Lê Bá Trung

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    526
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Lê Bá Trung

  1. Trong thuật phong thuỷ, lập hướng rất quan trọng. Sai một ly đi một dặm. Để xác định được phương vị, các nhà phong thủy chia vòng địa bàn (360 độ) ra làm 24 Sơn. Mỗi sơn quản 15 độ. Chính giữa Sơn gọi là Chính hướng. Khi chọn hướng cho Dương trạch, người xưa thường căn cứ vào vị trí địa lý, khí hậu, phong tục tập quán, .. từng khu vực. Ở Việt Nam mùa hè thường có gió nam rất mát, nên làm nhà, lập trạch thường ưu tiên chọn hướng này. Hướng nam còn tránh được cái lạnh cắt da, cắt thị của gió mùa đông bắc, cái nắng gay gắt của mùa hè. Các cụ thường nói lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam là như vậy. Xét về mặt phong thuỷ. Nếu chọn chính hướng sẽ phạm vào quy giáp, sai thố không vong, khí đi thẳng, rất mạnh và cứng rắn, …. nên rất xấu, không thể dùng. Lập trạch hướng chính đông, hướng Chấn mộc, toạ Đoài kim là tương khắc, kim mộc giao đấu tượng bất lợi. Đông trạch lẫn lộn với tây trạch. Đây là tuyệt mệnh trạch theo phép Bát biến du niên, thuộc phá quân, âm kim, quái là Quy muội. Nhà này có hại con trai trưởng, con dâu và con gái trưởng. Người trong nhà thường mắc chứng bệnh về gan, mật, đau xương cốt, bất lợi cả tiền tài và nhân đinh. Nếu phạm phải, các phong thủy sư phải dùng pháp thuật để hoá giải mới mong yên được. Ngoài ra, hướng Đông hoặc chính tây sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nguồn năng lượng mặt trười. Nhà lúc nào cũng bị ánh nắng chiếu rọi, làm cho ngôi nhà mất đi sự cân bằng của âm dương, phạm vào “Cô dương bất sinh, độc âm bất trưởng” - bất lợi hoàn toàn cho người cư ngụ. Nguồn:BLog laido
  2. Thân chào caytunghanoi. Về vấn đề này anh nên suy nghĩ thật kỹ, vì nếu nhà xây gần nghĩa trang sẽ mang nặng âm khí, người sống gần nghĩa trang ở lâu dễ bị trầm cảm và hoang tưởng. Với lại sát bên cửa sổ có một ngôi mộ, nếu như nhà cấp 4 đập ra xây sửa lại thì sợ động phải chỗ yên nghĩ của người âm rất xấu. Vài lời góp ý.
  3. Theo như Thầy Thiên Sứ thì hướng nhà không phải là yếu tố duy nhất để xác định toàn diện cục nhà, trong phong thủy còn nhiều mặt tương tác lẫn nhau như về cấu trúc Loan Đầu, Huyền Không, Dương Trạch Tam yếu...vv. Nhất Phúc, Nhì Mệnh, Tam Phong Thủy..Chị nên đưa sơ đồ nhà lên đây để mọi người tham khảo xem thế nào . Chào chị.
  4. Tỳ Hưu trong Phong Thủy dùng để cầu tài lộc, nhưng chơi Tỳ Hưu nên cẩn thận, Tỳ Hưu có 2 mặt trước phát sau tán, Tỳ Hưu là một loài chiêu lộc bốn phương hút tiền vào bụng nhưng Tỳ Hưu không có hậu môn cho nên càng chơi về lâu dài thì càng suy giống tình trạng bế khí, con người cũng vậy ăn nhiều mà không tiêu hóa được thì sẽ dẫn đến bội thực...Chứng nghiệm trên đường Điện Biên Phủ có 1 khách sạn chơi cặp Tỳ Hưu To để trước nhà. Ban đầu thỉnh về tình trạng làm ăn rất khá dần dần về sau vắng khách dẫn đến phá sản. Nếu muốn chơi nên có sự hướng dẫn của Thầy Chuyên Môn thì sẽ có kết quả...
  5. Nhìn sư phụ " Xì Tai "" quá..... :lol: :lol: :lol:
  6. Thân chào chị Bongdiendien. Trụ điện phát sóng nhô cao thuộc Âm, có phát ra tầng sóng...Nhìn về hình thể như một mũi tên nhọn khổng lồ. Chị nên có bản vẻ sơ đồ nhà và hướng nhà cụ thể ACE sẽ giúp chị. Chị nên chuyển topic này sang mục tư vấn đây là topic Trao đổi học thuật, cám ơn chị.
  7. Bài viết được soạn thảo bởi Thầy Quảng Đức ÂM DƯƠNG TRONG PHONG THỦY Trong địa lý, muốn biết Âm hay Dương thì hãy nhìn về hướng con nước chảy. Người nào học Phong Thủy cũng đều phải học qua bài Thủy pháp căn bản : - Thấy nước chảy từ phải sang trái là nước chảy ngược chiều kim đồng hô, thì biết là nơi đây nhiều Âm khí. - Thấy nước chảy từ trái sang phải, là nước chảy cùng chiều kim đồng hồ, thì biết nơi đây đầy khí Dương. Dương tính nhu nhuyễn, Âm tính cường kình. Không thấy những cơn bão lóc xoáy ngược chiều kim đồng hồ, cường kình mãnh liệt, gây ra không biết bao là tai họa là vì khí Âm rất lớn hay sao? Các vòng đua xe, đua ngựa, đua chó và ngay như các vòng đua của người cũng đều được quy định phải chạy từ phải sang trái, ngược chiều với kim đồng hồ, nghĩa là phải chạy theo chiều Âm. Là vì, Âm khí càng nhiều, thì cuộc đua mới càng quyết liệt. Càng quyết liệt thì cuộc đua mới càng hào hứng. Đã có bao giờ thấy vòng đua nào mà chạy thuận chiều kim đồng hồ, nghĩa là chạy theo chiều Dương chưa? Vậy thì khoa PhongThủy cho rằng Âm là Cao, là Cường, chủ sát phạt. Dương là Thấp là Nhược, chủ phát sinh, thì sao cứ một chiều cho là mê tín ? Các tổ sư Phong Thủy lại còn dạy cho biết là Âm Dương quý ở sự hài hòa. Hễ thấy chỗ nào Dương khí lớn , muốn hài hòa thì tìm nơi Âm mà ở. Chỗ nào Âm khí nhiều mà muốn hài hòa, thì tìm nơi Dương mà trú. Vậy chỗ nào bằng phẳng, lõm thấp là chỗ Dương khí nhiều thì cứ tìm ở trên nơi cao. Chỗ nào đồi cao, núi lớn là chỗ nhiều khí Âm thì cứ tìm nơi thấp mà trú. Thấp Dương là nhược. Cao Âm là Cường. Cường kình mà gặp tế nhược mới hóa thành sinh khí. Không lẽ giữa nắng trưa, muốn dưỡng lại sức, lại không biết tìm nơi có bóng mát mà nghỉ? Nắng trưa là Dương, bóng mát là Âm. Gặp nơi Dương khí lớn khôngphải tìm nơi Âm mà trú là gì ? Các nơi thấp lõm, sình lầy, ẩm ướt, thiên hạ không lẽ không biết tìm đến ở nơi cao? Trên núi cao, dóc đứng, thì dại chi mà không tìm nơi bằng phẳng mà ngụ. Thì thuật Phong Thủy dạy người hễ trên vùng cao, hãy tìm nơi thấp mà ở. Nơi vùng thấp hãy tìm nơi cao mà trú thì có gì là dị đoan? Chỉ vì người đời xưa nay chỉ biết cái lý của trời mà không hiểu được cái Khí của đất, lại tự cho mình là trí, không chịu tìm biết để phân biệt chỗ nào là Âm và chỗ nào là Dương, cho nên, hễ động đến Âm Dương, Phong Thủy là dẫy nẫy, cứ một chiều cho rằng mê tín. Trên trời thì Dương động mà Âm thì Tĩnh. Dưới Đất thì Dương Tĩnh mà Âm thì lại Động. Động thì cường mà Tĩnh thì nhược. Một bên là Khí, một bên là Hình; một bên là Tĩnh và một bên là Động thì hai chữ Âm Dương đâu phải ai cũng có thể phân biệt được rõ, để biết được cái tinh của tạo hóa? Thoạt nghe Âm thì cường, Dương thì nhược mà thấy như có vẽ ngược ngạo, thì hãy nhìn vào dạng Nước thì biết. Nước lạnh dưới Âm độ là nước Âm khí nhiều thì sẽ đóng thành băng, vón cứng thành cục , hình sẽ lồi nhô lên như Âm Nhũ - thì gọi là cường. Nước nóng ấm, Dương khí nhiều, lỏng chảy, uyễn nhuyễn , hình sẽ lõm xuống như Dương oa- thì gọi là nhu. Nếu vẫn chưa rõ thì cũng nên thử quan sát thực tế đất đai: Phương bắc, khí Âm thường nhiều và rét lạnh - Âm thì tính cường kình - cho nên phương bắc chỉ thấy toàn là đồi cao núi lớn. Ở phương nam, khí Dương thường nhiều và nóng ấm– Dương thì tính nhu nhuyễn - cho nên phương nam đất đai bằng phẳng, nhu mì. Âm lạnh thì đất đai hình co rút, sinh ra núi đồi, Dương nóng thì hình trải dài, đất đai bằng phẳng . Vậy thì thực tế và đia lý Phong thủy đâu có chi là khác biệt ? Tạ Giác Trai trong Đảo Trượng Thi dạy thêm rằng: Âm nhũ thì giống như dương vật của người Nam. Dương oa thì giống như sản môn của người Nữ . Lê Quý Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ lại nói cho rõ thêm: Đất lấy cát làm thịt, lấy đá làm xuơng, lấy cỏ cây làm lông, lấy sông nguồn làm mạch máu. Rõ ràng địa lý, đất đai, đồi núi cũng y chang như con người. Nghĩa là cũng phải có đủ Âm Dương mới có mặn nồng, hòa hợp, ái ân, thì công danh, tài lộc mới sinh sôi nẫy nỡ, sinh con đẻ cháu, nối dõi tông đường. Như vậy, điều trước tiên là phải nhận biết cho rõ Âm Dương rồi mới tìm đến huyệt kết, nôm na là tìm chỗ nào sinh khí nhạy cảm nhất. Đã nói đất đai cũng như con người thì chỗ nhạy cảm sinh khí nhất rõ ràng không chỗ nào hơn được chỗ Âm Nhũ của đàn ông và Dương oa của người Nữ . Xưa nay người ta vẫn thường cho rằng những kinh nghiệm truyền từ đời này sang đời khác, tác động sâu vào tâm lý và hành động của con người mới chính thực là căn bản của thuật Phong Thủy. Không lẽ không thấy tại những vùng đất thấp, thì đại đa số nhà cửa ở trên các đồi núi cao đều nguy nga đồ sộ, đắt tiền, của những tay giàu có? Thì cũng biết đâu họ giàu là nhờ họ đã biết vùng thấp cho nên họ đã chọn ở trên cao? Các vùng trên cao, toàn đồi cao và núi lớn, nhiều Âm khí, thì thiên hạ lại ùn ùn chạy tìm xuống đồng bằng mà xây nhà dựng cửa là vậy. Các vùng đất nào thấp, thì nên tìm nhà trên lưng chừng đồi cao mà ở. Đó cũng là nơi Âm Dương giao hội. Sớm muộn rồi cũng sẽ trở nên khá giả, giàu sang. Con cái, cháu chắt đều có nhiều cơ hội để trở thành ông này bà nọ, nôm na như là kỷ sư, bác sĩ trong tay........ Nhưng, hãy nhớ cho thật kỷ và phải thuộc nằm lòng là nhà cửa mà xây dựng ở trên cao là đang tại trên Âm Nhũ. Cũng y như đang quanh quảnh đâu đó trên vùng kích dục nhất của Duơng vật, thì phải tìm biết chỗ nào là chỗ thoát tinh . Thường chỗ thoát tinh là chỗ cao nhất. Chỗ này phải để y nguyên trạng, khôngđược khai phá, xây dựng, đào phá, động đậy là vì chỗ thoát tinh mà bị bít kín thì khí sẽ không thông . Khí mà không thông lâu ngày, khí sẽ bị dồn ứ lên tận não, trước sau gì cũng sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Nhà cửa xây dựng trên một thế đất “ tẩu hỏa nhập ma “ thì khó mà giàu sang phú quý và con cháu mai hậu không tưng tửng thì cũng điên điên. Cách đơn giản, lại dễ hiểu là hễ thấy khu vực nào mà đỉnh núi hay đỉnh đồi cao nhất đã bị thiên hạ chiếm cứ xây dựng nhà ở lên rồi, nghĩa là cái đầu thoát tinh chỗ này đã bị bít kín, thì ba chân bốn cẳng, lẹ lẹ dọn nhà đi tìm nơi khác mà ở là vừa. Ngược lại, các vùng đất ở trên cao nhiều đồi nhiều núi thì nên tìm nhà trên dãi đất thấp, bằng phẳng hay bình nguyên mà ở. Bằng phẳng và thấp lõm thì chính là Dương Oa. Dương oa y chang như là sản môn của người Nữ thì coi chừng đừng có động đậy xây nhà dựng cửa hai bên mép. Hai mép của Dương oa mà bị triệt phá thì cả vùng sẽ bị lạnh cãm, hết còn kích được Dục thì đừng mong mà còn khả năng sinh tài sinh lộc, sinh quan sinh quyền. HÌNH và KHÍ Khí thì dựa vào tượng để thành hình và Hình thì để thể hiện Khí. Hình và Khí hoàn toàn khác biệt nhưng lại không thể tách rời được nhau. Muốn biết Khí thì phải dựa vào Hình. Thế nhưng mấy ai rõ biết? Hãy quan sát núi non trùng trùng, điệp điệp ở phương Bắc và bình nguyên rộng lớn trải dài ở phương Nam. Phương Bắc lạnh lẽo, Âm khí thì nhiều. Phương Nam nắng ấm Dương khí cùng khắp. Âm thì Lạnh, tỉnh. Dương thì Nóng, động. Khí Âm thì Trầm, Khí Dương thì Phù. Càng về Phương Bắc Âm khí càng lớn thì núi non càng hùng vĩ, càng về Phương Nam, Dương khí càng nhiều thì núi non càng hiếm, đất đai bằng phẳng. Khí âm thì nhu, trầm nhưng Hình thì cương cường bạo liệt. Khí Dương thì cương, phù, nhưng Hình thì nhu mì bằng phẳng. Phong là Gió, là nộ khí của trời đất. Gió càng lớn thí Âm khí càng nhiều. Sấm thuộc Dương khí cho nên mổi khi thấy Sấm động thì Bão sắp dứt. Có phải là Âm khí của Bão bị Dương đánh tan hay không? Bởi thế, càng ở chổ cao, thì gió càng lớn. Ở Phương Bắc, Âm khí thì nhiều mà khí Dương thì thường yếu kém không đủ, cho nên hình thể là núi non trùng điệp, cương cường. Ở phương Nam khí Dương thì nhiều, khí Âm thì yếu kém không đủ, cho nên hình thể bằng phẳng nhu mì. Lê quý Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ thêm: Ở Phương Bắc, trời tiết chưa rét lắm mà Nước đã đông đặc thành băng, bởi lẽ khí Dương quá yếu kém không đủ để lấn át khí Âm. Ở phương Nam, Dương khí thì nhiều lấn át khí Âm, khí âm thường tan biến phía dưới, cho nên nước không thể đông đặc đóng thành băng được. Hình và Khí như vậy là đã rõ Những nơi Âm khí nhiều thì Hình cương cường bạo liệt. Những nơi Dương khí nhiều thì Hình nhu mì bằng phẳng. Hình I: Nơi nhiều Khí Âm: HÌNH VẼ Hình 2: Nơi nhiều khí Dương: HÌNH VẼ Trời thuộc Dương cho nên Hình thì động mà Khí thì tỉnh. Đất thuộc Âm cho nên Hình thì tĩnh mà Khí thì động. Dịch lấy Âm Dương hai khí làm trọng. Trong Âm phải có Dương, trong Dương phải có Âm. Cô Âm hay cô Dương thì không thể tồn tại. Phong Thủy thì coi trọng Hình thể. Núi non cương mãnh thì Dụng là Dương nhưng cái Thể là Âm. Bình nguyên rộng khắp, nhu mì thì Dụng là Âm nhưng cái Thể là Dương. Rỏ ràng Âm Dương, Hình và Khí hoàn toàn vẫn không thể tách rời được nhau. Hãy nhìn kỷ bàn tay sấp ngữa để hình dung. Bàn tay sấp thuộc Âm nhưng Hình thì gồ ghề, dáng cương mãnh hiễn lộ, rõ ràng không chút ẩn giấu. Bàn tay ngữa thuộc Dương nhưng Hình thì bằng phẵng nhu mì, mềm mại. . . . . . Hoặc cũng có thể hình dung trạng thái của Nước. Âm khí nhiều thì nước vờn cục thành đá cứng nhắc, Dương khí nhiều thì nước nhu mì, uyển động. Địa Lý Toàn Thư của Lê Bá Ôn có ghi lại phần giải đáp giữa Dương Quân Tùng và Sư Nhất Hạnh. Tăng hỏi: Âm là gì? Dương là gì? Dương công đáp: Hai chữ Âm Dương là cốt lõi của phong thủy, là Hình và Khí được tạo rồi hóa mà thành. Dương khí có hình dạng lõm (OA ), Âm Khí cò hình dạng lồi (ĐỘT). Âm biến thì hóa thành Dương, Dương biến thì hóa thành Âm. Nếu Dương long đến thì Âm thụ huyệt. Nếu Âm long đến thì Dương thụ huyệt hay Âm lai thì Dương thụ, Dương lai thì Âm thụ. Âm Dương, Hình, Khí, đạo lý của tạo hóa là như vậy. Lại hỏi: Âm lai Dương thụ là gì? Dương công đáp: Mạch có sóng lưng, khi tiến nhập vào chổ huyệt có chổ lõm thì gọi là Âm lai Dương thụ. Lại hỏi: Dương lai Âm thụ là gì? Dương công đáp: Thế đến của Mạch tương đối bình hòa, chổ lồi chính là chổ nhập huyệt. Thì gọi là Dương lai Âm thụ. Họ Trúc giải thích thêm: Phàm là địa hình có thể thụ huyệt, nếu giống OA (lõm), KIỀM (kẹp), PHỆ (mỡ ra) tinh khí xuất ra bên ngoài ắt thành Dương. Nếu giống NHŨ (lồi), PHỦ (vòng lên), ĐỘT (nhô lên), tinh khí đọng lại bên trong ắt thành ÂM. Trong OA (lõm) có chổ ĐỘT (nhô lên) như vậy gọi là Dương lai Âm thụ. Phần đầu của NHỦ (chổ lồi) có OA (chổ lõm) như vậy gọi là Âm lai Dương thụ. Dương Mậu Thúc trong Thai Phục Luận viết: Thai Phục là thư, hùng song long. Thai sinh trước hòa hợp với Dương mà sinh Thư. Tinh thần của nó chiếu lên trên. Phục sinh sau, hòa hợp với ÂM mà thành Hùng. Tinh thần của nó chiếu xuống. Nghênh lên cao thì thành Dương. Phủ xuống dưới thấp thì thành Âm. Lưu Đôn Tố viết: Âm là cường, Dương là nhược. Nhược gần Cường mà sinh thành vạn vật. Âm tính thì cương kình, Dương tính thì nhu hòa. Lại viết: Dương lấy Âm làm bản tính. Âm lấy Dương làm hình thể. Chủ của Động là Tĩnh, chủ của Tĩnh là Thể. Ở trên trời thì Dương động mà Âm thì tĩnh. Ở dưới đất thì Dương tĩnh mà Âm thì động. Bản tính vì có hình thể mới Tĩnh. Hình thể vì có bản tính mới động. Núi non hùng vĩ cương cường tính Âm thì lấy chổ Dương làm trọng. Đồng bằng nhu mì bằng phẳng tính Dương thì lấy Âm làm trọng. Chổ nhỏ thì làm nơi mộ táng, lớn hơn thì làm nhà ở, lớn hơn nửa thì làm châu quận, tỉnh thành....Biết như thế để có thể giải thích tại sao người xưa ví Núi như Long là con Rồng trong thần thoại. Núi bản chất yên tĩnh thì trọng ở chổ Động. Ví Núi như Long là nhìn núi như con Rồng đang sống, nghĩa là đang có sinh lực dồi dào. Cũng từ quan niệm đó mà các nhà Phong Thủy phân biệt đâu là Sinh Long, đâu là Tử Long. Tử Long là dãy núi thẳng đơ, cứng nhắc như chết. Sinh Long là dãy núi uốn khúc nhấp nhô, lên xuống, sống động....... Nước thì bắt nguồn từ trên Núi cao cho nên nói Núi là mẹ của Nước hay nói ở đâu có Nước, ở đó có Khí là vì muốn đề cập đến Sinh Long là vậy. (Một số nhà Phong Thủy cho rằng những nơi ruộng lúa bao la, xanh ngát, chỉ cần một cơn gió nhẹ cũng có thể thấy rõ những làn sóng nhấp nhô sống động tạo thành lườn y như những vẫy Rồng sinh động.) Khí cũng chính là Nước, vì Nước là Mạch máu của Long. Nhưng để có thể phân biệt rõ thì Khí là sinh lực của Địa thế mà mắt thường không thấy được, ngược lại sinh lực của địa thế có thể thấy được thì đó chính là Nước vậy. Tạ Giác Trai trong Đảo Trượng Thi giải thích tiếp: Hai chữ Âm Dương rất khó làm rõ. Mấy ai hay biết cái tính của tạo hóa trong đó ! Âm nhũ giống như dương vật của người nam. Dương oa giống như sản môn của người nữ. Nếu giống như Âm nhũ của người nam thì không được làm tổn thương phần đầu. Nếu giống như Dương oa của người nữ thì không được làm hỏng hai môi....... Một không thể sinh ra sự vật mà cần phải có hai. Trường hợp hình thể và khí thế của Long Mạch chạy đến giống như sóng kiếm, như lưng bàn tay úp thì gọi là cô Âm, nếu như bàn tay ngữa thì gọi là độc Dương. Âm Dương cần tương giao với nhau (Giao hợp) nếu không thì y như người Nam không vợ, người Nữ không chồng thì làm sao sinh sôi nẩy nở? Trong Âm phải cầu Dương, trong Dương phải cầu Âm. Âm và Dương cầu giao với nhau mới không bị tuyệt diệt, đất lớn do đó mới được sản sinh. Cùng một cách nhìn khác của các nhà Phong Thủy thì cao là Âm, thấp là Dương. Địa thế cao vút là Âm. Bằng phẳng, tròn trịa là Dương. Phủ xuống là Âm, ngưỡng diện là Dương. Vật có Mũi Nhọn là Âm, vật có chổ Lõm xuống là Dương. Trường hợp địa thế trãi dài bằng phẳng, không thấy xuất hiện chổ nhô lên nghĩa là không thấy có Âm, nhưng lại thấy xuất hiện các dòng nước hội hợp, tức là đã có Âm tồn tại. Trường hợp này được gọi là trường hợp xão diệu, địa thế quý vô cùng. Quan sát thực tế ánh sáng, bóng tối hay ngày và đêm. Chính giữa đêm giờ Tý, Âm hoàn toàn làm chủ thì Dương bắt đầu xuất hiện. Giữa trưa đứng bóng giờ Ngọ, Dương hoàn toàn làm chủ thì Âm bắt đầu xuất hiện. Vì lẽ thế Dịch cho rằng Dương xuất từ Tý, Âm xuất từ Ngọ. Hoặc nói: Gốc của Âm ở trong Dương, gốc của Dương ở trong Âm là vậy. Âm Mạch thì phải trên nhỏ mà dưới lớn. Dương Mạch thì phải trên lớn dưới nhỏ. Do vậy mỗi khi Dương thở ra khí, vạn vật sinh ra. Một khi Âm hít khí vào thì vạn vật sinh thành. Đọc lại Địa Lý Bí Truyền của Tả Ao: . . . . . . . . . . Mạch có Mạch Âm Mạch Dương, Mạch nhược, Mạch cường, Mạch tử, Mạch sinh, Sơn cước Mạch đi rành rành, Bình dương Mạch lẩn, nhân tình không thông Có Mạch qua ao, qua sông Qua đầm, qua núi, qua đồng, qua non. . . . . . . Đồng bằng Mạch đị thấp nên gọi là Mạch Dương. Sơn cước Mạch đi theo đồi núi cao lớn nên gọi là Mạch Âm. Lại thêm 4 yếu tố để phân định: -Mạch Cường: Là thế mạch hùng vĩ, cương cường. -Mạch Nhược: Là thế Mạch thanh nhã, dịu dàng. -Mạch Sinh: Thế Mạch đi rất sống động như con thú đang quay đầu, vẫy đuôi. -Mạch Tử: Thế Mạch đi ngay đơ như cán cuốc. Về Cao Thấp thì trên sơn cước thấp một thước cũng gọi là thấp. Ở bình dương cao một tấc cũng gọi là cao. Âm Dương Hình Khí, Cụ Tả Ao tóm gọn trong hai câu dễ nhớ: Âm là gò đóng, đất ghềnh. Dương là ruộng phẳng, đất bằng như lai. NGŨ HÀNH cũng phân biện Âm Dương, Hình và Thể. Ngoài hành Thổ trung ương, 4 hành khác là Kim, Mộc, Thủy và Hỏa. Mỗi vị trí gọi là mỗi Cuộc Long. Đứng trên vị trí xây dựng, nhà ở hoặc mộ táng, nhìn thẳng góc với dòng nước chảy gần nhất, quan sát thấy dòng chảy của Nước từ TRÁI sang PHẢI, thuận theo kim đồng hồ thì KHÍ ở đó là KHÍ DƯƠNG. Ngược lại nếu dòng chảy của Nước từ PHẢI sang TRÁI thì Khí ở đó là KHÍ ÂM. (Cũng cần nhắc lại Âm Khí thì tìm Dương. Dương khí thì tìm Âm. Bình nguyên thấp một tấc cũng có thể là Dương, cao một tấc cũng có thể là Âm) 1: KIM cuộc: Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng ĐÔNG. Nghĩa là giòng chảy từ hướng TÂY đến. Hướng TÂY hành KIM nên gọi là: TÂY LONG hay KIM CUỘC LONG. Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM. Nếu tính từ Vòng Tràng Sinh, Dương KIM trường sinh tại TỴ (Đông Nam). Vượng tại Dậu (Tây) và Mộ tại SỬU ( Đông Bắc). Tràng Sinh,Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí TAM HỢP Tỵ Dậu Sửu tao thành Kim cuộc. Âm Kim trường sinh tại DẬU (Tây), Vượng tại TỴ (Đông Nam) và Mộ tại SỬU (Đông Bắc). Nước chảy về Phương nào thì phương đó là phương Mộ khố. Hình KIM thì TRÒN. Âm Kim phải có dạng TRÒN, đứng, cao hoặc LỒI. Dương Kim phải có dạng TRÒN nằm, phẳng hoặc LÕM. Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì KIM vượng có thể Sinh THỦY. Thủy thì có Hình nhấp nhô sóng nước. Nhớ lại là Nơi Âm thì đi tìm Dương. Nơi Dương thì đi tìm Âm. Hình của Âm thì Lồi, Hình của Dương thì Lõm. Vị trí Tốt thường được chọn để xây nhà cửa là Vị trí Trường Sinh hoặc Đế Vượng. Trường Sinh như cây mới nụ, cần thời gian mới trổ trái ra hoa. Đế Vượng thì như Hoa nỡ rộ, sau đế vượng thì SUY, BỆNH, TỬ. . . . . Vì thế về lâu dài thì trọng Trường Sinh. Mau chóng thì chọn Đế vượng. 2: MỘC cuộc: Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng TÂY. Nghĩa là giòng chảy từ hướng ĐÔNG đến. Hướng ĐÔNG hành MỘC nên gọi là: ĐÔNG LONG hay MỘC CUỘC LONG. Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM. Nếu tính từ vòng Tràng Sinh, Dương Mộc tràng sinh tại HỢI ( Tây Bắc). Vượng tai MÃO ( Đông) và Mộ tại MÙI ( Tây Nam ). Tràng Sinh, Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi tạo thành Mộc cuộc. Âm Mộc tràng sinh tại Mão. Vượng tại Hợi và Mộ tại Mùi. Hình Mộc thì DÀI. Âm Mộc phải có dạng Dài, Đứng, Cao. Dương Mộc phải có dạng Nằm, Dài và thẳng. Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì Mộc vượng có thể đi sinh Hỏa. Hỏa thì có hình Nhọn nhấp nhô. 3: THỦY cuộc: Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng NAM. Nghĩa là giòng chảy từ hướng BẮC đến. Hướng BẮC hành THỦY nên gọi là: BẮC LONG hay THỦY CUỘC LONG. Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM. Nếu tính từ Vòng Tràng Sinh, Dương THỦY trường sinh tại THÂN (Tây Nam),Vượng tại TÝ ( Bắc) và Mộ tại THÌN ( Đông Nam). Tràng Sinh, Vượng và Mộ luôn luôn ở vị trí TAM HỢP Thân Tý Thìn tạo thành Thủy cuộc. Âm thủy tràng sinh tại Tý ( Bắc). Vượng tại Thân ( Tây Nam ) và Mộ tại Thìn ( Đông Nam). Hình THỦY thì nhấp nhô sóng nước. Âm Thủy phải có dạng Đứng, cao. Dương Thủy phải có dạng Nằm hoặc Lõm. Nếu thấy hình và khí không được chính, thì phải quan sát thêm là vì Thủy Vượng có thể đi sinh Mộc. Mộc thì có Hình thẳng và dài. 4: HỎA cuộc: Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng BẮC. Nghĩa là giòng chảy từ hướng NAM đến. Hướng Nam hành HỎA nên gọi là: NAM LONG hay HỎA CUỘC LONG. Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM. Nếu tính từ vòng Tràng sinh, Dương HỎA tràng sinh tại Dần ( Đông Bắc). Vượng tại Ngọ ( Nam ) và Mộ tại Tuất ( Tây Bắc). Tràng sinh, Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí tam hợp Dần Ngọ Tuất tạo thành Hỏa cuộc. Âm Hỏa tràng sinh tại Ngọ ( Nam ), vượng tại Dần ( Đông Bắc) và Mộ tại Tuất ( Tây Bắc). Nước chảy về phương nào thì phương đó là Mộ khố. Hình Hỏa thì Nhọn, nhấp nhô. Âm hỏa phải Cao, nhọn. Dương Hỏa nằm phẳng và góc cạnh. Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì Hỏa vượng có thể đi sinh Thổ. Thổ thì có hình Vuông vức. Các nhóm thảo luận : 1/ Câu chuyện HUYỀN THOẠI Cao Biền đời nhà Đường sang làm Tiết độ Sứ, đã phá hết Long Mạch nước ta bằng cách trấn yếm tất cả các Huyệt Đạo , lâu ngày trở thành chuyện THẦN THOAI . a/ Thần Thoại cho rằng Cao Biền biết cởi Hạc Diều giấy chu du khắp mọi miền đất nước để tìm ra Long Mạch nước ViệtNam hầu trấn yếm không cho nước ta ngóc đầu lên nỗi ? Bạn có thể tin không vậy ? b/ Xưa nay khoa Phong Thủy cho rằng KHÍ tích tụ lại thành NÚI – Tan ra thành NƯỚC cho nên có người lại cho rằng Khí chính là Nước và vì thế: những gì có thể thấy được thì gọi là Nước , không thể thấy được thì gọi là Khí . Bạn có thể cho biết có mối tương quan hai chiều nào với câu của người xưa thường Dạy : Thủy lấy Suy làm Vượng và lấy Vượng làm Suy ? 2/ Người ta chia Kinh tuyến và Vĩ tuyến để định vị trí từng nơi . Việt Nam đi trước nước Mỹ khoảng đâu 1/2 ngày . Tối bên này thì bên kia trời đang sáng . Cho nên Lịch Việt nam lại đi trước Mỹ 1 ngày . Bạn biết có phải vì thế cho nên người xưa cho rằng Nam Tả Nữ Hữu hay Sáng là Dương Tối là Âm không vậy ? Nguồn: sưu tầm.
  8. Cân lượng theo năm sanh Giáp Tý: 1 lượng 2 chỉ - Bính Tý: 1 lượng 6 chỉ - Mậu Tý: 1 lượng 5 chỉ - Canh Tý: 0 lượng 7 chỉ - Nhâm Tý: 0 lượng 5 chỉ Ất Sửu: 0 lượng 9 chỉ - Đinh Sửu: 0 lượng 8 chỉ - Kỷ Sửu: 0 lượng 8 chỉ - Tân Sửu: 0 lượng 7 chỉ - Quý Sửu: 0 lượng 5 chỉ Bính Dần: 0 lượng 6 chỉ - Mậu Dần: 0 lượng 8 chỉ - Canh Dần: 0 lượng 9 chỉ - Nhâm Dần: 0 lượng 9 chỉ - Giáp Dần: 1lượng 2 chỉ Đinh Mẹo: 0 lượng 7 chỉ - Kỷ Mẹo: 1 lượng 9 chỉ - Tân Mẹo: 1 lượng 2 chỉ - Quý Mẹo: 1 lượng 2 chỉ - Ất Mẹo 0 lượng 8 chỉ Mậu Thìn: 1 lượng 2 chỉ - Canh Thìn: 1 lượng 2 chỉ - Nhâm Thìn 1 lượng 0 chỉ - Giáp Thìn: 0 lượng 8 chỉ - Bính Thìn: 0 lượng 8 chỉ Kỷ Tỵ: 0 lượng 5 chỉ - Tân Tỵ: 0 lượng 6 chỉ - Quý Tỵ: 0 lượng 7 chỉ - Ất Tỵ: 0 lượng 7 chỉ - Đinh Tỵ: 0 lượng 6 chỉ Canh Ngọ: 0 lượng 9 chỉ - Nhâm Ngọ: 0 lượng 8 chỉ - Giáp Ngọ: 1 lượng 5 chỉ - Bính Ngọ: 1 lượng 3 chỉ - Mậu Ngọ: 1 lượng 9 chỉ Tân Mùi: 0 lượng 8 chỉ - Quý Mùi: 0 lượng 7 chỉ - Ất Mùi: 0 lượng 6 chỉ - Đinh Mùi: 0 lượng 5 chỉ - Kỷ Mùi: 0 lượng 6 chỉ Nhâm Thân: 0 lượng 7 chỉ - Giáp Thân: 0 lượng 5 chỉ - Bính Thân: 0 lượng 5 chỉ - Mậu Thân: 1 lượng 4 chỉ - Canh Thân: 0 lượng 8 chỉ Quý Dậu: 0 lượng 8 chỉ - Ất Dậu: 1 lượng 5 chỉ - Đinh Dậu: 1 lượng 4 chỉ - Kỷ Dậu: 0 lượng 5 chỉ - Tân Dậu: 1 lượng 6 chỉ Giáp Tuất: 0 lượng 5 chỉ - Bính Tuất: 0 lượng 6 chỉ - Mậu Tuất: 1 lượng 4 chỉ - Canh Tuất: 0 lượng 9 chỉ - Nhâm Tuất: 1 lượng 0 chỉ Ất Hợi: 0 lượng 9 chỉ - Đinh Hợi: 1 lượng 6 chỉ - Kỷ Hợi: 0 lượng 9 chỉ - Tân Hợi: 1 lượng 7 chỉ - Quý Hợi: 0 lượng 7 chỉ Cân lượng theo tháng sanh Tháng Giêng: 0 lượng 6 chỉ Tháng Hai: 0 lượng 7 chỉ Tháng Ba: 1 lượng 8 chỉ Tháng Tư: 0 lượng 9 chỉ Tháng Năm: 0 lượng 5 chỉ Tháng Sáu: 1 lượng 6 chỉ Tháng Bảy: 0 lượng 9 chỉ Tháng Tám: 1 lượng 5 chỉ Tháng Chín: 1 lượng 8 chỉ Tháng Mười: 1 lượng 8 chỉ Tháng Mười Một: 0 lượng 9 chỉ Tháng Chạp: 0 lượng 5 chỉ Cân lượng theo ngày sanh Ngày mùng một: 0 lượng 5 chỉ Ngày mùng hai: 1 lượng 0 chỉ Ngày mùng ba: 0 lượng 8 chỉ Ngày mùng bốn: 1 lượng 5 chỉ Ngày mùng năm: 1 lượng 6 chỉ Ngày mùng sáu: 1 lượng 5 chỉ Ngày mùng bảy: 0 lượng 8 chỉ Ngày mùng tám: 1 lượng 6 chỉ Ngày mùng chín: 0 lượng 8 chỉ Ngày mùng mười: 1 lượng 6 chỉ Ngày mười một: 0 lượng 9 chỉ Ngày mười hai: 1 lượng 7 chỉ Ngày mười ba: 0 lượng 8 chỉ Ngày mười bốn: 1 lượng 7 chỉ Ngày rằm: 1 lượng 0 chỉ Ngày mười sáu: 0 lượng 8 chỉ Ngày mười bảy: 0 lượng 9 chỉ Ngày mười tám: 1 lượng 8 chỉ Ngày mười chín 0 lượng 5 chỉ Ngày hai mươi: 1 lượng 5 chỉ Ngày hai mươi mốt: 1 lượng 0 chỉ ngày hai mươi hai: 0 lượng 9 chỉ Ngày hai mươi ba: 0 lượng 8 chỉ Ngày hai mươi bốn: 0 lượng 9 chỉ Ngày hai mươi lăm: 1 lượng 5 chỉ Ngày hai mươi sáu: 1 lượng 8 chỉ Ngày hai mươi bảy: 0 lượng 7 chỉ Ngày hai mươi tám: o lượng 8 chỉ Ngày hai mươi chín: 1 lượng 6 chỉ Ngày ba mươi: 0 lượng 6 chỉ Cân lượng theo giờ sanh Giờ Tý: 1 lượng 6 chỉ Giờ Sửu: 0 lượng 6 chỉ Giờ Dần: 0 lượng 7 chỉ Giờ Mẹo: 1 lượng 0 chỉ Giờ Thìn: 0 lượng 9 chỉ Giờ Tỵ: 1 lượng 6 chỉ Giờ Ngọ: 1 lượng 0 chỉ Giờ Mùi: 0 lượng 8 chỉ Giờ Thân 0 lượng 8 chỉ Giờ Dậu: 0 lượng 9 chỉ Giờ Tuất: 0 lượng 6 chỉ Giờ Hợi: 0 lượng 6 chỉ Thí dụ: Người sinh năm Giáp Tý, tháng Giêng, ngày mùng Một, giờ Tý. Xem ở bài trên thì Giáp Tý được 1 lượng 2 chỉ, tháng Giêng được 0 lượng 6 chỉ, ngày mùng một được 0 lượng 5 chỉ, giờ Tý được 1 lượng 6 chỉ. Rồi cộng chung lại như dưới đây: sanh năm Giáp Tý : 1 lượng 2 chỉ sanh tháng Giêng : 0 lượng 6 chỉ sanh ngày mùng một: 0 lượng 5 chỉ sanh giờ Tý : 1 lượng 6 chỉ __________________ Tổng cộng : 3 lượng 9 chỉ Sau đó xem lời bình bên dưới đây. 2 lượng 2 chỉ Số này thân hàn cốt lạnh, khổ sở linh đinh, quanh năm lo kiếm ăn độ nhựt mà còn thiếu thốn, rồi có thể trở thành ăn mày vì số mạng vậy. 2 lượng 3 chỉ Số này hễ mưu toan làm việc chi cũng khó nên được. Chẳng trông cậy nơi anh em họ hàng, đành chịu tha phương cầu thực. 2 lượng 4 chỉ Số này suy ra không có phước lộc gia đình, khó gầy nên sự nghiệp, không nương cậy nơi họ hàng cốt nhục, chỉ lưu lạc tha phương cầu thực tới già mà thôi. 2 lượng 5 chỉ Suy ra số này tổ nghiệp suy vi, ít có phần gầy dựng nên gia đình được, họ hàng cốt nhục thì như than với giá, mot65 đời khổ sở, chỉ tự mình tìm sống mà thôi. 2 lượng 6 chỉ Số này trọn đời khốn khổ, một mình mưu tính công việc làm ăn luôn luôn nhưng chẳng thành. Nên lìa xa quê cha đất tổ mới hầu được đủ ăn và may ra lúc già mới được thanh nhàn. 2 lượng 7 chỉ Số này một đời làm công việc ít có được người khác mưu toan giúp đỡ, khó nhờ cậy phước đức của tổ tông làm chủ trương cho. Chỉ tự lực một mình làm ăn, từ bé đến lớn cũng chẳng có gì hay cả. 2 lượng 8 chỉ Số này làm ăn lộn xộn rối ren như bòng bong, về sản nghiệp của tổ tông thì như giấc mộng. Nếu chẳng làm con nuôi người ta hay là không đổi họ thì cũng phải dời đổi di cư tới đôi ba lần. 2 lượng 9 chỉ Số này năm xưa thì lẩn quẩn chưa hề được hạnh thông, dầu có công danh thì cũng trễ muộn, phải tới ngoài bốn mươi tuổi mới có thể đặng an nhàn, nhưng phải dời đổi nhà cửa hay là đổi họ mới hay. 3 lượng 0 chỉ Số này lao lực phong trần, trong đời gặp lắm cảnh lầm than. Dầu có siêng năng hà tiện, thì tới tuổi già chỉ đỡ ưu sầu chút đỉnh thôi. 3 lượng 1 chỉ Số này cũng vất vả lao đao vì sanh kế, khó nhờ sự nghiệp của tổ tông mà nên nhà nên cửa. Từ nửa đời người trở lên mới gọi là đặng đủ ăn đủ mặc. 3 lượng 2 chỉ số này năm xưa gặp vận rủi, khó mưu đặng công việc gì. Về sau mới có tài lợi như nước chảy lần tới. Từ nửa đời người trở lên thì sự ăn mặc đặng no đủ, lúc ấy công danh lợi lộc sẽ hạnh thông. 3 lượng 3 chỉ Số này lúc ban sơ làm ăn công việc chi cũng khó thành, mưu tính trăm đường chỉ uổng công thôi. Từ nửa đời người sắp lên mới gặp vận hay sẽ tới như dòng nước chảy lại, sau này tài lợi tấn phát đặng nhiều. 3 lượng 4 chỉ Số này có phước khí tăng đạo, phải xa quê hương cha mẹ mà xuất giá nương cửa Phật, hằng ngày tụng niệm thì mới đặng y lộc viên mãn. 3 lượng 5 chỉ Số này phước lượng sanh bình chẳng đặng chu toàn, chẳng hưởng phần căn cơ của tổ nghiệp truyền lại. Còn sự sanh nhai phải chờ khi vận tới rồi mới no đủ hơn xưa. 3 lượng 6 chỉ Số này một đời chẳng cần lao lực chi lắm, một tay gầy dựng nên gia nghiệp, cái phước chẳng phải vừa, vì sớm có ngôi phước tinh thường chiếu tới mạng mình, mặc dầu cho làm qua trăm bề đều đặng thành đạt. 3 lượng 7 chỉ Số này làm chẳng đặng thành công, anh em ít giúp sức, chỉ một thân cô lập. Tuy rằng cũng có tổ nghiệp chút đỉnh, nhưng lúc lại thì rành rành đó, mà lúc đi thì chẳng biết hết bao giờ. 3 lượng 8 chỉ Số này cốt cách rất thanh cao, sớm đặng thi đổ, tên họ ghi tên bảng vàng. từ năm 36 tuổi, sẽ đặng phú quý vinh hoa. 3 lượng 9 chỉ Số này trọn đời vận mạng chẳng đặng thông đạt, làm việc thành rồi cũng hư. Khổ tâm kiệt lực dựng nên gia kế tới sau này cũng như giấc mộng. 4 lượng 0 chỉ Số này phước lộc đặng lâu dài, nhưng xưa phải chịu qua nhiều nỗi phong ba vất vả. Sau này đặng hưởng an nhàn phú quý. 4 lượng 1 chỉ Số này là người tài ba lỗi lạc, công việc trước sau chẳng đồng nhau; từ nửa đời sắp lên lai cọ phước tiêu diêu, chớ chẳng như xưa kia vận chưa đạt. 4 lượng 2 chỉ Số này sẽ được nhiều thoả nguyện. Từ nửa đời người thì vận mạng đặng nên, lúc ấy tài lợi công danh thảy đều tấn phát. 4 lượng 3 chỉ Số này là người tánh rất thông minh, làm việc lỗi lạc hiên ngang gần với người sang quí. Một đời phước lộc tự trời định sẵn, chẳng cần phải lao lực mà tự nhiên đặng hạnh thông. 4 lượng 4 chỉ Phàm sự chi cũng bởi trời đem lại, chẳng cần cầu làm chi cho mệt, phước lộc về sau sẽ đặng hơn nhiều lúc khi xưa. Tuy rằng lúc trẻ cung Tài Bạch khó đặng như ý, nhưng tới tuổi già đặng an nhàn. 4 lượng 5 chỉ Số này phần công danh lợi lộc trước phải tân khổ, mà sau này cũng phải bôn ba; số hiếm hoi con cái vì khó nuôi; anh em cốt nhục cũng ít đặng phù trợ giúp sức. 4 lượng 6 chỉ Số này đi đâu cũng đều đặng hạnh thông, nhứt là đổi họ dời nhà lại càng thịnh vượng. Ăn mặc đầy đủ tự số trời định sẵn. Từ nửa đời cho tới lúc già đồng một mực trung bình. 4 lượng 7 chỉ Số này tính ra vượng về lúc tuổi già, vợ con phú quí, vì nguyên có cái phước sẵn như nước chảy lại. 4 lượng 8 chỉ Số này, tuổi trẻ cũng như lúc tuổi lớn, cũng chẳng đặng hưng vượng. Anh em họ hàng đều không đặng nhờ cậy giúp sức. Tới lúc già rồi mới đặng đôi phần an khương. 4 lượng 9 chỉ Số này suy ra có hậu phước lớn lắm, tự tay gầy nên sự nghiệp vẻ vang gia đình. Người sang đều kính trọng. Một đời sung sướng. 5 lượng 0 chỉ Số này hằng ngày chỉ lao lực về đàng công danh tài lợi. Lúc nửa đời cũng có nhiều phen gặp phước lộc; tới già có ngôi Tài Tinh chiếu mạng sẽ đặng an nhàn. 5 lượng 1 chỉ Số này một đời vinh hoa, mọi việc thảy đều tấn phát, chẳng cần lao lực, tự nhiên hạnh thông. Anh em chú cháu đều đặng như ý, gia nghiệp và phước lộc đặng đầy đủ. 5 lượng 2 chỉ Số này trọn đời hạnh thông, việc gì cũng hay, chẳng cần nhọc lòng mà tự nhiên yên ổn. Họ hàng cốt nhục thảy đều giúp sức; sự nghiệp hiển đạt. 5 lượng 3 chỉ Số này xem ra khí tượng chơn thật, nghiệp nhà mà đặng phát đạt cũng ở trong đó. Phước lộc một đời có số định sẵn vinh hoa phú quí. 5 lượng 4 chỉ Số này là người có tánh trung hậu và thanh cao, học hành minh mẫn, ăn mặc phong túc, tự nhiên an ổn, chính là người có phước trên đời. 5 lượng 5 chỉ Số này lúc trẻ hằng bôn ba trên đàng danh lợi, nhưng uổng công phí sức mà thôi. Ngày kia, phước lộc sẽ tới như nước chảy lại, rồi tự nhiên phú quí vinh hiển. 5 lượng 6 chỉ Số này suy ra là người lễ nghĩa thông thái, một đời phước lộc; nếm đủ mùi chua cay, nguồn tài lợi thì cuồn cuộn, an ổn và phong hậu. 5 lượng 7 chỉ Số này phước lộc dẫy đầy, mọi sự hạnh thông, quang hiển mẹ cha,oai vọng chấn dương, người đều kính trọng, riêng chiếm bầu xuân. 5 lượng 8 chỉ Số này là số bảng vàng áo gấm, quan cả khoa cao, phước lộc một đời tự nhiên đem lại, phú thọ đều đủ, danh lợi kiêm toàn. 5 lượng 9 chỉ Suy ra số này là người diệu xảo không có thanh cốt, chắc hẳn tài cao học rộng có phận đậu khoa bảng, có mạng làm quan sang. 6 lượng 0 chỉ Số này tên đậu bảng vàng, lập nên công lớn, vinh quang tông tổ, điền sản phong túc, y lộc dư giả. 6 lượng 1 chỉ Số này tư chất thông minh, học hỏi rộng rãi, tự nhiên vinh diệu, tên đậu bảng vàng. Dầu chẳng được quan sang, chắc cũng là một nhà phú hộ. 6 lượng 2 chỉ Số này phước lộc vô cùng, học giỏi làm nên, vinh hiển mẹ cha, đai vàng áo gấm, phú quí vinh hoa, mọi đường đầy đủ. 6 lượng 3 chỉ Số này là số đậu khoa cao, làm quan lớn, giàu sang cực phẩm, toại danh thiên hạ; phước lộc phi thường, gia đình vinh hiển. 6 lượng 4 chỉ Số này phú quí vinh hoa, ít ai bì kịp; oai quyền lộc vị, không kẻ sánh bằng. Áo tía đai vàng, ngôi cao chung đỉnh, trọn đời hạnh phúc. 6 lượng 5 chỉ Số này suy ra thì phước lộc chẳng nhỏ, tài cao giúp nước, công cả yên dân; chức trọng trào đình, giàu sang tột bực, vang danh thiên hạ. 6 lượng 6 chỉ Số này phú quí định sẵn tự trời, phước lộc hơn thiên hạ, quan cao quyền trọng, châu báu đầy vơi, ấm phong thê tử. 6 lượng 7 chỉ Số này sanh ra tự nhiên có phước lớn, điền viên gia nghiệp thật hưng long, trọn đời phú quí vinh hoa, muôn việc hạnh thông hoàn hảo. 6 lượng 8 chỉ Số này giàu sang tự trời ban, khỏi phải khó nhọc, gia tư có muôn vàng; nhưng mười năm sau chẳng có như hồi trước, căn cơ tổ nghiệp trôi đi như thuyền trên mặt nước sóng bão. 6 lượng 9 chỉ Số này là một vì sao y lộc ở nhơn gian, một thân phú quí, mọi người đều kính nể. tóm lại, là phước lộc do tự trời định, an hưởng vinh hoa trọn đời. 7 lượng 0 chỉ Số này suy ra phước chẳng nhỏ, không cần phải sầu lo làm chi cho mệt nhọc, vì trời đã đinh sẵn y lộc phong danh, một đời vinh hiển giàu sang. 7 lượng 1 chỉ Số này sanh ra rất khác với người thường, công hầu khanh tướng đều đặng hoàn hảo, một đời tự nhiên có phước tiêu diêu khoái lạc, cực phẩm hưng long. Nguồn: vuive.club.com
  9. Xin chân thành cám ơn Bác Hà Uyên đã bỏ thời gian ra luận cho cháu Thái. Chúc Bác nhiều sức khỏe. Kính chào Bác. Lê Bá Trung.
  10. Kinh nhờ Bác Hà Uyên xem dùm cho cháu Tên : Lê Minh Thái. Sinh ngày :05/03/2009. Giờ sinh: 12:20 phút. Chân thành cám ơn Bác. Chúc Bác nhiều sức khỏe.
  11. Tuy có sự phân chia làm 24 sơn nhưng cũng nằm trong phạm vi Bát quái, mỗi quẻ bao gồm 3 sơn, Ví dụ 3 chữ Càn Tuất Hợi đều thuộc quả Càn, Nhâm Tý Quý đều thuộc quẻ Khảm. Vì thế khi xem xét, bất luận là 1 hay 2, 3, 4, 5 đều 10 viện, cũng bất luận là phòng chính, phòng phụ, cũng bất luận là viện trước viện sau, trái hay phải, chỉ cần lấy phòng viện nào cao lớn nhất làm chuẩn, chiều cao thời căn cứ vào cái nóc. Tại nơi được chọn lựa ngay giữa nhà hạ La bàn xem thuộc chữ nào và cung nào của Bát quái. Môn là cổng ra đường đi, chứ không cần phân biệt lớn, nhỏ, muốn biết cát hung phải xem cổng này. Xét về bếp thời xét hướng của nhà bếp, tức là cửa ra vào bếp, chứ không phải là cửa bếp lò, cả 3 nơi này đều đặt La bàn để xác định phương hướng, rồi tổng hợp cả 3 để khảo sát theo ngũ hành sinh khắc mà định cát hung. Cách phân biệt Tĩnh trạch, Động trạch, Biến trạch, Hóa trạch: Dương trạch gồm có 4 loại là Động Tĩnh Biến Hóa: - Nếu nhà đó chỉ có đơn thuần 1 viên, 1 phòng thời gọi là Tĩnh trạch. Việc khảo sát chỉ cần xét nơi cửa an các sao theo Du Niên. - Nếu nhà đó gồm có 2, 3, 4 đến 5 viện thời gọi là Động trạch, đúng phép xảo phiên Bát quái. Tại sao Động trạch lại chỉ giới hạn có 5 phòng, vì chỉ có 5 hành Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ. Từ 6 phòng đến 10 phòng, gọi là Biến trạch. Điều này có thể lý giải là: Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục Thành Chi… Từ Nhất, Lục, Nhị, Thất, Tam Bát, Tử Cửu và Ngũ Thập, số 10 là số cuối cùng và là thành số. Quá số 10 lại trở về số 1, vì thế gọi là Biến trạch. Cách khảo sát phải cùng song Kim, song Mộc, song Thổ, đó lập hướng pháp Xảo phiên Bát quái nói trên. Sau hết là nhà có từ 11 phòng trở lên đến 15 thời được gọi là Hóa trạch, Thổ thuộc số 5, muôn vật đều do Thổ mà ra. Phép giải hung của bếp: Đây là nguồn gốc nuôi dưỡng con người, bệnh tật cũng do ăn uống mà sinh ra. Do đó bếp phải an theo hướng có sinh khí. Thiên Ất hay Diên Niên, đó là 3 kiết phương, điều tối kỵ là làm bếp ở hung phương như Ngũ quỷ và Lục sát. Nếu phạm vào cát hung phương này thời hại người hại của, hay sinh bệnh hoạn. Muốn giải trừ hung họa, thời dọn dẹp hết tro bụi trên bếp cũ, cúng nước sạch quét rửa cho sạch sẽ. Sau đó đem tro bụi ra đổ ở sông hoặc hoặc ở vùng đồng trống. Mua những vật liệu mới xây cất theo cát phương Thiên y như vậy có thể giải quyết được hung tai, điều này rất ứng nghiệm, nếu bếp thuộc phương Mộc sẽ ứng nghiệm trong vòng 30 ngày, bếp thuộc phương Thổ ứng trong vòng 50 ngày, bếp thuộc phương Kim, ứng nghiệm trong vòng 40 ngày, bếp thuộc Hỏa ứng trong vòng 20 ngày, cuối cùng bếp thuộc phương Thủy sẽ ứng trong vòng 60 ngày. Nếu chủ cũng được cát phương thời bệnh mau khỏi, thêm con thêm của, và công danh hoạn lộ thường ứng trong vòng 3 năm. Ngoài ra những đồ thiết khí hay vật cứng, trang bị cho bếp cũ, vì e hung khí chưa tan, nên để ý nơi trống trải, đúng 100 ngày có thể dùng lại mà vô hại. Riêng những vật dụng thường dùng như chén bát, đũa, muỗng… đều không kỵ. Trái lại chỉ kỵ đồ dùng bằng sắt, sau 5 ngày mang đi bỏ ở nơi xa, đúng 5 ngày là lấy theo ý nghĩa phá Ngũ quỷ. Cách phân biệt rõ các táo Khi thấy trong nhà có những hiện tượng như ốm đau, trẻ con khó nuôi, tuổi già cô độc không con cái bệnh hoạn lâu không khỏi, hôn nhân trắc trở, cần đặt lại bếp vào phượng Thiên y (Thiên Ất hay Cự môn) và chiếu theo mạng nguyên của Trạch chủ mà an giường nằm, bếp nước sẽ được đại cát. Học hành mãi mà thi cử không đậu, hoặc trong nhà gặp cảnh cùng khốn, thời nên đặt bếp vào phương sinh khí, cổng lớn theo phương sinh khí, ngoài sinh trong tức là Môn sinh chủ sẽ có hiệu quả rất mau. Nếu cầu tài, trong vòng 100 ngày sẽ hiệu nghiệm. Con trai con gái trong nhà thường bị yểu mạng đó là hung triệu, gặp trường hợp này nên đặt bếp vào phương Diên Niên sẽ được tặng tuổi thọ. Đặt cổng lớn theo phương Diên Niên và Chủ an theo Thiên y phương rất tốt. Các phương sinh khí, Thiên y và Diên Niên kể trên cần được hợp với Mạng Nguyên của Trạch chủ. Nếu không được sự tương hợp thời an giường và táo khẩu (miệng lò lửa) hợp với phương hướng của Trạch chủ cũng rất tốt, tuy vậy không bằng trường hợp trên. Tóm lại, muốn được toàn mỹ cần được 5 điều: Môn, Chủ, Táo, giường nằm và táo khẩu đều hợp với bản mệnh của Trạch chủ. Hiệu quả tốt của 3 cát tinh: - Gặp được cát phương Tham Lang (tức sinh khí) thời sinh được 5 con, công danh hiển đạt, mau giàu có, tăng nhân khẩu, may mắn dồn dập đến, trong 30 ngày có hiệu quả. - Gặp được cát phương Thiên Ất (tức Cự môn) thời vợ chồng hòa thuận, sinh được 3 con hiền, làm ăn giàu có, ít bệnh tật, nhân khẩu, gia súc đều tăng tiến hưng vượng, nó hiệu quả trong vòng 50 ngày. - Gặp được cát phương Vũ khúc (tức Diên Niên) sinh được 4 con hiền, giàu vào hàng trung phú nhưng thượng thọ, vượng tài, vợ chồng hòa thuận, hôn nhân tốt đẹp, ruộng vườn mở mang, nhân khẩu và lục súc đều thịnh, thường có tin mừng. - Gặp được Phục vị (tức hai sao Phụ Bật) thời được Tiểu Phú trung thọ, nhiều gái ít trai (Sao này có tính cách phụ họa). Hiệu quả xấu của 4 hung tinh: - Tuyệt mạng (Phá Quân) thuộc Kim đóng tại cung Ly ví như con thú cùng đường quay đầu lại cắn, đóng tại cung Tốn, giống như kẻ bạo tàn đắc chí, tàn hại kẻ trung lương, đóng tại 2 cung Cấn Khôn, ví như chứa lương để nuôi giặc, dưỡng hồ di họa, đóng tại cung Khảm như dồn cọp xuống hổ, gầm thét vang trời, đóng tại hai cung Càn Đoài giống như lang sói, sẽ có lúc cắn lại. - Ngũ quỷ (Liêm Trinh) đóng tại hai cung Chấn Tốn là mộc sinh hỏa, cháy chóc khắp nơi, đóng tại hai cung Càn Đoài như lửa mặt trời, tan vàng nát đá, đóng tại hai cung Cấn Khôn, như lửa rực của Hỏa Diệm sơn ngọc đá đều tan, đóng tại cung Khảm giống những vị thuộc bào chế (Dã cát và ô dâu), đóng tại cung lạ như tưới dầu vào lửa, mọi vật tiêu tan. - Họa hại (Lộc Tồn) đóng tại 2 cung Chấn Tốn như bọn nô tỳ gian ác, dù sau này bị chế phục, sau này sẽ phản chủ, đóng tại 2 cung Cấn Đoài như quân cướp bóc tạm thời đều hàng, nhưng sau sẽ phản phúc. Đóng tại cung Ly như nhận giặc làm con nuôi, sau sẽ bị chúng cướp đoạt gia tài, đóng tại cung Khảm như kẻ gian rình mò trong đêm tối tự tung tự tác, đóng tại hai cung Cấn Khôn như kết liên gian đang, sẽ bị họa diệt tộc. - Lục sát (Văn khúc) đóng tại hai cung Càn Đoài giống như kẻ phỉnh nịnh, gian ác, đào tường khoét vách. Đóng tại cung Cấn giống như đôi vợ chồng xấu xa bệnh hoạn. Đóng tại 2 cung Chấn Tốn giống như cô trinh nữ mà thất tiết, tấm thân ô uế, đóng tại cung Khảm giống như phường trên bậc trong đầu. Đóng tại cung Ly giống như ở cùng với mụ vợ ghen tuông, suốt ngày la hét. Luận về sự khác biệt giữa sơn cốc và thành thị: Xét về dương trạch phải phân biệt rõ là nơi đó thuộc thôn quê có núi non sông nước hay thành thị đất chật người đông. Nếu ở nơi sơn cốc, thời lấy núi non làm chủ và nhà phải theo pháp long, chân khí hùng tráng, núi non nước bọc như vậy tất được đại phát. Còn ở thành thị phải theo trạch pháp, nghĩa lại cổng mở theo các phương chủ và táo đều cần hướng hợp, được như vậy sẽ hiệu nghiệm nhãn tiên chí trong vòng 3 năm được cát lợi. Phương vị của Cửu tinh sinh vượng: - Tham Lang cư bắc chủ vinh xương (Tham Lang ở Khảm tốt) - Cự môn đáo Hỏa tử tôn cưỡng (Cự Môn ở cung Ly tốt) - Vũ khúc tới nghi lâm Thổ vị (Vũ Khúc ở Cấn Khôn tốt). - Các cứ bản vị diệc sinh tưởng (mỗi sao đóng ở phương vị, thuộc hành của mình cũng rất tốt, như Vũ Khúc tại Càn). - Duy hữu Lục Sát Văn khúc Thủy (chỉ có sao Văn Khúc thủy). - Trung ương thụ chế bất vi ương (đóng tại cung Thổ như Khôn Cấn không gây tai họa). Ảnh hưởng Cát hung của Cửu tinh: - Phục vị và Thiên Ất không gây tai họa. - Diên Niên và Sinh khí đều là điều lành. - Ngũ quỷ là Liêm Trinh nếu gặp phải thời tổn thương nhân khẩu và nhiều tai họa. – Lục sát là Văn khúc thuộc Nhâm Quý Thủy, gây tổn thương gia súc và nhiều nổi kinh hoàng. – Tuyệt mạng gây tổn thương nhân khẩu. - Họa hại cũng gây những sự chẳng lành. - Tham Lang tức sinh khí có lợi cho quan lộc. - Vũ Khúc tức Diên Niên, tuổi thọ cao. - Phụ Bật tức Phục vệ, mọi sự đều tốt. - Cự Môn tức Thiên Ất, có lợi cho tài lộc. - Liêm Trinh tức Ngũ quỷ, hay bệnh tật. - Phá Quân tức Tuyệt mạng, nhiều tai ương. - Lộc Tồn tức Họa hại, tổn thương nhân khẩu. - Văn Khúc tức Lục Sát, nữ nhân bị tổn thương. - Sao Tham Lang thuộc Mộc đóng tại các cung Khảm Ly Chấn Tốn là đắc vị, phát phúc bền lâu. Đóng tại các cung Càn Đoài là nội khắc, tại các cung Khốn Cấn là Ngoại chiến.- Sao Diên Niên thuộc Kim, đóng tại 2 cung Càn Đoài là đắc vị, tại cung Khôn Cấn là được sinh khí, tại cung Ly là Nội khắc, tại 2 cung Chấn Tốn là Ngoại khiến. Ở sơn cốc thời phương hướng là riêng mình, còn ở thành thị là của chung của nhiều người. Miếu tinh phương vị:Miếu tinh tức là Thiên tinh. Vậy Thiên tinh là gì? Trên thì ứng với tinh tú trên trời dưới ứng với họa phúc trong cõi nhân gian, Miếu tinh gặp phương tinh thời hung, ở phương cát thời cát, Cát phương là gì? Tức là Tam cát, Lục tú. Các phương Hợi, Chấn Canh là Tam cát, Các phương Càn Bính Tốn Tân Đoài Đinh là Lục Tú. Tam cát là phương tài lộc, Lục tú là phương Văn học thi cử, Khi Miếu vũ dành chừa đặt đúng phương Tam cát hay Lục tú thời phần an vật thịnh. Tại đế thánh thời lấy đại dương làm chuẩn. Ngoài ra, như các miếu vũ tên tuổi Đông Nhạc, Văn Xương, Tam Quan, Nhị Lang đều cát, không hung. Đặc biệt ở những ngã tư đường không nên xây cất đền miếu. Nếu phạm vào Mậu Kỷ Sát, tất bất lợi. Phương vị của tháp bút: Nói chung những nơi đô thành tỉnh thị, phủ huyện mà trong vùng ít người đậu đạt, thi cử khó khăn chật vật, thời nên chọn 4 phương vị Giáp, Tốn, Bính, Đinh trên đó xây những ngọn tháp gọi là văn bút phong, cần cao hơn các sơn khác. Như vậy vùng đó sẽ phát khoa bảng. Ngoài ra có thể cất tháp ở trên ngọn núi, hoặc ở núi đất phẳng thời xây tháp thật cao, văn học sẽ phát. Bát phương miếu tinh: Nhất hạch hữu thiện tinh, điên cuồng to dâm loạn sinh - Nhị hắc hữu Thiên tinh, phú quý vượng nhân đinh, Tam bích hữu Thiên tinh, phát khoa tại trạch trung. Tứ lục hữu thiên tinh, gia phú quý tử sinh. Lục bạch hữu thiên tinh, phú hào khoa giáp đăng. Thất xích hữu Thiện tinh, trạch trung vô lỗ công, tuy nhiên phát khoa giáp, dản khủng vô nhân đinh. Bát bạch hữu Thiên tinh, hào tuấn xuất kỳ anh, phú quý thùy kham địch, hộ hộ tung thống bình, Cửu tửu tử hữu Thiên tinh, hoạc mục hựu tuyệt ông, tây phương nhược vô bộ, đồng biến khuyết nhân đinh. Nhất bạch dâm dục tiểu cát tường, nhị hắc vô tây hể đông xương, tam bích đăng khoa phục thọ trường, tứ lục kim bảng hề phú cườn, lục bạch Thiên tứ phú quý hương, chất xích tú lệ hể cô sương, bát bạch phúc lộc thọ phân phương, cửu tử nhãn tật hể tử vong, cánh hưữ ngũ hoàng mầu kỳ phương, Thiên tinh như lâm hề tai ương, thử trung âm dương nguyên diệu tàng, tham bát thấu hề danh hề dương. Nguồn:vuiveclub.net
  12. Cầm đầu trong nhóm hung tinh là Địa Không và Địa Kiếp (Không Kiếp). Khi Không thủ Mệnh và Kiếp thủ Thân, hoặc ngược lại, có thể gọi chung là mẫu người Không Kiếp . Không Kiếp thuộc hành Hỏa, đắc địa ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi. Tại Tỵ ,Hợi thì Không Kiếp đồng cung cho nên uy lực sẽ gấp đôi so với Không Kiếp xung chiếu nhau ở hai cung Dần, Thân. Xét về ngũ hành thì Không Kiếp tọa thủ tại cung Tỵ là tốt nhất vì sao và cung đồng hành (Hỏa). Thứ hai là cung Dần vì hành Mộc của cung sinh hành Hỏa của Không Kiếp, làm cho uy lực của Không Kiếp khá mạnh mặc dù là đơn thủ. Không Kiếp chủ sự hung hiểm, phá tán, bất hạnh, hoạch phát, hoạch phá. Mệnh hay Thân có Không Kiếp đắc địa tọa thủ cùng với những sao tốt là người kín đáo, thâm trầm, biết suy xét, có mưu trí và rất gan dạ. Người Không Kiếp không được kiên nhẫn, khi không được như ý hay chỉ thất bại lần đầu là nản chí ngay, bỏ cuộc dễ dàng. Nếu Không Kiếp đắc địa cùng những sao xấu tọa thủ ở Mệnh thì những đức tính thăng trầm, gan dạ sẽ biến đương số thành người thủ đoạn và dễ đi vào con đường tà đạo. http://' target="_blank">Nếu hãm địa thủ Mệnh cùng những sao tốt, bản tánh trở nên bất nhất, lúc chính, lúc tà, lúc tốt lúc xấu, vui buồn bất chợt khiến cho những người giao tiếp với đương số phải e dè. Nếu hãm địa thủ Mệnh cùng với những sao xấu thì tánh tình nham hiểm, xảo quyệt, thủ đoạn, hung dữ, bạo ngược. Mệnh, Thân có Không Kiếp đắc địa hay hãm địa thường bị những chứng bệnh về da như mụt nhọt, ghẻ ngứa vì dị ứng, những chứng bệnh về đường hô hấp như viêm phổi, viêm họng, hen suyễn, khó thở… Đã mang danh là đại sát tinh cho nên những bệnh tật hay tai họa do Không Kiếp mang đến chắc không nhẹ nhàng. Vấn đề chế giải tùy thuộc vào Phúc của mỗi người và xảy ra ở thời điểm nào trong cuộc đời. Không Kiếp như Đào Hồng, càng về cuối cuộc đời thì càng tác hại nặng nề hơn lúc trẻ. Đó chính là hai mặt của Không Kiếp, con dao hai lưỡi, càng cao danh vọng thì càng lắm đau thương nên đừng qúa tin tưởng vào sự tốt đẹp của Không Kiếp khi hai sao này đắc địa, hoặc có những sao khác kiềm chế. Đặc tính của Không Kiếp là như vậy, trong cái tốt có ẩn tàng cái xấu, điều mà chúng ta nghĩ là may mắn thì đó cũng chính là mầm móng của tai họa trong nay mai. Bởi vậy cái quan niệm thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, xem ra có vẽ thích hợp với mẫu người Không Kiếp, cờ đến tay thì phất, có thì hưởng. Vậy thì những sao nào có thể kiềm chế nổi hai đại sát tinh này? Có người cho rằng Tử Phủ miếu vượng thì đủ uy lực chế ngự Không Kiếp. Nhưng theo thiển ý của người viết, nếu Tử Vi hay Thiên Phủ cho dù có miếu địa mà đúng riêng lẻ một mình cũng tối kỵ Không Kiếp. Tử Vi gặp Không Kiếp khác gì Vua bị gian thần lộng quyền. Thiên Phủ mà gặp Không Kiếp thì nhà kho trống trơn. Nói chung, các văn tinh, sát tinh, quý tinh không đủ uy lực để chế ngự hai đại sát tinh này mà chỉ có những võ tinh như Sát Phá Liêm Tham và Thiên Tướng miếu vượng là không sợ Không Kiếp. Trói buộc được Không Kiếp chỉ có Tuần Triệt. Trường hợp đặc biệt là các văn tinh chỉ có Nhật Nguyệt là không sợ các sao “không” như Thiên Không, Địa Không mà ngược lại, vì ý nghĩa chữ “không” đối với Nhật Nguyệt là một bầu trời xanh thẳm không gợn áng mây, là điều kiện lý tưởng cho Nhật Nguyệt tỏa sáng. Đối với nữ Mệnh, Không Kiếp là hai sao bất hạnh cho đường tình duyên. Nữ mệnh có Không Kiếp là người cao số, lúc thiếu thời thì tình duyên lận đận, khi lập gia đình thì khắc chồng, khắc con. Sự xung khắc nặng hay nhẹ thì vẫn tùy thuộc vào từng lá số và mỗi thời điểm trong cuộc đời, lúc còn trẻ, nhẹ thì sinh ly, giữa hay cuối đời, nặng thì tử biệt. Nổi bất hạnh của nữ mệnh có Không Kiếp còn tùy thuộc vào những sao mà Không Kiếp đi cùng, chẳng hạn hư Đào Hồng, Riêu Thai, Cự Kỵ, Tham Kỵ, Gặp Không Kiếp thì là cách hồng nhan bạc phận mà cũng có thể là bạc mệnh. Tình duyên trắc trở, việc cưới hỏi gặp nhiều trở ngại, làm kế, làm lẽ, hai ba đời chồng, bị chồng ruồng rẫy phụ bạc, hay bạo hành vì tai nạn hay vì tính lẳng lơ, buông thả mà thất trinh, thất tiết. Vì hoàn cảnh hay do mình tự chọn làm gái giang hồ v.v… đều là những nhịp cầu oan nghiệt mà người đàn bà gặp những cách vừa nêu trên sẽ phải bước qua. Tuy nhiên các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp Không Kiếp thì cuộc đời cũng khá nhiều gian truân nhưng không đến nổi tan tác hay trầm luân như những tuổi khác. Nếu 4 tuổi Thìn, Tuất Sửu, Mùi đắc cách Không Kiếp kiếp Tỵ Hợi thì công danh phú quý sẽ đạt được một cách dễ dàng, và thật bất ngờ. Những tuổi khác cũng được hoạch phát nhưng không giữ được lâu bền. Trong một lá số nếu Mệnh và Thân tốt thì cuộc đời từ ngày lọt lòng mẹ cho đến khi tư giã cõi đời đều được sung sướng. Hoặc nếu Mệnh Thân được một tốt, một xấu thì ít ra cuộc đời cũng có một khoảng thời gian sung sướng. Trường hợp nếu Mệnh và Thân cùng xấu thì cả cuộc đời là những chuỗi ngày gian truân. Và đó là nét đặc biệt của mẫu người Không Kiếp. Và nếu Nguyễn Du dùng truyện Kiều đễ diễn đạt cái quan niệm tài mệnh tương đố của mình, thì chúng ta cũng có thể nói rằng, mẫu người Không Kiếp là mẫu người đa tài, đa năng, đa dạng và cũng đa truân, là mẫu người mà khi bước chân vào đời đã phải ở trong cái vòng tài mệnh tương đố của tạo hóa. Tuy vậy, chúng ta cũng còn một biệt lệ cho những người Không Kiếp sinh vào các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì lại có sự ứng hợp, cho nên cuộc đời sẽ chiết giảm được rất nhiều những điều bất hạnh do Không Kiếp mang đến. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
  13. Kính chào bác Vạn Sự Tùy Duyên. Nếu bỏ chi phí 8-10 triệu cho một bản thiết kế xây dựng đúng theo Phong Thủy, thì cháu nghĩ đó là một chi phí khá là ít cho một bàn thiết kế hoàn chỉnh . Nếu như xây nhà xong không hợp với Phong Thùy rôi lại tư vấn đập chỗ này chỗ kia nữa thì mức giá cho sửa 1 căn nhà không dưới 20 -30 triệu trở lên. Theo như bác nói đó chỉ là tin đồn. Còn thật sự nhiều lúc thầy Thiên Sứ bỏ thời gian và công sức đến nhà để xem phong thủy nhưng không nhận lấy 1 đồng nào của gia chủ. :rolleyes: Kính chào bác.
  14. Về khoa địa lý có những tài liệu quí giá cho việc khảo cứu, nhưng không thực dông nên chưa in thành sách. Lần này chúng tôi khởi giới thiệu tài liệu “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” là tập tài liệu nói về các kiểu đất kết bên Việt nam mà Cao Biền trình về vua Đường Trung Tông. Những đất nói trong tập này có ngàn kiểu mà Cao Biền mới yểm được một số ít đất Đế vương quí địa còn cả ngàn đất Công hầu, Khanh tướng vẫn còn nguyên vẹn. Các cụ xưa giữ sách này làm gia bảo và theo nó tìm cho ra đất kết dành cho họ hàng mình dùng khi cần đến. Xuất xứ sách Xưa kia về đời Vua Đường Trung Tông bên Tàu có Cao Biền được phong là “An nam tiết độ sứ” sang đô hộ nước ta, là người rất giỏi địa lý được vua Tàu uỷ cho sứ mạng trình về vua biết các kiểu đất bên Việt nam và yểm phá các đất kết lớn nào khả dĩ có ảnh hưởng cho Trung Quốc. Sau khi nhận chức và khảo sát địa lý bên Việt nam, Cao Biền thấy nước ta có nhiều đất phát rất lớn có thể tạo nên những bậc tài giái mà sự nghiệp khả dị ảnh hưởng cho Trung Quốc trong vấn đề Nam tiến biên soạn tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” này trình về vua Đường đồng thời dùng phép yểm phá một số Long mạch có đất kết lớn. Truyền thuyết có nói trước khi yểm một kiểu đất nào Cao Biền thường phô đồng để kều các vị thần cai quản khu vực đó nhập vào đồng Nam, đồng Nữ rồi trừ đi sau đó mới ra yểm đất. Cũng theo truyền thuyết Cao Biền có yểm được một số ít đất lớn song cũng bị thất bại trước nhiều vị thần linh trong đó đáng kể nhất là “Tản viên sơn Thần” và “Tô lịch giang Thần” (núi Tản viên thuộc huyện Bất Bạt tỉnh Sơn tây và sông Tô lịch chảy qua Hà nội ở Ô Cầu Giấy (gần làng Láng). Đền Bạch Mã ở Hàng Lược Hà Nội là đền thờ thần Tô Lịch. Trải qua Đường Tống đến đời nhà Minh có Trương Phô, Mộc Thạch và Hoàng Phúc là ba danh tướng Trung Hoa được Minh đế cho kéo quân sang Việt nam bề ngoài với danh nghĩa phò hậu Trần diệt Hồ nhưng bên trong có mang một kế hoạch diệt chủng người Việt và đổi nước ta thành quận huyện của Trung Quốc. Kế hoạch này tỉ mỉ và thâm độc hơn những kế hoạch tương tự mà người Hán đã làm từ xưa đến giờ.Trong số 3 danh tướng Trung Hoa này thì Hoàng Phúc là người rất giỏi địa lý có mang theo “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” sang duyệt xét lại và yểm nốt những đất kết lớn nào còn sót lại cho Việt nam không thể còn có những thế hệ thịnh trị sản sinh ra được những nhân tài xuất chúng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo đã làm khó khăn cho Trung Quốc như trong thời đại Lý và Trần vừa qua. May thay Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã khôn khéo và kiên trì lãnh đạo cuộc kháng Minh đến thành công sau 10 năm gian khổ. Khi bắt sống được Hoàng Phúc ta thu được toàn bộ tài liệu của kế hoạch nêu trên trong đó có cả tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”. Bây giờ tập sách này trở nên một tài liệu vô cùng quý giá cho ta trên nhiều phương diện: Sử liệu, chính trị, địa lý. 1. Trên phương diện sử liệu nó là một sử liệu cổ xưa có giá trị. Tài liệu này soạn thảo từ ngàn năm trước. 2. Trên phương diện chính trị: Nó là tài liệu chứng minh một cách cụ thể chính sách người Hán và tham vọng của họ với dân tộc Việt nam. 3. Trên phương diện địa lý: Nó là một áng văn tuyệt tác về phép mô tả các kiểu đất kết mà các cụ xưa kia thường dùng để soi sáng cho việc học “Tầm Long”. Chúng tôi đã thấy và có nghe nói nhiều đến các cụ địa lý, hơn nữa cả bọn thanh niên để cả chôc năm liên tiếp với chiếc ô (dù) và tay nải đi hết làng nọ sang làng kia, tỉnh này sang tỉnh khác nghiên cứu thực hành “Tầm Long mạch” qua sự chỉ dẫn địa danh và thế đất mô tả trong “Cao Biền địa lý tấu thư kiều tự”. Quyền địa đạo diễn ca của cụ TẢ AO mà chúng tôi biên nơi đây chú trọng đến việc tầm Long tróc mạch nên chúng tôi xin cống hiến quý bạn một phần đầu quyển “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”. Cao Biền đề cập đến 632 huyệt chính và 1517 huyệt bàng của các tỉnh. Hà Đông 81 chính 246 bàng Sơn Tây 36 chính 85 bàng Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ 65 chính 155 bàng Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An 183 chính 483 bàng Gia Lâm, Bắc Ninh, Đáp Cầu, Bắc Giang, Lạng Sơn 134 chính 223 bàng Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình 133 chính 325 bàng Cộng 632 chính 1517 bàng Sách này có ghi chép tuần tự các huyệt của từng tỉnh, ghi râ nó tọa lạc tại huyện xã, ấp nào nêu các cụ ngày xưa theo đó học “Tầm Long” tróc mạch dễ dàng. Phần đầu đề cập đến tỉnh Hà Đông trong đó có 81 huyệt chính và 246 huyệt bàng. - Huyện Thanh Oai 9 chính 26 bàng - Chương Đức (Chương Mỹ và Mỹ Đức) 11 chính 34 bàng - Sơn Minh (ứng Hoà) 9 chính 26 bàng - Hoài An 6 chính 19 bàng - Thanh Trì 11 chính 41 bàng - Thường Tín 11 chính 41 bàng - Phú Xuyên 7 chính 20 bàng - Từ Liêm 11 chính 34 bàng - Đan Phượng 5 chính 13 bàng Cộng 81 chính 246 bàng ở những tay Long Hổ án sa.v..v.. của những huyệt chính thường có những huyệt kết khác nữa gọi là kết bàng. Nơi nào có ghi thêm C/B2 hay C/B3 hoặc C/B4.. ở cạnh địa danh có nghĩa là đây là huyện chính và kiểu đất này còn có 2 hay 3 hay 4 huyệt kết bàng nữa (sách chỉ nói đến huyện chính).ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu kiểu đất ở hai huyện Thanh Trì và Chương Đức để làm tài liệu phô khảo. Chúng tôi sẽ in toàn bộ thành sách sau khi được bàn luận với các vị đã khảo sát thực tế các đất ghi trong sách “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” Cao biền tấu thư địa lý kiều tự Việt tự tích Đường Trung Tông thời, Cao Biền vi Thái- sử chỉ ý tôn thời tình hữu Giao Châu chi Quận Huyện, đế tư cập úy Đà, xưng thần cự Hán chi cố sự, Cao Biền vi An Nam Đô hộ sứ. Biền tương vãng, chi thời, đế triệu nhập ngự điện vị viết. Công học địa lý tới vi linh diệu, trẫm văn: An - Nam đa hữu thiên tử quý địa, công dương dông lực ngô môc, hoặc hữu áp chi triễn binh sinh chi kinh luân thuật thánh hiền chi qui củ, đoạt thần công nhi cải thiên mệnh, nhiên vi tiễu thảo trừ căn, chi đồ thứ cơ vô hậu tệ, tường suy phong thuỷ, biến lãm sơn xuyên, nhất nhất diễn ca lập kiều, Trẫm đắc tiễn văn giả. Cao Biền thô mệnh nhi khứ, trực đế An Nam kế giữ mộc chi vi phi diện chi pháp, tự thừa kú thượng, án muông trung nhi du quan, tầm Long nhận mạch sở kiến nam quốc hình thế đại cán hành Long lưìng chi thiền chiều tịnh tiến. Nhất hữu chi Long, khởi tự ải quan, phân mao Sơn Hựu biệt sinh: tả, hữu, trung, nam nhi chi giáng, Long mạch phân chi, chi các hữu phái, tĩnh âm, tĩnh dương, Long Hổ khí chung, càn khôn đạo hợp nãi thị địa linh nhân kiệt, nguy nhiên thánh hiền, thần võ chi hồng lượng mỹ kỷ Biền tự trầm ngâm khẩu quyết, mặc thức tâm cơ, huyết mạch u huyền, cường lực dũ ra áp chi bất đắc, cố bất cảm động. Đông Tự nam hải đằng giang, Tây tự. -Tiểu khê lão cực Nam Việt Quảng Hà, Nam Xiêm Thành, Bắc Tự Quảng Hà, Đồng Xá, hệ đại huyết mạch các cụ c vi ngũ ngôn ca, kú thứ huyết mạch các cụ c, vi thứ ngôn ca, tha thư tiểu mạch giả bất túc lập luận cố sĩ hậu lai sảo tâm minh môc, quảng thị trí lực, vi khởi dô chi diệu doan túc kú. Giao Châu Đô Hộ sứ, thần Cao Biền cẩn tấu vi bản châu địa mạch thế hình thế sự, thần hạnh phát dư sinh thao ty hà nhưìng, thượng tự thám sơn, hạ chí đại hải, ngưìng quan phủ sát, phát tận chân cá, kú tự thiên hữu, cảm bất khánh kiệt sở kiến văn, thượng tự đế vương, vương công - công hầu, vương phi, thứ thần đồng, tú tài, khoa đệ, phú quý phát vinh các cụ c trạch ca trần tấu, vi chi thị phủ, phôc khất phủ lãm giao quan chi khí, kiến văn cụ lôc. Hà Đông Thanh oai: 9 chính, 26 bàng 1. Đệ nhất: Thanh Oai Phong (C/A4) ấp Trung Thanh Uy hình thế tối kú thuỷ lưu tư vương, án khởi tam quy, mạch tồng hữu kết, khí địng tả y, thần đồng tiến lập, quỷ sứ, hậu, tú khôi khoa tảo chiếm, phúc lợi vinh tuy, tu phòng mạch tận, thừa sự vô nhi. 2. Đệ nhị: Cao Xá Phong (C/B2) Thanh Oai Cao Xá, chân vi qui Long, thuỷ khê tuú mạch, bình dương lái tung, hoa khai hữu Hổ, tinh hiện tả Long, sơn thuỷ trù mật khí thế sung giong, hà tu hộp hải, ngưu giác loan cung, chủ khách hoàn mỹ, tả hữu hộ tòng, hoa tâm khả hạ, thế xuất anh hùng, Vô Lăng văn khôi khoa giáp. võ tổng binh nhung, phú qíu thọ khảo, kiêm hữu kú công. 3. Đệ tam: Vô Lăng phong (C/B2) Thanh Oai bình thế khả sung, tả sơn Thuận Giang, hữu thuỷ nghịch thăng, đường tám tích ngọc, án diện phó tầng, cân thuỷ chức kết, viễn sơn từng lăng, tHổ tinh lạc sử, cát huyết thi bằng, nhược năng hiện nhận, khoa đệ diệp đăng. 4. Đệ tứ : Cổ Hoạch phong (C/B2) Thanh Oai Cổ Hoạch, đoản hình tràng nhạo, thế giắng hữu cung, mạch sinh tả giúc, bút giả sâm van đốn sang sáp ngọc, hữu thuỷ tám hoành, tả sơn hồi thác, phân minh ký cổ, la hệt thành quách, văn chủng khôi khoa, võ chuyên tướng trách, nội thế tuy giai, ngoại hình cân bách, nọa khởi nhân chiếu, nghiệt do kỷ tác. 5. Đệ ngũ: Đại Định Phong (C/B6) Thanh Oai Đại Dịnh di tích kú tung, Long hoả Hổ hoả, chủ tòng khách tòng, tiểu giang dẫn mạch, Bình địa sinh phong, sơn thuận sơn nghịch, thuỷ chủ thuỷ sung, quần sơn điệp điệp, chủng thuỷ trùng trùng, trầm hết khúc thời, tái bút giả giong, thừa dư thủ túc, huyệt tại Viên trung, văn chiếm khoa giáp, võ tổng binh nhung bằng hữu huyệt quái, âm mạch khí chung nữ phát phi hậu, phú quý xương Long. 6. Đệ lôc: Kim Bài phong (C/B4) Thanh Oai Kim Bài, lưìng phương phi lai, song đồng hoàn trì, lúc tử nhập hoại, nội hình tương ứng, nội thế tương lai, thiềm tâm khí kết, Long não tinh ta, chủ minh khách mỹ, sơn tĩnh thuỷ giai, huyệt cư trung cấp, táng pháp vô sai, võ xuất khanh tương, văn trạc khoa đài. 7. Đệ thất: Bối Khê phong (C/B2) Bối Khê chi địa hình như thào xà, sơn thuỷ chức kết, Long Hổ bài nha, văn bút đảo địa, bình dương khai da, viên phô giáng thế, giang thuỷ giao la, hà tu giới thuỷ, thiên dực loan xa, thế xuất khanh tướng, đại đại vinh hoa. 8. Đệ bát: Sinh Quả phong (C/B4) Thanh Oai Sinh Quả cát địa diệc khả, Hổ sơn Long hồi, Long sơn Hổ hoá, đại phô khí tàng, tiểu khê quan toà, bác hoàn vi ký tiễn tài lương bạ, đảo trạc khôi khoa, viên đằng thanh giá, hiềm thuỷ phân lưu, dông chung hữu xả. 9. Đệ cửu: Bảo- Đà phong (C/B4) Bảo Đà Thanh Uy thuỷ thế my thi, đại giang loan quả, tiêu thuỷ chứng quy, lôc năng chiều hội lương phương giao phi, văn tinh tiền án, viên phủ hậu thuỷ, huyệt tại chung cấp, thừa dư khả y công hầu thế xuất, hào kiệt tế thi, danh cao Hổ tưởng, vi chốn hoa dị, nhược tàng Long dịch, nữ vương phi, nam chủng khoa giáp, phát đạt vô nghi. Chương Đức (Chương Đức và Mỹ Đức) 11 chính 34 bàng. 1. Đệ nhất: Vĩnh - Lữ phong (C/B6) Chương Đức Vĩnh Lữ ký mạch cân tự, tư thế cao sơn, chung thuỷ đệ trư huynh đệ tương đăng, quần thần tương giữ, huyệt thử túc dư, danh khôi khoa cử, thừa hưởng thiên nhiên, vô yêu trát sự. 2. Đệ nhị: Cống - Khê phong (?) Cống - Khê Chương Đức - hình thế khả kú, tứ sơn giai củng, chúng thuỷ hàm quy, Long trùng hồ điệp, chủ nghinh khách tuú, xa sinh trầm hốt, thuỷ hội nghiên trì, cao sơn thủ túc, phú quý vô nghi, nam phát võ tướng, nữ phát cung phi, nam nữ giai quý, phúc lộc vĩnh tuy. 3. Đệ tam: Thanh - Động phong (?) Chương - Đức Thanh - áng (nay thuộc ứng Hoà), canh lưìng Long lai, đại hà vệ khí, ngọc nữ hoài thai, Long Hổ Chiều Củng, hình thế phô bài, la liệt thành quách, hiệu khiết lâu đài, chử minh khách mỹ, thuỷ tĩnh sơn giai, đường thiên thuỷ đề, án cao sơn nhai, thuỷ Long dư nhũ, cát huyệt khả tài, võ sinh tướng suý, văn chiếm khoa đài đại địa cực quý đoán dịch vô sai. 4. Đệ tứ: Chi - Nê Phong (C/B2) (Nay cải tổ sơn xã Chương Đức) Chương Đức - Chi - Nê, sơn hình võ trô, Long hồi Hổ hoàn, mạch tàng khi tô, hạ hợp thương phân, tả giao hữu cố, án đới Hổ yêu phong sinh Long thử, khí kết hoa tâm, huyệt tòng Long nhũ thế xuất Công Khanh, sĩ lăng tề phô. 5. Đệ ngũ: Lai -Tảo Phong (C/B3) Chương Đức Lai Tảo địa hình diệc hảo khí như tuyến hồi, mạch như sà thảo, bình dương sơn loan, đại hà thuỷ đáo, chủ khách chuy tuú, Long Hồ hoàn bão, huyệt tại hoa tâm, Mạc tài Long não, thế xuất Công khanh phú quý (xuất) cảo. 6. Đệ lôc: Tiểu ứng Phong (C/b3). Tiểu - ứng Chương Đức, Phượng tường lưìng dực thuỷ tô trùng trùng, sơn sai sực sực, vạn thuỷ thiên sơn, tam hoành tứ trực, thảo vị khí tài, hoa tâm khả thực, văn võ phát vinh, tam công vi cực, phú quý thời ưu, đại đại phó tức. 7. Đệ thất: Liễu - Nội phong (C/B5). Liễu Nội chí địa, thị diệc quý Long, âm sơn bái tướng, dương sơn phú trung, Long hoá Hổ hoá, Long trùng Hổ trùng, chúng thuỷ lưu trữ, quần sơn la tung, huyệt tại thượng phúc, võ chí hậu phong, nữ phát hậu phi, phú quý xương Long, trung hữu cát huyệt, án đới thanh Long, tam thai chu tước, văn sĩ tam công. 8. Đệ bát: Tràng - Cốc phong (C/B6) Địa danh tràng - cốc, hình như phượng hoàng, nội kú, ngoại cổ, tiền cương, hậu giang, Long Hổ hoàn não, chủ khách huy hoàng, bình nguyên thuỷ diệu, viên phô khí tàng, thế xuất võ tướng, vị chí hầu vương. 9. Đệ cửu: Yên - Ninh phong (C/B2) Chương Đức yên Ninh, khí tô Long đình, tả toàn hữu cố, Hổ ẩn Long sinh, sơn họp thuỷ chỉ, khách tựa chủ nghinh, huyền quy ứng hậu, chu tước bái đình, huyệt tại chung cấp, Công hầu phát sinh kế thế võ tướng, kiêm vương nhân đinh. 10. Đệ thập: Do - Lễ phong (C/B2) Chương Đức Do - Lề, chân Long sở sỹ chi đại lâm loan sơn, thâm dầm chú thuỷ, tiểu giang tế Long, đại hà dưìng khí, Long Hổ bài nha, quân thần giao hỷ, huyệt tại Viện trung, Công hầu đăng đối, phú quý kiêm ưu, khả vi toàn mỹ 11. Đệ thập nhất: Chúc - Sơn phong (C/B1) Chương Đức Chúc - Sơn (nay thuộc Chương Mỹ) Hổ Long hồi hoàn, tiền hữu thuỷ chữ hậu hữ sơn loan, đại hà dẫn mạch, hồng kú chấn quan, hình thế tương hợp, chủ khách tương hoàn, huyệt tai chung phúc, thế xuất cao quan, võ đa văn thiểu, văn toán chiêu ban. Sơn Minh (ứng Hoà) 9 chính 26 bàng 1. Đệ nhất: Xà - Kiều phong (C/B4) Sơn Minh Xà Kiều hình như phượng vũ, giang lưu thoát tung, tinh phong nhạc nhũ, thiên thể dung tâm, địa khí danh ngũ, Hổ báo Loan đầu, Long đoàn cung thủ, khanh tướng thời sinh, khả văn, khả vũ, vị liệt thai đặc danh cao suý phú. 2. Đệ nhị: Lưu - Khê phong.(C/B2) Sơn Minh Lưu Khê, án chính sơn tề, quy tàn bích động, hoa thì kim chỉ, sơn thuỷ loan cung Long Hổ giao thi, âm lai dương thô, huyệt tòng tả y: thế xuất Khanh tướng, phát lộc trùng lai. 3. Đệ tam: Đông - Phỉ phong (C/B2 Sơn Minh Đông Phi Long Hổ giao tý, tứ thuỷ nhập hoài, bát thần vệ khí tam cấp mạch sinh, ngũ thốn sơn trỉ huyệt tại thừa dư, chủ đăng khoa sỹ, vị liệt Công khanh, phúc lộc phú quý. 4. Đệ tứ: Tảo- Khê phong (C/B4) Tảo - Khê chân Long hình thể sung giong, Long bàn Hổ hoá, thuỷ tam sơn cùng đại khê dẫn mạch, bình địa sinh phong, tam thai hoãn trí, chúng thuỷ chiều, cung thiên chung viên tọa, thế thượng bầu công, đại đại phú quý, phúc lộc xương Long. 5. Đệ ngũ: Dương - Khê phong (C/B7) Dương khê chí địa, hình thế khả quan, sơn chỉ thuỷ tô, Hổ cứ Long bàn, tiền phân tam thuỷ, hậu ứng quần sơn, tả hữu đang đối, chủ khách tương hoan, hoa tâm khả hạ, thảo vi khá an, thế xuất khanh tướng, phú quý bình an. 6. Đệ lục: Đông - Dương phong (C/B1) Sơn Minh Đông Dương. Thế giáng bình dương, Long vệ tống mạch, Hổ báo chiều tương, kú cổ bài liệt, hình thế la chương, sơn tòng hữu đáo, dứt giá Long bàng, huyệt tại chung cấp, thừa khí khả tàng, thế xuất khoa, giáp vi cận quân vương. 7. Đệ thất: Tử Dương phong (C/B3) Sơn Minh Tử Dương, thế chính hình ngang, thuỷ đàm Long khẩu, sơn dôc Hổ giáng, thuỷ chiều sơn bão, thai án châu trang, tả hữu trù mật, chủ khách huy hoàng khí thuú dư tức huyệt tại cung tràng, thế xuất Khanh tướng, cần hậu quận vương, nhược thuỷ viên nhũ, khi phát phi hoàng, nam nữ toàn mỹ, phú quý vinh xương hiện như bất thực, khủng sinh bất tường (có giả huyệt) tất thô tai ương. 8. Đệ bát: Đạo Tú phong (C/B4) Sơn Minh Đao Tú, Long hoàn Hổ cố, hình thế bài nha, khí mạch ngưng chủ hữu sơn bái chiều, tả giang chiều hộ, thuỷ nội ấn phù, đường tâm khí huyệt tại Tốn sơn, thời sinh tể phô, thuận nghịch lượng thủ, nam nữ cẩn ưu, tùy thích an. 9. Đệ cửu: Sơn Minh phong (C/B3) Sơn Minh khí chuẩn Long Hổ phù cung đại giáng chiết thuỷ, bình dương lại tung, hoa khai đoá đoá, tinh hiện trùng trùng, khi trông thảo vĩ, huyệt tại viên chung, chử phát Khanh tướng đại đại vô cùng. “....Những ngôi đất kết có ngôi chỉ phát âm phần (mả) lại có ngôi chỉ phát về dương cơ (làm nhà) Đất phát âm dùng lợi cho sự chôn xương xuống đất và đất phát dương cơ lợi cho sự làm nhà lên trên, đất dương cơ nhá dùng làm nhà còn to rộng lợi làm doanh trại, rộng hơn nữa lợi cho sự làm thị trấn đô thị hoặc kinh đô”. Kết Luận (113) Thấy đâu Long Hổ chiều lai (114) Minh đường thuỷ tô huyệt tài mới hay (115) Tiền quan, hậu quỷ sắp bầy (116) án dày muốn thấp, Chiều dày phải cao (117) Xem huyệt nào làm cho phải phép (118) Chớ đào sâu mà thiệt như không (119) Kìa ai địa lý “Vô tông” (120) Chẳng cứ đúng phép cùng giòng “vô sư” http://' target="_blank">Tới đây là phần kết luận phần này có 8 câu thì 4 câu đầu ôn lại đại cương một huyệt kết và 4 câu dưới là kết luận của quyển địa đạo diễn ca này. Trong bốn câu đầu cụ TẢ AO nói sau khi tầm Long thấy huyệt kết rồi, phải xem có Thanh long bên trái và Bạch hổ bên phải chầu vào huyệt. (113) Thấy đâu Long Hổ chiều lai Rồi trước huyệt phải có Minh đường có nước tô ở đó. (114) Minh đường thuỷ tô huyệt tài mới hay Trước và sau huyệt phải có tiền quan hậu quỷ nghinh tống. Tiền quan là trước huyệt thì nghinh đón và hậu quỷ là sau huyệt thì hộ tống. Quan quỷ là các chứng ứng nổi lên trước và sau huyệt để thêm tôn quý, nó là các sơn có nhiều hình thể khác nhau giống hình gì thì gọi là hình đó như Bút, Kiếm, ấn, Voi, Ngựa, Chiêng, Trống.v.v.. ở trước và sau huyệt (115) Tiền quan, hậu quỷ sắp bầy Ba câu 113, 114,115 là tóm tắt những điều quan trọng cho một huyệt kết. Cụ TẢ AO đã tả nó một cách nôm na hơn như sau Hai bên ruộng đỗ, dưới có lỗ cấy chiêm Đôi bên lưìi liềm quay lại Nghĩa là người tầm Long theo mạch đất, xuống theo chiều nước chảy (hay xuôi theo chiều ruộng cao xuống chiều ruộng thấp) mà lần mò cho tới nơi có đất kết (nơi Long đình khí chỉ) nếu thấy chỗ đó có ruộng cấy chiêm mà hai bên có ruộng trắng màu như ngô khoai đỗ “Bên trên ruộng đỗ, dưới có lỗ cấy chiêm” Lại nhìn hai bên ruộng đỗ nếu là hai tay Long Hổ thì nó phải ôm chầu vào huyệt trông như hai cái lưìi liềm quơ lại : “Đôi bên lưìi liềm quơ lại” thì chỗ đó là đất kết vì lỗ cây chiêm là Minh đường và ruộng đỗ, ruộng màu hai bên là Long Hổ.Trên là sự cân đối về bề mặt còn về chiều cao thấp của một kiểu đất kết cũng phải có thứ tự hữu lý như sau:Bao nhiêu những gò đồng, chứng ứng gần huyệt như án phải cao bằng từ mặt đến rốn người ngồi ở huyệt còn chứng ứng ở xa thì phải theo thứ tự càng xa càng cao. (116) án dày muốn thấp chiều dày phải cao Có nghĩa là án so sánh với chiều thì án phải thấp hơn chiều, chiều là gò đống ở xa chầu về và án là gò đống ở trước huyệt chầu về. Còn 4 câu chót hai câu trên cụ TẢ AO nhắn nhủ ta phải cẩn thận về việc đào huyệt (117) Xem huyệt nào làm cho phải phép (118) Chớ đào sâu mà thiệt như không Một huyệt đào nông quá thì lâu mới quản khí mà đào sâu quá thì khí mạch đi mất, có huyệt kết cũng như không.Thật ra huyệt đào nông sâu thì phải cân nhắc theo chiều cao của Minh đường, án, Long, Hổ, nước âm mạch và giao thổ mới đúng.Tuy nhiên nếu lấy giao thổ làm đích thì cũng không mấy khi háng. Giao thổ là những lớp đất thứ hai và thứ ba (nếu lớp đất trên cùng là do lá bôi lâu năm phủ lên)Ta đã biết là đào nông thì lâu kết mà đào sâu quá thì mất cả, vậy nên nhằm chiều nông hơn nhằm chiều sâu. Tất cả những gì đã trình bày từ câu thứ nhất đến câu 118 với sự bố cụ c của soạn giả có thể giúp các bạn ưa khoa này nắm được một số yếu lý cơ bản của khoa địa lý, mà đây thuộc về loại địa lý “Chính tông”. Với số vốn quí giá này đây dùng làm tài liệu để học thêm các sách địa lý cũng có thể phân biệt điều đúng điều sai. Khoa địa lý gần như thất truyền phép chính tông nên các cụ gặp man thư hay man ngôn rất nhiều. Có man thư và man ngôn tất nhiên phải có man sư là loại thầy địa lý không phải chính tông. Họ không giúp ích được cho người để đất mà nhiều khi gây tai hoạ cho dòng họ nhờ thầy để đất nữa. Loại thầy được truyền nghề không phải chính tông cụ TẢ AO gọi là “vô tông”.Còn loại thầy địa lý tự học lấy dù có vài khi đúng phép. Song không được toàn vẹn cụ TẢ AO gọi là “Vô sư”. Do đó cụ TẢ AO phê bình như trên ở câu cuối cùng. (119) Kìa ai địa lý “vô tông”. (120) Chẳng cứ đúng phép cũng dòng “vô sư”. Và cũng sợ khoa địa lý trở nên tàn tạ vì những man thư nên tác giả cố gắng, chỉ trình bày những gì là chính tông. Những gì viết ở quyển này đã được các nhà địa lý chính tông và tài giỏi đã cân nhắc sửa chữa nhiều lần. Những chi tiết nào mơ hồ hay có thể đưa đến sự sai lầm thì dù có hay mấy chúng tôi không để ở quyền địa lý nhập môn này. Ngày nay kiếm được thầy địa lý chính tông để học khoa địa lý thật khó nhưng sách địa lý này có thể đảm bảo là chính tông có thể dùng xác định được sự đúng sai của các sách địa lý khác. Hiểu đến đây các bạn đã tạm đủ ý thức căn bản địa lý của các người mới học. Cần theo lời cụ TẢ AO ở câu: “Chẳng qua ra đến ngoài đồng, tỏ mạch, tỏ nước, tỏ Long mới tường” mà tập thực hành tầm Long tróc mạch ở ngoài trời, ngoài đồng để cho quen việc tìm ra huyệt tràng và huyệt kết. Mới đầu chưa cần dùng đến la kinh mà chỉ cần dùng đến cái tróc Long có kim chỉ nam ở giữa và ba vòng thiên bàn, địa bàn, nhân bàn là để các bạn có thể tự làm lấy một cái tróc Long bằng cách dùng một cái cái kim chỉ nam đặt vào giữa một miếng các tông có ba vòng tròn như đã nói ở trên. Nguồn:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
  15. Thân chào anh HongVu. Anh cứ bình tĩnh, mọi người trên diễn đàn sẽ giúp đỡ cho anh. Làm phong thủy cần thiết nhất là sự chính xác, phải gọp chung nhiều yếu tố để xét tổng thể, như vậy sẽ đưa ra giải pháp hữu hiệu nhất cho ngôi nhà của anh. Thân chào anh !
  16. Kính Gửi Huynh HoàngTriệuHải. Từ tâm nhà đo ra tới tâm cổng là 285độ, là Cung Tân, thuộc Nhân Nguyên Long. Từ tâm nhà ra tâm cửa là 299 độ, là cung Tuất thuộc Địa Nguyên Long Tuất là Địa Nguyên Long âm, Tân là Nhân Nguyên Long âm.. Hướng đường chính xe chạy từ Trái qua phải nhiều hơn từ phải qua trái...
  17. Sách: Uyên Hải Tử Bình -Chương 4- Ngũ hành vượng khí: Kim vượng đắc Hỏa,phương thành khí mãnh (thí dụ Canh Tân trong mùa Thu là vượng khí, cần có Hỏa mới được luyện thành đồ dùng, ý là thành danh) Hỏa vượng đắc Thủy,phương thành tương tể (Bính Đinh vượng cần có Thủy mới nên công nên việc, có nghĩa là cần được chế hãm bớt sức mạnh để không quá kiêu căng) Thủy vượng đắc Thổ,phương thành trì chiểu (Nhâm Quý mùa đông cần có Thổ ngăn lại thành ao hồ, không thì trôi chảy không có bến bờ vô định) Thổ vượng đắc Mộc,phương năng sơ thông (Mậu Kỷ cần Mộc chế bớt thì mới mong hiển đạt) Mộc vượng đắc Kim,phương thành đống lương (Giáp Ất cần có Kim bao bọc, tài năng phi thường) Cường Kim đắc Thủy,phương tỏa kì phong (khí thế dữ dội, biến trá ghê gớm) Cường Thủy đắc mộc,phương tiết kì thế (hành động, thế lực vô song) Cường Mộc đắc Hỏa,phương hóa kì ngoan (làm càn bậy, tham lam, chơi đùa quá mức) Cường Hỏa đắc Thổ,phương chỉ kì diễm (lửa cháy cao, khí thế nồng nàn) Cường thổ đắc Kim,phương chế kì hại (gặp tai hại, bị ghen ghét) Ngũ hành tương sanh Kim lại Thổ sanh,thổ đa kim mai (Kim nhờ Thổ sinh cho nhưng Thổ nhiều quá thì Kim bị vùi lấp trở thành ngu muội) Thổ lại Hỏa sanh,hỏa đa thổ tiêu (Thổ là con của Hỏa, nhưng hỏa nhiều thì thổ bị cháy khét) Hỏa lại Mộc sanh,mộc đa hỏa sí (Mộc nhiều thì hỏa càng cháy lớn; ý nói đạo tặc thêm mạnh) Mộc lại Thủy sanh,thủy đa mộc phiêu (Mộc là do Thủy sinh, nhưng thủy quá nhiều thì mộc trôi) Thủy lại Kim sanh,kim đa thủy trọc (Thủy nhờ Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì nước không trong, thủy đục) Kim năng sanh Thủy,thủy đa kim trầm (Thủy nhiều Kim chìm đắm sâu dưới nước) Thủy năng sanh mộc,mộc thịnh thủy súc (Mộc quá thịnh thì thủy co rút lại, hình thể tiêu tàn) Mộc năng sanh Hỏa,hỏa đa mộc phần (Hỏa nhiều Mộc cháy khét) Hỏa năng sanh Thổ,thổ đa hỏa mai (Thổ nhiều hỏa bị chôn vùi) Thổ năng sanh Kim,kim đa thổ biến (Kim nhiều Thổ biến đổi hình dạng) Ngũ hành tương khắc Kim năng khắc mộc,mộc kiên kim khuyết (Kim khắc Mộc nhưng mộc cứng quá thì kim sứt mẻ) Mộc năng khắc thổ,thổ trọng mộc chiết (Mộc đi khắc Thổ nhưng thổ quá nặng thì mộc gẫy) Thổ năng khắc thủy,thủy đa thổ lưu (Thổ khắc Thủy nhưng nếu thủy lại quá nhiều thổ sẽ trôi giạt, như đất bùn) Thủy năng khắc Hỏa,hỏa đa thủy nhiệt (Thủy đi diệt Hỏa nhưng gặp hỏa mạnh thì thủy nóng sốt, ý nói mất cả bản chất lạnh của thủy) Hỏa năng khắc Kim,kim đa hỏa tức (Hỏa khắc Kim nhưng kim nhiều hơn thì hỏa tắt; ý nói mất tích hay bị tiêu mòn) Kim suy ngộ Hỏa,tất kiến tiêu dong (Kim đang suy mà gặp Hỏa sẽ bị tiêu tan) Hỏa nhược phùng Thủy,tất vi tức diệt (Hỏa yếu gặp thủy tất nhiên là tắt) Thủy nhược phùng thổ,tất vi ứ tắc (Thủy ít mà Thổ nhiều là bế tắc) Thổ suy ngộ Mộc,tất tao khuynh hãm (Thổ suy gặp mộc sẽ bị vùi lấp, hãm hại) Mộc nhược phùng kim,tất vi khảm chiết (Mộc đã yếu lại gặp kim thì gãy nát) Sách "Tích Thiên Tủy" cũng nói đến sự cân bằng cần thiết của ngũ hành: - Thổ sinh Kim, nhưng trong mùa Hạ hành Thổ táo khô, cần phải có Thủy nhuận thì Thổ mới sinh Kim được. - Kim sinh Thủy, nhưng cuối Thu sang mùa Đông hàn lạnh, chi Kim thành đống băng nên không thể sinh Thủy được, cần phải có Hỏa ôn. - Mộc sinh Hỏa, mùa Xuân cường tráng, cũng cần có Thủy nhuận có căn là mộc hỏa vừa phải không phát tán khí lực quá sớm. - Thủy sinh Mộc, nếu hàn đóng băng thành đống, thủy chẳng sinh được cho Mộc, cần Hỏa cho Mộc được tiết khí thì mới phồn vinh. Tức là về thể chất mà nói thì Hạ lệnh không thể không có Thủy, Đông lệnh không thể không có Hỏa. Vì thế mới nói rằng, Sinh chẳng phải là Sinh, Khắc Tiết cũng là Sinh. Cần phải tỏ rõ sinh vượng khắc chế là nắm được cơ bản của sự vận động ngũ hành. Nguồn:Huyenkhonglyso.com
  18. :lol: OFFLINE CAFE LUKY8 :lol: Buổi offline hoành tráng đựoc diễn ra vào ngày 02.08.2009, tại quán cafe Luky8. Buổi lễ được tổ chức long trọng và tràn đầy thân thiết. Với sự góp mặt đặc biệt của Thầy Thiên Sứ, Cô Willavender, Chị Phúc Anh, Công Minh, Vôthuong, Minh Châu, Thiên Đồng...và một số khách mời quan trọng khác. ;) Bánh kem mừng offline, được trao tặng bởi anh LeDien.. ;) Anh Lê Quý Điền trao tặng bánh kem thay lời càm ơn sâu sắc gửi đến Thầy Thiên Sứ và toàn thể ACE. :P Cô Willavender và Chi Crescent . :lol: Trao đổi những giải pháp trong Phong Thủy. :lol: Thầy Thiên Sứ đang giải thích những yếu tố liên quan đến Phong Thủy và lực tương tác giữa Vũ Trụ ảnh hưởng đến đời sống con người. :P Cô Willavender và Anh NguyênAnh(lớp PTCB). Chị Phúc Anh đang giải thích về tên và luận tuổi.. Buổi offline diễn ra thật hoành tráng và tràn ấp tình thân thiết..Trong phong cảnh thiên nhiên hữu tình, mọi người xum họp với nhau, trao cho nhau những nụ cười . Gắn kết với nhau như một Đại Gia Đình. Xin chân thành cám ơn Thầy Thiên Sứ, Cô Willavender, Chị Phúc Anh, Anh Công Minh, huynh Thiên Đồng ,huynh Vothuong, và toàn thể mọi người đã góp mặt chung vui trong buổi offline vửa rồi. :lol: :lol: :lol:
  19. Tương truyền, thời vua Minh Thái Tổ khi lập nghiệp gặp lúc ngân khố cạn kiệt, vua rất lo lắng. Trong giấc mơ vàng, vua thấy có con vật đầu lân mình to, chân to lại có sừng trên đầu xuất hiện ở khu vực phía trước cung điện nuốt nhanh những thỏi vàng ròng sáng chói mang vào trong cung vua. Theo thầy phong thủy tính toán, khu vực xuất hiện con vật ấy là cung tài và đất ấy là đất linh, như vậy, theo đó giấc mơ đã ứng với việc trời đất muốn giúp nhà vua lập nghiệp lớn. Sau đó vua Minh Thái Tổ cho xây một cổng thành to trên trục Bắc Nam, đường dẫn vào Tử Cấm thành, ngay tại cung tài ấy. Con linh vật ấy có mặt con lân đực nhưng lại có một sừng và có râu, mình to, mông to như mông bò, đuôi dài, có chùm lông đuôi rậm. Con vật này không ăn thức ăn bình thường mà chỉ ăn vàng, bạc; đặc biệt nó không có hậu môn, do vậy vàng bạc nó ăn vào không bị thoát đi đâu, cho dù no căng bụng. Nói cách khác, vàng bạc chỉ có vào mà không có ra. Chuyện kỳ hươu xưa Sau khi có linh vật ấy, ngân khố nhà Minh ngày càng đầy, cuộc sống không chỉ vua mà gia đình vua ngày càng sung túc. Sau đó, vua cho tạc tượng linh vật trên bằng ngọc phỉ thúy và đặt trên lầu cao của khu “Tài môn”. Từ đấy, nhà Minh ngày càng mở rộng địa giới và trở thành triều đại giàu có. Khi nhà Mãn Thanh lên ngôi vua, họ vẫn rất tin vào sự mầu nhiệm của con vật linh kia và đặt tên cho nó là con kỳ hươu. Nhà Thanh cho tạc nhiều tượng con kỳ hươu đặt tại cung vua và hoàng hậu. Các cung công chúa, hoàng tử đều không được đặt con kỳ hươu. Các quan càng không được dùng cho nhà mình, bởi quan không được giàu hơn vua. Thời ấy, ai dùng thứ gì giống vua dùng là phạm thượng. Nhưng với sự linh nghiệm của con vật này khiến các quan lại lén lút tạc tượng con kỳ hươu đặt trong phòng kín, ngay cung tài nhà mình để “dẫn tiền vào nhà”. Muốn tạc tượng phải gọi thợ khắc ngọc. Và, thế là thợ khắc ngọc cũng tự tạc cho mình một con để trong buồng kín, cầu tài. Cứ thế, các đời sau, con, cháu thợ khắc ngọc cũng biết sự linh nghiệm ấy mà tạc tượng kỳ hươu để trong nhà, cầu may. Tiêu Tuấn Kiệt, hướng dẫn viên du lịch của Công ty Du lịch quốc tế Cảng Trung Lữ, đơn vị đối ứng tại Bắc Kinh của Công ty Du lịch lữ hành Saigontourist, đã kể nhiều câu chuyện rất hấp dẫn liên quan đến các danh thắng mà chúng tôi đến thăm, trong đó có chuyện liên quan đến Hòa Thân, một nhân vật lẫy lừng về mưu mẹo, gian thâm và cực giàu trong lịch sử nhà Thanh và con kỳ hươu linh nghiệm. Thiếu thời nhà Hòa Thân rất nghèo, nghèo đến nỗi không có đủ 10 lượng bạc nộp cho quan để xin nhận lại chức quan nhỏ của cha truyền lại. Nhờ ông Liêm (sau này là cha vợ) cho 10 lạng bạc mà Hòa Thân có cơ hội bước vào quan trường. Thời vua Càn Long, Hòa Thân là nhân vật “dưới một người trên triệu triệu người”. Ngân khố nhà vua ngày càng vơi mà nhà Hòa Thân ngày càng giàu. Đến khi Hòa Thân bị giết; quan quân đã tá hỏa khi thấy tài sản Hòa Thân bị tịch thu nhiều gấp 10 lần ngân khố nhà vua đang có. Hòa Thân có 2 vật trấn trạch được cất giấu trong núi đá giả đó là con kỳ hươu và chữ Phúc do chính vua Khang Hy viết tặng bà nội, nhân ngày mừng thượng thọ. Khi đập vỡ hòn giả sơn, các quan mới phát hiện trong núi đá ấy có con kỳ hươu. Mà con kỳ hươu của Hòa Thân to hơn kỳ hươu của vua. Ngọc tạc con kỳ hươu là ngọc phỉ thúy xanh lý mát rượi, trong khi vua chỉ dám tạc bằng bạch ngọc. Bụng và mông con kỳ hươu của Hòa Thân to hơn bụng, mông con kỳ hươu của vua và như thế khiến Hòa Thân nhiều vàng bạc hơn vua. Sau khi tịch thu con kỳ hươu, nhà vua không thể tịch thu chữ “Phúc” kia được bởi chữ Phúc đã được gắn chết vào đá hồng ngọc; nếu đập đá ra lấy chữ thì đá sẽ vỡ, như thế thì phúc tan. Mà chữ thì do vua Khang Hy viết nên không ai dám phạm thượng. Thế là đành để “Phúc” lại cho nhà Hòa Thân, có lẽ vì thế nên dù phạm nhiều tội tày đình nhưng Hòa Thân chỉ chết một mình, thay vì phải bị tru di tam tộc. Chuyện kỳ hươu bây giờ Bắt đầu câu chuyện kỳ hươu thời nay, Tuấn Kiệt chỉ vào những bức ảnh treo ở Tài môn nói: “Ở Việt Nam cũng có những con kỳ hươu đặt ở nhiều nơi. Ví dụ như trong Diamond Plaza. Chủ khu mua sắm trên đã làm thêm một khách sạn mới cạnh khu An Đông sau khi đặt tượng hai con kỳ hươu ở Diamond đấy. Tại khách sạn mới chủ đặt hai con kỳ hươu to hơn con trước”. “Với những kỳ tích hấp dẫn ấy nên Saigontourist mong khách mình ngày một khá hơn, và trong tour có dẫn khách đến Tài môn để “thỉnh” kỳ hươu mang tài lộc về nhà” (không ai nói đi “mua” kỳ hươu mà nói “thỉnh” kỳ hươu vì đó là linh vật). Các tour du lịch sang Trung Quốc ai cũng muốn tìm cho mình một con kỳ hươu để mang may mắn về nhà. Kỳ hươu ở Tài môn làm bằng các loại ngọc. Vì sao kỳ hươu phải làm bằng ngọc mới linh? Tiêu Tuấn Kiệt nói: “Chữ Vương có một dấu chấm (.) thành chữ Ngọc, nghĩa là ai dùng ngọc là người vương giả, giàu sang. Ai chẳng muốn mình sang giàu”. À ra thế. Phải tốn tiền “thỉnh” nhiều con kỳ hươu ở nhiều nơi tôi mới “ngộ” ra cách chọn kỳ hươu mà chắc chắn ít người biết. Con kỳ hươu không chỉ mang tiền bạc vào nhà mà còn giúp công danh tấn tới và sự bình an lâu dài. Trước tiên, con kỳ hươu là linh vật không có hậu môn, nhưng thỉnh thoảng người bán vẫn đục một lỗ nhỏ ở vị trí hậu môn của vài con kỳ hươu và trộn chung vào số những con kỳ hưu bán. Như thế có nghĩa là, người ấy có thể làm ăn khá, nhưng không giữ của được. Họ không chỉ khiếm khuyết ấy cho người mua bao giờ, bởi theo họ đó là duyên của người chọn mua, và đâu phải cứ ai muốn giàu là được giàu. Còn muốn công danh tấn tới thì người mua phải chọn con kỳ hươu có sừng, có cánh, mông nhỏng cao, thuôn. Muốn cầu sức khỏe, bình an thì đó là con kỳ hươu có râu, mông thuôn và không có cánh (để sức khỏe và bình an không bay đi mất). Tuyệt nhất và tròn trịa nhất đó là con kỳ hươu phải có chòm râu càng dài càng tốt, có cái bụng to và mông tròn căng, có sừng (không cần sừng dài như công danh, nhưng phải có sừng) và có cánh. Người ta bảo, thỉnh kỳ hươu ở Tài môn mới linh nghiệm, do vậy, giá một con kỳ hươu ở Tài môn không hề rẻ và để vào được Tài môn “thỉnh” hướng dẫn viên phải “xin lịch” trước với ban quản lý Tài môn. Bạn muốn thử vận may của mình? Cứ thử một lần đến Tài môn “thỉnh” con vật đầy huyền thoại ấy xem sao. Lại có truyền thuyết cho rằng, Kỳ Hươu là con út của Diêm Vương. Tuy không ỷ thần, cậy thế, nhưng cậu ta lại phải tật ăn nhiều, ăn bao nhiêu cũng được và, chỉ thích ăn... tiền (ăn thật, ăn vô bụng luôn chứ không phải tham ô ăn hối lộ như các quan tham đâu nhá). Ăn xong lại phóng uế tùm lum. Có một lần Diêm Vương được Ngọc Hoàng gọi về "họp". Nghe vậy, Kỳ Hươu xin đi theo. Biết chỗ nhược của con, Diêm Vương đồng ý với điều kiện lên trên ấy ăn xong phải tìm chỗ... ị đàng hoàng. Đã hứa, nhưng trước cảnh tiền rừng, bạc biển của thiên đường, Kỳ Hươu mải mê ăn, quên tất cả. Đến mức ngay giữa sân chầu mà anh chàng cũng... tới luôn. Biết chuyện, Ngọc Hoàng giận lắm, nhưng nhìn nét mặt thông minh của cậu út, nhất là xét công trạng của Diêm Vương, thay vì tống xuống 9 tầng âm phủ làm dòi bọ; ngài đã tha, vẫn tiếp tục cho ăn như thường, ăn bao nhiêu cũng được, nhưng lại không được... ị. Chất thải của cơ thể chỉ bài tiết một phần rất nhỏ qua da. Nói nôm na, "vào" thì vô tư, nhưng "ra" thì hạn chế đến mức thấp nhất. Có lẽ vì thế, Kỳ Hươu còn được gọi là Bì Hươu Tỳ hưu có cánh ( thuộc danh mục Con vật linh thiêng) Truyền thuyết về Kỳ Hươu - Tản mạn Phong thủy, Lịch sử Ở Trung Quốc , người ta rất quan trọng phong thủy, có thể thấy ở bất kì công trình xây dựng này. Trung Quốc có 3 linh vật rất được sùng bái, có tác dụng đem lại tài vật , bảo vệ gia trạch , trấn trạch cho những nơi nào phong thủy không tốt, hóa giải mọi điều bất lợi. Đó là 3 linh thú : Sư tử, Kỳ Lân, Kỳ Hươu. Đến đây mọi người thấy rằng đã nhìn thấy rất nhiều tượng đôi sư tử đá tại nhiều công trinh của Trung Quốc từ cổ chí kim đúng không Sư tử đá thì ai cũng biết và nhìn thấy rồi nên không bàn đến. Còn Kỳ Lân thì tượng trưng cho người quân tử, vì vậy hợp với giới quan chức, làm chính trị. Xin nói nhiều đến Kỳ Hươu : Là linh thú thứ 3, đây là 1 con vật trong truyền thuyết ( ở VN gọi là Tỳ Hưu hoặc Thiên Lộc ), con thú này chỉ ăn tiền, vàng bạc châu báu, nhưng lại không có hậu môn nên chỉ kiếm tiền và tích lũy, không hề thải ra, vì vậy nên cực kì hợp với người làm kinh doanh, buôn bán, và nó rất hung dữ nên dùng để trấn trạch trừ tà . Nếu đến Bắc Kinh, mọi người nên đến tham quan Ngân hàng Trung Quốc, ở đây là một ví dụ về phong thủy, trấn trạch và đặt kỳ hươu. Ở Lầu Đức Thắng Môn ( lầu phong thủy ) Bắc Kinh có đặt một con Kỳ Hươu bằng đá trắng, có niên thọ gần 600 năm rồi, trong lịch sử, mỗi lần hoàng đế Mãn Thanh duyệt binh ra trận đều ở đến thỉnh kỳ hươu bảo hộ ( cờ xuất trận của Hoàng đế Mãn Thanh có thêu hình Kỳ Hươu ở đuôi cờ. trong lịch sử 600 năm của Kỳ hươu tại lầu Đức Thắng môn, có 2 sự kiện lớn : vua Sùng Chinh mất nhà Minh về tay nhà Thanh do bị gián điệp của Mãn Châu lừa xoay ngược lại hướng của Kỳ Hươu. Năm 1989 trong quá trình trùng tu lầu Đức Thắng, do sơ ý nên công nhân đã làm đổ con Kỳ Hươu này và bị mẻ 1 miếng lớn ở cánh, và năm 89 đã xảy ra 1 biến cố chính trị rúng động toàn nước Trung Hoa, đó là biến cố Thiên An Môn. Kỳ Hươu có 1 đặc điểm, đó là luôn luôn hướng ra cửa, đuôi hướng vào trong thì mới chiêu tài, trấn trạch được, còn ngược lại sẽ đem tai họa đến nhà. Các cassino tại macao và 1 số cassino trên thế giới đều đến thỉnh kì hươu đem về trấn , có lẽ vì thế nên có ai đem được tiền từ đấy về đâu. 1 Khách sạn lớn tại Sài Gòn đã thỉnh 1 đôi Kỳ Hươu lớn về đặt tại KS trị giá > 3 tỷ đồng, và luôn thuê 2 vệ sỹ để bảo vệ không cho ai được sờ vào, vì nếu ai sờ vào Kỳ Hươu của bạn, có nghĩa là người ta sẽ đem mất lộc của bạn do Kỳ Hươu đam lại đi mất. Kỳ Hươu luôn phải chế tác bằng vật liệu quý như ngọc, vàng. Nếu chế tạo bằng vật liệu rẻ tiền thì sẽ phản tác dung. sau khi chế tác xong, người ta phải đưa Kỳ Hươu vào lầu phong thủy đặt tối thiểu 5 năm để tích tụ tinh hoa của trời đất, đủ hạn kỳ thì mới có thể làm lễ khai quang điểm nhãn cho nó, sau đó chúng ta mới có thể thỉnh về được, còn không thì cũng chỉ là 1 vật lưu niêm thông thường. Sau khi tích tụ đủ linh khí, con kỳ Hươu sẽ được khắc chữ " Vân " vào dưới bụng. Nhờ cơ duyên, em đã thỉnh được 1 đôi kỳ Hươu, 1 con bằng bạch ngọc em để ở nhà để trấn trạch ( nhà em cũng phạm phong thủy- mệnh hợp Đông tứ trạch mà nhà em lại hướng Tây tứ trạch ), 1 con bằng bích ngọc em đặt tại phòng làm việc công ty, nói thật các bác tin không, từ hôm em thỉnh về đặt tại Cty & nhà riêng, em thấy mọi công việc đều tốt lên rất nhiều. Em up hình con Kỳ Hươu bằng bích ngọc lên cho mọi người xem nhé. Nếu ai không tin về lĩnh vực này thì hãy coi như đọc một mẩu chuyện mà thôi, còn ai muốn tìm hiểu, em sẽ rất vui được chia sẻ ạ Mỗi nơi đặt tên nó 1 khác, theo khẩu âm ở địa phương. Ngày xưa thời còn chế độ phong kiến, con Kỳ hươu đặc biệt được yêu chuộng vào thời Minh và Thanh. Nó là con vật biểu tượng cho giai cấp vua quan. Nếu dân thường mà thỉnh Kỳ hươu thì sẽ phạm vào tội diệt tộc. Các triều đại nhà Thanh, vì cấm dân chúng sử dụng kỳ hươu để trấn trạch, sợ ảnh hưởng đến long mạch đế vương của mình nên đã đổi tên là Thao Thiết ( đấy là em phiên âm ra tiếng Việt chứ chữ Hán của em 1 chữ không cần bẻ đôi em cũng ứ biết nó là chữ gì :rolleyes: ) Và như thế sau một vài trăm năm, dân chúng đã quên đi con Kỳ hươu này, vì vậy vào những triều đại cuối cùng của nhà Thanh, kỳ hươu chỉ xuất hiện trong Tử Cấm thành, Di Hòa Viên, và trong phủ của Hòa Thân ( Cúng Vương Phủ ) mà thôi. Còn trong dân gian chỉ còn lại các hình ảnh sư tử đá và kỳ lân mà thôi. Có lẽ vào triều đại Mãn Thanh, hình tượng Kỳ Hươu chỉ đứng sau hình tượng Rồng của hoàng đế mà thôi. Trước khi Thanh binh nhập quan ải tiến chiếm giang sơn Đại Minh ( hồi đó còn là Mãn Châu - tộc Nữ Chân dòng Đại Kim ) đã nghiên cứu rất kĩ về văn hóa, phong thủy, biết rằng nhà Đại Minh long mạch đế vương còn thịnh lắm, nếu không phá được phong thủy của Bắc Kinh thì không thể nào chiếm chọn Trung nguyên được, mà có chiếm được cũng không thể giữ được vì Trung Nguyên rông lớn, Mãn Châu sẽ nhanh chóng bị nuốt chửng và bị đồng hóa. Trong truyền thuyết, Lưu Bá Ôn đã từng để lại lời dặn cho nhà Minh rằng muốn Đại Minh trường tồn thì phải giữ gìn đặt con Kỳ Hươu trên lầu thành Đức Thắng Môn, mặt ngoảnh về phía Vạn Lý trường thành để trấn áp dân Hung Nô, dân Nữ Chân. Chừng nào mặt Kỳ Hươu còn ngoảnh về phương ấy thì Đại Minh còn. Mãn Châu biết được truyền thuyết ấy, biết được Sùng Chinh rất tin tưởng vào con Kỳ hươu này, nên nghĩ ra 1 kế, cho 1 đại sư về phong thủy của mình, lập kế chiếm được lòng tin tưởng của Sùng Chinh, sau đó mới xui Sùng Chinh xoay lại con Kỳ Hươu vào, hướng về nội đô. Vận khí nhà Minh đã hết ,và Sùng Chinh đã nghe lời xui khiến , và giặc giã nổi lên khắp nơi, đầu tiên là Sấm Vương Lý Tự Thành ( cũng là 1 anh hùng áo vải ), và sau đó là sự cố Ngô Tam Quế mở ải Sơn Hải Quan, dẫn Thanh binh nhập quan. Nhà Minh tuyệt diệt, Sùng Chinh phải tự tay chém Trường Bình công chúa rồi treo cổ tự vẫn. Đó là nguyên nhân vì sao Đại Thanh lên ngôi, cấm tuyệt dân gian dùng kỳ hươu, và vì sao trên đuôi cờ của Bát Kỳ ( 8 đạo quân thân vương ) đều có thêu hiệu kỳ hươu , bởi vì Kỳ hươu đã đem lại giang sơn cho bộ tộc Nữ Chân, 1 bộ tộc nhỏ, đã bắt 1 dân tộc Hán cúi đầu, thắt bím tóc ( ước gì các "bô lão " VN có kỳ hươu nhỉ - hihi ) Rất tiếc là con kỳ hươu 600 năm đó không thể chụp ảnh - Sau khi Hòa Thân chết đi, phủ Hòa Thân được Từ Hi thái hậu tặng cho Cúng Thân vương ( thưởng cho lòng trung thành của ông này trong cuộc dẹp biến cố chính trị ). Sau khi phát hiện ra kho tàng trong 1 hòn giả sơn trong Cúng vương phủ này, Từ hy đã khai quật và phát hiện ra 1 kho tàng bảo vật lớn hơn cả quốc khố của Hòa Thân, trong đó có 1 đôi Kỳ Hươu trấn giữ, từ đấy đôi Kỳ Hươu này lọt vào tay Từ Hy. Các bạn sẽ đặt câu hỏi, vì sao Kỳ hươu trấn giữ mà Hòa Thân sau này vẫn bị xử tội chết - như vậy thì linh nghiệm ở đâu. Xin thưa với tội lớn tày trời, tham ô tài sản lớn hơn cả quốc khố, vậy mà cuối đời sau khi Càn Long băng hà mới bị xử tội chết 1 mình, gia tộc vẫn bình an, thử hổi có phải là phúc trạch lớn đến nhường nào. Với thời bấy giờ, tội này phải diệt tộc rồi, âu cũng là có phước trong họa vậy. Lan man sang sử Tàu nhiều quá, có bác nào thích nói chuyện về sử Ta không vậy, 1 lịch sử cũng oai hùng lắm, kể từ thời Lĩnh Nam Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Có người Trung Quốc hỏi em : Trụ đồng Mã Viện đặt tại đâu và để làm gì ( vì trong sử Trung Quôc đoạn sử này cũng mơ hồ lắm ) có bác nào trả lời giúp em với. Hê hê bác có biết VN ta là đất địa linh nhân kiệt không, văn hóa VN có thua TQ bao giờ đâu. lịch sử VN ta oai Hùng lắm đấy, kỳ hươu thấm vào đâu. Thời An Dương Vương có ngài Lý Thân, là người được cử sang Tàu, giúp Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành, ngài là lưỡng quốc đại tướng quân giúp Tần Thủy Hoàng dẹp tan quân Hung Nô, về sau ngài về nước và mất, TTH phải cho người dựng tượng ngài bằng đồng, đặt lên VLTT, quân Hung Nô tưởng ngài còn sống, không dám xâm phạm Trung Nguyên. Thời Hai Bà Trưng lại càng oai hùng, khởi nghĩa đánh chiếm lại >60 thành trì, xưng là Trưng Vương, lãnh thổ VN kéo dài đến tận Hồ Động Đình ( nơi quốc tổ Lạc Long làm đám cưới với Quốc mẫu Âu Cơ ). Về sau vua Hán Quang Vũ cử Mã Viện ( là tướng tài bậc nhất thời đấy ) đánh dẹp, mà Mã Viện phải dùng đến tận thủ đoạn hạ lưu , cho quân lính cởi truồng đối trận với lực lượng nữ binh của hai Bà nên mới thắng lợi được, và dựng lên trụ đồng Mã Viện, khắc 5 chữ lên đó " Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt ", 1 hình thức trấn yểm để nước Nam không còn sản sinh nữ hào kiệt được nữa ( trụ đồng tượng trưng cho sinh thực khí đàn ông, lại cắm lên huyệt âm tượng đàn bà, hòng trấn yểm - ngày nay trụ đồng Mã Viện đặt ở đâu vẫn là điều nghi vấn cho những người yêu thích sử học. Thời Anh hùng Tiêu Sơn nhà Lý, đã từng xua quân đánh tan kho lương thảo của quân Nam Tống tích trữ trong 10 năm, đập tan chiến lược trữ lương chiếm nước ta của tể tướng Tống Vương An Thạch. Đến đời Trần, thái Sư Trần Thủ Độ, trong cuộc kháng Nguyên thứ nhất, đã đập tan sự kiêu hùng của đoàn Lôi Kỵ Mông Cổ ( trong lịch sử lần đầu tiên Lôi Kỵ Mông Cổ không còn đất dụng võ là tại VN ) và thời An Dương Vương , Cao Cảnh Hầu Cao Lỗ đã phát minh ra Nỏ thần ( liên châu tiễn ), và đời nhà Trần, hậu duệ của ngài đã phát minh ra Lôi Tiễn ( tiền đề cho tên lửa thời nay ), mà về sau, nhà Nguyên đã học hỏi và trang bị cho đoàn Lôi Kỵ vô địch của mình - từ đó Lôi Kỵ Mông Cổ lại càng đáng sợ hơn, vậy mà cuộc xâm lăng lần 2, lần 3 vẫn bị Tiết chế Quốc Công Hưng Đạo Vương đập tan, thử hỏi có oai hùng không bác. Thoát Hoan vì muốn thoát chết, thoát khỏi lôi tiễn, phải chui vào ống đồng chạy trốn. Đời Lê, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã đập tan đoàn quân hùng mạnh của nhà Minh, sau khi chiến thắng đã thả toàn bộ tù binh về nước, thử hỏi trong lịch sử các nước khác có nước nào làm nổi điều này không. lại nói Quang Trung đại đế, ngài là người duy nhất trong lịch sử dám cử sứ sang TQ gặp vua Càn Long & đưa ra 2 điều kiên : 1. Đòi cưới công chúa con Càn Long. 2. Đòi lại cố thổ VN bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây. Lần cử sứ sang TQ này thực ra là 1 cử chỉ gây hấn của ngài, để có cớ đem quân lên Phương Bắc tranh hùng. Trong lúc sứ đoàn đang tại TQ thì ngài băng hà, thật đáng tiếc làm sao. Người thời đấy vẫn thường nói rằng nếu Quang Trung sống thọ thêm 10 năm nữa, e rằng nước Nam ta sẽ có người làm vua xứ Bắc, tiếc thay. Cuộc đời binh nghiệp của ngài nổi tiếng với 2 chiến dịch Rạch gam - Sài mut ( không biết viết đúng chưa ) đập tan viện binh Xiêm La do Gia Long dẫn về, và cuộc hành binh thần tốc tiêu diệt 30 vạn quân Thanh do Lê Chiêu Thống dẫn về. Lý Công Uẩn vốn là nhà sư trên núi Tiêu Sơn, vì vậy nên ngoại sử gọi là triều đại Tiêu Sơn, cũng như nhà Trần gọi là Đông A, vì triết tự theo chữ Hán thì Đông A ghép lại là chữ Trần, triều đại Lĩnh Nam là thời Hai Bà Trưng. Cũng như vậy, nhà Đại Minh do Chu Nguyên Chương sáng lập, họ Chu này vốn là 1 giáo đồ của Minh Giáo Ba Tư, sau cuộc khởi nghĩa lật đổ nhà Nguyên, để ghi nhớ công ơn Minh Giáo và giáo chúng, họ Chu đã lấy quốc hiệu lạ Đại Minh. Điều này là lịch sử ghi nhận chứ không phải do em đọc Cô Gái Đồ Long của Kim Dung đâu nha. Còn về quốc hiệu của Đại Thanh, theo 1 anh TQ nói lại : sau khi Mông Cổ thôn tính xong Đại Kim quốc, có 1 bộ phận người Kim trốn thoát được , từ đó sản sinh ra bộ tộc Nữ Chân. Đến thời Minh mạt, bộ tộc này dã tâm thôn tính Trung thổ, nên đã nguyên cứu rất kỹ về văn hóa, binh lực, phong thủy Trung Quốc. Nhờ đó họ giỏi về văn hóa Trung Quốc lắm. Đại Minh vốn thoát thai Minh Giáo, theo ngũ hành thì là Hỏa ( Thánh hỏa lệnh Cô gái Đồ Long đó ) , còn Nữ Chân thì thoát thai từ Đại Kim, về ngũ hành Hỏa khắc Kim, không thể thôn tính được, vì thế bộ tộc Nữ Chân mới lấy hiệu là Đại Thanh, có nghĩa là nước, Thủy khác Hỏa. Bây giờ mọi ngượi đã hiểu bất cứ điều gì, người Trung Hoa đều suy xét đến tính lợi hại, sinh khắc của nó, cho dù là cái tên. Cũng như em mệnh hỏa, mà chạy xe xanh ----> hỏng suốt, hichic Đây là Đức Thắng Môn - Lầu Phong Thủy Đôi sư tử đá và kỳ lân tại Di Hòa Viên Đôi kỳ hươu đặt tại nhà hàng tại Bắc Kinh, luôn luôn hướng ra cổng để chiêu tài, gọi khách
  20. Chào chị Crescent. Sức khỏe chị dạo này có thay đổi đột ngột và khó ngũ từ khi chị biết tin có em bé phải không ? Vợ em lúc trước mang thai củng có tình trạng như chị lúc bấy giờ, thường thì khó ngũ khoảng 3 tháng đầu, dần dần mới đỡ hơn, 1 phần nữa là có thể do phòng bị bế khí gây nên tình trạng này, người ngũ thường ngũ rất say, sáng dậy cảm thấy mệt mỏi, nếu ở trên lầu có tình trạng này thì do cầu thang bị thoái khí.
  21. Lời dẫn: Huyền không phái Trung Châu mỗi đời chỉ truyền một đệ tử, từ Vương Đình Chi tiên sinh công khai thu nhận 40 đệ tử mà thuật phong thủy của phái mới được biết đến rộng rãi. Huyền không Trung Châu phối hợp cả loan đầu và lý khí, trong lý luận không xem nhẹ bên nào, chỉ loan đầu thôi tức có thể xác mà không có hồn, chỉ lý khí tức có hồn mà không thể xác. Trong cả hai trường hợp đều không dùng được, chỉ là nói suông mà thôi. Huyền là thời gian, không là không gian. Huyền không tức mối liên quan giữa thời gian và không gian vậy. Dưới đây là phần căn bản của Trung Châu huyền không lý khí, trong quá trình viết có thể những mục bên dưới sẽ được bổ sung thêm các phần liên quan cho hoàn chỉnh thêm, mỗi lần có bổ sung Nam Phong sẽ thêm bên dưới các đề mục này. Phần 1 Huyền không lý khí nhập môn hậu thiên cấp số hợp tiên thiên, bát quái cửu tinh nhất khí liên, tứ tượng trung ương quy bản vị, ngũ hành nội ngoại các hoàn nguyên, 1. cửu vận suy vượng luận sinh tử: 2. hạ quái và kiêm quái tinh bàn cách cục Điên điên đảo đảo địa phiên thiên, khí vận tuần hoàn lục thập niên, châu bảo hoả khanh phân đối diện, hoả khanh châu bảo cận thân biên, thế tinh chỉ dụng thập tam tinh ,  khước dụng tham lang phôi giáp thân . dụng thế cự môn nhâm mão ất ,  sửu cấn bính sơn thế phá quân . tốn quái tam sơn giai vũ khúc ,  canh dần hữu bật lưỡng tinh lâm dương thuận âm nghịch cách nhất vị ,  thị vi không vị kị lưu thần 3. hình lý phối hợp Kiền khôn biến hoá dịch môn khai, thiên địa nhân thông nhiệm vãng lai, cửu trực cửu hoành phân cửu diệu , tam kinh tam vĩ hợp tam tài, 4. thất tinh đả kiếp phân chân giả Thất tinh đả kiếp thiểu nhân tri, diệu nghĩa chung quy lưỡng ngộ thời, hoạ phúc quân phân bằng thiện ác, cát hung phán đoán hữu công tư, Ly cung tương hợp thuyết quân tri, lưỡng cá kim tinh tính thể thời, tế biện âm dương phân thuận nghịch, tường suy thiên địa hợp can chi, 5. thức đắc phụ mẫu tam ban quái ,dĩ thị chân thần lộ 6. liên châu cục 7. luận phục ngâm 8. luận phản ngâm 9. lưu thần ---dương thuận âm nghịch cách nhất vị 10. linh thần 、chính thần tương đắc Âm dương nhị tự lưỡng tinh thần, long thuỷ tương giao lý khí chân, khảm vị sinh lai vi chính hướng, ly cung khắc nhập thị linh thần, 11. âm dương tương đối ,toạ hướng hợp thập 12. thành môn nhất quyết tối vi lương 13. lệnh tinh nhập tù 14. ngũ vận trung bát thuần quái Phần 2 Trung Châu tam quyết 1. An tinh quyết 2. Bài long quyết 3. Thu sơn xuất sát quyết 1. cửu vận suy vượng luận sinh tử: Cửu tinh sinh vượng suy tử: Lập tinh bàn điều quan trọng trước hết là phải nhận biết sinh vượng suy tử của cửu tinh. Huyền không dùng 20 năm làm một vận, 3 vận tức 60 năm làm một nguyên, 9 vận cộng thành 3 nguyên. Hiện nay là vận 8 từ năm 2004 đến năm 2024, vận 8 thì Bát bạch Tả phụ là vượng tinh, cửu tử là sinh khí tinh. Vượng tinh của 9 vận liệt kê như bên dưới: nhất vận nhất bạch tham lang là vượng tinh       nhị vận   nhị hắc cự môn là vượng tinh       tam vận tam bích lộc tồn là vượng tinh       tứ vận tứ lục văn khúc là vượng tinh       ngũ vận   ngũ hoàng liêm trinh là vượng tinh       lục vận   lục bạch võ khúc là vượng tinh       thất vận   thất xích phá quân là vượng tinh       bát vận   bát bạch tả phụ là vượng tinh       cửu vận   cửu tử hữu bẫn là vượng tinh Sao đương vận là vượng tinh, 2 sao kế tiếp là sinh khí tinh, như vận 8 dùng cửu tử và nhất bạch; vận 9 dùng nhất bạch và nhị hắc. Tuy nhiên phải chú ý sự sinh khắc của vận tinh và sinh khí tinh. Như vận 8 dùng cửu tử thì tương sinh, dùng nhất bạch thì tương khắc. Như vận 9 dùng nhất bạch là tương khắc, các vận khác cũng suy như vậy. Luận sinh khí tinh như vận 8 dùng cửu tử thì tốt vì được sinh nhập, dùng nhất bạch lại không bằng do vừa là sao sinh khí xa vừa khắc xuất với sao đương vận. Có sinh vượng tất có suy tử, tại vận 8 thất xích là sao thoái khí, vô cát vô hung, các sao xa khác như lục bạch, ngũ hoàng, tứ lục, tam bích, nhị hắc là sao suy tử. Chú ý rằng sao thoái khí tuy tạm thời vô cát vô hung nhưng nếu hình thế tại nơi nó đóng xấu thì sẽ khởi phát hung tính và sao chuyển thành hung. Huyền không luận cát hung chủ yếu ở cửu tinh sinh vượng suy tử, âm đương hai trạch như nhau, cần tìm nơi sinh vượng khí để dùng, tránh nơi suy tử, là nguyên tắc chính. Cụ thể vận dụng thì âm dương hai trạch có những điểm không giống nhau. Khẩu quyết về định sinh vượng suy tử của cửu tinh: “đang vận giả vượng, tướng lai giả sinh. kỉ quá giả suy, cửu quá giả tử .” Tiên thiên hậu thiên hỗ dụng Phần trên trình bày thì cửu tinh mỗi vận chỉ dùng được nhiều lắm là tam tinh, riêng thoái khí tinh nếu ở tình thế chẳng thể khác cũng có thể miễn cưỡng mà dùng. Trung Châu Huyền không dụng tinh không chỉ bấy nhiêu đó mà xem cụ thể vấn đề tiên thiên hậu thiên hỗ trợ với nhau mà dụng tinh “tiên thiên, hậu thiên bát quái phương vị tác vi biến thông chi đạo lai thủ dụng” như sau: Như hiện nay vận 8 vượng tinh là Bát bạch tại hậu thiên Cấn cung, Cấn cung hậu thiên tại tiên thiên là Chấn nên Tam bích cùng Bát bạch là thông khí tinh, Cấn cung tiên thiên tại hậu thiên là Càn nên Lục bạch cùng Bát bạch là thông khí tinh. Nên vận 8 ngoài các sao Bát bạch, Cửu tử, Nhất bạch, Thất xích thì khi phối hợp dùng tinh thông khí thì Tam bích và Lục bạch đều nên dùng. Nên nhớ khi dùng các tinh thông khí thì phải kết hợp với sao nguyên vận, không dùng các sao thông khí một cách riêng lẻ được. Các vận khác cũng theo như thế. Để các bạn đỡ mất thời gian tôi đã tính sẵn các Nguyên vận Tiên thiên Hậu thiên đối ứng thông khí như sau: nhất vận: 1 thông cùng 2,7 nhị vận: 2 thông cùng 1,4 tam vận: 3 thông cùng 8,9 tứ vận: 4 thông cùng 2,7 ngũ vận: 5 thông cùng 2,8(vì Ngũ hoàng ký thác nơi Khôn Cấn) lục vận: 6 thông cùng 8,9 thất vận: 7 thông cùng 1,4 bát vận: 8 thông cùng 3,6 cửu vận: 9 thông cùng 3,6 Để cửu tinh sinh vượng phát huy được mức tối đa thì nên chú ý vấn đề sinh khắc. Như phòng ốc thì chọn nơi sơn tinh sinh vượng nhưng phải chú ý không nên để hướng tinh khắc sát sơn tinh, nếu khắc sát thì vượng tinh sơn khó phát huy được tác dụng cao. Làm cửa đường đi thì chọn nơi sinh vượng của hướng tinh nhưng phải chú ý không nên để sơn tinh khắc sát hướng tinh, nếu khắc sát thì vượng tinh hướng khó phát huy tác dụng cao. Nếu có tình huống khắc sát xảy ra phải hóa giải, lấy câu “chế không bằng hóa” mà dùng.2. hạ quái và kiêm quái tinh bàn cách cục Điên điên đảo đảo địa phiên thiên, khí vận tuần hoàn lục thập niên, châu bảo hoả khanh phân đối diện, hoả khanh châu bảo cận thân biên, La bàn 360 độ chia ra 8 cung 24 sơn, mỗi sơn 15 độ. Tính từ trung tâm mỗi sơn qua hai bên 4,5 độ, tức 9 độ giữa mỗi sơn thì dùng Hạ quái. 6 độ còn lại của mỗi sơn(3 độ mỗi bên biên của sơn) thì dùng Thế quái(còn gọi kiêm hướng). Cụ thể nhị thập tứ sơn mỗi sơn hạ quái thế quái độ số như sau: Cung Khảm: Nhâm sơn 337.5 độ đến 352.5độ. 340.5 đến 349.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Tý sơn 352.5 độ đến 007.5độ. 355.5 đến 004.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Quý sơn 007.5 độ đến 022.5 độ. 007.5 đến 019.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Cung Cấn: Sửu sơn 022.5 độ đến 037.5 độ. 025.5 đến 034.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Cấn sơn 037.5 độ đến 052.5 độ. 040.5 đến 049.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Dần sơn 052.5 độ đến 067.5 độ. 055.5 đến 064.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Cung Chấn: Giáp sơn 067.5 độ đến 082.5 độ. 070.5 đến 079.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Mão sơn 082.5 độ đến 097.5 độ. 085.5 đến 094.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Ất sơn 097.5 độ đến 112.5 độ. 100.5 đến 109.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Cung Tốn: Thìn sơn 112.5 độ đến 127.5 độ. 115.5 đến 124.5 ñoä duøng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Tốn sơn 127.5 độ đến 142.5 độ. 130.5 đến 139.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Tị sơn 142.5 độ đến 157.5 độ. 145.5 đến 154.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Cung Ly: Bính sơn 157.5 độ đến 172.5 độ. 160.5 đến 169.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Ngọ sơn 172.5 độ đến 187.5 độ. 175.5 đến 184.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Đinh sơn 187.5 độ đến 202.5 độ. 190.5 đến 119.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Cung Khôn: Mùi sơn 202.5 độ đến 217.5 độ. 205.5 đến 214.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Khôn sơn 217.5 độ đến 232.5 độ. 220.5 đến 229.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Thân sơn 232.5 độ đến 247.5 độ. 235.5 đến 244.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Cung Đoài: Canh sơn 247.5 độ đến 262.5 độ. 250.5 đến 259.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Dậu sơn 262.5 độ đến 277.5 độ. 265.5 đến 274.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Tân sơn 277.5 độ đến 292.5 độ. 280.5 đến 289.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Cung Càn: Tuất sơn 292.5 độ đến 307.5 độ. 295.5 đến 304.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Càn sơn 307.5 độ đến 322.5 độ. 310.5 đến 319.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Hợi sơn 322.5 độ đến 337.5 độ. 325.5 đến 334.5 độ dùng hạ quái ai tinh. Hai biên 3 độ khởi thế quái ai tinh . Hạ quái tinh bàn an tinh pháp: Huyền không phong thuỷ tinh bàn bao gồm vận tinh bàn, sơn tinh bàn, hướng tinh bàn phối hợp phán đoán cát hung Vận tinh bàn: Huyền không chia 180 năm thành 3 nguyên 9 vận, mỗi vận 20 năm do một sao quản vận nhập trung cung thuận phi theo lường thiên xích gọi là vận tinh bàn. Như hiện nay thuộc về Hạ nguyên vận 8(từ 2004 đến 2024). 9 Vận tinh bàn: nhất bạch tham lang quản nhất vận, giáp tý giáp tuất 20 năm 9---5---7 8---1---3 4---6---2 nhị hắc cự môn quản nhị vận, giáp thân giáp ngọ 20 năm 1---6---8 9---2---4 5---7---3 tam bích lộc tồn quản tam vận, giáp thìn giáp dần 20 năm 2---7---9 1---3---5 6---8---4 tứ lục văn xương quản tứ vận, giáp tý giáp tuất 20 năm 3---8---1 2---4---6 7---9---5 ngũ hoàng liêm trinh quản ngũ vận, giáp thân giáp ngọ 20 năm 4---9---2 3---5---7 8---1---6 lục bạch vũ khúc quản lục vận, giáp thìn giáp dần 20 năm 5---1---3 4---6---8 9---2---7 thất xích phá quân quản thất vận, giáp tý giáp tuất 20 năm 6---2---4 5---7---9 1---3---8 bát bạch tả phụ quản bát vận, giáp thìn giáp dần 20 năm 7---3---5 6---8---1 2---4---9 cửu tử hữu bật quản cửu vận, giáp thân giáp ngọ 20 năm 8---4---6 7---9---2 3---5---1 Sơn-Hướng tinh bàn: Căn cứ vào thời gian hiện tại thuộc vận nào và sơn(phía hậu của trạch mộ), hướng do sao nào đóng mà đem hai sao ấy nhập trung cung cùng sao vận. Trung Châu Huyền không quy ước sao bên trái là sao sơn, sao bên phải là sao hướng, phân mỗi cung 3 sơn thành Địa nguyên-Thiên nguyên và Nhân nguyên đếm theo thứ tự từ bên trái qua, như cung Khảm thì sơn Nhâm là Địa, Tý là Thiên, Quý là Nhân; cung Cấn thì Sửu là Địa, Cấn là Thiên, Dần là Nhân… Dựa vào sơn hướng thuộc Địa, Thiên hay Nhân nguyên mà xem Địa, Thiên hay Nhân nguyên tương ứng của sao sơn hướng để nhận âm dương, nếu là âm thì sao sơn hoặc hướng ấy sẽ phi ngịch 9 cung(theo chiều giảm dần), nếu là dương thì sao sơn hoặc hướng ấy sẽ phi thuận 9 cung(theo chiều tăng dần như vận bàn). Thứ tự phi tinh là đầu tiên ở Trung cung->Tây Bắc->Tây->Đông Bắc->Nam->Bắc->Tây Nam->Đông->Đông Nam. Âm dương các sao: Sao 1, 3, 7, 9: Địa-Dương; Thiên,Nhân-Âm Sao 2, 4, 6, 8: Địa-Âm; Thiên, Nhân: Dương Sao 5: xem trung cung sao vận là sao nào thì lầy âm dương theo sao đó. Ví dụ vận 8 đo hướng được 176 độ, tọa sơn thuộc sơn Tý, cung Khảm; hướng thuộc sơn Ngọ, cung Ly. Vận bàn: 7---3---5 6---8---1 2---4---9 Sơn bàn: Lấy 4 là sao tọa sơn nhập trung cung, vì sơn Tý thuộc Thiên nguyên nên sao 4 lấy âm dương theo Thiên nguyên của 4 tức là dương, phi thuận: 3---8---1 2---4---6 7---9---5 Hướng bàn: Lấy 3 là sao đầu hướng nhập trung cung, vì sơn Ngọ thuộc Thiên nguyên nên sao 3 lấy âm dương theo Thiên nguyên của 3 tức là âm, phi nghịch: 4---8---6 5---3---1 9---7---2 Tổng hợp tinh bàn như sau: 174---838---156 265---483---611 729---947---592 Thế quái tinh bàn an tinh pháp: Khi sơn hướng lệch khỏi trung tâm sơn 4,5 độ thì không dùng cách khởi tinh bàn Hạ quái như bên trên mà phải dùng Thế quái: Trung Châu phái sở truyền dùng thế quái phép tắc như sau: - Trong một cung, âm kiêm âm, dương kiêm dương không dùng thế tinh, âm dương tương kiêm mới dùng thế tinh: Như cung Khảm Tý sơn với Quý sơn đồng thuộc âm, Nhâm sơn là dương. Nếu kim la bàn ở Tý nhưng lệch hơn 4,5 độ tính từ trung tâm của sơn, lệch về bên Quý sơn thì không dùng thế tinh do Tý và Quý đều là âm, vẫn dùng Hạ quái khởi tinh như bên trên. Nếu lệch về bên Nhâm sơn thì dùng thế quái do Nhâm Tý là âm dương tương kiêm. - Xuất quái phải thế, không cần xét âm dương: Như Quý sơn khi kim la bàn lệch hơn 4,5 độ tính từ trung tâm của sơn về phía bên Sửu thì dù Quý và Sửu đều là âm vẫn dùng thế tinh do Quý thuộc về Khảm, Sửu lại thuộc về Cấn. Trung Châu phái mật truyền khẩu quyết thế quái như sau: “Thế tinh chỉ dụng thập tam tinh ,  khước dụng tham lang phôi giáp thân . dụng thế cự môn nhâm mão ất ,  sửu cấn bính sơn thế phá quân . tốn quái tam sơn giai vũ khúc ,  canh dần hữu bật lưỡng tinh lâm dương thuận âm nghịch cách nhất vị ,  thị vi không vị kị lưu thần “ Dịch nghĩa: Thế tinh chỉ dùng 13 sơn, các sơn còn lại không dùng thế mà dùng Hạ quái. Giáp Thân sơn dùng Tham lang thế, tức dùng 1 nhập trung phi động. Nhâm Mão Ất sơn dùng Cự Môn thế, tức dùng 2 nhập trung phi động. Sửu Cấn Bính sơn dùng Phá quân thế, tức dùng 7 nhập trung phi động. Thìn Tốn Tị sơn dùng Vũ khúc thế, tức dùng 6 nhập trung phi động. Canh Dân sơn dùng Hữu bật thế, tức dùng 9 nhập trung phi động. (Riêng 2 câu cuối đến phần Lưu thần sẽ giải thích rõ) Như vận 8 Giáp sơn Canh hướng kiêm Dần Thân: Vận tinh bàn: 7---3---5 6---8---1 2---4---9 Sơn tinh bàn: Giáp kiêm Dần do kiêm xuất quái nên phải dùng thế tinh, sơn tinh 6 tại Địa nguyên long là sơn Tuất, Tuất trong khẩu quyết không có thế tinh nên vẫn dùng 6 nhập trung, Tuất là âm nên phi ngịch 7---2---9 8---6---4 3---1---5 Hướng tinh bàn: Canh kiêm Thân do kiêm xuất quái nên phải dùng thế tinh, hướng tinh 1 tại Địa nguyên long là sơn Nhâm, Nhâm dùng Cự môn thế(2), vì Nhâm dương nên 2 nhập trung thuận phi: 1---6---8 9---2---4 5---7---3 Tổng hợp tinh bàn 771---236---958 869---682---414 325---147---593 (phần này còn thêm: Huyền không hạ quái tinh bàn tứ cục. Độ số la bàn tọa hướng không thể dùng) Nguồn: Huyenkhonglyso.com
  22. Kính Gửi huynh Hoàng Triệu Hải. Phân cung 24 sơn. Từ tâm nhà ra cửa chính 304 độ. Đai Môn nằm ở 2 sơn Tân và Dậu, Nhân Nguyên Long (-) Cửa chính nằm ở 3 cung Tân, Tuất , Càn Thiên Nguyên Long. Chân thành cám ơn huynh đã quan tâm đến bài viết
  23. Tiếng mèo gào thét giữa đêm khuya mỗi lúc một dồn dập. Cả nhà bà Cả Lâm đều thức giấc. Bà Cả bảo con trai: -Thằng Nam đâu, mầy ra đuổi mấy con mèo đi cho tao. Chó tháng ba, gà tháng bảy. Chó với mèo một thứ, chắc con mèo cái nhà mình gặp chú đực nào rồi. Anh Nam vác gậy lặng lẽ đi ra, tay cầm theo một cái hộp quẹt. Hướng về phía có tiếng mèo gào, anh đi thật chậm như một tên ăn trộm đi rình nhà. Qua một chòm bưởi, rồi một đám xả, anh đi lần đến bờ ao. Tiếng kêu la của con mèo mỗi lúc một rõ hơn khi anh đến bên một gốc ổi thấp, rườm rà, chỉ cách bờ ao chừng năm bước. Nhìn vào chỗ có tiếng mèo kêu, anh thấy có sự cử động, nhưng ánh trăng hạ tuần tháng Ba không đủ soi sáng cho anh thấy rõ con vật. Anh cố mở to mắt nhìn thật kỹ, nhưng chỉ thấy có một mình con mèo Mun của nhà anh, không thấy con mèo nào khác. Bỗng anh nghe có tiếng thở phì phì, rồi con mèo của anh kêu dữ dội hơn. Tò mò, anh bò sát lại gần và anh ngạc nhiên biết bao nhiêu khi thấy con mèo nhà anh đang bị một con rắn to quấn chặt. Làm sao đây. Anh rút gậy định đập, nhưng đập chết con rắn thì cũng chết con mèo, mà anh thì không muốn giết oan con mèo bắt chuột giỏi nhất nhà anh. Anh chợt nhớ đến chuyện rắn và mèo bắt cặp và đây là lần thứ nhất anh được gặp. Mèo sẽ sinh ra mèo con, nhưng chắc chắn trong đám mèo con này thế nào cũng có một con linh miêu. Linh miêu chính là con của rắn và mèo. Ai cũng sợ Linh miêu vì nuôi nó trong nhà sẽ có nhiều hậu họa. Hậu họa thứ nhấ là nó thích chơi vơi rắn, không khéo thì chủ nhà có ngày sẽ bị rắn cắn. Hậu họa thứ hai là khi trong nhà có người chêt thì phải canh chừng xác chêt thật kỹ, nếu để cho linh miêu nhảy qua xác chết thì xác chêt sẽ bật dậy, chạy đụng người nào thì người đo sẽ chết theo. Anh Nam đánh diêm lên. Ánh lửa lóe lên, soi sáng một vùng. Con rắn rút mạnh thân lại, vươn mình lên, rồi buông lỏng con mèo. Mèo rú lên một tiếng, phóng mình chạy tuốt. Con rắn ngẩng đầu lên thủ thế, sợ bị tấn công, rồi nhanh nhẹn phóng mình về phía gò mả cách nhà chừng trăm bước. Anh Nam đứng nhìn theo. Con rắn hổ mây to quá khiến anh bủn rủn cả tay chân, không dám đập. Thế rồi sau đó hơn 3 tháng, con mèo Mun sanh ra một bầy 5 con, con nào cũng đen mun. Chỉ có một con ức và cổ có khoan như khoan rắn hổ mây. Theo lời thuật của anh Nam, bà Cả Lâm nghi con mèo đó là con linh miêu, nên khi bà Cai Tổng Bá hỏi xin là bà tặng cho liền, còn lì xì thêm một con nữa cho có bạn ... Cả làng đều rộn rịp. Ông Cai Tổng Bá vừa mới mất và định đến 3 giờ khuya đêm đó thì tẩn liệm. Quan khách thăm viếng tấp nập cả ngày vì ông Cai Tổng là người có thân thế lớn. Nhưng đến chiều thì thưa dần, và độ 9 giờ đêm thì vắng hoe. Bà Cai Tổng đang ngồi nhai trầu bên ván, nước mắt còn ràn rụa. Chỗ bà ngồi cách nơi để xác ông Cai chờ tẩn liệm, chừng mười bước. Phía ngoài, cô gái lớn ông Cai và cậu Út hãy còn thức, đang làm thịt gà để lo lễ thành phục sáng hôm sau. Bỗng bà Cai thấy một cái bóng thoáng qua. Rồi có tiếng kêu "meo meo". Bà sợ hết hồn vì nhớ đến chuyện Lnh miêu. Nhưng bà định tĩnh, nhìn về chỗ bộ ván đặt xác chồng. Một con mèo đen từ phía bên vách đi ra. Đúng là con mèo mun có khoan cổ mà bà đã xin của bà Cả Lâm. Con mèo kêu lên ba tiếng rồi phóng mình qua xác ông Cai, biến đi mất trong bóng đêm. Bà Cai run lên bây bẩy khi thấy xác chồng ngồi bật dậy, tốc chiếc mền đỏ, và với đầu tóc dái rũ rượi, đứng lên. Xác chết vừa bước xuống đất thì bà Cai kêu lên một tiếng thất thanh rồi ngất xỉu. Nghe tiếng mẹ kêu, cô con gái lớn và cậu con trai Út vừa định nhảy vào trong thì thấy ông Cai đầu tóc rũ rượi, mặc toàn đồ trắng, chân đi hổng mặt đất, lững thững bước ra. Thằng bé run cầm cập, nép vào mình chị nó. Cô chị lính quýnh chẳng còn biết chạy đâu, và khi thấy ông Cai đi về phía mình, chị chụp lấy chén huyết gà để trên bàn, ném vào. Huyết văng tung tóe và xác ông Cai tự nhiên ngã xuống. Cô gái lôi em phóng ra ngoài, không dám nhìn lại phía sau... Rồi từ đó chuyện Linh miêu xuất hiện xảy ra như cơm bữa. Tại nhà ông Xã Tuấn, khi bà vợ vừa nằm xuống và ông sư đến lo tụng niệm để chuẩn bị nhập quan, thì "mèo khoang" xuất hiện nhảy qua xác chết bà Xã. Bà ngồi dậy, rượt ông sư chạy bỏ dùi quăng mõ, và mãi đến khi gặp một mương vườn, bà mới nhảy tòm xuống mương và chết thiệt. Tại nhà ông Hương Tuần Ban, xác chết đứa con trai lớn vừa đặt vô hòm là linh miêu phóng qua. Cậu con từ trong quan tài ngồi dậy, rồi bước ra ngoài, rượt mọi người chạy tán loạn. Mãi khi đụng phải một gốc cây, cậu mới lăn ra, chết luôn. Cứ thế, cả làng Hậu Đức ai nấy đều hoảng vía. Nghe có người chết thì y như là con mèo thiêng xuất hiện, và Linh miêu xuất hiện khiến cho lắm người phải cười đau khóc hận. Con gái Hương Quản Tân bị xác chết rượt ngã xuống sông chết theo, bà Chánh Bái Dần 80 tuổi bị xác ma đuổi, ngã trợn trắng, rồi chết luôn.... Dân làng cho đi rước pháp sư Long từ núi Cấm đến. Ông thầy pháp biết rõ chuyện linh miêu nên nhứt định đi lùng con mèo mắc dịch. Ông đi Đông thì nó sang Tây, ông qua Nam thì nó chạy Bắc, chưa lần nào thầy với mèo gặp nhaụ Một bữa thầy Ba Long đi lùng về đêm, tự nhiên bị mèo từ mái nhà đổ xuống, quào thầy rách cả mặt, cắn thầy mấy vết ở cổ, rồi chạy luôn. Thầy tức giận đi lùng dữ hơn thì mèo biến mất, cả tuần không thấy xuất hiện. Rồi bỗng nhiên có tin đồn: xóm miếu đầu làng có ma xuất hiện. Mấy cô gái làng đi chơi về đêm nghe tiếng mèo kêu thảm thiết, rồi thấy hai ánh mắt chiếu vào mình và có một sức thu hút kỳ lạ . Thế rồi hai ánh mắt cứ đờ ra, cứ lùi dần, lùi dần, mãi cho đến khi biến mất, thì có mấy tên mặt mày hung tợn chụp lấy họ, nhét đất sét đầy cả họng. Hai cậu trai làng đi chơi khuya về gặp một cô gái đẹp đang nhởn nhơ bên xóm miếu. Trong làng họ chưa thấy cô gái nào đẹp như thế bao giờ. Cô gái nghiêng mình chào hai cậu, rồi như có sức mạnh gì thu hút, dẫn hai cậu đi đến một quán trọ đèn đuốc sáng trưng. Cô gái rót rượu mời hai cậu, lấy bánh cho hai cậu ăn. Hôm sau, người nhà đi tìm, gặp hai cậu nằm chèo queo trong khu mộ hoang bên xóm miễu, cậu nào miệng cũng đầy đất sét, chỉ còn thoi thóp thở. Dân làng lo sợ và hoang mang lắm, cử người đến núi ông Cẩm để thỉnh thầy Tư Minh, một pháp sư nổi danh mới xuất hiện. Thầy dặn mọi người cứ im lặng, đừng nói gì đến sự có mặt của thầy trong làng. Thế mà chỉ mới hôm sau là thầy bị ném đá vào lưng khi đi tìm tông tích mèo, rồi hôm sau nữa, thầy bị một nhánh cây gẫy, rơi ngay xuống đầu. Biết là linh miêu muốn đuổi khéo mình nhưng thầy không sợ. Thầy nhứt định tìm cách trừ cho được con ma mèo ác hại này. Thầy tìm hỏi về tung tích của "con mèo có khoang cổ", biết nó sinh ra từ gia đình bà Cả Lâm, rồi được bà Cai Tổng Bá xin về nuôi. Sau vụ dựng xác ông Cai Tổng dậy thì mèo đi hoang, nghe thấy nhà nào có người chết là vào quấy phá, và khi bị thầy pháp bố ráp mà không trừ nổi, đã hóa thành mèo tinh, có thể biến hóa, sai khiến bọn ma quỉ dễ như chơi. Thầy Tư Minh liền đến nhà bà Cả Lâm, hỏi thăm tin tức về con mèo me. Thầy hỏi nhỏ với bà Cả: -Phải bắt cho được con mèo mẹ và con rắn cha thì mới diệt được con mèo tinh. Nhưng từ hôm thầy đến nhà bà Cả, không ai còn thấy bóng dáng con mèo có khoan cổ đâu nữa. Thầy Tư Minh liền mời dân làng lại, và theo lời anh Nam, con trai bà Cả, đi ra xóm gò mả để bắt rắn và mèo. Dân làng bao vây gò mả đuổi ráo riết thì thấy con mèo mun xuất hiện. Mấy anh trai làng nhảy ra đập cho con mèo một cái nhào.mèo. Cái khó là đi tìm con rắn hổ mây. Tuy đã biết chỗ rồi, nhưng thầy Tư Minh cũng phải đi xem từng xó một cho đến khi thấy một hang rắn lớn. Thầy liền lấy trong túi ra một củ ngải, nhai thật nhỏ, nhổ vào tay mình và chà khắp từ hai bàn tay lến đến cánh tay, ai thấy cũng le lưỡi, lắc đầu. Xong, thấy đến trước cửa hang vỗ nhẹ ba cái, rồi lại vỗ thêm ba cái nữa. Tự nhiên, từ trong hang nghe có tiếng thở phì phò, rồi một con rắn hổ mây to, cổ có khoan, xuất hiện. Thầy Tư Minh đưa tay chụp cổ con rắn bỏ vô bao. Con rắn dài hơn hai thước, thân lớn hơn bắp tay ai nhìn mà không sơ. Thầy kề tai anh Nam, con bà Cả Lâm, bảo nhỏ: -Hãy về loan tin là anh đã chết. Mèo tinh sẽ đến. Chiều hôm đó, tin anh Nam chết được loan tin đi khắp làng. Nơi ván giữa anh Nam nằm xuội lơ như xác chết, thân phủ một chiếc mền nhung xanh chờ tẩm liệm. Thầy Tư Minh giả làm một người trong nhà, mang cung ngồi bên cửa phòng nhìn ra ván giữạ Chín giờ, mười giờ, rồi đến 2 giờ đêm. Bỗng có tiếng "meo meo" trên trính, bóng mèo phóng xuống bàn cạnh bên ván giữa và sát bên cửa. Thầy Tư Minh lắp tên, bắn ra một phát. Chỉ nghe một tiếng "meo", rồi con mèo tinh nằm dẫy chết cạnh bên anh Nam. Anh ngồi dậy. Mọi người định bỏ chạy, nhưng chợt nhớ ra là anh chưa chết, nên thôi. Nhưng chuyện Linh miêu tới đó vẫn chưa dứt. Sáng hôm sau, thầy Tư Minh cho mời mọi người trong nhà đến, và hỏi: -Xác con mèo tinh đâu ? Mọi người nhìn nhau, không hiểu thầy Tư hỏi xác con mèo để làm gì. Chị Ba Bành nói: -Tôi vứt xác nó xuống sông rồi. Thầy Tư lắc đầu: -Chết nữa rồi! Loại mèo tinh chỉ hết phá phách khi nào xác nó bị tiêu tan ra tro bụi. Chị vứt xác mèo xuống sông, nó sẽ trôi theo dòng nước, đi phá các dân chúng các làng khác. Làm sao đây? Ai nấy đều nhìn thầy như cầu cứu. Thầy Tư phủi tay đứng lên. Thầy đi ra phía sau nhà, nhìn xuống dòng sông đang cuộn chảy. Rồi thầy thở dài. Chiều hôm đó, thầy lặng lẽ đi qua làng bên, tìm một nhà quen để ở ẩn. Thầy dặn không ai được tiết lộ tin tức của thầy. Tối hôm đó có tin một đứa bé bị chết. Rồi xác nó bị một con mèo ma nhảy qua và sống lại, rượt mọi người chạy có cờ. Hôm sau, lại có tin một người đàn bà chết, rồi lại bị ma mèo nhảy qua xác chết của chị, khiến chị ngồi dậy, chạy quanh, rồi đụng vào một gốc dừa, và chết thật. Từ làng kế cận cũng có tin con "mèo có khoang cổ" xuất hiện, có tin thây ma rượt người. Sáng hôm đó, thầy Tư Minh đi gặp thầy Hương Quản sở tại. Thầy nói: -Xin thầy Hương Quản hãy cùng tôi tìm cách để diệt con mèo tinh. Thầy Hương Quản hỏi: -Diệt bằng cách nào? Tôi có súng hai nòng, nhưng có thấy nó đâu mà bắn. Thầy Tư lắc đầu, rồi cùng thầy Hương Quản về nhà. Tối hôm đó có tin là có 2 người chém nhau, kẻ đứt cổ, người banh ruột. Thầy Hương Quản ra lịnh cho Hương tuần đi chở hai xác chết về nhà việc, rồi thầy và thầy Tư Minh cùng đi ra đó. Hai xác chết được chở về nhà việc. Thầy Tư Minh nghĩ thầm: "Đêm nay thế nào con mèo tinh cũng đến phá." Và thầy lặng lẽ ghim cung chờ sẵn. Thầy Hương Quản thì ôm chặt cây súng hai nòng. Tuy nhiên trong bụng thầy vẫn cứ run. Súng là để trừ người sống bị phạm tội sát nhân, chớ làm sao trừ được tinh ma, quỷ quái. Thời gian trôi qua. không thấy gì cả. đã 2 giờ đêm rồi, có ai thấy gì đâu? Thầy Hương Quản ôm súng, gục đầu bên cạnh cửa, ngáy pho pho. Nhưng thầy Tư Minh hãy còn thức. Thầy giương cung chờ sẵn. Bỗng có tiếng "meo", rồi một con mèo từ trên trính đi ra. Mắt nó sáng ngời, trông rất dễ sơ. Nhưng thầy Tư không sợ, theo dõi con mèo ngay lúc đó, đúng là con mèo có khoang cổ. Nó từ trính nhà đi xuống, phóng qua cánh cửa chỗ thầy Hương Quản đang ngủ. Thầy Hương Quản giật mình, quơ súng nổ liền 2 phát. Dĩ nhiên là thầy bắn hoảng, nên không trúng con mèo. Nó bị bắn bất ngờ, nên nhảy xuống cái bàn có để cây đèn tọa đăng. Vì quýnh quáng, nên nó làm ngã cây đèn. Lửa bốc cháy. Thầy Tư Minh nhờ có ánh lửa, nên trông rõ con mèo hơn. Mũi tên của thầy bắn ra, trúng ngay vào nó. Con vật ngã lăn xuống đất, giẫy tê tê. Nhưng lửa đã bốc mạnh. Thầy Tư Minh và thầy Hương Quản đành phải nhảy ra ngoài, để mặc cho lửa hỏa thiêu hết ngôi nhà việc lớn của dân làng. Gần sáng hôm sau thì lửa mới tắt. Tất cả chỉ là những dúm tro tàn. Hai xác chết, xác con mèo chỉ là tro bụi. Thầy Tư Minh thở dàI khoan khoái: -Thế là hết chuyện Linh miêu rồi. Nhưng thầy Hương Quản thì lắc đầu: -Thật là khổ cho tôi. Lấy gì làm bằng chứng là nhà việc cháy vì con mèo tinh gây ra Thầy Tư vỗ vai thầy Hương Quản: -Thôi, mình ra chợ uống một chầu cà phê cho tỉnh đi, thầy Hương Quản. Lên quan, tôi sẽ là người làm chứng cho thầy. Nguồn: thegioivohinh.net
  24. Kính Gửi Huynh Ninh Thuận. Nhà Trung Ba, Mẹ, Trung phi cung Khôn, Bà chị Lớn phi cung Cấn, Vợ Trung : Chấn, thằng nhóc nhỏ phi cung Ly theo Tàu, theo LV Đoài. Cám ơn huynh Ninh Thuận
  25. Kính Gửi Huynh Ninh Thuận. Tính theo Huyền Không Lạc Việt thì Hướng đựoc cặp sao 1-4, về đường học vấn, 4 đại diện cho bà chị lớn trong nhà. Mặc dù công danh thì bà chị này đã có rồi nhưng về vấn đề học vấn thì lại rớt, mặc dù học lực rất giỏi. Vửa qua bà chị đã thi rớt 2 lần Đại Học.