Lê Bá Trung

ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ - CAO TRUNG .

4 bài viết trong chủ đề này

ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ - CAO TRUNG . 1

LỜI TỰA



Tập sách Địa Lý Trị Soạn Phú của Cao Trung.

Ta đã biết địa lý có 2 phần: Loan đầu và Lý khí. Loan đầu là những gì thực tiễn của khoa địa lý mà ta có thể trông thấy trực tiếp trên đất đai nếu ta biết tìm nó.

Lý khí là phần trừu tượng áp dụng các công thức Lý học Đông phương vào khoa địa lý để đưa đến kết quả tốt đẹp hơn.

Bộ địa lý Vi sư pháp vừa xuất bản năm 1996 đã cho ta biết vững vàng về Loan Đầu.

Bộ này, bộ Địa Lý Trị Soạn Phú phải đưa ta đến phần Lý khí, là phần có thể nói rất khó vì nó áp dụng nhiều công thức của nhiều bộ môn của Lý học Đông phương như Hà Đồ, Lạc Thư, các quẻ của Chu dịch, của Nhâm độn, của Giáp độn, của Lịch số, của Thiên văn v.v...

Mấy ai đã học hết các bộ môn kia nên Lý khí xưa nay vẫn được coi là mơ hồ và khó hiểu.

Những áp dụng chân chính thì rất hay nhưng bên cạnh nó lại thường kèm theo một số áp dụng man thư do một số man thư muốn giữ độc quyền của khoa địa lý bày đặt ra để làm lạc lối người học địa lý. Các cụ cho biết là Vua Hồng Vũ nhà Minh muốn giữ độc quyền khoa địa lý cho Hoàng tộc, nên có thuê một số man thư viết thêm nhiều áp dụng man thư cho người sau học dễ lạc vào rừng lý khí man thư mà không có thể giỏi và không làm đúng được.

Lý khí tuy có lẫn man thư nhưng nếu là chân thư thì lại là phần rất quan trọng của khoa địa lý nếu ta nắm vững loan đầu và biết tránh cái sai của man thư.

Vậy học địa lý không thể bỏ lý khí được mà chỉ cần tránh lý khí man thư mà thôi.

Về phần lý khí của bộ sách này chúng tôi đã cố gắng trình bày thật rõ rệt, bỏ đi những điều gì mơ hồ như phần nhiều các sách địa lý khác đã làm từ xưa đến nay.

Ngoài ra chúng tôi cũng vẽ rất nhiều đồ hình để giải thích cho dễ hiểu và cho đỡ sai lầm.

Cuối sách này chúng tôi cũng tiếp tục trình bày thêm một số đất kết Cao Biền.

Bộ trước, bộ địa lý vi sư pháp đã trình bày các kiểu đất kết của Cao Biền trong 9 Phủ huyện thuộc tỉnh Hà Đông và Hà Nội.

Bộ này tiếp tục trình bày những đất kết Cao Biền trong ba tỉnh: Sơn Tây, Vĩnh Phúc Yên và Phú Thọ.



CAO TRUNG









CHƯƠNG 1

ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ

Hướng dẫn



Đây là các câu phú mô tả những công thức, những cách cục tốt, xấu của các cuộc đất. Cũng như trong Tử Vi có các câu phú mô tả các cách cục xấu tốt của lá số Tử Vi. Phần địa lý trị soạn phú này có trên 200 câu, trình bày các yếu tố khác nhau của huyệt kết. Không bắt buộc một ngôi đất phải có tất cả những gì hay, tốt của tất cả các câu phú này, nhưng càng nhiều càng tốt.

Các câu phú, có câu nói về hành long, là nói về long mạch đi từ tổ sơn đến huyệt trường.

Có câu nói về huyệt trường và những điều kiện tốt của huyệt trường như tiền quan, hậu quỷ. v.v...

Có câu nói về tay long, tay hổ ôm vòng hai bên huyệt trường như thế nào mới là tốt, mới là kín đáo che gió cho huyệt trường.

Hoặc ngoài long hổ còn có diệu nữa thì tốt ra sao.

Có câu nói về Án như bàn giấy trước huyệt trường, án nga mi thì sinh con gái đẹp, án bái tướng thì làm lơn.

Án là thành phần của Chu tước vì Chu tước là các gò đống đứng trước, huyệt trường.

Có câu nói về Thành quách bao quanh nơi cuộc đất, chứng tỏ đó là đất kết lớn.

Có câu nói về Huyền Vũ sau huyệt trường là nơi dự trữ khí mạch để cung cấp khí mạch cho huyệt trường.

Huyền vũ càng đầy đặn càng tốt. Đầy đặn nhưng phải cúi đầu xuống huyệt trường mới được, còn như đày đặn mà đứng thẳng cũng không tốt.

Phần Địa lý trị soạn phú này dài nếu so với các Chương khác. Vì nhiều quá khó nhớ, khó lĩnh hội, và mau chán dù hay nên chúng tôi phải chia nó ra làm 7 Phân Chương và đánh số từ 1-1 đến 1-7.

Dưới đây là bắt đầu chương 1-1.



CHƯƠNG 1-1 ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ



Câu 1: Địa lý đa đoan, lý quy nhất yếu, quý cục quý ứng, thực bất khả sai. Tiện cách tiện ứng, tín bất vu hỹ.

Dịch (1) Địa lý đa đoan mà chung quy có một lý, quý cục quý ứng không thể sai lầm. Tiện cục tiện ứng thực là dùng vậy.



Câu 2: Càn Sơn Càn hướng thủy lưu Càn, Thiên Ất cao phong xuất trạng nguyên.



Câu 3: Tốn sơn, Tốn hướng thủy lưu Tốn, Chấn Canh kỳ cổ quan ngoại khổn.

Dịch (2) Càn sơn, Càn hướng nước cũng chảy về Càn mà Thiên Ất (hướng Tuất) có núi cao thì phát trạng nguyên.

Dịch (3) Tốn sơn nước cũng chảy về Tốn mà phương Chấn Canh có cờ trống thì trấn thủ biên cương.



Câu 4: Hậu đầu sơn tư phương tương, tài hóa nhật, tích.



Câu 5: Diện tiền sơn như đốn bút, hào kiệt thời sinh.

Dịch (4) Hậu đầu sơn như két vuông, tiền của ngày một nhiều.

Dịch (5) Diện tiền sơn như ngòi bút, hào kiệt phát sinh lắm.

Câu 6: Quý tiện quan ư Đoài vị, thọ yểu hệ ư Càn phương

Dịch (6) Quý tiện quan hệ ở phương Đoài, thọ yểu quan hệ ở phương Càn.

Giải thích (6) cung Đoài chủ quý, cung Càn chủ thọ.



Câu 7: Huyền Vũ sơn hoành hậu, nam nữ thọ xương



Câu 8: Chu tước thủy trừng thanh, tử tôn thanh tú.

Dịch (7) Huyền vũ sơn hùng hậu, trai gái thọ trường.

Dịch (8) Chu tước thủy trong sạch, con cháu thanh tú.

Giải thích (7) Huyền vũ nếu cao dày là có chứa nhiều khí mạch cho huyệt trường, làm cho huyệt trường nhiều khí mạch nên dày dặn xung mãn. Con cháu sẽ khỏe mạnh sống lâu.

Giải thích (8) Chu tước là bao gồm tất cả những gì ở trước huyệt trường như án, sa, diệu v.v... Câu này nói là nếu trước huyệt có án, sa diệu và ở chỗ nước trong thì con cháu nhà đó sẽ thông minh.



Câu 9: Hạ sa thu tận nguyên đầu thủy, tử tôn mãi tận thế gian điền.



Câu 10: Khố tích ư Bính Dần chi vị, tử tôn các xuất phú gia ông

Dịch (9) hạ sa thu hết nước đầu nguồn, con cháu mua cả ruộng thế gian.

Dịch (10) Kho chứa ở cung Bính, Dần, con cháu đều phú gia.

Giải thích (9) Câu này hơi khó giải thích, vậy trước tiên ta phải nhớ là: những gò đống trước và xung quanh huyệt trường đều được gọi là sa.

Ở đây nói về đầu long hổ gần huyệt trường nhất cũng là sa nhưng được gọi là hạ sa. Hai hạ sa ở đầu long, hổ này rất quan trọng, vì hạ sa gần nhất thu khí, gần khí cho có huyệt kết và cái hạ sa bên kia, xa hơn thu thủy cho có tiền của.

Ở huyệt kết hồi long cố tổ thì có hạ sa thu khí rồi huyệt lại quay lại (hồi long) thu được cả thủy từ đầu nguồn về, nên con cháu sẽ rất giàu, có đủ tiền mua được nhiều ruộng đất của thế gian. Vì vậy các thầy địa lý rất ham kiếm đất hồi long cố tổ để được vừa giàu vừa sang.

Giải thích (10) Cung Bính hay cung Dần có gò, có núi lớn như cái kho, cái cót thóc thì con cháu sẽ giàu.



Câu 11: Diện tiền cận thủy như bối đao sơn túc mãn thương nhi nô mãn vũ.



Câu 12: Viễn thùy đầu nhi cận tiếp mạch, hương quán chúng, nhi triền quán ban.

Dịch (11) Trước mặt gần nước, sau nữa xa hơn có núi, thì thóc đầy kho, nô bộc đầy nhà.

Dịch (12) Sa thủy đầu gần kề trán, ở làng bậc nhất ở triều đình thì ở đầu ban.

Giải thích (11) Trước huyệt có nhiều nước, xa nữa mới tới núi thì thóc đầy kho, nô bộc đầy nhà.

Giải thích (12) Án gần huyệt mà cúi đầu trước huyệt thì ở làng bậc nhất là tiên chỉ và nếu làm quan ở Triều đình thì cũng nhất triều (tể tướng, thủ tướng)



Câu 13: Án tiền vạn giáp, nhất hô bá nặc.



Câu 14: Án hữu tam tiêm bút, nhất cử tam khôi.

Dịch (13) Trước án có vạn giáp sơn, một câu hô trăm câu dạ.

Dịch (14) Ngoài án có 3 cây bút, một lần đi thi, đỗ tam khôi.

Giải thích (13) Tất cả những núi non trước huyệt đều cúi đầu chầu vào huyệt thì người được đất đó hô một câu có trăm người dạ.

Giải thích (14) Trước án có một cây bút cũng đã học giỏi và đi thi đỗ cao rồi, thế mà trước án có những 3 cây bút thì khi đi thi không những đỗ cả 3 khoa, mà lại đỗ đầu nữa (Cụ Nguyễn Khuyến tục gọi là cụ Tam nguyên Yên Đổ, một lần đi thi đỗ đầu cả 3 khoa).

Đồng thời với cụ, có cụ nghè Vân Đình, là cụ Dương Khuê cũng đỗ đầu cả ba khoa nhưng phải thi nhiều lần. Hai cụ rất thân với nhau nên khi cụ Dương Khuê mất, cụ Nguyễn Khuyến có làm bài thơ phúng viếng rất nổi tiếng mở đầu có những câu:

Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau

Kính yêu từ trước đến sau v.v...

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua

Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa

Hai cụ kính yêu nhau về tài học. Cụ Nguyễn Khuyến thường nói là tài học cụ Dương Khuê có thể thi một lần đỗ tam khôi như mình, tiếc thay cụ phải thi nhiều lần. Còn cụ Dương Khuê thì nói là cụ Nguyễn Khuyến xứng đáng thi đỗ tam khôi.

Một hôm cụ Nguyễn Khuyến lại thăm cụ Dương Khuê ở Vân đình trở về và cụ Dương Khuê đi theo tiễn đến bờ sông, trước khi cụ Nguyễn Khuyến lên thuyền xuôi về Yên Đổ, Bình Lục, Hà Nam. Tại bờ sông hai cụ thấy mấy bà vạch đít trắng hếu ngồi ỉa đồng. Cụ Yên Đổ liền đọc:

“Vân Đình hữu ý khuy toàn diện”. Câu này nghĩa đen là nếu cụ Vân Đình để ý thì có thể nhìn thấy tất cả bề mặt của các bà. Nghĩa bóng là nếu cụ Vân Đình cố gắng, có thể đi thi một lần đỗ đầu ba khoa.

Cụ Vân Đình liền đáp lại:

“Yên Đổ vô tình thức bán luân”

Nghĩa đen câu này là: Cụ Yên Đổ vô tình mà đã thấy nửa vành bánh xe của các bà. Nghĩa bóng là cụ Yên Đổ dù thi sơ sơ cũng đủ tài đỗ đầu cả 3 khoa.



Câu 15: Mộc sinh văn sĩ, Thổ vượng điền ngưu, Kim chi thượng thư.



Câu 16: Thủy sinh lang dịch. Thổ khai khẩu, phú gia địch quốc.

Dịch (15) Một phát văn tài, Thổ vượng ruộng trâu, Kim tới Thượng thư.

Dịch (16) Thủy phát lang cấp, Thổ mở miệng, giàu ngang nhà nước.

Giải thích (15) Đất kết hình mộc (nhỏ nhắn, dài) thì phát văn. Đất kết hình thổ (thô kệch) thì làm ruộng phát đạt. Đất hình kim (tròn đẹp) thì làm quan có thể đến thượng thư.

Giải thích (16) Đất hình thủy thì phát quan lang, huyệt kết hình Thổ (vuông hay chữ nhật) mà khai Oa kết huyệt thì giàu nhất nhì trong nước.



Câu 17: Mộc khai Oa, sĩ khôi thiên hạ

Dịch (17) đất hình Mộc khai Oa kết huyệt, sẽ đỗ đầu thiên hạ.



Câu 18: Quý cực phẩm, tại hồ tứ duy sơn ngật



Câu 19: Phú địch quốc, tại hồ cửu khúc thủy triều.

Dịch (18) Sang cực phẩm, do ở Tứ duy có núi mọc

Dịch (19) Giàu nhất nước, tại vì thủy có 9 khúc triều về.

Giải thích (18) Đất có núi cao trấn 4 phương cân đối (thuộc tứ duy) là:

- Càn (Tây bắc)

- Khôn (Tây nam)

- Cấn (Đông bắc) và

- Tốn (Đông nam) là đất quý cực phẩm.

Giải thích (19) Nước từ minh đường chảy ra thủy khẩu hay nước từ thủy khẩu chảy đi, nếu chảy khuất khúc tốt hơn chảy thẳng. Chảy khuất khúc đến 9 khúc là tốt nhất.



Câu 20: Sinh phong hầu, tử miếu thực, tại hồ ngũ khí triều nguyên.



Câu 21: Thiếu chi quý, lão đắc toàn, tại hồ bát phương bất động.



Dịch (20) Sống phong hầu, chết thành hoàng, bởi tại ngũ khí triều nguyên.

Dịch (21) Trẻ cực sang, già có của, do ư bát phương bất động.

Giải thích (20) Đất có ngũ khí triều nguyên là đất kết có huyệt trường hình Thổ ở trung ương, Đông có hình mộc, Tây có hình Kim, Nam có hình Hỏa và Bắc có hình Thủy.

Giải thích (21) Huyệt trường được che gió kín, 8 hướng đều không bị xuy vong.



Câu 22: Long tiêm phong, tử tôn tảo phát đăng khoa.



Câu 23: Hổ thùy đầu, gia môn đa sinh anh hùng

Dịch (22) Long có núi nhọn, con cháu sớm đăng khoa bảng.

Dịch (23) Hổ cúi đầu, gia môn sinh lắm anh hùng.

Giải thích (22 – 23) Long tốt phải dài và nhỏ, hổ tốt phải cao và cúi đầu.



Câu 24: Khảm, Cấn, Chấn vi tam nam: Tốn, Đoài, Ly vi tam nữ. Mỗ vị ứng, mỗ vị phát, mỗ vị khuyết tắc, mỗ vị suy.

Dịch (24) Khảm, Cấn, Chấn là 3 trai; Tốn Ly Đoài là 3 gái. Ứng ngôi nào là phát ngôi đó; khuyết ngôi nào thì suy ngôi đó.



Câu 25: Sĩ khôi thiên hạ, tại hồ bút giá xấm vân.



Câu 26: Sĩ trúng thiếu niên, tại hồ bút sáp đảo địa.

Dịch (25) Đỗ đầu thiên hạ là do giá bút ngất tầng mây.

Dịch (26) Đăng khoa tuổi trẻ là do bút mọc cài mặt đất.

Giải thích (25 – 26) Bút đứng (bút cao tới mây) tốt hơn bút nằm (bút đảo địa).



Câu 27: Lực thống tam quâ, tại hồ liệt ấn liệt kiếm



Câu 28: Quyền thu vạn chúng, tại hồ bài cổ bài chung

Dịch (27) Thống lĩnh ba quân, tại vì sẫn ấn, sẵn kiếm.

Dịch (28) Chỉ huy vạn chúng, tại vì có trống có chiêng.

Giải thích (27 – 28) Đất phát võ là làm lớn phải có chiêng trống và kiếm ăn.



Câu 29: Tam quân xuất trận anh hùng tướng



Câu 30: Lưởng sĩ phù kiên trúng một nho

Dịch (29) Ba quân xuất trận, phát tay danh tướng

Dịch (30) Hai sĩ phò vai, sinh bậc túc nho.

Giải thích (29-30) Nếu thấy hai vai huyệt trường có 2 quả gò là được cách lưỡng sĩ phù kiên. Đất có cách này sẽ sinh được con, cháu là nho sĩ có tài học thâm thúy.



CHƯƠNG 1 – 2

ĐỊA LÝ

TRỊ SOẠN PHÚ

(Tiếp theo)

Hướng dẫn



Chương 1 chia làm 7 chương nhỏ (phân chương)

Đây là chương nhỏ thứ 2 (1 – 2) của Địa lý trị soạn phú bắt đầu từ câu 31 cho đến câu 60.



Câu 31: Thiên hán lĩnh giang tâm, đỉnh sinh hùng tướng



Câu 32: Hoa biểu hãn thủy khẩu, trấn tĩnh biên khu

Dịch (31) thiên hán trấn giữa sông, phát sinh hùng tướng.

Dịch (32) Hoa biểu ngăn thủy khẩu, trấn tĩnh biên khu.

Giải thích (31 – 32) Đây nói về thủy khẩu là thành phần rất quan hệ cho một cục đất kết. Thủy khẩu là cái gò đống hoặc đống đá, cù lao, chỗ thắt lại ngăn nước chảy, để đóng cửa giữ nội khí cho khỏi tán nên mới có đất kết.

Nói đến thủy khẩu người ta nghĩ đến người lính gác văn phòng, hoặc toàn lính gác những cơ sở lớn, hoặc nhiều toán lính gác các cung điện, dưới quyền chỉ huy của các cấp chỉ huy lớn nhỏ khác nhau. Nếu thủy khẩu có những tinh phong nhỏ như quy, sà hình thì gọi là cầm tinh trấn thủy khẩu. Những tinh phong ở thủy khẩu, lớn hơn như hình sư tử, voi, lân... ta gọi là thú tinh trấn thủy khẩu.

Nếu có cái sơn đứng cao như canh gác thủy khẩu thì gọi là Hãn môn hay Thiên hán hoặc Hồng kỳ. Nếu thủy khẩu có 1 cái hay 2 sơn hình mộc tinh (hình dài) thì gọi là Hoa biển trấn thủy khẩu. Những Thiên hán, Hoa biểu hay Hồng kỳ do long mạch từ Thiếu tổ sơn kéo đến trấn thủy khẩu thường là đất lớn, hay phát sinh hùng tướng hay những vị lãnh trấn tĩnh biên khu. Câu phú 31 – 32 trên nói về loại thủy khẩu lớn này.



Câu 33: Văn chương quán thế, tại hồ quỷ hậu sử thôi.



Câu 34: Tinh nhuệ bạt luân, tại hồ thần đồng tiền lập.

Dịch (33) Văn chương quán thế, tại vì đuôi chuột đằng sau (đây nói về hậu quỷ).

Dịch (34) Tinh nhuệ hơn đời, tại vì thần đồng ở đằng trước (đây nói về tiền quan).

Giải thích (33-340 Đất có tiền quan, hậu quỷ rất dễ sinh những nhân tài hơn đời.



Câu 35: Văn chương quán xuất, tại hồ thủy diệu ấn phù



Câu 36: Vũ dũng đỉnh sinh, tại hồ mão phương kiếm lập.

Dịch (35) Văn chương lừng lẫy, ấn nổi mặt nước sui nên.

Dịch (36) Võ tướng phát sinh, kiếm tại mão phương hợp cách.

Giải thích (35-36) Ấn nổi mặt nước phát văn tốt hơn ấn trên cạn.

Kiếm phương Chấn, Canh là hợp cách về võ, nên dễ phát lớn về ngành võ.



Câu 37: Sơn kiến tam thai, vị cư Tể tướng



Câu 38: Sơn hình tứ thú, đa xuất phú ông

Dịch (37) Sơn hiệu tam thai, làm quan Tể tướng.

Dịch (38) Sơn hình tứ thú, sản xuất phú ông.

Giải thích (37-38) Chứng ứng hình tam thai là quả núi hay quả gò có 3 chỏm nhọn cao vút lên (giữa cao, 2 bên thấp) nên làm quan đến tể tướng. Còn chứng ứng hình thô kệch, to như con thú chỉ sản xuất ra nhà giàu, làm ruộng, ăn to vác nặng.



Câu 39: Tịch mạo ỷ lập diên tiền. Đông cung thì giảng.



Câu 40: Mịch đầu ỷ cứ huyệt hậu, lưỡng dịch, thừa ân

Dịch (39) Tịch mạo nơi trước huyệt. Thị giảng đông cung.

Dịch (40) Màn trướng tựa sau lưng, thừa ân cửu bệ.



Câu 41: Tiền miên cung, hậu khai trướng, chân quý vô nghi.



Câu 42: Nội bế thành, ngoại mật quách, phong hầu tại thử

Dịch (41) Trước ôm lại, sau khai trướng (sau ôm lên) thực là quý nhất.

Dịch (42) Trong bế thành, ngoài mật quách, tất phải phong hầu.



Giải thích (41) Tiền miên cung là trước ôm lại. Hậu khai trướng là sau khai trướng ôm lên. Đó là cách thế tốt. Trước sau phải như thế mới có huyệt kết. Và hai bên Long hổ cũng phải bao che nữa mới được.

Giải thích (42) khi nào thấy nội cuộc có Thành và ngoại cuộc có Quách từ Thiếu hoặc Thái tổ sơn về ôm bên ngoài hết tầng này đến tầng khác nữa thì đó là đất lớn, đất được phong hầu.



Câu 43: Nga my kiến ư Tốn cung, khuynh thành quốc sắc.



Câu 44: Liên châu khởi ư Đoài vị, nội điện cung phi

Dịch (43) Nga my hiện ở Tốn cung, khuynh thành quốc sắc.

Dịch (44) Liên châu khởi ở Đoài vị, nội điện cung phi.

Giải thích (43) Hình nga my (như nửa vành trăng) ở Tốn cung có con gái là trang quốc sắc.

Giải thích (44) Như chuỗi châu (tròn nhỏ liền nhau) ở cung Đoài thì có con gái làm phi.



Câu 45: Trang đài ư hiệu khiết diệc nhiên.



Câu 46: Dậu, Tốn chi lai long diệc thị.

Dịch (45) Trang đài, thanh giá cố nhiên.

Dịch (46) Dậu, Tốn lai long cũng vậy.

Giải thích (45-46) Lai long ở Dậu hay ở Tốn có sa hình liên châu hay hình bán nguyệt thì con gái cũng là bậc trang đài, thanh khiết như tả ở câu phú 43 – 44 ở trên.



Câu 47: Long liên châu, hổ đới ấn, khoa mục tự kỳ.



Câu 48: Tả nghịch sa, hữu thủy nhiễu, phú quý bất dịch

Dịch (47) Long liên châu, hổ đeo ấn, khoa mục hẹn ngày.

Dịch (48) Tả biên sa, hữu thủy triều, giàu sang vô địch.

Giải thích (47-48) Câu 45-46 nói về sa tốt cho nữ giới, bây giờ câu 47-48 nói về sa tốt cho nam giới và cho biết là nếu trên tay long hay tay hổ có tinh phong hiện lên như chuỗi châu hay như đeo ấn thì con trai học giỏi hễ đi thi là đỗ cao.

Hoặc bên tả có sa tốt mà bên hữu có thủy triều thì giàu sang vô địch. Khoa địa lý còn có phép nạp giáp nghĩa là long nào đi với thủy nào thì lại tốt gấp bội. Chúng tôi sẽ trình bày nó kế tiếp.

Câu 49: Đường tiền chi lan thủy triều dương, gia đa kim ngọc.



Câu 50: Điền nội chi nhất điền đê tiểu, gia vượng điều ngưu

Dịch (49) Trước minh đường có làm nước triều dương nhà nhiều vàng ngọc,

Dịch (50) Trong minh đường có một mảnh ruộng trũng (tụ thủy), nhà vượng ruộng trâu.

Giải thích (49-50) câu 49 nói về ngoại đường và câu 50 nói về nội đường. Nội đường chỉ cần có chút nước là đủ rồi, nhưng ngoại đường càng rộng lớn càng tốt.



Câu 51: Địa hữu thác, lạc, đa sinh trác việt chi tà.



Câu 52: Địa hữu quỷ, quan, tất chủ thông inh chí sĩ.

Dịch (51) Đất có thác lạc, sinh lắm nhân tài trác việt.

Dịch (52) Đất có quỷ quan tất phát nhiều bậc thông minh chí sĩ.

Giải thích (51 – 52). Sau huyệt có thác lạc, quanh huyệt trường có quan quỷ đều là đất phát người có tài trác việt hơn đời.



Câu 53: Liên hoa xuất thủy, sinh Đại tướng



Câu 54: Mãnh hổ tại sơn, phát đại quan

Dịch (53) Liên hoa xuất thủy, đại tướng phát sinh (hoa biểu từ tổ sơn đến trấn thủy khẩu là đất phát tướng).

Dịch (54) hổ tại sơn (có núi đất, núi đá thú hình trần thủy khẩu) phát đại quan.

Giải thích (53-54) Thủy khẩu có núi lớn hình liên hoa hay mãnh hổ (thú tinh) từ Thiếu tổ hay Thái tổ sơn kéo về thì phát võ rất lớn như vậy.



Câu 55: Cầm hình văn quan, thú hình võ tướng, chân đích vô nghi



Câu 56: Sơn thế nhân đinh, thủy thế tài vật, quả đích hữu nghiệm.

Dịch (55) Cầm hình phát văn, thú hình phát võ, quả thực không sai.



Câu 56: Sơn thế nhân đinh, thủy thế tài vật, quả đích hữu nghiệm.

Dịch (55) Cầm hình phát văn, thú hình phát võ, quả thực không sai

Dịch (56) Sơn thế phát đình, thủy thế phát phú, ứng nghiệm chẳng lầm.

Giải thích (55) Trấn thủy khẩu hình cầm (nhỏ, dài) phát văn. Trấn thủy khẩu hình thú (hình to, lớn) phát võ.

Giải thích (56) Sơn tốt sinh người tài giỏi, thủy tốt phát nhiều tiền của, vì sơn chủ quý và thủy chủ phú.



Câu 57: Chấn, Canh triều, phú nhi kham địch quốc



Câu 58: Hợi, Tốn triều, phú nhi bẩm gia truyền.

Cố viết: Hợi sơn nhất thăng, khả dĩ tri phú

Tốn thủy nhất nhược, khả dĩ cứu bần.

Dịch (57) Chấn Canh triều về, tiền của như nước.

Dịch (58) Hợi Tốn triều về, giàu có truyền đời nên mới nói: Hợi sơn một thăng, có thể nên giàu. Tốn thủy một nuôi, có thể cứu bần.

Giải thích (57-58) Chấn, Canh, Hợi, Tốn là 4 hướng tốt. Hướng Tốn, Hợi có nước, có núi dù ít cũng giàu. Muốn kiếm đất cứu bần nên lưu ý hai hướng tốt này.



Câu 59: Xích sà nhiễu ấn, chủ đại quý



Câu 60: Bạch hổ đới ấn, chủ võ quan

Dịch (59) Xích sà nhiễu ấn, phát đại quý.

Dịch (60) Bạch hổ đới ấn, chủ võ quan

Giải thích (59) Ấn ở hướng Tốn Tỵ gọi là xích xà nhiều ấn, đại quý.

Giải thích (60) Bạch hổ đới ấn dễ phát võ.

(Còn Tiếp)

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHƯƠNG 1 – 3

ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ

(Tiếp theo)

Hướng dẫn

Đây là phân chương 1-3 là phần thứ 3 của chương 1 Địa lý trị soạn phú. Phân chương này bắt đầu câu 61 cho đến câu 90.

Câu 61: Bính, Đinh, Ngọ tủng bạt, độc bút, chiếm khôi nguyên.

Câu 62: Canh, Dậu, Tân tú kim, tất cao đăng tể phụ.

Dịch (61) Bính, Đinh, Ngọ một bút vươn lên, chiếm bảng khôi nguyên.

Dịch (62) Canh, Dậu, Tân tú kim hiển hiện, giữ ngôi Tể phụ.

Giải thích (61-62) Bút ở Bính, Ngọ, Đinh càng cao càng tốt, đi thi sẽ đỗ đầu. Canh, Dậu, Tân có gò tròn đẹp sẽ làm lớn.

Câu 63: Thủy tại Khảm phương, thân Quý.

Câu 64: Kim tại Đoài vị, danh cao

Giải thích (63-64) hình thủy tại phương bắc là đắc vị phát quý. Hành kim tại phương Tây là đắc vị, là quý, sẽ có danh cao.

Câu 65: Danh cao niên thiếu, phong thanh khôi đệ, đích thị Dần Thân.

Câu 66: Văn chương quán thế, quần nho thụ lâp, bút tiêm Đinh, Tốn

Dịch (65) Tuổi trẻ lừng danh khôi đệ (tuổi trẻ đỗ cao, chính là Ấn đới Dần Thân)

Dịch (66) văn chương quán thế quần nho (văn chương vượt trội các nho sĩ khác) vì có bút tiêm (bút nhọn) tại Đinh, Tốn...

Câu 67: Kim tinh tự phú chung, vi khởi, thần đồng giáp cập đệ

Câu 68: Kim tinh như vân lôi, tiểu phong, võ tướng chí quận công

Dịch (67) kim tinh như chuông úp, gợn lên, thần đồng chiếm khôi bảng.

Dịch (68) Kim tinh như vân lôi nho nhỏ, võ tướng phong quận công.

Giải thích (67-68) có gò kim tinh nhỏ (tinh phong) trên thần long, hoặc trên các gò đống khác thì rất quý.

Câu 69: Các trục, hoa khai, nam hôn công chúa.

Câu 70: Viên nhiễu, hình kiến, nữ xuất cung phi.

Dịch (69) Cáo trục hoa khai, trai làm phò mã.

Dịch (70) Viên nhiễu hiện hình, gái phát hậu phi.

Câu 71: Sơn hùng dũng, sinh nhân hùng dũng, lưu ý nhi quan.

Câu 72: Sơn thô ác sinh nhân thô ác, dụng tình nhi biện

Dịch (71) Sơn hùng mạch sinh người hùng mạnh, lưu ý mà coi.

Dịch (72) Sơn thô ác sinh người thô ác, dụng tình mà xét.

Giải thích (71-72) thường thường long mạch từ tổ sơn xuống mà vào kết huyệt ngay thì hùng mạnh hoặc thô ác sẽ sinh người hùng mạnh hoặc thô ác; còn long mạch từ tổ sơn xuống còn bác hoán nhiều lần cho thành cát long rồi mới và kết huyệt thì sinh người tuấn tú hiền lành hơn.

Câu 73: Thủy thô cấp, nhân đa tai họa, thử vô hư ngữ.

Câu 74: Thủy triều dương, nhân sinh hòa nhã, thử hữu tín ngôn.

Dịch (73) Nước thô cấp sinh người nhiều tai họa, nói đúng không sai

Dịch (74) Nước triều êm đẹp, sinh người hòa nhã, lời nói đáng tin.

Giải thích (73-74) cứ coi thủy đã biết đất đó sinh người thô nhã, cát hung như thế nào rồi.

Câu 75: Viễn hổ hồi đầu, phúc viên ngoại tộc.

Câu 76: Ngoại long hồi đầu, phúc ấm ngoại tông

Dịch (75) Hổ xa quay đầu về, phúc diên ngoại tộc.

Dịch (76) Long ở ngoài quay đầu lại, phúc ấm ngoại tông.

Giải thích (75-76) đất có ngoại long, ngoại hổ từ tổ sơn về bao vây lấy cuộc đất, làm thành quách cho cuộc đất, mà đầu long, hổ đó lại quay đầu ôm lấy cuộc đất là đất đó được tổ tiên để lại phúc ấm cho, thường phát rất lớn.

Câu 77: Bút hổ thôi thân, ngao đầu trúng tuyển.

Câu (78) long bảng ngoại diện, mã thượng vinh hồi

Dịch (77) bút hổ thoát ra, ngao đầu trúng tuyển.

Dịch (78) Bảng rồng trước mặt, cưỡi ngựa vinh quy.

Giải thích (77-78) Tay hổ thoát ra cây bút (hình nhỏ dài và nhọn đầu) hay tay long có bảng (hình vuông hay hình chữ nhật) thì đi thi là đỗ, được cưỡi ngựa vinh quy.

Câu 79: Địa hữu tam đường, hoàng kim bạch ngọc thượng xa xỉ.

Câu 80: Địa hữu tam trĩ, công danh phú quý chấn gia bang.

Dịch (79) Đất có 3 minh đường, vàng ngọc tiêu xài xa xỉ.

Dịch (80) Đất có án tam thai, công danh phú quý lẫy lừng thay.

Câu 81: Tý lai long, Ngọ kỳ triển, hách dịch nhất thời.

Câu 82: Thủy Mão tụ, diện sơn cao, khanh tướng vạn cổ.

Dịch (81) Tý long lai, Ngọ mở cờ, hách dịch một thời

Dịch (82) Mão thủy tụ, mặt núi cao, vẻ vang muôn thuở.

Giải thích (81) Long đến từ Tý và huyệt hướng Ngọ, tại Ngọ có núi như cờ mở là đất phát hách dịch một thời.

Giải thích (82) cung Mão có thủy tụ lại có núi cao là đất kết vua biết mặt chúa biết tên. Nhưng phải cẩn thận, núi cao ở hướng Đông phải xa huyệt trường, còn núi cao ở hướng Đông lại sát huyệt trường mà huyệt trường lại thấp thì dù có tài giỏi cũng không được vua biết đến.

Câu 83: Thần bút lâm giang, trạng nguyên chi bút.

Câu 84: Hồng kỳ tại Ngọ, võ tướng chi kỳ.

Dịch (83) Thần bút gần sông là bút trạng nguyên.

Dịch (84) Hồng kỳ ở Ngọ là cờ võ tướng.

Giải thích (83) Bút chấm nước ở sông lớn tốt hơn bút trên cạn, nên có bút chấm nước là dễ thi đỗ trạng nguyên.

Giải thích (84) Cờ hình hỏa, phương nam thuộc hành hỏa nên đắc vị.

Câu 85: Thiên hạ bình định, Cấn, Hợi, Tân, Tốn chi sở suy.

Câu 86: Thiên hạ nhiễu chấn, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi chi sở phát.

Dịch (85) Thiên hạ bình địa, do Cấn, Hợi, Tân, Tốn đẩy ra.

Dịch (86) Thiên hạ nhiễu phương, do Thìn, Tuất, Sửu, Mùi phát xuất.

Giải thích (85-86) Những huyệt kết hướng Cấn, Hợi, Tân, Tốn thường phát vào thời bình. Còn những huyệt kết thường Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thường hay phát vào thời loạn. Vậy ta có thể chọn sự kết phát theo ý muốn.

Câu 87: Khôn vị cao phong, danh đề bảng sĩ.

Câu 88: Cấn phương tiêm bút, danh chiếm trạng đầu

Dịch (87) Khôn vị có núi cao, tên đề cuối bảng.

Dịch (88) Cấn phương có tiêm bút, danh đỗ trạng nguyên.

Giải thích (87-88) Khôn là tây nam. Cấn là đông bắc, hai hướng đối nghịch nhau, nhưng núi phía Khôn chỉ cho đỗ cuối bảng (cũng đỗ nhưng đỗ hạng chót) còn bút phía Cấn lại cho đỗ đầu bảng. Vậy hướng Cấn tốt hơn hướng Khôn.

Câu 89: Thiếu chi quý, tại hổ án, ấn phân minh

Câu 90: Lão đắc danh, tại hổ thiên mã đảo địa

Dịch (89) Tuổi trẻ cực quý, do ư án ấn phân minh

Dịch (90) Tuổi già công danh, do là thiên mã đảo địa.

Giải thích (89) Án, Ấn phải đẹp, rõ rệt mới quý.

Giải thích (90) dù có chứng ứng Lộc, Mã mà không cao, lại thấp lè tè (đảo địa) thì về già mới có công danh.

CHƯƠNG 1-4

ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ

(Tiếp theo)

Hướng dẫn

Đây là phân chương 1-4 là phần thứ 4 của chương 1 Địa lý trị soạn phú. Bắt đầu từ câu 91 và chấm dứt ở câu 122.

Câu 91: Đái thương, đái khố. Đào Chu chi phú khả kỳ.

Câu 92: Sinh diệu sinh quan, rắp mong nổi danh Vương Tạ.

Dịch (91) Đới thương đới khổ, có thể giàu sánh Đào Chu .

Dịch (92) Sinh diệu sinh quan, rắp mong nổi danh Vương Tạ.

Giải thích (91) Như vựa, như kho, có thể giàu sánh Đào Chu .

Giải thích (92) Có diệu mọc ra ở tay long, tay hổ, hoặc có quan quỷ ở huyệt trường thì thông minh, nổi tiếng như Vương Tạ.

Câu 93: Thất diệu đông, thất diệu tây, khanh tướng trùng trùng.

Câu 94: Cửu khúc hậu, cửu khúc tiền, phúc lộc vĩnh miên

Dịch (93) Thất diệu bên đông, thất diệu bên tây, phát khanh tướng trùng trùng.

Dịch (94) Chín khúc đằng sau, chín khúc đằng trước, hưởng phúc liên miên.

Giải thích (93) có tới 7 diệu sơn, dù ở hướng Tây hay hướng Đông, cũng phát khanh tướng.

Giải thích (94) có tới 9 khúc thủy triều, dù ở trước hay sau huyệt cũng được hưởng phúc liên miên.

Đi xem đất nên lưu ý số 7 của diệu sơn hay tinh phong và số 9 của nước triều này.

Câu 95: Thanh long chi thượng hữu phong, nam nhân đắc quý.

Câu 96: Bạch hổ chi yêu đới ấn, hữu tả phát quan.

Dịch (95) trên thanh long còn mọc thêm tinh phong, nam nhân đắc quý.

Dịch (96) có ấn trên lưng bạch hổ, có con phát quan.

Câu 97: Thạch án đốn ư thạch bút, khôi nguyên nhất cử chi vinh.

Câu 98: Kim cổ liệt ư kim vị, tướng quân vạn binh chi dũng.

Dịch (97) Thạch án nổi trên thạch bút, nhất cử vinh hiển khôi nguyên.

Dịch (98) Kim cổ bày ở kim vị, vạn binh uy dũng tướng quân.

Giải thích (97) có núi đá làm án, lại có bút bằng đá nữa thì đi thi đỗ đầu.

Giải thích (98) trống hình kim ở hướng tây (kim vị) thì phát võ, tướng quân uy dũng.

Câu 99: Vương tự tiền, đang tiền hoàng đế.

Câu 100: Vương tự hậu, tử hậu phong vương.

Dịch (99) chữ vương đàng trước, lúc sống gần hoàng đế.

Dịch (100) chữ vương sau lưng, lúc chết được phong vương.

Câu 101: Thủy khẩu ư quái thạch, tử tồn đại đại xuất văn chương.

Câu 102: Thủy khẩu chấn la tinh, tử tôn đại đại vi khanh tướng.

Dịch (101) Thủy khẩu có quái thạch, con cháu đời đời phát văn chương.

Dịch (102) Thủy khẩu có la tinh trấn, con cháu đời đời làm khanh tướng.

Giải thích (101-102) quái thạch hay la tinh phải là núi đá từ tổ sơn chạy đến làm thủy khẩu mới là đất lớn.

Câu 103: Kim cư đoài vị, quý tế lâm đinh

Câu 104: Thủy khẩu đông phương, hiền thê trợ nghiệp.

Dịch (103) Kim nơi đoài vị, rể quý lâm đình (có con trai lấy vợ là con quan lớn)

Dịch (104) Thủy khẩu xuất đông phương, hiền thê trợ nghiệp (có vợ hiền giúp đỡ, xây dựng nên sự nghiệp cho chồng).

Câu 105: Tiền nghênh hậu tống, giáp mật mật, thử địa cận đế thất.

Câu 106: Tả long hữu hổ, cư trùng trùng, thử địa vi quan công.

Dịch (105) tiền nghinh hậu tống, liền khin khít, đất đó được cận thân đế thất (làm việc gần vua).

Dịch (106) Tả long hữu hổ, ở trùng trùng, đất đó phát làm quan công (làm nơi tam công).

Giải thích (105) những đất kết nào có nhiều tiền nghênh, có nhiều hậu tống, liền khin khít thì làm việc gần vua. Ở Mỹ thì làm việc trong toà nhà Bạch ốc.

Giải thích (106) Đất có nhiều long hổ cũng làm lớn, chức tới tam công.

Câu 107: Thiên thị kiến Canh, tài kiêm văn võ.

Câu 108: Thiên thị kiến Chấn, đổ xuất võ văn

Dịch (107) Thiên thị thấy ở Canh, tài kiêm văn võ.

Dịch (108) Thiên thị thấy ở Chấn, phát cả võ văn.

Câu 109: Thiên thị kiến Bính, lộc hưởng vạn chung

Câu 110: Khảm mạnh kiến Khôn, văn phát nhất đai

Dịch (109) Thiên thị thấy ở Bính, hưởng lộc vạn chung

Dịch (110) Khảm mạch thấy ở Khôn, phát văn một đời.

Câu 111: trùng trùng hổ thủy, phát phú

Câu 112: Điệp điệp long sa phát văn.

Dịch (111) Nước bên bạch hổ trùng trùng, phát phú.

Dịch (112) Sa ở bên thanh long điệp điệp, phát văn.

Giải thích (111-112) nói về thủy và sa tốt. Thủy chủ phú. Sa chủ quý.

Câu 113: Bạch ốc phát công khanh, tại hổ hồi long cố tổ

Câu 114: Bạch đinh chi Tể tướng, tại hổ Mão vị cao phong.

Dịch (113) Bạch ốc phát công khanh, do ở đất hồi long cố tổ.

Dịch (114) Bạch đinh làm tể tướng, do ở Mão vị có núi cao (phương Mão là nơi mặt trời mọc, tượng trưng cho vua).

Câu 115: Tiêm tú cư hậu, chủ vãn thành.

Câu 116: Tha nga tại tiền, danh bất hữu

Dịch (115) Sơn tiêm tú ở đằng sau, chủ đạt muộn mằn.

Dịch (116) Đá chênh vênh ở đằng trước, công danh không có.

Câu 117: Nhất hô động thiên địa, do hổ thạch cổ thạch kỳ.

Câu 118: Nhất cử chiếm khôi nguyên, do hổ thạch huyệt thạch bút.

Dịch (117) một tiếng hô, động trời đất, bởi có cờ trống bằng đá.

Dịch (118) một thi cử chiếm khôi nguyên, do ư huyệt đá, bút đá.

Câu 119: Viễn thủy nhập hoài, đa chiêu viễn vật.

Câu 120: Cận án não thủ, tất thủ cận danh

Dịch (119) Nước xa chảy vào lòng, đem lại nhiều diễn vật,

Dịch (120) Án gần với tay được, tất mau lấy công danh.

Giải thích (119) Đất nào có nước từ xa chảy vào lòng (viễn thủy nhập hoài) sẽ có nhiều tài lộc từ xa mang lại.

Giải thích (120) Kiếm được đất mà án ở gần sát huyệt (án gần với tay được) sẽ một sớm một chiều có công danh. Muốn mau ăn nên cố kiếm đất án rất gần huyệt.

Câu 121: Án phụ tử, phụ tử đồng bảng

Câu 122: Án huynh đệ anh em đồng triều

Dịch (121) Án phụ tử, cha con đồng bảng

Dịch (122) Án huynh đệ anh em đồng triều.

Giải thích (121-122) Một án to một án nhỏ là án phụ tử, hai cha con cùng thi đỗ đồng khoa.

Hai án lớn bằng nhau là án huynh đệ, hai anh em cùng làm quan một triều.

CHƯƠNG 1-5

ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ

(Tiếp theo)

Hướng dẫn

Đây là phần thứ 5 của chương 1 Địa lý trị soạn phú. Bắt đầu từ câu 123 và sau cùng là câu 151.

Câu 123: Mộc nhập mộc, vi thế thực sự

Câu 124: Kim thụ kim, vi thời danh tướng

Dịch (123) Mộc nhập mộc, thầy giỏi của đời

Dịch (124) Kim thụ kim, tướng tài xuất thế

Giải thích (123) Sa hình mộc (nhỏ và dài) ở hướng Đông. Đông là mộc hướng nên Mộc vượng. Mộc phát văn nên là bậc thầy của đời.

Giải thích (124) Sa hình kim, hình tròn ở hướng Tây. Tây là Kim phương nên kim vượng. Kim phát võ nên là tướng tài xuất thế.

Câu 125: Trùng thổ trùng kim, vị cư tể tướng

Câu 126: Trùng hỏa trùng thổ thân cử hàn lâm

Dịch (125) Trùng thổ trùng kim, ở ngôi tể tướng.

Dịch (126) Trùng hỏa trùng thổ, mình ở Hàn Lâm

Giải thích (125) Hai sa hình thổ (vuông) và hình kim (tròn) (thổ sinh kim) có thể làm tới tể tướng.

Giải thích (126) hai sa hình hỏa (lưỡi cày) và hình thổ (vuông) (hỏa sinh thổ), có thể làm tới chức Hàn lâm.

Câu 127: Vị liệt đài giai, tại viên kim tú ứng

Câu 128: Thế sinh hùng tướng, tại hổ tinh diệu trùng đa.

Dịch (127) Ngôi ở đài giai, vì viên kim tú ứng.

Dịch (128) Đời sinh hùng tướng, bởi tinh diệu trùng nhiều.

Giải thích (127) Gò kim tinh mà hình dáng đẹp (tú) lại ở hướng tốt (ví dụ như là văn thì ở Tốn, Tân hướng thì sẽ được ở chức cao về văn.

Giải thích (128) Đất phát võ nếu có nhiều tinh diệu thì sẽ sinh được những vị hùng tướng.

Câu 129: Án huynh đệ, nhân cộng sở tri

Câu 130: Huyệt huynh đệ, nhân sở nan thức

Dịch (129) Hai án (án huynh đệ) ai nhìn cũng thấy.

Dịch (130) Hai huyệt (huyệt huynh đệ) mấy kẻ đã hay.

Giải thích (129-130) Một huyệt có 2 án thì dễ thấy rồi nhưng một huyệt trường có 2 huyệt kết thì không mấy người biết.

Câu 131: Mộc long mộc huyệt, vi thế hãn vô

Câu 132: Hỏa long hỏa hướng, vi thế nan thức

Dịch (131) Mộc long mộc huyệt, đời vốn có nhiều

Dịch (132) Hỏa long hỏa hướng, mấy ai nhận rõ.

Giải thích (131-132) Mộc long mộc huyệt, phát người văn chương nho nhã. Mộc hình thì dài nhỏ nhắn nhuyễn nhược nên dễ phát văn. Nhưng nếu là Hỏa long hỏa hướng thì phải coi chừng dễ sát lắm đấy và điểm huyệt được cũng không phải là dễ. Điểm sao cho tránh được khi ngồi ở huyệt trường không thấy đầu nhọn của hỏa mới là khéo.

Câu 133: Kim long kim huyệt, vi thế nan cầu

Câu 134: Thổ long thổ huyệt, vi thế nan đắc

Dịch (133) Kim long kim huyệt đâu phải dễ tìm

Dịch (134) Thổ long thổ huyệt thật là khó được.

Giải thích (133-134) Được hành khác sinh nhập là được sinh được cùng hành là được vượng. Được sinh, vượng thì phát lớn gấp bội.

Câu 135: Tốn long Tân hướng, mộc thụ huyệt, khoa cử văn chương vĩnh bất tuyệt.

Câu 136: Tân long Tốn hướng, bút sấm vân, trạng nguyên cập đệ yết quân thần.

Dịch (135) Tốn long Tân hướng, Mộc thụ huyệt khoa cử văn chương không bao giờ hết.

Dịch (136) Tân long Tốn hướng, bút chấm mây, trạng nguyên cập đệ hợp vua tôi.

Giải thích (135-136) Cứ Tốn long hoặc Tân long hoặc Tốn hướng hoặc Tân hướng là ăn chắc phát văn. Nếu thêm mộc thụ huyệt (huyệt hình mộc) thì khoa cử văn chương vĩnh bất tuyệt. Nếu lại thêm cây bút đứng nữa thì khi vào thi tại sân rồng sẽ đỗ trạng nguyên.

Cụ Tả Ao đã nhắc nhở nhiều lần như sau:

Nhất là Tân Tốn mới hay

Bính Đinh Đoài Cấn sắp bày đột lên.

Bút lập là bút trạng nguyên.

Thời vua Lê Thánh Tôn là thời có nhiều Tiến sĩ nhất có lẽ vì ảnh hưởng của sự kiếm đất hướng Tốn, Tân và Bính Đinh Đoài Cấn của cụ Tả Ao nên thời này có tới mấy ngàn tiến sĩ...

Câu 137: Bút long long vi quý, vật đắc tắc vi quý

Câu 138: Tượng mã mã vi quý, vật đắc tắc vi quan

Dịch (137) bút long long là quý, tìm được thời là quý

Dịch (138) Tượng mã mã là quý, tìm được thời phát quan.

Giải thích (137-138) Bút, nghiên có ở gần tay long tay hổ thì quý, sẽ học giỏi, đi thi đỗ cao.

Nhưng tượng và mã ở xa là hình thức nghi vệ của bậc quan lớn, vậy nếu có tượng mã ở xa chầu về thì phát cao quan.

Câu (139) Long sa đới Giáp, khanh tướng tự kỳ.

Câu (140) Hổ thủy Ất cung, công hầu tại thử.

Dịch (139) Long sa đới Giáp, khanh tướng hẹn ngày.

Dịch (140) Hổ thủy Ất cung, công hầu sẽ tới.

Câu 141: Huyệt kết quải câu, thiên kim nan cầu

Câu 142: Thủy khẩu trấn kỳ, vạn quan diệc vị

Dịch (141) Huyệt kết quải câu, ngàn vàng khó kiếm

Dịch (142) Thủy khẩu trấn kỳ, vạn quan cũng đáng.

Giải thích (141) Huyệt kết quải câu là kết hồi long cố tổ. Huyệt kết hồi long cố tổ rất quý vì huyệt này mau phát và dễ sinh hiếu tử trung thần.

Giải thích (142) Thủy khẩu trấn kỳ là nơi thủy khẩu có núi đá hình cờ trấn giữ.

Loại thủy khẩu này dễ phát võ và làm lớn.

Câu 143: Ngẫu nhĩ phùng quân, thần tướng vi lịch triều hoàng đế.

Câu 144: Tả hữu câu hồi, điền triều tế hải triều, thử địa đại phú.

Dịch (143) Ngẫu nhĩ gặp quân thần, sẽ được lịch triều thờ vua.

Dịch (144) Tả hữu đền hồi đều triều và hải triều, đất phát đại phú.

Câu 145: Huyệt nhiêu tự nang hốt, liệt địa đại quang.

Dịch (145) Huyệt đầy đặn như túi thắt, đất đó đại phát.

Giải thích (145) Đất có khí mạch sung mãn nên huyệt trường trông đầy đặn như cái túi thắt.

Câu 146: Bình địa khởi tam lôi, thử địa phát như lôi

Câu 147: Bình địa khởi quý thạch, thử địa đa cát khánh.

Dịch (146) Bình địa nổi lên ba chỗ, đất đó phát như sấm,

Dịch (147) ruộng bằng nổi lên quý thạch, đất đó nhiều cát khánh.

Giải thích (146) Đang đất bằng bỗng nổi lên một án tam thai hoặc ba án, sẽ phát rất mạnh.

Giải thích (147) đang ruộng bằng bỗng nổi lên đá quý là triệu có gì vui đẹp.

Câu 148: Bình địa khởi tú lĩnh chi kỳ, tất xuất cao quan chi huyệt

Câu 149: Bình địa hữu hồ lô chi thủy, tất hữu công hầu chi địa

Dịch (148) Bình địa nổi cờ tú lĩnh (có núi như cờ mở), là huyệt phát cao quan.

Dịch (149) Bình địa có thủy hồ lô (có nước bao quanh) là đất phát công hầu.

Câu 150: Hỏa long, Thổ huyệt, diệc vi quý kỳ

Câu 151: Thổ long kim huyệt, diệc vi quái hoạch

Dịch (150) Hỏa long, Thổ huyệt vậy là quý huyệt.

Dịch (151) Thổ long, kim huyệt cũng là đất tối khác thường.

CHƯƠNG 1-6

ĐỊA LÝ

TRỊ SOẠN

(Tiếp theo)

Hướng dẫn

Chương 1-6 là phần thứ 6 của chương 1 Địa lý trị soạn phú. Bắt đầu từ câu 152 cho đến câu 181.

Câu 152: Long phát nhất đại, bạch vĩ nhi chân chỉ,

Câu 153: Long phát nhất thời, ngư hình vi thị ky.

Dịch (152) Long phát 1 đời, bạch vĩ không sai,

Dịch (153) Long phát 1 thời, ngư hình là đúng.

Câu 154: Kỵ long yếu cư long tích, chư ứng vô địch

Câu 155: Thuận long đắc táng long đầu chỉ, xứ chỉ nan tầm

Dịch (154) Kỵ long cần ở lưng long, chư ứng hay vô địch.

Dịch (155) Thuận long táng ở đầu long, chỗ ngưng là khó tìm.

Giải thích (154-155) Đây nói về kỵ long kết huyệt. Kỵ long kết huyệt là huyệt kết trên lưng long, còn huyệt kết bình thường thì kết ở đầu long.

Kỵ long kết huyệt cũng có đủ hoành, hồi, thuận như kết huyệt thường. Nhưng nếu kết kỵ long thì ta gọi là kết hoành kỵ kết hồi kỵ, kết trực kỵ, kết thuận kỵ.

Ta đã biết lưng long rất dài nên khi kết thuận kỵ thì rất khó kiếm được chỗ ngưng để điểm huyệt, bởi vì kết kỵ là kết trên lưng, còn lâu mới thấy minh đường nên khó điểm huyệt. Điểm huyệt mà không có minh đường, không có án rõ rệt làm căn cứ thì rất khó điểm. Người ta nói là điểm huyệt kết thuận kỵ thì 10 cái sai 9.

Câu 156: Mã đầu đới ẩn, tất cao cổ mục chi ương

Câu 157: Hổ dịch sinh phong, tất sinh dâm dục chi thái

Dịch (156) mã đầu đới ẩn, tất gặp tai nạn mù lòa.

Dịch (157) Hổ trừu sinh phong, tất sinh thói hư dâm dục.

Câu 158: Sở kỵ giả, thủy phi huyền vũ

Câu 159: Sở úy giả, thủy đường tiền tán loạn

Dịch (158) Điều đáng kỵ, thủy phi huyền vũ.

Dịch (159) Điều đáng sợ, thủy loạn đường tiền.

Giải thích (158) Thủy phi huyền vũ sẽ cho huyệt hung nên ta phải kỵ.

Thế nào là thủy phi huyền vũ?

Sau huyền vũ đến nhập thủ mạch. Nhập thủ mạch đưa khí mạch từ huyền vũ tới huyệt trường. Nếu tại huyền vũ mà có nhiều nước dầm dề và nước đó chảy đi thì huyệt trường sẽ không có khí mạch, vì khí mạch từ Huyền vũ theo nước chảy đi mất rồi. Còn khí mạch đâu vào huyệt nữa. Ta phải kỵ thủy phi huyền vũ, để tránh huyệt hung.

Giải thích (159) Thủy từ minh đường chảy đi phải theo một lối hợp cục mới tốt. Nếu thủy ở đường tiền chảy loạn đi là xấu.

Câu 160: Sơn tán loạn, thủy viễn đả thi,

Câu 161: Thủy khắp khắp, cận nhi diệt tộc.

Dịch (160) Sơn tán loạn xa cũng bị đả thi

Dịch (161) Thủy khấp khốc gần cũng bị diệc tộc.

Giải thích (160) Long, sa, án, triều v.v... đều là sơn. Tất cả sơn ở phải, trái trước sau huyệt trường phải ôm chầu vào huyệt trường mới là tốt. Nhược bằng có sơn nào không ôm chầu mà chạy tán loạn đi (tức là quay mặt đi, quay lưng vào huyệt) thì không tốt, dù phản mà ở xa huyệt trường cũng có tội (thùy viễn đả thi).

Giải thích (161) Khi tầm long nếu thấy chỗ nào nước chảy còn kêu réo là chưa tới huyệt trường. Huyệt nào gần chỗ nước chảy kêu réo (thủy khấp khốc) thì một là huyệt hung, hai là không có thật huyệt.

Câu 162: Hổ bão long đầu, dâm phong bất chỉ

Câu 163: Long xuyên hổ tý, tử lộ nan đào.

Dịch (162) Hổ ôm long đầu, dâm dật chẳng dứt.

Dịch (163) Long xuyên tay hổ, tử nạn khó qua.

Giải thích (162) Đầu tay hổ ôm sát đầu tay long anh chị em dễ thông dâm.

Giải thích (163) Tay long đáng lẽ ôm vòng lại đâm ngang vào tay hổ thì đất này khó tránh được con cháu bị chết bất đắc kỳ tử.

Câu 164: Đinh thủy phá thái dương, đa sinh dâm thái,

Câu 165: Trì thủy xung nguyên thần, đa tuyệt nội tông

Dịch (164) Đinh thủy phá thái dương (Mão cung), sinh nhiều dâm đãng

Dịch (165) Trì thủy xung nguyên thần, hay tuyệt nội tông

Giải thích (164) Đinh thủy đâm vào cung Mão là Đinh thủy phá Thái dương, gia đình đó nhiều người dâm thái. Đào hoa thủy cũng sinh người ưa dâm dục.

Đào hoa thủy là:

a. Nếu là dương cuộc long (Dần Ngọ Tuất: Hỏa cuộc) và (Thân, Tý, Thìn: Thủy cuộc) thì kỵ thủy từ Mão, Dậu chảy về.

b. Nếu là âm cuộc long (Tỵ Dậu Sửu: Kim cuộc) và (Hợi Mão Mùi: Mộc cuộc) thì kỵ thủy ở Tý, Ngọ chảy về.

Câu 166: Huyền vũ chi sơn, bích lập, tai hại tự sinh.

Câu 167: Nội đường chi thủy, quyển liêm, tiền tài tán loạn

Dịch (166) Sơn huyền vũ như vách đứng, tai họa tự sinh.

Dịch (167) Thủy nội đường như rèm cuốn, tiền tài tan hết.

Giải thích (166) Huyền vũ đứng thẳng như vách tường (không cúi đầu) là hung huyệt.

Giải thích (167) Thủy ở nội đường chảy tràn ra như mành cuốn thì tiền tài tan hết.

Câu 168: Thủy phản lộ, xuyên thành, chung hữu bại

Câu 169: Thủy tà sơn túc, nhân đãng tài hoa

Dịch (168) Thủy phản lộ, xuyên thành, sau sẽ hại

Dịch (169) Thủy tà chân núi, người hư của hao.

Giải thích (168) Nước chảy xuyên phá thành bao vây cuộc đất, trước sau sẽ bị hại.

Giải thích (169) Nước chảy cắt chân núi, người hư, của hao.

Câu 170: Nội đường tà khuynh, sơ niên bất lợi

Câu 171: Hạ long phản khí, hậu đại bất lương

Dịch (170) Nội đường xéo nghiêng, năm đầu bất lợi

Dịch (171) Hạ long phản đi, đời sau phản phúc

Giải thích (170) Nội đường nghiêng không chứa nước, nhưng ngoại đường chứa nước thì mới đầu không lợi, sau (ăn vào ngoại đường) mới khá.

Giải thích (171) tay long bên ngoài (ngoại long) quay mặt đi không ôm chầu vào huyệt trường thì con trai đời sau sẽ phản phúc.

Câu 172: Xuất thân tiêm tước, tai hại tự kỳ

Câu 173: Lộ tước cát băng, tử tôn nan kế

Dịch (172) Nơi xuất thân xén nhọn, tai hại đến liền.

Dịch (173) Lộ cuộc cát lở, con cháu bị tuyệt.

Giải thích (172-173) Thân long bị cắt xén, tai họa sẽ đến. Chân của thân long bị cát lở, con cháu bị họa.

Câu 174: Sơn lai triều như trực xạ, nhất hưng tiện bại.

Câu 175: Thủy nhập hoài như phản khứ, nhất phát tiện suy

Dịch (174) Sơn lai triều như bắn thẳng vào huyệt trường, dù có đất kết, thành đó sau bại đó.

Dịch (175) Nước vào lòng mà phản chảy, một phát liền suy

Giải thích (174-175) Nước chảy đến huyệt như bắn vào huyệt, hoặc nước chảy vào minh đường, lại không vào mà chảy phản đi thì dù có đất kết cũng trước thành, sau bại.

Câu 176: Hổ hóa án chi ngang đầu, tuy phát phúc diệc hữu bại.

Câu 177: Long khởi phong nhi phản vĩ, tuy hữu thiện, bất khả chung.

Dịch (176) Hổ hóa án mà vươn đầu lên, tuy phát phúc cũng có hại,

Dịch (177) Long khởi phong mà đuôi phản lại, tuy có tốt cũng không được trọn.

Giải thích (176) Tay hổ thôi thân làm án là quý, nhưng án này nghênh đầu như khinh khi huyệt thì có kết cũng có hại. Đó là khách khinh khi chủ.

Giải thích (177) Tay long có những tinh phong ở trên là quý nhưng cuối tay long không ôm vào huyệt trường, mà lại quay đi thì con trai phải ly hương làm ăn mới khá được.

Câu 178: Long hổ tương đấu, huynh đệ bất hòa

Câu 179: Tiền hậu bất minh, tử tôn đa muội

Dịch (178) Tay long tay hổ đấu chọi nhau, anh em bất hòa.

Dịch (179) Các chứng ứng ở huyệt trường hay xung quanh huyệt trường trông không rõ rệt (tiền bất minh, hậu bất hiển) thì con cháu ngu muội.

Câu 180: Minh đường thủy khứ, nam nữ u mê

Câu 181: Huyền vũ sơn thô, tử tôn hung ác.

Dịch (180) Minh đường thủy chảy đi (không giữ nước) thì trai gái u mê

Dịch (181) Huyền vũ sơn thô kệch, con cháu hung ác.

(Còn Tiếp)

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHƯƠNG 1 – 7

ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ

(Tiếp theo)

Hướng dẫn

Đây là phần thứ 7 cũng là phần chót của chương 1 Địa lý trị soạn phú. Bắt đầu từ câu 182 đến câu 217 là hết.

Câu 182: Minh đường can hạt, sĩ bất đăng khoa

Câu 183: Minh đường quang đãng, tài vật bất tụ

Dịch (182) Minh đường khô cạn, học thi không đậu

Dịch (183) Minh đường quang đãng, tiền của không tụ.

Giải thích (182-183) Minh đường can hạt là khô nước và quang đãng là không có nước.

Câu 184: Hổ đầu tha nga ác khí, nhãn tứ viên nhi trạch tứ phần

Câu 185: Diện tiền tha nga ác thạch, tai tự sinh nhi hình tự chí

Dịch (184) Đầu tay hổ chênh vênh ác khí, mắt thì tròn, cửa nhà thì cháy.

Dịch (185) Trước mặt chênh vênh ác thạch, tai họa tự sinh, hình phạt tự đến.

Giải thích (184-185) Đầu tay hổ nghênh ngang là tay hổ lấn át huyệt trường sẽ có tai họa như phải tròn mắt khi bị cháy nhà. Trước huyệt có đá chênh vênh chứa nhiều ác khí sẽ có tai họa tự đến với gia đình có huyệt kết.

Câu 186: Long phi nam tử bại

Câu 187: Hổ khứ nữ nhân ương

Dịch (186) Tay long phi, không quay vào huyệt, không ôm chầu vào huyệt, lại quay lưng vào huyệt và ngoảnh mặt đi thì con trai bị bại.

Dịch (187) Tay hổ phản, quay đi, không ôm vào huyệt, thì con gái bất lương.

Giải thích (186-187) Nếu có huyệt kết mà long, hổ không ôm chầu vào huyệt thuộc ngành nào thì ngành đó phải ly hương làm ăn mới khá được. Tay long thuộc con trai nên nếu tay long phản thì con trai bị bại. Tay hổ thuộc con gái nên nếu tay hổ phản thì con gái chẳng ra gì.

Câu 188: Thủy phá hậu đầu, định vô tử tức

Câu 189: Sơn cát tiền cước, tât tuyệt nhân đinh

Dịch (188) Thủy phá hậu đầu, chắc không con cái

Dịch (189) Sơn cắt tiền cước, tất tuyệt nhân đinh

Giải thích (188) hậu đầu là huyền vũ. Nếu huyền vũ bị thủy phá, hại con trưởng rồi đến các con khác.

Giải thích (189) Tiền cước là chỗ đất dư tiếp theo vào huyệt trường, chỗ này gọi là chiên thần, là chỗ dư khí của huyệt trường. Nếu chiên thần nhiều thì con cháu đông và khỏe mạnh. Trường hợp chiên thần tận, hoặc bị nước chảy cắt đi thì bị tuyệt nhân đinh. Đất kết nhà Nguyễn Trãi tuy kết lớn nhưng để vào chỗ mạch tận nên bị tuyệt nhân đinh. Vợ lẽ của Nguyễn Trãi tên là Thị Lộ bị triều đình nhà Lê ghép vào tội giết vua nên Nguyễn Trãi bị chu di tam tộc.

Tháng 11 năm 1996 Cao Trung nhân dịp về Việt Nam có ghé lại thăm ngôi đất kết nhà Nguyễn Trãi ở làng Nhị Khê, phủ Thường Tín, Hà Đông và được ông thủ Từ đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê tên là Nguyễn Thông đưa ra thăm ngôi mộ tổ, ngôi đất kết phát Nguyễn Trãi vừa phát khai quốc Công thần và cũng bị chu di tam tộc.

Ở phía Tây Nam ngôi mộ có một cái sa xưa kia giống như mũi nhọn ở hướng Mùi chiếu thẳng vào huyệt kết. Ngày nay dân địa phương gọi nó là gò bàn quốc.

Thật là kỳ lạ trên khoa địa lý hướng Mùi ứng vào vợ nhỏ, và Nguyễn Trãi bị chu di tam tộc vì cái án Lệ Chi Viên do Thị Lộ là vợ nhỏ Nguyễn Trãi gây nên.

Theo địa lý Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là hung hướng. Đã hung hướng lại còn bị sa hình mũi nhọn đâm vào huyệt thành ra vừa hung vừa sát thì làm sao Nguyễn Trãi tránh được hung họa.

Câu 190: Thủy chi tà lưu, bất mỹ

Câu 191: Thủy chi thuận khứ, bất thành

Dịch (190) Thủy chảy kéo đi, không đẹp

Dịch (191) Thủy chảy thuận đi, không thành.

Giải thích (190-191) Thủy tới minh đường, không tụ chỉ chảy xéo đi trước huyệt là nước không đẹp.

Thủy từ minh đường chảy đi không chảy khuất khúc mà chỉ chảy thuận đi, thì cũng không thành.

Câu 192: Long quá sơn nhi, đích nhiên tiếm ngụy

Câu 193: Hổ quá thủy nhi, đích thị thoái quan

Dịch (192) Long mà bức sơn, đích là tiếm ngụy.

Dịch (193) Hổ mà thủy quá, tất phải thoái quan.

Câu 194: Dậu, Mùi, Dần, Thân ngộ hồ lô, như phong tàn, tật bệnh.

Câu 195: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đới tiêm đao, nhi tặc đạo, sinh tai.

Dịch (194) Dậu, Mùi, Dần thân gặp hồ lô, mà phong tàn tật bệnh

Dịch (195) Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đeo đai nhọn, thì trộm cướp sinh tai.

Giải thích (195) Nhiều tướng giặc sau bị bắt rồi bị giết như Nguyễn Cầu, thường được đất kết hướng Thìn, Tuất, Sửu, Mùi lại có con dao phản quay ra.

Năm 1944 Cao Trung được cụ Giáo Mậu là thầy dạy địa lý cho biết đất kết nhà Phạm Quỳnh có cây bút phản dù có làm nên nhưng sau bị hại. Quả nhiên ít năm sau Phạm Quỳnh bị giết ở Huế.

Câu 196: Tiền án thạch nhược dương đế, đại nghiệt tự tác.

Câu 197: Tiền án thạch nhược sa ta, phong hỏa tự sinh.

Dịch (196) Trước án đá như móng dê, tự gây họa nghiệt.

Dịch (197) Trước án đá như sa tà, tự sinh phong hỏa

Câu 198: Tiền án nhược phá tổn, hình hãm phi cơ.

Câu 199: Tiền án nhược khai khẩu, man thiên hình mạn.

Dịch (198) Trước án nếu phá tổn, bị mắc tội oan

Dịch (199) Trước án như khai khẩu (vỡ, lở) vạ miệng hại mình.

Câu 200: Tốn, Tân không khuyết, tài cao bất đệ

Câu 201: Chấn Canh phương khuyết, dũng lược vô danh

Dịch (200) Tốn, Tân phương mà không khuyết, dù có văn cũng không thi đỗ.

Dịch (201) Chấn Canh phương mà khuyết hãm, thì có vũ dũng cũng không thành danh.

Giải thích (200-201) Phương Tốn, Tân nếu khuyết hãm bất lợi cho công danh về nghề văn. Phương Chấn, Canh nếu khuyết hãm sẽ bất lợi cho thành đạt về ngành võ.

Nói chung 4 phương này càng cao đẹp càng tốt, nhược bằng thấp lõm thì xấu.

Câu 202: Hân quần vũ tụ tại Tý, Ngọ hựu dâm thái toàn gia

Câu 203: Trác kinh trác nguyệt tại Mão, Dậu, nhi dâm đa bất chỉ

Dịch (202) Vén quần múa áo ở Tý, Ngọ mà làm dâm đãng toàn gia.

Dịch (203) Trác gương, trác nguyệt ở Mão, Dậu mà dục tình quá độ.

Giải thích (202-203) Bốn cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu là bốn mộc dục hướng. Sơn thủy ở đây dễ tạo nên con người nhẹ thì dâm dục, mà nặng thì dâm nặng. Đất kết nhà Trần kết lớn xong phạm Mộc dục nên anh em, họ hàng hay quá thân nhau và dễ lấy nhau.

Câu 204: Bút tại Dần, Thân vi họa long vi bút, vi tụng từ vi bút

Câu 205: Đại lộ đoạn ư huyệt hậu, bất khả thiện chung.

Dịch (204) Bút ở Dần Thân là bút vẽ rồng, là bút kiện tụng. Nếu huyệt tốt đẹp thì làm luật sư, kém nữa thì làm lục sự hoặc phụ tá pháp lý như ngày nay

Dịch (205) Đại lộ cắt đứt ở sau huyệt, không được thiện đến cùng (dù có huyệt tốt thì sau cũng thành xấu).

Câu 206: Ngộ dụng hắc thổ, tất sinh hắc diện chi nhân

Câu 207: Ngộ dụng bạch thổ, tất sinh bạch tạng chi nhân. Thử cát hung hệ sơn thủy dã.

Dịch (206-207) Ngộ dùng phải đất đen, sẽ sinh người mặt đen. Ngộ dùng phải đất trắng, sẽ sinh người tạng trắng. Đây là cát hung, hệ ở sơn thủy vậy.

Chương 2

PHẦN NÔM ĐỊA LÝ TRỊ SOẠN PHÚ

Hướng dẫn

Phần nôm của Địa lý trị soạn phú này là một bài thơ nôm nói tóm tắt một số điều căn bản về địa lý mà ta thường dùng. Những kiến thức căn bản này rất là quan trọng nên các cụ làm thành thơ cho dễ nhớ như sau:

Câu 1: Hợi, Nhâm, Tý, Quý Thủy long

Câu 2: Dần, Giáp, Mão, Ất đồng Mộc lai

Câu 3: Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ Hỏa thôi

Câu 4: Cấn, Khôn, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi Thổ lâm

Câu 5: Càn, Thân, Tân, Dậu canh Kim

Câu 6: Dù rằng lẫn lộn nên tìm chính cung

Câu 7: Âm phần đệ nhất âm long

Câu 8: Hợi, Cấn, Tân, Tốn, Mão cùng Canh, Đinh

Câu 9: Tỵ, Bính cửu khí chung linh

Câu 10: Đời sinh trung nghĩa thành danh lâu dài

Câu 11: Tú long tú hướng văn khôi

Câu 12: Cát long cát hướng tướng tài đổng binh

Câu 13: Cát long tú hướng giao tinh

Câu 14: Hướng tiền long hậu kiêm dành võ văn

Câu 15: Cát long cát hổ huân thần

Câu 16: Tú linh hàn viện long cân ô đài

Câu 17: Tị là trung Thổ anh tài

Câu 18: Sửu Mùi mộ đạo miệt mài của không

Câu 19: Thương dương Nhâm, Tý, Quý long

Câu 20: Hẳn cầm quyền bính anh hùng oai nghiêm

Câu 21: Ngọ trung hỏa tốc ứng liền

Câu 22: Hạ dương điểm huyệt, đãn hiềm tiện hung

Câu 23: Khôn, Thân, Dần, Giáp, Ất long

Câu 24: Nhất thời phát xuất vẫy vùng lược thao.

Câu 25: Thìn, Tuất, Càn, Kim đáo đầu

Câu 26: Sinh tài lỗi lạc dẹp thâu hung tàn

Câu 27: Dương long ngay thẳng nhân khoan

Câu 28: Âm long thượng cách làm quan nối dòng

Câu 29: Đấy là kết luận cát hung.

Dưới đây là dịch và giải thích 29 câu phần nôm địa lý trị soạn phú ở trên:

Các câu 1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 6 nói về ngũ hành của 24 long như sau:

Câu 1 – Các Long: Hợi, Nhâm, Tý, Quý, hành Thủy

Câu 2 – Các Long: Dần, Giáp, Mão, Ất, Tốn, hành Mộc.

Câu 3 – Các Long: Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ hành Hỏa.

Câu 4 – Các Long: Cấn, Khôn, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi hành Thổ

Câu 5 – Các Long: Càn, Thân, Tân, Dậu, Canh hành Kim

Câu 6 – Không nên lẫn lộn ngũ hành của 24 Long vừa nói trên.

--------------------------------------------------------------------------------

Dưới đây là tên 24 long bắt đầu từ Giáp

Giáp, Mão, Ất (Chính Đông)

Thìn, Tốn, Tỵ (Đông Nam )

Bính, Ngọ, Đinh (Chính Nam )

Mùi, Khôn, Thân (Tây Nam )

Canh, Dậu, Tân (Chính Tây)

Tuất, Càn, Hợi (Tây Bắc)

Nhâm, Tý, Quý (Chính Bắc)

Câu 7 - Âm phần đệ nhất âm long

--------------------------------------------------------------------------------

Dịch và giải thích (7) 24 long trên lại chia ra làm

12 dương long và 12 âm long như sau:

Dương long: Càn, Nhâm, Tý, Quý, Dần, Giáp, Ất, Thìn, Ngọ, Khôn, Thân, Tuất.

Âm long: Hợi, Sửu, Cấn, Mão, Tốn, Tỵ, Bính, Đinh, Mùi, Canh, Dậu, Tân.

Âm phần tốt nhất là dùng Âm long.

Câu 9 - Tỵ, Bính cửu khí chung linh.

Câu 10 - Đời sinh trung nghĩa thành danh lâu dài.

Dịch và giải thích ( 8-9-10 ) Trong 24 hướng thì có 9 hướng tốt theo thứ tự như dưới đây:

Hợi, Cấn, Tân, Tốn rồi đến Mão, Canh, Đinh, Tỵ, Bính là 9 hướng cửu khí chung linh.

Các Án, Sa xung quanh huyệt trường hiện ra vào 9 hướng này là hướng được tốt sẽ sanh được con cháu là những người trung nghĩa và thành danh được bền bỉ lâu dài.

Đây là cụ Tả Ao tóm tắt lại để tiện dụng. Những hướng tốt xấu này của sách Địa lý của Tàu ngày nay khai triển ra kể có mấy chục trang.

Câu 11 – Tú long, tú hướng văn khôi

Câu 12 – Cát long cát hướng tướng tài đổng binh

Dịch và giải thích (11-12) Cát chỉ là hướng tốt thôi không có hình dáng xinh đẹp, còn tú là có hình dáng tốt đẹp.

Được tú long, tú hướng thì phát văn, đỗ cao (văn khôi). Được cát long, cát hướng thì phát võ lớn (Tướng tài đổng binh).

Câu 13 - Cát long cát hướng giao tình

Câu 14 - Hướng tiền long hậu kiêm dành võ văn

Dịch và giải thích (13 – 14) hướng là hướng huyệt. Long là long nhập thủ. Nếu được cả long và hướng cát thì sinh nhân văn võ toàn tài.

Câu 15 - Cát long cát hổ huân thần

Câu 16 - Tú linh hàn viện, long cân Ô Đài

Dịch và giải thích (15-16) Được cát long cát hổ cũng được làm quan như người ta. Nhưng được Cát và Tú long tú hổ thì có thể lên đến chức tước cao hơn, ở Hàn lâm viện, hoặc Ô đài ngự sử (Ngự sử là chức có quyền thảo luận hoặc can gián vua).

Câu 17 - Tỵ là trung thổ anh tài

Dịch và giải thích (17) được hướng Tỵ là đất phát anh tài.

Câu 18 - Sửu Mùi mộ đạo miệt mài cửa không

Dịch và giải thích (18) Đất kết có long hoặc có hướng tại cung Sửu hoặc cung Mùi thường phát người mộ Đạo, miệt mài nghiên cứu Phật học.

Dưới đây là bài kệ của một vị đã mộ đạo miệt mài cửa không làm:

Kinh sách lưu hành tám vạn tư

Học hành không thiếu cũng không dư

Đến nay tính sổ nhường quên hết

Chỉ thấy trên đầu một chữ Như

Như là Chân Như là điểm tự tại cao thâm, bao trùm hết cả giáo lý của đạo Phật. Tận cùng của kinh sách, của tám vạn bốn ngàn pháp môn tu không ra ngoài sự đạt tới cõi chân như tự tại.

Câu 19 – Thương dương Nhâm, Tý, Quý long.

Câu 20 - Hẳn cầm quyền bính anh hùng oai nghiêm

Dịch và giải thích (19 – 20) Dương long như Nhâm, Tý, Quý nếu được đất kết tốt sẽ phát những vị chỉ huy anh hùng oai nghiêm, quyền cao chức trọng.

Câu 21 - Ngọ trung hỏa tốc ứng liền

Câu 22 - Hạ dương điểm huyệt đãn hiềm tiện hung

Dịch và giải thích (21 – 22) Hướng Ngọ phát rất nhanh và phát mạnh. Nếu là dương long lại càng hung dữ nữa, khi điểm huyệt đất này phải khéo cho bớt hung đi.

Câu 23: Khôn, Thân, Dần, Giáp, Ất long

Câu 24: Nhất thời phát xuất vẫy vùng lược thao

Dịch và giải thích (23-24) Được đất kết thuộc Dương long như Khôn, Thân, Dần, Giáp, Ất long mà có huyệt tốt thường phát ra những nhân vật có tài thao lược.

Câu 25: Thìn Tuất Càn kim đáo đầu

Câu 26: Sinh tài lỗi lạc dẹp thâu hung tàn

Dịch và giải thích (25-26) Ông Nguyễn Công Trứ là người có tài lỗi lạc nhưng mãi đến 42 tuổi mới thi đỗ ra làm quan.

Từ hồi hàn vi ông đã ôm mộng ước đem tài thao lược ra thờ vua giúp nước cho thỏa mộng bình sinh, nhưng sau khi thi đỗ ra làm quan khi định thi hành chí hướng thì vì chức ông còn nhỏ nên bị các quan có chức cao hơn kìm hãm, không cho thực hiện mộng ước của ông.

Ông nghĩ rằng phải làm lớn, mới đỡ bị chèn ép, mới dễ thực hiện chí hướng của mình. Muốn mau làm lớn chỉ có cách qua bên võ, xin đi dẹp giặc, có thắng trận, lập được kỳ công mới có hy vọng làm lớn mà thôi.

Vào triều ông xin vua cho bỏ văn qua võ, làm các phan phì cười. Nhưng qua võ rồi ông dẹp được hầu hết những giặc lớn trong thời nhà Nguyễn bấy giờ.

Ông tuy xuất thân là văn quan nhưng vì sang võ là vì đánh đâu thắng đó nên phải đi dẹp giặc liên miên, ít khi ở nhà. Một lần có bà vợ ba nhớ ông nên lặn lội ra tận mặt trận gặp ông và được ông tặng một câu đối như sau:

Những tượng bút nghiên đành kiếm mã nào hay kim chỉ cũng phong trần.

Chắc ông Nguyễn Công Trứ được đất kết lớn có hướng Thìn, Tuất và có long Càn nhập thủ như câu (25-26) trên, nên được cách sinh tài lỗi lạc dẹp thâu hung tàn.

Câu 27 – Dương long ngay thẳng nhân khoan

Câu 28 – Âm long thượng cách làm quan nối dòng

Câu 29 - Đấy là kết luận cát hung

Dịch và giải thích (27-28-29) Được đất kết thuộc Dương long thường sinh người ngay thẳng, nhân khoan, một đôi khi thô kệch, ít suy nghĩ đắn đo.

Còn được đất kết thuộc Âm long thường sinh ra người thâm trầm tính toán, giỏi thừa hành theo lệnh trên, nên người được đất kết Âm long làm quan bền bỉ hơn người được đất dương long.

Đấy là nói chuyện cát hung của âm dương long.

CHƯƠNG 3

PHẦN LÝ KHÍ

Hướng dẫn

Khoa địa lý gồm 2 phần: Loan đầu và lý khí.

Loan đầu là những gì mắt ta nhìn thấy trên đất đai của toàn thể một cuộc đất kết.

Lý khí là phần trừu tượng của đất kết liên quan đến những áp dụng của Lý học Đông phương như: Hà đồ, Lạc thư, Chu dịch, Kỳ môn, Thiên văn và các công thức lý học áp dụng khác.

Các vị cao thủ địa lý xưa kia sau khi đã nắm vững phần loan đầu, các vị còn khám phá ra được những điểm đặc sắc khác nếu thêm vào loan đầu thì ta sẽ có những ngôi đất kết toàn hảo hơn, phát mau hơn v.v...

Do đó ta mới có phần lý khí.

Học địa lý ta học Loan đầu trước, Lý khí sau là cách học rất khôn ngoan vì loan đầu cụ thể dễ thấy còn lý khí thì trừu tượng lại được đưa vào những công thức khó hiểu và ít được giải thích nên khó lĩnh hội.

Nắm vững loan đầu rồi, phần trông thấy được rồi, ta mới có cơ sở đặt phần lý khí lên trên, sẽ dễ hiểu hơn để ta có thể có một kiểu đất toàn vẹn hơn.

Trong 4 bộ sách Cao Trung đã xuất bản trước đây đã được tác giả tránh né rất nhiều đề cập đến phần lý khí để quý vị dễ học. Đến nay gần hết phần Loan đầu nên phải nói đến phần lý khí để quý vị có dữ kiện cao hơn, đầy đủ hơn về khoa địa lý.

Tuy nhiên chính phần lý khí này lại là con dao hai lưỡi, ngoài phần hữu dụng cho loan đầu nói trên thì nó lại còn làm cho ta dễ lạc vào cõi u minh của khoa địa lý vì nó dùng các áp dụng quá khó khăn của lý học đông phương mà ít người hiểu tường tận. Có thể nói khoa địa lý trở nên thất truyền phần lớn là do phần lý khí và phần người học địa lý không chịu thực tập nhiều trên phần loan đầu, trên đất đai thật sự. Kinh nghiệm cho thấy nếu muốn thành công về khoa địa lý ta phải nắm vững phần loan đầu và nếu lý khí mâu thuẫn với loan đầu ta phải mạnh dạn loại bỏ nó ra. Ta chỉ dùng lý khí khi nó phù hợp với loan đầu mà thôi.

Các cụ lão thành địa lý xưa kia còn cho biết là vua Hồng Vũ nhà Minh muốn giữ độc quyền khoa địa lý cho Hoàng tộc nên thuê người viết sách địa lý cách nào cho sau này ai học nó sẽ lạc vào cõi vô minh không có lối ra và không thể làm được địa lý. Những sách này bây giờ ta gọi là man thư. Những man thư phần nhiều dùng những áp dụng lý khí một cách kỳ quặc để làm lạc hướng người học địa lý.

Trong khi đó có nhiều lý khí chân thư khác lại là phần cao, phần quan trọng, phần cốt tủy của địa lý. Một man thư và một chân thư địa lý ở cạnh nhau làm cho người ta dễ hiểu lầm không biết cái nào đúng, cái nào sai và chỉ những ai thật giỏi địa lý mới phân biệt được. Ngày nay rất hiếm người phân biệt được đâu là chân thư, đâu là man thư.

Tập địa lý trước và tập địa lý này của Cao Trung có đăng tài liệu đất kết Cao Biền viết từ năm 600 đời nhà Đường, cách đây trên một ngàn năm, rất ít đề cập đến lý khí. Việc này đáng cho ta tin tưởng là loan đầu mới là quan trọng. Thêm lý khí mà không phản với loan đầu thì càng tốt, còn khi thấy lý khí phản lại loan đầu thì ta phải nghi ngờ lý khí đó là man thư.

Mong rằng những công thức Lý khí của cụ Tả Ao dưới đây sẽ giúp ta phần nào khám phá ra những khó hiểu, những bí hiểm về khoa địa lý, nhưng ta phải dè dặt khi dùng nó.

Những áp dụng lý khí vào khoa địa lý ngày nay có rất nhiều, nhưng chúng tôi chỉ trình bày những điều gì cần có trong tài liệu cụ Tả Ao để lại mà thôi.

3-1. Chính Ngũ Hành cầu long nhập huyệt

Thân, Canh, Dậu, Tân, Càn Kim dã

Dần, Giáp, Mão, Ất, Tốn, Mộc dã

Hợi, Nhâm, Tý, Quý thuộc Thủy

Sửu Cấn, Thìn, Khôn, Tuất thuộc Thổ

Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh thuộc Hỏa.

--------------------------------------------------------------------------------

3-2. Song sơn Ngũ hành

Tam hợp đơn:

1. Càn Giáp Đinh hoặc Hợi Mão Mùi Mộc cuộc

2. Khôn Nhâm Ất hoặc Thân Tý Thìn Thủy cuộc

3. Cấn Bính Tân hoặc Dần Ngọ Tuất Hỏa cuộc.

4. Tốn Canh Quý hoặc Tỵ Dậu Sửu Kim cuộc.

Hay tam hợp kép:

1. Song sơn: Càn Hợi – Giáp Mão – Đinh Mùi đều là Mộc cuộc.

2. Song sơn: Khôn Thân – Nhâm Tý - Ất Thìn đều là Thủy cuộc.

3. Song sơn: Cấn Dần – Bính Ngọ - Tân Tuất đều là Hỏa cuộc.

4. Song sơn: Tốn Tỵ - Canh Dậu – Quý Sửu đều là Kim cuộc.

--------------------------------------------------------------------------------

3-3. Hồng phạm ngũ hành

Người ta dùng Hồng Phạm ngũ hành để tính Tọa sơn. Tọa sơn không được khắc mệnh vong nhân. Dưới đây là công thức Hồng phạm ngũ hành:

Càn Hợi, Đinh, Dậu thuộc Kim.

Cấn, Mão, Tỵ, Canh thuộc Mộc.

Nhâm, Ất, Bính, Ngọ thuộc Hỏa.

Dần, Giáp, Thìn, Tốn, Thân, Tân, Tuất, Tý thuộc Thủy.

Quý, Sửu, Mùi, Khôn thuộc Thổ.

(Còn Tiếp)

Share this post


Link to post
Share on other sites

3-4 Huyền Không ngũ hành:

Người ta dùng Huyền Không ngũ hành để tính thủy khẩu, hễ hướng thủy khẩu sinh nhập hay khắc nhập hành của hướng huyệt thì cát.

Dưới đây là công thức huyền không ngũ hành:

Bính, Đinh, Ất, Dậu thuộc Hỏa.

Càn, Khôn, Mão, Ngọ thuộc Kim

Hợi, Quý, Cấn, Giáp thuộc Mộc

Tuất, Canh, Sửu, Mùi thuộc Thổ.

Tý, Dần, Thìn, Tốn, Tỵ, Tân, Thân, Nhâm thuộc Thủy.

3-5 Công thức cửu tinh phân phối 24 sơn:

1. Kiền sơn thuộc sao Lộc Tồn

2. Hợi sơn thuộc sao Liêm Trinh

3. Nhâm sơn thuộc sao Văn Khúc

4. Tý sơn thuộc sao Phá Quân.

5. Quý sơn thuộc sao Phá Quân

6. Sửu sơn thuộc sao Vũ Khúc

7. Cấn sơn thuộc sao Tham Lang

8. Dần sơn thuộc sao Văn Khúc

9. Giáp sơn thuộc sao Lộc Tồn

10. Mão sơn thuộc sao Liêm Trinh

11. Ất sơn thuộc sao Tả Phụ

12. Thìn sơn thuộc sao Phá Quân

13. Tốn sơn thuộc sao Cự Môn

14. Tỵ sơn thuộc sao Vũ Khúc

15. Bính sơn thuộc sao Tham Lang

16. Ngọ sơn thuộc sao Văn Khúc

17. Đinh sơn thuộc sao Vũ Khúc

18. Mùi sơn thuộc sao Liêm Trinh

19. Khôn sơn thuộc sao Hữu Bật

20. Thân sơn thuộc sao Phá Quân

21. Canh sơn thuộc sao Liêm Trinh

22. Dậu sơn thuộc sao Vũ Khúc

23. Tân sơn thuộc sao Cự Môn

24. Tuất sơn thuộc sao Văn Khúc

(Công thức Cửu tinh phân phối 24 sơn này rất là quan trọng cho những công thức nào dùng đến Tử long thiên tinh như các chương tâm kinh sau này).

3-6 Hà Đồ chí vu quan thượng

(Để hình Hà đồ trên áo quan)

Câu 1: Hà Đồ long chi tượng, dụng thanh chỉ tác chi đồ.

Dịch (1) Hà Đồ tượng về Long, dùng giấy xanh làm bản đồ tròn

Câu 2: Dĩ mặc hùng hoàng, thần sa hỗn ma vu nhất thứ chi.

Dịch (2) Lấy mực hùng hoàng, và thần sa mài lẫn với nhau để vẽ.

Câu 3: Ngũ thập ngũ số:

- Nhất - Lục – (Khảm: thủy)

- Nhị - Thất (Ly: hỏa)

- Tam – Bát (Chấn Tốn: mộc)

- Tứ - Cửu (Càn Đoài: kim)

- Thập – Ngũ (Khôn Cấn: thổ)

Khinh thanh vi nhiên: Nhị thập ngũ số

Trọng trọc vi địa: tam thập số

25 + 30: 55

Dịch (3) Năm mươi lăm số:

Số 1 và số 6 là Khảm (hành thủy)

Số 2 và 7 là Ly (hành hỏa)

Số 3 và 8 là Chấn Tốn (hành mộc)

Số 4 và 9 là Càn Đoài (hành kim)

Số 10 và 5 là Khôn Cấn (hành thổ)

Thanh nhẹ là trời có 25 số

Thô nặng là đất có 30 số

Tổng cộng là 25 + 30 = 55 số

3-7 Lạc thư chi vu quan hạ

(Để hình Lạc thư vào dưới áo quan)

Câu 1: Lạc thư qui chi tượng, dụng hùng hoàng chỉ tác phương đồ

Dịch (1) Lạc thư tượng về quy, lấy giấy đỏ làm bản đồ vuông.

Câu 2: Dĩ Hùng hoàng, thần sa, chu sa hỗn ma vu nhất thứ chi.

Dịch (2) Lấy mực hồng hoàng và thần sa mài lẫn với nhau để vẽ:

Câu 3: Tứ thập ngũ số: (có 45 số)

Nhất Khảm (số 1 là Khảm)

Nhị Khôn (số 2 là Khôn)

Tam Chấn (số 3 là Chấn)

Tứ Tốn (số 4 là Tốn)

Ngũ trung (số 5 là Trung cung)

Lục Càn (số 6 là Càn)

Thất Đoài (số 7 là Đoài)

Bát Cấn (số 8 là Cấn)

Cửu Ly (số 9 là Ly)

Cộng 1+2+3+4+5+6+7+8+9 = 45

Câu 3: Khinh thanh vi thiên vi nhị thập ngũ số

(Thanh nhẹ là trời có 25 số)

Câu 4: Trọng trọc vi địa vi nhị thập số

(Thổ nhẹ là đất có 20 số)

3-8 Đại thần trung thần tiểu thân đinh cục, chiết thủy chi pháp chước dụng

(Dịch Châm chước dùng phép Đại thần, Trung thần, Tiểu thần để định cục chiết thủy)

Câu 1: Kỳ pháp tự Tiểu nhập Trung, nhị thập Đại tam chiết xuất thủy

Dịch (1) Theo phương pháp nên từ Tiểu vào Trung rồi vào Đại, 3 lần khúc chiết thủy phóng ra Càn Khôn Cấn Tốn, gọi là thượng ngư nhai thủy

Câu 2: Ất, Tân, Đinh, Quý thân danh Tiểu

Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tiểu thần biểu, thuộc Quý phòng

Dịch (2) Ất Tân Đinh Quý là Tiểu thần.

Thìn Tuất Sửu Mùi Tiểu thần biểu, thuộc ngành út

Câu 3: Giáp, Canh, Bính, Nhâm hiệu Trung thần

Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Trung thần chiếu, thuộc ngành thứ.

Câu 4: Duy hữu Càn Khôn Cấn Tốn phương

Dần Thân Tỵ Hợi phương

Đại Thần thuộc Mạnh phòng

Dịch (4) chỉ có Càn Khôn Cấn Tốn phương và Dần Thân Tỵ Hợi phương thuộc ngành trưởng.

Câu 5: Bát can tứ duy lưu giai cát, nhược phóng Chi tràng khởi họa ương.

Dịch (5) nước chảy Bát Can tứ duy đều là tốt, nếu phóng ra Chi thời khởi nên họa ương.

Nước phóng ra 12 chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ

Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi thời khởi nên họa.

3-9. Thu sơn xuất sát định hướng lập cục

Câu 1 Tĩnh âm, tĩnh dương lập cục dĩ Lạc Thư cơ ngẫu số, phối tiên thiên bát quái nạp giáp phân Âm Dương lập cục.

Dịch (1) Lập cục theo Tĩnh âm, Tĩnh dương, lấy số cơ ngẫu (chẳn, lẽ) trong Lạc thư để phối hợp với Tiên Thiên chia Âm Dương lập cục.

Câu 2: Tiên minh lưỡng kiết sơn hướng, sơn xung sạ sát, tương quan

Dịch (2) Trước hết phải minh bạch về Sơn Hướng và Sơn xung xa, sát cùng tương quan của chúng.

Câu 3: Âm xung, Dương bác, Trung tiên bại.

Dịch (3) Âm xung, Dương bác, ngành giữa hại trước.

Câu 4: Dương Âm kiêm xạ, Trưởng bất an

Dịch (4) Âm, Dương cùng kiêm xạ, ngành Trưởng bất an.

Câu 5: Duy quái, Mạnh chi đồng Trưởng đoan

Càn, Khôn, Cấn, Tốn, tứ duy quái

Dịch (5) Nhằm vào Duy quái, thường chi đầu cùng con Trưởng bị đoạn tuyệt.

- Càn Khôn Cấn Tốn là 4 duy quái

Câu 6: Dương can, tứ trọng tác Trung khan

Giáp Canh Nhâm Bính: Dương Can

Tý Ngọ Mão Dậu: Tứ trọng

Dịch (6) Dương Can, Tứ Trọng xem về ngành giữa

- Giáp Canh Nhâm Bính là Dương Can

- Tý Ngọ Mão Dậu là Tứ trọng

Câu (7) Ất phòng hưng bại tâm hà xứ?

Kiến tại Dương Can,Tứ Quý

Ất Tân Đinh Quý, Thìn Tuất Sửu Mùi

Dịch (6) Ất phòng thịnh hay bại tìm ở nơi nào? Tìm ở:

- Ất Tân Đinh Quý là Dương Can.

Thìn Tuất Sửu Mùi là Tứ Quý.

Chương 3-10A

BÁT TRẠCH LỆ

Càn 1

Khảm 2

Cấn 3

Chấn 4

Càn

Phục vị

Lục sát

Thiên Y

Ngũ quỷ

Khảm

Lục sát

Phục vị

Ngũ quỷ

Thiên y

Cấn

Thiên y

Ngũ quỷ

Phục vị

Lục sát

Chấn

Ngũ quỷ

Thiên y

Lục sát

Phục vị

Tốn

Họa hại

Sanh khí

Tuyệt mạng

Diên niên

Ly

Tuyệt mạng

Diên niên

Họa hại

Sanh khí

Khôn

Diên niên

Tuyệt mạng

Sanh khí

Họa hại

Đoài

Sanh khí

Họa hại

Diên niên

Tuyệt mạng

Chương 3-10B

BÁT TRẠCH LỆ

Tốn 5

Ly 6

Khôn 7

Đoài 8

Càn

Họa hại

Tuyệt mạng

Diên niên

Sanh khí

Khảm

Sanh khí

Diên niên

Tuyệt mạng

Họa hại

Cấn

Tuyệt mạng

Họa hại

Sanh khí

Diên niên

Chấn

Diên niên

Sanh khí

Họa hại

Tuyệt mạng

Tốn

Phục vị

Thiên y

Ngũ quỷ

Lục sát

Ly

Thiên y

Phục vị

Lục sát

Ngũ quỷ

Khôn

Ngũ quỷ

Lục sát

Phục vị

Thiên y

Đoài

Lục sát

Ngũ quỷ

Thiên y

Phục vị

Ví dụ:

1. Càn biến Càn là Phục vị (Diên niên)

2. Khảm biến Càn là Lục sát

3. Cấn biến Tốn là Tuyệt mạng

4. Chấn biến Khảm là Thiên y

5. Tốn biến Khảm là sanh khí

6. Ly biến Đoài là Ngũ quỷ.

7. Đoài biến Khảm là Họa hại

Sanh khí và Diên niên là Thượng kiết

Thiên y là Trung kiết

Phục vị là Tiểu kiết

Tuyệt mạng và Ngũ quỷ là Đại hung

Lục sát và họa hại là Thứ hung

Chương 3-11

Thiên văn cách thượng đốn long, địa ứng Thiên văn

(Đốn long trên thể cách Thiên văn, địa huyệt ứng thiên văn)

1. Liêm trinh ám Bệnh tử (Liêm trinh rõ Bệnh tử)

2. Thai tuyệt nãi Lộc Tồn (Thai tuyệt tức Lộc Tồn)

3. Phá Quân chân Mộ vị (Phá Quân thực Mộ vi)

4. Phùng suy thị Cự môn (Phùng suy là Cự môn)

5. Học đường Lâm Quan tượng (Học đường là Lâm quan)

6. Vượng phương thị Vũ Khúc (Vượng phương là Vũ khúc)

7. Quan đới thuộc Văn xương (quan đới thuộc Văn xương).

8. Mộc dục Văn Khúc vị (Mộc dục ngôi văn khúc)

9. Dưỡng, Sinh thị Tham Lang (dưỡng, Sinh là Tham lang).

Tham lang hưng trưởng tử (Tham lang hưng con trưởng)

Cự Môn vượng trung phòng (Cự môn vượng con giữa).

Vũ Khúc vượng tam phòng (Văn Khúc bại con giữa)

Lộc Tồn bại quý phòng (Lộc Tồn bại con giữa)

Phá Liêm trưởng tử thụ bần cùng (Phá Quân, Liêm Trinh con trưởng bị nghèo hèn).

Thiên văn chiếu địa huyệt, địa huyệt ứng thiên văn, hợp chi tắc cát, bất hợp tắc hung.

(Thiên văn trên trời chiếu mộ huyệt, Mộ huyệt ứng thiên văn, Hợp nhau thì cát, không hợp thì hung).

3-12 Thủy pháp và Lập hướng

Câu 1: Nhất lập sinh hướng: Nghi hữu thủy, đảo Tả qui Khố nhi khứ

(Đinh lập Sinh hướng, nên phải nước bên hữu (phải) chảy tới bên tả (trái) rồi về Khố mà phóng đi)

Câu 2: Nhất lập vượng hướng: Nghi tả thủy, đảo hữu, qui Khố nhi khứ

(Đinh lập Vượng hướng, nên phải nước bên Tả (trái) chảy tới bên Hữu (phải) rồi chảy về Khố mà phóng đi.

Câu 3: Nhất lập Mộ Hướng: Nghi tả thủy đảo hữu, lưỡng thủy hợp khâm nhi khứ.

(Đinh lập Mộ hướng nên phải nước bên Tả (trái) chạy sang bên hữu (phải) rồi hai dòng nước hợp lại và phóng đi)

--------------------------------------------------------------------------------

Câu 4: Nhất lập Dưỡng hướng: nghi Hữu thủy đảo tả, qui Mộ nhi khứ.

(Đinh lập Dưỡng hướng nên phải nước bên Hữu (phải) chạy sang bên tả (trái) rồi về khố mà phóng đi).

--------------------------------------------------------------------------------

Câu 5: Dụng chính Ngũ hành khởi Tràng sinh thu Vượng thần tự cục sinh thủy nghịch chiều lưu qui bản long Mộ khố, nhi khứ thủy khẩu.

(Dùng chính ngũ hành khởi Trường sinh, thu vượng thần tự cục, sinh thủy triều ngược lại chảy về bản long Mộ Khố rồi phóng ra thủy khẩu).

Câu 6: Phương vị hợp pháp, nhược long pháp bất hợp nhi tòng hướng thu sinh vượng qui đường, tắc long gia dĩ hướng gia uế tạp bất tương nhập, tuy hữu ứng phúc, hung do trì dã.

(Thủy khẩu dùng hợp pháp

Nếu long pháp không hợp mà cứ theo hướng thu sinh vượng về minh đường thời long gia với hướng gia không ăn khớp với nhau, tuy có phúc, sợ còn chậm vậy).

Chương 3-13 Âm dương tọa hướng luận

Câu 1-Âm long: Chấn, Canh, Cấn, Bính, Tốn, Tân, Đoài, Đinh, Tý, Sửu, Hợi, Mùi âm long dã. Âm long lập âm hướng.

Dịch (1) Âm long: Chấn , Canh, Cấn, Bính, Tốn, Tân, Đoài, Đinh, Tý, Sửu, Hợi, Mùi đều là Âm long. Âm long lập âm hướng.

--------------------------------------------------------------------------------

Câu 2-Dương long: Càn, Khôn, Khảm, Ly, Thân, Thìn, Dần, Tuất, Quý, Giáp, Nhâm, Ất đều là dương long. Dương long lập dương hướng.

Dịch (2) Dương long: Càn, Khôn, Khảm, Ly, Thân, Thìn, Dần, Tuất, Quý, Giáp, Nhâm, Ất đều là dương long. Dương long lập dương hướng.

Câu 3- Nhiên thuần Dương bất sinh, thuần Âm bất dục.

a. Như Hợi (âm) long tác Tỵ (âm) hướng gia Ngọ (dương) bán phân

b. Như Tý (dương) long tác Ngọ (dương) hướng gia Mùi (âm) bán phân

Sử bất cô hư dã.

Dịch (3) Nhưng thuần âm thì không sinh, mà thuần dương thì không dục.

a. Như Hợi (âm) long lập Tỵ (âm) hướng: nên chếch sang Ngọ (dương) ½ phân.

b. Như Tý (dương) long lập Ngọ (dương) hướng nên chếch sang Mùi (âm) ½ phân.

Khiến cho khỏi cô lập vậy.

Câu 4- Kim cuộc long

1. Dương kim cuộc - Tốn Tỵ long

a. Tốn long lập Tân hướng, Tốn Tỵ hành long chuyển Ất Thìn phạm Thiên cương

b. Tỵ long lập Canh hướng, Tốn Tỵ hành long chuyển Ất Thìn phạm Thiên cương.

2. Âm kim cuộc Nhâm Tý long

a. Nhâm long, Ngọ hướng, Nhâm Tý hành long chuyển quá Tỵ, Thìn Mão phùng Tử, Tuyệt.

Câu 5- Hỏa cuộc long

a. Âm hỏa cuộc, Canh Dậu long

(Canh long, Nhâm hướng)

Canh Dậu hành long chuyển quá Dần, Sửu, Tý phùng Tử, Tuyệt.

b. Dương hỏa cuộc Cấn Dần long

(Cấn long Bính, Tốn nhi hướng)

Cấn Dần hành long chuyển quá Sửu phạm Thiên cương

Câu 6- Mộc cuộc long

Âm mộc cuộc, Bính Ngọ long

(Bính long, Canh hướng)

Bính Ngọ hành long chuyển quá Mùi phạm Thiên cương

b. Dương Mộc cuộc, Càn Hợi long

(Càn long, Giáp hướng)

Càn Hợi hành long chuyển quá Dậu, Tuất phạm Thiên cương

Câu 7-Thủy cuộc long

a. Âm thủy cuộc Giáp Mão long

(Giáp long, Càn hướng)

Giáp Mão hành long chuyển quá Ngọ Mùi Thân gặp Tử, Tuyệt.

b. Dương thủy cuộc, Khôn Thân long

(Khôn long quý hướng)

Khôn Thân hành long chuyển quá Mùi phạm Thiên cương

Chương 3-14

Thiên Can tương sinh

1. Giáp Ất sinh Bính Đinh (Mộc sinh hỏa)

2. Bính Đinh sinh Mậu Kỷ (Hỏa sinh thổ)

3. Mậu Kỷ sinh Canh Tân (Thổ sinh kim)

4. Canh Tân sinh Nhâm Quý (Kim sinh thủy)

5. Nhâm Quý sinh Giáp Ất (Thủy sinh mộc)

Là ngũ hành Thiên can tương sinh

Thiên can tương khắc

1. Giáp Ất khắc Mậu Kỷ (Mộc khắc Thổ)

2. Mậu Kỷ khắc Nhâm Quý (Thổ khắc Thủy)

3. Nhâm Quý khắc Bính Đinh (Thủy khắc Hỏa)

4. Bính Đinh khắc Canh Tân (Hỏa khắc Kim)

5. Canh Tân khắc Giáp Ất (Kim khắc Mộc)

Là ngũ hành Thiên can tương khắc.

Chương 3-15

Can chi tương xung

1. Giáp Canh xung nhau

2. Bính Nhâm xung nhau

3. Ất Tân xung nhau

4. Đinh Quý xung nhau

5. Mậu Kỷ là Thổ không xung

6. Tý Ngọ xung nhau

7. Mão Dậu xung nhau

8. Dần Thân xung nhau

9. Tỵ Hợi xung nhau

10. Thìn Tuất xung nhau

11. Sửu Mùi xung nhau

Chương 3-16

Địa chi tam hình

1. Dần Tỵ Thân là hình vô ân

2. Sửu Tuất Mùi là hình thị thế

3. Ngọ Mão Mùi là hình vô quá

Thìn Dậu Hợi là hình tự hại nhau

Địa chi lục hại

1. Tý hại Mùi nho nhỏ một thân

2. Sửu hại Ngọ mà Dần hại Tỵ

3. Mão hại Thìn mà Hợi hại Thân

4. Tương xuyên Hợi Tuất hại vô ngần

Chương 3-17

Can chi tương hình

1. Giáp hình Thân, hề Ất hình Dậu

2. Bính Tý Đinh Hợi Mậu hình Dần

3. Kỷ hình Mão hề Canh hình Ngọ

4. Tỵ Nhâm Tuất Quý hình Mùi

Địa chi tam sát

Thân Tý Thìn sát ở Tỵ Ngọ Mùi

Tỵ Dậu Sửu sát ở Dần Mão Thìn

Dần Ngọ Tuất sát ở Hợi Tý Sửu

Hợi Mão Mùi sát ở Thân Dậu Tuất

Chương 3-18

Hướng tinh tự thứ

1. Nhất bạch thuộc Khảm (Thủy)

2. Nhị Hắc thuộc Khôn (Thổ)

3. Tam Bích thuộc Chấn (Mộc)

4. Tứ Lục thuộc Tốn (Mộc)

5. Ngũ Hoàng thuộc Trung (Thổ)

6. Lục Bạch thuộc Càn (Kim)

7. Thất xích thuộc Đoài (Kim)

8. Bát bạch thuộc Cấn (Thổ)

9. Cửu tử thuộc Ly (Hỏa)

Tốn

(Tứ Lục)

Ly

(Cửu Tử)

Khôn

(Nhị hắc)

Chấn

(Tam Bích)

Trung

(Ngũ hoàng)

Đoài

(Thất Xích)

Cấn

(Bát Bạch)

Khảm

(Nhất Bạch)

Càn

(Lục Bạch)

HẾT. dienbatn giới thiệu .

Nguồn:Blog360.dienbatn

Share this post


Link to post
Share on other sites