 1790-1820), thầy giáo Xuyền đã rất thú vị khi dễ dàng đọc được những từ khó mà lâu nay nhiều người không đọc cũng không giải thích được. Chính từ việc này, thầy Xuyền đã đưa ra một giả thuyết: Chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là một công trình hoàn toàn mới của Alexandre de Rhodes. Những trang viết trong cuốn “song ngữ” La Tinh- Việt cổ do ông Xuyền biên soạn. Nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ?!Giả thuyết của thầy Xuyền không phải không có căn cứ. Bởi chữ Quốc ngữ và chữ Việt cổ do ông giải mã có cùng cấu trúc ghép vần tương tự nhau, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi! Chính trong cuốn “Từ điển Việt-Bồ-La”, Alexandre de Rhodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, nó đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo ông Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ! Tôi xin góp ý về bài thơ trên bằng chữ cổ, tức là xem kỹ thì thấy:- ở từ "nghêu" thiếu chữ "-u" (phải viết thêm "c" đảo lộn) - quen viết thành "engn" ("vv" là -e-, "nb" là ng-, còn U-vuông là n/m) ->lối viết nguyên âm rất giống tiếng Khmer, Thái Quy luật đặt âm, vần của chữ Việt cổ Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, ông sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là:- Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không ? - Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của ký tự đó không ? - Có giải quyết được các "nghi án" về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm) Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ La Tinh của phương Tây, nên rất dễ học. Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn thay đổi vị trí. Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông mới tìm ra quy luật – Quy luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ: từ trời nguyên âm đặt phía trên, từ đất nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau). Để thuộc bảng chữ cái và nắm được quy luật ghép vần , người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày. "Nghiêu thế, Việt thường Thị Kiến thiên tuế thần quy, Bối hữu khoa đẩu". Sách Tân Lĩnh Nam Chích quái của Vũ Quỳnh (đời Lê, thế kỷ 15) viết đại ý: Thời Lạc Long Quân có người hái củi, bắt được con rùa, lưng rộng khoảng ba thước, trên mai có khắc chữ như con nòng nọc gọi là chữ Khoa Đẩu. Hùng Quốc vương đã cử phái đoàn đem rùa thần đó cống cho vua Nghiêu. Về việc này, sách Thông Giám Cương Mục do Chu Hy đời Tống viết: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 trước Công nguyên) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”. Sách Thông Chí của Trịnh Tiểu cũng đời Tống nói rõ hơn: “Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”. - Đây còn là khởi thủy của KINH DỊCH đấy ! Một lần trên đường đi tìm kiếm ông đã dừng chân bên ngôi miếu nhỏ của một xóm núi, đọc được một bản Ngọc Phả thời Trần Thái Tông với những dòng chữ vang vọng tự hào: "Nghiêu thế, Việt thường Thị Kiến thiên tuế thần quy, Bối hữu khoa đẩu". Như vậy thời Hùng Vương, dân tộc ta đã có chữ viết với tên gọi Khoa Đẩu, đó là điều có thể khẳng định chắc chắn. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15, cuộc đốt phá hết thư khố quốc gia và thư khố của các bộ (sau cuộc tấn công vào đồn Mang Cá) của Pháp năm 1875, liệu có còn sót lại những gì? Ông Xuyền đến Sa Pa, trên tảng đá vùng Hầu Thảo, sau khi cạo lớp rêu phủ đã tìm được những chữ giống như chữ cái của Vương Duy Trinh, Hiệp biện Đại học sỹ, Tổng đốc Thanh Hóa. Trong cuốn Thanh Hóa quan phong viết năm 1903, Vương Duy Trinh đã giới thiệu một số chữ lạ sưu tập được, khẳng định đó là chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương, và đưa ra nhận xét: “Vì Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Trung Quốc”. Giáo sư Hà Văn Tấn đã công bố công trình nghiên cứu “Về một nền văn tự trước Hán và khác Hán”, Giáo sư Lê Trọng Khánh thì khẳng định “Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa Đẩu thời tiền sử để ghi tiếng dân tộc mình”. Nhớ tới câu nói của Vương Duy Trinh: "Vì thập Châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy", ông hướng tìm tòi lên vùng Tây Bắc, Việt Bắc, vùng khu 4 cũ, rồi lăn lộn lên cả Đông và Tây dãy Trường Sơn để tìm theo dấu vết. Để đi được dài ngày và đi xa, với số tiền lương hưu ít ỏi, ông đã phải tính đến việc ăn ngủ giản tiện nhất, đó là: một chiếc võng bạt, một bi đông đựng nước, một ít bánh mì sấy khô và dăm gói mì tôm. Thế là ông "cầm cự" được hàng chục ngày để đi đến các vùng sâu vùng xa, quyết tìm cho ra chữ Việt cổ. Trong các tài liệu sưu tầm được, ông đặc biệt chú ý đến một bộ chữ lạ. Rất tiếc là những trang sách này đã bị nguỵ trang và khoá mã, mặc dù vậy nó đã tồn tại hàng mấy trăm năm mà không ai chú ý tới. Linh cảm mách bảo, ông đã thức nhiều đêm trắng để mày mò giải mã. Kiến thức tổng hợp và vốn ngoại ngữ đã giúp ông rất nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu chữ Việt cổ. Kết quả, ông đã khu biệt được loại ký tự này với các loại văn tự xung quanh, tìm ra được hình dạng, chức năng của từng chữ cái và cách cấu trúc của một loại ký tự mà người ta đã nhầm là chữ Mường, chữ Thái... Qua công trình nghiên cứu về ngôn ngữ người Việt cổ HauĐricourt, ông khẳng định được bộ ký tự này có từ trước công nguyên (loại ký tự bắt nguồn từ chữ Khoa đầu tượng hình chuyển sang chữ cái có ghép vần). Căn cứ vào ý kiến của giáo sư Lê Trọng Khanh: "Các dân tộc Bách Việt dùng thứ chữ này". Khi đã đọc thông viết thạo chữ Việt cổ, ông lại tìm đến các vùng người Thái, người Mường. Loại văn tự này có thể ghi được tiếng Thái, tiếng Mường nhưng không đầy đủ. Ông lại tìm đến các vùng quê Thái Bình, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thanh Nghệ Tĩnh... để lắng nghe những người già phát âm. Thứ ký tự này đã giúp ông ghi lại đầy đủ giọng nói, âm vực của họ, giúp ông giải thích được tiếng nói khác nhau của từng vùng - gần như nó đã ghi lại nguyên tiếng nói người Việt cổ. Nó đã giúp ông giải thích được nhiều vấn đề còn thắc mắc. Ví dụ: Vì sao trong tờ Le Paria và tờ L'Humanité từ những năm 20 của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Chữ Nguyễn Ái Quốc được viết là Nguyễn ái Quấc. Và trong cuốn sách sổ sáng của Filíp Bỉnh viết ở Bồ Đào Nha năm 1822, chữ huyên được viết là huên, chữ dòng được viết là dào. Cũng như vậy ông có thể chứng minh được một nền văn tự có trước Hán và khác Hán, của giáo sư Hà Văn Tấn qua việc giải thích sự tồn ghi trong cuộc khai quật của bà Cô La Ni ở Lam Giận Hoà Bình năm 1923. Tháng 9/2004, giáo sư Hà Văn Tấn đã mời ông về Hà Nội nghe ông kể lại quá trình đi tìm chữ Việt cổ và khi được ông tặng bản Hịch của Hai Bà Trưng đã chuyển sang chữ Việt cổ, giáo sư đã cảm động nghẹn ngào: "Vấn đề lớn lắm. Chúng ta phải sớm báo cáo lên nhà nước". Dịp hè năm nay, nghe tin tỉnh Sơn La tìm được hàng nghìn cuốn sách cổ có chữ lạ. Ông cầm vài tờ photo lên, đọc mà nước mắt ràn rụa. Như vậy điều dự đoán của các nhà khoa học trước đây đã được chứng minh: Thứ ký tự đặc biệt để ghi âm tiếng nói của người Việt cổ (thứ chữ dân tộc ta đã có từ thì đại Hùng Vương) đã được các dân tộc sử dụng chung và còn được lưu giữ bảo tồn ở vùng Tây Bắc cho đến ngày nay. . TIẾNG VIỆT TRÊN THƯ TỊCH CỔ Tìm về nguồn gốc chữ Việt cổ chính là những ưu tư khắc khoải của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước. Lịch sử ghi nhận vua Lê Thánh Tông (1460-1497) là một vị minh quân, không những sáng suốt trong việc trị quốc an dân mà nhà Vua còn là nhà có tài văn chương thi phú. Lê Thánh Tông là vị vua duy nhất trong lịch sử đứng đầu "Nhị thập bát tú" đã để lại nhiều tác phẩm thi văn cho hậu thế. Theo "Cổ Việt Hùng thị Thập bát Diệp Thánh Tông Ngọc Phả cổ truyền" do Hàn Lâm viện Trực học sĩ soạn năm Nhâm Thìn 1472, niên hiệu Hồng Ðức thứ 3 thì vua Lê Thánh Tôn giao cho Bảng Nhãn Nguyễn Như Ðỗ nghiên cứu về cương giới nước Việt xưa. Bản "Hùng Vương bát cảnh" do Nguyễn Như Ðỗ sưu tập thì lãnh thổ nước Văn Lang gồm:1. MIỀN GÒ NGỰA (Mã Kỳ) rộng khoảng 2.000 dặm, xưa tên là châu Ðiền nay thuộc tỉnh Vân Nam TQ. 2. MIỀN CỎ TRÂU (Ngưu Lan) rộng khoảng 1.500 dặm tức Việt Tây nay là tỉnh Quảng Tây TQ. 3. MIỀN AO CÁ (Ngư Trì) rộng 1700 dặm xưa có tên là Việt Ðông nay là tỉnh Quảng Ðông Trung Quốc. 4. MIỀN RỪNG QUẠ (Ô Lâm) xưa là châu Kiềm nay thuộc tỉnh Phúc Kiến, Quí châu giáp hồ Ðộng Ðình TQ. 5. MIỀN ÐỘNG HOA tức tức nước Phù Nam cổ rộng khoảng 1.000 dặm thời LêThánh Tôn là nước Chân Lạp. Vương quốc Phù Nam cổ ở Hạ Lưu sông Mekong, Vương quốc này tồn tại mãi đến thế kỷ thứ VI. Cương giới Phù Nam trải rộng hầu như khắp lục địa Ðông Nam Á cổ bao gồm cả miền Nam Trung Việt, Nam Việt Nam sang phía Tây gồm cả thung lũng sông Mê Nam Thái Lan. Phía Bắc tời vùng trung lưu sông Mê Kông tức lãnh thổ Lào ngày nay trải dài xuống phương Nam tới tận bán đảo Mã Lai, tức nước Malaysia bây giờ. 6. MIỀN NÚI QUAû (Quả Sơn) rộng khoảng 1.000 dặm tức nước Hồ Tôn ( Lâm Aáp cổ còn gọi là Chămpa ) sau là Chiêm Thành. 7. MIỀN BẦY VOI (Tượng Tào) rộng khoảng 1.000 dặm tức nước Ai Lao. 8. MIỀN LŨ HƯƠU (Lộc Hữu) rộng khoảng 1.000 dặm ở phía Nam Ai Lao tức Cao Miên (Cambodia) bây giờ. Còn về trước nữa thì biên giới nước ta lên tới Hồ Bắc và Nam Hà Nam lấy phân dã 2 sao Ngưu Nữ làm giới cận.(18) Thuở xa xưa Tổ Tiên ta định cư ở cuối dãy Nam Sơn, sau dời xuống vùng Tam giang Bắc gồm sông Hoàng Hà, sông Vị, sông Lạc. Ðời Kinh Dương Vương dời xuống vùng Tam giang Nam gồm sông Dương Tử (Trường Giang) sông Nguyên và sông Tương. Vùng đất này là vùng đất đỏ Basalt nên Kinh Thư gọi là Xích Qui phương nên Kinh Dương Vương mới đặt tên nước là XÍCH QUI. Cổ thư Trung Hoa gọi vùng này là Nam Giao, Cửa Việt, Giao Chỉ. Người Việt cổ thông đạt thiên văn ngay từ thời cổ đại. Người xưa đã quan sát chiêm nghiệm vị trí các vị sao với thời tiết mùa vụ để làm ra Nông Lịch đầu tiên trên thế giới. Theo nhà nghiên cứu "Tiên Tích Việt", Giáo sư Nguyễn Ðoàn Tuân thì toàn bộ chòm sao TĨNH theo kinh Thái Aát đóng tại giữa cung Khôn và Ly bao bọc các châu Lương, Tần, Kinh, Sở, Dương, Trinh của Xích Qui phương thời Kinh Dương Vương. Ðứng trước sao Tĩnh là sao VIỆT nên mới gọi là "Việt Tĩnh cương" là cương giới, phân dã sao ứng cho Ðông Việt, Tây Việt, Việt Thường và Bách Việt. Quan sát vị trí của 17 sao trong chòm sao Tĩnh, phận dã ứng với 15 bộ của VĂN LANG. Hai sao Thủy Phủ (Suifu) và Thiên Lang được chọn làm Kinh đô THỦY PHỦ{Suifu) và đặt tên nước là VĂN LANG. Mới đây, các nhà thiên văn người Pháp gồm 2 Thạc sĩ Sử Ðịa là Baron và P. Gourou cùng với Tiến sĩ văn chương P. Loubet đã tìm ra địa danh Thủy Phủ (Souifou) trên bản đồ Thái Bình Dương Pacific Ocean của National Geographic Society nay là cảng Thành Ðô tỉnh Tứ Xuyên. Địa danh Thủy Phủ (Suifu) cũng được ghi rõ trên bản đồ New International ATLAS of the World của Geographical Publishing company in năm 1949. Chòm sao Tĩnh đứng đầu 7 sao của chòm sao Chu Tước. Chu Tước chính là chim huyền thoại Phượng Hoàng chính là chim Trĩ, Công cùng họ với Bạch Trĩ là vật tổ biểu trưng của chi Aâu Việt. Chu Tước có bộ lông màu đỏ, hai sao Bạch Trĩ và Chu Tước ứng về phương Nam của Việt tộc. Về sau Hán tộc xâm lăng đẩy Việt tộc phải lùi dần về phương Nam nên "Tấn thư" mục Thiên văn chí chép:" Ðất Việt thuộc về phận dã sao Khiên, Ngưu và Vụ Nữ .. Ngày nay Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải và Nhật Nam đều thuộc về địa phận nước Việt. Vua nước ấy thuộc dòng họ Vũ, con thứ của vua Thiếu Khang nhà Hạ phong ở đất Cối Kê". Ðây chính là nước VIỆT (U-Việt) của Việt vương Câu Tiễn đã từng xưng Bá thời Xuân Thu. Ðến thời Hán, nước NAM VIỆT của Triệu Vũ Ðế chỉ còn lại phía Nam Ngũ Lĩnh nên "Hán Thư", Thiên văn chí chỉ chép phân dã Việt ứng với 2 sao Dực Chẩn, sao Ngưu Nữ ứng với địa phận Dĩnh Xuyên nên truyền thuyết Ngưu Lang Chức Nữ là của người Việt chứ khơng phải của Tàu như người ta viết từ trước đến giờ. Tập " Thánh Tông dị thảo" gồm 20 truyện ký đặc biệt là truyện Mộng ký kể lại giấc mơ của nhà Vua như nỗi thao thức trăn trở về ngọn nguồn gốc tích dân tộc gửi lại cho những thế hệ sau. Truyện kể, một lần Vua Lê đi dạo chơi gặp mưa, nghỉ đêm bên hồ Trúc Bạch, Vua nằm mộng thấy hai người con gái thời Lý Cao Tông hiện lên dâng thư bày tỏ nỗi niềm oan ức gồm một bài thơ bằng chữ Hán và một tờ tấu bằng chữ bản địa có 71 chữ ngoằn ngoèo. Vua đọc không được, suốt ba năm cả triều đình cũng không có ai đọc được tờ tấu đó. Thế rồi, Vua lại nằm mơ có người hiện lên giảng giải cho Vua thêm về bài thơ chữ Hán. Vua hỏi âm, nghĩa của 71 chữ ngoằn ngoèo trên thì người ấy nói :" Chữ ấy là lối chữ cổ của nước ta. Nay Mường Mán ở núi rừng có người còn đọc được, nhà Vua cho vời họ đến thị tự khắc sẽ biết". Vấn đề ở đây không phải ở tình tiết thực hư của giấc mơ mà cốt lõi là Vua Lê Thánh Tông trao chiếc chìa khoá cho thế hệ sau chúng ta cùng giải mã vấn nan lịch sử đó. Cứ theo Vua Lê thì dân tộc ta đã có chữ viết riêng lối chữ cổ đó còn rơi rớt hiếm hoi ở thời Lý, theo đó hình dáng của lối chữ Việt cổ có nét chữ ngoằn ngoèo và hiện lối chữ ấy còn bảo lưu ở một đồng bào Mường Mán của chúng ta. Ðiểm đặc biệt là chính thư tịch cổ Trung Quốc cũng xác nhận Việt tộc đã có thứ chữ riêng hình con Nòng Nọc mà họ gọi là "Khoa Ðẩu tự" từ thời xa xưa. Sử ký Tư Mã thiên chép " Ðất Giao Châu ở phía Nam có Việt Thường Thị qua nhiều lần thông dịch, đến hiến một con chim Trĩ trắng". Sách Thông giám cương mục do Chu Hi đời Tống soạn cũng ghi:"Năm Mậu Thân đời Ðường Nghiêu thứ 5 (tức năm 2353TDL) có Nam di Việt-Thường Thị đến chầu, hiến rùa lớn" và sách Thông Chí do Trịnh Tiêu đời Tống chép rõ hơn: " Ðời Ðào Ðường, Nam di có Việt Thường Thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa được nghìn tuổi, rộng hơn 3 thước, trên lưng có chữ "Khoa đẩu" chép việc từ lúc khai thiên lập địa tới nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Qui lịch". Sự kiện lịch sử này được xem như mối giao hảo giữa hai dòng Thần Nông phương Nam và phương Bắc của Việt tộc chứ không phải giữa nước ta với nước Tàu như các sử gia viết sai lầm từ trước đến giờ. Nguồn thư tịch cổ trên cho chúng ta thấy là Họ Việt Thường, một trong 15 chi tộc sau này họp lại thành quốc gia Văn Lang đã hiện hữu ngay từ thời Ðào Ðường thị Ðế Nghiêu. Việt Thường là một nhà nước sơ khai của Việt tộc đã cĩ chữ viết và một nền văn minh khá cao nên mới làm được lịch gọi là lịch rùa (Qui lịch). Ðặc biệt, trên lưng rùa có ghi chép những sự việc từ thời khai thiên lập địa được xem như khởi đầu của triết học với vũ trụ quan phương Ðông, uyên nguyên Âm Dương Dịch biến luận của người Việt cổ. Sự kiện sứ giả Việt Thường đến được Trung Nguyên trong khi đó dòng Thần Nông phương Bắc chưa biết đến Việt Thường đã chứng tỏ kiến thức về địa lý và thiên nhiên của Việt Thường cao hơn thời Ðường Nghiêu khiến Vua Nghiêu phải sai chép lại lịch rùa (Qui lịch). Quan trọng hơn là lúc đó Việt Thường đã có chữ viết dạng Khoa đẩu tức lối viết theo hình loăn quăn ngoằn ngoèo như con Nòng nọc. Truy cứu lại lịch sử chữ viết Trung Hoa cho chúng ta biết chữ Bát quái của Phục Hi, chữ Kết thằng là lối chữ ký hiệu bằng cách thắt nút giây của Ðế Thần Nông. Ðến đời Hoàng Ðế có Thương Hiệt là sử gia đã thống nhất được lối chữ cổ kể trên, đồng thời theo dấu hình chân chim thú bay nhảy mà biết văn lý phân biệt rồi khuếch trương bằng hình thanh đặt ra lối chữ ÐIỂU TRIỆN. Ðến thời Chu Tuyên Vương của Hán tộc mới sai thái tử Trứu thêm bớt lối chữ khoa đẩu đặt ra lối chữ ÐẠI TRIỆN nét tròn thường viết bằng sơn trên gỗ tre. Bởi vậy, lối chữ đại triện này gọi là Trứu thư được xem là của Hán tộc vì nó hoàn toàn khác với lối chữ khoa đẩu, Ðiểu triện thời Hoàng Ðế của Việt tộc. Theo những công bố gần đây được hầu hết học giả Trung Hoa học các nước chấp nhận thì cái gọi là văn hoá Trung Hoa chính là VĂN HOÁ VIỆT CỔ mà cổ thư gọi là văn hoá tứ di hay Di-Việt. Triều Thương của Hán tộc đã tiếp thu nền văn hoá này nhưng mãi đến đời Chu mới đưa thêm vào một số yếu tố du mục, chịu ảnh hưởng của Iran như chế độ thiên tử, hoạn quan, luật hình và tổ chức quân đội chuyên nghiệp… để rồi từ đó mặc nhiên tự nhận là văn hóa Hán. Triều Chu đóng đô ở Thiểm Tây và đặt ra chế độ Tông pháp để bảo vệ chế độ. Triều Chu phong cho họ hàng và các công thần làm Vua 15 nước chư hầu để làm phên giậu bảo vệ lãnh thổ của Chu. Ngày nay, các học giả đều thừa nhận là đời Chu mới bước vào văn minh với những thể chế hình mẫu của nhà nước phong kiến. Chức thiên tử uy quyền tuyệt đối mà Vua Chu tuy không quan niệm Vua là Thần thánh như ở Iran, nhưng Vua là con trời (thiên tử) nên vừa làm Vua, vừa là tư tế thượng phẩm. Vua Chu đại biểu của chế độ phong kiến nên độc tài chuyên chế, trói buộc người dân trên mọi phương diện. Vị Vua thế quyền nắm cả giáo quyền đã khống chế cả đời sống vật chất lẫn tinh thần của dân bị trị. Chu là một chư hầu của Thương ở Tây Thiểm Tây, là một tộc người du mục chứ không phải dòng dõi Ðế Cốc như các sử gia "Ðại Hán" đã tô điểm thêm thắt. Thế mà thư tịch cổ Trung Hoa chép Chu là dòng dõi ông Khí (con của Ðế Cốc) làm quan Hậu tắc, coi việc nông chính dưới triều Vua Thuấn, được phong ở đất Thái (tỉnh Thiểm Tây) truyền đến Công Lưu thì dời sang đất Mâu cũng giữ chức Hậu tắc. Tám đời sau đến Cổ Công Ðản phụ vì tránh nạn Bắc địch phải dời đến ở dưới núi Kỳ mới đổi quốc hiệu là Chu. Theo các công trình nghiên cứu của học giả Eberhard và Gernet thì Chu là một bộ lạc Thổ (Turc) sống chung với người Tạng (Tibet) chịu ảnh hưởng của văn hoá Thương tức văn hoá Di-Việt do Thương tiếp thu của Hạ. Tộc Chu có dòng máu Thổ và Hung nô nên quiù tộc Chu đã phân biệt giai cấp và gọi nhân dân là dân đen (Lê dân) tức dân tóc đen khác với tóc hung vàng của giới thống trị Thổâ (Turc). Chu sau khi tiếp nhận văn hoá Di Việt, cộng thêm bản chất du mục đã hình thành nền văn minh Chu với đế chế phong kiến chuyên chế thống trị nhân dân trong nước mà còn phân biệt chủng tộc. Giới thống trị Chu tự cho họ là văn minh và gọi các dân tộc khác là Man Di, di địch. Ðời Chu công Quí Lịch đi chinh phục các nước đã gọi cửu hầu là cửu quỉ (19). Sau Chu đến Tần cũng lấy lối chữ Ðại triện của đời Chu làm tiêu chuẩn để thống nhất chữ viết kể cả giọng nói để triệt tiêu ngôn ngữ của các dân tộc khác. Ðế chế Tần buộc các địa phương phải gửi người về Hàm Dương để học giọng Quan Thoại và lối chữ viết thống nhất khi trở về địa phương dạy lại từ quan đến dân lối chữ ấy. Tần ra chỉ dụ cấm đoán và trừng phạt khắt khe những ai còn nói giọng địa phương và viết chữ của dân tộc họ. Biện pháp cưỡng bách này khiến ngôn ngữ riêng của các dân tộc biến mất theo thời gian. Theo "Trúc thư kỷ niên" thì vào thế kỷ thứ 22 TDL mới có thứ chữ để viết dùng trong việc hành chánh, nghĩa là vào khoảng thời nhà Hạ của Việt tộc (2.205-1766TDL). Ðó là thứ chữ dựa vào câu sử truyền như sau: "Thượng cổ thánh nhân Kết thằng dĩ trị, hậu thế thánh nhân dịch chi dĩ Thư khế bá quan dĩ trị, vạn dân dĩ sát" nghĩa là thời xưa, đấng thánh dùng loại chữ "kết thằng" để trị, đời sau thánh nhân biến chữ đó làm một thứ "Thư khế" trăm quan theo đó mà trị, vạn dân lấy đó mà xét nghiệm. Câu nói này cũng chép trong mục "Thần Nông" tựa kỷ. Theo Nguyễn Ðoàn Tuân thì Kết Thằng còn đọc là Cát Thặng hay Kết thừa nghĩa là nhắc nhớ tới thời Lão Long Cát thị truyền chữ lại và coi chữ Kết Thằng như một "Kết ước thần linh". Chính vì vậy mà đời sau đổi Kết Thằng thành Thư Khế. Thư khế là sách ước xưa truyền lại và nhờ đó mà kết tinh trong Dịch. Ðiều này đến đời Thiệu Khang Tiết mới phát hiện. Các chữ cổ đời Hạ, Thương đều là lối chữ phiên thiết, nói chung lối chữ gọi là Hán tự thay đổi hoài. Ðến đời Tần, Tần Thủy Hoàng sai thừa tướng Lý Tư (213TDL) lấy lối chữ Kết Thằng đời Thần Nông (Viêm Việt) soạn ra chữ Tiểu Triện, mới được khoảng 3300 chữ. Thực ra Lý Tư chỉ lấy chữ Kết Thằng của Viêm Việt để hợp thành những danh tự chỉ đồ vật. Năm 120, Hứa Thận soạn sách "Thuyết văn Giải tự" kiểm điểm sắp xếp lại chữ Tiểu triện sắp lại thành 540 chìa khoá bộ chữ tạo thành 10.515 chữ được xem là chữ Hán định hình. Sau đó sách "Thuyết văn Thông thuận Ðịnh thành Lục thư thông" đã bổ túc và định nghĩa chắc chắn từng chữ một. Sau đó, Trình Mao Tạo ra cây viết chì nhọn, chấm vào mực để viết tròn ra vuông, cong ra gẫy. Mông Ðiềm giao lưu văn hoá với Hung Nô (Mông cổ) tạo ra bút lông, bút giấy. Bút lông không viết ngược chiều được, giấy hút mực nên phải viết cho lẹ, nét chữ biến hoá một cách tự do, nét đậm nét nhạt, mập mờ, nét móc, nét lồi, nét gối, nét nối liền nhau, thành thảo tự gọi là viết thảo. Người đời sau do sai lầm cứ dựa vào "Lục thư" mà tuỳ tiện xét đoán. Khi tìm thấy lối chữ cổ của vua Ðại Vũ viết trên tấm bia chôn ở núi Cú Lũ (tên cổ là hang rùa). "Lĩnh Nam Dật sử" có chép chuyện này, tác giả đoan chắc đó là bảng chữ Việt. Sách "Tô Ký Kinh ngoại" cũng xác nhận đó là tiếng Việt. Sách "An Nam Chí lược" của Lê Tắc, dẫn lời cẩn bạch của Ngạn Ngân Hương đề cao lối chữ này là "Thần vũ hữu Cú Lũ sơn" rằng :"Thiết nghĩ thước ngọc khuôn vàng vườn Côn Luân bản đồ trình hiến, chữ xanh vằn đỏ (xích văn lục tự) thơ truyền Vụ Uyển, thư tịch lưu truyền". Ðây chính là thứ chữ trong Lạc thư Bách Việt, ý người xưa Lạc là Thần, phát xuất từ cái nôi sinh tụ đầu tiên của tộc Việt là Rượu Cô Dịch di chuyển về Tiểu Côn Lôn là vùng núi Vụ Uyển nơi Ðại Vũ đã chôn giấu tấm bia mà sách Lĩnh Nam Dật sử nhắc tới. Thực tế lịch sử cũng cho chúng ta biết thời Xuân Thu các quốc gia Bách Việt cũng đã có ngôn ngữ riêng. Thật vậy, Nước Việt có quốc luật, Sở quốc có Hiến lệnh là những pháp lệnh thành văn đầu tiên cùng thời Tử Sản người nước Trịnh(20) năm 532 TDL đã soạn ra Hình thư rồi đem văn bản hình khắc lên chín cái đỉnh đúc bằng sắt gọi là Chú Ðỉnh hình. Tả truyện của Tả Khâu Minh chép truyện quan lịnh doãn nước Sở là Tử Ngươn đi đánh Trịnh, đến bên thành Trịnh thì thấy dân chúng bình tĩnh như không có gì xảy ra, lại còn lên đầu thành mà nói với xuống bằng tiếng nước Sở, cũng là tiếng Việt của họ. Sở dĩ họ không lo sợ gì vì là đồng chủng nên đối với họ, chiến tranh chỉ là sự tranh giành quyền lãnh đạo của giới cầm quyền mà thôi. Ðến ngày nay mà sách giáo khoa Tàu vẫn gọi tiếng Quảng Ðông là Việt ngữ. Học giả Lê Mạnh Thát trong tác phẩm "Vài tư liệu mới cho việc nghiên cứu lịch sử âm nhạc Việt Nam giai đoạn trước 939" đã đưa ra chứng cớ về sự hiện diện của chữ Việt cổ, căn cứ trên " Thuyết uyển" do Lưu Hướng viết vào khoảng năm 16 TDL. Nguồn sử liệu minh văn trên đã xác nhận một cách đúng đắn là người Việt đã có ngôn ngữ riêng, âm nhạc riêng đó là bài "VIỆT CA". Lục độ tập kinh cùng với "Cựu Tạp Thí dụ kinh" đã để lại cho chúng ta một loạt những cấu trúc tiếng Việt cổ quý giá mà từ đó, chúng ta tham khảo thêm bài Việt ca do Lưu Hướng chép lại trong Thuyết Uyển để có thể phục chế lại một phần nào diện mạo của tiếng nói dân tộc ta cách đây mấy ngàn năm. Ðặc biệt, ngoài bản Việt ca còn bảo lưu được trên 15 trường hợp các cấu trúc ngữ học theo văn pháp tiếng Việt cổ. Toàn văn Lục độ tập kinh thể hiện một cách có hệ thống và toàn diện, liên tục nhất quán của ngữ pháp, cú pháp về ngữ vựng của tiếng Việt ví dụ như tiếng Tàu gọi Trời xanh là thanh thiên, mây trắng là bạch vân hoàn toàn khác với tiếng Việt. Lê Huy Yêm trong tác phẩm " Lê phổ chí tục biên" đã viết về lối chữ Khoa Ðẩu của dân tộc ta như sau: "Con Rồng cháu Tiên, chữ con chữ Rồng viết như thế này .. Bọn Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp sang cai trị dân ta bắt đốt hết sách ta, nhà nào cất giữ thì bị giết hại. Ðây không phải chữ Nôm đâu, chữ Nôm về sau, cách đây khoảng năm trăm năm do Nguyễn Thuyên, tức Hàn Thuyên đặt ra bằng cách ghép chữ, còn chữ cổ Việt Nam đã có hàng mấy nghìn năm về trước. Nhà ta cất giữ được quyển sách này từ cụ Lê Huy Nghiêm. Các cháu phải biết là nước ta có chữ trước chữ Hán rất lâu .."(21) Năm 1932, nhà văn Lê Dư trên Tạp chí Nam Phong đã cho rằng dân tộc ta có chữ viết từ thời cổ. Thời Tự Ðức, Văn Ða cư sĩ đã viết : "Ta học chữ Tàu, thầy dạy hay học trò học, thế nào cũng pải lấy tiếng nước ta mà giải thích mới có thể hiểu, lại phải có một thứ chữ gì để làm phù hiệu, ghi cho dễ nhớ. Nhân vậy, Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp) mới lựa những chữ Hán nào phát âm như tiếng ta, lấy những chữ ấy để làm phù hiệu, âm các tiếng chữ Tàu. Nhân vậy mới lấy một nửa hình chữ Hán khác hợp lại thành chữ hoặc dùng nghĩa, hoặc dùng ý hội, đem làm phù hiệu dịch thứ tiếng của ta. Vả chăng, Sĩ vương người đất Quảng Tín, quận Thương Ngô (trước thuộc lãnh thổ Bách Việt) thuộc nước Tàu bây giờ, mà bên ấy xưa cũng có một thứ chữ tục tự hệt như chữ Nôm của ta vậy …". Sách "An Nam kỷ lược" viết " Nước Việt Nam ta có lối chữ viết từ đời Ðinh, Lê trở về trước thì không trông thấy được nữa. Còn lối chữ từ thới Lý, đời Trần trở về sau thì bắt chước triều Tống". Trương Vĩnh Ký cũng cho rằng dân tộc ta đã có chữ viết trước thời Hán thuộc nhưng sau khi bị Hán tộc thống trị cấm sử dụng tiếng Việt cổ, đồng thời bắt dân ta phải học tiếng Hán nên sau hơn một ngàn năm nô lệ, tiếng Việt cổ mai một dần theo thời gian. TIẾNG VIỆT TRONG NGHIÊN CỨU THỰC TẾ Các nhà ngôn ngữ học ghi nhận ở vùng Nghệ Tĩnh ngôn ngữ địa phương vẫn còn giữ lại được nhiều từ tiếng Việt cổ như xưa họ nói "nác" nay là nước, "cơn" nay gọi là cây, "lả" là lửa, "ló" là lúa… Năm 1903,Vương Duy Trinh là Hiệp Biện Ðại học sĩ làm Tổng Ðốc Thanh Hóa đã sưu tập đựơc 35 mẫu tự của chữ cổ ở "Châu", đó là "Phụ Man mẫu tự tam thập ngũ tự" (Ba mươi lăm mẫu tự của chữ "Châu"). Vương Duy Trinh, tác giả Thanh Hoá Quan phong (thế kỷ XIX) viết : " Ðây là chữ Châu tiếng Châu. Trên kia đã dịch làm tiếng chợ, một khúc ca có 12 đoạn, có tầng thứ, có nông sâu, có mở đóng, có hồi cố. Có khác gì 13 nước Phong-thi. Người làm bài ca là người có học. Vậy mới biết có văn tự thì phải có văn chương. Tỉnh Thanh Hóa một châu quan có lối chữ thập châu đó. Người ta thường nói rằng Việt Nam không có chữ, tôi nghĩ rằng không phải. Thập Châu vốn là đất nước ta. Trên Châu còn có chữ lẽ nào dưới chợ lại không? Lối chữ trên Châu chính là lối chữ nước ta đó. Nay xem chữ trên Châu với chữ Xiêm, chữ Lào … tuy rằng viết dọc viết ngang có khác dạng nhưng cũng là một lối chữ Loan Phụng Khoa Ðẩu. Ðời xưa Trung quốc từ người Lý Tư đời Tần trở về sau hay có người thay đổi làm lối khác, mà nước ta nội thuộc kể đã dư ngàn năm. Từ sau Sĩ vương dạy lấy chữ Trung quốc mà lối chữ nước ta bỏ hết. Thập châu bởi là nơi biên viễn cho nên lối chữ ấy còn ..". Nguyễn Ðổng Chi trong tác phẩm "Việt Nam cổ văn học sử" đã sưu tầm được 35 chữ cái của đồng bào Mường. Ðó là lối chữ ngoằn ngoèo như con nòng nọc đúng như Tiền Hán thư chép và cũng đúng như giấc mơ cũng chính là ưu tư của Vua Lê Thánh Tông đã gợi mở cho chúng ta. Mặt khác, vùng Tây Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh địa bàn cư trú của Việt Thường, Văn Lang xưa cũ mà Tiền Hán thư ghi rõ là ngay từ thời Ðào Ðường khoảng thiên niên kỷ thứ II trước Dương lịch, người Việt cổ đã có một thứ chữ riêng biệt trông như con nòng nọc. Hình dạng chữ viết của đồng bào Mường gần giống như những hoa văn với những đường cong lạ trên mặt trống đồng Lũng cú, Hà Tuyên mới được phát hiện trong thập niên 70 với những hoa văn kỷ hà có những nét giống chữ Phạn cổ trên bia đá Võ Canh ở Khánh Hoà và chữ cổ khắc trên đá ở di chỉ Óc Eo (An Giang). Theo các nhà Tiền Sử học thì cách nay hơn 6 ngàn năm, một nhánh Malaynesian đã thiên di sang Aán Ðộ định cư, một số lại quay trở lại Ðông Dương. Các công trình khảo cổ mới tìm thấy ở 2 bang Punjap và Sin ở Tây Bắc Aán Ðộ một nền văn minh Harrapa và Mohenjo Daro. Ðó là nền văn minh tối cổ của MaLaynesian mà các nhà nhân chủng gọi là cư dân Dravidian. Ðó là nền văn minh sông Aán. Nền văn minh này phát sinh rất sớm vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ III TDL và tàn lụi vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ II TDL vì sự xâm lấn của chủng Aán Aâu (Arian). Cư dân Dravidian tôn thờ mặt trời, thờ nữ thần Mẹ và nhiều thần có liên quan đến nông nghiệp và chăn nuôi. Cư dân Dravidian có tín ngưỡng phồn thực và đã sáng tạo ra lối chữ cổ Aán Ðộ. Ðặc biệt trong sử thi Anh hùng ca Ramayana của Aán Ðộ cổ cũng có truyền thuyết về cội nguồn được xem như dị bản của huyền thoại Rồng Tiên với khái niệm Bách Việt mà Hoàng tử Rama là con trai trưởng giống như Hùng Quốc vương trong huyền thoại Rồng Tiên. Tất cả tự dạng trên có một điểm chung nhất là ký hiệu sổ ngang sổ uốn tròn như bộ di chuyển của con Nòng nọc. Tự dạng mang tính biểu trưng, lối chữ tượng ý chứ không tượng hình như Hán tộc.Theo Ðặng Ðức Siêu thì bên cạnh hình ngôi sao12 cánh, hoa văn vòng tròn có chấm, đường thẳng song song hướng tâm, đường gấp khúc hoặc nửa hình thoi, hình người hoá trang cách điệu, người ta còn thấy những đường nét uốn lượn tạo thành các hình dạng ngoằn ngoèo hoặc những vạch thẳng phối hợp với nhau thành những góc, những hình, những đường có tính chất kỷ hà. Phải chăng đó là dấu tích của lối chữ viết "ngoằn ngoèo như con nòng nọc" được khắc hoạ trên trống đồng Lũng cú Hà Tuyên? Rõ ràng là loại chữ này đã vượt qua giai đoạn chữ viết tranh vẽ như kiểu thư của bộ tộc XiTơ gửi cho vua Ba Tư. Nó cũng không phải là loại chữ tượng hình còn gắn bó nhiều với các yếu tố đồ hoạ như chữ cổ Ai Cập. Rất có thể, đó là thứ chữ bao gồm một hệ thống ký hiệu khá đơn giản. Mỗi ký hiệu là một đường nét ngắn, uốn lượn theo một thể thức nào đó. Số lượng ký hiệu hoạt động trong hệ thống chắc cũng có hạn, cho nên, khi viết nhiều ký hiệu đã được lập đi lập lại nhiều lần nên trong giống như đàn nòng nọc đang quấy bơi. Căn cứ vào sự mô tả ngoại hình đó, chúng ta có thể suy đoán rằng đó là một hệ thống văn tự được xây dựng trên nguyên tắc ghi âm. Những ký hiệu ghi âm trong hệ thống văn tự ấy được sử dụng độc lập không cần đến sự hiệu chính của các ký hiệu tượng hình ghi ý. Nếu những dấu tích trên trống đồng Lũng cú đúng là dấu tích văn tự thật và niên đại tuyệt đối của di vật này được xác định rõ thì đó sẽ là một đầu mối rất quan trọng giúp chúng ta lần tìm ra hình ảnh hệ thống chữ viết cổ sơ của dân tộc. Gần đây, giới khảo cổ mới khám phá ra một di tích tại thung lũng Mường Hoa, Hoàng Liên Sơn cách thị trấn Sapa khoảng 6 km. Ðó là những tảng đá trên bề mặt có nhiều nét chạm trổ. Chúng nằm rải rác xen giữa những thửa ruộng bậc thang của đồng bào Hmong-Dao. Di tích bãi đá cổ rộng khoảng 8 km2 được các nhà khảo cổ Pháp nghiên cứu từ năm 1925 gồm khoảng 159 hòn đá kích thước to nhỏ. Lớn nhất là hòn Bố dài 15 m, cao 6m trong đó đáng chú ý là những hình vẽ người, nhà sàn và các dấu hiệu có thể là hình thức phôi thai của chữ viết. Kế đến là đàn hổ đá và tấm bia có khắc chữ Việt cổ. Tại bản Pho thuộc thung lũng người ta tìm thấy những hòn đá có khắc chữ viết cổ, gần đó trên những thửa ruộng bậc thang thuộc 2 xã Lao Chẩy và Hầu Thào cũng tìm thấy những chữ viết cổ được khắc trên mặt đá. Theo nhận định của các nhà chuyên môn thì đây là chữ Việt cổ nhưng còn phải nghiên cứu giải mã những ký tự, văn tự này mới thoả đáp được vấn đề. Năm 1965, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy một thanh kiếm cổ trong ngôi mộ cổ ở núi Vọng Sơn, Gia Lăng tỉnh Hồ Bắc thuộc địa bàn cư trú của Bách Việt xưa. Sau khi gột rửa lớp đất bám trên kiếm, các nhà khảo cổ vô cùng ngạc nhiên xen lẫn thán phục vì thanh kiếm bị chôn vùi dưới lòng đất gần 2.500 năm nhưng vẫn sáng loáng dưới ánh sáng mặt trời và toả ra một làn ánh sáng màu xanh. Dùng mũi kiếm rạch nhẹ lên một chồng giấy gồm 10 thếp manh, chồng giấy bị cắt đứt như khi ta dùng máy xén bây giờ. Ðặc biệt trên thân thanh bảo kiếm có 8 chữ nạm sợi bạc, khắc theo lối "Ðiểu triện" tức lối chữ Triện viết theo dạng hình chân chim, nội dung như sau:" Việt vương Câu Tiễn tự tác dụng kiếm" nghĩa là vua Việt Câu Tiễn tự đúc kiếm ..". Toàn thân và chuôi kiếm có cẩn ngọc Minh Châu màu Lam và lục tùng rất đẹp. Lối chữ " Ðiểu Triện" của người Việt cổ chính là lối chữ Thương Hiệt thời Ðế Hoàng. Công trình nghiên cứu trên được kiểm chứng bởi các công trình khảo cổ. Ðặc biệt gần đây giáo sư Hà văn Tấn, viện trưởng viện Khảo cổ CHXHCNVN đã tìm thấy một lưỡi cày Ðông Sơn, một qua đồng ở Thanh Hoá và 3 qua đồng trong 1 ngôi mộ của người nước Sở ở Hồ Nam Trung Quốc bây giờ. Trên những di vật này đều có những ký hiệu được xem là dấu vết của một hệ thống chữ viết có niên đại vào thời Chiến quốc. Giới nghiên cứu ghi nhận:"Loại chữ này có từng ký hiệu riêng rẽ, phần lớn không phải chép lại hình ảnh hiện thực nghĩa là không phải các ký hiệu hình vẽ mà là các ký hiệu qui ước. Mỗi ký hiệu có khả năng tương ứng với một từ. Như vậy, đây là một loại chữ rất tiến bộ trong lịch sử chữ viết. Nó đã trải qua giai đoạn chữ viết hình vẽ mà ý tứ trong cả văn bản được thể hiện bằng một bức vẽ như vậy có thể hệ thống chữ viết này đã ở giai đoạn chữ viết biểu ý". Theo cách phân loại của các nhà nghiên cứu chữ viết hiện nay, thì chữ viết hình vẽ được gọi là chữ viết ghi câu vì hình vẽ truyền đạt ý cả câu. Còn chữ viết mà trong đó mỗi ký hiệu tương ứng với một từ thì gọi là chữ viết ghi từ. Hệ thống chữ cổ mà chúng tôi vừa phát hiện có thể là chữ viết ghi từ (logogramme) hoàn toàn khác biệt với chữ Hán. Chữ viết trên lưỡi cày văn hoá Ðông Sơn thì hẳn là chữ viết của người Việt cổ. Các nhà nghiên cứu cũng vừa tìm thấy qua đồng ở vùng sông Mã Trung Việt và sông Dương Tử bên Trung Quốc bây giờ, trên lưỡi qua có lối chữ chỉ có thể là của người Lạc Việt, chủ nhân nền văn hoá Ðông Sơn. Như vậy, ngay giờ đây đã có thể nói rằng: " Có một hệ thống chữ viết cổ thời kỳ văn minh Ðông Sơn phát triển rực rỡ vào khoảng thế kỷ thứ IV TDL, trước khi người Hán vào xâm lược và đô hộ đất nước của người Việt cổ hơn một nghìn năm và đến năm 938 đã bị đánh đuổi về phương Bắc .."Này mời các bạn bảng hình chữ Việt cổ chép lại cho nó đúng hơn một chút... - nhóm I gồm những âm cao - nhóm II dành cho những âm tiết thấp - nhóm III là những dạng chữ ở đuôi các từ - những chỗ có dấu hỏi tôi chưa thấy có / chưa dám chắc chắn ... - cách sắp xếp và hình dáng khá giống chữ Devanagari (Thai,Khmer) - cách phát âm (gi=d=r, x=s) viết cũng theo sát âm Việt hiện đại = nên thứ chữ này không thể có trước CN (thời các vua Hùng đó) Với những nghiên cứu gần đây về : Chữ Việt Cổ, Nguồn gốc Kinh Dịch, Nguồn gốc Luận thuyết Âm Dương Ngũ Hành ... xu thế tìm hiểu cội nguồn dân tộc được các nhà Học Giả tập trung nghiên cứu đã tạo nên một tâm thế mới, kích thích lòng tự hào dân tộc của chúng ta. Dân tộc Việt Nam có thể ngẩng cao đầu nếu một mai lịch sử ghi nhận những nghiên cứu của ngày hôm nay là chính xác - Chúng ta có thể giành lại bản quyền của nhiều phát kiến có tầm ảnh hưởng lớn Xin giới thiệu mọi người bài viết : Chữ Việt cổ (Tổng hợp từ bài viết của 2 tác giả Đỗ Quang và Quang Hoà, bổ sung thêm tư liệu và hình ảnh) Người Việt ta lập nước rất sớm, nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương đã có thầy giáo và học trò, điều đó chứng tỏ dân tộc ta đã có chữ, nhưng đó là thứ chữ gì ? Trong hơn một chục năm gần đây, vấn đề chữ viết của người Việt cổ đã được đặt ra trên tinh thần nghiêm túc và khoa học trong các hội nghị nghiên cứu thời kỳ các vua Hùng. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông ghi: “Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” nghĩa là thời vua Nghiêu nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu. Theo cổ sử Trung Quốc “vào thời Vua Nghiêu ( năm 2357 trước công nguyên) có sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng một con thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa Đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau”. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch. Sang thế kỷ 20, nhờ khảo cổ học và các môn khoa học khác phát triển, cung cấp nhiều bằng chứng khoa học mới về sự tồn tại của chữ Việt cổ. Năm 1979 Giáo sư Hà Văn Tấn phát hiện trên một công cụ bằng đồng - mà các nhà khảo cổ học quen gọi là lưỡi cày hình cánh bướm, đặc trưng cho vùng sông Mã - có hai kí hiệu ở hai bên họng tra cán. Hai kí hiệu này do hai bên không đối xứng nhau, ít có khả năng là hoa văn trang trí, nhiều khả năng là chữ viết. Những chữ việt cổ còn được phát hiện trên nhiều hiện vật khảo cổ khác. Trên bốn chiếc qua đồng Đông Sơn có chạm khắc 28 ký tự. Đó là những ký tự Việt cổ mà cho đến nay chưa giải mã được. Ngược dòng thời gian, năm 1930 một hiện vật gốm quý hiếm được M-CoLan phát hiện dưới chân vách đá Lan Gan ở Hoà Bình. Ban đầu người ta chỉ coi chúng là vật trang sức, “không có công dụng thực tế, không rõ để làm gì ...” Hai chiếc đĩa cổ bằng đất nung có chữ Việt cổ (chữ O và chữ S) ở Lan Gan (Hòa Bình) Đây là những chữ cổ có tuổi khảo cổ học một vạn năm, thuộc nền văn hoá đồ đá giữa Hòa Bình (xem thêm bài 7: Văn hoá Hoà Bình – Hoabinhian) và trong đó có chữ thứ 2 giống chữ Sĩ của Hán tự ngày nay, phát hiện này trong thời gian dài đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu, vì nó có trước Chữ Giáp cốt Ân - Thương (1392 - 1122 - Tr. CN) khoảng 6000 năm. Lúc đó cả tộc danh Hoa Hạ và chủng Trung Mông -gô lô-ít đều chưa có mặt (xem thêm bản đồ Migration patterns of early Humans và M175 từ Genographic project). Sử cũ cho biết, sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị thi hành chính sách đồng hoá. Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp sang ta bắt đốt hết sách, nhà nào cất giữ thì bị giết hại. Cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, sau này cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15…, Với chính sách đó thì chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, tưởng rằng đã bị xoá sạch là điều dễ hiểu. Trong tập: Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ, do Viện Văn hoá in năm 1986, Giáo sư Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng: Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Như vậy, dân tộc Kinh - Lạc Việt lại không còn văn bản hay sao? Riêng ở Việt Nam, chữ khoa đẩu được dùng lâu hơn. Mãi đến đời Sĩ Nhiếp vẫn còn, tuy Sĩ Nhiếp cấm đoán nhưng nhân dân ta vẫn dùng. Nhiều nhà nghiên cứu, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ được phát hiện ngày một nhiều trên nhiều hiện vật khảo cổ, được khắc trên đá, trên xương thú, trên đồ đồng như vũ khí, trống đồng cổ và phân bố rộng khắp lưu vực có người Việt sinh sống. Gần đây Nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và giáo dục thời Hùng Vương, do nhà văn Khánh Hoài- Đỗ Văn Xuyền lãnh đạo đã có những khám phá rất quan trọng. Một trong những kết quả nghiên cứu của Nhóm là phát hiện ra một bộ chữ Việt cổ được lưu giữ ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Các nhà khoa học cho rằng văn tự này có thể là một biến thể của chữ “Khoa đẩu” hay “Hoả tự” đã ghi trong cổ sử. Thứ chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt - Mường. Do không được sử dụng phổ biến, bộ chữ này bị đóng băng, không phát triển theo kịp những biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại. Đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Người Việt ta lập nước rất sớm, nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương đã có thầy giáo và học trò, điều đó chứng tỏ dân tộc ta đã có chữ, nhưng đó là thứ chữ gì ? Trong hơn một chục năm gần đây, vấn đề chữ viết của người Việt cổ đã được đặt ra trên tinh thần nghiêm túc và khoa học trong các hội nghị nghiên cứu thời kỳ các vua Hùng. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông ghi: “Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” nghĩa là thời vua Nghiêu nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu. Theo cổ sử Trung Quốc “vào thời Vua Nghiêu ( năm 2357 trước công nguyên) có sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng một con thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa Đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau”. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch. Sang thế kỷ 20, nhờ khảo cổ học và các môn khoa học khác phát triển, cung cấp nhiều bằng chứng khoa học mới về sự tồn tại của chữ Việt cổ. Năm 1979 Giáo sư Hà Văn Tấn phát hiện trên một công cụ bằng đồng - mà các nhà khảo cổ học quen gọi là lưỡi cày hình cánh bướm, đặc trưng cho vùng sông Mã - có hai kí hiệu ở hai bên họng tra cán. Hai kí hiệu này do hai bên không đối xứng nhau, ít có khả năng là hoa văn trang trí, nhiều khả năng là chữ viết. Những chữ việt cổ còn được phát hiện trên nhiều hiện vật khảo cổ khác. Trên bốn chiếc qua đồng Đông Sơn có chạm khắc 28 ký tự. Đó là những ký tự Việt cổ mà cho đến nay chưa giải mã được.Ngược dòng thời gian, năm 1930 một hiện vật gốm quý hiếm được M-CoLan phát hiện dưới chân vách đá Lan Gan ở Hoà Bình. Ban đầu người ta chỉ coi chúng là vật trang sức, “không có công dụng thực tế, không rõ để làm gì ...” Hai chiếc đĩa cổ bằng đất nung có chữ Việt cổ (chữ O và chữ S) ở Lan Gan (Hòa Bình) Đây là những chữ cổ có tuổi khảo cổ học một vạn năm, thuộc nền văn hoá đồ đá giữa Hòa Bình (xem thêm bài 7: Văn hoá Hoà Bình – Hoabinhian) và trong đó có chữ thứ 2 giống chữ Sĩ của Hán tự ngày nay, phát hiện này trong thời gian dài đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu, vì nó có trước Chữ Giáp cốt Ân - Thương (1392 - 1122 - Tr. CN) khoảng 6000 năm. Lúc đó cả tộc danh Hoa Hạ và chủng Trung Mông -gô lô-ít đều chưa có mặt (xem thêm bản đồ Migration patterns of early Humans và M175 từ Genographic project). Sử cũ cho biết, sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị thi hành chính sách đồng hoá. Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp sang ta bắt đốt hết sách, nhà nào cất giữ thì bị giết hại. Cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, sau này cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15…, Với chính sách đó thì chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, tưởng rằng đã bị xoá sạch là điều dễ hiểu. Trong tập: Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ, do Viện Văn hoá in năm 1986, Giáo sư Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng: Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Như vậy, dân tộc Kinh - Lạc Việt lại không còn văn bản hay sao? Riêng ở Việt Nam, chữ khoa đẩu được dùng lâu hơn. Mãi đến đời Sĩ Nhiếp vẫn còn, tuy Sĩ Nhiếp cấm đoán nhưng nhân dân ta vẫn dùng. Nhiều nhà nghiên cứu, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ được phát hiện ngày một nhiều trên nhiều hiện vật khảo cổ, được khắc trên đá, trên xương thú, trên đồ đồng như vũ khí, trống đồng cổ và phân bố rộng khắp lưu vực có người Việt sinh sống. Chữ Việt cổ trên thân trống đồng Lũng Cú Chữ cổ trên bãi đá cổ Sapa Một số văn bản có chữ Việt cổ tìm được tại Sơn La. Gần đây Nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và giáo dục thời Hùng Vương, do nhà văn Khánh Hoài- Đỗ Văn Xuyền lãnh đạo đã có những khám phá rất quan trọng. Một trong những kết quả nghiên cứu của Nhóm là phát hiện ra một bộ chữ Việt cổ được lưu giữ ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Các nhà khoa học cho rằng văn tự này có thể là một biến thể của chữ “Khoa đẩu” hay “Hoả tự” đã ghi trong cổ sử. Thứ chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt - Mường. Do không được sử dụng phổ biến, bộ chữ này bị đóng băng, không phát triển theo kịp những biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại. Đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Thầy Xuyền và một số chữ Việt cổ được phát hiện tại các khu vực khác nhau. Một sổ khu vực phát hiện dấu tích chữ Khoa đẩu Vào năm 1903 Tổng đốc Thanh Hóa lúc ấy là Vương Duy Trinh công bố việc tìm ra một văn bản viết bằng thứ chữ lạ, trông như những ngọn lửa vờn cháy mà ông gọi là chữ Hỏa tự. Dựa vào những chữ Hán ghi chú bên cạnh ông dịch được nội dung, thì ra đây là một bài thơ có tựa đề "Mời trầu" có nội dung ca ngợi tình yêu.Vương Duy Trinh cho rằng, đây chắc chắn là chữ của tổ tiên ta từ thời các vua Hùng nay vẫn còn truyền lại và lưu hành trong một bộ phận nhỏ xã hội. Theo nghiên cứu của Ông thì:"Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ này". Cách đây hơn một thế kỷ, Phạm Thận Duật, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, trong thời gian làm Tri châu ở Tây bắc (khoảng năm 1855) đã phát hiện nhiều bộ chữ mà Ông cho là chữ Thái thổ tự , trong đó có một bộ chữ cái có kèm ghi chú chữ Hán. Theo mô tả của Ông, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần trắc. Còn ở Châu Mai Sơn, Châu Minh Biên có bộ chữ gồm 17 thể chữ cái theo vần bằng, 15 thể chữ cái theo vần trắc. Ngoài ra còn 11 chữ và nét phụ ở 04 bên mà Ông gọi là "tứ bàng phụ họa, sử dụng 03 thể chữ cái đảo lên, lộn xuống, ghép lại với nhau thành từ, thì đều có thể thông với văn tự Trung châu" (tức là có thể chuyển ngữ cho chữ Hán). Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, ông sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là: - Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không ? - Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của ký tự đó không ? - Có giải quyết được các "nghi án" về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm) Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ La Tinh của phương Tây, nên rất dễ học. Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn thay đổi vị trí. Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông mới tìm ra quy luật – Quy luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ trời nguyên âm đặt phía trên, từ đất nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau). Để thuộc bảng chữ cái và nắm được quy luật ghép vần , người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày. Nhóm nghiên cứu đang đang tập trung nghiên cứu để một ngày gần đây chứng minh giả thiết cho rằng, những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La Tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ. Chính trong cuốn “Từ điển Việt Bồ La”, Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, anh ta đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo thầy Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ ! Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi cả nước khởi nghĩa giành độc lập, mùa xuân năm 40, được thầy Xuyền viết bằng chữ Việt cổ Một số bài thơ được thầy Xuyền viết bằng chữ Việt cổ Tác giả: Tổng hợp từ bài viết của 2 tác giả Đỗ Quang và Quang Hoà, bổ sung thêm tư liệu và hình ảnhNguồn:diendan.zing.vn
-
Bài viết rất hay cám ơn anh Nhị. Lê Bá Trung.
-
ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ - CAO TRUNG . 1 LỜI TỰA Tập sách Địa Lý Trị Soạn Phú của Cao Trung. Ta đã biết địa lý có 2 phần: Loan đầu và Lý khí. Loan đầu là những gì thực tiễn của khoa địa lý mà ta có thể trông thấy trực tiếp trên đất đai nếu ta biết tìm nó. Lý khí là phần trừu tượng áp dụng các công thức Lý học Đông phương vào khoa địa lý để đưa đến kết quả tốt đẹp hơn. Bộ địa lý Vi sư pháp vừa xuất bản năm 1996 đã cho ta biết vững vàng về Loan Đầu. Bộ này, bộ Địa Lý Trị Soạn Phú phải đưa ta đến phần Lý khí, là phần có thể nói rất khó vì nó áp dụng nhiều công thức của nhiều bộ môn của Lý học Đông phương như Hà Đồ, Lạc Thư, các quẻ của Chu dịch, của Nhâm độn, của Giáp độn, của Lịch số, của Thiên văn v.v... Mấy ai đã học hết các bộ môn kia nên Lý khí xưa nay vẫn được coi là mơ hồ và khó hiểu. Những áp dụng chân chính thì rất hay nhưng bên cạnh nó lại thường kèm theo một số áp dụng man thư do một số man thư muốn giữ độc quyền của khoa địa lý bày đặt ra để làm lạc lối người học địa lý. Các cụ cho biết là Vua Hồng Vũ nhà Minh muốn giữ độc quyền khoa địa lý cho Hoàng tộc, nên có thuê một số man thư viết thêm nhiều áp dụng man thư cho người sau học dễ lạc vào rừng lý khí man thư mà không có thể giỏi và không làm đúng được. Lý khí tuy có lẫn man thư nhưng nếu là chân thư thì lại là phần rất quan trọng của khoa địa lý nếu ta nắm vững loan đầu và biết tránh cái sai của man thư. Vậy học địa lý không thể bỏ lý khí được mà chỉ cần tránh lý khí man thư mà thôi. Về phần lý khí của bộ sách này chúng tôi đã cố gắng trình bày thật rõ rệt, bỏ đi những điều gì mơ hồ như phần nhiều các sách địa lý khác đã làm từ xưa đến nay. Ngoài ra chúng tôi cũng vẽ rất nhiều đồ hình để giải thích cho dễ hiểu và cho đỡ sai lầm. Cuối sách này chúng tôi cũng tiếp tục trình bày thêm một số đất kết Cao Biền. Bộ trước, bộ địa lý vi sư pháp đã trình bày các kiểu đất kết của Cao Biền trong 9 Phủ huyện thuộc tỉnh Hà Đông và Hà Nội. Bộ này tiếp tục trình bày những đất kết Cao Biền trong ba tỉnh: Sơn Tây, Vĩnh Phúc Yên và Phú Thọ. CAO TRUNG CHƯƠNG 1 ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ Hướng dẫn Đây là các câu phú mô tả những công thức, những cách cục tốt, xấu của các cuộc đất. Cũng như trong Tử Vi có các câu phú mô tả các cách cục xấu tốt của lá số Tử Vi. Phần địa lý trị soạn phú này có trên 200 câu, trình bày các yếu tố khác nhau của huyệt kết. Không bắt buộc một ngôi đất phải có tất cả những gì hay, tốt của tất cả các câu phú này, nhưng càng nhiều càng tốt. Các câu phú, có câu nói về hành long, là nói về long mạch đi từ tổ sơn đến huyệt trường. Có câu nói về huyệt trường và những điều kiện tốt của huyệt trường như tiền quan, hậu quỷ. v.v... Có câu nói về tay long, tay hổ ôm vòng hai bên huyệt trường như thế nào mới là tốt, mới là kín đáo che gió cho huyệt trường. Hoặc ngoài long hổ còn có diệu nữa thì tốt ra sao. Có câu nói về Án như bàn giấy trước huyệt trường, án nga mi thì sinh con gái đẹp, án bái tướng thì làm lơn. Án là thành phần của Chu tước vì Chu tước là các gò đống đứng trước, huyệt trường. Có câu nói về Thành quách bao quanh nơi cuộc đất, chứng tỏ đó là đất kết lớn. Có câu nói về Huyền Vũ sau huyệt trường là nơi dự trữ khí mạch để cung cấp khí mạch cho huyệt trường. Huyền vũ càng đầy đặn càng tốt. Đầy đặn nhưng phải cúi đầu xuống huyệt trường mới được, còn như đày đặn mà đứng thẳng cũng không tốt. Phần Địa lý trị soạn phú này dài nếu so với các Chương khác. Vì nhiều quá khó nhớ, khó lĩnh hội, và mau chán dù hay nên chúng tôi phải chia nó ra làm 7 Phân Chương và đánh số từ 1-1 đến 1-7. Dưới đây là bắt đầu chương 1-1. CHƯƠNG 1-1 ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ Câu 1: Địa lý đa đoan, lý quy nhất yếu, quý cục quý ứng, thực bất khả sai. Tiện cách tiện ứng, tín bất vu hỹ. Dịch (1) Địa lý đa đoan mà chung quy có một lý, quý cục quý ứng không thể sai lầm. Tiện cục tiện ứng thực là dùng vậy. Câu 2: Càn Sơn Càn hướng thủy lưu Càn, Thiên Ất cao phong xuất trạng nguyên. Câu 3: Tốn sơn, Tốn hướng thủy lưu Tốn, Chấn Canh kỳ cổ quan ngoại khổn. Dịch (2) Càn sơn, Càn hướng nước cũng chảy về Càn mà Thiên Ất (hướng Tuất) có núi cao thì phát trạng nguyên. Dịch (3) Tốn sơn nước cũng chảy về Tốn mà phương Chấn Canh có cờ trống thì trấn thủ biên cương. Câu 4: Hậu đầu sơn tư phương tương, tài hóa nhật, tích. Câu 5: Diện tiền sơn như đốn bút, hào kiệt thời sinh. Dịch (4) Hậu đầu sơn như két vuông, tiền của ngày một nhiều. Dịch (5) Diện tiền sơn như ngòi bút, hào kiệt phát sinh lắm. Câu 6: Quý tiện quan ư Đoài vị, thọ yểu hệ ư Càn phương Dịch (6) Quý tiện quan hệ ở phương Đoài, thọ yểu quan hệ ở phương Càn. Giải thích (6) cung Đoài chủ quý, cung Càn chủ thọ. Câu 7: Huyền Vũ sơn hoành hậu, nam nữ thọ xương Câu 8: Chu tước thủy trừng thanh, tử tôn thanh tú. Dịch (7) Huyền vũ sơn hùng hậu, trai gái thọ trường. Dịch (8) Chu tước thủy trong sạch, con cháu thanh tú. Giải thích (7) Huyền vũ nếu cao dày là có chứa nhiều khí mạch cho huyệt trường, làm cho huyệt trường nhiều khí mạch nên dày dặn xung mãn. Con cháu sẽ khỏe mạnh sống lâu. Giải thích (8) Chu tước là bao gồm tất cả những gì ở trước huyệt trường như án, sa, diệu v.v... Câu này nói là nếu trước huyệt có án, sa diệu và ở chỗ nước trong thì con cháu nhà đó sẽ thông minh. Câu 9: Hạ sa thu tận nguyên đầu thủy, tử tôn mãi tận thế gian điền. Câu 10: Khố tích ư Bính Dần chi vị, tử tôn các xuất phú gia ông Dịch (9) hạ sa thu hết nước đầu nguồn, con cháu mua cả ruộng thế gian. Dịch (10) Kho chứa ở cung Bính, Dần, con cháu đều phú gia. Giải thích (9) Câu này hơi khó giải thích, vậy trước tiên ta phải nhớ là: những gò đống trước và xung quanh huyệt trường đều được gọi là sa. Ở đây nói về đầu long hổ gần huyệt trường nhất cũng là sa nhưng được gọi là hạ sa. Hai hạ sa ở đầu long, hổ này rất quan trọng, vì hạ sa gần nhất thu khí, gần khí cho có huyệt kết và cái hạ sa bên kia, xa hơn thu thủy cho có tiền của. Ở huyệt kết hồi long cố tổ thì có hạ sa thu khí rồi huyệt lại quay lại (hồi long) thu được cả thủy từ đầu nguồn về, nên con cháu sẽ rất giàu, có đủ tiền mua được nhiều ruộng đất của thế gian. Vì vậy các thầy địa lý rất ham kiếm đất hồi long cố tổ để được vừa giàu vừa sang. Giải thích (10) Cung Bính hay cung Dần có gò, có núi lớn như cái kho, cái cót thóc thì con cháu sẽ giàu. Câu 11: Diện tiền cận thủy như bối đao sơn túc mãn thương nhi nô mãn vũ. Câu 12: Viễn thùy đầu nhi cận tiếp mạch, hương quán chúng, nhi triền quán ban. Dịch (11) Trước mặt gần nước, sau nữa xa hơn có núi, thì thóc đầy kho, nô bộc đầy nhà. Dịch (12) Sa thủy đầu gần kề trán, ở làng bậc nhất ở triều đình thì ở đầu ban. Giải thích (11) Trước huyệt có nhiều nước, xa nữa mới tới núi thì thóc đầy kho, nô bộc đầy nhà. Giải thích (12) Án gần huyệt mà cúi đầu trước huyệt thì ở làng bậc nhất là tiên chỉ và nếu làm quan ở Triều đình thì cũng nhất triều (tể tướng, thủ tướng) Câu 13: Án tiền vạn giáp, nhất hô bá nặc. Câu 14: Án hữu tam tiêm bút, nhất cử tam khôi. Dịch (13) Trước án có vạn giáp sơn, một câu hô trăm câu dạ. Dịch (14) Ngoài án có 3 cây bút, một lần đi thi, đỗ tam khôi. Giải thích (13) Tất cả những núi non trước huyệt đều cúi đầu chầu vào huyệt thì người được đất đó hô một câu có trăm người dạ. Giải thích (14) Trước án có một cây bút cũng đã học giỏi và đi thi đỗ cao rồi, thế mà trước án có những 3 cây bút thì khi đi thi không những đỗ cả 3 khoa, mà lại đỗ đầu nữa (Cụ Nguyễn Khuyến tục gọi là cụ Tam nguyên Yên Đổ, một lần đi thi đỗ đầu cả 3 khoa). Đồng thời với cụ, có cụ nghè Vân Đình, là cụ Dương Khuê cũng đỗ đầu cả ba khoa nhưng phải thi nhiều lần. Hai cụ rất thân với nhau nên khi cụ Dương Khuê mất, cụ Nguyễn Khuyến có làm bài thơ phúng viếng rất nổi tiếng mở đầu có những câu: Bác Dương thôi đã thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau Kính yêu từ trước đến sau v.v... Rượu ngon không có bạn hiền Không mua không phải không tiền không mua Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết Viết đưa ai, ai biết mà đưa Hai cụ kính yêu nhau về tài học. Cụ Nguyễn Khuyến thường nói là tài học cụ Dương Khuê có thể thi một lần đỗ tam khôi như mình, tiếc thay cụ phải thi nhiều lần. Còn cụ Dương Khuê thì nói là cụ Nguyễn Khuyến xứng đáng thi đỗ tam khôi. Một hôm cụ Nguyễn Khuyến lại thăm cụ Dương Khuê ở Vân đình trở về và cụ Dương Khuê đi theo tiễn đến bờ sông, trước khi cụ Nguyễn Khuyến lên thuyền xuôi về Yên Đổ, Bình Lục, Hà Nam. Tại bờ sông hai cụ thấy mấy bà vạch đít trắng hếu ngồi ỉa đồng. Cụ Yên Đổ liền đọc: “Vân Đình hữu ý khuy toàn diện”. Câu này nghĩa đen là nếu cụ Vân Đình để ý thì có thể nhìn thấy tất cả bề mặt của các bà. Nghĩa bóng là nếu cụ Vân Đình cố gắng, có thể đi thi một lần đỗ đầu ba khoa. Cụ Vân Đình liền đáp lại: “Yên Đổ vô tình thức bán luân” Nghĩa đen câu này là: Cụ Yên Đổ vô tình mà đã thấy nửa vành bánh xe của các bà. Nghĩa bóng là cụ Yên Đổ dù thi sơ sơ cũng đủ tài đỗ đầu cả 3 khoa. Câu 15: Mộc sinh văn sĩ, Thổ vượng điền ngưu, Kim chi thượng thư. Câu 16: Thủy sinh lang dịch. Thổ khai khẩu, phú gia địch quốc. Dịch (15) Một phát văn tài, Thổ vượng ruộng trâu, Kim tới Thượng thư. Dịch (16) Thủy phát lang cấp, Thổ mở miệng, giàu ngang nhà nước. Giải thích (15) Đất kết hình mộc (nhỏ nhắn, dài) thì phát văn. Đất kết hình thổ (thô kệch) thì làm ruộng phát đạt. Đất hình kim (tròn đẹp) thì làm quan có thể đến thượng thư. Giải thích (16) Đất hình thủy thì phát quan lang, huyệt kết hình Thổ (vuông hay chữ nhật) mà khai Oa kết huyệt thì giàu nhất nhì trong nước. Câu 17: Mộc khai Oa, sĩ khôi thiên hạ Dịch (17) đất hình Mộc khai Oa kết huyệt, sẽ đỗ đầu thiên hạ. Câu 18: Quý cực phẩm, tại hồ tứ duy sơn ngật Câu 19: Phú địch quốc, tại hồ cửu khúc thủy triều. Dịch (18) Sang cực phẩm, do ở Tứ duy có núi mọc Dịch (19) Giàu nhất nước, tại vì thủy có 9 khúc triều về. Giải thích (18) Đất có núi cao trấn 4 phương cân đối (thuộc tứ duy) là: - Càn (Tây bắc) - Khôn (Tây nam) - Cấn (Đông bắc) và - Tốn (Đông nam) là đất quý cực phẩm. Giải thích (19) Nước từ minh đường chảy ra thủy khẩu hay nước từ thủy khẩu chảy đi, nếu chảy khuất khúc tốt hơn chảy thẳng. Chảy khuất khúc đến 9 khúc là tốt nhất. Câu 20: Sinh phong hầu, tử miếu thực, tại hồ ngũ khí triều nguyên. Câu 21: Thiếu chi quý, lão đắc toàn, tại hồ bát phương bất động. Dịch (20) Sống phong hầu, chết thành hoàng, bởi tại ngũ khí triều nguyên. Dịch (21) Trẻ cực sang, già có của, do ư bát phương bất động. Giải thích (20) Đất có ngũ khí triều nguyên là đất kết có huyệt trường hình Thổ ở trung ương, Đông có hình mộc, Tây có hình Kim, Nam có hình Hỏa và Bắc có hình Thủy. Giải thích (21) Huyệt trường được che gió kín, 8 hướng đều không bị xuy vong. Câu 22: Long tiêm phong, tử tôn tảo phát đăng khoa. Câu 23: Hổ thùy đầu, gia môn đa sinh anh hùng Dịch (22) Long có núi nhọn, con cháu sớm đăng khoa bảng. Dịch (23) Hổ cúi đầu, gia môn sinh lắm anh hùng. Giải thích (22 – 23) Long tốt phải dài và nhỏ, hổ tốt phải cao và cúi đầu. Câu 24: Khảm, Cấn, Chấn vi tam nam: Tốn, Đoài, Ly vi tam nữ. Mỗ vị ứng, mỗ vị phát, mỗ vị khuyết tắc, mỗ vị suy. Dịch (24) Khảm, Cấn, Chấn là 3 trai; Tốn Ly Đoài là 3 gái. Ứng ngôi nào là phát ngôi đó; khuyết ngôi nào thì suy ngôi đó. Câu 25: Sĩ khôi thiên hạ, tại hồ bút giá xấm vân. Câu 26: Sĩ trúng thiếu niên, tại hồ bút sáp đảo địa. Dịch (25) Đỗ đầu thiên hạ là do giá bút ngất tầng mây. Dịch (26) Đăng khoa tuổi trẻ là do bút mọc cài mặt đất. Giải thích (25 – 26) Bút đứng (bút cao tới mây) tốt hơn bút nằm (bút đảo địa). Câu 27: Lực thống tam quâ, tại hồ liệt ấn liệt kiếm Câu 28: Quyền thu vạn chúng, tại hồ bài cổ bài chung Dịch (27) Thống lĩnh ba quân, tại vì sẫn ấn, sẵn kiếm. Dịch (28) Chỉ huy vạn chúng, tại vì có trống có chiêng. Giải thích (27 – 28) Đất phát võ là làm lớn phải có chiêng trống và kiếm ăn. Câu 29: Tam quân xuất trận anh hùng tướng Câu 30: Lưởng sĩ phù kiên trúng một nho Dịch (29) Ba quân xuất trận, phát tay danh tướng Dịch (30) Hai sĩ phò vai, sinh bậc túc nho. Giải thích (29-30) Nếu thấy hai vai huyệt trường có 2 quả gò là được cách lưỡng sĩ phù kiên. Đất có cách này sẽ sinh được con, cháu là nho sĩ có tài học thâm thúy. CHƯƠNG 1 – 2 ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ (Tiếp theo) Hướng dẫn Chương 1 chia làm 7 chương nhỏ (phân chương) Đây là chương nhỏ thứ 2 (1 – 2) của Địa lý trị soạn phú bắt đầu từ câu 31 cho đến câu 60. Câu 31: Thiên hán lĩnh giang tâm, đỉnh sinh hùng tướng Câu 32: Hoa biểu hãn thủy khẩu, trấn tĩnh biên khu Dịch (31) thiên hán trấn giữa sông, phát sinh hùng tướng. Dịch (32) Hoa biểu ngăn thủy khẩu, trấn tĩnh biên khu. Giải thích (31 – 32) Đây nói về thủy khẩu là thành phần rất quan hệ cho một cục đất kết. Thủy khẩu là cái gò đống hoặc đống đá, cù lao, chỗ thắt lại ngăn nước chảy, để đóng cửa giữ nội khí cho khỏi tán nên mới có đất kết. Nói đến thủy khẩu người ta nghĩ đến người lính gác văn phòng, hoặc toàn lính gác những cơ sở lớn, hoặc nhiều toán lính gác các cung điện, dưới quyền chỉ huy của các cấp chỉ huy lớn nhỏ khác nhau. Nếu thủy khẩu có những tinh phong nhỏ như quy, sà hình thì gọi là cầm tinh trấn thủy khẩu. Những tinh phong ở thủy khẩu, lớn hơn như hình sư tử, voi, lân... ta gọi là thú tinh trấn thủy khẩu. Nếu có cái sơn đứng cao như canh gác thủy khẩu thì gọi là Hãn môn hay Thiên hán hoặc Hồng kỳ. Nếu thủy khẩu có 1 cái hay 2 sơn hình mộc tinh (hình dài) thì gọi là Hoa biển trấn thủy khẩu. Những Thiên hán, Hoa biểu hay Hồng kỳ do long mạch từ Thiếu tổ sơn kéo đến trấn thủy khẩu thường là đất lớn, hay phát sinh hùng tướng hay những vị lãnh trấn tĩnh biên khu. Câu phú 31 – 32 trên nói về loại thủy khẩu lớn này. Câu 33: Văn chương quán thế, tại hồ quỷ hậu sử thôi. Câu 34: Tinh nhuệ bạt luân, tại hồ thần đồng tiền lập. Dịch (33) Văn chương quán thế, tại vì đuôi chuột đằng sau (đây nói về hậu quỷ). Dịch (34) Tinh nhuệ hơn đời, tại vì thần đồng ở đằng trước (đây nói về tiền quan). Giải thích (33-340 Đất có tiền quan, hậu quỷ rất dễ sinh những nhân tài hơn đời. Câu 35: Văn chương quán xuất, tại hồ thủy diệu ấn phù Câu 36: Vũ dũng đỉnh sinh, tại hồ mão phương kiếm lập. Dịch (35) Văn chương lừng lẫy, ấn nổi mặt nước sui nên. Dịch (36) Võ tướng phát sinh, kiếm tại mão phương hợp cách. Giải thích (35-36) Ấn nổi mặt nước phát văn tốt hơn ấn trên cạn. Kiếm phương Chấn, Canh là hợp cách về võ, nên dễ phát lớn về ngành võ. Câu 37: Sơn kiến tam thai, vị cư Tể tướng Câu 38: Sơn hình tứ thú, đa xuất phú ông Dịch (37) Sơn hiệu tam thai, làm quan Tể tướng. Dịch (38) Sơn hình tứ thú, sản xuất phú ông. Giải thích (37-38) Chứng ứng hình tam thai là quả núi hay quả gò có 3 chỏm nhọn cao vút lên (giữa cao, 2 bên thấp) nên làm quan đến tể tướng. Còn chứng ứng hình thô kệch, to như con thú chỉ sản xuất ra nhà giàu, làm ruộng, ăn to vác nặng. Câu 39: Tịch mạo ỷ lập diên tiền. Đông cung thì giảng. Câu 40: Mịch đầu ỷ cứ huyệt hậu, lưỡng dịch, thừa ân Dịch (39) Tịch mạo nơi trước huyệt. Thị giảng đông cung. Dịch (40) Màn trướng tựa sau lưng, thừa ân cửu bệ. Câu 41: Tiền miên cung, hậu khai trướng, chân quý vô nghi. Câu 42: Nội bế thành, ngoại mật quách, phong hầu tại thử Dịch (41) Trước ôm lại, sau khai trướng (sau ôm lên) thực là quý nhất. Dịch (42) Trong bế thành, ngoài mật quách, tất phải phong hầu. Giải thích (41) Tiền miên cung là trước ôm lại. Hậu khai trướng là sau khai trướng ôm lên. Đó là cách thế tốt. Trước sau phải như thế mới có huyệt kết. Và hai bên Long hổ cũng phải bao che nữa mới được. Giải thích (42) khi nào thấy nội cuộc có Thành và ngoại cuộc có Quách từ Thiếu hoặc Thái tổ sơn về ôm bên ngoài hết tầng này đến tầng khác nữa thì đó là đất lớn, đất được phong hầu. Câu 43: Nga my kiến ư Tốn cung, khuynh thành quốc sắc. Câu 44: Liên châu khởi ư Đoài vị, nội điện cung phi Dịch (43) Nga my hiện ở Tốn cung, khuynh thành quốc sắc. Dịch (44) Liên châu khởi ở Đoài vị, nội điện cung phi. Giải thích (43) Hình nga my (như nửa vành trăng) ở Tốn cung có con gái là trang quốc sắc. Giải thích (44) Như chuỗi châu (tròn nhỏ liền nhau) ở cung Đoài thì có con gái làm phi. Câu 45: Trang đài ư hiệu khiết diệc nhiên. Câu 46: Dậu, Tốn chi lai long diệc thị. Dịch (45) Trang đài, thanh giá cố nhiên. Dịch (46) Dậu, Tốn lai long cũng vậy. Giải thích (45-46) Lai long ở Dậu hay ở Tốn có sa hình liên châu hay hình bán nguyệt thì con gái cũng là bậc trang đài, thanh khiết như tả ở câu phú 43 – 44 ở trên. Câu 47: Long liên châu, hổ đới ấn, khoa mục tự kỳ. Câu 48: Tả nghịch sa, hữu thủy nhiễu, phú quý bất dịch Dịch (47) Long liên châu, hổ đeo ấn, khoa mục hẹn ngày. Dịch (48) Tả biên sa, hữu thủy triều, giàu sang vô địch. Giải thích (47-48) Câu 45-46 nói về sa tốt cho nữ giới, bây giờ câu 47-48 nói về sa tốt cho nam giới và cho biết là nếu trên tay long hay tay hổ có tinh phong hiện lên như chuỗi châu hay như đeo ấn thì con trai học giỏi hễ đi thi là đỗ cao. Hoặc bên tả có sa tốt mà bên hữu có thủy triều thì giàu sang vô địch. Khoa địa lý còn có phép nạp giáp nghĩa là long nào đi với thủy nào thì lại tốt gấp bội. Chúng tôi sẽ trình bày nó kế tiếp. Câu 49: Đường tiền chi lan thủy triều dương, gia đa kim ngọc. Câu 50: Điền nội chi nhất điền đê tiểu, gia vượng điều ngưu Dịch (49) Trước minh đường có làm nước triều dương nhà nhiều vàng ngọc, Dịch (50) Trong minh đường có một mảnh ruộng trũng (tụ thủy), nhà vượng ruộng trâu. Giải thích (49-50) câu 49 nói về ngoại đường và câu 50 nói về nội đường. Nội đường chỉ cần có chút nước là đủ rồi, nhưng ngoại đường càng rộng lớn càng tốt. Câu 51: Địa hữu thác, lạc, đa sinh trác việt chi tà. Câu 52: Địa hữu quỷ, quan, tất chủ thông inh chí sĩ. Dịch (51) Đất có thác lạc, sinh lắm nhân tài trác việt. Dịch (52) Đất có quỷ quan tất phát nhiều bậc thông minh chí sĩ. Giải thích (51 – 52). Sau huyệt có thác lạc, quanh huyệt trường có quan quỷ đều là đất phát người có tài trác việt hơn đời. Câu 53: Liên hoa xuất thủy, sinh Đại tướng Câu 54: Mãnh hổ tại sơn, phát đại quan Dịch (53) Liên hoa xuất thủy, đại tướng phát sinh (hoa biểu từ tổ sơn đến trấn thủy khẩu là đất phát tướng). Dịch (54) hổ tại sơn (có núi đất, núi đá thú hình trần thủy khẩu) phát đại quan. Giải thích (53-54) Thủy khẩu có núi lớn hình liên hoa hay mãnh hổ (thú tinh) từ Thiếu tổ hay Thái tổ sơn kéo về thì phát võ rất lớn như vậy. Câu 55: Cầm hình văn quan, thú hình võ tướng, chân đích vô nghi Câu 56: Sơn thế nhân đinh, thủy thế tài vật, quả đích hữu nghiệm. Dịch (55) Cầm hình phát văn, thú hình phát võ, quả thực không sai. Câu 56: Sơn thế nhân đinh, thủy thế tài vật, quả đích hữu nghiệm. Dịch (55) Cầm hình phát văn, thú hình phát võ, quả thực không sai Dịch (56) Sơn thế phát đình, thủy thế phát phú, ứng nghiệm chẳng lầm. Giải thích (55) Trấn thủy khẩu hình cầm (nhỏ, dài) phát văn. Trấn thủy khẩu hình thú (hình to, lớn) phát võ. Giải thích (56) Sơn tốt sinh người tài giỏi, thủy tốt phát nhiều tiền của, vì sơn chủ quý và thủy chủ phú. Câu 57: Chấn, Canh triều, phú nhi kham địch quốc Câu 58: Hợi, Tốn triều, phú nhi bẩm gia truyền. Cố viết: Hợi sơn nhất thăng, khả dĩ tri phú Tốn thủy nhất nhược, khả dĩ cứu bần. Dịch (57) Chấn Canh triều về, tiền của như nước. Dịch (58) Hợi Tốn triều về, giàu có truyền đời nên mới nói: Hợi sơn một thăng, có thể nên giàu. Tốn thủy một nuôi, có thể cứu bần. Giải thích (57-58) Chấn, Canh, Hợi, Tốn là 4 hướng tốt. Hướng Tốn, Hợi có nước, có núi dù ít cũng giàu. Muốn kiếm đất cứu bần nên lưu ý hai hướng tốt này. Câu 59: Xích sà nhiễu ấn, chủ đại quý Câu 60: Bạch hổ đới ấn, chủ võ quan Dịch (59) Xích sà nhiễu ấn, phát đại quý. Dịch (60) Bạch hổ đới ấn, chủ võ quan Giải thích (59) Ấn ở hướng Tốn Tỵ gọi là xích xà nhiều ấn, đại quý. Giải thích (60) Bạch hổ đới ấn dễ phát võ. (Còn Tiếp)
-
3-4 Huyền Không ngũ hành: Người ta dùng Huyền Không ngũ hành để tính thủy khẩu, hễ hướng thủy khẩu sinh nhập hay khắc nhập hành của hướng huyệt thì cát. Dưới đây là công thức huyền không ngũ hành: Bính, Đinh, Ất, Dậu thuộc Hỏa. Càn, Khôn, Mão, Ngọ thuộc Kim Hợi, Quý, Cấn, Giáp thuộc Mộc Tuất, Canh, Sửu, Mùi thuộc Thổ. Tý, Dần, Thìn, Tốn, Tỵ, Tân, Thân, Nhâm thuộc Thủy. 3-5 Công thức cửu tinh phân phối 24 sơn: 1. Kiền sơn thuộc sao Lộc Tồn 2. Hợi sơn thuộc sao Liêm Trinh 3. Nhâm sơn thuộc sao Văn Khúc 4. Tý sơn thuộc sao Phá Quân. 5. Quý sơn thuộc sao Phá Quân 6. Sửu sơn thuộc sao Vũ Khúc 7. Cấn sơn thuộc sao Tham Lang 8. Dần sơn thuộc sao Văn Khúc 9. Giáp sơn thuộc sao Lộc Tồn 10. Mão sơn thuộc sao Liêm Trinh 11. Ất sơn thuộc sao Tả Phụ 12. Thìn sơn thuộc sao Phá Quân 13. Tốn sơn thuộc sao Cự Môn 14. Tỵ sơn thuộc sao Vũ Khúc 15. Bính sơn thuộc sao Tham Lang 16. Ngọ sơn thuộc sao Văn Khúc 17. Đinh sơn thuộc sao Vũ Khúc 18. Mùi sơn thuộc sao Liêm Trinh 19. Khôn sơn thuộc sao Hữu Bật 20. Thân sơn thuộc sao Phá Quân 21. Canh sơn thuộc sao Liêm Trinh 22. Dậu sơn thuộc sao Vũ Khúc 23. Tân sơn thuộc sao Cự Môn 24. Tuất sơn thuộc sao Văn Khúc (Công thức Cửu tinh phân phối 24 sơn này rất là quan trọng cho những công thức nào dùng đến Tử long thiên tinh như các chương tâm kinh sau này). 3-6 Hà Đồ chí vu quan thượng (Để hình Hà đồ trên áo quan) Câu 1: Hà Đồ long chi tượng, dụng thanh chỉ tác chi đồ. Dịch (1) Hà Đồ tượng về Long, dùng giấy xanh làm bản đồ tròn Câu 2: Dĩ mặc hùng hoàng, thần sa hỗn ma vu nhất thứ chi. Dịch (2) Lấy mực hùng hoàng, và thần sa mài lẫn với nhau để vẽ. Câu 3: Ngũ thập ngũ số: - Nhất - Lục – (Khảm: thủy) - Nhị - Thất (Ly: hỏa) - Tam – Bát (Chấn Tốn: mộc) - Tứ - Cửu (Càn Đoài: kim) - Thập – Ngũ (Khôn Cấn: thổ) Khinh thanh vi nhiên: Nhị thập ngũ số Trọng trọc vi địa: tam thập số 25 + 30: 55 Dịch (3) Năm mươi lăm số: Số 1 và số 6 là Khảm (hành thủy) Số 2 và 7 là Ly (hành hỏa) Số 3 và 8 là Chấn Tốn (hành mộc) Số 4 và 9 là Càn Đoài (hành kim) Số 10 và 5 là Khôn Cấn (hành thổ) Thanh nhẹ là trời có 25 số Thô nặng là đất có 30 số Tổng cộng là 25 + 30 = 55 số 3-7 Lạc thư chi vu quan hạ (Để hình Lạc thư vào dưới áo quan) Câu 1: Lạc thư qui chi tượng, dụng hùng hoàng chỉ tác phương đồ Dịch (1) Lạc thư tượng về quy, lấy giấy đỏ làm bản đồ vuông. Câu 2: Dĩ Hùng hoàng, thần sa, chu sa hỗn ma vu nhất thứ chi. Dịch (2) Lấy mực hồng hoàng và thần sa mài lẫn với nhau để vẽ: Câu 3: Tứ thập ngũ số: (có 45 số) Nhất Khảm (số 1 là Khảm) Nhị Khôn (số 2 là Khôn) Tam Chấn (số 3 là Chấn) Tứ Tốn (số 4 là Tốn) Ngũ trung (số 5 là Trung cung) Lục Càn (số 6 là Càn) Thất Đoài (số 7 là Đoài) Bát Cấn (số 8 là Cấn) Cửu Ly (số 9 là Ly) Cộng 1+2+3+4+5+6+7+8+9 = 45 Câu 3: Khinh thanh vi thiên vi nhị thập ngũ số (Thanh nhẹ là trời có 25 số) Câu 4: Trọng trọc vi địa vi nhị thập số (Thổ nhẹ là đất có 20 số) 3-8 Đại thần trung thần tiểu thân đinh cục, chiết thủy chi pháp chước dụng (Dịch Châm chước dùng phép Đại thần, Trung thần, Tiểu thần để định cục chiết thủy) Câu 1: Kỳ pháp tự Tiểu nhập Trung, nhị thập Đại tam chiết xuất thủy Dịch (1) Theo phương pháp nên từ Tiểu vào Trung rồi vào Đại, 3 lần khúc chiết thủy phóng ra Càn Khôn Cấn Tốn, gọi là thượng ngư nhai thủy Câu 2: Ất, Tân, Đinh, Quý thân danh Tiểu Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tiểu thần biểu, thuộc Quý phòng Dịch (2) Ất Tân Đinh Quý là Tiểu thần. Thìn Tuất Sửu Mùi Tiểu thần biểu, thuộc ngành út Câu 3: Giáp, Canh, Bính, Nhâm hiệu Trung thần Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Trung thần chiếu, thuộc ngành thứ. Câu 4: Duy hữu Càn Khôn Cấn Tốn phương Dần Thân Tỵ Hợi phương Đại Thần thuộc Mạnh phòng Dịch (4) chỉ có Càn Khôn Cấn Tốn phương và Dần Thân Tỵ Hợi phương thuộc ngành trưởng. Câu 5: Bát can tứ duy lưu giai cát, nhược phóng Chi tràng khởi họa ương. Dịch (5) nước chảy Bát Can tứ duy đều là tốt, nếu phóng ra Chi thời khởi nên họa ương. Nước phóng ra 12 chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi thời khởi nên họa. 3-9. Thu sơn xuất sát định hướng lập cục Câu 1 Tĩnh âm, tĩnh dương lập cục dĩ Lạc Thư cơ ngẫu số, phối tiên thiên bát quái nạp giáp phân Âm Dương lập cục. Dịch (1) Lập cục theo Tĩnh âm, Tĩnh dương, lấy số cơ ngẫu (chẳn, lẽ) trong Lạc thư để phối hợp với Tiên Thiên chia Âm Dương lập cục. Câu 2: Tiên minh lưỡng kiết sơn hướng, sơn xung sạ sát, tương quan Dịch (2) Trước hết phải minh bạch về Sơn Hướng và Sơn xung xa, sát cùng tương quan của chúng. Câu 3: Âm xung, Dương bác, Trung tiên bại. Dịch (3) Âm xung, Dương bác, ngành giữa hại trước. Câu 4: Dương Âm kiêm xạ, Trưởng bất an Dịch (4) Âm, Dương cùng kiêm xạ, ngành Trưởng bất an. Câu 5: Duy quái, Mạnh chi đồng Trưởng đoan Càn, Khôn, Cấn, Tốn, tứ duy quái Dịch (5) Nhằm vào Duy quái, thường chi đầu cùng con Trưởng bị đoạn tuyệt. - Càn Khôn Cấn Tốn là 4 duy quái Câu 6: Dương can, tứ trọng tác Trung khan Giáp Canh Nhâm Bính: Dương Can Tý Ngọ Mão Dậu: Tứ trọng Dịch (6) Dương Can, Tứ Trọng xem về ngành giữa - Giáp Canh Nhâm Bính là Dương Can - Tý Ngọ Mão Dậu là Tứ trọng Câu (7) Ất phòng hưng bại tâm hà xứ? Kiến tại Dương Can,Tứ Quý Ất Tân Đinh Quý, Thìn Tuất Sửu Mùi Dịch (6) Ất phòng thịnh hay bại tìm ở nơi nào? Tìm ở: - Ất Tân Đinh Quý là Dương Can. Thìn Tuất Sửu Mùi là Tứ Quý. Chương 3-10A BÁT TRẠCH LỆ Càn 1 Khảm 2 Cấn 3 Chấn 4 Càn Phục vị Lục sát Thiên Y Ngũ quỷ Khảm Lục sát Phục vị Ngũ quỷ Thiên y Cấn Thiên y Ngũ quỷ Phục vị Lục sát Chấn Ngũ quỷ Thiên y Lục sát Phục vị Tốn Họa hại Sanh khí Tuyệt mạng Diên niên Ly Tuyệt mạng Diên niên Họa hại Sanh khí Khôn Diên niên Tuyệt mạng Sanh khí Họa hại Đoài Sanh khí Họa hại Diên niên Tuyệt mạng Chương 3-10B BÁT TRẠCH LỆ Tốn 5 Ly 6 Khôn 7 Đoài 8 Càn Họa hại Tuyệt mạng Diên niên Sanh khí Khảm Sanh khí Diên niên Tuyệt mạng Họa hại Cấn Tuyệt mạng Họa hại Sanh khí Diên niên Chấn Diên niên Sanh khí Họa hại Tuyệt mạng Tốn Phục vị Thiên y Ngũ quỷ Lục sát Ly Thiên y Phục vị Lục sát Ngũ quỷ Khôn Ngũ quỷ Lục sát Phục vị Thiên y Đoài Lục sát Ngũ quỷ Thiên y Phục vị Ví dụ: 1. Càn biến Càn là Phục vị (Diên niên) 2. Khảm biến Càn là Lục sát 3. Cấn biến Tốn là Tuyệt mạng 4. Chấn biến Khảm là Thiên y 5. Tốn biến Khảm là sanh khí 6. Ly biến Đoài là Ngũ quỷ. 7. Đoài biến Khảm là Họa hại Sanh khí và Diên niên là Thượng kiết Thiên y là Trung kiết Phục vị là Tiểu kiết Tuyệt mạng và Ngũ quỷ là Đại hung Lục sát và họa hại là Thứ hung Chương 3-11 Thiên văn cách thượng đốn long, địa ứng Thiên văn (Đốn long trên thể cách Thiên văn, địa huyệt ứng thiên văn) 1. Liêm trinh ám Bệnh tử (Liêm trinh rõ Bệnh tử) 2. Thai tuyệt nãi Lộc Tồn (Thai tuyệt tức Lộc Tồn) 3. Phá Quân chân Mộ vị (Phá Quân thực Mộ vi) 4. Phùng suy thị Cự môn (Phùng suy là Cự môn) 5. Học đường Lâm Quan tượng (Học đường là Lâm quan) 6. Vượng phương thị Vũ Khúc (Vượng phương là Vũ khúc) 7. Quan đới thuộc Văn xương (quan đới thuộc Văn xương). 8. Mộc dục Văn Khúc vị (Mộc dục ngôi văn khúc) 9. Dưỡng, Sinh thị Tham Lang (dưỡng, Sinh là Tham lang). Tham lang hưng trưởng tử (Tham lang hưng con trưởng) Cự Môn vượng trung phòng (Cự môn vượng con giữa). Vũ Khúc vượng tam phòng (Văn Khúc bại con giữa) Lộc Tồn bại quý phòng (Lộc Tồn bại con giữa) Phá Liêm trưởng tử thụ bần cùng (Phá Quân, Liêm Trinh con trưởng bị nghèo hèn). Thiên văn chiếu địa huyệt, địa huyệt ứng thiên văn, hợp chi tắc cát, bất hợp tắc hung. (Thiên văn trên trời chiếu mộ huyệt, Mộ huyệt ứng thiên văn, Hợp nhau thì cát, không hợp thì hung). 3-12 Thủy pháp và Lập hướng Câu 1: Nhất lập sinh hướng: Nghi hữu thủy, đảo Tả qui Khố nhi khứ (Đinh lập Sinh hướng, nên phải nước bên hữu (phải) chảy tới bên tả (trái) rồi về Khố mà phóng đi) Câu 2: Nhất lập vượng hướng: Nghi tả thủy, đảo hữu, qui Khố nhi khứ (Đinh lập Vượng hướng, nên phải nước bên Tả (trái) chảy tới bên Hữu (phải) rồi chảy về Khố mà phóng đi. Câu 3: Nhất lập Mộ Hướng: Nghi tả thủy đảo hữu, lưỡng thủy hợp khâm nhi khứ. (Đinh lập Mộ hướng nên phải nước bên Tả (trái) chạy sang bên hữu (phải) rồi hai dòng nước hợp lại và phóng đi) -------------------------------------------------------------------------------- Câu 4: Nhất lập Dưỡng hướng: nghi Hữu thủy đảo tả, qui Mộ nhi khứ. (Đinh lập Dưỡng hướng nên phải nước bên Hữu (phải) chạy sang bên tả (trái) rồi về khố mà phóng đi). -------------------------------------------------------------------------------- Câu 5: Dụng chính Ngũ hành khởi Tràng sinh thu Vượng thần tự cục sinh thủy nghịch chiều lưu qui bản long Mộ khố, nhi khứ thủy khẩu. (Dùng chính ngũ hành khởi Trường sinh, thu vượng thần tự cục, sinh thủy triều ngược lại chảy về bản long Mộ Khố rồi phóng ra thủy khẩu). Câu 6: Phương vị hợp pháp, nhược long pháp bất hợp nhi tòng hướng thu sinh vượng qui đường, tắc long gia dĩ hướng gia uế tạp bất tương nhập, tuy hữu ứng phúc, hung do trì dã. (Thủy khẩu dùng hợp pháp Nếu long pháp không hợp mà cứ theo hướng thu sinh vượng về minh đường thời long gia với hướng gia không ăn khớp với nhau, tuy có phúc, sợ còn chậm vậy). Chương 3-13 Âm dương tọa hướng luận Câu 1-Âm long: Chấn, Canh, Cấn, Bính, Tốn, Tân, Đoài, Đinh, Tý, Sửu, Hợi, Mùi âm long dã. Âm long lập âm hướng. Dịch (1) Âm long: Chấn , Canh, Cấn, Bính, Tốn, Tân, Đoài, Đinh, Tý, Sửu, Hợi, Mùi đều là Âm long. Âm long lập âm hướng. -------------------------------------------------------------------------------- Câu 2-Dương long: Càn, Khôn, Khảm, Ly, Thân, Thìn, Dần, Tuất, Quý, Giáp, Nhâm, Ất đều là dương long. Dương long lập dương hướng. Dịch (2) Dương long: Càn, Khôn, Khảm, Ly, Thân, Thìn, Dần, Tuất, Quý, Giáp, Nhâm, Ất đều là dương long. Dương long lập dương hướng. Câu 3- Nhiên thuần Dương bất sinh, thuần Âm bất dục. a. Như Hợi (âm) long tác Tỵ (âm) hướng gia Ngọ (dương) bán phân b. Như Tý (dương) long tác Ngọ (dương) hướng gia Mùi (âm) bán phân Sử bất cô hư dã. Dịch (3) Nhưng thuần âm thì không sinh, mà thuần dương thì không dục. a. Như Hợi (âm) long lập Tỵ (âm) hướng: nên chếch sang Ngọ (dương) ½ phân. b. Như Tý (dương) long lập Ngọ (dương) hướng nên chếch sang Mùi (âm) ½ phân. Khiến cho khỏi cô lập vậy. Câu 4- Kim cuộc long 1. Dương kim cuộc - Tốn Tỵ long a. Tốn long lập Tân hướng, Tốn Tỵ hành long chuyển Ất Thìn phạm Thiên cương b. Tỵ long lập Canh hướng, Tốn Tỵ hành long chuyển Ất Thìn phạm Thiên cương. 2. Âm kim cuộc Nhâm Tý long a. Nhâm long, Ngọ hướng, Nhâm Tý hành long chuyển quá Tỵ, Thìn Mão phùng Tử, Tuyệt. Câu 5- Hỏa cuộc long a. Âm hỏa cuộc, Canh Dậu long (Canh long, Nhâm hướng) Canh Dậu hành long chuyển quá Dần, Sửu, Tý phùng Tử, Tuyệt. b. Dương hỏa cuộc Cấn Dần long (Cấn long Bính, Tốn nhi hướng) Cấn Dần hành long chuyển quá Sửu phạm Thiên cương Câu 6- Mộc cuộc long Âm mộc cuộc, Bính Ngọ long (Bính long, Canh hướng) Bính Ngọ hành long chuyển quá Mùi phạm Thiên cương b. Dương Mộc cuộc, Càn Hợi long (Càn long, Giáp hướng) Càn Hợi hành long chuyển quá Dậu, Tuất phạm Thiên cương Câu 7-Thủy cuộc long a. Âm thủy cuộc Giáp Mão long (Giáp long, Càn hướng) Giáp Mão hành long chuyển quá Ngọ Mùi Thân gặp Tử, Tuyệt. b. Dương thủy cuộc, Khôn Thân long (Khôn long quý hướng) Khôn Thân hành long chuyển quá Mùi phạm Thiên cương Chương 3-14 Thiên Can tương sinh 1. Giáp Ất sinh Bính Đinh (Mộc sinh hỏa) 2. Bính Đinh sinh Mậu Kỷ (Hỏa sinh thổ) 3. Mậu Kỷ sinh Canh Tân (Thổ sinh kim) 4. Canh Tân sinh Nhâm Quý (Kim sinh thủy) 5. Nhâm Quý sinh Giáp Ất (Thủy sinh mộc) Là ngũ hành Thiên can tương sinh Thiên can tương khắc 1. Giáp Ất khắc Mậu Kỷ (Mộc khắc Thổ) 2. Mậu Kỷ khắc Nhâm Quý (Thổ khắc Thủy) 3. Nhâm Quý khắc Bính Đinh (Thủy khắc Hỏa) 4. Bính Đinh khắc Canh Tân (Hỏa khắc Kim) 5. Canh Tân khắc Giáp Ất (Kim khắc Mộc) Là ngũ hành Thiên can tương khắc. Chương 3-15 Can chi tương xung 1. Giáp Canh xung nhau 2. Bính Nhâm xung nhau 3. Ất Tân xung nhau 4. Đinh Quý xung nhau 5. Mậu Kỷ là Thổ không xung 6. Tý Ngọ xung nhau 7. Mão Dậu xung nhau 8. Dần Thân xung nhau 9. Tỵ Hợi xung nhau 10. Thìn Tuất xung nhau 11. Sửu Mùi xung nhau Chương 3-16 Địa chi tam hình 1. Dần Tỵ Thân là hình vô ân 2. Sửu Tuất Mùi là hình thị thế 3. Ngọ Mão Mùi là hình vô quá Thìn Dậu Hợi là hình tự hại nhau Địa chi lục hại 1. Tý hại Mùi nho nhỏ một thân 2. Sửu hại Ngọ mà Dần hại Tỵ 3. Mão hại Thìn mà Hợi hại Thân 4. Tương xuyên Hợi Tuất hại vô ngần Chương 3-17 Can chi tương hình 1. Giáp hình Thân, hề Ất hình Dậu 2. Bính Tý Đinh Hợi Mậu hình Dần 3. Kỷ hình Mão hề Canh hình Ngọ 4. Tỵ Nhâm Tuất Quý hình Mùi Địa chi tam sát Thân Tý Thìn sát ở Tỵ Ngọ Mùi Tỵ Dậu Sửu sát ở Dần Mão Thìn Dần Ngọ Tuất sát ở Hợi Tý Sửu Hợi Mão Mùi sát ở Thân Dậu Tuất Chương 3-18 Hướng tinh tự thứ 1. Nhất bạch thuộc Khảm (Thủy) 2. Nhị Hắc thuộc Khôn (Thổ) 3. Tam Bích thuộc Chấn (Mộc) 4. Tứ Lục thuộc Tốn (Mộc) 5. Ngũ Hoàng thuộc Trung (Thổ) 6. Lục Bạch thuộc Càn (Kim) 7. Thất xích thuộc Đoài (Kim) 8. Bát bạch thuộc Cấn (Thổ) 9. Cửu tử thuộc Ly (Hỏa) Tốn (Tứ Lục) Ly (Cửu Tử) Khôn (Nhị hắc) Chấn (Tam Bích) Trung (Ngũ hoàng) Đoài (Thất Xích) Cấn (Bát Bạch) Khảm (Nhất Bạch) Càn (Lục Bạch) HẾT. dienbatn giới thiệu . Nguồn:Blog360.dienbatn
-
BÍ ẨN LÀNG MA ÁM - NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH HÓA GIẢI . Bài này dienbatn đang viết dở dang trên diễn đàn Vielyso , nhưng topic bị khóa nên đành dở dang . Nay mang sang đây biên tập lại và viết nốt phần sau để các bạn tham khảo . dienbatn . Theo báo an-ninh-thế-giới số ra ngày 27-09-2006 trang 04 như sau : Suốt 10 năm trời, xóm Đầu (thôn Sơn Quả, xã Lương Phong, Hiệp Hòa, Bắc Giang) chết không biết bao nhiêu trâu, bò, lợn, chó. Tất cả số vật nuôi thân thiết với nhà nông này cứ đột nhiên "nổi cơn điên" rồi lăn ra chết. Những câu chuyện kỳ lạ được người dân thêu dệt đầy chất ma quái. Chuyện về "làng ma ám" đã được người dân trình cả lên Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang với mong muốn các nhà khoa học về làng tìm ra lời giải đáp và có cách giúp dân thoát cảnh... "ma ám". Gần đây, khi Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Bắc Giang vào cuộc, xóm Đầu bỗng trở nên nổi tiếng và là sự kiện đáng quan tâm. Đi dưới những lũy tre xanh mướt, những con đường quanh co, tôi tìm đến xóm Đầu. Xóm Đầu cách thị trấn Thắng (Hiệp Hòa) chừng 6 km, nằm co cụm quanh những đụn cát, những ngôi nhà nghèo xác nghèo xơ lẫn trong những lũy tre. Trưởng xóm Lưu Văn Lần vừa nói vừa thở dài thườn thượt: “Xóm có 34 hộ, có 37 con trâu bò thì cả 37 con đều lăn ra chết. Lợn, chó đếm không xuể, nhà có 1 con cũng chết, nhà có 10 con, 15 con, 40 con cũng chết sạch, chết không biết nguyên nhân”. Từ một gia đình bị "ma ám" Câu chuyện kỳ lạ này bắt đầu từ năm 1997, trong gia đình nhà anh Bùi Văn Thanh... Ngôi nhà anh Thanh tường đất, lợp rạ núp dưới bụi tre rậm rì. Đứng trước cái chuồng lợn trống hoác, anh kể: Ngày 21/4/1997, vợ chồng vẫn băm bèo, nấu cám cho đôi lợn 80 kg ăn. Hai con lợn đều béo tốt, khỏe mạnh và sắp đến ngày xuất chuồng. Bỗng nửa đêm, nghe thấy tiếng lợn kêu éc éc, rồi nó lao vào thành chuồng rầm rầm. Soi đèn pin thấy hai con lợn hiền lành mọi ngày bỗng đổi tính đổi nết lồng lộn như hoang thú, anh chị sợ dựng tóc gáy. Sau khi hộc lên mấy tiếng, cả hai con lăn ra chết. Từ mép chúng rỉ ra vài giọt máu tươi. Lần nuôi lợn sau, anh Thanh tẩy chuồng sạch sẽ, đem vôi bột về rắc rồi mới dám thả đàn lợn mới. Đàn lợn 10 con của anh vừa nuôi được đúng một tháng, đang lớn nhanh như thổi bỗng dưng cũng như điên như loạn, rồi lăn ra chết y hệt như hai con lợn thịt trước. Anh gọi bác sĩ thú y đến xem xét, bác sĩ khẳng định không phải chết do bỏ độc, như vậy chỉ có thể do chúng mắc một loại bệnh dịch nào đó. Lần ba, anh cẩn thận... đốt chuồng, phá tường cũ, xây lại tường mới, quét vôi trắng xóa, phun các loại thuốc phòng dịch khắp chuồng, khắp vườn. Nhưng lợn vẫn lên cơn điên và chết, mà càng ngày chết càng nhanh, có khi mới đưa về chuồng được một giờ đã "nổi đóa" rồi lăn ra chết. Nghĩ nhà mình bị ma ám, anh Thanh mời thầy cúng về nhà. Sau một buổi khấn vái, thầy khẳng định đã đuổi được tà ma đi rồi và bảo anh Thanh bắt lợn về nuôi. Bắt lợn về, anh làm đúng theo "phép" của thầy, nhưng chưa kịp làm hết "phép", lợn đã lăn ra chết. Năm 1998, tất cả gia súc trong nhà 5 anh em anh Thanh đều đồng loạt “lên cơn” và lăn ra chết. Tổng cộng số lợn nhà anh Hùng, anh trai anh Thanh, bị chết một cách bí ẩn từ năm 1998 đến năm 2001 lên tới 30 con. Đàn chó 7 con nhà anh Hùng cũng lần lượt nối đuôi đàn lợn về... chầu trời. Để tìm hiểu xem có phải do trúng độc không, họ đem nửa chậu tiết của con vật xấu số cho đàn lợn trong xóm Đầu và nửa chậu cho đàn lợn xóm bên cạnh ăn. Kết quả: đàn lợn xóm Đầu sau khi ăn liền nổi điên rồi chết hết, còn đàn lợn của xóm bên vẫn sống nhởn nhơ. Quá hoảng sợ, vợ chồng anh Hùng bàn nhau chuyển sang làng Đông sinh sống. Nhưng sang đến làng mới, đám gia súc cũng chẳng ở với vợ chồng anh lâu hơn, trong khi trâu bò hàng xóm nuôi vẫn khỏe mạnh bình thường. Đến bi kịch của cả làng Sau khi tất tật đàn gia súc gồm trâu, bò, lợn, chó của đại gia đình nhà anh Bùi Văn Thanh lần lượt chết sạch trong năm 1997 và 1998 thì năm 1999 đến lượt cả xóm Đầu chịu hậu quả nặng nề. Hộ gia đình ông Khiêm cùng một lúc chết 16 con lợn thịt đang khỏe như vâm. Ông phải lôi xe cải tiến rồi đẩy đi khắp làng để cho. Sau đấy ít bữa, những gia đình trong xóm được “hưởng lộc” từ nhà ông cũng lần lượt “trả lộc”, gia súc nhà họ cũng đồng loạt chết. Trong số đó, có những kiểu chết kỳ dị đến mức khiến cả làng hoang mang tột độ. Theo chứng thực của ông trưởng xóm Lần và cả làng thì súc vật chết nhiều nhất vào những ngày làng có lễ lạt, hiếu hỉ. Đặc biệt nhất là chó, cứ đúng lúc diễn ra lễ đón dâu hoặc đưa dâu là y rằng chó khắp làng nổi cơn tru tréo kinh hồn, chạy quáng quàng khắp nơi rồi đâm vào tường vỡ đầu chết, hoặc lao xuống ao... tự vẫn. Và điều này cũng rất khác thường, mặc dù đàn chó “nổi điên” nhưng không bao giờ cắn người. Trong làng, chỉ có gia đình anh Bùi Văn Tâm nuôi được gia súc khỏe mạnh. Trong suốt 10 năm trời, dân làng phải đối mặt với cả ngàn cái chết kỳ lạ của gia súc thì đàn gia súc nhà anh Tâm vẫn bình an vô sự. Tin rằng gia đình anh Tâm được "thánh thần phù hộ", cho mảnh đất tốt nên cả làng mang gia súc đến vườn nhà anh thả nhờ... lấy may. Quả thực, tất cả số gia súc của dân làng thả vào chuồng trâu, chuồng lợn nhà anh Tâm đều sống rất khỏe mạnh và chưa con nào chết. Hiện tại, khu vườn nhà anh Tâm mọc kín chuồng bò, chuồng lợn. Anh em, dân làng đem tre, đem rạ đến vườn nhà anh dựng chuồng để nuôi và vợ chồng anh đều sẵn sàng chấp nhận. Anh Tâm vui vẻ biến mảnh vườn nhỏ nhà mình thành cái trại nuôi gia súc của cả làng và chấp nhận mùi hôi thối nồng nặc khủng khiếp là bởi anh muốn “trả nghĩa” cho bà con, vì từ nhiều năm nay, gia đình anh đều được hưởng “lộc” từ những đàn gia súc đột tử của hàng xóm. Sự hoang mang của dân làng càng lên đến đỉnh điểm khi mới đây, trong xóm nhỏ này có hai cái chết trẻ: một cậu thanh niên chết vì điện giật và một cháu bé con anh Bùi Văn Minh chết không rõ nguyên nhân khi mới hai tuổi rưỡi. Cái chết của cháu bé con anh Minh tuy không biết có liên quan gì tới những cái chết bí ẩn của đàn gia súc trong làng không, song nó đã gây ra nỗi hoang mang rất lớn. Người dân rất mong các nhà khoa học lý giải hiện tượng này, để người dân yên tâm sống. Các cơ quan chức năng bao giờ mới vào cuộc để giải đáp thắc mắc cho người dân? Trên báo An Ninh Thế Giới số 592, ra ngày 30/9/2006 có đăng tiếp phần 2 một phóng sự dài kỳ về " Bí ẩn làng Ma ám" ở xóm Đầu, Lương Phong, Hiệp Hoà, Bắc Giang. Sự việc bí ẩn về cái chết hàng loạt không biết nguyên nhân của trâu, bò, lợn chó khiến hàng chục hộ dân với 200 nhân khẩu vốn đã nghèo đói lại trở nên đói nghèo hơn nữa. Dân làng hết sức lo lắng và đã tự đi tìm nhiều biện pháp giải quyết mang tính mê tín dị đoan. Ban đầu, một số ông thầy cúng bảo làng bị " động long mạch" do tự động thay đổi hướng ngôi miếu thờ Thành Hoàng ở đầu làng. Năm đó, dân tỏng làng mong làm ăn khấm khá nên bàn nhau góp tiền xây ngôi miếu thêm hai gian nữa cho to hơn, đàng hoàng hơn và xoay hướng ngôi miếu ra hướng Đông, nơi có mặt đường cái. Khi khánh thành thì cũng chính là thời điểm diễn ra hiện tượng gia súc, gia cầm chết hàng loạt. Để trấn trạch long mạch, các hộ dân trong xóm lại góp tiền, người bảy chục, người một trăm để mời ông thầy cúng "nổi tiếng" nhất huyện về cúng giải hạn. Đàn tế được lập ngay trước ngôi miếu. Thầy cúng vung con dao phay sắc ngọt chém đứt đầu hai con chó mực, vứt xuống hai cái giếng gần miếu thờ rồi lấp giếng lại để yểm. Yểm xong, thầy cúng tuyên bố "Nếu gia súc, gia cầm trong làng còn chết, thầy thề không thay trời hành đạo, cứu nhân độ thế nữa". Tuy nhiên ông thầy cúng vừa rời khỏi làng hôm trước, hôm sau gia súc lại tiếp tục nổi điên nổi đoá, chết hàng loạt, chết nhiều đến nỗi chuồng trại nhà nào cũng trống hơ trống hoác. Khắp làng chỉ còn thấy giống loài hai chân là gà, vịt, ngan và loài 4 chân là mèo, chuột. Sau cuộc "trấn long mạch" không thành, người dân xóm Đầu còn 3 lần lập đàn tế mời 3 thầy cúng nổi danh và 3 lần nữa mời sư ông, sư bà về cúng bái, nhưng cũng chẳng ăn thua. Cực chẳng đã, người dân trong làng thuê người về phá dỡ 2 gian miếu xây mới, trả lại hiện trạng ngôi miếu như cũ với mong ước cuộc sống được trở lại như xưa. Nhưng rồi, đâu vẫn hoàn đấy, vận hạn vẫn đổ lên đầu cái " làng ma ám" này. Theo trưởng xóm Lưu Văn Lần, hiện tại đàn ông trong làng chỉ còn anh và vài ba người nữa, còn lại đã bỏ ra thành phố hoặc đi các vùng khác làm thuê làm mướn kiếm sống cả. Một số túng quẫn thì đi buôn ma tuý. Trong làng giờ chỉ còn người già và trẻ con. Thậm chí đã có 2 hộ chuyển nhà đến làng khác sinh sống, đó là gia đình ông Hoạt, ông Duyên. Tuy nhiên, cũng như gia đình anh Hùng, dù họ sống ở làng khác, gia súc vẫn chết thẳng cẳng như thường. Người dân giờ đây chỉ còn biết trông chờ vào các nhà khoa hoạc mà thôi. Mặc dù ngôi làng nằm co cụm giữa những giồng đất pha cát trên tổng diện tích 10ha, song khắp làng cây cối rậm rì, tuơi tốt, điều đó chứng tỏ đất làng rất tốt, không xuất hiện những tia chất độc hại, có thể tác động lên sự sống trên mặt đất. Ngoài ra, cách xóm Đầu một con đường rộng 1,5m là các xóm Thượng, xóm Hạ, xóm Đông, thế nhưng, chuyện gia súc ở xóm này đột tử không hề xảy ra, kể cả trong thời gian cả nước xảy ra dịch lở mồm long móng. Qua tìm hiểu thì thấy các xóm bên cạnh cũng có cách chăn thả, chăm sóc và những kinh nghiệm nuôi gia súc tương tự xóm Đầu. Hơn nữa, mọi nguồn nước, ngồn thức ăn, môi trường sống đều chẳng cso gì khác biệt. Việc tìm ra nguyên nhân không phải là chuyện đơn giản. Cuối năm 2005, khi các đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang xuống xã Lương Phong tiếp xúc cử tri, người dân thôn Đầu phản ánh hiện tượng lạ này và đề nghị các ban ngành chức năng của tỉnh giúp đỡ. Lập tức UBND tỉnh triệu tập các ban ngành có liên quan cùng trao đổi, bàn bạc, tìm hiểu về hiện tượng gia súc chết hàng loạt ở thôn Đầu để tìm cách giúp bà con vượt qua khó kăhn. Việc quan trọng nhất là ổn định tâm lý, tránh để lực lượng dị đoan cố ý đưa tin sai lệch, gây bất ổn trong dân chúng. Nhiệm vụ này được giao cho Sở KH-CN tỉnh Bắc Giang cùng với các ban ngành liên quan. Tháng 5/2006, Sở KH-CN Bắc Giang đã giao cho Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH-CN triển khai đề tài " Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp khôi phục, phát triển chăn nuôi gia súc tại xóm Đầu, thôn Sơn Qủa, xã Lương Phong, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang". Ngay khi đề tài triển khai, lãnh đạo Sở KH-CN, Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH-CN đã cùng một số cán bộ thuộc các cơ quan chuyên môn Trung Ương với thiết bị hiện đại về xóm Đầu tiến hành nghiên cứu. Mỗi lần thấy những chiếc xe sang trọng đỗ ở đầu xóm, người dân xóm Đầu lại bỏ hết công việc đồng áng tập trung theo dõi, càng làm việc với các nhà khoa học. Đợt dầu là các cán bộ thuộc Trung tâm Môi trường của Bộ Tư Lệnh Hoá Học về lấy mẫu đất ngoài đồng, trong làng, lấy mẫu nước sinh hoạt, nước giếng khơi, nước ao hồ, kênh rạch để phân tích tại chỗ và bảo quản mang đi. Chiếc máy hút bụi từ không khí dặt ở trong các chuồng lợn, chuồng bò nổ phành phạch suốt cả buổi. Theo anh Thân Ngọc Hoàng, Giám đốc Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH-CN, Sở KH-CN Bắc Giang, cơ quan trên kết luận rằng, cả mẫu nước trong ao tù, kênh rạch, dưới lòng đất, giếng khơi, đất cát trong làng, đến những mẫu bụi hút từ không khí đều không có khác biệt so với những ngôi làng bên cạnh, không nhiễm độc, chưa tìm thấy vi rút lạ và đều nằm trong tiêu chuẩn cho phép. Thực tế, Trạm thú y huyện Hiệp Hoà, Chi cục thú y Bắc Giang cũng đã từng vào cuộc từ năm 1999 và đưa ra một kết luận: Do lượng vi khuẩn Ecoli ở khu vực xóm Đầu vượt quá mức quy định. Ngay lập tức diễn ra công cuộc tẩy uế chuồng trại, phun hàng tạ thuốc diệt khuẩn, tiêm thuốc phòng bệnh Ecoli cho động vật....Thế nhưng, tất cả những cố gắng trên đều vô vọng. Về sau, hai cơ quan này phải thừa nhận đã đưa ra kết luận vội vàng, hời hợt, vì rất nhiều nơi tồn tại lượng vi khuẩn Ecoli lớn hơn mức bình thường, nhưng cũng không gây nên hậu quả gì nghiêm trọng. Sau khi cơ quan thú y, bó tay thì Sở NN và PTNT cử cán bộ xuống tận nơi điều tra, múc nước của 13 ao tù trong xóm đi phân tích song cũng không phát hiện ra hiện tượng gì đặc biệt. Thậm chí, các cán bộ còn cùng nhân dân tát cạn cả 13 ao trong làng, rồi rắc Alohit, vôi bột, phun thuốc sát trùng khắp làng, nhưng gia súc chết vẫn hoàn chết. Như tin đã đưa về làng ma ám tại xóm Đầu ( Lương phong - Hiệp Hoà - Bắc giang ) của báo ANTG số 591, 592 và trong chuyên mục hoạt đông của TTNC LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG . TTNC LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG quyết định tổ chức khảo sát và tìm hiểu nguyên nhân xẩy ra , tìm cách hóa giải vấn đề trên . Thành phần đi nghiên cứu khảo sát lần này bao gồm những cán bộ dầy dạn kinh nghiệm của trung tâm như Thiên sứ ( NGUYỄN VŨ TUẤN ANH) , dienbatn ( BÙI QUỐC HÙNG ), Nguyên Vũ ( PHẠM HUY KHIÊM ), Nhà Ngoại cảm Tâm linh NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT , NGUYỄN QUANG PHÚ cùng sự trợ giúp từ xa của Nhà Ngoại cảm NGUYỄN THỊ MAI ( Thái bình ), dung qk ( KIỀU QUANG DŨNG ), NGUYỂN HOÀNG LINH - GD JSC ANH ĐỨC . Ngoài ra , đoàn khảo sát còn được sự giúp đỡ về phương tiện đi lại , chi phí dọc đường của một thân chủ của dienbatn ( Xin dấu tên - Người này đã từng đóng góp làm từ thiện cho Trung tâm ) . Ngày mai , 3/10/2006 , đoàn Khảo sát sẽ bắt đầu tiến hành Khảo sát thực địa . 1/ XÁC MINH LẠI NHỮNG NGUỒN TIN. Theo báo ANTG ngày 30/9/2006 : Người viết xin tóm lược sự kiện như sau : * Cách đây 3 năm , tại ruộng lúa của một hộ dân ở ngay mép làng , vào một buổi chiều , xuất hiện một cột khói xanh lét , đậm đặc , nhỏ bằng chiếc đũa, song cao đến gần ngọn tre. Sau mấy tiếng cột khói đó mới biến mất. Người dân vác cuốc , xẻng ra đào tại địa điểm đó nhưng không thấy có gì lạ. * Cách đây vài năm , dân làng đã xây thêm hai gian miếu thờ Thành Hoàng và xoay hướng ngôi miếu ra hướng khác ( Hướng Đông ). * Những súc vật bị chết chỉ nằm trong một khoảng đất nhỏ hẹp , bao gồm 34 hộ dân với 200 nhân khẩu. Tổng diện tích đất chỉ trên 10 Ha. Cây cối trên khu vực này vẫn xanh tốt. Có một gia đình sống giữa xóm lại không chết bất cứ một con vật nào. Gia súc người ngoài xóm vào chăn thả trong khu vực cũng không bị sao. Ngược lại , gia súc của những người trong xóm , dù chuyển đi sống chỗ khác vẫn cứ chết như thường. Chỉ cách nhau một con đường rộng 1,5 m , ở các xóm khác thì hiện tượng đó không xẩy ra. * Súc vật chết chỉ là loài thú 4 chân ( như Trâu , bò , lợn , chó... ). Riêng Bò và lợn do Viện Thú y TW và CT cổ phần giống chăn nuôi mua và gửi các hộ dân chăm sóc vẫn phát triển bình thường. Chỉ có 9 con chó là chết mất 5 con. Có điều lạ là Mèo và chuột cũng 4 chân , nhưng không làm sao cả. * Thịt thú vật chết , dân làng cứ ăn uống vô tư từ 10 năm nay mà không hề bị nhiễm độc. 2/ NHỮNG VIỆC MÀ NGƯỜI DÂN VÀ CHÍNH QUYỀN ĐÃ THỰC HIỆN. * Một số ông Thày cúng bảo làng bị động Long mạch do sự thay đổi hướng của ngôi miếu thờ Thành hoàng. Một Thày giỏi nhất khu vực đã làm lễ trấn Long mạch bằng cách chặt đầu hai con chó mực , vứt đầu chó xuống hai cái giếng gần miếu rồi lấp giếng lại để yểm??? Thày còn tuyên bố bỏ nghề nếu không chữa được. Nhưng chỉ bữa sau , gia súc lại tiếp tục nổi điên và chết hàng loạt. Không rõ ông Thày đó là ai và đã bỏ nghề chưa??? * Sau đó tiếp tục ba ông Thày cúng " Nổi danh " và 3 lần mời sư ông , sư bà về cúng bái nhưng chẳng ăn thua gì. * UBND Tỉnh đã triệu tập cuộc họp và trao nhiệm vụ cho sở KH- CN Bắc giang triển khai đề tài : " Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp khôi phục chăn nuôi gia súc tại xóm Đầu , Thôn Sơn quả Xã Lương phong - Huyện Hiệp hòa- Bắc giang. Ngay khi đề tài được triển khai lãnh đạo Sở KH- CN , Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH- CN đã cùng các cơ quan Trung ương với những thiết bị hiện đại nhưng không phát hiện điều gì lạ thường. * Trung tâm môi trường của bộ Tư lệnh Hóa học đã lấy mẫu đất , mẫu nước , mẫu không khí ở khắp nơi trong vùng nhưng không phát hiện được điều gì khác biệt so với những làng bên cạnh. * Trạm Thú y Hiệp hòa. Chi cục Thú y bắc giang cũng đã phun hàng trăm Kg thuốc diệt khuẩn , mặc dù các loại vi rút qua kiểm nghiệm đều nằm trong giới hạn cho phép. * Công ty Thiết bị môi trường Hà nội đã đưa rất nhiều máy móc hiện đại về đo mức phóng xạ, bức xạ , từ trường vẫn không phát hiện được điều gì đặc biệt. * Việc đầu độc gia súc do hằn thù được loại trừ và thịt của những con gia súc chết , người dân vẫn ăn bình thường. * Nhà nghiên cứu NGUYỄN PHÚC GIÁC HẢI cho rằng : Hiện tượng gia súc chết hàng loạt vào những ngày trong làng có hiếu hỉ là hiện tượng rất lạ.Theo ông Hải hiện tượng trên là do một loại Vi rút và loại Vi rút này chỉ trong những điều kiện thích hợp mới gây tác hại , hoặc chúng đã biến tướng nên khó xác định trong ngày một ngày hai ???? * Nhà Khoa học TUỆ ĐỨC- Tổng Giám đốc LHKH Tin học và ứng dụng cho rằng có thể khu vực này mới phát xạ một nguồn năng lượng nào đó mà máy móc đo bức xạ hiện thời chưa phát hiện ra ???? Ngày 3/10/2006 Đoàn chúng tôi gồm Thiên sứ ( NGUYỄN VŨ TUẤN ANH) , dienbatn ( BÙI QUỐC HÙNG ), Nguyên Vũ ( PHẠM HUY KHIÊM ), dung qk ( KIỀU QUANG DŨNG ) tiến hành khảo sát " Làng Ma ám ".Khởi hành từ 7g30 sáng , nhưng vì đưa đón và một số anh em không đi được nên gần 11g trưa chúng tôi mới tới được trụ sở UBND xã Lương phong- Huyện Hiệp hòa- Bắc giang. Giờ này các anh ở UBND xã đã nghỉ , chỉ còn có anh trong Ban Địa chính tiếp chúng tôi. Cũng may mà có anh trong Ban Địa chính xã nên chúng tôi có được bản đồ của xã rất tốt. Sau khi đưa giấy tờ và trình bày mục đích của Đoàn , Anh trong Ban Địa chính rất niềm nở và hướng dẫn tận tình chúng tôi xuống cơ sở là xóm Đầu của xã. Trước khi vào khu vực xã Lương phong , trên xe , người viết và Nguyên Vũ đã cảm nhận được Trường khí của xóm Đầu và liên tục bị Trường Khí tấn công. Tới UBND xã , Nguyên Vũ mặt xanh lè và ra ngồi riêng một chỗ không chụp ảnh . Đây là việc bình thường đối với những người có khả năng cảm nhận Trường khí. Nhiều khi ở rất xa , chỉ mới nhắc đến địa điểm và công việc sắp tới cũng đã bị Trường khí tấn công rồi. Theo như sách cổ để lại thì đây chính là tác động của Long Thần Hộ pháp của khu đất tác động đến những ai có ý đồ với khu đất đó. Đây cũng chính là cơ chế bảo vệ của Long Huyệt , Long mạch . ĐOÀN NGHIÊN CỨU TẠI TRỤ SỞ ỦY BAN TẠI NHÀ ÔNG TRƯỞNG XÓM ĐẦU Từ khi bước vào tới xóm Đầu , chúng tôi cảm nhận được Khí lực ở đây rất tốt . Nhìn xung quanh , thấy cây cối xanh um , đặc biệt , nước trong khu vực này từ nước giếng tới nước ruộng , hồ ao đều trong và không có mùi hôi. Nhìn trên bản đồ và thực địa , chúng tôi thấy xóm Đầu như một cái gò nổi trên một mặt phẳng hơi nghiêng . Chiều nghiêng theo hướng Tây Bắc nghiêng sang Đông Nam . Xung quanh khu vực xóm Đầu là những đường nước bao bọc có chiều chảy từ Đông Bắc ( Cung Sửu ) vòng qua hướng Đông , chảy qua trước mặt Miếu Thần hoàng và sau vài lần uốn lượn trước Miếu , dòng nước chẩy đi về hướng Tốn ( Cung Thìn ). BẢN ĐỒ KHU VỰC XÓM ĐẦU Tại một đám ruộng gần trạm biến thế , đích thân ông Trưởng xóm chỉ cho chúng tôi đám ruộng con nhà ông Đính cùng xóm ( Ruộng này phía bên kia đường thuộc xóm Thượng ) , cách đây 2 năm ( 2004 ) , một buổi chiều khoảng 4-5 giờ , có một tia khói lam xanh , chỉ nhỏ bằng chiếc đũa , bốc lên từ mặt ruộng đang cấy dở. Làn khói bốc lên rất cao rồi mới tỏa ra từ từ. Mọi người chỉ dám đứng xa xem chứ không có ai dám đến gần( Không như báo ANTG mô tả là mọi người vác cuốc xẻng ra đào ). Đây là một ruộng đang cấy , nước còn xâm sấp mặt đất. Vài tiếng sau , tia khói đó mới tan. Đặc biệt là ngày hôm đó có mưa. Tại khu vực gần nơi phát ra tia khói màu lam này , người viết đã thực hiện nghiên cứu bằng cảm xạ , thấy rằng khu vực này bị bế Khí rất nặng. Đây chính là đầu mối của mọi việc xảy ra , người viết xin phân tích rõ ở phần sau. Chỉ biết rằng , muốn hóa giải những hiện tượng xảy ra tại xóm Đầu thì phải hóa giải ngay từ địa điểm này chứ không phải tại nơi Miếu thờ Thần Hoàng . TẠI KHU RUỘNG CÓ LÀN KHÓI BỐC LÊN . VỀ MIẾU THỜ THÀNH HOÀNG : Miếu thờ Thành Hoàng hiện nay không phải có xuất xứ từ xa xưa , mà bản thân lịch sử của ngôi miếu này cũng truân chuyên như đàn gia súc ở đây vậy. Hiện nay miếu thờ chỉ là một căn miếu khoảng độ 2 m2 , được xây cất sơ sài và thờ cúng cũng hết sức đơn giản. Các bạn xem hình Miếu thờ thì sẽ thấy rõ : Lịch sử của Miếu thờ Thần Hoàng như sau : Ngày xưa , Miếu thờ Thành Hoàng làng ở một chỗ khác , ngoài rìa xóm. Đây cũng chỉ là một ngôi Miếu rất đơn sơ. Tại khu vực giếng của làng , ngày xưa khi nhân dân vùng này vét giếng và bùn đất đổ vào góc bên cạnh khu giếng và trở thành một cái gò nhỏ như hiện nay. Trên cái gò nhỏ này , ông Trưởng họ Lưu có trồng một cây gạo. Sau một thời gian , cây gạo rất to nhưng bị chết. Các cụ già trong làng bàn nhau là khu đất gò này đẹp nên đưa Miếu thờ Thành Hoàng về đây xây cất lại. Do vậy năm 1983 , dân trong xóm , người cây tre , kẻ dăm đồng , đóng góp nhau xây nên cái Miếu Thờ Thần Hoàng trên cái gò nhỏ này bên cạnh giếng. Hướng của Miếu Thờ Thần Hoàng lúc đó gần giống như hiện nay ( Càn- Tốn ). Được ít năm , cuộc sống của dân trong thôn Đầu dần dần khá giả. Các cụ già trong thôn thấy chỗ thờ Thần Hoàng quá chật hẹp , mỗi lần cúng bái xong , ăn uống lại phải vào nhờ trong nhà dân hay ngay trên bãi cỏ trước Miếu , bèn bàn nhau góp tiền tu sửa lại Miếu cho rộng rãi hơn. Người viết đã trực tiếp hỏi chuyện người thợ mộc cả đã xây dựng lại Miếu. Theo ông thợ mộc , khoảng cuối năm 1996 , đầu 1997 thì bắt đầu thực hiện việc xây dựng lại miếu. Người ta đã phá dỡ miếu cũ xây từ năm 1983 và xây lại căn Miếu rộng ba gian rất khang trang. Tự tay ông thợ mộc đã phạt Mộc và xây dựng , không có sự tham dự của bất cứ Thày Địa lý nào cả. Lúc đó người ta xoay hướng Miếu về phía chính Đông , tức là mặt Miếu ngoảnh ra dòng nước uốn khúc trước của Miếu và Thanh Long của Miếu chính là Giếng làng. Trong thời gian này có một việc dân làng vẫn nhớ là khi ông Sơn là người ngụ cư trong làng chết ( Khoảng tháng 5/1996 ) , và con ông Sơn chính là người khai móng xây dựng Miếu Thành Hoàng mới thì bày gia súc của con ông Sơn bắt đầu lăn ra chết. Đây là trường hợp đầu tiên của việc súc vật chết tại thôn Đầu. Gia đình ông Sơn cho rằng , khi chết , ông Sơn phạm vào Trùng sao đó nên tổ chức cúng lễ rất chu đáo , nhưng súc vật vẫn cứ một hiện tượng là phát điên , run chân và lăn ra chết hàng loạt. Một điều lạ nữa là , mỗi khi trong thôn có đám hiếu hỉ thì súc vật bốn chân lại lăn đùng ra chết hàng loạt. Cụ thể như đám cưới của anh Long con ông Nghiệp , buổi chiều mang đồ ra Miếu Thành Hoàng cúng tế( Đây cũng là một nét đẹp của dân thôn Đầu ) , thì buổi tối lợn nhà anh Thêm lăn ra chết hàng loạt. Sự việc như thế này diễn ra trùng hợp rất nhiếu lần. Chính vì có chuyện kỳ lạ đó , các cụ lại bảo rằng , sửa hướng Miếu quay về phía Đông không được vì động Thành Hoàng. Mặt khác , có một ông thày Địa lý ở trên Bắc Thái đi qua , nhìn hướng Miếu và phán rằng , hướng Miếu như vậy không nuôi được gia súc. Các cụ trong thôn càng hoảng , liền bàn nhau xây lại cái Miếu hiện nay , theo như hướng cũ. Ông trưởng thôn hiện nay cũng chính là người đầu tắt , mặt tối đi vận động xây lại Miếu như cũ. Như vậy trong thời gian này thôn Đầu có 2 cái Miếu nằm cạnh nhau. Một thời gian nữa , hiện tượng súc vật vẫn chết hàng loạt , trong làng hầu như không còn có thú 4 chân( Riêng mèo và chuột lại không chết ) , cao điểm là vào năm 1999. Vì vậy các bô lão trong làng quyết định đập phá căn Miếu 3 gian khang trang quay về hướng Đông và chỉ để lại chiếc Miếu xây lại Tọa Hợi- Hướng Tỵ như hiện nay.MỘT VÀI CHUYỆN VỀ CÁI GIẾNG LÀNG : Giếng của thôn Đầu , theo người viết dùng cảm xạ xác định là nằm trên đường hành Long của một Long mạch đi từ Tây bắc xuống Đông Nam ( Càn- Tốn ). Xác định cho thật chính xác thì Long mạch này chạy ngay sau lưng của Miếu Thành Hoàng còn sót lại hiện nay. Ngày xưa , đây là giếng nước sinh hoạt chung của cả Thôn Đầu. Giếng này có đặc điểm kỳ lạ là không bao giờ cạn nước , ngay cả những năm khô hạn , khắp cả vùng đều phải dùng nước tại giếng này. Điều kỳ lạ nữa là nước của giếng này luôn trong vắt , ngay cả vào mùa mưa. Khoảng đầu năm 1996( Người cung cấp tin không nhớ chính xác tháng , nhưng là thời điểm TRƯỚC KHI XẨY RA VIỆC CHẾT GIA SÚC HÀNG LOẠT ) , có một người , vì thấy trong giếng có nhiều cá quá nên ném một quả mìn xuống giếng để bắt cá ( giếng sâu nên không đánh lưới được ). Từ khi quả mìn đó được ném xuống , nước giếng không bao giờ trong lại nữa và giờ đây nước trở nên đỏ quạch như màu sắt gỉ. THỬ TÌM NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH HÓA GIẢI. Trước hết xét về những thực nghiệm Khoa học : Trong trường hợp này , các thực nghiệm Khoa học đã chỉ cho chúng ta thấy rất rõ những mặt còn thiếu sót của nó. Người ta đã thực hiện đo từ trường , đo bức xạ , kiểm tra các mẫu đất , mẫu nước và không khí của toàn bộ xóm Đầu. Tuy nhiên không phát hiện được điều gì nghi vấn cả. Hiện nay , nhờ sự quan tâm của các cấp Chính quyền , các cơ quan trong Tỉnh Bắc giang và cả nước , hàng loạt những thực nghiệm đã được thực hiện , hàng tỷ đồng đã được đầu tư vào cái thôn nhỏ bé này. Kết quả vẫn là con số không tròn trĩnh. Thậm chí nếu lấy theo " Tiêu chí Khoa học " như trường hợp diệt trừ vi khuẩn Êcoli , bằng cách phun hàng tạ thuốc diệt khuẩn khắp vùng , ta thấy rất rõ sự lúng túng trong việc này. Nếu giải quyết cứ theo " Những tiêu chí Khoa học" đó thì không bao giờ tìm được nguyên nhân cả. Hiện tượng gia súc chết hàng loạt như hiện nay , theo dự đoán của người viết thì trước sau tự nhiên cũng hết , nhưng hết như thế nào , hết vào lúc nào , và tại sao hết thì chúng ta phải có nhiệm vụ tìm rõ nguyên nhân. Hỡi ôi , hiện nay chúng ta đang sống và làm việc tại một hệ không gian có ba chiều quy chiếu của hệ tọa độ Đề các. Như vậy làm sao chúng ta có thể lý giải những hiện tượng ở những không gian khác đa chiều hơn. Cũng như ta không thể dùng hình học phẳng để tìm quỹ đạo của một vật thể chuyển động trong không gian. Bằng một sự áp đặt " Luật bất thành văn " thì những hiện tượng xẩy ra trong những hệ không gian nhiều chiều hơn ba của chúng ta. đều bị chúng ta chụp cho một cái mũ to tướng : MÊ TÍN- DỊ ĐOAN. Bây giờ chúng ta thử dùng suy luận sẽ thấy rõ những điều sau mà chẳng cần tốn hàng tỷ đồng thực nghiệm : 1/ Không có bất kỳ một cái gì bất thường trong hệ sinh thái và môi trường của thôn Đầu : Ví dụ có một cái gì đó như phóng xạ chẳng hạn ( người viết chỉ lấy ví dụ ) , thì không chỉ riêng xóm Đầu bị ảnh hưởng mà những khu vực xung quanh đều chịu ảnh hưởng theo , chứ không có lý , như tại cái quán nước mà chúng tôi nghỉ chân tại Thôn Ngoại , chỉ cách xóm Đầu có con đường rộng khoảng 2m , lại vẫn bình yên vô sự , lợn , chó vẫn cứ ung dung . Mặt khác nếu môi trường có một cái gì đó không ổn về mặt Khoa học thì những người đã chuyển đi sang nơi khác sinh sống thì đâu còn bị ảnh hưởng của môi trường sinh thái của xóm Đầu nữa . Ấy thế mà những người đã chuyển đi này vẫn không nuôi được gia súc và gia súc vẫn chết theo đúng bài bản ở xóm Đầu , chỉ khi những người này làm lễ bái Thành hoàng ở nơi mới , xin " Nhập khẩu Âm " thì họ mới lại nuôi được gia súc ở chỗ mới . Việc thứ hai là ngay trong thôn Đầu , vẫn có người nuôi gia xúc vô tư mà không hề bị chết dù mọi điều kiện về Địa lý , khí hậu , môi trường như tất cả những gia đình khác sống tại thôn Đầu . " Trong làng, chỉ có gia đình anh Bùi Văn Tâm nuôi được gia súc khỏe mạnh. Trong suốt 10 năm trời, dân làng phải đối mặt với cả ngàn cái chết kỳ lạ của gia súc thì đàn gia súc nhà anh Tâm vẫn bình an vô sự. Tin rằng gia đình anh Tâm được "thánh thần phù hộ", cho mảnh đất tốt nên cả làng mang gia súc đến vườn nhà anh thả nhờ... lấy may. Quả thực, tất cả số gia súc của dân làng thả vào chuồng trâu, chuồng lợn nhà anh Tâm đều sống rất khỏe mạnh và chưa con nào chết. Hiện tại, khu vườn nhà anh Tâm mọc kín chuồng bò, chuồng lợn. Anh em, dân làng đem tre, đem rạ đến vườn nhà anh dựng chuồng để nuôi và vợ chồng anh đều sẵn sàng chấp nhận. Anh Tâm vui vẻ biến mảnh vườn nhỏ nhà mình thành cái trại nuôi gia súc của cả làng và chấp nhận mùi hôi thối nồng nặc khủng khiếp là bởi anh muốn “trả nghĩa” cho bà con, vì từ nhiều năm nay, gia đình anh đều được hưởng “lộc” từ những đàn gia súc đột tử của hàng xóm. " CHỈ CÁCH CÓ CON ĐƯỜNG NHỎ NHƯ THẾ NÀY MÀ MỘT BÊN LÀ THIÊN ĐÀNG - MỘT BÊN LÀ ĐỊA NGỤC . 2/ Có rất nhiều người cho rằng vì hướng Miếu không đúng . Ý kiến này cũng trùng hợp với ý kiến của một ông thày Địa lý cho rằng nếu xoay hướng miếu ra hướng Đông thì không thể nuôi nổi gia súc trong thôn Đầu ???? Như vậy hiện nay người ta đã cho rằng , mọi việc lạ lùng xẩy ra ở thôn Đầu là do hướng của Miếu thờ Thần Hoàng bị sai . " Mắt toét là tại hướng Đình , Cả làng mắt toét phải mình em đâu " . Lúc đầu , người viết cũng mơ hồ cho rằng nguyên nhân sự việc là như vậy . Nhưng khi ngồi bình tĩnh suy luận lại thì có nhiều điều không phải như vậy . 3/ Qua tham khảo thêm ở trang bạn TUVILYSO còn có ý kiến cho rằng : " theo báo an-ninh-thế-giới số ra ngày 27-09-2006 trang 04 theo tiểu-sinh ở vùng đông-bắc viêt-nam có 1 loại cây ts không biết tên / khi ts ở đấy người dân tộc thiểu số nói rằng nếu bỏ cành của cây đó vào chuồng-trâu và chuồng-lợn thì trâu và lợn tự húc đầu vào chuồng đến chết mới thôi / nhưng không nghe nói có thể với người / như báo antg hôm nay thì có thể dân ở xóm-đầu đã sử dụng gỗ của cây đó làm chuồng để nuôi gia-súc / cũng có thể ai đó đã trồng giống-cây ấy ở trong làng / chỉ có các thầy-cúng ở lạng-sơn và bắc-giang la biết rõ về giống cây ấy / ts cũng đã nhiều lần gặng hỏi nhưng họ không nói / vì bí quyết của họ /nếu có ai trong quý vị mà biết xin cho biết lời khuyên / giống cây ấy sẽ không gây hại được cho người lớn . Việc này người viết cũng xin phản biện luôn : Thứ nhất không phải toàn bộ những chuồng gia súc của Thôn Đầu làm bằng cây gỗ ( Mặc dù có vài nhà ) , theo khảo sát của người viết thì đa phần chuồng trại ở khu vực này đều được xây dựng bằng gạch lợp ngói . Thứ hai nếu do một thứ cây nào đó làm cho trâu bò , lợn , chó bị điên chết , thì không thể lý giải được tại sao những người đã bỏ nhà đi tới vùng khác sống mà súc vật vẫn chết và tại sao trong thôn , nhà anh Tâm súc vật cũng vẫn sinh sống bình thường . Vì vậy người viết kết luận : Không có hiện tượng do một thứ cây rừng nào đó như phần trên nêu ra . 4/ HÉ LỘ MỘT NGUYÊN NHÂN : Từ một quan sát cụ thể , người viết phát hiện ra rằng , khu vực nằm trong cung giữa Tây Bắc và Tây Nam rất phát triển về kinh tế , đặc biệt có nhiều căn nhà ba , bốn tầng mới xây rất đẹp trong khu vực này . Nhìn cụ thể địa hình của xã Lương phong - Huyện Hiệp hòa , ta thấy có một mạch đất tương đối lớn ( Long mạch ) chạy từ phía Tây bắc sang Đông Nam của thôn Đầu . Long mạch này đi qua phía tay trái ( Thanh Long ) của Miếu hiện nay , qua ao làng và đi xuống khu vực con ngòi Yên Hạ . Người viết đã phác họa trên bản đồ ở trên bằng màu vàng . Long mạch này hiện nay bị bế khí ngay tại vị trí bởi cái Ao làng . Chính vì khí của Long mạch bị ngăn cản không tiếp tục đi theo đường cũ được nữa , nên nó rẽ sang bên cạnh ( Xem hình vẽ ) và đi theo hướng mới . Đây chính là lý do mà khi đo năng lượng cảm xạ tại vị trí đặt trạm biến áp , tại khu vực có Ao làng và khu vực sau Ao hoàn toàn vô khí ( Con lắc đứng yên không chuyển động ) . Đây cũng chính là lý do mà Thiên sứ kiểm tra " CON LẮC TRƯỚC CỬA MIẾU HIỆN NAY HƯỚNG TỴ TOẠ HỢI QUAY RẤT MẠNH" . Mặt khác điều này cũng lý giải được tại sao khu vực nằm trong cung Tây Bắc và Đông Nam thời gian gần đây rất phát triển về Độ thị . XIN NÓI THÊM MỘT CHÚT VỀ KHÁI NIỆM LONG MẠCH : Từ ngày rất xa xưa , người ta đã có những quan niệm rất sâu sắc về Long mạch . Trong các cổ thư chữ Hán , chữ Nôm người ta đã viết về Long mạch rất nhiều . Ở đây , người viết không nhắc lại nữa . Người viết muốn cùng các bạn tìm hiểu Long mạch theo một phương diện khác và dưới một con mắt khác , gần gũi chúng ta hơn . Mặc dù tất cả các cổ thư đều cố gắng diễn giải những khái niệm về Long mạch qua con mắt Thần bí , càng những kiến giải sau càng làm cho khái niệm Long mạch càng xa hơn những quan niệm của Tiền nhân ban đầu . Theo người viết , nói một cách nôm na thì Long mạch chính là những dòng Khí trong Phong thủy , nói chính xác hơn là những dòng Năng Lượng , vận chuyển trong vỏ của trái đất ( Người viết cần nhấn mạnh rằng nguồn năng lượng đó chỉ vận chuyển theo những quy luật khác nhau trong bề mặt vỏ của Trái đất , có chiều sâu không đáng kể so với đường kính của Trái đất ) . Nguồn năng lượng này , được tích lũy qua hai nguồn cung cấp đặc biệt : Từ năng lượng của Vũ trụ mênh mông chuyển tới ( Thiên Khí ) và nguồn năng lượng từ trung tâm của Trái đất ( Địa khí ) .Ngoài ra còn có một nguồn năng lượng nữa tuy nhỏ nhưng vẫn phải xét đến vì nó sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới từng vùng của Trái đất - Đó chính là nguồn năng lượng của bản thân con người , các loại sinh vật trên trái đất ( Nhân khí ) . Có những vùng luôn luôn được nhận những năng lượng kể trên và tích tụ ngày một nhiều trong lòng đất . Cũng chính bởi quan niệm là Trái đất là một cơ thể sống nên nó không phải là cố định , nó cũng thở phập phồng như lá phổi chúng ta vậy . Những nơi hay nhận được các nguồn năng lượng kể trên giống như lá phổi của một con người , sau khi nhận , chúng sẽ được vận chuyển bằng nhiều cách đi khắp các nơi trên trái đất . Đường dẫn những luồng Năng lượng đó chính là Long mạch . Khi luồng Năng lượng đó đi tới đâu , chúng cung cấp năng lượng cho chỗ đó đến đấy , những nơi có nhiều năng lượng thì cây cối tươi xanh , đất đai trù phú , con người đẹp đẽ , thông minh . Những vùng mà năng lượng tập trung dày đặc sẽ là nơi cực kỳ phát triển ( Long mạch kết Huyệt ) . Tại những vùng này , nguồn Năng lượng dày đặc sẽ làm cho nơi đó biến thành những trung tâm Đô thị lớn hay là nơi phát tích những nhân tài . Khi nguồn năng lượng đi gần sát bề mặt của Trái đất , chúng làm cho bề mặt vỏ trái đất gồ lên , nổi lên thành những dãy núi , đồi ...cũng có khi chúng đi quá sâu vào lòng trái đất , những vùng đó khó nhận được Năng lượng và trở thành những sa mạc hay những vùng đất khô cằn sỏi đá . Cũng có đôi khi , chúng đột ngột từ phía sâu phóng lên như những cây sen mọc thẳng từ dưới bùn đâm lên mặt nước và tại đó chúng kết tụ thành những Huyệt cực tốt và khó bị tác động theo thời gian như trường hợp mộ của Vũ Hồn tại Hải dương . Như vậy , Long mạch chính là những ĐƯỜNG VẬN HÀNH CỦA NĂNG LƯỢNG trên bề mặt vỏ của Trái đất . Nguồn Năng lượng này có thể tự nó vận chuyển theo những quy luật riêng nhưng cũng có thể bị tác động của con người . Con người là một yếu tố trong Tam tài : Thiên - Địa - Nhân nên có thể hiểu và hòa đồng với hai yếu tố còn lại là THIÊN - ĐỊA . Cũng bởi quan niệm Long mạch là một dòng năng lượng , do đó nếu muốn , con người cũng có thể điều khiển được sự vận hành của các dòng Năng lượng đó và kết quả là con người có thể điều khiển được sự vận hành của Long mạch và lúc đó , chúng ta có thể dắt Long mạch đi theo ý mình như dắt trâu vậy . Một bước phát triển nữa của sự việc là cho tới thời điểm này có một trường hợp có một cháu nhỏ hơn hai tuổi rất khỏe mạnh , đẹp trai , đang chơi thì lăn đùng ra ngất xỉu . Khi đưa lên các bệnh viện cả Trung ương và địa phương đều không xác định được nguyên nhân của bệnh . Có cái lạ là cứ đưa cháu lên đến cổng bệnh viện là cháu lại khỏe lại ( Như lần lên bệnh viện Việt Đức ) . Vào bệnh viện khám thì không thấy có hiện tượng gì xẩy ra cả , bác sĩ lại cho về . Về đến nhà cháu lại chơi ầm ầm rất khỏe . Lần cuối cùng cháu lại lên cơn lại , gia đình đưa cháu lên bệnh viện , nhưng dọc đường cháu đã mất . Đây là một trường hợp duy nhất và đặc biệt tại thôn Đầu xẩy ra với người . Ngay bản thân những người có trách nhiệm trong Thôn Đầu cũng hết sức dè đặt khi nói đây là trường hợp đầu tiên không biết có phải là duy nhất không . Chúng ta cùng xét lại cái Miếu thờ Thần Hoàng - Rất nhiều người cho rằng nguyên nhân chính là do hướng của Miếu .Tuy nhiên có một hiện tượng nữa là ngay bản thân cái Miếu hiện nay và ngay cả 2 bát hương đặt trong Miếu cũng hoàn toàn vô khí . Đây chính là điều người viết muốn nói đến . Trước hết , ta cần nhìn nhận lại việc Bốc Bát hương và Hô Thần Nhập Tượng . Đây chính là một công việc mà những người bình thường không thể làm được . Việc Bốc Bát Hương và Hô Thần Nhập Tượng phải do Pháp sư , hay những nhà sư cao tăng đức độ hoặc những người có Trường năng Lượng rất mạnh mới có thể thực hiện được . Đây chính là công việc nạp Năng Lượng ban Đầu cho bát Hương hay Tượng . Việc này có thể dùng cảm xạ hay cảm nhận Trường khí để kiểm tra . Người ta có thể dùng con lắc cảm xạ hay dùng chính bản thân mình ( nếu người đó có khả năng cảm nhận được Trường khí do luyện tập ) . Thông thường , khi Bát hương hay Tượng chưa được nạp năng lượng ( Hay còn gọi là Bốc bát Hương và Hô Thần Nhập Tượng ) , thì năng lượng của bát hương hay Tượng là Không hay cực nhỏ . Sau khi Bốc bát Hương hay Hô Thần Nhập Tượng ( Tức là đã truyền Năng lượng ban đầu vào ) , thì tùy theo Trường Năng lượng của Thày mạnh hay yếu ( Cao tay hay không ) , thì cường độ mạnh yếu của bát Hương hay Tượng đều biểu hiện rất rõ và hoàn toàn có thể đo được . Bát hương hay Tượng càng " Thiêng" thì Trường năng Lượng của nó càng lớn . Trở lại với cái Miếu hiện thời : Khi mà Trường năng Lượng đo được trong Miếu và cạnh 2 bát hương bằng không ( Con lắc đứng yên - Tức là chẳng có chút Năng lượng nào cả ) . Vậy thì với một cái Miếu đơn sơ như vậy , với Trường năng lượng bằng hay xấp xỉ bằng không như vậy , liệu có khả năng gây Họa hay Phúc cho gia súc xóm Đầu hay không . Chắc các bạn đã tự trả lời được rồi . (Còn Tiếp)
-
PHỎNG VẤN CỤ TRITRI Anh Laido đã có cuộc phỏng vấn cụ TriTri về vấn đề này như sau : Hỏi: Kính thưa Cụ Tri Tri! Nếu một làng mà xây miếu thờ Thành hoàng năm 2005, toạ Tỵ hướng hợi kiêm nhâm bính 3 độ thì thế nào ạ? Xin Cụ cho con vài lời luận đoán ạ. Làng này hiện nay đang có vấn đề về chăn nuôi gia súc CỤ ạ. Kính Laido Trả lời Theo tọa độ Thiên tinh và Hào quẻ thì không được tốt trong 10 năm đầu, qua năm thứ 11 mới khá dần tới năm 20, từ năm 30 sẽ hung bại luôn. (Tị sơn cũng không phải là tọa sơn nên xây cất miễu đình.) Hỏi: Dạ thưa Cụ. Dân làng ở đây hiện nay không thể chăn nuôi được gia súc, nó cứ chết hàng loạt CỤ à. KHONG biết là sao nữa. Con trích hiện tượng này do báo đài đăng tải để Cụ xem ạ. Trên báo An Ninh Thế Giới số 592, ra ngày 30/9/2006 có đăng tiếp phần 2 một phóng sự dài kỳ về " Bí ẩn làng Ma ám" ở xóm Đầu, Lương Phong, Hiệp Hoà, Bắc Giang. Sự việc bí ẩn về cái chết hàng loạt không biết nguyên nhân của trâu, bò, lợn chó khiến hàng chục hộ dân với 200 nhân khẩu vốn đã nghèo đói lại trở nên đói nghèo hơn nữa. Dân làng hết sức lo lắng và đã tự đi tìm nhiều biện pháp giải quyết mang tính mê tín dị đoan. Ban đầu, một số ông thầy cúng bảo làng bị " động long mạch" do tự động thay đổi hướng ngôi miếu thờ Thành Hoàng ở đầu làng. Năm đó, dân tỏng làng mong làm ăn khấm khá nên bàn nhau góp tiền xây ngôi miếu thêm hai gian nữa cho to hơn, đàng hoàng hơn và xoay hướng ngôi miếu ra hướng Đông, nơi có mặt đường cái. Khi khánh thành thì cũng chính là thời điểm diễn ra hiện tượng gia súc, gia cầm chết hàng loạt. Để trấn trạch long mạch, các hộ dân trong xóm lại góp tiền, người bảy chục, người một trăm để mời ông thầy cúng "nổi tiếng" nhất huyện về cúng giải hạn. Đàn tế được lập ngay trước ngôi miếu. Thầy cúng vung con dao phay sắc ngọt chém đứt đầu hai con chó mực, vứt xuống hai cái giếng gần miếu thờ rồi lấp giếng lại để yểm. Yểm xong, thầy cúng tuyên bố "Nếu gia súc, gia cầm trong làng còn chết, thầy thề không thay trời hành đạo, cứu nhân độ thế nữa". Tuy nhiên ông thầy cúng vừa rời khỏi làng hôm trước, hôm sau gia súc lại tiếp tục nổi điên nổi đoá, chết hàng loạt, chết nhiều đến nỗi chuồng trại nhà nào cũng trống hơ trống hoác. Khắp làng chỉ còn thấy giống loài hai chân là gà, vịt, ngan và loài 4 chân là mèo, chuột. Sau cuộc "trấn long mạch" không thành, người dân xóm Đầu còn 3 lần lập đàn tế mời 3 thầy cúng nổi danh và 3 lần nữa mời sư ông, sư bà về cúng bái, nhưng cũng chẳng ăn thua. Cực chẳng đã, người dân trong làng thuê người về phá dỡ 2 gian miếu xây mới, trả lại hiện trạng ngôi miếu như cũ với mong ước cuộc sống được trở lại như xưa. Nhưng rồi, đâu vẫn hoàn đấy, vận hạn vẫn đổ lên đầu cái " làng ma ám" này. Theo trưởng xóm Lưu Văn Lần, hiện tại đàn ông trong làng chỉ còn anh và vài ba người nữa, còn lại đã bỏ ra thành phố hoặc đi các vùng khác làm thuê làm mướn kiếm sống cả. Một số túng quẫn thì đi buôn ma tuý. Trong làng giờ chỉ còn người già và trẻ con. Thậm chí đã có 2 hộ chuyển nhà đến làng khác sinh sống, đó là gia đình ông Hoạt, ông Duyên. Tuy nhiên, cũng như gia đình anh Hùng, dù họ sống ở làng khác, gia súc vẫn chết thẳng cẳng như thường. Người dân giờ đây chỉ còn biết trông chờ vào các nhà khoa hoạc mà thôi. Mặc dù ngôi làng nằm co cụm giữa những giồng đất pha cát trên tổng diện tích 10ha, song khắp làng cây cối rậm rì, tuơi tốt, điều đó chứng tỏ đất làng rất tốt, không xuất hiện những tia chất độc hại, có thể tác động lên sự sống trên mặt đất. Ngoài ra, cách xóm Đầu một con đường rộng 1,5m là các xóm Thượng, xóm Hạ, xóm Đông, thế nhưng, chuyện gia súc ở xóm này đột tử không hề xảy ra, kể cả trong thời gian cả nước xảy ra dịch lở mồm long móng. Qua tìm hiểu thì thấy các xóm bên cạnh cũng có cách chăn thả, chăm sóc và những kinh nghiệm nuôi gia súc tương tự xóm Đầu. Hơn nữa, mọi nguồn nước, ngồn thức ăn, môi trường sống đều chẳng cso gì khác biệt. Việc tìm ra nguyên nhân không phải là chuyện đơn giản. Cuối năm 2005, khi các đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang xuống xã Lương Phong tiếp xúc cử tri, người dân thôn Đầu phản ánh hiện tượng lạ này và đề nghị các ban ngành chức năng của tỉnh giúp đỡ. Lập tức UBND tỉnh triệu tập các ban ngành có liên quan cùng trao đổi, bàn bạc, tìm hiểu về hiện tượng gia súc chết hàng loạt ở thôn Đầu để tìm cách giúp bà con vượt qua khó kăhn. Việc quan trọng nhất là ổn định tâm lý, tránh để lực lượng dị đoan cố ý đưa tin sai lệch, gây bất ổn trong dân chúng. Nhiệm vụ này được giao cho Sở KH-CN tỉnh Bắc Giang cùng với các ban ngành liên quan. Tháng 5/2006, Sở KH-CN Bắc Giang đã giao cho Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH-CN triển khai đề tài " Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp khôi phục, phát triển chăn nuôi gia súc tại xóm Đầu, thôn Sơn Qủa, xã Lương Phong, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang". Ngay khi đề tài triển khai, lãnh đạo Sở KH-CN, Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH-CN đã cùng một số cán bộ thuộc các cơ quan chuyên môn Trung Ương với thiết bị hiện đại về xóm Đầu tiến hành nghiên cứu. Mỗi lần thấy những chiếc xe sang trọng đỗ ở đầu xóm, người dân xóm Đầu lại bỏ hết công việc đồng áng tập trung theo dõi, càng làm việc với các nhà khoa học. Đợt dầu là các cán bộ thuộc Trung tâm Môi trường của Bộ Tư Lệnh Hoá Học về lấy mẫu đất ngoài đồng, trong làng, lấy mẫu nước sinh hoạt, nước giếng khơi, nước ao hồ, kênh rạch để phân tích tại chỗ và bảo quản mang đi. Chiếc máy hút bụi từ không khí dặt ở trong các chuồng lợn, chuồng bò nổ phành phạch suốt cả buổi. Theo anh Thân Ngọc Hoàng, Giám đốc Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH-CN, Sở KH-CN Bắc Giang, cơ quan trên kết luận rằng, cả mẫu nước trong ao tù, kênh rạch, dưới lòng đất, giếng khơi, đất cát trong làng, đến những mẫu bụi hút từ không khí đều không có khác biệt so với những ngôi làng bên cạnh, không nhiễm độc, chưa tìm thấy vi rút lạ và đều nằm trong tiêu chuẩn cho phép. Thực tế, Trạm thú y huyện Hiệp Hoà, Chi cục thú y Bắc Giang cũng đã từng vào cuộc từ năm 1999 và đưa ra một kết luận: Do lượng vi khuẩn Ecoli ở khu vực xóm Đầu vượt quá mức quy định. Ngay lập tức diễn ra công cuộc tẩy uế chuồng trại, phun hàng tạ thuốc diệt khuẩn, tiêm thuốc phòng bệnh Ecoli cho động vật....Thế nhưng, tất cả những cố gắng trên đều vô vọng. Về sau, hai cơ quan này phải thừa nhận đã đưa ra kết luận vội vàng, hời hợt, vì rất nhiều nơi tồn tại lượng vi khuẩn Ecoli lớn hơn mức bình thường, nhưng cũng không gây nên hậu quả gì nghiêm trọng. Sau khi cơ quan thú y, bó tay thì Sở NN và PTNT cử cán bộ xuống tận nơi điều tra, múc nước của 13 ao tù trong xóm đi phân tích song cũng không phát hiện ra hiện tượng gì đặc biệt. Thậm chí, các cán bộ còn cùng nhân dân tát cạn cả 13 ao trong làng, rồi rắc Alohit, vôi bột, phun thuốc sát trùng khắp làng, nhưng gia súc chết vẫn hoàn chết. Kính thưa Cụ Tri Tri. Trên là sự việc có thật ở Bắc Gaing Cụ ạ, hiện nay dân làng đang khốn khổ. Xin Cụ cho một vài ý kiến ạ, nếu có thể được con sẽ liên lạc với những người có trách nhiệm để họ có quyết định đúng, nhằm làm cho dân bớt khổ. Con xin cảm ơn Cụ Tri Tri. Kính Laido Trả lời: 1) Thời kỳ 1940 ông hương cả nơi xả kế xả tôi,vì muốn thuận tiện xổ nước ruộng và chuyên chở nên đào con kinh nơi ruộng ổng rồi cắt đứt con giồng,khi kinh đào xong bày trâu cũa ổng hơn 100 con bị ôn chết hết, từ đó về sau gia đình sa sút lụn bại luôn. 2) Khoảng năm 1944 cũng nơi kế xả tôi nhờ người cha biết phong thủy nên táng ông ngoại rồi cháu ngoại phát giàu có, ông hương quản ở kế bên ganh tị nên cho người đào đứt long mạch năm đó bày trâu mấy mươi con cũa gia đình này cũng bị ôn chết sạch. 3) Trở lại vấn đề nầy không biết dân sở tại có ai đào đứt long mạch nơi con giồng đó không, nếu không thì phải kiểm lại địa thế miễu ấy, và cả ngày khởi công,ngày thượng lương, ngày khánh tán tạ thổ, nơi bệ thờ dưới đất đó có trấn yễm gì không. Hỏi: Dạ thưa Cụ. Theo như lời Cụ nói thì chắc là thủ phạm đây rồi ạ : "Giếng của thôn Đầu , có người đã dùng cảm xạ xác định là nằm trên đường hành Long của một Long mạch đi từ Tây bắc xuống Đông Nam ( Càn- Tốn ). Xác định cho thật chính xác thì Long mạch này chạy ngay sau lưng của Miếu Thành Hoàng còn sót lại hiện nay. Ngày xưa , đây là giếng nước sinh hoạt chung của cả Thôn Đầu. Giếng này có đặc điểm kỳ lạ là không bao giờ cạn nước , ngay cả những năm khô hạn , khắp cả vùng đều phải dùng nước tại giếng này. Điều kỳ lạ nữa là nước của giếng này luôn trong vắt , ngay cả vào mùa mưa. Khoảng đầu năm 1996 (Người cung cấp tin không nhớ chính xác tháng , nhưng là thời điểm TRƯỚC KHI XẨY RA VIỆC CHẾT GIA SÚC HÀNG LOẠT ) , có một người , vì thấy trong giếng có nhiều cá quá nên ném một quả mìn xuống giếng để bắt cá ( giếng sâu nên không đánh lưới được ). Từ khi quả mìn đó được ném xuống , nước giếng không bao giờ trong lại nữa và giờ đây nước trở nên đỏ quạch như màu sắt gỉ" Thưa Cụ! nếu đúng là do đánh mìn làm đứt long mạch (làm tổn thương giồng) thì có cách gì hóa giải không ạ? Làng này 10 năm nay gia súc chết liên tục và hàng loạt rồi, không ai nuôi được con nào ra hồn. Còn trấn yểm thì hàon toàn không Cụ ạ. Xin Cụ chỉ giúp cách hoá giải hiện tượng này ạ. Kính chúc Cụ và gia đình an khang thịnh vượng. Kính laido Con kính chào Cụ Tri Tri ạ. Thưa Cụ! Kính mong Cụ cho cách để hoá giải hiện tượng cho làng trên ạ ! Con cảm ơn Cụ Tri Tri. Kính Laido Trả lời: Nếu do sự việc của giếng gây ra, thì thử dùng 1 mâm trái cây 5 bộ giấy ngũ sắc 99 tờ giấy vàng bạc đem đên đó cúng vái huyền nữ nương nương giáng lâm chứng giám rồi đọc Thiên môn khai, Địa môn khai, cung thỉnh long thần thổ địa lai,cầu giúp hoàn thiện hàm rồng lại, để dân làng yên cư lạc nghiệp,lục súc mạnh khoẻ đầy đàn, nay chúng đệ tử thành tâm đảnh lể khẩn mong chư vị phúc thần cứu giúp cho,cúng rồi giấy ngũ sắc thì đốt,còn 99 tờ giấy vàng bạc thì rải xuống giếng, 7 ngày sau xem có gì khác không. PHẢN BIỆN BÀI VIẾT CỦA THIÊN SỨ. Lẽ ra người viết không có bài phản biện naỳ vì người viết rất thân và tôn trọng trình độ hiểu biết sâu sắc của Thiên sứ . Nhưng trong học thuật , sự chính xác là điều quan trọng nhât , học thuật là học thuật , không khoan nhượng tình cảm của riêng ai . Mong bác Thiên sứ đừng buồn . Thiên sứ đã viết rằng : " # Nếu theo sách cổ chữ Hán thì cái miếu đầu tiên của Xóm Đầu (Trước 1998) có hướng Tốn - Đông Nam. Và điều này chẳng giải thích được gì khi xóm này trở nên phú túc vì nhờ vào chăn nuôi. Vì chính theo sách Hán cổ thì Tốn chẳng liên quan gì đến trâu bò, chó, lợn cả. Mà Tốn theo sách Hán cổ liên quan chủ yếu đến gia cầm. Thuyết quái truyện viết: # Kiền vi mã, Khôn vi Ngưu, Chấn vi Long, Tốn vi kê, Khảm vi Thỉ (Lợn), Ly vi trĩ, Cấn vi Cẩu, Đoài vi Dương. # Ngược lại theo Hậu Thiên Lạc Việt thì hướng miếu đầu tiên của xóm Đầu trước 1998 Đông Nam chính vị cung Khôn. Tượng của Trâu bò, và cung đối xung chính là cung Càn. Đây chính là trục Phúc Đức trạch theo Hậu Thiên Lạc Việt và thuộc Tây trạch. Điều này sẽ giải thích vì sao việc chăn nuôi gia súc ở đây phát triển. Bởi vì theo thuyết Quái: Khôn vi Ngưu tức là trâu bò chó lợn. Trong việc quán xét sự kiện này , tôi cũng có quán xét long mạch. Nhưng tôi không đặt nặng v/đ long mạch. Vì long mạch bao trùm một vuìng rất rộng, không chỉ riêng xóm Đầu. Hơn nữa việc ao làng có long mạch chạy qua (Theo quan điểm của Dienbatn) và bị đứt từ rất lâu, trước khi có hiện tượng gia súc chết hàng loạt ngót cả chục năm(Theo sự tường thuật của cán bộ địa phương). Như phần trên đã trình bày, tôi chỉ tìm cách giải thích theo phương pháp luận của Phong thuỷ từ hiện tượng có tính đặc thù của xóm Đầu. Đó chính là miếu của xóm. Sau năm 1998. Hướng miếu được xây theo hướng Dần toạ Thân (Gọi là miếu cũ, vì so với miếu mới hiện nay). Hướng miếu này đặc biệt kỵ Khôn tức là kỵ hướng miếu trước năm 1998 theo Hậu Thiên Lạc việt. Còn nếu theo sách cổ chữ Hán thì nó không kỵ vì hướng miếu trước năm 1998 thuộc cung Tốn là gia cầm. Điều này lý giải việc gia súc chết hàng loạt do hướng Dần Mộc kỵ sát KhônThổ. Đã vậy, hướng miếu cũ sau 1998 lại vô khí (Đã minh hoạ ở trên). Nhưng hướng miếu mới ngày nay đã hoàn toàn tốt chưa. Điều này lại liên quan đến một yếu tố tương tác nữa là Huyền Không phi tinh ." Thiên sứ viết bài này thực ra là suy nghĩ chưa thấu đáo . Nhất là vấn đề này có thể gây thất bại nghiêm trọng cho việc hoán đổi Tốn - Khôn mà Thiên sứ đang theo đuổi . Việc này chỉ cần bình tĩnh suy luận tư duy lô gic sẽ thấy ngay : Thứ nhất : Tại thôn Đầu , khi xây dựng Miếu thờ Thành hoàng , toàn bộ những người thiết kế , xây dựng Miếu chỉ là những ông thợ mộc , những người nông dân như ông trưởng thôn . Chính vì vậy , khi lấy hướng của Miếu , họ chỉ ước lượng sơ sài theo lối nhìn mặt trời mà không hề có một cái La kinh nào cả . Bằng chứng là trong khi nói chuyện , họ đã cung cấp thông tin : Hướng Miếu xây năm 1983 quay về hướng Nam , hướng Miếu ba gian sau này quay về hướng Đông . ( Người viết còn giữ băng ghi âm của cuộc trao đổi bữa trước ) . Thực tế , khi đo hướng Miếu hiện thời là Tọa Hợi - Hướng Tỵ - Thuộc cung Tốn - Đông nam chứ không phải là Nam . Mặt khác , hướng miếu ba gian đã phá đi hiện nay không còn cái nền thì chỉ căn cứ vào lời mô tả của chính những người xây nên nó cũng không chính xác . Ta biết cung Tốn - Đông Nam bao gồm ba cung nhỏ là Thìn ( 112,5 - 127,4 độ ) , cung Tốn ( 127,5 - 142,4 độ ) và cung Tỵ ( 142,5 - 157,4 độ ) . Cung Chấn - Chính Đông bao gồm ba cung nhỏ : Cung Giáp ( 67,5 - 82,4 độ ) , cung Mão ( 82,5 - 97,4 độ ) và cung Ất ( 97,5 - 112,4 độ ) . Như vậy nếu Thiên sứ sử dụng hướng Miếu như hiện nay là Tọa Hợi - Hướng Tỵ , và suy rằng hướng Miếu ba gian cũ là Tọa Thân - Hướng Dần như hình đã đăng : Nếu căn cứ vào việc suy luận dưa trên cơ sở này thì thật là nguy hiểm . Mặt khác , nếu có người hỏi rằng : Đúng rồi - Tốn vi kê ( Tức là gà - Híc ) - Thì hướng Miếu hiện tại gà vịt , ngan ngỗng vẫn cứ sống nhăn rằng ra đấy thôi ??? Vậy là hoán đổi Tốn - Khôn bị sai rồi ư ???? Tốn vi Kê - vi Vịt , vi Ngan ....gà , ngan , vịt gì cũng vẫn sống vô tư . Một bước phát triển nữa của sự việc là cho tới thời điểm này có một trường hợp có một cháu nhỏ hơn hai tuổi rất khỏe mạnh , đẹp trai , đang chơi thì lăn đùng ra ngất xỉu . Khi đưa lên các bệnh viện cả Trung ương và địa phương đều không xác định được nguyên nhân của bệnh . Có cái lạ là cứ đưa cháu lên đến cổng bệnh viện là cháu lại khỏe lại ( Như lần lên bệnh viện Việt Đức ) . Vào bệnh viện khám thì không thấy có hiện tượng gì xẩy ra cả , bác sĩ lại cho về . Về đến nhà cháu lại chơi ầm ầm rất khỏe . Lần cuối cùng cháu lại lên cơn lại , gia đình đưa cháu lên bệnh viện , nhưng dọc đường cháu đã mất . Đây là một trường hợp duy nhất và đặc biệt tại thôn Đầu xẩy ra với người . Ngay bản thân những người có trách nhiệm trong Thôn Đầu cũng hết sức dè đặt khi nói đây là trường hợp đầu tiên không biết có phải là duy nhất không . Nếu không may có một vài trường hợp nữa xảy ra với con người thì lúc đó Càn hay Khôn vi Nhân ???? Thứ hai : Như Thiên sứ đã viết : "Sau năm 1998. Hướng miếu được xây theo hướng Dần toạ Thân (Gọi là miếu cũ, vì so với miếu mới hiện nay). Hướng miếu này đặc biệt kỵ Khôn tức là kỵ hướng miếu trước năm 1998 theo Hậu Thiên Lạc việt. Còn nếu theo sách cổ chữ Hán thì nó không kỵ vì hướng miếu trước năm 1998 thuộc cung Tốn là gia cầm. Điều này lý giải việc gia súc chết hàng loạt do hướng Dần Mộc kỵ sát KhônThổ. Đã vậy, hướng miếu cũ sau 1998 lại vô khí (Đã minh hoạ ở trên). Nhưng hướng miếu mới ngày nay đã hoàn toàn tốt chưa. Điều này lại liên quan đến một yếu tố tương tác nữa là Huyền Không phi tinh ." Nếu chẳng may, hay rất có thể hướng Miếu ba gian không phải là Tọa Thân - Hướng Dần mà là Tọa Canh hướng Giáp hay Tọa Cấn - Hướng Tốn thì không biết lấy đâu Mộc để kỵ sát Khôn Thổ đây ???/ Thứ ba: Nếu chỉ chú ý tới hướng của Miếu , dù bất kể hướng như thế nào chăng nữa , có đổi chỗ Tốn- Khôn hay không thì Thiên sứ không thể nào lý giải nổi trường hợp nhà anh Tâm ở trong thôn từ khi xẩy ra sự việc , hàng ngàn súc vật chết trong xóm mà nhà anh Tâm vẫn không sao cả, và tại sao người làng đem gia súc tới nuôi nhờ trên đất nhà anh lại không chết con nào. Híc. dienbatn. Nguyên văn bởi Dienbatn trong các bài trên liên quan đến luận điểm của Thiên Sứ đang trình bày. Dienbatn viết: Thiên sứ viết bài này thực ra là suy nghĩ chưa thấu đáo . Nhất là vấn đề này có thể gây thất bại nghiêm trọng cho việc hoán đổi Tốn - Khôn mà Thiên sứ đang theo đuổi . Việc này chỉ cần bình tĩnh suy luận tư duy lô gic sẽ thấy ngay : Thứ nhất : Tại thôn Đầu , khi xây dựng Miếu thờ Thành hoàng , toàn bộ những người thiết kế , xây dựng Miếu chỉ là những ông thợ mộc , những người nông dân như ông trưởng thôn . Chính vì vậy , khi lấy hướng của Miếu , họ chỉ ước lượng sơ sài theo lối nhìn mặt trời mà không hề có một cái La kinh nào cả . Bằng chứng là trong khi nói chuyện , họ đã cung cấp thông tin :Hướng Miếu xây năm 1983 quay về hướng Nam , hướng Miếu ba gian sau này quay về hướng Đông .( Người viết còn giữ băng ghi âm của cuộc trao đổi bữa trước ) . Thực tế , khi đo hướng Miếu hiện thời là Tọa Hợi - Hướng Tỵ - Thuộc cung Tốn - Đông nam chứ không phải là Nam . Mặt khác , hướng miếu ba gian đã phá đi hiện nay không còn cái nền thì chỉ căn cứ vào lời mô tả của chính những người xây nên nó cũng không chính xác . Ta biết cung Tốn - Đông Nam bao gồm ba cung nhỏ là Thìn ( 112,5 - 127,4 độ ) , cung Tốn ( 127,5 - 142,4 độ ) và cung Tỵ ( 142,5 - 157,4 độ ) . Cung Chấn - Chính Đông bao gồm ba cung nhỏ : Cung Giáp ( 67,5 - 82,4 độ ) , cung Mão ( 82,5 - 97,4 độ ) và cung Ất ( 97,5 - 112,4 độ ) . Như vậy nếu Thiên sứ sử dụng hướng Miếu như hiện nay là Tọa Hợi - Hướng Tỵ , và suy rằng hướng Miếu ba gian cũ là Tọa Thân - Hướng Dần như hình đã đăng : Nếu căn cứ vào việc suy luận dưa trên cơ sở này thì thật là nguy hiểm . Một bước phát triển nữa của sự việc là cho tới thời điểm này có một trường hợp có một cháu nhỏ hơn hai tuổi rất khỏe mạnh , đẹp trai , đang chơi thì lăn đùng ra ngất xỉu . Khi đưa lên các bệnh viện cả Trung ương và địa phương đều không xác định được nguyên nhân của bệnh . Có cái lạ là cứ đưa cháu lên đến cổng bệnh viện là cháu lại khỏe lại ( Như lần lên bệnh viện Việt Đức ) . Vào bệnh viện khám thì không thấy có hiện tượng gì xẩy ra cả , bác sĩ lại cho về . Về đến nhà cháu lại chơi ầm ầm rất khỏe . Lần cuối cùng cháu lại lên cơn lại , gia đình đưa cháu lên bệnh viện , nhưng dọc đường cháu đã mất . Đây là một trường hợp duy nhất và đặc biệt tại thôn Đầu xẩy ra với người . Ngay bản thân những người có trách nhiệm trong Thôn Đầu cũng hết sức dè đặt khi nói đây là trường hợp đầu tiên không biết có phải là duy nhất không . Nếu không may có một vài trường hợp nữa xảy ra với con người thì lúc đó Càn hay Khôn vi Nhân ???? dienbatn. Thứ hai : Như Thiên sứ đã viết : "Sau năm 1998. Hướng miếu được xây theo hướng Dần toạ Thân (Gọi là miếu cũ, vì so với miếu mới hiện nay). Hướng miếu này đặc biệt kỵ Khôn tức là kỵ hướng miếu trước năm 1998 theo Hậu Thiên Lạc việt. Còn nếu theo sách cổ chữ Hán thì nó không kỵ vì hướng miếu trước năm 1998 thuộc cung Tốn là gia cầm. Điều này lý giải việc gia súc chết hàng loạt do hướng Dần Mộc kỵ sát KhônThổ. Đã vậy, hướng miếu cũ sau 1998 lại vô khí (Đã minh hoạ ở trên). Nhưng hướng miếu mới ngày nay đã hoàn toàn tốt chưa. Điều này lại liên quan đến một yếu tố tương tác nữa là Huyền Không phi tinh ." Nếu chẳng may, hay rất có thể hướng Miếu ba gian không phải là Tọa Thân - Hướng Dần mà là Tọa Canh hướng Giáp hay Tọa Cấn - Hướng Tốn thì không biết lấy đâu Mộc để kỵ sát Khôn Thổ đây ???/ dienbatn. Thứ ba: Nếu chỉ chú ý tới hướng của Miếu , dù bất kể hướng như thế nào chăng nữa , có đổi chỗ Tốn- Khôn hay không thì Thiên sứ không thể nào lý giải nổi trường hợp nhà anh Tâm ở trong thôn từ khi xẩy ra sự việc , hàng ngàn súc vật chết trong xóm mà nhà anh Tâm vẫn không sao cả, và tại sao người làng đem gia súc tới nuôi nhờ trên đất nhà anh lại không chết con nào. Híc. dienbatn. Dienbatn viết đủ chưa hay còn phát hiện gì mới mà cho là Thiên Sứ sai không? Theo tôi nghĩ thì Dienbatn hãy trình bày xong hết ý cho luận điểm của mình đã rồi hãy phê phán người khác sai. Tôi viết chưa xong mà. Cũng như Dienbatn viết chưa xong , tôi cũng chưa có ý kiến gì. Thiên Sứ Chào các bạn ! Qua bài viết của dienbatn về giải thích nguyên nhân làng bị ma ám, trong đó nổi bật lện hai vấn đề : - Giải thích nguyên nhân theo thiên sứ - Giải thích nguyên nhân theo dienbatn Tôi có những nhận xét khách quan như sau : 1- Đối với luận điểm của thiên sứ Tôi thấy chưa hợp lý ! Cụ thể như sau : - Thiên sứ đặt trọng tâm vấn đề vào hướng Miếu của làng để giải thích, tôi cho là khiên cưỡng vì một cái Miếu nhỏ nhoi rách nát( như hình vẽ ) chưa đủ tầm là đặc trưng của làng nên những hệ lụy của hướng Miếu chưa đủ sức ảnh hưởng đến cuộc sống của dân làng ! Khi đó mọi giải thích hệ lụy từ hướng Miếu sẽ dẫn đến sai lệch !Trong trường hợp này nên chọn hướng theo kiểu khác ! - Phương pháp suy diễn từ hướng Miếu dựa trên các quẻ kiểu Tốn Khôn hoán chuyển là chưa chuẩn vì qua các cuộc tranh luận trước đây với tubinh_giagia rất nhiều lần Thiên sứ không thể trả lời những câu hỏi mấu chốt của vấn đề này !( Như các bạn đã biết mọi cuộc tranh luận đều trở thành tranh cãi và thiên sứ luôn "từ chối " giải thích !)Do đó học thuyết Tốn khôn hoán chuyển chưa có giá trị ứng dụng ! - Thiên sứ có đề cập đến ảnh hưởng tương tác giữa hướng Miếu cũ và hướng Miếu mới, đây là học thuyết " Nguyên không trang quái " nhưng cách trình bày chưa chuẩn ( Có thể vì lý do dấu nghề hoặc chưa nắm được khẩu quyết này, mọi khả năng có thể xảy ra !) do đó cũng chưa đủ làm cơ sở dẫn chứng ! 2- Đối với cách giải thích của dienbatn : Tôi nhận thấy cách giải thích về Long mạch là chuẩn xác, đây cũng là kiến thức đã được nhiều địa lý gia nắm vững từ lâu ! Sự ảnh hưởng đến ngôi làng khi Long mạch chuyển hướng là điều đương nhiên ! Do chưa đi thực tế với dienbatn để xác định Long mạch của làng như thế nào, có thể là mạch sống hay mạch chết, mạch lớn hay nhỏ như thế nào nên tôi chưa thể nói đúng sai nhưng tôi công nhận rằng : Giải thích của dienbatn là có lý ! Hy vọng nếu có dịp Tôi sẽ nghiên cứu kỹ thêm về vấn đề này ! Thông thường thì những gì chúng ta đã viết ra thì cũng mang tính đúng sai nhất định. Do đó anh Thiên sứ cũng nên có thêm lý giải để bà con hiểu rõ về luận điểm của mình ! long nguyen quang Cùng quan điểm với anh LNQ, tuy nhiên theo NB nên chú ý chi tiết cột khói xanh bốc lên -(một dạng thoát khí của long mạch). Long mạch đã thoát khí sẽ ảnh hưởng đến 1 vùng rộng lớn. Do NB chưa có thời gian và kinh nghiệm nhiều trong lĩnh vực này nhưng qua những lần công tác NB có được một số bạn bè chỉ cho thế nào là là đất thoát khí điển hình như ai có điều kiện qua vùng Ninh Bình xem thế đất gần nơi đặt mộ nhà cụ Nguyễn Cơ Thạch thì có thể sẽ rút ra khái niệm gì đó cho mình. Cũng như ví dụ điển hình phá thế đất Ninh Bình là Phá thế núi hình Ngọc Nữ thì yểm ở tâm oa, và âm hô. Cái nhà máy xi măng Trung quốc giúp xây dựng ở dãy núi có hình Ngọc Nữ tại Ninh Bình theo các thầy địa lý thì đúng như vậy. Đi theo quốc lộ 1 cũ có thể nhìn thấy Hiểu biết sơ sơ, buôn chuyện là chính mong anh dienbatn va bác Thiên sứ thông cảm nhé Kính nguyenbuom Dienbantn thân mến. Theo tinh thần học thuật do chính Dienbatn đề xuất, Thiên Sứ tôi sẽ phản biện những ý kiến của Dienbatn như sau: Dienbatn viết: *Thiên sứ viết bài này thực ra là suy nghĩ chưa thấu đáo . Nhất là vấn đề này có thể gây thất bại nghiêm trọng cho việc hoán đổi Tốn - Khôn mà Thiên sứ đang theo đuổi . Điều này chứng tỏ Dienbatn không hiểu gì về nguyên lý tại sao phải đổi chỗ Tốn Khôn và đặc biệt trong khả năng ứng dụng của nó. Đặc biệt trong tương quan giữa lý thuyết và ứng dụng vào trường hợp cụ thể này. Từ một lý thuyết đến một phương pháp đã là một khoảng cách. Từ một phương pháp đến ứng dụng nói chung và vào một trường hợp cụ thể lại là một khoảng cách nữa. Ở đây tôi chưa nói đến khả năng của người ứng dụng phương pháp. Cùng một trường dạy nghề vẫn sản sinh ra thợ giỏi và dở. Không thể vì thợ dở mà phương pháp sửa xe sai và cũng không thể vì thế mà nguyên lý động cơ đốt trong sai. Bởi vậy nói "thất bãi nghiêm trọng cho việc hoán đổi Tốn Khôn" là hoàn toàn không hề có cơ sở. Tôi không bao giờ bắt buộc ai theo lý thuyết của tôi. Kể cả Dienbatn. * Việc này chỉ cần bình tĩnh suy luận tư duy lô gic sẽ thấy ngay : Thứ nhất : Tại thôn Đầu , khi xây dựng Miếu thờ Thành hoàng , toàn bộ những người thiết kế , xây dựng Miếu chỉ là những ông thợ mộc , những người nông dân như ông trưởng thôn . Chính vì vậy , khi lấy hướng của Miếu , họ chỉ ước lượng sơ sài theo lối nhìn mặt trời mà không hề có một cái La kinh nào cả . Bằng chứng là trong khi nói chuyện , họ đã cung cấp thông tin :Hướng Miếu xây năm 1983 quay về hướng Nam , hướng Miếu ba gian sau này quay về hướng Đông .( Người viết còn giữ băng ghi âm của cuộc trao đổi bữa trước ) . Sự thật đúng như vậy. Những người xây dựng hoàn toàn không biết chính xác họ xây miếu theo hướng gì. Nhưng cả tôi và Dienbatn đều không căn cứ vào lời mô tả hướng miếu và đã đo thực tế. Thực tế , khi đo hướng Miếu hiện thời là Tọa Hợi - Hướng Tỵ - Thuộc cung Tốn - Đông nam chứ không phải là Nam . Mặt khác , hướng miếu ba gian đã phá đi hiện nay không còn cái nền thì chỉ căn cứ vào lời mô tả của chính những người xây nên nó cũng không chính xác . Ta biết cung Tốn - Đông Nam bao gồm ba cung nhỏ là Thìn ( 112,5 - 127,4 độ ) , cung Tốn ( 127,5 - 142,4 độ ) và cung Tỵ ( 142,5 - 157,4 độ ) . Cung Chấn - Chính Đông bao gồm ba cung nhỏ : Cung Giáp ( 67,5 - 82,4 độ ) , cung Mão ( 82,5 - 97,4 độ ) và cung Ất ( 97,5 - 112,4 độ ) . Như vậy nếu Thiên sứ sử dụng hướng Miếu như hiện nay là Tọa Hợi - Hướng Tỵ , và suy rằng hướng Miếu ba gian cũ là Tọa Thân - Hướng Dần như hình đã đăng : Nếu căn cứ vào việc suy luận dưa trên cơ sở này thì thật là nguy hiểm . Tại sao nguy hiểm nhỉ? Thực tế là nền miếu hiện nay và nền miếu cũ còn nguyên. Người cán bộ thôn nói rõ là miếu cũ quay xuống Ao. Nến miếu cũ và mới vuông góc với nhau , Bởi vậy, đây ko phải là suy luận nguy hiểm mà là một thực tế đã được quan sát. * Một bước phát triển nữa của sự việc là cho tới thời điểm này có một trường hợp có một cháu nhỏ hơn hai tuổi rất khỏe mạnh , đẹp trai , đang chơi thì lăn đùng ra ngất xỉu . Khi đưa lên các bệnh viện cả Trung ương và địa phương đều không xác định được nguyên nhân của bệnh . Có cái lạ là cứ đưa cháu lên đến cổng bệnh viện là cháu lại khỏe lại ( Như lần lên bệnh viện Việt Đức ) . Vào bệnh viện khám thì không thấy có hiện tượng gì xẩy ra cả , bác sĩ lại cho về . Về đến nhà cháu lại chơi ầm ầm rất khỏe . Lần cuối cùng cháu lại lên cơn lại , gia đình đưa cháu lên bệnh viện , nhưng dọc đường cháu đã mất . Đây là một trường hợp duy nhất và đặc biệt tại thôn Đầu xẩy ra với người . Ngay bản thân những người có trách nhiệm trong Thôn Đầu cũng hết sức dè đặt khi nói đây là trường hợp đầu tiên không biết có phải là duy nhất không . Nếu không may có một vài trường hợp nữa xảy ra với con người thì lúc đó Càn hay Khôn vi Nhân ???? Hướng miếu, hướng đình từ xưa trong Phong Thuỷ đã nói đến ảnh hưởng của nó với dân địa phương . Việc nó có thể ảnh hưởng cả đến ngưới ncũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, một trường hợp các biệt mới phát hiện thì chưa có thể kết luận ngay được. Còn việc tôi kết luận hướng miếu ảnh hướng đến gia súc vì đã có một phương pháp luận liên quan đến vấn đề này là "Khôn vi ngưu" và "Mộc khắc Thổ". Phương pháp luận này trùng hợp hoàn toàn với hiện tượng hướng miếu xóm Đầu và sự đổi chỗ Tốn Khôn của tôi. Tất nhiên tôi phải đạt v/d về sự trùng hợp này trong cái nhìn của tôi. dienbatn. Thứ hai : Như Thiên sứ đã viết : "Sau năm 1998. Hướng miếu được xây theo hướng Dần toạ Thân (Gọi là miếu cũ, vì so với miếu mới hiện nay). Hướng miếu này đặc biệt kỵ Khôn tức là kỵ hướng miếu trước năm 1998 theo Hậu Thiên Lạc việt. Còn nếu theo sách cổ chữ Hán thì nó không kỵ vì hướng miếu trước năm 1998 thuộc cung Tốn là gia cầm. Điều này lý giải việc gia súc chết hàng loạt do hướng Dần Mộc kỵ sát KhônThổ. Đã vậy, hướng miếu cũ sau 1998 lại vô khí (Đã minh hoạ ở trên). Nhưng hướng miếu mới ngày nay đã hoàn toàn tốt chưa. Điều này lại liên quan đến một yếu tố tương tác nữa là Huyền Không phi tinh ." Nếu chẳng may, hay rất có thể hướng Miếu ba gian không phải là Tọa Thân - Hướng Dần mà là Tọa Canh hướng Giáp hay Tọa Cấn - Hướng Tốn thì không biết lấy đâu Mộc để kỵ sát Khôn Thổ đây ???/ dienbatn. Trong học thuật không thể nói"nếu không may" được. Cụ thể là: Cán bộ xóm Đầu xác định: Hướng miếu cũ vuông góc với hướng miếu mới(Còn nền xác định) và đã được đo chính xác trên nền cũ. * Thứ ba: Nếu chỉ chú ý tới hướng của Miếu , dù bất kể hướng như thế nào chăng nữa , có đổi chỗ Tốn- Khôn hay không thì Thiên sứ không thể nào lý giải nổi trường hợp nhà anh Tâm ở trong thôn từ khi xẩy ra sự việc , hàng ngàn súc vật chết trong xóm mà nhà anh Tâm vẫn không sao cả, và tại sao người làng đem gia súc tới nuôi nhờ trên đất nhà anh lại không chết con nào. Híc. dienbatn. Một giả thuyết khoa học phải lý giải hợp lý hầu hết những hiện tượng liên quan. Nếu giả thuyết của tôi đúng thì sẽ phải lý giải trường hợp này. Nhưng rất tiếc. Tôi đã viết xong đâu? Dienbatn thân mến. Vì v/d học thuật do chính Dienbatn đưa ra và đặt vấn đề trước . Tôi đã giải thích những chất vấn của Dienbatn với phương pháp và cái nhìn của tôi. Riêng phương pháp và cái nhìn của Dienbatn thì tôi chưa có ý kiến. Vì đơn giản là Dienbatn chưa viết xong. Đây là v/d học thuật nghiêm túc , nên tôi sẽ chờ đến khi Dienbatn viết xong sẽ chất vấn. Tất nhiên trong đó tôi cũng chờ câu trả lời theo phương pháp và cái nhìn của Dienbatn về hiện tượng: Vì sao gia đình Anh Tâm không bị chết gia súc. Thiên Sứ Tôi xin tiếp tục phần phản biện của mình . ( Lần trước đã sang hết phần phản biện thứ ba ) . Thứ tư : Thiên sứ và Long Nguyên Quang viết như sau : 1- Đối với luận điểm của thiên sứ Tôi thấy chưa hợp lý ! Cụ thể như sau : - Thiên sứ đặt trọng tâm vấn đề vào hướng Miếu của làng để giải thích, tôi cho là khiên cưỡng vì một cái Miếu nhỏ nhoi rách nát( như hình vẽ ) chưa đủ tầm là đặc trưng của làng nên những hệ lụy của hướng Miếu chưa đủ sức ảnh hưởng đến cuộc sống của dân làng ! Khi đó mọi giải thích hệ lụy từ hướng Miếu sẽ dẫn đến sai lệch !Trong trường hợp này nên chọn hướng theo kiểu khác ! ( LNQ ). Như vậy là tại cái miếu rách nát nhỏ nhoi nên thành tôi sai. Anh có thể dẫn chứng có sách Tàu nào nói như vậy nhỉ? Luận điểm này có thể là một sáng tạo trong phong thuỷ đấy. Xin hỏi anh: Trước năm 1098. Cái miếu cũng như bây giờ sao xóm này lại trù phú? Sau 98. Cái miếu xây ba gian bề thế để các cụ ngồi đánh chén sao lại xảy ra sự kiện vậy? Thật là buồn. " ( TS) Mời các bạn xem lại hình dạng cái Miếu hiện nay một lần nữa : Ngay bản thân Thiên sứ sau khi dùng cảm xạ cũng phải xác nhận rằng : CON LẮC ĐỂ BÊN AO LÀNG VÀ LÀ HƯỚNG MIẾU CŨ HOÀN TOÀN BẤT ĐỘNG, CHỨNG TỎ VÔ KHÍ. Tuy nhiên có một hiện tượng nữa là ngay bản thân cái Miếu hiện nay và ngay cả 2 bát hương đặt trong Miếu cũng hoàn toàn vô khí . Đây chính là điều người viết muốn nói đến . Trước hết , ta cần nhìn nhận lại việc Bốc Bát hương và Hô Thần Nhập Tượng . Đây chính là một công việc mà những người bình thường không thể làm được . Việc Bốc Bát Hương và Hô Thần Nhập Tượng phải do Pháp sư , hay những nhà sư cao tăng đức độ hoặc những người có Trường năng Lượng rất mạnh mới có thể thực hiện được . Đây chính là công việc nạp Năng Lượng ban Đầu cho bát Hương hay Tượng . Việc này có thể dùng cảm xạ hay cảm nhận Trường khí để kiểm tra . Người ta có thể dùng con lắc cảm xạ hay dùng chính bản thân mình ( nếu người đó có khả năng cảm nhận được Trường khí do luyện tập ) . Thông thường , khi Bát hương hay Tượng chưa được nạp năng lượng ( Hay còn gọi là Bốc bát Hương và Hô Thần Nhập Tượng ) , thì năng lượng của bát hương hay Tượng là Không hay cực nhỏ . Sau khi Bốc bát Hương hay Hô Thần Nhập Tượng ( Tức là đã truyền Năng lượng ban đầu vào ) , thì tùy theo Trường Năng lượng của Thày mạnh hay yếu ( Cao tay hay không ) , thì cường độ mạnh yếu của bát Hương hay Tượng đều biểu hiện rất rõ và hoàn toàn có thể đo được . Bát hương hay Tượng càng " Thiêng" thì Trường năng Lượng của nó càng lớn . Trở lại với cái Miếu hiện thời : Khi mà Trường năng Lượng đo được trong Miếu và cạnh 2 bát hương bằng không ( Con lắc đứng yên - Tức là chẳng có chút Năng lượng nào cả ) . Vậy thì với một cái Miếu đơn sơ như vậy , với Trường năng lượng bằng hay xấp xỉ bằng không như vậy , liệu có khả năng gây Họa hay Phúc cho gia súc xóm Đầu hay không . Chắc các bạn đã tự trả lời được rồi . dienbatn . Tôi chưa kiểm tra trường khí của bát hương. Nhưng cho dù Dienbatn có đúng trong trường hợp này thì cũng không phải là luận cứ để phản biện những lập luận của tôi. Bởi vì : Việc bát hương vô khí hoặc hữu khí là một yếu tố xem xét chứ không phải là yếu tố phản biện về hướng miếu. Ngay bản thân những lập luận của tôi về hướng miếu - cho rằng đúng thì cũng là một yếu tố xem xét- chứ không phải là yếu tố phản biện luận điểm của Dienbatn về long mạch (Trong lúc này). Khi phản biện một phương pháp thì phải chỉ ra cái mâu thuẫn ngay chính luận cứ của nó chứ không phải lấy một yếu tố không liên quan để phản biện. Thí dụ: Một bệnh nhân bị viêm bao tử và loét đại tràng. Một bác sĩ khám thấy loét đại tràng kết luận loét đại tràng. Bác sĩ khác bảo tôi có đủ bằng chứng để chứng tỏ bệnh nhân này viêm bao tử, nên bảo nhận xét loét đại tràng là sai. Híc! Nói tóm lại. tôi thành thật thật khuyên Dienbatn hãy chín chắn trong việc nghiên cứu. Tôi đã khẳng định và nhắc lại để Dienbatn nhớ là: * Đã là phương pháp do con người tạo ra thì tự thân nó không thể hoàn chỉnh và bao trùm một thực tế. * Mỗi phương pháp trong phong thủy chỉ phản ánh một trong nhiều yếu tố tương tác mà môn Phong Thủy đã khám phá, trong khi thực tế để có một hiện tượng bao gồm rất nghiều yêúi tố tương tác và có thể nằm ngoài khả năng của tất cả các yếu tố mà môn phong thủy đã phát hiện. Dỉenbatn nếu tự cho rằng phương pháp của Dienbatn là duy nhất đúng thì cứ việc nghiên cứu theo cách của mình. Còn tôi , tôi đã nói rõ trong bài viết của mình. Tôi cần sự tổng hợp của nhiều phương pháp , để tìm ra yếu tố chính , chứ không tự cho là duy nhất đúng. Ở ví dụ trên chỉ có hai vị bác sĩ. Còn tôi cần ít nhất 9 bác sĩ để khám cho bệnh nhân. Trên cơ sở đó mới quyết định một phương pháp tổng hợp và tìm nguyên nhân chính yếu.Va2 cũng có thể chỉ gần đúng. Nếu có điều kiện thời gian và kinh phí. Tôi sẽ đề nghị "Kinh Dịch Thăng Long" tham gia, hoặc những cao thủ thực sự của Trung Tâm như Dũng Tử Vi. Cao Thế Nhân.... Dienbatn hãy viết tiếp luận điểm của mình xem có hợp lý không đã , rồi hãy chỉ trích người khác. Thiên Sứ. Thiên sứ viết : "Tôi chưa kiểm tra trường khí của bát hương. Nhưng cho dù Dienbatn có đúng trong trường hợp này thì cũng không phải là luận cứ để phản biện những lập luận của tôi. Bởi vì : Việc bát hương vô khí hoặc hữu khí là một yếu tố xem xét chứ không phải là yếu tố phản biện về hướng miếu. Ngay bản thân những lập luận của tôi về hướng miếu - cho rằng đúng thì cũng là một yếu tố xem xét- chứ không phải là yếu tố phản biện luận điểm của Dienbatn về long mạch (Trong lúc này). Khi phản biện một phương pháp thì phải chỉ ra cái mâu thuẫn ngay chính luận cứ của nó chứ không phải lấy một yếu tố không liên quan để phản biện. " Tôi không hiểu Thiên sứ nói những câu như vậy thì có hiểu chút nào về Phong thủy không - Bỏi Trường khí của Miếu , cụ thể là tại bát Hương quy định cụ thể cái Miếu đó như thế nào , tốt hay xấu . Chả nhẽ Thiên sứ lại định dùng Bát trạch Minh cảnh để xem xét cái Miếu làng . Cái mâu thuẫn chủ yếu ở đây là Thiên sứ dùng hướng Miếu làm căn để cho lập luận của mình mà không xem xét Trường khí của Miếu . Vậy Thiên sứ định căn cứ vào cái gì đây ??? Và : "Tôi đã khẳng định và nhắc lại để Dienbatn nhớ là: * Đã là phương pháp do con người tạo ra thì tự thân nó không thể hoàn chỉnh và bao trùm một thực tế. * Mỗi phương pháp trong phong thủy chỉ phản ánh một trong nhiều yếu tố tương tác mà môn Phong Thủy đã khám phá, trong khi thực tế để có một hiện tượng bao gồm rất nghiều yêúi tố tương tác và có thể nằm ngoài khả năng của tất cả các yếu tố mà môn phong thủy đã phát hiện." Theo tôi biết , Thiên sứ không chỉ một lần tuyên bố : " Thuyết Âm - Dương Ngũ hành là một Siêu công thức của Vũ trụ - Nó có thể lý giải những hiện tượng Vi mô đến Vĩ mô và có khả năng tiên tri " . Như vậy nếu Phong thủy đã là một ứng dụng của Siêu công thức Vũ trụ trên thì làm sao không hoàn chỉnh và bao trùm một thực tế như Thiên sứ viết . Siêu công thức Vũ trụ cũng là những nhận thức của con người , ứng dụng Siêu công thức Vũ trụ vào Phong thủy thì lại bảo là : " Tôi đã khẳng định và nhắc lại để Dienbatn nhớ là: * Đã là phương pháp do con người tạo ra thì tự thân nó không thể hoàn chỉnh và bao trùm một thực tế. * Mỗi phương pháp trong phong thủy chỉ phản ánh một trong nhiều yếu tố tương tác mà môn Phong Thủy đã khám phá, trong khi thực tế để có một hiện tượng bao gồm rất nghiều yêúi tố tương tác và có thể nằm ngoài khả năng của tất cả các yếu tố mà môn phong thủy đã phát hiện." Híc , không biết bác Thiên sứ dạo này có bị tẩu hỏa nhập ma không vậy . Thứ hai : " Ở ví dụ trên chỉ có hai vị bác sĩ. Còn tôi cần ít nhất 9 bác sĩ để khám cho bệnh nhân. Trên cơ sở đó mới quyết định một phương pháp tổng hợp và tìm nguyên nhân chính yếu.Va2 cũng có thể chỉ gần đúng. Nếu có điều kiện thời gian và kinh phí. Tôi sẽ đề nghị "Kinh Dịch Thăng Long" tham gia, hoặc những cao thủ thực sự của Trung Tâm như Dũng Tử Vi. Cao Thế Nhân...." Lần này thì Thiên sứ Tẩu hỏa nhập ma thật rồi . dienbatn rất tôn trọng tuổi tác của các bô lão trong Kinh dịch Thăng long , nhưng để phải học các cụ này thì dienbatn xin miễn . Không ít lần dienbatn đến Câu lạc bộ Thăng long ngồi nghe , xong đều phải bỏ về giữa chừng vì thấy tiếc thời gian . dienbatn bắt đầu thấy buồn vì Thiên sứ lại phải đi tôn thờ mấy người đó . Xin nhắc cho Thiên sứ biết rằng : Các bô lão trong đó rất nhiều người có bằng cấp Tiến sĩ , Giáo sư - Nhưng ở các ngành khác chả liên quan gì đến Dịch học cả . Nếu Thiên sứ muốn đưa TTNC LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG gia nhập Câu lạc bộ Thăng long thì dienbatn sẽ là người hô biến đầu tiên . Thật cay đắng phải nói ra như vậy . dienbatn . ( dienbatn đã dùng Mật tông để hóa giải và có tham khảo thêm cách thức của cụ Tri Tri ) . KẾT QUẢ : Ngày mới ở làng "ma ám" Bò, trâu ở xóm Đầu đã được người dân nuôi trở lại Tất cả gia súc trong làng bỗng dưng… nổi điên rồi lăn ra chết không rõ nguyên nhân. Đó là chuyện xảy ra ở xóm Đầu, thôn Sơn Quả, xã Lương Phong, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 và kéo dài gần 10 năm. Từ tháng 5.2006, nhiều cơ quan chức năng đã về nghiên cứu tìm nguyên nhân, nhưng đến nay vẫn chưa có kết luận cuối cùng... Khi gia súc hóa điên Cách đây 10 năm, đêm 21.4.1997, vợ chồng anh Bùi Văn Thanh ở xóm Đầu bị dựng dậy bởi hai con heo gần đến ngày xuất chuồng bỗng kêu inh ỏi. Cuống cuồng lấy đèn pin ra kiểm tra, anh chị chứng kiến hai con heo ngoan hiền ngày nào giờ đây như hai con thú hoang, vừa kêu vừa lao vào tường ầm ầm. Cơn điên kéo dài vài chục phút, hai chú heo hộc lên mấy tiếng rồi lăn ra chết tươi, từ miệng chúng rỉ ra vài giọt máu. Khoảng nửa tháng sau vợ chồng anh Thanh tiếp tục mua đàn heo khác về nuôi. Thế nhưng chúng tiếp tục "nổi điên" và chết như hai con heo trước. Tương tự, gia đình anh Bùi Văn Hùng có 7 con heo thịt (nặng khoảng 70 - 80 kg/con) và hai con heo nái cũng tự nhiên sùi bọt mép chết thẳng cẳng. Xót nhất là con trâu mộng, anh chị vay mượn tiền khắp nơi mới mua được, thế nhưng một hôm sau 3 tiếng rống kinh hồn, con trâu lăn uỵch ra chết tươi. Tổng cộng từ năm 1997 đến năm 2001, nhà anh Hùng có đến 41 con heo, 7 con chó cùng 1 con trâu mộng lìa đời vì chứng bệnh điên. Vợ chồng anh cho rằng gia đình mình bị "ma ám" nên rủ nhau rời bỏ làng để sang nhà bố mẹ vợ ở làng bên sinh sống... Xóm Đầu có 34 hộ dân với 143 nhân khẩu. Thu nhập chính của người dân là trồng trọt trên diện tích 21 ha lúa và hoa màu. Toàn xóm có 37 con trâu, bò thì cả 37 con đều chết vì bệnh điên. Heo, chó thì trung bình mỗi hộ có trên dưới 100 con chết. Trước khi chết tất cả gia súc đều kêu la inh ỏi, đâm đầu vào tường, chạy loạn xạ... Từ khi gia súc nhà anh Hùng, anh Thanh chết cho đến giữa năm 2006, toàn bộ trâu, bò, heo, chó trong xóm Đầu đều chết sạch với cùng một chứng bệnh điên. Trong đó hộ ông Khiêm có 16 con heo cùng đâm đầu vào tường để... chết. Việc đồng áng ở xóm Đầu gặp nhiều khó khăn, quanh năm lúa khoai cằn cỗi vì không có trâu bò cày ruộng. Không thể sống ở làng đã bị "ma ám", nhiều thanh niên bỏ xứ đi làm ăn, còn các hộ dân khác thì hy vọng lớp gia súc mới mua về sẽ "trụ" lại được. Thế nhưng mọi cố gắng của họ đều vô vọng, bởi gia súc mua về chỉ sống được 3-4 ngày, nhà nào may mắn lắm thì nuôi được gần 40 ngày là chúng lại nổi cơn điên và chết... Cơ quan chức năng vào cuộc Gần 10 năm trời, tình trạng gia súc ở xóm Đầu chết hàng loạt làm nhiều người dân hoang mang và những câu chuyện đầy mùi ma quái được dư luận đồn thổi. Người dân kéo nhau đi xem bói, có thầy phán: "Trước đây các cụ trong xóm có chôn 4 con chó đá để giữ làng, song có kẻ nào đó đào trộm nên không có ai bảo vệ phần âm của xóm. Vì thế có con quỷ vào xóm bắt hết vật nuôi, sau đó sẽ bắt đến người...". Họ lại đi đón thầy cúng về trấn trạch cho cả xóm. Thầy cúng vừa về hôm trước, hôm sau gia súc tiếp tục sùi bọt mép lao đầu vào tường chết. Đầu năm 2005, gia súc nuôi bao nhiêu chết bấy nhiêu, người dân phải cầu cứu đến đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang. Ngày 13.5.2005, đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang có Công văn số 121/CV - ĐBQH gửi Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ (KH-CN) tỉnh Bắc Giang yêu cầu tìm hiểu nguyên nhân gia súc ở xóm Đầu chết hàng loạt. Sau đó, Giám đốc Sở KH-CN giao cho Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH-CN điều tra khảo sát, xây dựng và triển khai đề tài: "Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp khôi phục và phát triển chăn nuôi gia súc ở xóm Đầu...". Tháng 5.2006, Trung tâm ứng dụng KH-CN cùng với Trung tâm công nghệ xử lý môi trường - thuộc Bộ tư lệnh Hóa học (Bộ Quốc phòng) và Viện Thú y T.Ư mang máy móc và các thiết bị hiện đại về xóm Đầu. Các chuyên gia đã lấy mẫu đất, nước, khảo sát bức xạ ion hóa, lấy mẫu súc vật đã chết... để phân tích. Cán bộ thú y tiến hành phun hàng tạ hóa chất khử trùng cho toàn bộ chuồng, trại của các hộ dân trong xóm. Sau đó Trung tâm ứng dụng KH-CN mang 12 con bò, 24 con heo, 24 con chó chia đều cho các hộ nuôi (số gia súc này đều đã được tiêm phòng cẩn thận) dưới sự giám sát của cán bộ trung tâm. Kết quả là bò, lợn đều khỏe mạnh không hề có biểu hiện gì bất thường. Trung tâm tiếp tục cho các hộ dân nuôi thí nghiệm đợt 2 (tháng 9.2006) gồm 6 con bò, 13 con heo và 15 con chó. Đến nay số gia súc này đều sinh trưởng bình thường. Riêng về chó, cả hai lần nuôi thí nghiệm thì có vài con chết, Trung tâm ứng dụng KH-CN lập biên bản lấy mẫu xét nghiệm. Kết quả, một số con chết do ngộ độc thức ăn, một số con khác chết do nhiễm khuẩn Ecoli dung huyết và vi khuẩn Steptococus, số còn lại chết do bị kiết. Cô La Thị Bẩy đang cho heo ăn (Ảnh: Hoài Nam) Bị hạ độc? Ở một hướng khác, trong thời gian tiến hành các thí nghiệm ở xóm Đầu, Trung tâm ứng dụng KH-CN cũng nhờ Công an huyện Hiệp Hòa vào cuộc. Và từ khi công tác an ninh được siết lại thì trâu, bò, lợn... không hề có biểu hiện bị điên nữa. Đặc biệt, ngày 14.10.2006 một số người dân phát hiện hai đống cơm đổ trước cổng nhà ông Lần và nhà ông Nghi, họ liền báo cho cán bộ Trung tâm KH-CN biết. Ngay lập tức, trung tâm này đã tiến hành lập biên bản, lấy mẫu gửi đi phân tích ở Viện Khoa học kỹ thuật hình sự - Bộ Công an. Kết quả giám định nêu: "... trong mẫu cơm có một loại độc tố có nguồn gốc từ thuốc phóng, thuốc phóng khi vào cơ thể gia súc sẽ giải phóng nitorat, nitorit gây ngộ độc cho gia súc, gia súc sẽ có biểu hiện như điên loạn". Theo ông Lưu Kim Đính, Chủ tịch UBND xã Lương Phong, thì đến thời điểm này cả lãnh đạo xã và người dân đều không hề biết loại "thuốc phóng" là thuốc gì, và thủ phạm là ai? Khi được hỏi về thiệt hại của các hộ dân do gia súc chết, ông Đính nói: "Chúng tôi không thể thống kê được. Nhưng từ một xóm giàu nhất thôn, nay tình cảnh của người dân rất thảm hại". Còn Chủ tịch HĐND xã Nguyễn Trung Tân thì bày tỏ: "Tôi rất mong tới đây ngành chức năng có báo cáo chính thức về nguyên nhân gia súc ở xóm Đầu chết, để công an vào cuộc truy tìm thủ phạm lấy lại sự công bằng cho những hộ dân bị thiệt hại nặng nề do gia súc chết trong 10 năm qua". Cuối tháng 9.2007, chúng tôi đến xóm Đầu và chứng kiến người dân đã nuôi được trâu, bò, lợn, chó bình thường. "Nhà tôi đã xuất chuồng được 3 lứa lợn, lãi trên dưới 30 triệu đồng. Tôi bàn với ông nhà tôi dùng hết số tiền này mua lợn giống nuôi tiếp vì lợn thịt giá đang cao" - cô La Thị Bẩy, một nông dân ở đây, phấn khởi cho chúng tôi biết. Nguồn:Blog360.dienbatn
-
CHƯƠNG 1 – 7 ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ (Tiếp theo) Hướng dẫn Đây là phần thứ 7 cũng là phần chót của chương 1 Địa lý trị soạn phú. Bắt đầu từ câu 182 đến câu 217 là hết. Câu 182: Minh đường can hạt, sĩ bất đăng khoa Câu 183: Minh đường quang đãng, tài vật bất tụ Dịch (182) Minh đường khô cạn, học thi không đậu Dịch (183) Minh đường quang đãng, tiền của không tụ. Giải thích (182-183) Minh đường can hạt là khô nước và quang đãng là không có nước. Câu 184: Hổ đầu tha nga ác khí, nhãn tứ viên nhi trạch tứ phần Câu 185: Diện tiền tha nga ác thạch, tai tự sinh nhi hình tự chí Dịch (184) Đầu tay hổ chênh vênh ác khí, mắt thì tròn, cửa nhà thì cháy. Dịch (185) Trước mặt chênh vênh ác thạch, tai họa tự sinh, hình phạt tự đến. Giải thích (184-185) Đầu tay hổ nghênh ngang là tay hổ lấn át huyệt trường sẽ có tai họa như phải tròn mắt khi bị cháy nhà. Trước huyệt có đá chênh vênh chứa nhiều ác khí sẽ có tai họa tự đến với gia đình có huyệt kết. Câu 186: Long phi nam tử bại Câu 187: Hổ khứ nữ nhân ương Dịch (186) Tay long phi, không quay vào huyệt, không ôm chầu vào huyệt, lại quay lưng vào huyệt và ngoảnh mặt đi thì con trai bị bại. Dịch (187) Tay hổ phản, quay đi, không ôm vào huyệt, thì con gái bất lương. Giải thích (186-187) Nếu có huyệt kết mà long, hổ không ôm chầu vào huyệt thuộc ngành nào thì ngành đó phải ly hương làm ăn mới khá được. Tay long thuộc con trai nên nếu tay long phản thì con trai bị bại. Tay hổ thuộc con gái nên nếu tay hổ phản thì con gái chẳng ra gì. Câu 188: Thủy phá hậu đầu, định vô tử tức Câu 189: Sơn cát tiền cước, tât tuyệt nhân đinh Dịch (188) Thủy phá hậu đầu, chắc không con cái Dịch (189) Sơn cắt tiền cước, tất tuyệt nhân đinh Giải thích (188) hậu đầu là huyền vũ. Nếu huyền vũ bị thủy phá, hại con trưởng rồi đến các con khác. Giải thích (189) Tiền cước là chỗ đất dư tiếp theo vào huyệt trường, chỗ này gọi là chiên thần, là chỗ dư khí của huyệt trường. Nếu chiên thần nhiều thì con cháu đông và khỏe mạnh. Trường hợp chiên thần tận, hoặc bị nước chảy cắt đi thì bị tuyệt nhân đinh. Đất kết nhà Nguyễn Trãi tuy kết lớn nhưng để vào chỗ mạch tận nên bị tuyệt nhân đinh. Vợ lẽ của Nguyễn Trãi tên là Thị Lộ bị triều đình nhà Lê ghép vào tội giết vua nên Nguyễn Trãi bị chu di tam tộc. Tháng 11 năm 1996 Cao Trung nhân dịp về Việt Nam có ghé lại thăm ngôi đất kết nhà Nguyễn Trãi ở làng Nhị Khê, phủ Thường Tín, Hà Đông và được ông thủ Từ đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê tên là Nguyễn Thông đưa ra thăm ngôi mộ tổ, ngôi đất kết phát Nguyễn Trãi vừa phát khai quốc Công thần và cũng bị chu di tam tộc. Ở phía Tây Nam ngôi mộ có một cái sa xưa kia giống như mũi nhọn ở hướng Mùi chiếu thẳng vào huyệt kết. Ngày nay dân địa phương gọi nó là gò bàn quốc. Thật là kỳ lạ trên khoa địa lý hướng Mùi ứng vào vợ nhỏ, và Nguyễn Trãi bị chu di tam tộc vì cái án Lệ Chi Viên do Thị Lộ là vợ nhỏ Nguyễn Trãi gây nên. Theo địa lý Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là hung hướng. Đã hung hướng lại còn bị sa hình mũi nhọn đâm vào huyệt thành ra vừa hung vừa sát thì làm sao Nguyễn Trãi tránh được hung họa. Câu 190: Thủy chi tà lưu, bất mỹ Câu 191: Thủy chi thuận khứ, bất thành Dịch (190) Thủy chảy kéo đi, không đẹp Dịch (191) Thủy chảy thuận đi, không thành. Giải thích (190-191) Thủy tới minh đường, không tụ chỉ chảy xéo đi trước huyệt là nước không đẹp. Thủy từ minh đường chảy đi không chảy khuất khúc mà chỉ chảy thuận đi, thì cũng không thành. Câu 192: Long quá sơn nhi, đích nhiên tiếm ngụy Câu 193: Hổ quá thủy nhi, đích thị thoái quan Dịch (192) Long mà bức sơn, đích là tiếm ngụy. Dịch (193) Hổ mà thủy quá, tất phải thoái quan. Câu 194: Dậu, Mùi, Dần, Thân ngộ hồ lô, như phong tàn, tật bệnh. Câu 195: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đới tiêm đao, nhi tặc đạo, sinh tai. Dịch (194) Dậu, Mùi, Dần thân gặp hồ lô, mà phong tàn tật bệnh Dịch (195) Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đeo đai nhọn, thì trộm cướp sinh tai. Giải thích (195) Nhiều tướng giặc sau bị bắt rồi bị giết như Nguyễn Cầu, thường được đất kết hướng Thìn, Tuất, Sửu, Mùi lại có con dao phản quay ra. Năm 1944 Cao Trung được cụ Giáo Mậu là thầy dạy địa lý cho biết đất kết nhà Phạm Quỳnh có cây bút phản dù có làm nên nhưng sau bị hại. Quả nhiên ít năm sau Phạm Quỳnh bị giết ở Huế. Câu 196: Tiền án thạch nhược dương đế, đại nghiệt tự tác. Câu 197: Tiền án thạch nhược sa ta, phong hỏa tự sinh. Dịch (196) Trước án đá như móng dê, tự gây họa nghiệt. Dịch (197) Trước án đá như sa tà, tự sinh phong hỏa Câu 198: Tiền án nhược phá tổn, hình hãm phi cơ. Câu 199: Tiền án nhược khai khẩu, man thiên hình mạn. Dịch (198) Trước án nếu phá tổn, bị mắc tội oan Dịch (199) Trước án như khai khẩu (vỡ, lở) vạ miệng hại mình. Câu 200: Tốn, Tân không khuyết, tài cao bất đệ Câu 201: Chấn Canh phương khuyết, dũng lược vô danh Dịch (200) Tốn, Tân phương mà không khuyết, dù có văn cũng không thi đỗ. Dịch (201) Chấn Canh phương mà khuyết hãm, thì có vũ dũng cũng không thành danh. Giải thích (200-201) Phương Tốn, Tân nếu khuyết hãm bất lợi cho công danh về nghề văn. Phương Chấn, Canh nếu khuyết hãm sẽ bất lợi cho thành đạt về ngành võ. Nói chung 4 phương này càng cao đẹp càng tốt, nhược bằng thấp lõm thì xấu. Câu 202: Hân quần vũ tụ tại Tý, Ngọ hựu dâm thái toàn gia Câu 203: Trác kinh trác nguyệt tại Mão, Dậu, nhi dâm đa bất chỉ Dịch (202) Vén quần múa áo ở Tý, Ngọ mà làm dâm đãng toàn gia. Dịch (203) Trác gương, trác nguyệt ở Mão, Dậu mà dục tình quá độ. Giải thích (202-203) Bốn cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu là bốn mộc dục hướng. Sơn thủy ở đây dễ tạo nên con người nhẹ thì dâm dục, mà nặng thì dâm nặng. Đất kết nhà Trần kết lớn xong phạm Mộc dục nên anh em, họ hàng hay quá thân nhau và dễ lấy nhau. Câu 204: Bút tại Dần, Thân vi họa long vi bút, vi tụng từ vi bút Câu 205: Đại lộ đoạn ư huyệt hậu, bất khả thiện chung. Dịch (204) Bút ở Dần Thân là bút vẽ rồng, là bút kiện tụng. Nếu huyệt tốt đẹp thì làm luật sư, kém nữa thì làm lục sự hoặc phụ tá pháp lý như ngày nay Dịch (205) Đại lộ cắt đứt ở sau huyệt, không được thiện đến cùng (dù có huyệt tốt thì sau cũng thành xấu). Câu 206: Ngộ dụng hắc thổ, tất sinh hắc diện chi nhân Câu 207: Ngộ dụng bạch thổ, tất sinh bạch tạng chi nhân. Thử cát hung hệ sơn thủy dã. Dịch (206-207) Ngộ dùng phải đất đen, sẽ sinh người mặt đen. Ngộ dùng phải đất trắng, sẽ sinh người tạng trắng. Đây là cát hung, hệ ở sơn thủy vậy. Chương 2 PHẦN NÔM ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ Hướng dẫn Phần nôm của Địa lý trị soạn phú này là một bài thơ nôm nói tóm tắt một số điều căn bản về địa lý mà ta thường dùng. Những kiến thức căn bản này rất là quan trọng nên các cụ làm thành thơ cho dễ nhớ như sau: Câu 1: Hợi, Nhâm, Tý, Quý Thủy long Câu 2: Dần, Giáp, Mão, Ất đồng Mộc lai Câu 3: Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ Hỏa thôi Câu 4: Cấn, Khôn, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi Thổ lâm Câu 5: Càn, Thân, Tân, Dậu canh Kim Câu 6: Dù rằng lẫn lộn nên tìm chính cung Câu 7: Âm phần đệ nhất âm long Câu 8: Hợi, Cấn, Tân, Tốn, Mão cùng Canh, Đinh Câu 9: Tỵ, Bính cửu khí chung linh Câu 10: Đời sinh trung nghĩa thành danh lâu dài Câu 11: Tú long tú hướng văn khôi Câu 12: Cát long cát hướng tướng tài đổng binh Câu 13: Cát long tú hướng giao tinh Câu 14: Hướng tiền long hậu kiêm dành võ văn Câu 15: Cát long cát hổ huân thần Câu 16: Tú linh hàn viện long cân ô đài Câu 17: Tị là trung Thổ anh tài Câu 18: Sửu Mùi mộ đạo miệt mài của không Câu 19: Thương dương Nhâm, Tý, Quý long Câu 20: Hẳn cầm quyền bính anh hùng oai nghiêm Câu 21: Ngọ trung hỏa tốc ứng liền Câu 22: Hạ dương điểm huyệt, đãn hiềm tiện hung Câu 23: Khôn, Thân, Dần, Giáp, Ất long Câu 24: Nhất thời phát xuất vẫy vùng lược thao. Câu 25: Thìn, Tuất, Càn, Kim đáo đầu Câu 26: Sinh tài lỗi lạc dẹp thâu hung tàn Câu 27: Dương long ngay thẳng nhân khoan Câu 28: Âm long thượng cách làm quan nối dòng Câu 29: Đấy là kết luận cát hung. Dưới đây là dịch và giải thích 29 câu phần nôm địa lý trị soạn phú ở trên: Các câu 1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 6 nói về ngũ hành của 24 long như sau: Câu 1 – Các Long: Hợi, Nhâm, Tý, Quý, hành Thủy Câu 2 – Các Long: Dần, Giáp, Mão, Ất, Tốn, hành Mộc. Câu 3 – Các Long: Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ hành Hỏa. Câu 4 – Các Long: Cấn, Khôn, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi hành Thổ Câu 5 – Các Long: Càn, Thân, Tân, Dậu, Canh hành Kim Câu 6 – Không nên lẫn lộn ngũ hành của 24 Long vừa nói trên. -------------------------------------------------------------------------------- Dưới đây là tên 24 long bắt đầu từ Giáp Giáp, Mão, Ất (Chính Đông) Thìn, Tốn, Tỵ (Đông Nam ) Bính, Ngọ, Đinh (Chính Nam ) Mùi, Khôn, Thân (Tây Nam ) Canh, Dậu, Tân (Chính Tây) Tuất, Càn, Hợi (Tây Bắc) Nhâm, Tý, Quý (Chính Bắc) Câu 7 - Âm phần đệ nhất âm long -------------------------------------------------------------------------------- Dịch và giải thích (7) 24 long trên lại chia ra làm 12 dương long và 12 âm long như sau: Dương long: Càn, Nhâm, Tý, Quý, Dần, Giáp, Ất, Thìn, Ngọ, Khôn, Thân, Tuất. Âm long: Hợi, Sửu, Cấn, Mão, Tốn, Tỵ, Bính, Đinh, Mùi, Canh, Dậu, Tân. Âm phần tốt nhất là dùng Âm long. Câu 9 - Tỵ, Bính cửu khí chung linh. Câu 10 - Đời sinh trung nghĩa thành danh lâu dài. Dịch và giải thích ( 8-9-10 ) Trong 24 hướng thì có 9 hướng tốt theo thứ tự như dưới đây: Hợi, Cấn, Tân, Tốn rồi đến Mão, Canh, Đinh, Tỵ, Bính là 9 hướng cửu khí chung linh. Các Án, Sa xung quanh huyệt trường hiện ra vào 9 hướng này là hướng được tốt sẽ sanh được con cháu là những người trung nghĩa và thành danh được bền bỉ lâu dài. Đây là cụ Tả Ao tóm tắt lại để tiện dụng. Những hướng tốt xấu này của sách Địa lý của Tàu ngày nay khai triển ra kể có mấy chục trang. Câu 11 – Tú long, tú hướng văn khôi Câu 12 – Cát long cát hướng tướng tài đổng binh Dịch và giải thích (11-12) Cát chỉ là hướng tốt thôi không có hình dáng xinh đẹp, còn tú là có hình dáng tốt đẹp. Được tú long, tú hướng thì phát văn, đỗ cao (văn khôi). Được cát long, cát hướng thì phát võ lớn (Tướng tài đổng binh). Câu 13 - Cát long cát hướng giao tình Câu 14 - Hướng tiền long hậu kiêm dành võ văn Dịch và giải thích (13 – 14) hướng là hướng huyệt. Long là long nhập thủ. Nếu được cả long và hướng cát thì sinh nhân văn võ toàn tài. Câu 15 - Cát long cát hổ huân thần Câu 16 - Tú linh hàn viện, long cân Ô Đài Dịch và giải thích (15-16) Được cát long cát hổ cũng được làm quan như người ta. Nhưng được Cát và Tú long tú hổ thì có thể lên đến chức tước cao hơn, ở Hàn lâm viện, hoặc Ô đài ngự sử (Ngự sử là chức có quyền thảo luận hoặc can gián vua). Câu 17 - Tỵ là trung thổ anh tài Dịch và giải thích (17) được hướng Tỵ là đất phát anh tài. Câu 18 - Sửu Mùi mộ đạo miệt mài cửa không Dịch và giải thích (18) Đất kết có long hoặc có hướng tại cung Sửu hoặc cung Mùi thường phát người mộ Đạo, miệt mài nghiên cứu Phật học. Dưới đây là bài kệ của một vị đã mộ đạo miệt mài cửa không làm: Kinh sách lưu hành tám vạn tư Học hành không thiếu cũng không dư Đến nay tính sổ nhường quên hết Chỉ thấy trên đầu một chữ Như Như là Chân Như là điểm tự tại cao thâm, bao trùm hết cả giáo lý của đạo Phật. Tận cùng của kinh sách, của tám vạn bốn ngàn pháp môn tu không ra ngoài sự đạt tới cõi chân như tự tại. Câu 19 – Thương dương Nhâm, Tý, Quý long. Câu 20 - Hẳn cầm quyền bính anh hùng oai nghiêm Dịch và giải thích (19 – 20) Dương long như Nhâm, Tý, Quý nếu được đất kết tốt sẽ phát những vị chỉ huy anh hùng oai nghiêm, quyền cao chức trọng. Câu 21 - Ngọ trung hỏa tốc ứng liền Câu 22 - Hạ dương điểm huyệt đãn hiềm tiện hung Dịch và giải thích (21 – 22) Hướng Ngọ phát rất nhanh và phát mạnh. Nếu là dương long lại càng hung dữ nữa, khi điểm huyệt đất này phải khéo cho bớt hung đi. Câu 23: Khôn, Thân, Dần, Giáp, Ất long Câu 24: Nhất thời phát xuất vẫy vùng lược thao Dịch và giải thích (23-24) Được đất kết thuộc Dương long như Khôn, Thân, Dần, Giáp, Ất long mà có huyệt tốt thường phát ra những nhân vật có tài thao lược. Câu 25: Thìn Tuất Càn kim đáo đầu Câu 26: Sinh tài lỗi lạc dẹp thâu hung tàn Dịch và giải thích (25-26) Ông Nguyễn Công Trứ là người có tài lỗi lạc nhưng mãi đến 42 tuổi mới thi đỗ ra làm quan. Từ hồi hàn vi ông đã ôm mộng ước đem tài thao lược ra thờ vua giúp nước cho thỏa mộng bình sinh, nhưng sau khi thi đỗ ra làm quan khi định thi hành chí hướng thì vì chức ông còn nhỏ nên bị các quan có chức cao hơn kìm hãm, không cho thực hiện mộng ước của ông. Ông nghĩ rằng phải làm lớn, mới đỡ bị chèn ép, mới dễ thực hiện chí hướng của mình. Muốn mau làm lớn chỉ có cách qua bên võ, xin đi dẹp giặc, có thắng trận, lập được kỳ công mới có hy vọng làm lớn mà thôi. Vào triều ông xin vua cho bỏ văn qua võ, làm các phan phì cười. Nhưng qua võ rồi ông dẹp được hầu hết những giặc lớn trong thời nhà Nguyễn bấy giờ. Ông tuy xuất thân là văn quan nhưng vì sang võ là vì đánh đâu thắng đó nên phải đi dẹp giặc liên miên, ít khi ở nhà. Một lần có bà vợ ba nhớ ông nên lặn lội ra tận mặt trận gặp ông và được ông tặng một câu đối như sau: Những tượng bút nghiên đành kiếm mã nào hay kim chỉ cũng phong trần. Chắc ông Nguyễn Công Trứ được đất kết lớn có hướng Thìn, Tuất và có long Càn nhập thủ như câu (25-26) trên, nên được cách sinh tài lỗi lạc dẹp thâu hung tàn. Câu 27 – Dương long ngay thẳng nhân khoan Câu 28 – Âm long thượng cách làm quan nối dòng Câu 29 - Đấy là kết luận cát hung Dịch và giải thích (27-28-29) Được đất kết thuộc Dương long thường sinh người ngay thẳng, nhân khoan, một đôi khi thô kệch, ít suy nghĩ đắn đo. Còn được đất kết thuộc Âm long thường sinh ra người thâm trầm tính toán, giỏi thừa hành theo lệnh trên, nên người được đất kết Âm long làm quan bền bỉ hơn người được đất dương long. Đấy là nói chuyện cát hung của âm dương long. CHƯƠNG 3 PHẦN LÝ KHÍ Hướng dẫn Khoa địa lý gồm 2 phần: Loan đầu và lý khí. Loan đầu là những gì mắt ta nhìn thấy trên đất đai của toàn thể một cuộc đất kết. Lý khí là phần trừu tượng của đất kết liên quan đến những áp dụng của Lý học Đông phương như: Hà đồ, Lạc thư, Chu dịch, Kỳ môn, Thiên văn và các công thức lý học áp dụng khác. Các vị cao thủ địa lý xưa kia sau khi đã nắm vững phần loan đầu, các vị còn khám phá ra được những điểm đặc sắc khác nếu thêm vào loan đầu thì ta sẽ có những ngôi đất kết toàn hảo hơn, phát mau hơn v.v... Do đó ta mới có phần lý khí. Học địa lý ta học Loan đầu trước, Lý khí sau là cách học rất khôn ngoan vì loan đầu cụ thể dễ thấy còn lý khí thì trừu tượng lại được đưa vào những công thức khó hiểu và ít được giải thích nên khó lĩnh hội. Nắm vững loan đầu rồi, phần trông thấy được rồi, ta mới có cơ sở đặt phần lý khí lên trên, sẽ dễ hiểu hơn để ta có thể có một kiểu đất toàn vẹn hơn. Trong 4 bộ sách Cao Trung đã xuất bản trước đây đã được tác giả tránh né rất nhiều đề cập đến phần lý khí để quý vị dễ học. Đến nay gần hết phần Loan đầu nên phải nói đến phần lý khí để quý vị có dữ kiện cao hơn, đầy đủ hơn về khoa địa lý. Tuy nhiên chính phần lý khí này lại là con dao hai lưỡi, ngoài phần hữu dụng cho loan đầu nói trên thì nó lại còn làm cho ta dễ lạc vào cõi u minh của khoa địa lý vì nó dùng các áp dụng quá khó khăn của lý học đông phương mà ít người hiểu tường tận. Có thể nói khoa địa lý trở nên thất truyền phần lớn là do phần lý khí và phần người học địa lý không chịu thực tập nhiều trên phần loan đầu, trên đất đai thật sự. Kinh nghiệm cho thấy nếu muốn thành công về khoa địa lý ta phải nắm vững phần loan đầu và nếu lý khí mâu thuẫn với loan đầu ta phải mạnh dạn loại bỏ nó ra. Ta chỉ dùng lý khí khi nó phù hợp với loan đầu mà thôi. Các cụ lão thành địa lý xưa kia còn cho biết là vua Hồng Vũ nhà Minh muốn giữ độc quyền khoa địa lý cho Hoàng tộc nên thuê người viết sách địa lý cách nào cho sau này ai học nó sẽ lạc vào cõi vô minh không có lối ra và không thể làm được địa lý. Những sách này bây giờ ta gọi là man thư. Những man thư phần nhiều dùng những áp dụng lý khí một cách kỳ quặc để làm lạc hướng người học địa lý. Trong khi đó có nhiều lý khí chân thư khác lại là phần cao, phần quan trọng, phần cốt tủy của địa lý. Một man thư và một chân thư địa lý ở cạnh nhau làm cho người ta dễ hiểu lầm không biết cái nào đúng, cái nào sai và chỉ những ai thật giỏi địa lý mới phân biệt được. Ngày nay rất hiếm người phân biệt được đâu là chân thư, đâu là man thư. Tập địa lý trước và tập địa lý này của Cao Trung có đăng tài liệu đất kết Cao Biền viết từ năm 600 đời nhà Đường, cách đây trên một ngàn năm, rất ít đề cập đến lý khí. Việc này đáng cho ta tin tưởng là loan đầu mới là quan trọng. Thêm lý khí mà không phản với loan đầu thì càng tốt, còn khi thấy lý khí phản lại loan đầu thì ta phải nghi ngờ lý khí đó là man thư. Mong rằng những công thức Lý khí của cụ Tả Ao dưới đây sẽ giúp ta phần nào khám phá ra những khó hiểu, những bí hiểm về khoa địa lý, nhưng ta phải dè dặt khi dùng nó. Những áp dụng lý khí vào khoa địa lý ngày nay có rất nhiều, nhưng chúng tôi chỉ trình bày những điều gì cần có trong tài liệu cụ Tả Ao để lại mà thôi. 3-1. Chính Ngũ Hành cầu long nhập huyệt Thân, Canh, Dậu, Tân, Càn Kim dã Dần, Giáp, Mão, Ất, Tốn, Mộc dã Hợi, Nhâm, Tý, Quý thuộc Thủy Sửu Cấn, Thìn, Khôn, Tuất thuộc Thổ Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh thuộc Hỏa. -------------------------------------------------------------------------------- 3-2. Song sơn Ngũ hành Tam hợp đơn: 1. Càn Giáp Đinh hoặc Hợi Mão Mùi Mộc cuộc 2. Khôn Nhâm Ất hoặc Thân Tý Thìn Thủy cuộc 3. Cấn Bính Tân hoặc Dần Ngọ Tuất Hỏa cuộc. 4. Tốn Canh Quý hoặc Tỵ Dậu Sửu Kim cuộc. Hay tam hợp kép: 1. Song sơn: Càn Hợi – Giáp Mão – Đinh Mùi đều là Mộc cuộc. 2. Song sơn: Khôn Thân – Nhâm Tý - Ất Thìn đều là Thủy cuộc. 3. Song sơn: Cấn Dần – Bính Ngọ - Tân Tuất đều là Hỏa cuộc. 4. Song sơn: Tốn Tỵ - Canh Dậu – Quý Sửu đều là Kim cuộc. -------------------------------------------------------------------------------- 3-3. Hồng phạm ngũ hành Người ta dùng Hồng Phạm ngũ hành để tính Tọa sơn. Tọa sơn không được khắc mệnh vong nhân. Dưới đây là công thức Hồng phạm ngũ hành: Càn Hợi, Đinh, Dậu thuộc Kim. Cấn, Mão, Tỵ, Canh thuộc Mộc. Nhâm, Ất, Bính, Ngọ thuộc Hỏa. Dần, Giáp, Thìn, Tốn, Thân, Tân, Tuất, Tý thuộc Thủy. Quý, Sửu, Mùi, Khôn thuộc Thổ. (Còn Tiếp)
-
CHƯƠNG 1 – 3 ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ (Tiếp theo) Hướng dẫn Đây là phân chương 1-3 là phần thứ 3 của chương 1 Địa lý trị soạn phú. Phân chương này bắt đầu câu 61 cho đến câu 90. Câu 61: Bính, Đinh, Ngọ tủng bạt, độc bút, chiếm khôi nguyên. Câu 62: Canh, Dậu, Tân tú kim, tất cao đăng tể phụ. Dịch (61) Bính, Đinh, Ngọ một bút vươn lên, chiếm bảng khôi nguyên. Dịch (62) Canh, Dậu, Tân tú kim hiển hiện, giữ ngôi Tể phụ. Giải thích (61-62) Bút ở Bính, Ngọ, Đinh càng cao càng tốt, đi thi sẽ đỗ đầu. Canh, Dậu, Tân có gò tròn đẹp sẽ làm lớn. Câu 63: Thủy tại Khảm phương, thân Quý. Câu 64: Kim tại Đoài vị, danh cao Giải thích (63-64) hình thủy tại phương bắc là đắc vị phát quý. Hành kim tại phương Tây là đắc vị, là quý, sẽ có danh cao. Câu 65: Danh cao niên thiếu, phong thanh khôi đệ, đích thị Dần Thân. Câu 66: Văn chương quán thế, quần nho thụ lâp, bút tiêm Đinh, Tốn Dịch (65) Tuổi trẻ lừng danh khôi đệ (tuổi trẻ đỗ cao, chính là Ấn đới Dần Thân) Dịch (66) văn chương quán thế quần nho (văn chương vượt trội các nho sĩ khác) vì có bút tiêm (bút nhọn) tại Đinh, Tốn... Câu 67: Kim tinh tự phú chung, vi khởi, thần đồng giáp cập đệ Câu 68: Kim tinh như vân lôi, tiểu phong, võ tướng chí quận công Dịch (67) kim tinh như chuông úp, gợn lên, thần đồng chiếm khôi bảng. Dịch (68) Kim tinh như vân lôi nho nhỏ, võ tướng phong quận công. Giải thích (67-68) có gò kim tinh nhỏ (tinh phong) trên thần long, hoặc trên các gò đống khác thì rất quý. Câu 69: Các trục, hoa khai, nam hôn công chúa. Câu 70: Viên nhiễu, hình kiến, nữ xuất cung phi. Dịch (69) Cáo trục hoa khai, trai làm phò mã. Dịch (70) Viên nhiễu hiện hình, gái phát hậu phi. Câu 71: Sơn hùng dũng, sinh nhân hùng dũng, lưu ý nhi quan. Câu 72: Sơn thô ác sinh nhân thô ác, dụng tình nhi biện Dịch (71) Sơn hùng mạch sinh người hùng mạnh, lưu ý mà coi. Dịch (72) Sơn thô ác sinh người thô ác, dụng tình mà xét. Giải thích (71-72) thường thường long mạch từ tổ sơn xuống mà vào kết huyệt ngay thì hùng mạnh hoặc thô ác sẽ sinh người hùng mạnh hoặc thô ác; còn long mạch từ tổ sơn xuống còn bác hoán nhiều lần cho thành cát long rồi mới và kết huyệt thì sinh người tuấn tú hiền lành hơn. Câu 73: Thủy thô cấp, nhân đa tai họa, thử vô hư ngữ. Câu 74: Thủy triều dương, nhân sinh hòa nhã, thử hữu tín ngôn. Dịch (73) Nước thô cấp sinh người nhiều tai họa, nói đúng không sai Dịch (74) Nước triều êm đẹp, sinh người hòa nhã, lời nói đáng tin. Giải thích (73-74) cứ coi thủy đã biết đất đó sinh người thô nhã, cát hung như thế nào rồi. Câu 75: Viễn hổ hồi đầu, phúc viên ngoại tộc. Câu 76: Ngoại long hồi đầu, phúc ấm ngoại tông Dịch (75) Hổ xa quay đầu về, phúc diên ngoại tộc. Dịch (76) Long ở ngoài quay đầu lại, phúc ấm ngoại tông. Giải thích (75-76) đất có ngoại long, ngoại hổ từ tổ sơn về bao vây lấy cuộc đất, làm thành quách cho cuộc đất, mà đầu long, hổ đó lại quay đầu ôm lấy cuộc đất là đất đó được tổ tiên để lại phúc ấm cho, thường phát rất lớn. Câu 77: Bút hổ thôi thân, ngao đầu trúng tuyển. Câu (78) long bảng ngoại diện, mã thượng vinh hồi Dịch (77) bút hổ thoát ra, ngao đầu trúng tuyển. Dịch (78) Bảng rồng trước mặt, cưỡi ngựa vinh quy. Giải thích (77-78) Tay hổ thoát ra cây bút (hình nhỏ dài và nhọn đầu) hay tay long có bảng (hình vuông hay hình chữ nhật) thì đi thi là đỗ, được cưỡi ngựa vinh quy. Câu 79: Địa hữu tam đường, hoàng kim bạch ngọc thượng xa xỉ. Câu 80: Địa hữu tam trĩ, công danh phú quý chấn gia bang. Dịch (79) Đất có 3 minh đường, vàng ngọc tiêu xài xa xỉ. Dịch (80) Đất có án tam thai, công danh phú quý lẫy lừng thay. Câu 81: Tý lai long, Ngọ kỳ triển, hách dịch nhất thời. Câu 82: Thủy Mão tụ, diện sơn cao, khanh tướng vạn cổ. Dịch (81) Tý long lai, Ngọ mở cờ, hách dịch một thời Dịch (82) Mão thủy tụ, mặt núi cao, vẻ vang muôn thuở. Giải thích (81) Long đến từ Tý và huyệt hướng Ngọ, tại Ngọ có núi như cờ mở là đất phát hách dịch một thời. Giải thích (82) cung Mão có thủy tụ lại có núi cao là đất kết vua biết mặt chúa biết tên. Nhưng phải cẩn thận, núi cao ở hướng Đông phải xa huyệt trường, còn núi cao ở hướng Đông lại sát huyệt trường mà huyệt trường lại thấp thì dù có tài giỏi cũng không được vua biết đến. Câu 83: Thần bút lâm giang, trạng nguyên chi bút. Câu 84: Hồng kỳ tại Ngọ, võ tướng chi kỳ. Dịch (83) Thần bút gần sông là bút trạng nguyên. Dịch (84) Hồng kỳ ở Ngọ là cờ võ tướng. Giải thích (83) Bút chấm nước ở sông lớn tốt hơn bút trên cạn, nên có bút chấm nước là dễ thi đỗ trạng nguyên. Giải thích (84) Cờ hình hỏa, phương nam thuộc hành hỏa nên đắc vị. Câu 85: Thiên hạ bình định, Cấn, Hợi, Tân, Tốn chi sở suy. Câu 86: Thiên hạ nhiễu chấn, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi chi sở phát. Dịch (85) Thiên hạ bình địa, do Cấn, Hợi, Tân, Tốn đẩy ra. Dịch (86) Thiên hạ nhiễu phương, do Thìn, Tuất, Sửu, Mùi phát xuất. Giải thích (85-86) Những huyệt kết hướng Cấn, Hợi, Tân, Tốn thường phát vào thời bình. Còn những huyệt kết thường Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thường hay phát vào thời loạn. Vậy ta có thể chọn sự kết phát theo ý muốn. Câu 87: Khôn vị cao phong, danh đề bảng sĩ. Câu 88: Cấn phương tiêm bút, danh chiếm trạng đầu Dịch (87) Khôn vị có núi cao, tên đề cuối bảng. Dịch (88) Cấn phương có tiêm bút, danh đỗ trạng nguyên. Giải thích (87-88) Khôn là tây nam. Cấn là đông bắc, hai hướng đối nghịch nhau, nhưng núi phía Khôn chỉ cho đỗ cuối bảng (cũng đỗ nhưng đỗ hạng chót) còn bút phía Cấn lại cho đỗ đầu bảng. Vậy hướng Cấn tốt hơn hướng Khôn. Câu 89: Thiếu chi quý, tại hổ án, ấn phân minh Câu 90: Lão đắc danh, tại hổ thiên mã đảo địa Dịch (89) Tuổi trẻ cực quý, do ư án ấn phân minh Dịch (90) Tuổi già công danh, do là thiên mã đảo địa. Giải thích (89) Án, Ấn phải đẹp, rõ rệt mới quý. Giải thích (90) dù có chứng ứng Lộc, Mã mà không cao, lại thấp lè tè (đảo địa) thì về già mới có công danh. CHƯƠNG 1-4 ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ (Tiếp theo) Hướng dẫn Đây là phân chương 1-4 là phần thứ 4 của chương 1 Địa lý trị soạn phú. Bắt đầu từ câu 91 và chấm dứt ở câu 122. Câu 91: Đái thương, đái khố. Đào Chu chi phú khả kỳ. Câu 92: Sinh diệu sinh quan, rắp mong nổi danh Vương Tạ. Dịch (91) Đới thương đới khổ, có thể giàu sánh Đào Chu . Dịch (92) Sinh diệu sinh quan, rắp mong nổi danh Vương Tạ. Giải thích (91) Như vựa, như kho, có thể giàu sánh Đào Chu . Giải thích (92) Có diệu mọc ra ở tay long, tay hổ, hoặc có quan quỷ ở huyệt trường thì thông minh, nổi tiếng như Vương Tạ. Câu 93: Thất diệu đông, thất diệu tây, khanh tướng trùng trùng. Câu 94: Cửu khúc hậu, cửu khúc tiền, phúc lộc vĩnh miên Dịch (93) Thất diệu bên đông, thất diệu bên tây, phát khanh tướng trùng trùng. Dịch (94) Chín khúc đằng sau, chín khúc đằng trước, hưởng phúc liên miên. Giải thích (93) có tới 7 diệu sơn, dù ở hướng Tây hay hướng Đông, cũng phát khanh tướng. Giải thích (94) có tới 9 khúc thủy triều, dù ở trước hay sau huyệt cũng được hưởng phúc liên miên. Đi xem đất nên lưu ý số 7 của diệu sơn hay tinh phong và số 9 của nước triều này. Câu 95: Thanh long chi thượng hữu phong, nam nhân đắc quý. Câu 96: Bạch hổ chi yêu đới ấn, hữu tả phát quan. Dịch (95) trên thanh long còn mọc thêm tinh phong, nam nhân đắc quý. Dịch (96) có ấn trên lưng bạch hổ, có con phát quan. Câu 97: Thạch án đốn ư thạch bút, khôi nguyên nhất cử chi vinh. Câu 98: Kim cổ liệt ư kim vị, tướng quân vạn binh chi dũng. Dịch (97) Thạch án nổi trên thạch bút, nhất cử vinh hiển khôi nguyên. Dịch (98) Kim cổ bày ở kim vị, vạn binh uy dũng tướng quân. Giải thích (97) có núi đá làm án, lại có bút bằng đá nữa thì đi thi đỗ đầu. Giải thích (98) trống hình kim ở hướng tây (kim vị) thì phát võ, tướng quân uy dũng. Câu 99: Vương tự tiền, đang tiền hoàng đế. Câu 100: Vương tự hậu, tử hậu phong vương. Dịch (99) chữ vương đàng trước, lúc sống gần hoàng đế. Dịch (100) chữ vương sau lưng, lúc chết được phong vương. Câu 101: Thủy khẩu ư quái thạch, tử tồn đại đại xuất văn chương. Câu 102: Thủy khẩu chấn la tinh, tử tôn đại đại vi khanh tướng. Dịch (101) Thủy khẩu có quái thạch, con cháu đời đời phát văn chương. Dịch (102) Thủy khẩu có la tinh trấn, con cháu đời đời làm khanh tướng. Giải thích (101-102) quái thạch hay la tinh phải là núi đá từ tổ sơn chạy đến làm thủy khẩu mới là đất lớn. Câu 103: Kim cư đoài vị, quý tế lâm đinh Câu 104: Thủy khẩu đông phương, hiền thê trợ nghiệp. Dịch (103) Kim nơi đoài vị, rể quý lâm đình (có con trai lấy vợ là con quan lớn) Dịch (104) Thủy khẩu xuất đông phương, hiền thê trợ nghiệp (có vợ hiền giúp đỡ, xây dựng nên sự nghiệp cho chồng). Câu 105: Tiền nghênh hậu tống, giáp mật mật, thử địa cận đế thất. Câu 106: Tả long hữu hổ, cư trùng trùng, thử địa vi quan công. Dịch (105) tiền nghinh hậu tống, liền khin khít, đất đó được cận thân đế thất (làm việc gần vua). Dịch (106) Tả long hữu hổ, ở trùng trùng, đất đó phát làm quan công (làm nơi tam công). Giải thích (105) những đất kết nào có nhiều tiền nghênh, có nhiều hậu tống, liền khin khít thì làm việc gần vua. Ở Mỹ thì làm việc trong toà nhà Bạch ốc. Giải thích (106) Đất có nhiều long hổ cũng làm lớn, chức tới tam công. Câu 107: Thiên thị kiến Canh, tài kiêm văn võ. Câu 108: Thiên thị kiến Chấn, đổ xuất võ văn Dịch (107) Thiên thị thấy ở Canh, tài kiêm văn võ. Dịch (108) Thiên thị thấy ở Chấn, phát cả võ văn. Câu 109: Thiên thị kiến Bính, lộc hưởng vạn chung Câu 110: Khảm mạnh kiến Khôn, văn phát nhất đai Dịch (109) Thiên thị thấy ở Bính, hưởng lộc vạn chung Dịch (110) Khảm mạch thấy ở Khôn, phát văn một đời. Câu 111: trùng trùng hổ thủy, phát phú Câu 112: Điệp điệp long sa phát văn. Dịch (111) Nước bên bạch hổ trùng trùng, phát phú. Dịch (112) Sa ở bên thanh long điệp điệp, phát văn. Giải thích (111-112) nói về thủy và sa tốt. Thủy chủ phú. Sa chủ quý. Câu 113: Bạch ốc phát công khanh, tại hổ hồi long cố tổ Câu 114: Bạch đinh chi Tể tướng, tại hổ Mão vị cao phong. Dịch (113) Bạch ốc phát công khanh, do ở đất hồi long cố tổ. Dịch (114) Bạch đinh làm tể tướng, do ở Mão vị có núi cao (phương Mão là nơi mặt trời mọc, tượng trưng cho vua). Câu 115: Tiêm tú cư hậu, chủ vãn thành. Câu 116: Tha nga tại tiền, danh bất hữu Dịch (115) Sơn tiêm tú ở đằng sau, chủ đạt muộn mằn. Dịch (116) Đá chênh vênh ở đằng trước, công danh không có. Câu 117: Nhất hô động thiên địa, do hổ thạch cổ thạch kỳ. Câu 118: Nhất cử chiếm khôi nguyên, do hổ thạch huyệt thạch bút. Dịch (117) một tiếng hô, động trời đất, bởi có cờ trống bằng đá. Dịch (118) một thi cử chiếm khôi nguyên, do ư huyệt đá, bút đá. Câu 119: Viễn thủy nhập hoài, đa chiêu viễn vật. Câu 120: Cận án não thủ, tất thủ cận danh Dịch (119) Nước xa chảy vào lòng, đem lại nhiều diễn vật, Dịch (120) Án gần với tay được, tất mau lấy công danh. Giải thích (119) Đất nào có nước từ xa chảy vào lòng (viễn thủy nhập hoài) sẽ có nhiều tài lộc từ xa mang lại. Giải thích (120) Kiếm được đất mà án ở gần sát huyệt (án gần với tay được) sẽ một sớm một chiều có công danh. Muốn mau ăn nên cố kiếm đất án rất gần huyệt. Câu 121: Án phụ tử, phụ tử đồng bảng Câu 122: Án huynh đệ anh em đồng triều Dịch (121) Án phụ tử, cha con đồng bảng Dịch (122) Án huynh đệ anh em đồng triều. Giải thích (121-122) Một án to một án nhỏ là án phụ tử, hai cha con cùng thi đỗ đồng khoa. Hai án lớn bằng nhau là án huynh đệ, hai anh em cùng làm quan một triều. CHƯƠNG 1-5 ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ (Tiếp theo) Hướng dẫn Đây là phần thứ 5 của chương 1 Địa lý trị soạn phú. Bắt đầu từ câu 123 và sau cùng là câu 151. Câu 123: Mộc nhập mộc, vi thế thực sự Câu 124: Kim thụ kim, vi thời danh tướng Dịch (123) Mộc nhập mộc, thầy giỏi của đời Dịch (124) Kim thụ kim, tướng tài xuất thế Giải thích (123) Sa hình mộc (nhỏ và dài) ở hướng Đông. Đông là mộc hướng nên Mộc vượng. Mộc phát văn nên là bậc thầy của đời. Giải thích (124) Sa hình kim, hình tròn ở hướng Tây. Tây là Kim phương nên kim vượng. Kim phát võ nên là tướng tài xuất thế. Câu 125: Trùng thổ trùng kim, vị cư tể tướng Câu 126: Trùng hỏa trùng thổ thân cử hàn lâm Dịch (125) Trùng thổ trùng kim, ở ngôi tể tướng. Dịch (126) Trùng hỏa trùng thổ, mình ở Hàn Lâm Giải thích (125) Hai sa hình thổ (vuông) và hình kim (tròn) (thổ sinh kim) có thể làm tới tể tướng. Giải thích (126) hai sa hình hỏa (lưỡi cày) và hình thổ (vuông) (hỏa sinh thổ), có thể làm tới chức Hàn lâm. Câu 127: Vị liệt đài giai, tại viên kim tú ứng Câu 128: Thế sinh hùng tướng, tại hổ tinh diệu trùng đa. Dịch (127) Ngôi ở đài giai, vì viên kim tú ứng. Dịch (128) Đời sinh hùng tướng, bởi tinh diệu trùng nhiều. Giải thích (127) Gò kim tinh mà hình dáng đẹp (tú) lại ở hướng tốt (ví dụ như là văn thì ở Tốn, Tân hướng thì sẽ được ở chức cao về văn. Giải thích (128) Đất phát võ nếu có nhiều tinh diệu thì sẽ sinh được những vị hùng tướng. Câu 129: Án huynh đệ, nhân cộng sở tri Câu 130: Huyệt huynh đệ, nhân sở nan thức Dịch (129) Hai án (án huynh đệ) ai nhìn cũng thấy. Dịch (130) Hai huyệt (huyệt huynh đệ) mấy kẻ đã hay. Giải thích (129-130) Một huyệt có 2 án thì dễ thấy rồi nhưng một huyệt trường có 2 huyệt kết thì không mấy người biết. Câu 131: Mộc long mộc huyệt, vi thế hãn vô Câu 132: Hỏa long hỏa hướng, vi thế nan thức Dịch (131) Mộc long mộc huyệt, đời vốn có nhiều Dịch (132) Hỏa long hỏa hướng, mấy ai nhận rõ. Giải thích (131-132) Mộc long mộc huyệt, phát người văn chương nho nhã. Mộc hình thì dài nhỏ nhắn nhuyễn nhược nên dễ phát văn. Nhưng nếu là Hỏa long hỏa hướng thì phải coi chừng dễ sát lắm đấy và điểm huyệt được cũng không phải là dễ. Điểm sao cho tránh được khi ngồi ở huyệt trường không thấy đầu nhọn của hỏa mới là khéo. Câu 133: Kim long kim huyệt, vi thế nan cầu Câu 134: Thổ long thổ huyệt, vi thế nan đắc Dịch (133) Kim long kim huyệt đâu phải dễ tìm Dịch (134) Thổ long thổ huyệt thật là khó được. Giải thích (133-134) Được hành khác sinh nhập là được sinh được cùng hành là được vượng. Được sinh, vượng thì phát lớn gấp bội. Câu 135: Tốn long Tân hướng, mộc thụ huyệt, khoa cử văn chương vĩnh bất tuyệt. Câu 136: Tân long Tốn hướng, bút sấm vân, trạng nguyên cập đệ yết quân thần. Dịch (135) Tốn long Tân hướng, Mộc thụ huyệt khoa cử văn chương không bao giờ hết. Dịch (136) Tân long Tốn hướng, bút chấm mây, trạng nguyên cập đệ hợp vua tôi. Giải thích (135-136) Cứ Tốn long hoặc Tân long hoặc Tốn hướng hoặc Tân hướng là ăn chắc phát văn. Nếu thêm mộc thụ huyệt (huyệt hình mộc) thì khoa cử văn chương vĩnh bất tuyệt. Nếu lại thêm cây bút đứng nữa thì khi vào thi tại sân rồng sẽ đỗ trạng nguyên. Cụ Tả Ao đã nhắc nhở nhiều lần như sau: Nhất là Tân Tốn mới hay Bính Đinh Đoài Cấn sắp bày đột lên. Bút lập là bút trạng nguyên. Thời vua Lê Thánh Tôn là thời có nhiều Tiến sĩ nhất có lẽ vì ảnh hưởng của sự kiếm đất hướng Tốn, Tân và Bính Đinh Đoài Cấn của cụ Tả Ao nên thời này có tới mấy ngàn tiến sĩ... Câu 137: Bút long long vi quý, vật đắc tắc vi quý Câu 138: Tượng mã mã vi quý, vật đắc tắc vi quan Dịch (137) bút long long là quý, tìm được thời là quý Dịch (138) Tượng mã mã là quý, tìm được thời phát quan. Giải thích (137-138) Bút, nghiên có ở gần tay long tay hổ thì quý, sẽ học giỏi, đi thi đỗ cao. Nhưng tượng và mã ở xa là hình thức nghi vệ của bậc quan lớn, vậy nếu có tượng mã ở xa chầu về thì phát cao quan. Câu (139) Long sa đới Giáp, khanh tướng tự kỳ. Câu (140) Hổ thủy Ất cung, công hầu tại thử. Dịch (139) Long sa đới Giáp, khanh tướng hẹn ngày. Dịch (140) Hổ thủy Ất cung, công hầu sẽ tới. Câu 141: Huyệt kết quải câu, thiên kim nan cầu Câu 142: Thủy khẩu trấn kỳ, vạn quan diệc vị Dịch (141) Huyệt kết quải câu, ngàn vàng khó kiếm Dịch (142) Thủy khẩu trấn kỳ, vạn quan cũng đáng. Giải thích (141) Huyệt kết quải câu là kết hồi long cố tổ. Huyệt kết hồi long cố tổ rất quý vì huyệt này mau phát và dễ sinh hiếu tử trung thần. Giải thích (142) Thủy khẩu trấn kỳ là nơi thủy khẩu có núi đá hình cờ trấn giữ. Loại thủy khẩu này dễ phát võ và làm lớn. Câu 143: Ngẫu nhĩ phùng quân, thần tướng vi lịch triều hoàng đế. Câu 144: Tả hữu câu hồi, điền triều tế hải triều, thử địa đại phú. Dịch (143) Ngẫu nhĩ gặp quân thần, sẽ được lịch triều thờ vua. Dịch (144) Tả hữu đền hồi đều triều và hải triều, đất phát đại phú. Câu 145: Huyệt nhiêu tự nang hốt, liệt địa đại quang. Dịch (145) Huyệt đầy đặn như túi thắt, đất đó đại phát. Giải thích (145) Đất có khí mạch sung mãn nên huyệt trường trông đầy đặn như cái túi thắt. Câu 146: Bình địa khởi tam lôi, thử địa phát như lôi Câu 147: Bình địa khởi quý thạch, thử địa đa cát khánh. Dịch (146) Bình địa nổi lên ba chỗ, đất đó phát như sấm, Dịch (147) ruộng bằng nổi lên quý thạch, đất đó nhiều cát khánh. Giải thích (146) Đang đất bằng bỗng nổi lên một án tam thai hoặc ba án, sẽ phát rất mạnh. Giải thích (147) đang ruộng bằng bỗng nổi lên đá quý là triệu có gì vui đẹp. Câu 148: Bình địa khởi tú lĩnh chi kỳ, tất xuất cao quan chi huyệt Câu 149: Bình địa hữu hồ lô chi thủy, tất hữu công hầu chi địa Dịch (148) Bình địa nổi cờ tú lĩnh (có núi như cờ mở), là huyệt phát cao quan. Dịch (149) Bình địa có thủy hồ lô (có nước bao quanh) là đất phát công hầu. Câu 150: Hỏa long, Thổ huyệt, diệc vi quý kỳ Câu 151: Thổ long kim huyệt, diệc vi quái hoạch Dịch (150) Hỏa long, Thổ huyệt vậy là quý huyệt. Dịch (151) Thổ long, kim huyệt cũng là đất tối khác thường. CHƯƠNG 1-6 ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN (Tiếp theo) Hướng dẫn Chương 1-6 là phần thứ 6 của chương 1 Địa lý trị soạn phú. Bắt đầu từ câu 152 cho đến câu 181. Câu 152: Long phát nhất đại, bạch vĩ nhi chân chỉ, Câu 153: Long phát nhất thời, ngư hình vi thị ky. Dịch (152) Long phát 1 đời, bạch vĩ không sai, Dịch (153) Long phát 1 thời, ngư hình là đúng. Câu 154: Kỵ long yếu cư long tích, chư ứng vô địch Câu 155: Thuận long đắc táng long đầu chỉ, xứ chỉ nan tầm Dịch (154) Kỵ long cần ở lưng long, chư ứng hay vô địch. Dịch (155) Thuận long táng ở đầu long, chỗ ngưng là khó tìm. Giải thích (154-155) Đây nói về kỵ long kết huyệt. Kỵ long kết huyệt là huyệt kết trên lưng long, còn huyệt kết bình thường thì kết ở đầu long. Kỵ long kết huyệt cũng có đủ hoành, hồi, thuận như kết huyệt thường. Nhưng nếu kết kỵ long thì ta gọi là kết hoành kỵ kết hồi kỵ, kết trực kỵ, kết thuận kỵ. Ta đã biết lưng long rất dài nên khi kết thuận kỵ thì rất khó kiếm được chỗ ngưng để điểm huyệt, bởi vì kết kỵ là kết trên lưng, còn lâu mới thấy minh đường nên khó điểm huyệt. Điểm huyệt mà không có minh đường, không có án rõ rệt làm căn cứ thì rất khó điểm. Người ta nói là điểm huyệt kết thuận kỵ thì 10 cái sai 9. Câu 156: Mã đầu đới ẩn, tất cao cổ mục chi ương Câu 157: Hổ dịch sinh phong, tất sinh dâm dục chi thái Dịch (156) mã đầu đới ẩn, tất gặp tai nạn mù lòa. Dịch (157) Hổ trừu sinh phong, tất sinh thói hư dâm dục. Câu 158: Sở kỵ giả, thủy phi huyền vũ Câu 159: Sở úy giả, thủy đường tiền tán loạn Dịch (158) Điều đáng kỵ, thủy phi huyền vũ. Dịch (159) Điều đáng sợ, thủy loạn đường tiền. Giải thích (158) Thủy phi huyền vũ sẽ cho huyệt hung nên ta phải kỵ. Thế nào là thủy phi huyền vũ? Sau huyền vũ đến nhập thủ mạch. Nhập thủ mạch đưa khí mạch từ huyền vũ tới huyệt trường. Nếu tại huyền vũ mà có nhiều nước dầm dề và nước đó chảy đi thì huyệt trường sẽ không có khí mạch, vì khí mạch từ Huyền vũ theo nước chảy đi mất rồi. Còn khí mạch đâu vào huyệt nữa. Ta phải kỵ thủy phi huyền vũ, để tránh huyệt hung. Giải thích (159) Thủy từ minh đường chảy đi phải theo một lối hợp cục mới tốt. Nếu thủy ở đường tiền chảy loạn đi là xấu. Câu 160: Sơn tán loạn, thủy viễn đả thi, Câu 161: Thủy khắp khắp, cận nhi diệt tộc. Dịch (160) Sơn tán loạn xa cũng bị đả thi Dịch (161) Thủy khấp khốc gần cũng bị diệc tộc. Giải thích (160) Long, sa, án, triều v.v... đều là sơn. Tất cả sơn ở phải, trái trước sau huyệt trường phải ôm chầu vào huyệt trường mới là tốt. Nhược bằng có sơn nào không ôm chầu mà chạy tán loạn đi (tức là quay mặt đi, quay lưng vào huyệt) thì không tốt, dù phản mà ở xa huyệt trường cũng có tội (thùy viễn đả thi). Giải thích (161) Khi tầm long nếu thấy chỗ nào nước chảy còn kêu réo là chưa tới huyệt trường. Huyệt nào gần chỗ nước chảy kêu réo (thủy khấp khốc) thì một là huyệt hung, hai là không có thật huyệt. Câu 162: Hổ bão long đầu, dâm phong bất chỉ Câu 163: Long xuyên hổ tý, tử lộ nan đào. Dịch (162) Hổ ôm long đầu, dâm dật chẳng dứt. Dịch (163) Long xuyên tay hổ, tử nạn khó qua. Giải thích (162) Đầu tay hổ ôm sát đầu tay long anh chị em dễ thông dâm. Giải thích (163) Tay long đáng lẽ ôm vòng lại đâm ngang vào tay hổ thì đất này khó tránh được con cháu bị chết bất đắc kỳ tử. Câu 164: Đinh thủy phá thái dương, đa sinh dâm thái, Câu 165: Trì thủy xung nguyên thần, đa tuyệt nội tông Dịch (164) Đinh thủy phá thái dương (Mão cung), sinh nhiều dâm đãng Dịch (165) Trì thủy xung nguyên thần, hay tuyệt nội tông Giải thích (164) Đinh thủy đâm vào cung Mão là Đinh thủy phá Thái dương, gia đình đó nhiều người dâm thái. Đào hoa thủy cũng sinh người ưa dâm dục. Đào hoa thủy là: a. Nếu là dương cuộc long (Dần Ngọ Tuất: Hỏa cuộc) và (Thân, Tý, Thìn: Thủy cuộc) thì kỵ thủy từ Mão, Dậu chảy về. b. Nếu là âm cuộc long (Tỵ Dậu Sửu: Kim cuộc) và (Hợi Mão Mùi: Mộc cuộc) thì kỵ thủy ở Tý, Ngọ chảy về. Câu 166: Huyền vũ chi sơn, bích lập, tai hại tự sinh. Câu 167: Nội đường chi thủy, quyển liêm, tiền tài tán loạn Dịch (166) Sơn huyền vũ như vách đứng, tai họa tự sinh. Dịch (167) Thủy nội đường như rèm cuốn, tiền tài tan hết. Giải thích (166) Huyền vũ đứng thẳng như vách tường (không cúi đầu) là hung huyệt. Giải thích (167) Thủy ở nội đường chảy tràn ra như mành cuốn thì tiền tài tan hết. Câu 168: Thủy phản lộ, xuyên thành, chung hữu bại Câu 169: Thủy tà sơn túc, nhân đãng tài hoa Dịch (168) Thủy phản lộ, xuyên thành, sau sẽ hại Dịch (169) Thủy tà chân núi, người hư của hao. Giải thích (168) Nước chảy xuyên phá thành bao vây cuộc đất, trước sau sẽ bị hại. Giải thích (169) Nước chảy cắt chân núi, người hư, của hao. Câu 170: Nội đường tà khuynh, sơ niên bất lợi Câu 171: Hạ long phản khí, hậu đại bất lương Dịch (170) Nội đường xéo nghiêng, năm đầu bất lợi Dịch (171) Hạ long phản đi, đời sau phản phúc Giải thích (170) Nội đường nghiêng không chứa nước, nhưng ngoại đường chứa nước thì mới đầu không lợi, sau (ăn vào ngoại đường) mới khá. Giải thích (171) tay long bên ngoài (ngoại long) quay mặt đi không ôm chầu vào huyệt trường thì con trai đời sau sẽ phản phúc. Câu 172: Xuất thân tiêm tước, tai hại tự kỳ Câu 173: Lộ tước cát băng, tử tôn nan kế Dịch (172) Nơi xuất thân xén nhọn, tai hại đến liền. Dịch (173) Lộ cuộc cát lở, con cháu bị tuyệt. Giải thích (172-173) Thân long bị cắt xén, tai họa sẽ đến. Chân của thân long bị cát lở, con cháu bị họa. Câu 174: Sơn lai triều như trực xạ, nhất hưng tiện bại. Câu 175: Thủy nhập hoài như phản khứ, nhất phát tiện suy Dịch (174) Sơn lai triều như bắn thẳng vào huyệt trường, dù có đất kết, thành đó sau bại đó. Dịch (175) Nước vào lòng mà phản chảy, một phát liền suy Giải thích (174-175) Nước chảy đến huyệt như bắn vào huyệt, hoặc nước chảy vào minh đường, lại không vào mà chảy phản đi thì dù có đất kết cũng trước thành, sau bại. Câu 176: Hổ hóa án chi ngang đầu, tuy phát phúc diệc hữu bại. Câu 177: Long khởi phong nhi phản vĩ, tuy hữu thiện, bất khả chung. Dịch (176) Hổ hóa án mà vươn đầu lên, tuy phát phúc cũng có hại, Dịch (177) Long khởi phong mà đuôi phản lại, tuy có tốt cũng không được trọn. Giải thích (176) Tay hổ thôi thân làm án là quý, nhưng án này nghênh đầu như khinh khi huyệt thì có kết cũng có hại. Đó là khách khinh khi chủ. Giải thích (177) Tay long có những tinh phong ở trên là quý nhưng cuối tay long không ôm vào huyệt trường, mà lại quay đi thì con trai phải ly hương làm ăn mới khá được. Câu 178: Long hổ tương đấu, huynh đệ bất hòa Câu 179: Tiền hậu bất minh, tử tôn đa muội Dịch (178) Tay long tay hổ đấu chọi nhau, anh em bất hòa. Dịch (179) Các chứng ứng ở huyệt trường hay xung quanh huyệt trường trông không rõ rệt (tiền bất minh, hậu bất hiển) thì con cháu ngu muội. Câu 180: Minh đường thủy khứ, nam nữ u mê Câu 181: Huyền vũ sơn thô, tử tôn hung ác. Dịch (180) Minh đường thủy chảy đi (không giữ nước) thì trai gái u mê Dịch (181) Huyền vũ sơn thô kệch, con cháu hung ác. (Còn Tiếp)
-
DÃ ĐÀM - TẢ AO TỰA Của Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ Giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn Giáo sư Đại học Nhân văn và Nghệ thuật Viện Đại Học Minh Đức Cách đây mấy năm ông Cao Trung đã nhờ tôi đề tựa quyển Địa Lý Tả Ao của ông, nay ông lại có nhã ý nhờ tôi đề tựa tập Dã Đàm Tả Ao này. Tác giả cho biết đây là tài liệu viết tay của ông Nguyễn Tấn Minh thuộc giòng giỏi cụ Tả Ao, viết năm Canh Thìn (cụ Tả Ao tên là Nguyễn Đức Huyên). Tôi may mắn có bộ sách “Tả Ao chân truyền địa lý” do Hà Kim, Duyên Tự Sơn Nhân hiệu đính, Bất Chuẩn Phiên khắc và hiệu Nghĩa Lợi h àng Đào phát hành năm Kỷ Mùi (1919) đời vua Khải Định. Tôi đem hai bản so sánh thì thấy hầu hết giống nhau, ngoại trừ một vài chi tiết nhỏ. Như thế là chúng ta có thể vững bụng về phần tài liệu. Nhưng dù là đọc bản in tại Hà Nội hay bản viết tay của ông Nguyễn Tấn Minh, tôi cũng thấy hết sức khó hiểu. Trái lại khi tài liệu trên vào đến tay ông Cao Trung thì nó lại trở nên khúc chiết, rạch ròi, vì nó đã được ông Cao Trung đem công phu phân thành tiết mục hẳn hoi, nhất là sự bình giải hết sức sáng suốt cặn kẽ. Tác giả vẫn dùng lối văn giản dị, lối trình bày rõ ràng, lại còn kèm thêm nhiều đồ bản, để minh chứng, giải thích, khiến người đọc có cảm giác rằng: khoa Địa lý cũng không đến nổi quá khó như mọi người thường nghĩ. Tuy nhiên, tập trước và tập này mới hoàn tất phần căn bản của khoa địa lý. Nếu muốn đi sâu vào chi tiết, nếu muốn nắm vững được hết những huyền vi, ảo diệu của khoa địa lý, là một khoa rất khó trong các khoa Cổ học thuật Trung Hoa, chắc chắn chúng ta còn phải tốn nhiều công phu, đọc nhiều sách vở. Cái đó là điều dĩ nhiên. Tác giả cũng biết như vậy nên đã hứa hẹn cho xuất bản thêm một số tài liệu về khoa này. Chúng ta sau khi đã đọc qua hai tập địa lý của tác giả hẳn đã hài long và ước ao tác giả mau xuất bản cho đủ toàn bộ khoa địa lý, để chúng ta có đủ tài liệu tham khảo và có được toàn bộ sách quý. Vì không sành về Địa lý, nên tôi chỉ chú trọng đến sự chính xác của tài liệu, và chỉ biết đề cao phương pháp khảo cứu và bình giải của tác giả, chứ không muốn đi sâu vào chuyên môn. Tuy nhiên trước khi cho xuất bản tập sách này, tác giả đã đưa cho nhiều bậc lão thành tinh thông về khoa địa lý xem và đã được các vị hết lời khen tặng, như ta thấy trong “Lời mở đầu” của tác giả. Có một điều tôi muốn lưu ý quý vị độc giả là ông Cao Trung từ nhiều năm nay, đã khổ công nghiên cứu về nhiều bộ môn Đông Phương học. Còn riêng về phương diện học vấn, ông cũng có một căn bản hết sức vững chải, một số vốn liếng hết sức dồi dào. Văn bằng cử nhân Văn khoa, Văn học Việt Nam của ông chính cũng là một sự bảo đảm cho sự hiểu biết của ông. Sau những lời trình bày và nhận định trên, tôi xin nồng nhiệt giới thệu tập sách địa lý Dã Đàm Tả Ao này cùng quý vị độc giả. Ước mong, đối với quý vị, tập sách này sẽ được đúng như lời cụ Tả Ao: Báu này yêu tựa ngọc vàng Được thì nên trọng nên sang, nên giàu Lấy tín lấy kính làm đầu Đạo có sở cầu, chí có ắt nên. Lọ là cưỡi hạc đeo tiền Trước tiên học lấy thần tiên trên đời... Sài gòn, ngày 10 tháng 4 năm 1974 LỜI NÓI ĐẦU Năm 1969 tập Địa Lý Tả Ao (Địa đạo Diễn Ca) ra đời, trong đó chúng tôi có giới thiệu tập Địa lý thứ hai: Dã Đàm Tả Ao (Tầm Long gia truyền bảo đàm) tức là bộ này. Từ khi xuất bản cuốn thứ nhất cho đến nay, chúng tôi được biết luôn luôn quý vị độc giả mong mỏi có cuốn kế tiếp. Cuốn thứ hai, lẽ ra có thể xuất bản vào năm 1970 mà cho đến ngày nay 1974 nó mới ra đời, vì có nhiều yếu tố đặc biệt, mà chúng tôi xin trình bày lên quý vị, dưới đây: 1. Cuốn trước nặng về loan đầu, cuốn sau nặng về lý khí và hai cuốn này trở nên một cặp thư hùng về căn bản địa lý. Muốn được như vậy phải chuẩn bị cho nó thật chu đáo mới khỏi phụ lòng độc giả trông mong, mới xứng với tập trước và mới hoàn thành sứ mạng việc soạn thảo cổ thư. 2. Từ trước tới nay, đã có bao nhiêu man thư về địa lý mà toàn dựa vào lý khí để làm man thư nên cuốn này, nặng phần lý – khí, phải làm cho rõ đâu là chân và đâu là cái ngụy của khoa Địa lý, nên tác giả đã phải ôn lại trên mười bộ sách địa lý vừa cổ thư bí truyền vừa có bán trên thị trường để đối chiếu và loại bỏ đi những phần nào có thể dễ làm cho độc giả dễ nhầm lẫn, khi đọc nó. Ngoài ra, cũng phải phân biệt chỗ nào quan trọng, chỗ nào kém quan trọng để nhấn mạnh những chổ quan trọng, cho độc giả mau có ý thức chính xác về phần lý khí, để đỡ nhầm lẫn, bởi nhầm về lý khí thì rất tai hại. 3. Nói là lý khí, nhưng thực thể của nó vẫn là loan đầu. Nếu quân thực thể mà trình bày nguyên những gì trừu tượng, vẫn còn làm cho độc giả khó nhận chân, nên các phần lý khí trên sách đều được tác giả cố gắng dung hòa với loan đầu cho có cả thể (loan đầu) và dụng (lý khí) mới là toàn bích. 4. Phần lý khí, nói hết ra một cách quá phân tích sẽ làm mất hứng thú sáng tác của độc giả, và cũng sẽ lại tạo nên hậu quả tai hại là dễ nệ vào phân tích mà quên tổng hợp. Khoa địa lý cũng như nhiều khoa khác phải sử dụng cả phân tích lẫn tổng hợp cùng một lúc mới thành công. Do đó tác giả phải dấu những điều tỉ mỉ dễ nhầm lẫn, nhưng thập phần quan trọng vào những câu, những chữ mà chỉ những ai dùng sự tận kỳ tâm, tận kỳ đạo mới khám phá ra. Nếu chỉ đọc không, chỉ lĩnh hội được phần nào sự diệu ảo của nó và vừa đủ cho kiến thức thông thường về địa lý mà thôi. 5. Sau đây lại là sự dung hòa 2 quan niệm mâu thuẩn liên quan đến sự phổ biến khoa địa lý đã làm cho tác giả thắc mắc suốt thời gian soạn bộ sách này: a. Một là nếu không lưu lại sự chân truyền địa lý thì ít lâu sau khoa này sẽ mai một, đâu còn của báu của tiền nhân. b. Hai là các chân sư sợ rằng “kẻ tục” sẽ tạo nên thị trường địa lý, dù chưa tinh thông. Như vậy sẽ gây tai hại cho đời, nếu sự phổ biến nó quá dễ dàng. Sau khi hoàn tất bộ sách này, may thay tác giả đã cố gắng làm trọn được hai quan niệm mâu thuẫn nhau như trên, và các bậc chân sư, sau khi đọc xong bản thảo, đã thở phào nhẹ nhõm và nói: “Viết sách Địa lý như thế này thì thật là tuyệt diệu. Một trăm, một ngàn năm sau, 2 bộ sách này vẫn là sách chân địa lý. Đời sau đọc nó không còn chê trách tiền nhân ở điểm nào. Thôi chúng tôi cũng an lòng và tán thành việc xuất bản nó”. Mong rằng quý vị độc giả thông cảm cho những nổi thắc mắc trình bày ở trên. Để cho có toàn bộ chân địa lý cho người Việt Nam chúng tôi sẽ khai thác các sách địa lý có giá trị như: 1. Địa lý Tả Ao tiên sinh truyền (của cụ Tả Ao). 2. Lưu Xá Hòa Chính bí truyền địa pháp (của cụ Hòa Chính) 3. Dương gia bí pháp (phối hợp địa lý với các khoa địa lý học Đông phương). 4. Bích ngọc kinh (cổ thư địa lý Trung Hoa). 5. Thanh nang kinh (cổ thư Địa lý Trung Hoa). Từ mấy trăm năm nay sách địa lý có rất nhiều, nhưng phần lớn là man thư, năm bộ sách nêu trên được coi là bậc nhất chân thư. Các bậc tiền bối của chúng ta, chỉ mong mỏi kiếm làm sao cho được một hai bộ trong năm bộ sách kể trên nghiên cứu, là mãn nguyện. Chúng tôi đã dịch xong bộ thứ nhất: Địa Lý Tả Ao tiên sinh truyền. Bộ Địa Lý Tả Ao tiên sinh truyền sẽ ra mắt quý vị độc giả sau bộ này. Bên cạnh bản dịch có kèm theo nguyên bản để tiện tra cứu và so sánh. Chúng tôi được biết vì sự sao chép cổ thư cẩu thả nên hiện nay trên toàn quốc có tới 6 nguyên bản Địa Lý Tả Ao và bản này được coi là chính bản Sau hết chúng tôi cũng xin thưa trước cùng quý vị độc giả là bộ sách Dã Đàm Tả Ao này được trình bày khác bộ Địa Lý Tả Ao xuất bản năm 1969. Bộ Địa Lý Tả Ao nặng về mô tả và định nghĩa thì bộ Dã Đàm Tả Ao lại bắt đầu thoát phép mô tả, để tiến lên phần luận. Phần luận sẽ làm cho nhiều quý vị mới học ưa thích vì nó như đưa quý vị đến nhiều khía cạnh đặc sắc hơn, nhưng nếu nệ vào nó quá sẽ nhầm lẫn, nên một số các vị chân sư đã muốn chúng tôi bỏ đi. Sau khi xét đi xét lại các vị lại đồng ý là có thể để được, vì nếu học cao hơn, nhất định phải vượt từ mô tả qua luận rồi đến triết mới có hy vọng đạt được phần cao nhất: “khai phóng mà vẫn không sai nhầm” của khoa Địa lý. Đạt được đến đây mới thành chân sư của khoa địa lý. Mong quý vị lưu tâm và chúc quý vị thành công. Xuân Giáp Dần 1974 Cao Trung DÃ ĐÀM TẢ AO Tầm – Long Gia - Truyền Bảo – Đàm CHƯƠNG THỨ NHẤT MỞ 1. Đấng làm quân tử đạo ta 2. Ơn vua, ơn chúa, ơn cha, ơn thầy. 3. Có làm báu cả xưa nay. 4. Văn chương, y dược, đạo này là ba 5. Lấy làm ba Bảo truyền nhà. 6. Song le địa lý thật là thần tiên 7. Học thầy khẩu thụ tâm truyền. 8. Nhiệm màu mọi vẻ, kính tin mười phần. 9. Đạo cao, đức trọng, chưng thân. 10. Hổ long liên phục, quý thần liên kinh. 11. Đức, nhân vốn ở cả mình. 12. Trước là tích đức, sau là tầm long. CHƯƠNG THỨ HAI TỪ LONG KHỞI TỔ ĐẾN HUYỆT TRƯỜNG 13. Nẻo xa liền hỏi tổ tông. 14. Bởi đâu hòa đến mạch long địa hình 15. Nước phân chữ bát phân minh 16. Hai bên chảy thuận, loan hình tống long. 17. Cửa trời, trên đã mở thông 18. Thượng phân là đấy, chính long thực vào. 19. Đến đâu hai nước tống giao 20. Ấy dưới cửa đất, đóng vào cẩn thay 21. Hạ hợp là đất vậy vay 22. Nơi chính thủy tụ, thực hay chẳng nhầm. CHƯƠNG THỨ BA 24 LONG NHẬP THỦ 23. Đáo đầu nhất tiết hạ chàm 24. Thấu long cho biết lai lâm chữ gì. 25. Biết phương Nam Bắc Đông Tây 26. Hai mươi bốn vị, can chi chữ nào CHƯƠNG THỨ TƯ ÂM DƯƠNG THEO LÝ KHÍ 27. Nhận xem cho biết long vào 28. Âm long, âm hướng, thủy toàn phóng âm 29. Dương long, dương hướng chớ nhầm 30. Thủy phóng dương vị, luận âm dụng gì? CHƯƠNG THỨ NĂM ÂM DƯƠNG THEO HÌNH THẾ CAO THẤP 31. Âm dương lại có phép kia 32. Âm lai dương thụ, âm su dương hồi 33. Âm là gò đống đất ghềnh 34. Dương là ruộng phẳng đất bằng như lai 35. Núi non kia cũng âm hoài 36. Long cường thì chớ huyệt nơi cao cường 37. Long nhược nơi thấp chớ màng 38. Lai dương hỏa lại dương thì bằng chi. CHƯƠNG THỨ SÁU LONG TẢ TOÀN VÀ LONG HỮU TOÀN 39. Ruộng giống ngọc sích tiện vi 40. Dương tả, âm hữu, long chia hai đường 41. Tích phòng Đông chí sinh dương 42. Nãi dương Giáp Tý khí sương tả hành 43. Khởi tự Hợi, Tý phân minh. 44. Tiến lên ngăn ngắn, thuận hành tả biên 45. Qua Dần, Mão đến Tuất, Càn 46. Chuyển Hợi nhập cuộc, chi huyền phân minh 47. Quần tiên đi, có tống nghinh 48. Mạch nào bên hữu đã đành chân long 49. Xa nhận nước ở tả cung 50. Dương thủy chẩy lại, hội đồng thiên tâm. 51. Đạo trời hạ chí sinh âm. 52. Nãi âm Giáp Tý khí lâm hữu toàn. 53. Tòng Tý nghịch suy Hợi, Càn 54. Qua Dậu, Thân, Tuất đến bên Mão, Dần. 55. Nghịch hành về Cấn, Sửu hành. 56. Chuyển tả nhập cuộc ấy phần Dương long 57. Dù hòa thấy nước hữu cung. 58. Âm thủy chảy lại hội đồng giao dương 59. Âm long dương thủy đã tường. 60. Dương long, âm thủy đôi đường gặp nhau. 61. Bên trước nước đã hợp thâu. 62. Lại nhận có đống bên sau chăng là 63. Hoành long thì nước thực thà. 64. Dù chẳng có nước ắt là đối không 65. Âm dương đã có thư hùng 66. Cửa nhà đã hợp vợ chồng liên giao. 67. Ắt là khí dựng thai bào 68. Tự nhiên sinh dục, lẽ nào vậy vay 69. Chân long chính huyệt ở đây 70. Ấy đất hoành kỵ lời thầy truyền ta 71. Kết thoái dư khí còn xa 72. Hoặc đi trăm dặm mới ra chiêu thần. CHƯƠNG THỨ BẢY THỦY PHÁP 73. Muốn sinh: tử tức, vượng nhân. 74. Thì tim sinh vị bản thần triều lai 75. Muốn thăng: quan tước, lộc tài 76. Thì tìm Vượng vị, thủy lai hội đường. 77. Cứ nơi mạch ấy cho tường 78. Tả thuận hữu nghịch, đôi đường cho thông. 79. Lập huyệt, tọa hướng, mới dùng 80. Cứ phép bão lại, Huyền Không Ngũ Hành. 81. Cứ như thủy pháp Nang Kinh 82. Kim, Mộc, Thủy, Thổ thông minh như lề 83. Năm hành phỏng luận mộc vi 84. Bính mộc Giáp, Ất, Giáp thì mộc dương 85. Ất là âm mộc đã tường 86. Phỏng đây suy biết âm dương ngũ hành. 87. Cứ đó mà khởi tràng sinh. 88. Giáp sinh tại Hợi, Ất dành Ngọ cung 89. Hợi thuận, Ngọ nghịch hai dòng. 90. Hẳn còn xuôi ngược cho thông một vì 91. Nước sinh nước vượng chầu về 92. Nước Tử, nước Tuyệt chảy đi mặc lòng. 93. Cứ hướng làm chủ bản cung 94. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa cho thông hướng nào. 95. Nhất thì được nước sinh vào 96. Nhì thì được nước khắc vào hướng ta 97. Mong sao sinh khắc đến ta. 98. Là nước ấy có ích chí ta hòa dùng. CHƯƠNG THỨ TÁM LUẬN: THẤU LONG 99. Phép trong Ngọc sích đã thông. 100. Bèn mới lại luận thấu long cho tường 101. Nhâm long ngôi ở đầu hàng. 102. Bính Tý chính khí một phương chớ rời. 103. Khảm Long, Canh Tý chính ngôi. 104. Quý long: Đinh Sửu là nơi bản về 105. Sửu long: Tân Sửu kể đi 106. Cấn long chẳng lệch hào ly: Mậu Dần 107. Dần long: chính khí Nhâm Dần. 108. Giáp long: Đinh Mão là phần chính cung. 109. Mão long: Quý Mão thì dùng. 110. Canh Thìn chính khí: Ất long đang quyền. 111. Thìn long: chính khí Giáp Thìn. 112. Tốn long: Tân Tỵ đã yên một dòng. 113. Tỵ long: Ất Tỵ thấu long 114. Bính long: Nhâm Ngọ phép trong nhiệm mầu. 115. Ngọ long: Bính Ngọ làm đầu. 116. Thánh hiền truyền dậy trước sau ghi lòng. 117. Quý Mùi: là chính Đinh long 118. Mùi long: Đinh Vị, Khôn dòng: Giáp Thân. 119. Mậu Thân: chính khí long thân. 120. Canh long: Ất Dậu là phần chính Canh. 121. Kỷ Dậu: chính khí Đoài tinh 122. Bính Tuất: chính khí địa hình long Tân. 123. Tuất long: Canh Tuất bản phần 124. Càn long: Đinh Hợi sai phân chớ hề. 125. Hợi long, Tân Hợi một vì 126. Dành dành chính khí thấu suy đã tường. CHƯƠNG THỨ CHÍN LUẬN: HƯỚNG HUYỆT CỦA 24 LONG 127. Lai luận: long, hướng các phương. 128. Tà khí, tạp, bác, âm, dương cho thuần. 129. Nhâm long: ba hướng khả phân. 130. Phương: Ngọ, Khôn, Ất xoay vần kể chi. 131. Tý Long: Khôn hướng về một bề 132. Quý long: hay huyệt hướng về Ngọ, Khôn 133. Sửu long: Bính hướng vi tôn 134. Cấn long tám huyệt kể tồn từng ngôi: 135. Bính, Đinh, Canh, Tân, Tỵ, Mùi 136. Tốn, Đoài tám hướng, trạch chính an ngôi 137. Dần long: hai hướng Khôn, Thân 138. Giáp long: định hướng về phần Càn Khôn 139. Mão long: bốn hướng kể rồn 140. Canh, Tân, Đinh, Hợi đã yên một bề 141. Ất long: khôn hướng một vì 142. Thìn long: hai huyệt hướng về Càn, Khôn 143. Tốn long: Tân, Hợi, Cấn môn 144. Dụng ba hướng ấy là khôn sánh tày 145. Tỵ long: một hướng Hợi thần. 146. Bính long, bốn huyệt kể bày làm nơi 147. Hợi, Canh, Tân, Cấn, hướng ngôi 148. Ngọ long: hai hướng về trời: Quý, Nhâm 149. Đinh long: Cấn, Hợi thuần âm. 150. Mùi long: một hướng cục nhằm: Cấn ly 151. Khôn long: phương Quý hướng đi 152. Thân long: Quý, Giáp hai vì cho minh 153. Hướng: Mão, Cấn là long Canh 154. Cấn, Tốn, Tỵ hướng đã đành: Dậu Long 155. Tân long: Tốn, Mão, Cấn cung 156. Ngồi một hướng Ất: Tuất Long địa bàn 157. Cùng theo hướng Ất: Long Càn 158. Bính, Tốn, Đinh hướng Long đồng: Hợi long CHƯƠNG THỨ MƯỜI KẾT LUẬN 159. Âm long, Âm hướng thủy đồng. 160. Dương long, Dương hướng Thủy cung một bề 161. Âm, Dương đều đã hòa suy 162. Mọi đều nhiệm nhặt, trước suy đã tường. 163. Báu này, yêu tựa ngọc vàng 164. Được thì nên trọng, nên sang, nên giàu. 165. Lấy tín, lấy kính làm đầu. 166. Đạo có sở cầu, chí có ắt nên. 167. Lọ là cưỡi hạc, đeo tiền 168. Trước tiên học lấy thần tiên trên đời 169. Ắt là gọi có chúa tôi. 170. Mưa móc ơn trời, phúc thay thượng thư 171. Hòa nhà phú quý phong lưu 172. Con con, cháu cháu thiên thu dõi truyền. 173. Đến khi vui đạo Thánh Hiền 174. Ứng lời học trước, thần tiên chép bàn. TẢ AO TIÊN SINH Tờ 1. Nguyên bản TẦM LONG GIA TRUYỀN BẢO ĐÀM Tờ 2. Nguyên bản Tầm Long Gia Truyền Bảo Đàm Tờ 3. Nguyên bản TẦM LONG GIA TRUYỀN BẢO ĐÀM Tờ 4. Nguyên bản TẦM LONG GIA TRUYỀN BẢO ĐÀM Tờ 5. Nguyên bản TẦM LONG GIA TRUYỀN BẢO ĐÀM Tờ 6. Nguyên bản TẦM LONG GIA TRUYỀN BẢO ĐÀM CHƯƠNG THỨ NHẤT MỞ 1. Đấng làm quân tử đạo ta 2. Ơn Vua, ơn Chúa, ơn Cha, ơn Thầy Tìm hiểu học thuật tư tưởng trong văn học sử Việt Nam , kể từ nhà Đinh là thời kỳ bắt đầu được tự chủ cho đến đời cụ Tả Ao, ta thấy có 4 giai đoạn: 1. Thời Đinh, Lê (tiền Lê), mỗi triều đại chỉ được một hai đời vua. Hai triều đại này vì dùng võ công tranh thủ tự chủ, và tư tưởng, học thuật chưa được phát triển, do đó chưa tạo lập được văn hóa độc lập, làm nền tảng cho văn hóa chỉ đạo dân tộc. Rồi khi sức mạnh quân sự không còn nữa, là tàn rụi. Đấy là lý do sâu xa của sự ngắn ngủi 2 triều đại Đinh, Lê. 2. Đến đời Lý, nhờ có Vạn Hạnh thiền sư, sau khi giúp Lý Công Uẩn lên ngôi cửu ngũ, lại khéo đem Phật học, dung hòa Nho và Lão - tạo ra tinh thần tam giáo làm nòng cốt cho tư tưởng, học thuật, nên quốc gia bền vững và nhà Lý làm vua đến 8 đời. 3. Tiếp theo, đời Trần nhờ sẵn tinh thần tam giáo hun đúc từ Lý triều, khả dĩ có sức mạnh tinh thần tiềm tàng đáng kể, lại thêm có vua Thánh, tôi Hiền cũng nên cũng thịnh trị và chiến thắng oanh liệt được quân Nguyên, giữ được nền độc lập để tiếp tục phát huy văn hóa dân tộc. Ngoài ra nhà Trần lại cố gắng phát triển Nho học, để xã hội được tổ chức theo kịp trào lưu văn minh Nho giáo (dù các Vua nhà Trần đều mộ đạo Phật). Đạo Nho nhờ đó mới có cơ sở và trường thành được vào Triều Lê. 4. Đến đời Lê thì Nho giáo không những trưởng thành, mà còn trở nên gần như lấn át cả Phật và Lão. Đóng vai trò quan trọng trong tinh thần tư tưởng học thuật Việt Nam . Cụ Tả Ao sinh vào cuối đời Lê dù là nhà địa lý cũng bị ảnh hưởng sâu đậm của tinh thần này, nên câu mở đầu bài Tầm Long Gia Truyền Bảo Đàm, ta đã thấy ngay tinh thần nho giáo. (1) Đấng làm quân tử đạo ta Đạo ta là đạo làm người quân tử của Nho giáo. Nho giáo phân biệt 2 hạng người: Quân tử và tiểu nhân. Người quân tử thì phải lấy tam cương và ngũ thường làm gốc, kẻ tiểu nhân thì không thể. Tam cương là: - Quân (Vua) - Sư (Thầy) - Phụ (Cha) Ngũ thường là: - Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín Rồi đến câu thứ hai, cụ phải trước tiên, chứng tỏ tinh thần tôn quân: ơn Vua, Chúa trước rồi đến Cha và Thầy sau. (2) Ơn Vua, Ơn Chúa, Ơn Cha, Ơn Thầy Nhưng đời cụ Tả Ao có vua Lê lại có cả Chúa Trịnh nữa, mà Chúa Trịnh lại quyền hành hơn Vua Lê, nên cụ Tả Ao không dám chỉ nói đến vua, mà phải nói đến cả Vua lẫn Chúa, cho Chúa Trịnh khỏi nghi ngờ (ơn Vua, ơn Chúa, ơn Cha, ơn Thầy). (3) Có làm báu cả xưa nay (4) Văn chương y dược đạo này là ba Các nho sĩ chú trọng nhất là văn chương, nhì đến y lý, ba đến địa lý và cuối cùng đến lý số. Cái học của Nho gia không phải chỉ giới hạn vào từ chương, thơ phú mà là môn học bao gồm kiến thức của người cán bộ Nho giáo, trong đó có phép giữ đạo làm người (đạo đức), rồi đến cách thờ Vua giúp nước (kể cả chính trị lẫn quân sự). Một nho sĩ muốn là nhà chính trị và quân sự giỏi, thì trên phải thông thiên văn, dưới phải đạt địa lý, ngoài ra phải biết các khoa bói toán, để trù liệu và hỏi thần linh những gì mà con người không thể quyết định được chắc chắn. Nhà Nho, nếu tiến lên thì làm quan. Khi lui lại thì phải “đạt vi sư”. Với quan niệm đó, nhà nho nếu một khi không làm nổi công nghiệp thì các cụ sẽ quay về nghiên cứu y lý để chữa bệnh cho thiên hạ, đó cũng là một cách hành đạo tiêu cực. Những y sĩ có tâm đạo chỉ cốt làm thuốc để giúp đời hơn là cốt làm giàu. Họ làm nghề này với mục đích chính là chữa bệnh cứu đời, dù có tiền hay không cũng chữa. Con bệnh nếu có tiền trả thì y sĩ cũng không nỡ tính tiền công quá đáng - Kẻ nghèo khó cũng được tận tâm săn sóc như người sẵn tiền. Có những vị làm thuốc chỉ mong đủ ăn. Thân chủ đông thì lại tính tiền thuốc nhẹ đi. Nhiều vị, chỉ tính tiền thuốc sao cho đủ chi dùng một cách khiêm nhường, để hành nghề, chứ không mong là khi được đông thân chủ, lại càng tính giá cao, để làm giàu. Làm thuốc như vậy, cũng là một cách thế hành đạo ở đời. Sau Y Lý đến khoa địa lý. Nếu nho học, các cụ gọi là đạo nho, y lý cũng là đạo làm thuốc thì khoa địa lý cũng là đạo địa lý, bởi vì nhà chân địa lý, cũng dùng sự hiểu biết của mình để làm việc chu toàn mối đạo, mà thánh hiền đã đề xướng. Đạo địa lý khác hẳn những thầy địa lý “xôi thịt”. Người xưa học địa lý trước là báo hiếu. Họ cố tìm cho được ngôi đất kết để giữ nắm xương tàn của cha mẹ cho lâu tiêu hủy thành đất. Họ nghĩ rằng khi xương cốt ông bà, cha mẹ, chưa thành đất, thì người vẫn có thể, luôn luôn trở về, sống trên bàn thờ, ở trong gia đình, với con cháu phù hộ và giúp đỡ con cháu, cùng dự phần vui buồn với người sống. Sau nữa, nếu được đất kết thì con cháu cũng nhờ có ngôi đất đó mà làm ăn hưng phát, dài dòng lớn họ, vẻ vang cho người đã quá cố. Ngoài ra, nhờ có đất kết, mà dòng giỏi trở nên trâm anh, thế phiệt, giữ được danh thơm truyền thống và để cha mẹ đã quá cố cũng được vui lòng, dù người đã không còn sinh sống với con cháu, trên cõi trần gian này nữa. Học địa lý, ngoài cách báo hiếu như kể trên,, các cụ còn dùng sự hiểu biết địa lý của mình để làm việc nghĩa. Các cụ thấy ai nhân đức, hiền lành, mà quá nghèo, hoặc không có con trai nối dõi, thì các cụ có sứ mạng thay trời giúp cho người nhân đức đó một ngôi đất “cứu bần” hoặc “thêm đinh”. Cũng có khi các cụ dành những ngôi đất kết rất lớn cho những ai có công với quốc gia xã hội. Các cụ tin rằng làm địa lý giúp đời như thế, lại còn tạo thêm đức cho nhà mình cũng như là mình làm một nghĩa lớn vậy. Ngoài ra, nhà địa lý chân chính, không bao giờ vì tiền, mà để đất lớn cho những người kém đức. Làm địa lý với ý hướng như trên, cũng là hành đạo như chân nho sĩ và chân y sĩ. Do đó, cụ Tả Ao cho khoa địa lý cũng là đạo, và văn chương, y dược, địa lý là ba đạo: (4). Văn chương, y dược đạo này là ba Nho, y, lý, số là 4 nghệ của nho sĩ, nhưng lý số các cụ cho là phụ, vì khoa bói toán ít thiết yếu cho việc hành đạo. Các cụ chỉ quý có 3 thứ trên: Nho, Y và địa lý. Các cụ gọi 3 khoa này là 3 của báu của con người tri thức. Nếu có gì sở đắc thì nên truyền lại cho con cháu để hậu thế dễ có phương tiện, tiếp tục hành đạo. (5). Lấy làm ba bảo truyền nhà Tuy khoa địa lý là của báu thứ ba, trên khía cạnh hành đạo, nhưng khoa nàylại có một cách thế đặc biệt, khiến cho người có tâm hồn phóng khoáng, yêu thiên nhiên, cỏ cây, non nước, khi thực hành thì nó thấy mình có những thú vị thần tiên. (6). Song le địa lý thật là thần tiên Tâm hồn Á Đông (là tâm hồn tổng hợp) khác với Tây phương (chú trọng về phân tích). Tây phương: có làm việc, dĩ nhiên họ có du hý, nhưng sự làm việc và du hý bên Á Đông lại liên kết với nhau một cách chặt chẽ hơn Tây Phương. Ta thấy những văn thơ tỏ ý chí hành động của người Á Đông, luôn luôn có ý chí hành lạc bên cạnh. Những thơ văn của Nguyễn Công Trứ, tỏ rỏ sự bất phân biệt hành lạc và hành động, một cách rõ rệt. Con người tổng hợp Á Đông khi hàn vi nhàn du thì nghĩ đến sẽ thực hiện chí hướng và khi đang thực hiện chí hướng lại mơ màng đến sự hưởng lạc cho tâm hồn được quân bình. Thế mà khoa địa lý lại còn hơn thế nữa, nó cộng luôn việc làm với hưởng lạc vào một lúc. Con người địa lý ra ngoài thiên nhiên tìm đất kết, đồng thời họ thực hiện các cuộc thú vui du sơn du thủy. Cái thú “Ngao du nơi hàn cốc, thanh san” là cái thú hưởng lạc với thiên nhiên của Nguyễn Công Trứ, sau khi công thành danh toại, sau khi đã sống đủ và đã làm trọn chí trai. Nhưng với nhà địa lý thì hành lạc lại đồng thời một lần với hành nghề. Ngao du đó đây là cách hành lạc của đạo Lão, đạo Tiên. Đi vào thiên nhiên, nhìn núi xanh, mây trắng, ánh chiếu vàng, nhìn cỏ non đượm sương mai lóng lánh, nghe suối chảy rì rào bên rừng thu vắng, đem nhân giới nhập vào nhiên giới, nối cái hữu hạn của loài người vào cái vô hạn của vũ trụ, là thú thanh tao, thần tiên, say đắm, thích hợp cho tâm hồn có vũ trụ chi tâm. (6) Song le địa lý thật là thần tiên Khoa địa lý, nếu ta gọi là một nghề, thì nghề này cũng có nghệ thuật như các nghề thơ, họa, kiến trúc v.v... khác. Có nghệ thuật thì có sáng tác. Khoa địa lý trong lúc hành nghề, tâm trạng con người khi nhìn núi sông sắp xếp do thiên nhiên, họ thấy sống động khác thường. Sống động theo lẽ biến dịch đủ cả âm dương, ngũ hành của dịch lý. Họ không coi đất đai đồi núi là những vật vô tri, xa lạ mà coi nó như những sinh vật rất gần gũi với người. Đó là phép nghi nhân và thác vật của những tâm hồn nghệ sĩ. Trong câu thơ “Gió đưa cành trúc la đà” ta thấy vật giới (cây trúc) cũng ngã nghiêng la đà, như con người say cảnh thiên nhiên lòng rộn nỗi niềm. Nhà thơ mời Hàn Mạc Tử cũng đưa sinh khí, cảm giác của con người vào tĩnh vật; một hình thức thác vật rất sinh động: “Chiếc thuyền im bến mới trở về nằm. Nghe chất muối thắm dần trong thớ vỏ”. Thác vật, để cho vật vô tri trở thành có ý nghĩa, có sinh động thì nhà Địa lý nhà nghệ sĩ thiên nhiên với quan niệm dịch lý cũng nhìn toàn thể vật vô tri như: sông núi, cỏ cây, là những cái gì sống động, có sinh hoạt như người, sinh hoạt theo dịch lý. Này, núi cao là tượng âm thì chỗ thấp, bằng là dương, núi chủ tĩnh thì nước ngược lại, chủ động. Mạch đang âm (cao) thì chạy đến chỗ kết huyệt, nó phải đổi sang dương (bằng) cũng như mạch chạy dương (bằng) thì kết huyệt lại chuyển âm (cao). Thậm chí trong vỏ đất, họ cũng cho là có luồng sinh khí luân lưu, chạy từ tổ sơn về, theo núi phân chia ra nhiều mạch, mỗi mạch chạy đến chỗ nào đủ hợp, đủ độ âm dương thì khí mạch đó tụ lại, kết huyệt, cũng như ngựa cây trong thân cây đến chỗ nào tụ lại thì đâm bông, kết trái, tạo nên sự hiển dương tinh hoa của cây cỏ. Nhìn thế đất từ tổ sơn đi ra, họ cũng có quan niệm như nhìn cuộc di hành của một đám rước, hoặc cuộc đưa đón một đại quan trên lộ trình. Khi đang đi, thì có long, sa và thủy, hộ vệ, hai bên quân gia, tiền hô, hậu ủng, khi kết huyệt thì giống như chỗ khai triều của vị Đế Vương hay nơi khai đường của một vị Đại quan; cũng có tứ linh xung quanh, có bút nghiên ở gần, có án ở đằng trước, có kỳ ở sau lưng, có tay phải tay trái ôm vòng như vị đường quan hoặc vị đế vương ngồi nghị sự, ngồi khai triều phê sớ, phê án v.v... hoặc khung cảnh vị võ quan đang chỉ huy ba quân. Cách thác vật và ghi nhân của nhà địa lý sinh động như thế. Những cuộc đất nhỏ độ vài mẫu, lớn độ vài chục, vài trăm, vài ngàn mẫu đều được thu vào nhãn quan họ, thành những hiện trạng, tuy đa hình, không cuộc đất nào giống cuộc đất nào, nhưng cùng một nguyên tắc dịch lý, thoát thai của triết học Đông phương: Thế rồi, những nhà địa lý, mỗi khám phá ra một cuộc đất là một sáng tác khác nhau. Mỗi sáng tác lại cho nhà địa lý thêm một số tiền kinh nghiệm để làm vốn sáng tác những thế đất kế tiếp khác. Kỳ lạ là sáng tác lại là công việc tìm ra vẻ đẹp của cái gì đã có sẵn trong thiên nhiên. Mỗi lần đối cảnh lại mỗi lần sáng tác thêm. Như vậy nhà địa lý cũng là nhà nghệ sĩ thiên nhiên và nói cách khác là nhà nghệ sĩ “thần tiên” với tinh thần đó, nhà nghệ sĩ Tả Ao hạ bút phê câu: (6) Song le địa lý thật là thần tiên thì thật là tuyệt. (7) Học thầy khẩu thụ tâm truyền (8) Nhiệm màu mọi vẻ kính tin mười phần Hai câu trên cụ Tả Ao muốn xác định lại giá trị của khoa địa lý. Từ trên cả ngàn năm nay, nó là khoa bí hiểm nhất của huyền học Á Đông. Có nhiều chứng cớ cho thấy là nó có thật. Đó là những ngôi đất kết phát, tạo ra bao nhiều anh hùng, hào kiệt, vua chúa, phú ông, văn sĩ v.v... Nhưng mặt khác, nó lại gieo vào lòng nhiều người mối nghi ngờ, bởi có nhiều người học nó mà không đạt được kết quả, dù những vị đó là những nhà khoa bảng, tiến sĩ, cử nhân, văn hay, chữ tốt, học rộng tài cao! Cho đến nay mối nghi ngờ đó vẫn còn làm nhiều người nghiên cứu nó phải thắc mắc, nhất là các nhà học giả tây phương đã đem các phương pháp khoa học để tìm hiểu nó, giải thích nó mà hình như nó vẫn lẫn trốn. Những sách khảo cứu về địa lý của Tây phương, có rất nhiều nhưng có một quyển sách mà người Âu Tây cho là có giá trị nhất do học giả Ernest J Eitel...M.A.Ph.D of the London Missionary Society viết. Sách này được dịch ra nhiều thứ tiếng. Một vị giám đốc viện bảo tàng Quimet của Pháp tên là M.L.de Moutillé cũng dịch quyển này sang tiếng Pháp lấy tên là: FENG SHOUI ou Principes de sience nafurelle de Chine Sau khi đọc nó xong chúng tôi sực nhớ đến một cuộc đàm luận về địa lý và câu nói của một vị chân sư Địa lý Việt Nam đã 40 năm nghiên cứu và thực hành địa lý như sau: “Khoa địa lý này, người Âu Châu đã nhiều trăm năm cố khám phá, trong đó có cả các vị Cố đạo, các nhân viên các tòa đại sứ. Nhưng đến nay họ vẫn không đạt được chân địa lý”. Chúng tôi hỏi về lý do thì vị này trả lời “Phi người Á Đông có tâm hồn đạo, tâm hồn dịch lý của Á Đông, gặp được chân sư chỉ điểm, có chân thư để học và yêu nó rồi thực hành nó nhiều năm trên đất thì không thể nào đạt được khoa này. Suy ngẫm ra, riêng tôi thấy là đúng vì quyển sách coi là giá trị về Địa lý mà người Âu Tây đắc ý kể trên, sau khi xem xong, riêng tôi cũng nhận thấy quyển đó chưa trình bày được 1/3 chân địa lý, bởi lẽ giản dị nhất là nó mới chỉ có cái nhìn vật chất và phân tích một cách phiến diện mà thôi. Có vị hỏi thế còn sách Địa lý bằng chữ Hán thì sao? Có giá trị và đầy đủ không? Thưa rằng: Khoa Địa lý có nhiều bí ẩn liên quan đến sự thực hành trên đất mà các sách không sao nói được hết. Nghiên cứu nó mà không có thì giờ thực hành thì dù có sách hay cũng phải thiếu sót quá nữa. Có thực hành mà không được chân sư thì điểm cho thì cũng tốn nhiều công lao vô ích: Thì đây cụ Tả Ao, con người học được chân thư, chân sư và thực hành địa lý mấy chục năm liền đã chỉ cho ta biết khoa Địa lý thuộc về tâm học chỉ thụ đắc khi được khẩu thụ tâm truyền: (7) Học thầykhẩu thụ, tâm truyền (8) Nhiệm màu mọi vẻ kính tin mười phần Nghĩa là ngoài sách vở ra, muốn nắm bắt được hết tinh hoa của Địa lý phải có chân sư tâm truyền và truyền bằng miệng (khẩu thụ) mới hết chỗ ẩn ảo. Được như vậy mới học được hết nhiệm màu của địa lý và lúc đó mới thấy đúng, mới tin tưởng địa lý. (9) Đạo cao đức trọng chung thân (10) Hổ long liên phục, quỷ thần liên kinh. Tuy nhiên phần kết luận ở lời mở này, cụ cũng cho biết là dù có giỏi địa lý cũng chưa chắc hưởng được đất quý, nếu không có đạo cao đức trọng. Hình như có quỷ thần trông coi các ngôi đất lớn. Có đạo cao đức trọng, sẽ có phúc mà người có phúc thì mới xứng đáng được đất lớn, mà không có hại. Hai câu trên cụ Tả Ao lấy ý nghĩa của câu chữ Hán dưới đây: Đạo cao: long, hổ phục (đạo cao rồng, hổ cũng phải phục). Đức trọng: quỷ thần kinh (đức trọng quỷ thần cũng phải sợ) để nhắc ta cần tu nhân, tích đức, trước khi lo việc tìm đất kết. (11). Đức nhân vốn cả ở mình (12). Trước là tích đức sau là tầm long Đất kết là của báu của thế gian trời dành cho người có đức. Đức không phải tự nhiên rơi xuống cho mà chính con người phải tạo ra mới có. Có đức rồi sau mới nên tìm đất kết. CHƯƠNG THỨ HAI TỪ LONG KHỞI TỐ ĐẾN HUYỆT TRƯỜNG 13. Nẻo xa liền hỏi tổ ông. 14. Bởi đâu hòa đến, mạch long địa hình 15. Nước phân chữ bát phân minh 16. Hai bên chảy thuận, loan hình tống long 17. Cửa trời, trên đã mở thông 18. Thượng phân là đấy, chính long thực vào. 19. Đến đâu, hai nước tống giao 20. Ấy dưới của đất, đóng vào cẩn thay 21. Hạ hợp, là đấy vậy nay 22. Nơi chính thủy tụ, thực hay chẳng nhầm. . (Còn tiếp - dienbatn ) .
-
. Nói thêm Nhân tiện nói về long tả toàn và long hữu toàn, cụ Tả Ao nói thêm những gì ở chỗ long gặp thủy. 61. Bên trước nước đã hợp thâu. 62. Lai nhận có đống bên sau chăng là. Hai câu này là 2 câu chuyển, đại ý như sau: Trên kia đã nói về nước gặp long Bây giờ nói đến phần đất ở chỗ nước gặp long đó, phần đất này có khi là thuận long (đi xuôi theo chiều nước). Có khi là nghịch long (đi ngược chiều nước). Có khi là hoành long (xoay ngang chiều nước chảy). Với 3 thế long này, cụ Tả Ao chỉ lưu ý đến thế Hoành long vì nó có cách đặc biệt: 63. Hoành long thì nước thực thà. 64. Dù chẳng có nước, ắt là đối không. Có nghĩa là khi long quay ngang ra thường xa nước Chính (tức dòng nước lớn) xa như thế nên hay bị cạn nước ở minh đường (nước thực thà). Cũng có khi xa quá, đến nổi không có nước ở minh đường nữa (đối không). Tiếp theo cụ nói thêm về sự có âm dương phối hợp, chắc chắn có đất kết. 65. Âm dương đã có thư hùng. 66. Cửa nhà đã hợp vợ chồng liên giao. Có nghĩa là nếu có âm dương gặp nhau như: a. Âm thủy hội với dương thủy hay dương thủy hội với âm thủy hoặc b. Long đi chiều dương gặp thủy đi chiều âm hay là long đi chiều âm gặp thủy đi chiều dương. Là đực gặp cái hay cái gặp đực, hay nói cách khác: thư gặp hùng (âm gặp dương) hay hùng gặp thư (dương gặp âm). Sinh vật sinh sôi, nẩy nở là nhờ có âm dương phối hợp thì khoa địa lý cũng có âm dương phối hợp mới tạo ra được đất kết. Âm dương phối hợp cũng như vợ chồng làm sứ mạng truyền giống (liên giao). Mà đã làm sứ mạng truyền giống thì xảy ra: 67. Ắt là khí dựng thai bào. 68. Tự nhiên sinh dục lẽ nào khác vay. Ắt là có thai (khí dựng thai bào) Tự nhiên sẽ sinh đẻ (tự nhiên sinh dục) chứ còn gì nữa Còn đất nếu cũng theo đúng định luật của dịch lý: “Có âm dương, có vợ chồng”. Dẫu tử thiên địa cũng vòng phu thê”. Cũng phải có âm dương phối hợp chặt chẽ, mới tạo ra được đất kết. Nếu không được như thế thì không có kết quả, đây là định luật quan trọng chi phối toàn thể khoa địa lý. Người có người đẻ ra con trung hiếu, hiền lương hay ác độc thì đất cũng có đất sinh nhân làm rạng danh dòng họ hoặc là sinh ra phường trộm cắp, ngu si. Đến đó phải còn nhiều yếu tố phải bàn đến nữa như long, sa, thủy, hướng, huyệt... Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng sau. Cụ Tả Ao còn nói thêm sự kết phát là do chân long chính huyệt. Chân long, chính huyệt không thể bỏ qua luật âm dương phối hợp, đã trình bày ở trên. 69. Chân long chính huyệt ở đây Đến đây, Cụ Tả Ao lại xoay sang vấn đề đất hoành kỵ. 70. Ấy đất Hoành Kỵ lời thầy truyền ta. Trên đã nói đất Hoành long rồi bây giờ nói đến Hoành kỵ. Hoành kỵ phải có chỗ khác Hoành long. Hoành là ngang, Kỵ là cưỡi. Đất hoành kỵ là huyệt kết ở trên lưng hoành long. Chỗ đất kết ở trên lưng trông như người cưỡi trên lưng rồng, lưng ngựa, nên gọi là hoành kỵ. Nếu đất kết trên đầu long thì sau đất kết một chút là tới minh đường. Còn đất kết trên lưng long thì long còn chạy lâu nữa mới tới minh đường. Kết hoành kỵ mà huyệt kết còn ở xa minh đường còn được gọi là kết thoái. Chỗ đất tiếp theo huyệt kết này các cụ gọi là chiêu thần. Vì chiêu thần ở đất kết thoái này dài hơn chiên thần ở đất kết thường, nên cụ Tả Ao cho biết: 71. Kết thoái dư khí còn xa. 72. Phải đi trăm dặm mới ra chiên thần. Kết thường thì dư khí (chiên thần) còn một ít thước nữa là đến minh đường, nhưng kết thoái (đất hoành kỵ) thì dư khí (chiên thần) có khi đi đến rất xa mới hết, mới đến minh đường. Cái khó của sự điểm huyệt và cũng ở khoa địa lý là những cái khúc mắc chúng tôi vừa trình bày, và sẽ trình bày nữa sau này. Sở dĩ bộ địa lý thứ hai này (Dã Đàm Tả Ao) chúng tôi phải sửa chữa kê cứu liền 4 năm mới dám cho xuất bản là vì phải cố gắng trình bày cho rõ ràng những chỗ khúc mắc. Tuy đã cố gắng lắm, nhưng khoa địa lý thật là mênh mông, nếu còn thiếu sót nào thì kính xin các vị chân sư chỉ giáo cho, chúng tôi rất đa tạ. CHƯƠNG THỨ BẢY THỦY PHÁP 73. Muốn sinh: tử tức, vượng nhân 74. Thì tìm Sinh vị, bản thần triều lai 75. Muốn thăng: quan tước, lộc tài 76. Thì tìm Vượng vị thủy lai hội đường. 77. Cứ nơi mạch ấy cho tường 78. Tả thuận, hữu nghịch, hai đường cho thông. 79. Lập huyệt, tọa hướng mới dùng. 80. Cứ phép bão lại: huyền không ngũ hành. 81. Cứ như thủy pháp Nang kinh 82. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa thông minh như lề 83. Năm hành phỏng luận một vì. 84. Bình mộc: Giáp, Ất – Giáp thì mộc dương 85. Ất là âm mộc đã tường 86. Phỏng đây suy biết: âm dương, ngũ hành. 87. Cứ đó mà khởi tràng sinh. 88. Giáp sinh tại Hợi, Ất dành Ngọ cung 89. Hợi thuận, Ngọ nghịch hai dòng. 90. Hẳn còn xuôi ngược cho thông một vì. 91. Nước Sinh, nước Vượng chầu về. 92. Nước Tử, nước Tuyệt chảy đi mặc lòng. 93. Cứ hướng làm chủ bản cung. 94. Kim, Mộc, Thủy, Thổ cho thông hướng nào. 95. Nhất thì được nước Sinh vào. 96. Nhì thì được nước Khắc vào hướng ta. 97. Mong sao Sinh, Khắc đến ta. 98. Là nước ấy có ích, chỉ ta hòa dùng. CHƯƠNG THỨ BẢY THỦY PHÁP Đây là thủy pháp, phần quan trọng, rắc rối nhất, và khó giải thích nhất, của Khoa địa lý, cụ Tả Ao nói sơ lược phần nhỏ nhưng là thực hành. Học địa lý mà không biết thủy pháp, thì chẳng bao giờ làm Địa lý nên. Lại nữa thủy pháp trình bày đầy đủ phải mấy trăm trang, mà đây Cụ Tả Ao thu vào có 26 câu, lại không sắp xếp theo lối thông thường của lý thuyết sách vở, thì làm sao không rắc rối được. Thủy pháp đã khó lại bị thu ngắn, lại trình bày trên một lề lối riêng biệt của cụ Tả Ao nên tác giả đã phải mất nhiều công phu nghiên cứu và trình bày lại. Đây cũng là một trong những lý do mà bộ địa lý này, bốn năm sau mới xuất bản được. Sau khi đọc hết phần thủy pháp mà chúng tôi giải thích dưới đây, nếu quý vị hiểu được một nửa, rồi rãnh rỗi, quý vị hoặc xem lại, hoặc thực hành trên đất, hoặc phúc lại những ngôi mộ cổ, vừa suy ngẫm về lời giải thích của chúng tôi để phát huy thêm những cái khác lạ nữa, mà chúng tôi, hoặc vì còn non kém chưa giải thích được hết, hoặc vì chúng tôi không dám giải thích dài dòng quá, mà sau một năm quý vị nắm được hết tinh thần (tài liệu mờ). Bởi vì nó là những điều bí hiểm về địa lý, mà xưa kia, chúng tôi phải “mòn gót giày, lỏng đầu gối” cũng phải trên mười năm mới hiểu được như thế. Những điều này, chúng tôi có khi theo thầy cả 2, 3 năm, chiều chuộng thầy, có khi hàng năm, mới được thầy “bố thí” cho một ít giải thích ân huệ. Trước khi giải thích phần thủy pháp này của cụ Tả Ao, chúng tôi thấy, nên nêu ra một số thắc mắc: 1. Một là có nhiều điều mà thủy pháp ở sách địa lý Trung Hoa tán dương, mà ở đây cụ Tả Ao lại bỏ đi. 2. Hai là cách trình bày của cụ Tả Ao xem ra thật là rắc rối và kỳ lạ. Nhưng sau nhiều năm kê cứu và duyệt lại một số thủy pháp của sách Trung Hoa, rồi hầu chuyện một số các vị cao nhân về địa lý và suy ngẫm, đắn đo về nỗi thắc mắc này, chúng tôi mới tìm thấy giải đáp của sự thắc mắc trên như sau: 1. Những cái mà sách vở Trung Hoa trình bày, mà cụ Tả Ao không nói đến, phần nhiều chỉ là những kiến thức địa lý dựa vào lý khí rồi khuếch trương lên để làm cho rắc rối thêm địa lý mà thôi. 2. Còn cách trình bày của cụ Tả Ao thì lại quả là phép trình bày thực tế nhất vượt ra ngoài cả các sách vở thông thường đến nổi chỉ có 26 câu, nhưng nếu chúng ta thật thuộc lòng nó, suy ngẫm nhiều về nó, thì ta sẽ có một căn bản đúng, giản dị, về khoa thủy pháp, vừa đắc dụng, vừa chân thật. Quả không ngoa những lời các bậc tiền bối xưa đã nói: “Nhiều khi chỉ một câu của cụ Tả Ao, học mười năm chưa hết” Quý vị, sau khi đạt được thủy pháp này của cụ Tả Ao rồi, lại đọc các sách Tàu về thủy pháp, quý vị sẽ thâấ người Trung Hoa viết sách địa lý 10 mà chỉ ích lợi một, còn cụ Tả Ao chỉ nói một, mà người học đạt được kết quả trăm lần. Cụ Tả Ao quả là vị thánh địa lý. Nếu chúng ta yêu văn chương thì chúng ta lại còn thấy cụ Tả Ao là một nhà văn chân thành và rất đại chúng của thế kỷ 15. Không lời nào của cụ xa sự thật, không lời nào viễn vông, dư thừa cả. Áng văn nôm giá trị về thủy pháp này, sau trên nhiều năm nghiền ngẫm, suy nghĩ cách diễn giải, chúng tôi nghĩ rằng với tất cả sự cố gắng, chúng tôi chỉ có thể giải thích được bằng phương pháp sau đây: 1. Trước tiên giải thích các định nghĩa từng câu riêng biệt. 2. Sau nữa mới giải thích tinh thần cả đoạn văn, kèm thêm ví dụ. Nào trước tiên chúng ta hãy giải thích các định nghĩa từng câu riêng biệt: 73. Muốn sinh: Tử Tức, Vượng nhân. Muốn đất kết về đinh, muốn nhiều con đỗ đạt. 74. Thì tìm sinh vị, bản thần triều lai Thì chọn huyệt ở hướng Tràng sinh của thủy. 75. Muốn thăng: Quan tước, lộc tài. Muốn làm quan to và muốn có nhiều tài lộc. 76. Thì tìm vượng vị, thủy lai hội đường. Thì phải tìm huyệt ở hướng Đế vượng của thủy. 77. Cứ nơi mạch ấy cho tường Phải hiểu rõ cả mạch của long, lẫn mạch của thủy. 78. Tả thuận, hữu nghịch, đôi đường cho thông. Phải hiểu rõ rệt thủy (cũng như long đã nói ở trên) như sau: a). Nước chảy từ trái sang phải (theo chiều kim đồng hồ quay), (nhìn ở trước huyệt) là dương thủy hay thủy tả thuận hay thủy tả toàn, hay hữu thủy đảo tả. :lol: . Nước chảy từ phải sang trái (theo ngược chiều kim đồng hồ quay), (nhìn ở trước huyệt) là âm thủy hay thủy hữu nghịch hay thủy hữu toàn, hay tả thủy đảo hữu. 79. Lập huyệt, tọa hướng mới dùng. Thủy pháp quan trọng cho sự lập huyệt (ấn định huyệt nằm đâu) và tọa hướng (huyệt ngồi đâu mà nhìn vào đâu). 80. Cứ phép bão lai, huyền không ngũ hành. Ngoài hướng sinh và hướng vượng của huyệt, lại còn hướng của thủy bão lại ở trước huyệt. Thủy bão là khúc sông hay suối, ngồi ôm vòng ở trước huyệt. Ta có thể dùng thủy pháp theo Dương công hay Thủy pháp theo Huyền Không ngũ hành. 81. Cứ như thủy pháp năng kinh Nang Kinh là sách Thanh nang kinh về địa lý cổ của Trung Hoa, có nói về phép thủy pháp đúng nhất (sau này có thủy pháp Nang Kinh giả và thủy pháp của các loại sách tên khác nói bậy bạ làm nhiều người lầm). 82. Kim Mộc Thủy Hỏa Thông minh như lề. Muốn biết thủy pháp, trước hết phải biết đất kết thuộc về cuộc long gì. Chỉ có 4 cuộc long là: 1. Kim cuộc long 2. Mộc cuộc long 3. Thủy cuộc long 4. Hỏa cuộc long 1. Nếu khi ngồi ở huyệt mà thấy thủy khẩu phóng về hướng Đông (Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp, Mão) thì long từ hướng Tây đến. Mà từ hướng Tây long đến, chính là Kim cuộc long. 2. Nếu khi ngồi ở huyệt mà thấy thủy khẩu phóng về hướng Tây (Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu) thì long ở hướng Đông đến. Mà từ hướng đông long đến, chính là Mộc cuộc long. 3. Nếu khi ngồi ở huyệt, mà thấy thủy khẩu phóng về hướng Nam (Ất, Thìn, Tốn, Tỵ, Bính, Ngọ) thì long ở hướng Bắc đến. Mà từ hướng Bắc long đến, chính là Thủy cuộc long. 4. Nếu khi ngồi ở huyệt, mà thấy Thủy khẩu phóng về hướng Bắc (Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tý) thì long từ hướng Nam đến. Mà từ hướng Nam long đến, chính là Hỏa cuộc long. Trên đây chỉ nói về đại cuộc còn tiểu cuộc có khi không luận theo như trên. Sau đó, khi tầm long vài chục bận quý vị sẽ rõ. 83. Năm hành phỏng luận một vì Phải biết luận ngũ hành theo can và chi: a). Can Giáp là dương mộc. Can Ất là âm mộc. Can Bính là dương hỏa. Can Đinh là âm hỏa. Can Canh là dương kim. Can Tân là dương kim Can Nhâm là dương thủy Can Quý là âm thủy Can Mậu là dương thổ Can Kỷ là âm thổ. (Can Mậu và Kỷ không dùng để luận long, vì không có thổ long). B) . Chi Dần là dương mộc. Chi Mão là âm mộc. Chi Tỵ là âm hỏa Chi Ngọ là dương hỏa Chi Thân là dương kim Chi Dậu là âm kim Chi Hợi là âm thủy Chi Tý là dương thủy Chi Thìn Tuất là dương thổ Chi Sửu Mùi là âm thổ. (Thìn Tuất Sửu Mùi không dùng để luận long vì không có thổ lon). 84. Bính Mộc Giáp Ất, Giáp thì mộc dương 85. Ất là âm mộc đã tường Nếu bình luận Mộc cuộc thì dùng Giáp và Ất. Nếu gọi là Giáp mộc tức là dương mộc (Ất là âm mộc). 86. Phỏng đây suy biết âm dương, ngũ hành. Theo cách gọi đó sẽ biết âm hay dương và có hành kim hay hành mộc, hành thủy hay hành hỏa (ngũ hành). Như trên đã nói, nếu ta thấy: Giáp mộc là dương mộc (tính xuôi) Ất mộc là âm mộc (tính ngược). Bính hỏa là dương hỏa (tính xuôi) Đinh hỏa là âm hỏa (tính ngược). Canh kim là dương kim (tính xuôi) Tân kim là âm kim (tính ngược). Nhâm thủy là dương thủy (tính xuôi) Quý thủy là âm thủy (tính ngược). 87. Cứ đó mà khởi tràng sinh Cứ theo đó mà khởi từ tràng sinh, rồi đến Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng. 88. Giáp sinh tại Hợi, Ất dành Ngọ cung. Ví dụ: a). Nếu là dương mộc thì: 1. Tràng sinh ở Càn Hợi 2. Mộc dục ở Nhâm Tý 3. Quan đới ở Quý Sửu 4. Lâm quan ở Cấn Dần 5. Đế vượng ở Giáp Mão 6. Suy ở Ất Thìn 7. Bệnh ở Tốn Tỵ 8. Tử ở Bính Ngọ 9. Mộ ở Đinh Mùi 10. Tuyệt ở Khôn Thân 11. Thai ở Canh Dậu 12. Dưỡng ở Tân Tuất. B) . Nếu là âm mộc thì đi nghịch: 1. Tràng sinh ở Bính Ngọ (Ất dành Ngọ Cung). 2. Mộc dục ở Tốn Tỵ 3. Quan đới ở Ất Thìn 4. Lâm quan ở Giáp Mão 5. Đế vượng ở Cấn Dần 6. Suy ở Quý Sửu 7. Bệnh ở Nhâm Tý 8. Tử ở Càn Hợi 9. Mộ ở Tân Tuất 10. Tuyệt ở Canh Dậu 11. Thai ở Khôn Thân 12. Dưỡng ở Đinh Mùi. 89. Hợi thuận ngọ nghịch mới dùng Nếu tràng sinh của mộc mà ở Hợi, ta cho đi thuận, còn nếu tràng sinh của mộc mà ở Ngọ, ta cho đi nghịch. 90. Hẳn còn xuôi ngược, cho thông một vì. Cứ tính xuôi ngược như thế cho thông đi, trên là mới tính có Mộc cuộc. Ta lại còn phải tập tính cả: Kim cuộc Hỏa cuộc Thủy cuộc nữa Cũng theo phép như của Mộc cuộc vừa nói, cho thật thông thì ra ngoài đồng mới tầm long, điểm huyệt nhanh được. 91. Nước sinh nước vượng chầu về. Cứ đến chỗ nào là tràng sinh hay đế vượng của thủy mà có nước chầu về hay có nước tụ là ta được nước sinh hoặc nước vượng cho huyệt. 92. Nước tử, nước tuyệt chảy đi mặc lòng. Nước Tử và nước tuyệt là xấu nhất không được tụ, không được đến mà phải để cho nó chảy đi. Khi điểm huyệt ta thu sinh, vượng và tránh tử tuyệt của nước cho khéo. Cụ Tả Ao gọi là: Thu: minh sinh, phóng: ám tử. Cụ có câu thơ về việc này như sau: Minh Sinh, Ám tử, vô di Coi đi coi lại, quản chi nhọc nhằn. Có nghĩa là: Phải thu nước sinh vượng, phóng nước Tử tuyệt. Phép này quan trọng không di dịch được. Phải chịu khó nhọc coi đi lại cho kỹ, cho chắc chắn. Bởi đất kết do long mà họa phúc lại do thủy. 93. Cứ hướng làm chủ bản cung Phải lấy hướng huyệt làm chủ (Theo phép của Huyền không ngũ hành). 94. Kim mộc thủy thổ chô thông hướng nào. Ví dụ hướng huyệt mà hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì ta phải chọn nước hướng nào? Và chọn làm sao? Ta chọn như dưới đây: 95. Nhất thì được nước sinh vào Nhất thì hướng thủy phóng phải sinh hướng huyệt (theo huyền không ngũ hành). 96. Nhì thì được nước khắc vào hướng ta. Nhì thì hướng thủy phóng phải khắc hướng huyệt (theo huyền không ngũ hành). 97. Mong sao sinh khắc đến ta Chỉ cần sinh nhập (nước sinh hướng huyệt), hoặc khắc nhập (nước khắc hướng huyệt). 98. Là nước ấy có ích chi ta hòa dùng. Ngoài thủy pháp của Dương công ta chỉ nên dùng loại thủy pháp của Huyền không ngũ hành đó mà thôi. Trừ Dương công thủy pháp chỉ loại nước đó mới hữu ích. Thật ra trường hợp đặc biệt mới dùng đến phép Huyền không Ngũ hành. Chỉ nên cố gắng dùng Dương công thủy pháp. - Quý vị đọc đến đây cũng vẫn chưa dùng được nếu không hiểu điều bí hiểm của Huyền Không ngũ hành sau đây: Phép ngũ hành thường ta có: Bính là hỏa Ngọ là hỏa. Giáp Ất là mộc v.v... Còn phép ngũ hành của Huyền Không khác ngũ hành thường như sau: Ất Dậu Bính Đinh nguyên thuộc Hỏa. Kiền Khôn Mão Ngọ Kim đồng tọa Hợi Quý Cấn Giáp thị Mộc thần Dần Thân Tân Tốn Kiêm Tý Tỵ Hợp dữ Thìn Nhâm bát Thủy thần. Dịch nghĩa: Theo huyền không ngũ hành thì: Ất Dậu Bính Đinh hành hỏa Kiền Khôn Mão Ngọ hành kim Hợi Quý Cấn Giáp hành mộc. Dần, Thân, Tân, Tốn, Tý, Tỵ, Thìn, Nhâm hành thủy Có phép chỉ dùng huyền không ngũ hành cho hướng huyệt và hướng thủy khẩu, lại có phép dùng cho cả nước lại và nước triều. Chúng tôi sẽ giải thích nó kỹ lưỡng sau này, ở những bộ sách kế tiếp. Nhưng nếu biết coi phép Hồng Phạm Ngũ Hành ta sẽ biết năm nào thì kết phát. Đây là đi đến chỗ cao và bí hiểm nhất của khoa địa lý. Các vị chân sư truyền dạy cho chúng tôi không muốn chúng tôi phổ biến những bí hiểm như vậy quá rộng rãi, mà chỉ được truyền cho những vị nào mà được các chân sư xét là đáng. Thật ra, không phải là các Chân sư muốn cho khoa địa lý sẽ thất truyền, mà thật ra các vị đó sợ đời học chưa đến nơi đến chốn, đã vội hành nghề, sẽ có nhiều sai nhầm, và như thế dĩ nhiên là có hại cho người xin để đất, tổn phúc cho thầy để đất, người truyền cũng có phần nào ân hận. Để dung hòa hai quan niệm mâu thuẩn nhau như trên, chúng tôi sẽ tìm cách lưu lại bí mật đó cho đời sau, bằng cách mỗi sách chúng tôi cho vào một số bí quyết. Các vị nào có tâm đạo, chỉ muốn biết khoa địa lý để báo hiếu cho cha mẹ, mà không hề có tham vọng hành nghề địa lý để kiếm ăn, sẽ gặp rất nhiều cơ duyên để thành đạt về khoa này. Xưa kia, các cụ chân nho nghiên cứu địa lý, chỉ mong tìm được một đến hai ngôi đất để báo hiếu cho cha mẹ là đủ mãn nguyện. Như vậy khoa địa lý sẽ không bị thất truyền mà vị nào quyết tâm vẫn học được nó. Ngay trong bộ này, quý vị nào có nhiều kinh nghiệm và nhiều hiểu biết về địa lý, đã thấy chúng tôi xen kẻ trong các câu giải thích, trong đó đây ở bộ sách này, những ẩn ý đặc biệt, liên quan rất nhiều đến toàn bộ kiến thức bậc cao của khoa địa lý. CHƯƠNG THỨ TÁM LUẬN: THẤU LONG 99. Phép trong ngọc sích đã thông 100. Bèn mới lại luận Thấu long cho tường 101. Nhâm long ngôi ở đầu hàng 102. Bính Tý chính khí một phương chớ rời. 103. Khảm long: Canh Ty chính ngôi 104. Quý long: Đinh Sửu là nơi bản về 105. Sửu long: Tân Sửu kể đi 106. Cấn long chẳng lệch, hào ly: Mậu Dần 107. Dần long: chính khí Nhâm Dần 108. Giáp long: Đinh Mão là phần chính cung. 109. Mão long: Quý Mão thì dùng 110. Canh Thìn chính khí: Ất long đang quyền. 111. Thìn long: Chính khí Giáp Thìn 112. Tốn long: Tân Tỵ đã yên một dòng 113. Tỵ long: Ất Tỵ thấu long 114. Bính long: Nhâm Ngọ phép trong nhiệm màu 115. Ngọ long: Bính Ngọ làm đầu 116. Thánh hiền truyền dạy trước sau ghi lòng 117. Quý Mùi: là chính Đinh long 118. Mùi long: Đinh vị, Khôn dòng: Giáp Thân 119. Mậu Thân: chính khí long Thân 120. Canh long: Ất Dậu là phần chính Canh 121. Kỷ Dậu: chính khí Đoài tinh (Dậu) 122. Bính Tuất: chính khí địa hình long Tân 123. Tuất long: Canh Tuất bản phần 124. Càn long: Đinh Hợi sai phân chớ hề 125. Hợi long, Tân Hợi một vì 126. Rành rành chính khí, thấu suy đã tường. CHƯƠNG THỨ TÁM LUẬN: THẤU LONG Khoa địa lý chính tông bao giờ cũng nhằm vào phần loan đầu. Lấy con mắt và sự khổ công nhiều năm quan sát tại ngoài đồng, tìm ra long-chân huyệt-đích. Sau khi có long-chân huyệt-đích rồi mới luận đến thấu long. Các sách man thư không nói câu này, mà chỉ phát huy nguyên có thấu long. Người làm đất nếu quên long-chân huyệt-đích, trên cụ thể mà cứ cố xoay huyệt cho đúng thấu long tốt, sẽ xảy ra nhiều trường hợp làm hỏng đất kết. Dưới đây là hai câu mở về luận Thấu long. 99. Phép trong ngọc sích đã thông. 100. Bên mới lại luận thấu long cho tường. Thấu long chỉ dùng để luận long chứ không được dùng nó để phá long-chân huyệt-đích mới là danh môn chính phái. - Thấu long cho huyệt ta xem nhập thủ mạch của huyệt. - Thấu long cho long nhập thủ ta xem lai long của long nhập thủ. Thấu long cũng có thể dùng cho tổ sơn. Còn phép áp dụng thì: - Thấu long cho huyệt và cho long nhập thủ ta phải lấy chi tiết của vòng nhỏ, giáp vòng địa bàn, nó là vòng 72 long xuyên sơn. (Xin xe một địa bàn chính xác của Cao Trung đã phát hành). Tiếp theo dưới đây là luận về thấu long của 24 nhập thủ mạch: 101. Nhâm long ngôi ở đầu hàng 102. Bính Tý chính khí một phương chớ rời. Có nghĩa là: Nếu là Nhâm long nhập thủ, thì đường gần đưa mạch vào huyệt ở chữ Bính Tý của địa bàn, là chính khí. Tiếp theo: 103. Tý long Canh Tý chính ngôi: Có nghĩa là: nếu là Tý long nhập thủ thì nhập thủ mạch (đường gần đưa mạch vào huyệt) nên ở vào chữ Canh Tý 104. Quý long Đinh Sửu là nơi bản về Có nghĩa là: nếu là Quý long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Đinh Sửu. 105. Sửu long Tân Sửu kể đi Có nghĩa là: nếu là Sửu long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Tân Sửu. 106. Cấn long chẳng chệch hào ly Mậu Dần Có nghĩa là: nếu là Cấn long nhập thủ, thì nhập thủ mạch nên ở chữ Mậu Dần. 107. Dần long chính khí Nhâm Dần. Có nghĩa là: nếu là Dần long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Nhâm Dần. 108. Giáp long Đinh Mão là phần chính cung. Có nghĩa là: nếu là Giáp long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Đinh Mão. 109. Mão long Quý Mão thì dùng: Có nghĩa là Mão long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Quý Mão. 110. Canh Thìn chính khí Ất long đang quyền. Có nghĩa là Ất long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Canh Thìn. 111. Thìn long chính khí Giáp Thìn Có nghĩa là: Thìn long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Giáp Thìn. 112. Tốn long Tân Tỵ đã yên một dòng Có nghĩa là: Tốn long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Tân Tỵ. 113. Tỵ long Ất Tỵ thấu long Có nghĩa là: Tỵ long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Ất Tỵ. 114. Bính long Nhâm Ngọ phép trong nhiệm mầu: Có nghĩa là: Bính long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Nhâm Ngọ. 115. Ngọ long Bính Ngọ làm đầu 116. Thánh hiền truyền dạy trước sau ghi lòng Có nghĩa là: nếu Ngọ long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Bính Ngọ. 117. Quý Mùi là chính Đinh Long Có nghĩa là: nếu Đinh long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Quý Mùi. 118. Mùi long Đinh vị, khôn dòng Giáp Thân Có nghĩa là: Mùi long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Đinh Mùi Và khôn long nhập thủ thì hập thủ mạch nên ở chữ Giáp Thân. 119. Mậu Thân chính khí Long thân Có nghĩa là: Thân long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Mậu Thân. 120. Canh long Ất Dậu là phần chính canh: Có nghĩa là: Canh long nhập thủ mạch nên ở chữ Ất Dậu 121. Kỷ Dậu chính khí đoài tinh: Có nghĩa là: Dậu long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Kỷ Dậu 122. Bính Tuất chính khí địa hình long tân: Có nghĩa là: Tân long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Bính Tuất. 123. Tuất long Canh Tuất bản phần: Có nghĩa là: Tuất long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Canh Tuất. 124. Càn long Đinh Hợi sai phân chớ hề: Có nghĩa là: Càn long nhập thủ thì nhập thủ mạch nên ở chữ Đinh Hợi. 125. Hợi long Tân Hợi một vì 126. Dành dành chính khí thấu suy đã tường. Có nghĩa là: Hợi long nhập thủ, thì nhập thủ mạch nên ở chữ Tân Hợi. Theo tính chất về chính khí của 24 long nói trên ta biết rằng: nếu phân kim thừa dùng chính khí như Hợi long thừa Tân Hợi mới được còn chi tiết khác sẽ bị cô hư, không vong sẽ có bại. Vậy ta nên xoay huyệt cho vào chính khí không? Có một số chân sư đáp rằng: - Loan đầu là thể - Lý khí là dụng. Thể mới là chính và dụng là phụ, tuy cả hai cùng cần. Nếu tìm đúng long-chân, huyệt-đích thì nắm chắc loan đầu, tự nhiên chính khí phải đúng. Một số vị chân sư khác cho biết: Có một vài trường hợp chính khí (Thâu long) sai mà có long-chân huyệt-đích thì phải chịu vậy, nó là tạp long – Dùng tạm huyệt đó rồi tiếp phúc nữa, hoặc đi tìm đất kết khác. Hơn nữa, dù tính chất của 24 long, dù thấu long cũng chỉ là luận long. Chỉ là luận mà thôi. Có nhiều người nệ vào tính chất của long, nệ vào thấu long, thành ra đặt huyệt vào chỗ không kết, thảm thay, thảm thay. Đã nhiều người khóc dở mếu dở về chuyện này. Lý do chỉ vì: - Loan đầu không vững - Quá nệ vào lý khí và luận long. Những thấu long trên đây nói về lai mạch nhập huyệt, nhưng thấu long còn có thể dùng cho long nhập thủ, cho hành long (thôi quan) và cho thiếu tổ sơn nữa. Tuy nhiên nên nhớ kỹ phần này chỉ là luận long sau khi có long chân, huyệt đích. Dưới đây là công thức xuyên sơn 72 long nói về mạch nhập thủ: Theo phương pháp này (luận về nhập thủ mạch). Mỗi khi đến huyệt trường, chỗ long kết huyệt, căn cứ vào chỗ quá giáp (chỗ long mạch thắt nhỏ lại) mình đặt la kinh xem long mạch vào chữ gì? Có thể coi: - Chỗ mạch nhập thủ - Chỗ long mạch thắt nhỏ lại - Hay chỗ thân long khởi hoặc phục rồi đem Giáp Tý nạp âm coi ngũ hành, sinh khắc để biết lành dữ. Ví dụ: Tý long lai mạch - Chữ Tý thuộc Thủy - Chữ về chi Tý là mẫu tự - Một mẹ sinh 5 con. Nếu Bính Tý long lai thì thuộc Thủy. Canh Tý long lai thì thuộc Thổ. Còn như Giáp Tý long lai thì thuộc Kim Mậu Tý thuộc hỏa Nhâm Tý thuộc mộc. Tính theo hàng can nạp giáp cho 8 quẻ để phân biệt thế nào là cô hư, vượng, tướng, thế nào là quý, giáp, không, vong, kiếp sát Ta thấy Giáp nạp cho Kiền Nhâm nạp cho Ly Hai quẻ này đều là dương cả, nên Giáp với Nhâm đều là cô Ất nạp cho Khôn Quý nạp cho Khảm Hai quẻ này đều là âm cả nên Ất với Quý đều là hư. Mậu Kỷ gọi là Quy, Giáp là Không, Vong là Quan sát. Bính là dương hỏa. Canh là dương kim. Chỉ có dương là vượng mà chỉ có hỏa và kim mới là vượng cho nên đây gọi là Vượng. Đinh là âm hỏa, Tân là âm kim chỉ có âm là tướng mà chỉ có hỏa và kim mới là tướng cho nên đây gọi là tướng. Phần này chỉ là nói thêm để gợi ý chút ít bí pháp phân kim, chúng tôi sẽ nói kỹ phân kim ở một bộ sách khác, sau này xuất bản. Trên là lý khí về nhập thủ mạch của bí pháp chính tông, Nguyên về Tý long nhập thủ mà còn nói khó hiểu như thế. Nếu nói hết bí pháp ngay thì quyển này sẽ khá dài. Nhưng mà trên thực hành, loan đầu chỉ cần tóm cả thấu long, nhập thủ mạch, của 24 long và một câu: Lai mạch nhập thủ mà khí còn cường sẽ dễ có xung khí, có hại, có tội. Lai mạch nhập nhĩ là vừa. Nhưng nếu lai mạch nhập thủ mà khí nhược thì châm chế được. Chỉ có thế thôi. Nếu loan đầu đúng thì lý khí đều phần nhiều đúng hết. Bao giờ hiểu rõ ta sẽ bất chấp cái khó khăn của lý khí. Làm địa lý mà không phân tích kỹ loan đầu, chỉ luận nguyên khí sẽ không bao giờ làm được địa lý cả. Như nhiều cụ xưa kia chỉ chuộng lý khí của sách Trung Hoa mà quên phần căn bản là loan đầu, cụ thể ở trước mắt, nhìn thấy được. Chúng tôi đã được dự kiến nhiều trận tranh luận về lý khí mà quên hẳn loan đầu. Kết quả là càng tranh luận lại càng nát bét. Các vị mải mê lý khí, mà quên loan đầu, nào có nghĩ rằng: Địa lý là khoa học thực dụng và thực tế. Nó bắt đầu có do ở sự quan sát trên đất đai cụ thể để tìm ra nơi nào đẹp nhất, dùng làm nhà ở, và chôn xương, cất xác các bậc tôn kính đã quá cố xuống đó. Mãi đến Hán, Đường mới có thuyết ngũ hành và từ đó thêm phần lý khí vào khoa địa lý và sau này các vị Đế vương Trung Hoa, muốn giữ độc quyền về khoa địa lý cho dòng họ mình, một mặt tìm Chân thư, mặt khác vừa bắt buộc, vừa cho tiền bạc một số địa lý gia viết man thư bằng cách dùng lý khí tán rộng và tán vào chỗ sai lầm. CHƯƠNG THỨ CHÍN LUẬN: HƯỚNG HUYỆT CỦA 24 LONG 127. Tại luận long hướng các phương 128. Tà khí tạp bác, âm dương cho thuần. 129. Nhâm long: ba hướng khả phân 130. Phương: Ngọ, Khôn, Ất xoay vần kể chi 131. Tý long: Khôn hướng một bề 132. Quý long: hay huyệt hướng về Ngọ, Khôn 133. Sửu long: Bính hướng vi tôn 134. Cấn long: tám huyệt kể tồn từng ngôi 135. Bính, Đinh, Canh, Tân, Tỵ, Mùi 136. Tốn, Đoài, tám hướng trạch chính an ngôi. 137. Dần long: hai hướng Khôn, Thân. 138. Giáp long: định hướng về phần: Càn, Khôn 139. Mão long: bốn hướng kể rồn 140. Canh, Tân, Đinh, Hợi đã yên một bề. 141. Ất long: Khôn hướng một vì 142. Thìn long: hai huyệt hướng về Càn, Khôn 143. Tốn long: Tân, Hợi, Cấn môn 144. Dụng ba hướng ấy, là không sánh tày 145. Tỵ long: một hướng Hợi thần 146. Bính long: bốn huyệt kể bày làm nơi 147. Hợi, Canh, Tân, Cấn hướng ngôi 148. Ngọ long: hai hướng về trời Quý, Nhâm 149. Đinh long: Cấn, Hợi thuần âm 150. Mùi long: một hướng cục nhằm Cấn Ly 151. Khôn long: phương Quý hướng đi 152. Thân long: Quý, Giáp hai vì cho mình 153. Hướng: Mão, Cấn là long Canh 154. Cấn, Tốn, Tỵ hướng, đã đành Dậu long 155. Tân long: Tốn, Mão, Cấn cung 156. Ngồi một hướng Ất, Tuất long địa bàn 157. Cùng theo Ất hướng, long Càn 158. Bính, Tốn, Đinh hướng, long đồng Hợi long CHƯƠNG THỨ CHÍN LUẬN: HƯỚNG NGUYỆT CỦA 24 LONG 127. Lại luận long hướng các phương 128. Tà khí tạp bác âm dương cho thuần Trên đây là luận về hướng huyệt của long như sau: Long nhập thủ và hướng cần phải có 2 tương quan: a). Một là cùng âm, cùng dương. Nếu không cùng âm cùng dương là: tà khí, tạp bác. B) . Hai là Long nhập thủ nào hay có hướng huyệt quay về hướng nào. Tiếp theo dưới đây cụ Tả Ao nói về long nào trên thực tế hay có Hướng huyệt quay về hướng nào. 129. Nhâm Long 3 hướng khả phân (xem hình 7) 130. Phương: Ngọ, Khôn, Ất xoay vần kể chi. -------------------------------------------------------------------------------- Hình 7: Nhâm Long Giải thích câu 129 – 130 (hình 7) Nếu là Nhâm long hay có 3 hướng huyệt: 1. Phương Ngọ (tọa Tý hướng Ngọ) 2. Phương Khôn (tọa Cấn hướng Khôn) 3. hoặc phương Ất (tọa Tân hướng Ất). 129. Nhâm Long 3 hướng khả phân (xem hình 7) 130. Phương: Ngọ, Khôn, Ất xoay vần kể chi. Hình 8: Tý long Giải thích câu 131 (hình 8) Nếu là Tý long thì thường chỉ có 1 hướng huyệt. Tọa Cấn hướng Khôn. 132. Quý Long hay huyệt hướng về: Ngọ, Khôn (xem hình 9) Nếu là quý long thì thường có 2 hướng huyệt: 1. Một là tọa Tý hướng Ngọ 2. Hai là tọa Cấn hướng Khôn. 133. Sửu Long Bính hướng vi tôn Nếu là Sửu long hay có 1 hướng huyệt: 1. Tọa Nhâm hướng Bính. 134. Cấn Long tám huyệt kể Tốn từng ngôi (hình 11) 135. Bính, Đinh, Canh, Tân, Tỵ, Mùi 136. Tốn, Đoài, Tám hướng trạch chính an ngôi Nếu là Cấn long hay có tới 8 hướng huyệt: 1. Tọa Nhâm hướng Bính 2. Tọa Quý hướng Đinh 3. Tọa Giáp hướng Canh 4. Tọa Ất hướng Tân 5. Tọa Hợi hướng Tỵ 6. Tọa Sửu hướng Mùi 7. Tọa Càn hướng Tốn 8. Tọa Mão hướng Dậu (Đoài) Tác Giả:Cao Trung. Nguồn:Blog360.dienbatn
-
CHƯƠNG THỨ HAI TỪ LONG KHỞI TỐ ĐẾN HUYỆT TRƯỜNG Mỗi kiểu đất kết thường nằm trong một cuộc đất. Mà tầm long là tìm cho hết một cuộc đất chứ không phải chỉ tìm ra một huyệt trường. Nhiều người học địa lý không thể tìm ra được một cuộc đất để ấn định huyệt trường. Họ chỉ căn cứ vào câu này của cụ Tả Ao để tìm một huyệt trường (chỉ là một phần nhỏ của một cuộc đất): Bên trên trồng đỗ, Dưới lỗ cấy chiêm Hai bên lưỡi liềm quơ lại. Căn cứ vào bí quyết đơn sơ đó, họ tìm nơi ria ruộng, bờ sông, hễ thấy chỗ nào mạch đất, chạy đến ao hồ hay ruộng chiêm, mà có 2 chi dài, một chi ngắn, thì đoán: chi ngắn là huyệt trường và 3 chi dài nếu ôm vào huyệt trường, thì họ liền cho đó là tay long và tay hổ. Thật ra phép tìm đất kết như thế không phải là sai, nhưng chỉ tìm tắt như thế vẫn có thể nhầm. Số là có nhiều khu đất có hình thể như vậy mà không có huyệt, bởi huyệt là chỗ tận cùng của long mạch, còn chỗ kia có thể chỉ là một cái vẩy, cái bướu của thân long chứ không phải là nơi tận cùng kết huyệt. Nó chỉ giống những huyệt kết, nhưng không phải là huyệt kết. Các cụ gọi chỗ trông giống huyệt mà không phải là đất kết này là giả huyệt. Táng vào đây không bao giờ được kết phát. Tuy nhiên cũng có vài người tìm phép 2 chi dài 1 chi ngắn như trên lại trúng huyệt thật, nhưng mà là họa hoằn, rất hiếm. Muốn chắc ăn ta có thể tìm thấy một chỗ nào như trên, rồi coi nó như là giả thiêế một huyệt kết, từ đó ta sẽ tìm tiếp theo lên nữa cho tới phát tổ sơn của nó tức là nơi phần long (chân mạch) xuống đất kết. Phát tổ sơn hay nơi phân mạch cũng ví như chỗ phân chi của một cành cây, mà chỗ đất kết là nơi đâm bông, kết quả (trái). Được như vậy rồi lại phải có cái nhìn tổng quát của cả một khu vực có cuộc đất từ gốc đến ngọn ta mới có được nhận định rõ rệt về toàn thể khu vực có đất kết. Nếu là huyệt thật, thì may mắn biết bao, trường hợp là giả huyệt thật, nơi có đất kết. Hơn nữa nếu học tầm long theo phép tổng quát này, khi tìm được huyệt thật rồi, nhờ có cái nhìn bao quát, ta mới hiểu được là cuộc đất lớn hay nhỏ, tốt hay xấu, một cách chính xác. Cũng có khi nhờ nó, mà sau khi đi lại xem xét kỹ lưỡng, ta lại còn khám phá ra một hay huyệt kết nữa. Có khi một hai kiểu đất kết tìm ra sau là huyệt kết bàng mà huyệt tìm ra trước mới là huyệt chính. Trái lại cũng có khi huyệt trước chỉ là huyệt bàng mà một, trong những huyệt tìm ra sau mới là huyệt chính. Phải nhìn toàn thể cả mấy huyệt ta sẽ thấy rõ rệt là huyệt chính phần nhiều ngay ngắn và huyệt bàng ở tay long thường quay sang phải, cũng như huyệt bàng ở tay hổ thường quay sang trái – Lý do là hai huyệt này ở hai bên triều vào huyệt chính. Rất có thể có trường hợp huyệt bàng lại tốt và đẹp hơn huyệt chính như kiểu đất nhà Lưu Bang, có những nô bộc (Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà v.v...) giỏi hơn Lưu Bang (nhưng triều phục Lưu Bang). Huyệt bàng không những có thể ở tay long, tay hổ mà còn có trường hợp nó ở ngoại long, ngoại hổ hay ở một mảnh sa nào triều về huyệt chính nữa. Nếu tìm được cả chùm như vậy, ta sẽ thấy rất thích thú, như có cả một chùm hoa, để ta muốn chọn hoa nào (hay chọn huyệt nào) mà ta thích. Có người mong kiếm huyệt giàu, có người mong kiếm huyệt sang, trái lại có người chỉ mong kiếm huyệt sinh con trung hiếu hiền lương, suốt đời vô tai nạn. Như vậy ta phải xem từ đất kết lên tới tổ sơn để biết đất kết này phát nguyên từ đâu, và đâu là khởi mạch cho khu vực này. (13) Nẻo xa liền hỏi tổ tông (14) Ở đâu hòa đến mạch long địa hình Dưới đây cụ Tả Ao chỉ cho ta hình tích long mạch từ tổ sơn: (15) Nước phân chữ bát phân minh (16) Hai bên chảy thuận, loan hình tố long (17) Cửa trời trên đã mở thông (18) Thượng phân là đấy chính long thực vào. Từ tổ sơn, nơi phát khởi ra mạch đất có đất kết, cho đến khu vực có đất kết, gọi là một cuộc long. Một cuộc long có ba phần: 1. Một là tổ sơn (nơi phát xuất ra cuộc đất) 2. Hai là hình long (tức phần nối tổ sơn với huyệt trường). 3. Ba là huyệt trường (nơi có huyệt kết). Ta thấy nước hai bên khe, cạnh thân long ở tổ sơn thủy xuống trên thì gần và dưới thì xa nhau ra, trông như chữ bát, như câu tả dưới đây: (15) Nước phân chữ bát phân minh Nước có chảy thuận theo chiều long ở tổ sơn đi - chảy khuất khúc (loan hình) bên cạnh long, khi sắp lại gần, khi lui ra xa như đi theo quanh quẩn bên long (tống long) như câu dưới đây: (16) Hai bên chảy thuận, loan hình tống long Hai bên thân long (thân long là mạch đất). Nước tại phát tổ sơn, chảy phân chữ bát như thế, còn được coi như là nước mở cửa cho long đi. (17) Cửa trời trên đã mở thông Long đi từ tổ sơn như thế là chân long, bắt đầu rời tổ ra đi cho đến đất kết. Nước chữ bát ở trên tổ sơn gọi là thượng phân. Long ở chỗ có nước thượng phân là chính long mà theo nó ta sẽ tìm đến huyệt kết. Long khởi mạch là đường phân thủy mà 2 bên có nước là 2 đường thông thủy (dẫn thủy) đầu tiên của cuộc long. (18) Thượng phân là đấy Chính Long thực vào Thế rồi long đi nước cũng đi theo. Long đi có thể chia ra thành nhiều chi khác. Những chi không kết huyệt gọi là long đầu thủ còn chi nào đi đến kết huyệt gọi là đến huyệt trường. Nước theo long đi, có khi phải vòng vèo qua những long đầu thủ nên có thể xa dần chính long. Nước đi, có thể lấy thêm nước ở các khe nước khác và cũng có khi nước đó lại chia ra làm nhiều nhánh khác nhỏ, có nhánh theo long, có nhánh chảy đi mất và bao giờ cũng có ít nhất một nhánh nước theo long đi cho đến chỗ long kết huyệt. Tới chỗ nào long kết huyệt thì ít ra cũng phải có 2 hay 3 nhánh nước đến tụ ở trước huyệt trường để làm minh đường. (19) Đến đâu hai nước tống giao (20) Ấy đấy cửa đất đóng vào cẩn thay Nước Tống giao nước tụ, chính là chỗ hạ hợp chỗ đóng nước lại cho long không đi nữa, để kết huyệt. (21) Hạ hợp là đấy vậy vay Như vậy khi long mới đi, thì nước thượng phân (mở cửa cho long đi) và khi long đến huyệt kết thì 2 nước đó lại hạ hợp (để đóng cửa lại). Do đó mà ta gọi là thượng phân và hạ hợp. Thiên nhiên trông như vô tri mà bao hàm trật tự và thủy chung (có trước có sau) mới hoàn thành được một sự việc. Con người cũng nên suy ngẫm. Hạ hợp như thế nước phải tụ ở trước huyệt làm minh đường. Nếu không như thế không phải đất kết. (22) Nơi chính thủy tụ thực hay chẳng nhầm Có thủy tụ mới có huyệt kết, bằng không, chỉ tà giả huyệt mà thôi. Một cuộc Long đi có thể lớn đến vài trăm mẫu. Một huyệt trường cũng có thể lớn đến vài mẫu. Ta phải tìm trong khu vực huyệt trường xem, chỗ nào là chỗ huyệt kết. Tìm được chỗ huyệt kết rồi, ta mới có đối tượng chính xem long, thủy, sa xung quanh huyệt trường, tương quan với đất kết ra sao. Việc tìm huyệt kết tại huyệt trường cũng khó khăn lắm vì không có huyệt trường nào giống hẳn huyệt trường nào. Không thể có một mẫu mực kiếm huyệt kết nào nhất định. Tuy nhiên theo nhiều kinh nghiệm tìm huyệt kết, ta cũng có thể biết, đại khái công thức như sau: Hình thể huyệt kết không hoàn toàn giống nhau nhưng nếu biết xếp loại thì nó cũng có cát tương tự. Nhờ có cái tương tự này mà ta có thể chia làm 4 loại chính cho dễ nhận chân. Đó là 4 loại hình huyệt trường dưới đây: 1. Hình Oa (xem hình 1 và hình 2) 2. Hình Kiềm (xem hình 3) 3. Hình Nhũ (xem hình 4) 4. Hình Đột (xem hình 5). Ta phân tích Oa, Kiềm, Nhũ, Đột như sau: 1. Oa và Kiềm phần nhiều ở chỗ có mạch sơn cước (có núi đồi). 2. Nhũ và đột phần nhiều ở nơi mạch bình dương (chiều cao thấp của ruộng, ít chênh lệch nhau rõ rệt). 3. Theo kinh nghiệm, ta thấy Oa thì tròn, Kiềm thì dài, dù Oa và Kiềm cùng do núi mà ra. 4. Cũng theo kinh nghiệm ta thấy Đột thì tròn và Nhũ thì dài, dù Nhũ và Đột cùng do đất bình dương mà có. Trên đây là 4 dạng hình thể huyệt kết tại huyệt trường gồm: Kết Oa, Kết Kiềm, Kết Nhũ, Kết Đột. Oa, Kiềm, Nhũ, Đột là 4 hình thể chính. Nhận ra được 4 hình thể chính này rồi, ta còn phải kinh nghiệm nhiều nữa, mới điểm huyệt trúng được. Riêng Oa có một biến dạng đặc biệt là Oa đứng (hình 2). Nhưng nói chung mỗi Oa, Kiềm, Nhũ, Đột cũng đều có biến dạng chút ít, ta phải biết phân biệt để xếp nó vào loại nào trong 4 loại nêu trên, thì ta mới thực hành được phép điểm huyệt chính xác được. -------------------------------------------------------------------------------- -------------------------------------------------------------------------------- Những huyệt trường có khi rộng đến cả một, hai mẫu mà huyệt kết chỉ ngang dọc ba bước là quán khí, vậy ta cũng phải có công thức tìm ra chỗ nào kết huyệt trong huyệt trường này nữa. Đó là phép điểm huyệt. Điểm huyệt tuy khó nhưng không ngoài ba phép: 1. Quân bình âm dương 2. Tìm hình thể quản cục: 3. Tìm chỗ âm dương giao độ: Khai triển ra ta có: 1. Nếu huyệt trường vuông, tròn thì huyệt kết hay ở chỗ méo mà hay ở giữa. 2. Nếu huyệt trường dài, ta tìm cái đốt, cái tiết. 3. Nếu huyệt trường cao, ta tìm chỗ thấp bằng (âm lai, dương thụ). 4. Nếu huyệt trường thấp, bằng, ta tìm chỗ cao (dương lai, âm thụ). 5. Nếu bên phải cao, ta tìm bên trái (vì khí mạch từ phải đổ sang trái) 6. Nếu bên trái cao ta tìm bên phải (vì khí mạch từ trái đổ sang phải) Tóm lại một câu: ta phải lưu ý tìm chỗ đặc biệt tại khu vực đó, là chỗ: không trong, không ngoài, không trên, không dưới nhưng chính là chỗ âm dương giao độ. Để chắc chắn hơn nữa, ta còn phải nhìn long hổ, án sa nếu những chứng ứng này mà cao, ta tìm huyệt kết trên cao. Còn long hổ, án, sa mà thấp ta tìm huyệt kết, nơi thấp để cho cân xứng với hình thể: cao, thấp của đất kết. Chiều cao lý tưởng, của huyệt kết, phải từ rốn đến ngang mày người ngồi ở huyệt kết. Như trên đã trình bày ta thấy. Nhà địa lý không những chỉ muốn kiếm đất kết, mà còn muốn coi cả một cuộc long, từ khi phát tích ở tổ sơn, cho đến huyệt kết nữa. Tầm long là phép theo toàn cuộc đất từ đất kết ngược lên tổ sơn hoặc đi từ tổ sơn xuống đất kết. Trong lúc đi quan sát cả cuộc đất như thế, nhà địa lý còn có cái thú xem phong cảnh thiên nhiên. Mà thiên nhiên dù rộng lớn đến mấy đi nữa trước mặt nhà địa lý, cũng được thu nhỏ lại thành một toàn thể, biểu hiện chung một thái độ, một trạng thái chỉ thị cho tính chất, của một cuộc đất, nó là ý hướng căn bản của sự quyết định tính chất kết phát của cuộc đất đó. Thiên nhiên, lúc đó, lại còn biểu hiện một cách triết lý cao siêu của dịch lý, bằng cách thu tất cả khung cảnh vào 2 mối: âm và dương. Thật vậy, đất muốn muôn hình, nghìn trạng, cũng đều chỉ có: cao và thấp, tức là chỉ có âm và dương mà thôi. Vì cao là âm và thấp là dương. Chiều hướng của mạch núi hay mạch đất bằng cũng có chiều âm, chiều dương. Nếu đi quay sang phải là dương và quay sang trái là âm. Thế rồi, nơi huyệt kết, ở huyệt trường cũng cần sự phối hợp âm dương như sau: nếu âm đến thì dương kết mà dương đến thì âm kết. Nếu muốn thu cả âm dương vào một mối thì âm, dương cũng chỉ là một, vì bên âm có dương, bên dương có âm; chúng liên tiếp bên nhau, đắp đổi cho nhau, nương tựa lẫn nhau, tạo nên một lẽ sinh thành, một toàn thể sinh hóa có trùng trùng duyên khởi: Đồng đồng nhất đại khối Diều diều như nghị quần. Như nhìn vào tổ ong, ta chỉ có cái nhìn tổng quát những con ong, mà không còn muốn phân biệt ong đực, ong cái, ong to, ong nhỏ nữa. Âm dương đến độ bất phân như vậy thì tâm hồn nhà địa lý đã trở vào Thiền lúc nào không hay, rồi người và cảnh cũng nhập vào với vũ trụ nữa. Đó là trạng thái xuất thần trong cảnh thiên nhiên của nhà địa lý, mà lúc đó, nhà địa lý là nhà nghệ sĩ thiên nhiên. Khi đã nhập thiền với thiên nhiên rồi thì nhà địa lý hết bị hình, danh, sắc, tướng chi phối, họ trực giác ngay được chỗ nào là trọng điểm của cuộc đất, nơi nào là quản cục của cuộc đất để rồi khi ly khai với Thiền họ sẽ phân tích lại trên thực tế những gì họ đạt trong Thiền. Thế rồi, trước cảnh, nhà địa lý, khi thì nhập vào cảnh, đi vào Thiền, để tổng hợp với thiên nhiên, khi thì trở về thực tại để phân tích đất đai. Trạng thái lại qua như thế. Cứ tiếp diễn liên tiếp rồi nhà địa lý thấy mình lâng lâng, khoan khoái muốn quên luôn cả cái hình, danh, sắc, tướng của mình và vũ trụ để cùng đi đến chỗ hòa. Những lúc trạng thái tâm hồn nhà địa lý cao vút như vậy thì họ không ngừng sáng tác bằng trực giác, bổ túc bằng thực tại, tổng hợp thực tại, để đi vào trực giác sáng tác kế tiếp. Họ nhìn vũ trụ ngoại cảnh như một toàn thể sinh động. Đất đai, sông núi như một sinh vật kỳ lạ hoạt động, mỗi khúc núi đồi cao thấp, như là một khúc con rồng (loài vật biến hóa khôn lường) đang bò, đầu ngoảnh bên phải, bên trái, thân uốn éo, chập chờn di động. Khi nghiêng xuống suối uống nước, khi vểnh tai nghe gió thổi rì rào, khi nheo mắt nhìn đám mây “vân cẩu” trôi, khi ghé mình bên rừng tránh nắng, khi tắm dưới mưa xuân phơi phới, khi phô lưng dưới ánh chiều dương, lại có khi thả sương chiều, khi phun khói sớm v.v... Thế rồi nhiều lúc nhà địa lý, nhà nghệ sĩ thiên nhiên, không biết mình là cảnh hay là người, cũng như Trang Tử nằm mơ thấy mình hóa bướm, khi tỉnh dậy không biết mình thật là bướm hay là người. Mãn cảnh giai không hà hữu tướng. Thử tâm thường định, bất ly thiền. Ta hãy xem thi nhân địa lý làm thơ tả cảnh, khi tầm long: Tầm long, nhận thủy làm đầu. Hợp dòng chỗ ấy, ở đâu mà về. Lưu Đông thì long ở tê (Tây) Lưu Nam ở bắc mà về phải không? Ngược lên cho đến đầu dòng Đâu nhiều tinh tú, tổ tông đấy rồi. Quần long, tụ một phương trời Ngũ tinh tụ giáng, tụ rồi lại chia Long, long từ đấy ra đi Mỗi long một ngã, dựng kỳ hành tinh. Phân phong, thụ mệnh thiên đình Dành dành mao thổ, cho mình khổn chuyên. Từ lâu rồi mới hạ đền. Theo mạch mà xuống, bốc lên tinh vì Cửu tinh, hình tượng phải suy Núi ấy là gì, thì nó hành long Hai bên, hộ vệ trùng trùng Thủy phân bát tự, hai dòng cũng theo Giám tinh, hoặc ít hoặc nhiều Bản long, thỉnh thoảng bốc theo một vì Cũng thường, ở đấy chia chi Một thì hộ chủ, hai thì phân tông Phân thủy, cũng rẽ hai dòng Rồi ra nước ấy, tụ trong minh đường Long hành hoặc gặp khê giang Ấy là quá giáp, hoặc sang hoặc rằng Long mạch ở kín khăng khăng Giáp sơn ủng hộ, các tầng bát phong Chốn ấy gọi là băng hồng Sơn bằng, thủy cộng ở trong có tình. Đình thì phải nổi chủ tinh. Khai diện, bố cục các hình làm sao Cách sông, long hổ hướng vào Mà nước bên ấy, cũng nào vào lòng, Thế là kết ở bên long, Gọi là tụ khí, trong vòng giáp sơn, Hoặc long quá giáp, đi sang, Khai cục, bố thế ở làng bên kia Quần sơn, chúng thủy, quanh về, Thường thường, chiều án ở về hậu long. Ấy là phấn thế, khí hùng. Giáp tiền, giáp hậu, tầm long nên càng. Địa lý Đại Thành Người ta thường nói nhà địa lý không những phải học kỹ thuật địa lý cho tinh tường mà còn phải có: - Thần tâm - Thánh nhỡn - Tiều phu cước Thần tâm là cái tâm thiên nhiên. Cái vũ trụ chi tâm. Thánh nhỡn là mục lực, trực giác sáng tác, khi tâm nhập thiên nhiên. Và tiều phu cước là công phu thực hành nhiều trên đất về khoa Địa lý. CHƯƠNG THỨ BA 24 LONG NHẬP THỦ 23. Đáo đầu, nhất tiết, hạ châm 24. Thấu long, cho biết lai lâm chữ gì. 25. Biết phương: Nam , Bắc, Đông, Tây 26. Hai mươi bốn vị: Can Chi chữ nào. CHƯƠNG THỨ BA 24 LONG NHẬP THỦ Ở trên, đã cho ta biết cách tìm chỗ nào kết huyệt, ở huyệt trường rồi. Nhưng tìm được chỗ kết huyệt vẫn còn chưa đủ. Phải biết tìm hướng của huyệt, và tọa sơn nữa. Hướng của huyệt, phải tương quan với sa và thủy ở trước mặt hay gần bên (ta sẽ học sa pháp và thủy pháp sau). Lại còn phải biết tương quan đến 24 long nhập thủ, hoặc long khởi tổ nữa. Như vậy ta phải lần lượt khai triển từng đoạn thơ trên của cụ Tả Ao. Trước tiên, cụ dạy ta tìm long nhập thủ của nó. (23) Đáo đầu, nhất tiết, hạ châm Có nghĩa là: sau khi đoán phỏng chỗ nào là huyệt kết rồi ta ra ngồi lên đúng chỗ đó, đặt địa bàn lên trung tâm huyệt kết, rồi quay đầu lại đằng sau, nhìn xem đốt long nào gần nhất, đoán là khí mạch ở đốt đó rót vào huyệt, nó chính là long nhập thủ - Long nhập thủ có 24 long ghi trên vòng địa bàn. (24) Thấu long cho biết lai lâm chữ gì? Rồi ta tìm thấu long của long nhập thủ đó theo 60 long thấu địa ghi ở vòng nhân bàn để biết nó hành gì theo phép nạp âm như sau: Ví dụ: Giáp Tý, Ất Sửu là Kim. Giáp Dần, Ất Mão là Thủy. Bính Ngọ, Đinh Mùi là Thủy. Mậu Thân, Kỷ Dậu là Thổ. Nhâm Tý, Quý Sửu là Mộc v.v... Sau tiếp, cụ Tả Ao nói qua về long khởi tổ là chỏm núi cao hay ụ mà từ đó chia ra đổ xuống thành cuộc long mà ta đang xem. Long khởi tổ ở gần thì dễ xem, nhưng ở quá xa thì khó thấy rõ. Nếu ở quá xa ta chỉ cần biết nó ở Nam , Bắc, Đông hay Tây của huyệt trường cũng đủ. Cũng nên nhắc thêm: 1. Long khởi tổ là đỉnh núi hay ụ đất, rót khí mạch vào cả cuộc đất. 2. Còn long nhập thủ là đốt long hay ụ đất, rót khí mạch vào huyệt trường. (25) Biết phương Nam , Bắc, Đông, Tây Biết long khởi tố ở Nam , Bắc, Đông hay Tây rồi ta cũng có thể tạm đoán được đường lối kết phát của long này. Nếu là: Đông (mộc) chủ Nhân Tây (kim) chủ Nghĩa Nam (hỏa) chủ Lễ Bắc (thủy) chủ Trí Biết 4 hướng chỉ là đại khái, nhưng nếu biết chi tiết hơn nó thuộc về long nào trong 24 long thì quý hơn. Lúc đó sẽ biết rõ long khởi tổ quý hay thiện. Cao hơn nữa, biết đến thấu long thì còn tỉ mỉ và chi tiết hơn. Dưới đây ta hãy nói đến 24 long Khởi tổ hay long Nhập thủ: (26) Hai mươi bốn vị can chi chữ nào? Nếu biết rõ 24 long ta sẽ biết nó là: quý long, tiện long, cát long, hung long, âm long hay dương long. Ví dụ: Hợi, Chấn, Canh là 3 âm long và là cát hung, ba long này gọi là tam, cát, long. Hoặc nếu là: Kiền, Giáp, Khôn, Ất ta biết cũng là âm long. Tuy nhiên người ta còn phân tích quý, tiện long, chi tiết hơn, như dưới đây: 1. Âm long: Bính long – Đinh long là thượng cách quý hơn hết. Canh long – Tân long là thứ cách quý Cấn long – Tốn long là thứ cách quý Mão long - Dậu long - Hợi long là tái thứ, thứ cách quý. Tỵ long là trung cách. Mùi long - Sửu long trong có sát khí (ít dùng). 2. Dương long: Hết thảy dương long đều kém âm long, nhưng không phải vì thế mà ta bỏ dương long. Nhân long – Tý long – Quý long là hạng trên. Ngọ long là hạng trung bình Kiền long – Khôn long - Dần long – Thân long - Ất long – Thìn long – Giáp long - Tuất long đều là hạ cách. Có long rồi ta mới biết nạp giáp thủy và sa, Như Kiền long thì Giáp thủy ứng mới quý hoặc Kiền cung (Tuất Kiên Hợi) có sa ứng thì phải có Giáp thủy triều v.v... (Chúng tôi sẽ lần lượt khai triển và viết thành những luận án liên quan đến: sa, thủy và rất nhiều yếu tố khác như: Nạp giáp Mã sơn cục Tá mã cục Mã sơn cố định Tam cát sa Lục tú sa Lộc sơn sa Tá lộc sa Quý nhân sa (luận 8 hàng can) (luận tứ duy và 12 địa chi). Công thức thôi quý (mau phát) Công thức xá văn tinh (suốt đời vô tù tội). Long thủy, đại quan tiết (thủy hội và thủy đáo đường). Công thức hoạch tài thủy Công thức cứu bần tiến thân thủy pháp. Bát quái phối cửu tinh (xem xa về ngũ hành tốt hay xấu). Công thức đại huyền – không ngũ – hành (hướng và thủy phóng). Công thức Cầm tinh về sa Đào hoa thủy Cửu tinh tọa hướng (lấy thủy khẩu làm chuẩn xem nước lại và nước đi). Sa thủy chương trực giải v.v... (tủ sách gia bảo: trước sau sẽ cống hiến quý vị toàn bộ chân địa lý qua những lần xuất bản kế tiếp, theo một thứ tự thực dụng và hữu ích). (26) Hai mươi bốn vị can chi chữ nào 24 chữ là tên 24 long nhập thủ ghi trong vòng địa bàn như dưới đây: Phía Đông có: Cấn, Dần, Giáp, Mão, Ất, Thìn (6 chữ) Phía Nam có: Tân, Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi (6 chữ) Phía Tây có: Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất (6 chữ) Phía Bắc có: Càn, Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Sửu (6 chữ) 24 chữ này gồm có: a). 12 chữ thuộc thập nhị địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi :lol:. 8 chữ thuộc thập can (thiên can) Giáp, Ất, Bính, Đinh Canh, Tân, Nhâm, Quý c). Và 4 chữ thuộc bát quái Càn, Khôn, Cấn,Tốn. Tìm xem lai long thuộc long gì? Để ta có dữ kiện biết nó là: - Âm long hay Dương long - Quý long hay tiện long 1. Âm dương long Trong tử vi và lý học đông phương ta thấy can, chi, bát quái đều có âm dương của nó, như: Tý (dương) Sửu (âm) Dần (dương) Mão (âm) Thìn (dương) Tỵ (âm) Ngọ (dương) Mùi (âm) Thân (dương) Dậu (âm) Tuất (dương) Hợi (âm) Giáp (dương) Ất (âm) Bính (dương) Đinh (âm) Canh (dương) Tân (âm) Nhâm (dương) Quý (âm) hoặc: Càn (dương) Khôn (âm) Cấn (dương) Tốn (âm) Nhưng ở địa lý âm dương của long không giống hẳn như vậy. Ở địa lý âm dương long lại khác như sau: 1. Dương long về địa lý có: Dần, Giáp, Ất, Thìn, Ngọ, Khôn, Thân,Tuất, Càn, Nhâm, Tý, Quý. 2. Âm long về địa lý có: Sửu, Cấn, Mão, Tốn, Tỵ, Bính, Đinh, Mùi, Canh, Dậu, Tân, Hợi. So sánh âm dương long của địa lý với âm dương của can, chi, bát quái ta thấy giống nhau ở phần 12 địa chi và khác nhau ở phần bát can và bát quái như 2 bảng dưới đây: A. So sánh Âm dương về phần địa chi giữa lý số học và địa lý: 12 địa chi Âm dương của lý số học Âm dương của địa lý Dương Âm Dương Âm TÝ x x SỬU x x DẦN x x MÃO x x THÌN x x TỴ x x NGỌ x x MÙI x x THÂN x x DẬU x x TUẤT x x HỢI x x Bảng trên đây trình bày theo 12 chi âm dương long của địa lý, nó hoàn toàn giống như âm dương của 12 địa chi ta thường dùng Nhưng với âm dương của 10 can và 4 quái (Càn Khôn Cấn Tốn) thì có khác nhau như bảng dưới đây: B. So sánh Âm Dương về 8 can và 4 quái giữa lý số học và địa lý 8 can và 4 quái Âm dương của lý số học Âm dương long của địa lý Dương Âm Dương Âm GIÁP x x ẤT x x BÍNH x x ĐINH x x CANH x x TÂN x x NHÂM x x QUÝ x x CÀN x x KHÔN x x CẤN x x TỐN x x Sau đây chúng tôi đưa ra một số tính chất của 24 long. TÍNH CHẤT CỦA 24 LONG 1. Hợi long: Hợi long là âm long là tài thứ thứ cách quý - Hợi long là thiên hoàng và là chính khí của trời đất, sinh người tuấn tú thông minh. 2. Nhâm long: Nhâm long là dương long – sinh người bình thường, chóng suy. Hay sinh người 6 ngón tay, hay 6 ngón chân, hay là sứt môi. 3. Tý long: Tý long là dương long, tức Khảm long, hay sinh người to béo, giàu có, lợi về canh tác. Nếu lập Ngọ hướng mà có Ngọ thủy hồi triều, thì phát nhanh. Khảm long, con trai giữa được phát phúc trước. Tý long, huyệt tọa Tý hướng Ngọ, có gò đống đồng Ngọ, dáng vẻ như vén quần, sốc áo, múa xiêm, sinh con gái dâm đãng. Tý Ngọ là đại dâm chi vị. Tý long lúc phân kim thừa Bính Tý, Canh Tý là vượng, tướng: phát tới ba, bốn đời. Nếu phân kim thừa Mậu Tý, là không vong - Thừa Giáp Tý, Nhâm Tý là cô hư, thì phát ít và chóng tàn. 4. Quý long: Quý long là dương long, thứ long tầm thường hay sinh người béo, tròn và trắng bạch. Quý long hay sinh người đi tu hay phá của. Duy Quý long mà có quý thủy triều, thì lợi về buôn bán. 5. Sửu long: Sửu long là âm long nhưng có nhiều sát khí hay phát võ. - Sửu long cũng phát phú nữa. Năm Tý, năm Sửu hay có hoạch tài. - Khi phân kim Sửu long mà thừa: Đinh Sửu, Tân Sửu là hợp cục. - Khi phân kim Sửu long ta thừa Kỷ Sửu là không vong không tốt, thừa Ất Sửu, Quý Sửu là cô hư, hay sinh người hung ác, trộm cướp, ngu si. - Sửu long hay sinh người gian tham độc ác, bất nhân. Con cái thường to béo. - Sửu là hung long, nên lúc giao thời thì rất anh hùng, và phấn phát. 6. Cấn long: Cấn long thuộc thổ, Âm long và là loại long tốt, sinh người hiền lành, tuấn tú, thông minh, có khoa mục nhiều con lắm cháu, lộc nhiều, của nhiều. Cấn long phát những người tuổi Sửu, tuổi Dần, tuổi Hợi, lập hướng nào phát về tuổi ấy. Cấn long phát rất bền và phát nhiều. Nếu Cấn long mà lập Canh hướng, mà phương Canh lại có gò cao triều huyệt, thì trước phát văn, sau phát võ. 7. Dần long: Dần long là dương long hay phát văn, sinh người tuấn tú. Nếu kiếm được huyệt tốt cũng phát vài đời Dần long, phát tuổi: Dần, Ngọ, Tuất, Hợi. Phân kim thừa Bính Dần, Canh Dần: phát 3 đời. Nếu thừa Mậu Dần là không vong, thừa Giáp Dần, Nhâm Dần là cô hư, chỉ phát một đời, rồi lại bại huyệt, phải tiếp phúc ngôi đất khác. 8. Mão long: Mão long là tái thứ thứ cách của âm long, Mão cũng thuộc loại quý long, sinh người anh hùng hào kiệt, phát về trai trưởng, nhiều con cháu, hay phát võ về tuổi Mão, Tuất. - Nếu được đại cán long, phân kim thừa: Đinh Mão, Tân Mão nhập huyệt, thì phát mãi không bao giờ hết. - Nếu thừa Kỷ Mão là không vong - thừa Ất Mão, Quý Mão là cô hư, chỉ phát võ được một đời rồi chết trận. Mão phương tức Chấn phương, nếu lập Canh hướng là Cổ động lôi tùng, lại thêm có Canh thủy nhập hoài, thì phát dữ như sấm chớp. Mão long, có gò cao ở phương Canh, chắc chắn phát võ, toàn võ. 9. Giáp long: Giáp long là dương long, thuộc Mộc, là loại long thường, sinh người xấu xí, nhỏ bé. - Giáp long hay hoạnh phát về năm Dần, Mão. - Phát phú được một đời thì hết, muốn tiếp tục hưởng phúc, phải kiếm thêm đất khác tiếp phúc. 10. Ất long: Ất long là dương long, cũng giống như Giáp long. 11. Thìn long: Thìn long là dương long thuộc thổ là một trong tứ Mộ long. Hay sinh người gian ác, hay phát tuổi Thìn, tuổi Dậu, chỉ hoạnh phát về những lúc giao thời, nhưng chỉ được một đời rồi tàn. Nếu phân kim thừa khí Bính Thìn, thì phát được một đời. Chẳng may thừa Mậu Thìn thì bị không vong. Thừa Giáp Thìn, Nhâm Thìn là cô hư đành bị nghèo khổ, tai họa. Thìn long mà được phương Thân (phương Tây) cao ứng vào, có thể phát tiến sĩ. 12. Tốn long: Tốn long là âm long thuộc Mộc, chủ về văn chương, sinh người thông minh, tuấn tú. Tốn là con gái lớn, hay phát về con gái. Tốn long mà lập Tân hướng, lại có bút đóng Tân, con cháu đỗ cao. Phương Đoài có gò hoặc ruộng cao hình nga mi, con gái phát cung phi. - Phương Cấn, phương Càn, phương Khôn, phương Tốn có gò cao ứng là quý lắm. - Nếu Tốn long mà lập Canh hướng là văn sang võ. - Tốn long mà được Mộc hình kết huyệt, văn trúng khởi giáp. - Tốn long mà phương Cấn, phương Đoài (Dậu) có thủy triều, thì phát khoa mục. 13. Tỵ long: Tỵ long là âm long, lúc phát thì rất giàu sang, lúc nghèo thì rất bần tiện. - Phân kim: Thừa Tân Tỵ, Đinh Tỵ là vượng, tướng, có thể phát được hai, ba đời Nếu thừa: Kỷ Tỵ là không vong, Ất Tỵ, Quý Tỵ là cô hư, phát một đời, như sấm, như sét, nhưng lúc xuống, thì đồi bại rất nhanh chóng. - Nếu lập Đinh Tỵ kiêm Bính nhập huyệt mà phương Kiền, Hợi có gò đống ứng, mà hướng lại thừa long, hổ hồi đầu, thì con cháu ngẫu nhiên, gặp vua, phát quý. - Tỵ long phát cả quan, văn, võ nhưng lúc xuống lại rất bần tiện không được quân tử như Kiền hay Hợi long. - Tỵ long quyền võ tướng. 14. Bính long: Bính long thuộc hỏa là âm long thuộc loại long tốt, sinh người thông minh, tuấn tú, trí dũng, phát cả văn lẫn võ. - Bính long phát tuổi Tỵ, tuổi Ngọ. Nếu huyệt tọa dư khí lại được chính cán long có thể phát tới năm đời. - Nếu Bính long có án gần, mà thêm nghịch thủy, thì chỉ trong 3 năm là đại phát. - Như Bính long, mà phương Cấn có gò đống thanh tú, ứng thủy triều thì phú quý cực phẩm, phát cả văn lẫn võ. - Nếu phương Chấn, phương Canh có gò đống ứng thì có thể điều khiển nghìn vạn quân. - Phương Tốn, phương Hợi, phương Tân có gò ứng chứng sẽ phát văn. - Bính long mà phương Khôn có ruộng cao, trông như là cờ, con gái phát tướng quân. 15. Ngọ long: Ngọ long thuộc hỏa là dương long, sinh người tóc vàng, da đỏ, phát nhiều về năm Ngọ, Mùi. - Ngọ long là long xấu, phát đấy lại suy đấy, lúc phát như lửa dậy, lúc bại như tro tàn. - Ngọ long mà phân kim, thừa Bính Ngọ, Canh Ngọ nhập huyệt, phát được một, hai đời. - Nếu thừa Mậu, Ngọ là không vong – Giáp Ngọ, Nhâm Ngọ là có hư, chỉ phát một đời rồi bại tuyệt. - Như Ngọ long mà phương Dần, phương Tuất có sơn thủy ứng, là tam hóa cục (Dần Ngọ Tuất) có thể phát một đời trạng nguyên. 16. Đinh long: Đinh long thuộc hỏa là âm long, thuộc loại long tốt. Hỏa tính cấp, chóng phát, sinh người thông minh, nhiều nghề. - Đinh long phát người tuổi Ngọ, Mùi, Dầ, Thân, Dậu, Hợi. - Đinh long dễ sinh thần đồng. - Đinh long có Dần thủy triều, phương Tân có bút, thì văn đỗ đến trạng nguyên và sống lâu 100 tuổi (Đinh chủ thọ). - Đinh long thì phương Cán, Cấn phải khoáng đãng mới tốt. Trái lại phương Càn có gò đống cao sẽ bị tai vạ liên miên. - Đinh long mà có Tốn bút ứng, chỉ thi một lần là đỗ. - Đinh long mà phương Chấn, phương Canh có gò đống ứng, con cháu giàu sang. 17. Mùi long: Mùi long thuộc thổ là âm long sinh người khỏe mạnh, phát võ tướng, phát vào những buổi giao thời. - Mùi long mà phương Sửu có ruộng tròn như cái trống lại có cờ ứng, phát đại tướng, nhưng rất ác, tuy vậy lại xuất tăng ni. - Mùi, Sửu long hay sinh người ăn khỏe. 18. Khôn long: Khôn long là lão âm mà là dương long. Phát một đời không chu toàn, hay sinh người cô quả, bại tuyệt. - Khôn long mà phương Cấn có gò đống ứng, hoặc có nước lai triều, thời phát phú. - Càn cũng như Khôn, tuy có phát nhưng chóng bại. 19. Thân long: Thân long là dương long, chóng phát và chóng suy. - Thân long phát về năm Tý, năm Thân, sinh người béo phệ. Khi nào sinh đến người tóc vàng, tiếng ngắn là đến lúc bại. - Thân long mà phương Dần, phương Giáp có nước nghịch triều, thì chóng phát. - Phương Khôn mà có gò tròn, hoặc vuông, phát thầy chùa. 20. Canh long: Canh thuộc Kim là âm long, thuộc long tốt và hay phát võ, sinh người thanh bạch, tu mi. - Canh long thì hách, giàu sang, và nhiều người ha phát tuổi Thân, Dậu. - Nếu Canh long mà được chính huyệt, phát đến 8 đời. - Canh long mà phương Chấn có cờ, phương Hợi có trống thì võ tướng uy quyền, nghiêng thiên hạ. - Canh long mà Cấn hướng, thì trước phát văn sau phát võ. - Phương Cấn, Tốn, Tân có bút ứng thì văn, võ song toàn. 21. Dậu long: Dậu long thuộc âm dương, thuộc loại long tốt, sinh người thanh tú, phát về năm Dậu, Thìn hay phát văn, phát võ, phát cung phi, nếu mạch tường viễn, phát được 6 đời. - Phân kim thừa Đinh Dậu, Tân Dậu là vượng trường khí, phát lâu bền. Nếu chẳng may thừa Kỷ Dậu, Ất Dậu là cô hư, Quý Dậu là không vong, bị giảm phúc - Dậu long mà phương Tốn, phương Hợi có gò đống, đi thi dễ đỗ. - Phương Chấn có cờ, phương Hợi có trống, là võ tướng. - Dậu long mà phương Dậu có gò đống cao, che đỡ ác khí, phương Mão có nước tụ, làm quan hiển vinh, danh tiếng lừng bốn bề. - Phương Tỵ, phương Ngọ, phương Mão có gò đống ứng tất nhiên phát. - Dậu long, mà từ phương Ly (Ngọ) đến phương Tốn có gò đống liên châu, thì con gái phát hoàng hậu. 22. Tân long: Tân long là âm long thuộc Kim, là loại long tốt, sinh người tao nhã, tuấn tú phát tuổi Dậu, Tuất, Tân, chủ về văn chương, khoa mục - Tân là học đường, như Tân long lập Tốn hướng, mà phương Tốn lại có ruộng nhọn như cây bút, tức nhiên con cháu học giỏi đỗ nhiều. - Tân long mà phương Tốn, phương Hợi có gò đống ứng đi thi trúng tuyển. - Tân long, mà phương Bính, phương Ngọ, phương Đinh có gò đống ứng, văn đến thượng thư. - Tân long, Mão hướng, Mão phương có sơn thủy ứng triều thì văn võ song toàn. - Tân long mà lập Càn hướng, hai bên lại có ruộng trũng, nước trong sáng như mắt mèo, tựa như mặt trời mọc, thì thông minh, học một biết mười, đi thi đỗ đậu. - Tân long mà được huyệt tốt, có nhiều tầng long hổ, có thể phát thần đồng. 23. Tuất long: Tuất long thuộc thổ, là dương long và là một trong tứ Mộ long (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi). - Tuất long hay sinh người gian ngoan, ngu si, hung bạo, hay phát lúc thay đổi thời thế. - Tuất long, hoạch phát về năm Mão, năm Tuất. - Tuất long, phân kim thừa khí Bính Tuất, Canh Tuất mà phương Tốn lại có bút ứng (gò con hỏa hay ruộng nhọn) hoặc phương Nam (Ngọ) có hình Thiên mã – cũng đều phát trạng nguyên. Nếu có huyệt tốt, có thể phát ba đời, rồi sau sinh người ngu ngoan. - Nếu Tuất long, mà thừa: Mậu Tuất, Giáp Tuất, Nhâm Tuất hay sinh người gian ác - Tuất long, mà hai phương Dần, Ngọ có gò đống ứng thì cũng giàu sang. - Tuất long mà huyệt đơn bạc, long hổ ít tầng, thì chỉ phát một đời rồi nghèo khổ. - Tuất long mà phương Mùi có sa hay thủy phản, sinh làm giặc rồi bị tội. - Phương Mùi không có gò đống, mà có nước sâu trũng, hay bị tai họa bất ngờ. 24. Càn long: Càn long là lão dương ở phương Tây Bắc, phát một đời rồi nghỉ. Trên đây chỉ có một hình thức luận long cho 24 long của Khoa địa lý. Trong đó có nhiều câu, chỉ đúng có một phần, trái lại nhiều câu lại quá đúng. Như vậy ta chớ vội nệ vào phần luận long này và cũng đừng bỏ nó đi ngay, chỉ nên dùng nó làm phương tiện lúc đầu. Căn cứ vào nó ta đi tìm học địa lý để xác định lại xem chỗ nào trúng, chỗ nào sai. Sau khi xác định được do kiến thức lý thuyết thực hành của chính ta luận ra, chứ không phải người luận ra lúc đó ta mới thành công. Vậy xin nhắc lại,quý vị đừng hoàn toàn nệ vào sự trình bày tính chất của 24 long trên đây để tránh nhầm lẫn đáng tiếc. CHƯƠNG THỨ TƯ ÂM DƯƠNG LONG THEO LÝ KHÍ 27. Nhận xem cho biết long nào 28. Âm long, âm hướng, thủy toàn phóng âm 29. Dương long, dương hướng, chớ nhầm 30. Thủy phóng dương vị, luận âm dụng gì? CHƯƠNG THỨ TƯ ÂM DƯƠNG LONG THEO LÝ KHÍ Về địa lý, nói về lý khí, ngoài những công thức tìm hướng phù hợp, ta lại còn cách tìm theo âm dương nữa. Cách tìm theo âm dương ở đây là Toàn âm hay toàn dương. Với thuyết toàn âm hay toàn dương này, khoa địa lý có hai đường lối giải thích: 1. Phần đông giải thích rằng: Âm dương là theo Âm dương của ngũ hành của Can, Chi và bát quái ở 24 chữ trên địa bàn. Ví dụ: Tý là dương Sửu là âm Giáp là dương Ất là âm Khôn là âm Càn là dương v.v... 2. Một số ít giải thích rằng: Âm dương theo: Dương là thiên can. Ví dụ: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ v.v... Âm là địa chi và bát quái Ví dụ: Giáp Ất Bính Đinh, Càn Khôn Cấn Tốn Căn cứ vào phép âm dương long và âm dương hướng ở câu 27, 28, 29, 30 của Cụ Tả Ao. Ta thử tìm cách áp dụng và giải thích theo cả 2 cách: A. Cách thứ nhất: Giải thích âm dương theo âm dương của ngũ hành của can chi. (27) Nhận xem cho biết long nào: Ví dụ: Giáp long (dương) Mão long (âm) Ất long (âm) Thìn long (dương) Tốn long (âm) Tỵ long (âm) Bính long (dương) (28) Âm long âm hướng, thủy toàn phóng âm - Nếu là âm long thì hướng của huyệt phải nhìn vào âm hướng (bất kể Can hay Chi). Và thủy khẩu phải phóng vào âm hướng (bất kể Can hay Chi). (29) Dương long Dương hướng chớ nhầm Đừng quên nếu là dương long (dù Can hay Chi) phải dùng dương hướng (dù Can hay Chi) của can chi, bái quái, (30) Thủy phóng dương vị luận âm dụng gì? Dương long, dương hướng thì thủy khẩu phải phóng dươn mới đúng (dù Can, Chi hay bát quái). Nếu dương long hay dương hướng mà thủy khẩu phóng âm thì không dùng được. Không có kết phát. B. Cách thứ hai: Giải thích âm dương theo: 1. Dương là Càn, Khôn, Cấn, Tốn hoặc thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý). 2. Âm là 12 địa chi. 4 câu này: 27. Nhận xem cho biết long nào. 28. Âm long âm hướng thủy toàn phóng âm 29. Dương long dương hướng chớ nhầm. 30. Thủy phóng dương vị luận âm dụng gì? được phải đối nghịch luận như sau: 4 câu trên, một số ít các cụ cho là sai, và các cụ sửa lại như sau: 27. Nhận xem cho biết long nào. 28. Âm long, dương hướng thủy toàn phóng dương 29. Thủy phóng dương vị luận âm dụng gì? Và các cụ cắt nghĩa như sau: 27. Nhận xem cho biết long nào Nhận xem long nhập thủ có phải là ở chữ địa chi như Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi thì mới được. Còn nếu long nhập thủ ở 8 chữ của thiên can hoặc 4 chữ Càn, Khôn, Cấn, Tốn thì không được. 2. Âm long, dương hướng, thủy toàn phóng dương Long vào ở địa chi là âm long thì hướng huyệt bắt buộc phải ở thiên can (như Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý và Càn, Khôn, Cấn, Tốn) là dương hướng, mới được. Thủy khẩu cũng phải phóng thiên can và bát quái như hướng của huyệt. 29. Âm long, dương hướng chớ nhầm. Đừng có lầm, và phải nhớ là bao giờ long cũng phải thu theo địa chi (âm) Hướng huyệt và hướng thủy khẩu phóng lại phải theo thiên can (dương). 30. Thủy phóng dương vị luân âm dụng gì? Thủy phải phóng về thiên can, nếu phóng vào địa chi thì không được Các vị bênh vực phép thứ hai này đều căn cứ vào câu: Vạn thủy đô tòng thiên thượng khứ Quan long giai hướng địa tung hoành. (Thiên thượng là thiên can - Hướng địa là hướng của địa chi). Việc giải thích khác biệt nhau như trên làm cho làng địa lý chia làm 2 hệ phái tranh luận nhau đã mấy trăm năm mà chưa ngã ngũ. Riêng theo các vị chân sư nhận xét thì cả hai phép nói trên đều có chỗ cần bổ túc cho nhau, mà việc bổ túc này, không thể nói ít mà giải đáp được, vì nó liên quan đến rất nhiều yếu tố mà trừ phi học địa lý cho thật sâu sắc, mới tìm ra. Những yếu tố này bao gồm: - Thủy pháp - Sa pháp - Thôi quan pháp - Phép điểm huyệt, phân kim - Và một số bí yếu về địa lý cùng kinh nghiệm địa lý nữa. Sau khi đạt những yếu tố trên, lúc phân kim, điểm huyệt, cân nhắc lợi hại, sẽ thấy rõ ngay. Điểm bí hiểm này, hạn chế các thầy địa lý “tay mơ” không thể nào dùng tài nghệ và kinh nghiệm tầm thường mà làm được đất kết đến mức tối đa của nó. Khoa địa lý sở dĩ cả ngàn năm nay là khoa bí truyền, chỉ vì có nhiều khúc mắc, như khúc mắc nêu trên. Chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra những luận án về từng loại lý khí và loan đầu để giải minh lần lần, trong các bộ sách, thuộc tủ sách Gia Bảo của nhóm chúng tôi, mà 2 bộ địa lý đã xuất bản (Địa lý Tả Ao và Dã Đàm Tả Ao) là 2 quyển đầu. Sở dĩ chưa trình bày ra đây vì phạm vi của quyển này không cho phép đi quá xa phần căn bản cần thiết của nó. CHƯƠNG THỨ NĂM ÂM DƯƠNG LONG THEO HÌNH THỂ CAO THẤP 31. Âm dương lại có phép kia 32. Âm lai dương thụ, âm sư dương hồi 33. Âm là gò đống đất ghềnh 34. Dương là ruộng phẳng, đất bằng như lai 35. Núi non kia, cũng âm hoài 36. Long cường, thì chớ huyệt nơi cao cường 37. Long nhược, nơi thấp chớ màng. 38. Lai dương hòa lại, đường thì bằng chi. CHƯƠNG THỨ NĂM ÂM DƯƠNG LONG THEO HÌNH THỂ CAO THẤP Ta vừa nói tới, (tài liệu mờ) Chú ý: Âm dương theo phương hướng thuộc phần lý khí (là âm dương này). Âm dương theo hình thể cao thấp thuộc phần loan đầu (là âm dương kia). 31. Âm dương lại có phép kia Phép kia: là phép nhìn hình thể cao thấp của long, để luận âm dương. Ta đã biết, cùng một long mạch, nếu chỗ nào cao là âm, và chỗ nào thấp là dương. Vậy khi kết huyệt, thì khi long đến huyệt mà đang cao (âm) thì huyệt trường phải thấp hay bằng (dương). Trái lại khi long dẫn đến huyệt, đang thấp hay bằng (dương), thì huyệt trường phải cao (âm). 32. Âm lai dương thụ, âm su dương hồi. a). Âm lai dương thụ là long cao đi đến huyệt thì huyệt phải bằng hay thấp (âm lai dương thụ). B). Âm su dương hồi là mạch bằng đến huyệt, thì huyệt phải cao (su và thụ nghĩa là chịu theo). Muốn kỹ lưỡng cụ Tả Ao cắt nghĩa rõ âm dương theo hình thể đất như dưới đây: 33. Âm là gò, đống, đất ghềnh 34. Dương là ruộng phẳng, đất bằng như lai. Cắt nghĩa như thế, để con cháu ý thức rằng: tất cả đất đai ta nhìn thấy đều là long cả, dù đất đai đó là: núi cao, gò đống, là đất ghềnh, hoặc là ruộng phẳng, hoặc là đất bằng. Dưới đất đai đều có khí mạch của long. Nếu khí cường, thì nổi cao, và khí nhược thì thấp là đất bằng có thế thôi. Khí mạch, trong vỏ đất, cũng như nhựa cây chạy trong thân cây vậy. Lại có những trường hợp, toàn là núi non, ta phải nghĩ là hỗ này toàn mạch âm, như câu: 35. Núi non kia cũng âm hoài (Núi non là đất nổi cao, có nhiều khí mạch). Gặp trường hợp này, thì huyệt phải không được ở chỗ cao, đúng phép. Mà muốn đúng phép đó thì phải nhớ câu này của cụ Tả Ao: 36. Âm cường thì chớ mạch nơi cao cường Là mạch cao thì chớ kiếm huyệt ở chỗ cao. Còn nói ngược lại, nếu mạch bình dương, chạy bằng phẳng chính xứ, qua ruộng bằng, thẳng cánh cò bay, thì chớ kiếm huyệt trường tại nơi phẳng, như cụ Tả Ao có nói: 37. Long ngược, nơi thấp chớ màng Như thế không có đất kết bởi vì: 38. Lai dương hòa lại dương thì bằng chi Nghĩa là bằng lại thì bằng không phải là đất kết. - Theo như mấy lời giản dị của cụ Tả Ao trong tập này, ta thấy lời cụ là cả một tinh hoa Địa lý và dịch lý. Cái khéo cái hay ở chỗ: chỉ 8 câu ở bài này, chúng ta dùng nó làm vốn, đi tìm huyệt cả nhiều năm liền, theo phép âm lai, dương thụ, âm su dương hồi, mới hiểu được thực tế nó, mới thấy rõ đất đai chỗ nào cũng chỉ là vì âm và dương. Sau nữa mới thấy sự sắp đặt khéo léo của hóa công trên những đất đai trên khắp mọi nơi, mà trước kia, ta chỉ tưởng là những nếp nhăn tự nhiên của quả đất vô tri. Và sau nữa ta mới thấy tinh thần dịch lý đã thu cả vũ trụ vào hai mối âm dương. CHƯƠNG THỨ SÁU LONG TẢ TOÀN VÀ LONG HỮU TOÀN A. LONG TẢ TOÀN: 39. Ruộng giống ngọc sích tiện vi 40. Dương tả, âm hữu, long chia hai đường 41. Tích phòng Đông chí sinh dương 42. Nãi dương Giáp Tý, khí sương tả hành. 43. Khởi tự: Hợi, Tý phân minh 44. Tiến lên ngăn ngắn, thuận hành tả biên 45. Qua Dần, Mão đến Tuất, Càn. 46. Chuyển Hợi nhập cuộc, chí, huyền, phân minh 47. Quần tiên đi, có tống nghênh 48. Mạch nào bên hữu, đã đành chân long 49. Xa nhận nước ở tả cung 50. Dương thủy chảy lại, hội đồng thiên tâm. B. LONG HỮU TOÀN: 51. Đạo trời hạ chí sinh âm. 52. Nãi âm Giáp Tý, khí lâm hữu toàn 53. Tòng Tý nghịch suy: Hợi, Càn. 54. Qua Dậu, Thân, Ngọ đến bên Mão, Dần 55. Nghịch hành về Cấn, Sửu hành 56. Chuyển tả nhập cuộc, ấy phần Dương long 57. Dù hòa thấy nước hữu cung 58. Âm thủy chảy lại, hội đồng giao dương 59. Âm long, dương thủy đã tường 60. Dương long, âm thủy minh đường gặp nhau. C. NÓI THÊM VỀ HOÀNH LONG 61. Bên trước nước đã hợp thâu. 62. Lại nhận có đống bên sau chăng là 63. Hoành long thì nước thực thà 64. Dù chẳng có nước, ắt là đối không. 65. Âm, Dương đã có: thư, hùng. 66. Cửa nhà đã hợp, vợ chồng liên giao 67. Ắt là khí dựng thai bào 68. Tự nhiên sinh đục, lẽ nào vậy vay 69. Chân long, chính huyệt ở đây. 70. Ấy đất Hoành kỵ, lời thầy truyền ta. 71. Kết thoái, dư khí còn xa 72. Hoặc đi trăm dặm, mới ra chiên thần. CHƯƠNG THỨ SÁU LONG TẢ TOẢN VÀ LONG HỮU TOÀN. Chương năm nói về âm dương theo chiều cao thấp. Chương sáu nói về âm dương theo long tả toàn và long hữu toàn. Vì hai phần hơi giống nhau nên chúng tôi xin cắt nghĩa phần trên (long tả toàn) theo hệ thống phân tích và phần dưới (long hữu toàn) theo hệ thống tổng hợp, để quý vị dùng ý kiến của phần nọ đối chiếu với phần kia, sẽ thấu hiểu chu đáo hơn. Khởi đầu là 2 câu mở: 39. Ruộng giống ngọc sích, tiện vi 40. Dương tả, âm hữu, long chia hai đường Có nghĩa là long mạch đi quanh co, khi sang phải, khi sang trái. Nếu đi sang phải là đi theo chiều dương (theo chiều kim đồng hồ). Và đi sang trái, là đi theo chiều âm (đi ngược chiều kim đồng hồ). 1. Đi từ trái sang phải ta còn gọi là long tả toàn, tả hành hay tả biên. 2. Còn đi từ phải sang trái ta còn gọi là long hữu toàn, hữu hành hay hữu biên. A. Long tả toàn 41. Tích phòng Đông Chí sinh dương Mỗi năm cứ đến ngày Đông chí (thường vào tháng 11 âm lịch) thời tiết bắt đầu chuyển sang dương. Tất cả cây cỏ đều thay nhựa mới, ẩn phục trong thân cây, để tạo lá mới, lộc mới cho năm tới. Những chất bổ dưỡng mới này sẽ làm cho cây cỏ chuyển thành nụ hoa, ngọn lá, vào ngày đầu xuân (2 tháng sau). Nói về cây cỏ cho ta dễ nhận xét, nhưng thật ra tất cả vạn vật, kể cả con người, cũng đều chịu sự chuyển dương như thế. 42. Nãi dương Giáp Tý, khí sương tả hành. - Từ Tý đi thuận là đi tả hành. - Tý có 5 phần bắt đầu từ trái sang phải trước hết: Giáp Tý, rồi đến Bính Tý, Mậu Tý, Canh Tý, Nhâm Tý. Sau Tý sẽ đến Sửu (xin xem bản địa bàn (la kinh) của Cao Trung. Ta đã hiểu, như trên, từ trái sang phải là chiều Dương hay chiều Tả Toàn hay Tả hành hay Tả Biên. 43. Khởi tự: Hợi, Tý, phân minh Theo tả toàn thì Hợi rồi đến Tý. 44. Tiến lên ngăn ngắn, thuận hành tả biên. Long đi theo chiều Dương, đi từ trái sang phải (Tả biên). Các đốt long cứ từng đốt dài, ngắn đi theo chiều kim đồng hồ (nếu sự di chuyển này ở trước mặt chúng ta, còn như đi sau lưng, nếu ta không quay lại, thì sẽ đi ngược lại). 45. Qua Dần, Mão đến Tuất Càn. Tý đến Sửu đến Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi rồi Thân, Dậu, Tuất, Hợi là theo chiều dương. Nhưng vòng địa bàn có 24 ô, chứ không phải chỉ là 12 ô địa chi, nên ta cũng có thể viết: Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp, Mão, Ất, Thìn, Tốn, Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn. Các đốt long ít khi đi đủ vòng tròn như trên. Thực tế nhiều khi long: - Chỉ đi độ vài chữ, ít khi thành một vòng tròn đầy đủ. - Và long cũng không mấy khi bắt đầu đi từ Tý. Long có thể bắt đầu đi từ bất cứ chữ nào và cũng có thể chấm dứt cuộc đi để vào đất kết từ bất cứ chỗ nào. 46. Chuyển Hợi nhập cuộc, chi huyền phân minh. Ví dụ: Long đi từ Tuất, Càn rồi chuyển vào Hợi mà nhập thủ vào đất kết. Tuy gọi là đi vòng phải, hay vòng trái, nhưng không bao giờ Long đi thẳng đúng như một vòng tròn, Long đó thường đi khúc khuỷu, khi sang phải, lúc sang trái, trông như chữ chi và chữ huyền. (Long đi chữ chi, chữ huyền mới là Long tốt, có nhiều sinh khí, tưởng tượng như con rắn, con rồng uốn khúc. 47. Quân tiên đi có tống nghênh Cụ Tả Ao cho địa lý là môn học của bậc thần tiên, nên nhìn long đi, cụ tưởng tượng như là “bầy tiên đi” (quần tiên). Long tốt đi, có sa và thủy đón đỡ hoặc nghênh tiếp các đốt long. Cụ gọi đó là quần tiên (các đốt long) đi có tống nghênh (sa, thủy đón đỡ là tống nghênh). 48. Mạch nào bên hữu, đã đành chân long. Long đi tả toàn, là long từ bên hữu sang bên tả là chân long. 49. Xa nhận nước ở tả cung Long đi từ trái sang phải (tả toàn) lúc vào kết huyệt, thường nhận được nước vào minh đường từ bên tả, bên phải đế (nước ở tả cung). Lý do long tả toàn không nhận nước ở xa từ hữu đến vì long quay sang phải hay gặp nước ở phát tổ sơn về từ bên phải, và ngược lại long hữu toàn, long quay sang tay trái, hay nhận được nước xa đến, từ bên trái. Nước này thường là nước, mà đi ngược lên ta có thể tìm đến nguồn nó, là nước từ thiếu tổ sơn hoặc thiếu tông sơn đi ra. Nó chính là nước bát tự, nước mở cửa cho long từ tổ sơn đi ra. 50. Dương thủy chảy lại, hội đồng thiên tâm. Phải có thêm nước từ bên trái (nách tay long của ngôi đất) lại hội với thủy, ở xa, từ bên phải đến, mới là thủy giao hội mới tốt. Nước từ xa đến là dương thủy. Nước ở huyệt trường hoặc nách long, hổ sa gọi là âm thủy. (tài liệu mờ) B. Long hữu toàn Sau khi phân tích long tả toàn (trái sang phải) rồi, ta thử tìm hiểu xem cụ Tả Ao nói gì về long hữu toàn (phải sang trái). Chúng tôi đã phân tích kỹ long tả toàn ở phần trên rồi, phần long hữu toàn dưới này, chúng tôi sẽ nói cô đọng hơn. Chỉ trừ ra câu nào đặc biệt mới phân tích: 51. Đạo trời hạ chí sinh âm: Theo tiết khí thì vào khoảng tháng năm, mùa hạ là tháng có tiết Hạ chí, lúc này thời tiết bắt đầu chuyển sang âm. 52. Nãi âm Giáp Tý, khí lâm hữu toàn. Đi tả toàn là đi theo chiều dương, thì đi hữu toàn là đi chiều âm. Cũng nói bắt đầu từ Giáp Tý, nhưng đi ngược chiều kim đồng hồ chạy. 53.Tổng tý nghịch suy Hợi Càn. Đi theo Càn, Hợi là đi thuận, thì bây giờ đi theo Hợi, Càn là đi nghịch. (Ta cũng bắt đầu từ Tý là cho dễ). 54. Qua Dậu, Thân, Ngọ đến bên Mão, Dần. Đi nghịch thì từ Tý đến Hợi, Càn, Tuất, Dậu, Thân, Khôn, Mùi, Đinh, Ngọ, Bính, Tỵ, Tốn, Thìn, Ất, Mão, Giáp, Dần v.v... (xin xem hình bìa). 55. Nghịch hành về Cấn Sửu hành Cứ thế, nếu long cứ đi tiếp nối nghịch chiều (hữu toàn) thì đến Cấn, Sửu và Quý rồi cùng trở về đến Tý là đủ một vòng tròn. 56. Chuyển tả nhập cuộc ấy phần âm long Âm long là long đi chiều nghịch từ phải (hữu) quay sang trái (tả). 57. Dù hòa thấy nước hữu cung Long đi chiều nghịch, hữu toàn, phải sang trái, dễ nhận được nước xa, ở bên trái (tả) đến. 58. Âm thủy chảy lại hội đồng giao dương Lại phải có âm thủy (nước từ nách long hổ hoặc từ huyệt trường) chảy ra gặp đường thủy (nước từ xa đến) mới là trọn vẹn. Hai nước này hội ở trước huyệt. 59. Âm long, dương thủy đã tường. 60. Dương long, âm thủy minh đường gặp nhau. Ta đã có âm lẫn dương thủy, nên ta có: 1. Dương long (tả toàn) gặp âm thủy 2. Âm long (hữu toàn) gặp dương thủy. Và nếu đối với nước ở xa đến thì: 1. Long tả toàn khi gặp nước ở xa lại thì là long bên hữu đến gặp nước ở xa bên tả đến. 2. Long hữu toàn khi gặp nước ở xa lại thì là long bên tả đến gặp nước ở xa bên hữu đến. Đây là hai điểm quan trọng của nội cuộc đất, để biết có huyệt kết hay không. Ít thầy địa lý hiểu được điểm này, và cũng ít sách nói đến. ( Còn tiếp - dienbatn )
-
NHỮNG HIỂU BIẾT CẦN THIẾT VỀ BÀN THỜ THẦN TÀI - ÔNG ĐỊA . Tại các cửa hàng và gia đình hiện nay, chúng ta thường thấy có bàn thờ Ông Địa - Thần Tài . Việc thờ cúng đó có nguồn gốc như thế nào ? Cách thờ cúng và bài trí ra sao ? Trong mục này , dienbatn xin cùng các bạn tìm hiểu về vấn đề này nhé . Theo CAO ĐÀI TỪ ĐIỂN , có viết như sau : " Thần tài: 神財 A: The Genius of fortune. P: Le Génie de fortune Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. Tài: tiền bạc, của cải. Thần tài là vị Thần cai quản về tiền bạc và của cải. Theo tín ngưỡng dân gian, Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhứt là gia đình mua bán hay kinh doanh đều có bàn thờ Thần tài, đốt nhang nghi ngút để cầu xin Thần tài cho mua may bán đắt, trúng mối lời nhiều, đem lại nhiều tiền bạc sung túc. Người đời rất quí trọng tiền bạc nên rất quí trọng Thần tài. Những nhà kinh doanh đều có lập bàn thờ Thần tài rất long trọng, đặc biệt bàn thờ Thần tài không được đặt trên cao mà phải đặt ngay trên mặt gạch nền nhà. Tục thờ Thần tài được người Tàu truyền cho dân ta. Người Tàu sang nước VN làm nghề buôn bán trở nên giàu có, mỗi nhà người Hoa đều có thờ Thần tài nên người Việt thấy vậy bắt chuớc theo. Nhiều nhà không có thờ phượng Trời Phật chi hết mà lại thờ Thần tài. Sự tích của Thần tài: có nhiều sự tích nhưng dân gian thường nhắc hai sự tích sau đây: 1. Thần tài là một cô gái tên là: Như Nguyện. Ngày xưa, có một lái buôn tên là Âu Minh, khi đi thuyền qua hồ Thanh Thảo, được Thủy Thần tặng cho một cô hầu gái tên là Như Nguyện. Âu Minh đưa Như Nguyện về nuôi trong nhà. Sự buôn bán từ ngày đó trở đi càng ngày càng phát đạt, chỉ trong vòng vài năm mà Âu Minh trở thành một nhà giàu có lớn. Một hôm, vào Tết Nguyên đán, Âu Minh tức giận đánh Như Nguyện làm nó sợ hãi, chui vào đống rác trốn mất. Kể từ đó, việc buôn bán của Âu Minh bắt đầu thua lỗ sa sút, chẳng bao lâu thì sạt nghiệp, trở nên nghèo khổ. Người ta cho rằng, Như Nguyện là Thần tài. Lúc Âu Minh nuôi Như Nguyện trong nhà thì Thần tài ủng hộ nên làm ăn phát đạt. Tới khi Như Nguyện bị đánh rồi bỏ đi thì Thần tài không còn chiếu cố Âu Minh nữa nên làm ăn sa sút, thất bại. Do sự tích nầy, người ta có tục kiêng cử quét rác và hốt rác trong ba ngày Tết, sợ Thần tài không có chỗ ẩn trốn mà đi nơi khác thì việc làm ăn trong năm sẽ bị xui xẻo thất bại. Cũng do sự tích nầy mà người ta lập bàn thờ Thần tài sát nền đất hay nền gạch, không đặt cao như các bàn thờ khác, và đặt ở góc nhà hay nơi hàng hiên. Nhưng trong thực tế, người ta thường gọi là Ông Thần tài chớ không ai gọi là Bà Thần tài, nên sự tích Thần tài là cô gái Như Nguyện chưa hẳn là chính xác. 2. Thần tài là ông Triệu Công Minh: Ông Triệu Công Minh ở đây không phải là Triệu Công Minh trong truyện Phong Thần hay trong truyện Bắc Du Chơn Võ, mà là một người dân ở núi Võ Đang bên Tàu. Truyện dân gian Trung quốc kể rằng: ở vùng núi Võ Đang có một ông già tên là Triệu Công Minh nhà rất nghèo. Ngày ngày, ông xách giỏ đi khắp nơi xin quần áo cũ để mặc và xin cơm cặn canh thừa để ăn. Nghèo đến thế nhưng ông lão có nuôi một con chó đen già và một con vịt lông vằn không đẻ trứng. Gần đấy có một ông phú hộ, gọi là Tiền Viên Ngoại, tánh rất xa xỉ và bất nhân, cơm ăn không hết thì đem đổ xuống cống, áo mặc cũ rồi thì bỏ vào đống rác. Ông lão nghèo họ Triệu thấy vậy mới lượm gom hết các quần áo cũ đem phân phát cho những người nghèo, hốt các canh thừa cơm cặn ấy về nuôi chó và vịt. Bỗng một hôm, con vịt đẻ ra 10 quả trứng vàng, còn con chó già thì khạc ra 10 thoi bạc. Từ đó thành lệ, mỗi ngày vịt và chó đều đẻ và khạc ra vàng bạc cho lão Triệu. Lão Triệu trở nên rất giàu có, trong lúc Tiền Viên Ngoại thì càng lúc càng nghèo vì tánh xa xỉ. Một thời gian sau, Tiền Viên Ngoại phải đi ăn xin, khi gặp lại Triệu Công Minh, lão Viên cảm thấy rất xấu hổ. Họ Triệu thông cảm, giúp cho lão Viên một số tiền khá khá đủ làm vốn liếng làm ăn, nhưng Lão Viên quen tánh tiêu xài xa xỉ nên dần dần hết vốn, trở nên nghèo khổ. Lão Viên lại sanh ác tâm, thấy họ Triệu giàu lớn như vầy bèn tính giết Triệu Công Minh để chiếm đoạt tài sản. Lão Viên thừa lúc vắng vẻ, lén đốt nhà của Triệu cháy ra tro, nhưng họ Triệu không chết, con vịt biến thành chim Phụng bay vút lên trời, con chó già biến thành con cọp đen xông ra cắn chết lão Viên, tất cả vàng bạc của Triệu đều hóa thành đá, và Triệu Công Minh biến thành Thần Tài. Dân chúng lập miểu thờ Triệu Công Minh gọi là Thần tài miếu. Chúng ta không thể xác định được người VN thờ Thần tài vào lúc nào, bởi vì như trên đã nói, việc thờ Thần tài là do người VN bắt chước các Hoa kiều, như thế những người VN thờ Thần tài chắc chắn là những người thường làm ăn buôn bán với các Hoa kiều. Việc thờ Thần tài trong mỗi gia đình khiến cho người ta sáp nhập Thần tài vào các Thần bản gia như: Thổ địa, Ông Địa, Ông Táo. Do đó, người Tàu làm ra một tấm bài vị gộp chung các danh hiệu của các vị Thần bản gia để thờ, mà người ta thường gọi là "bài vị Thần tài", và chúng ta thấy bài vị nầy được thờ ở hầu hết trong các tiệm quán, nhà buôn, ở các văn phòng công ty và xí nghiệp. Bài vị Thần tài được vẽ trên một tấm kiếng, nền sơn đỏ, tất cả đều là chữ Hán màu nhũ vàng, vẽ một cái cổng mà hai trụ có rồng quấn, trên cổng có tấm bảng đề "TỤ BẢO ĐƯỜNG" nghĩa là ngôi nhà có tụ lại những thứ quí báu, phía dưới có vẽ một cái TỤ BẢO BỒN là cái chậu huyền diệu chứa của báu. Sau đây là một kiểu bài vị Thần tài và các Thần bản gia: 堂寶聚寶進 財招銀 樹 正 開 花 前 後 地 主 財 神 五 方 五 土 龍 神 金 枝 初 潑 腳 祥吉意如安平季四順風帆一 CHÚ THÍCH: (chữ Hán trên bài vị đọc từ phải qua trái và từ trên xuống dưới) 聚寶堂 : TỤ BẢO ĐƯỜNG: nhà chứa của quí báu. 招財 : Chiêu tài: mời gọi tiền của. 進寶 : Tiến bảo: dâng hiến bảo vật. 金枝初潑腳 : Kim chi sơ phát diệp: Cành vàng bắt đầu trổ lá. 銀樹正開花 : Ngân thụ chánh khai hoa: Cây bạc chánh thức nở hoa. Hai câu trên là đôi liễn đặt hai bên bài vị, như để chúc tụng. Trong một kiểu bài vị khác, đôi liễn trên được viết là: Thổ năng sanh bạch ngọc (Đất thường sanh ngọc trắng) Địa khả xuất hoàng kim (Đất khá xuất vàng ròng). 如意吉祥 : Như ý cát tường: tốt lành như ý muốn. 一帆風順 : Nhứt phàm phong thuận: thuận buồm xuôi gió. 四季平安 : Tứ quí bình an: bốn mùa bình an. Hai câu chữ lớn ở chính giữa là danh hiệu của các Thần bản gia để thờ phượng: 五方五土龍神 : NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỔ LONG THẦN 前後地主財神 : TIỀN HẬU ĐỊA CHỦ TÀI THẦN ■ Ngũ phương Ngũ thổ Long Thần: năm vị Thần trấn năm hướng và năm vị Thần đất đai long mạch sắp đặt theo Ngũ Hành gồm: bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, và Trung ương. ● Năm vị Thần Ngũ phương là: Hoàng đế (Trung ương), Bạch đế (hướng Tây), Hắc đế (hướng Bắc), Thanh đế (hướng Đông), Xích đế (hướng Nam). ● Năm vị Ngũ Thổ Long Thần là năm vị Thần long mạch coi về đất đai, bảo hộ cư dân làm ăn sinh sống, gồm: Thổ Công, làm chủ nền nhà. Thổ Thần, làm chủ khu đất. Thổ Địa, cũng gọi là Môn Khấu Thổ Địa Tiếp Dẫn Tài Thần: Thần Thổ Địa trực ở cổng để tiếp dẫn Thần Tài vào nhà. Thổ Phủ, bảo hộ các kho hàng. Thổ Kỳ, cai quản mặt đất nói chung. ■ Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần: gồm hai vị: Tiền Địa Chủ Tài Thần và Hậu Địa Chủ Tài Thần. ● Tiền Địa Chủ Tài Thần là Thần Tài của chủ đất trước. Thờ vị Thần nầy là có ý báo bổn tư nguyên, tức là báo đáp cái gốc, nhớ đến cái nguồn. ● Hậu Địa Chủ Tài Thần là Thần Tài của chủ đất sau, tức là thờ vị Thần Tài của chủ đất hiện nay. (Theo Huỳnh Ngọc Trảng - Nguyễn Đại Phúc: Thần Tài - Tín ngưỡng và Tranh tượng) Những cơ sở kinh doanh các ngành nghề đều có thờ Thần Tài. Họ lập bàn thờ Thần tài lớn và trang nghiêm rực rỡ, chưng cúng bông và trái cây thường xuyên, cúng nước mỗi sáng mỗi chiều đều đốt nhang khấn vái để Thần Tài luôn luôn phù hộ cho họ làm ăn phát tài. Trên bàn thờ, ngoài bài vị Thần Tài còn có đặt phía ngoài hai tượng: tượng Ông Địa và tượng Ông Thần Tài. Đạo Cao Đài không có chủ trương cấm đoán các hình thức tín ngưỡng dân gian như việc thờ cúng Thần Tài, Ông Địa, Ông Táo, Ông Độ Mạng, Bà Mẹ Sanh,... nhưng cũng không khuyến khích các việc ấy, vì các sự thờ cúng trên đều có tánh cách mê tín, vị kỷ, cầu lợi lộc, tiền bạc cá nhân, đi sâu vào sự ràng buộc con người vào vòng vật chất, khó thoát khỏi luân hồi, trái với lẽ đạo là tu để cầu giải thoát, chớ không phải tu để cầu hưởng sự giàu sang danh vọng. Giáo lý của Đạo Cao Đài cho thấy rõ rằng, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều là những bậc sáng suốt, công bình, vô tư, không biết ăn hối lộ của vật chất thế gian do người trần dâng cúng. Ai làm lành thì được thưởng, ai làm ác thì bị đọa, theo đúng Luật Nhân Quả là luật công bình thiêng liêng của Trời Đất. Sự giàu có không phải do van xin Thần Thánh, mà là do phước đức của mình tạo ra từ kiếp trước. Một người nghèo khổ là do kiếp trước gây nhiều việc ác, tạo nhiều nghiệp xấu nặng nề, thì dầu trong kiếp nầy có lạy cầu Thần Thánh đến dập trán chảy máu đầu cũng không thể khá hơn được. ● Thuở xưa, Đức Khổng Tử có dạy rằng: Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ phúc, Vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ họa.Nghĩa là: Làm điều lành thì Trời báo đáp cho điều phước, Làm điều chẳng lành thì Trời báo đáp điều tai họa.● Đông Nhạc Đế Quân cũng có nói rằng: Thiên Địa vô tư, Thần minh thời sát, Bất vị tế hưởng nhi giáng phúc, Bất vị thất lễ nhi giáng họa.Nghĩa là:Trời Đất không tư vị, các Thần sáng suốt thường soi xét, Không phải vì hưởng cúng tế mà xuống cho điều phước, Không phải vì thất lễ mà xuống cho điều tai họa.● Kinh Sám Hối cũng có câu: Thần minh chánh trực có đâu tư vì. ( Còn tiếp - dienbatn) .
-
2/ HÔ THẦN NHẬP TƯỢNG ( KHAI QUANG - ĐIỂM NHÃN ) . Đây là một tài liệu về cách HÔ THẦN NHẬP TƯỢNG ( KHAI QUANG ) dienbatn sưu tập được của Tiểu Không mà quên mất nguồn : " Tượng mới chưa dùng thỉnh về từ các tiệm buôn cần tẩy uế, hay rửa cho sạch bụi. Dùng một bát nước sạch, trì chú Thanh Tịnh Pháp Án Lam Xóa Ha (21 hay 27 (9x3) lần) dùng với ấn Bảo thủ và kiết tường. Dùng nước đó để rửa sạch tượng. Dùng một bát nước sạch, bỏ vào ít nước hoa, trì chú Thanh Tịnh Pháp Án Lam Xóa Ha, tri thêm chú Cam Lồ Thủy vào nước (7 hay 9). Dùng nước đó để rửa tượng. Nước đã dùng đổ ra trước sân hay vẩy chung quanh nhà, không đổ xuống cống. In Kinh Đại Bi Sám Pháp, Đại Bi Tâm Chú với chủng tử Phạn ngữ, Bát Nhã Tâm Kinh với chủng tử Phạn Ngữ. Dùng nước hoa thơm thấm vào 4 góc và chính giữa kinh. Trì chú Thanh Tịnh Pháp vào trong kinh (7 hay 9 lần). Trì tụng kinh đó 7 hay 9 ngày. Dùng chỉ ngũ sắc kết lại thành dây. Ngũ sắc là năm mầu của ngũ hành: Vàng, Trắng, Đen (hay xanh da trời), Xanh lá cây, và Đỏ. Dùng chú tẩy uế rồi vừa kết chỉ vừa trì Lục tự Đại Minh Thần Chú Án Ma Ni Bát Di Hồng. Sau khi đã đầy đủ, để kinh Bát Nhã phạn tự trên Kinh Đại Bi Sám Pháp, để Đại Bi Tâm chú phạn tự chồng trên kinh Bát Nhã, rồi cuốn tròn lại, cuộn sao cho thấy các chủng tử ở ngoài. Dùng dây chỉ ngũ sắc đã kết cột kinh lại. Có thể gấp lại và bỏ trong bao, dùng dây ngũ sắc cột miệng bao lại. Vẽ 3 chủng tử Om Ah Hum (phạn tự hay Tạng tự đều được) canh vẽ sao cho chữ Om phần giữa hai lông mày, Ah ở miệng, và Hum ở cổ của tượng - khoản cách đều nhau. Hay in ra rồi lấy mực đỏ đồ lên. Khi vẽ chữ Om thì trì chữ OM, vẽ chữ Ah thì trì chú AH, vẽ chữ Hum thì trì chú HUM. Nếu tập vễ các chủng tử, tập vẽ rồi mang tất cả ra ngoài đốt. Dùng giấy có Om Ah Hum dán ở trong lòng tượng đúng theo vị trí như trên. Để kinh đã cuốn dựng đứng trong lòng tượng. Để cho chữ viết đúng, đừng để ngược xuống. Niêm kín lỗ rỗng dưới lòng tượng lại. Phân này luôn trì Nam Mô Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Linh Cảm Ứng. Tất cả vật dụng đều phải dùng chú để tẩy uế! Sau đó đọc kinh an vị Phật (xem trong kinh nhật tụng) Các tượng Phật Bồ Tát khác cũng làm như thế. Vẽ thêm chủng tử của vị Phật hay Bồ Tát của hình tượng ở phần đầu của chú Đại Bi Tâm phạn tự. Hình của Bồ Tát cũng theo trên mà làm. Dùng nước thanh tịnh để lau chùi khung ảnh. Phần sau của hình thì vẽ các chủng tử Om Ah Hum như đã dẫn ở trên. Hay in ra dùng mực đỏ vẽ đồ lên các chủng tử rồi dán sau hình cũng được. Kinh và dây ngũ sắc để phía sau hình. Đây là cách cho các bạn ở xa không phương tiện nhờ chư Tăng hay các thầy điểm nhãn cho hình tượng chư Phật hay Bồ Tát. Hình tượng đã thờ lâu ngày không cần phải làm. Để đỡ tốn tiền mực, dùng hình kinh Bát Nhã phạn tự chữ đen trên nền trắng. - TK " Một cách khác của Thày Sương Mãn Thiên chỉ cho dienbatn như sau : Tượng mới thỉnh về cũng làm sạch như đối với bát nhang . Các đồ cho vào tượng qua lỗ trống ở dưới đáy tương tự như khi cho vào bát nhang . Sau đó , dùng băng keo dán kín lỗ ở dưới lại . Lập đàn pháp của Tiên gia theo nghi quỹ sau : NGHI THỨC CÚNG LUYỆN PHÉP : Thường thường luyện vào các thời Tý –Ngọ –Mão –Dậu. Luyện theo trình tự như sau : • Người luyện trước đó phải tắm rửa sạch sẽ. • Thắp nhang 3 nén chắp tay cầm nhang theo hiệp chưởng ấn. • Quán tưởng Linh phù như sau : • Đọc CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI : ( Ôm ram xóa ha ) –7 lần. • Tịnh CHÚ TAM NGHIỆP : (ÁN SA PHẠ BÀ PHẠ –TRUẬT ĐÀ SA PHẠ –ĐẠT MA SA PHẠ –BÀ PHẠ TRUẬT ĐỘ HÁN ) –3 lần. • Đọc CHÚ NIỆM HƯƠNG : ( NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ) –3 LẦN. Nam mô hách hách dương dương. Nhật xuất Đông Phương. Vạn sự Thần Pháp kiết tường. Hộ Thần đệ tử thủ chấp phần hương. Họa Linh phù Tiên sư Tổ sư chứng giám. Án Thiên linh linh. Án Địa linh linh. Ngã linh Thần phù lai ứng hiện. Án Thiên viên –Địa phương –Thập nhị công chương. Thần Phù đáo thử trừ Tà ma ,Quỷ mị bất đáo vãng lai. Trừ bá bệnh ,trừ tai ương. (Nam mô Phật tổ Minh dương Bồ tát ma ha tát ) –3 lần. Xá 3 xá,sau đó cắm nhang trên bàn thờ. • KIẾT ẤN HỘI TỔ :Bấm ngón tay cái vào ngón Tý của 2 lòng bàn tay,sau đó đưa lên bấm vào móng tay của ngón áp út,móc hai ngón trỏ và giữa vào nhau,ngón út dựng đứng.Đặt ấn Hội Tổ lên sát ngực và đọc CHÚ HỘI TỔ như sau : • CHÚ HỘI TỔ : (Nam mô Phật Tổ Như lai chứng minh. Đạt ma Tổ sư chứng minh. Nam mô Tam giáo Đạo sư Tam Thập lục Tổ. Tổ Xiêm,Tổ Lèo,Tổ Miên,Tổ Mọi. Mình dưới Châu giang –Bà lai đàng Chà. Mẹ sanh,mẹ Lục,ông Lục Phật Tổ,Cửu Thiên Huyền nữ,Lỗ Ban chơn tử. Thập nhị Thời Thần. 12 vị Thần Bùa,Thập lục ông Tà bà Tà ,bà Lục. Cảm ứng chứng minh cho Đệ tử là ..... –TUỔI .... đả thông Huệ Tâm,Huệ Nhãn,Huệ Nhĩ,Huệ Thiệt,Huệ Khẩu đắc quả Linh phù cứu Thế ,trợ Dân ) –3 lần. • Xả ấn hội tổ lên trên đầu để khỏi đánh trúng các vong linh vô tình đứng gần. • Đọc xong xá 3 xá. • THỈNH TỔ LỖ BAN : ( Nam mô vạn Pháp Lỗ Ban. Nam mô Tiên sư Lỗ Ban. Nam mô vần vận chuyển. Nam mô thanh tịnh vận chuyển . Chư Thần vãng lai trợ trì Đệ tử ... –Tuổi .... luyện phép cứu nhân độ Thế. Sâm ăn băn khoăn –Ba ra rơ tá –Bơ rơ bơ rơ mặc mặc –Cẩn thỉnh Thần minh bảo trì cấp cấp như luật lệnh. ) –3 lần. • Trong khi đọc Quán tưởng BÙA LỖ BAN như trên. CHÚ KHAI QUANG - ĐIỂM NHÃN . Lấy một thau nước sạch –Lấy bông xé bỏ vào và xịt thêm dầu thơm. Nhúng ông Địa hay Thân Tài vào tắm.Sau đó lấy dẻ lau khô rồi để trên Đạo tràng. Cúng nhang,nến,nước lạnh cho Phật hay rươụ cho Thần. Bắt ấn Tý và đọc chú khai quan : CHÚ KHAI QUANG : Phụng thỉnh Thổ Địa chi Thần Hoặc –Phụng thỉnh Tài Thần. Giáng hạ tại vị chứng minh –Kim vì ấn chú tên là ….Tuổi…Phát Tâm phụng thờ cốt vị.Xin ngài giáng hạ nhập vô –Hồn nhãn nhập nhãn –Hồn nhĩ nhập nhĩ –Hồn tâm nhập tâm –Túc bộ khai quờn –Tâm can,tì phế,thận –Cấp cấp linh linh. Sau đó cầm ba cây nhang chỉ vào từng chỗ mà đọc : Điểm nhãn nhãn thông minh . Điểm nhĩ nhĩ thinh thinh. Điểm khẩu khẩu năng thuyết. Điểm phủ túc thông hành. Cấp cấp như luật lệnh. Khi quán tường tập luyện nhìn đèn cầy,nhìn nhang sao cho lá Bùa lọt toàn bộ vào trong ánh lửa. Khi luyện phép xong phải nói 3 lần :Tống Thần –Tống Thần –Tống Thần. MỘT SỐ LÁ PHÙ CẦU TÀI CÓ THỂ BỎ VÀO TƯƠNG HAY DÁN TRÊN BÀN THỜ . -------------------------------------------------------------------------------- Cách làm như trên thuộc phái Lỗ Ban của Đạo Tiên Gia . Còn theo Mật Tông thì sau khi đọc xong nghi quỹ của bổn tôn , các bạn chỉ cần trì 21 biến của BẠCH Y THẦN CHÚ , LỤC TỰ MINH CHÚ HAY CHUẨN ĐỀ ... vào tượng . Sau cùng là hồi hướng cho các chư vị Thần là xong . Trên đây là những hiểu biết cần thiết về bàn thờ Ông Địa - Thần Tài . Những điều đó chỉ giúp các bạn có khái niệm và những việc cần phải làm khi lập bàn thờ . Khi lập bàn thờ nên nhờ các vị có chuyên môn cao , đức hạnh trọng làm cho thì bàn thờ mới được linh nghiệm , đủ sức giúp cho thân chủ làm ăn phát đạt . Và điều sau cùng dienbatn muốn nhắn nhủ các bạn : " CÓ ĐỨC MẶC SỨC MÀ HƯỞNG " , tu thân , tích đức mới là mọi nguồn suối của hạnh phúc trong cõi Ta bà này . Chúc các bạn thành công . Thân ái . dienbatn . Tác Giả:dienbatn. Nguồn:Blog360.dienbatn