Vo Truoc

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    787
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    13

Everything posted by Vo Truoc

  1. Với tư cách lả học thuyết bao trùm, học thuyết ADNH không có bất cứ một giới hạn nào cả. Ngày nay, mọi học thuyết dù hiện đại hay điên rồ nhất cũng đều có giới hạn cả. Chỉ riêng học thuyết ADNH là không có giới hạn mà thôi, nó hiệu quả ở mọi nơi, mọi lúc trong tất cả các lĩnh vực dù khác biệt đến đâu đi chăng nữa.
  2. Anh Thiên Sứ thân mến! Có lẽ anh nên cập nhật lại lý thuyết này. Các số liệu và nội dung của nó đã khác xưa rất xa. Kính anh!
  3. Khổng Minh không phải không hiểu cái lý "tan hợp", cũng không phải không biết cái chữ "gặp chủ" cũng như chữ "gặp thời" như Tư Mã Huy hay bọn Thôi Châu Bình, Thạch Quảng Nguyên ... bởi vì đó cũng là những luận điểm cơ bản của học thuyết mà ông rất giỏi. Hơn nữa, những cao nhân đó cũng là những người bạn tri giao của ông từ lâu, từ thuở hàn vi, không dám tự nhận tài trí hơn ông. Ông không lạ gì quan điểm, tài năng của họ và họ cũng thế, chẳng lạ quan điểm và tài năng của ông. Nhưng ông có quan điểm hành xử của mình. Chúng ta khác ông quá nhiều thứ, từ tài năng, đạo đức, nhận thức, thời cuộc, .... khó mà có thể nghị luận khách quan được. "Hai đằng khó sánh hiền ngu Đều làm cho thỏa được như ý mình" (Nguyễn Trãi) Người ta ở đời rốt cục cũng trở về với Đất. Chỉ cần "cúc cung tận tụy" thực hiện cái chí của mình còn như thành công hay thất bại là việc của Trời miễn không thẹn với lòng là được. Vì thế, tiếng thơm của ông được truyền mãi muôn đời. Ngày nay, dạo qua một vài diễn đàn, thấy một số "trẻ trâu" ... cũng bày đặt chê bai, bình phẩm về ông tùm lum ... mà thấy thật ... xấu hổ. Đúng là những con gà ghẻ chê bai công phượng sao không có cái "dung nhan đẹp đẽ" như của chúng !!!
  4. Đúng thế. Em hiểu. Chỉ vì thấy anh có vẻ sốt ruột, mệt mỏi nên em nói thế thôi. Chứ trên đời này không có hành động nào, tư tưởng nào không tác động tới xung quanh cả. Những luận điểm của anh có không ít người quan tâm đâu nhưng chưa phải lúc kết trái. Kính anh!
  5. Anh Thiên Sứ thân mến! Quan điểm phủ nhận luật nhân quả của thuyết tương đối, theo em, là một quan điểm “đệ nhất mê tín” tự cổ chí kim trong xã hội loài người của những nhà khoa học, những người luôn tự coi mình là … khoa học … không mê tín!!! Quan điểm này thậm chí không tồn tại trong những tôn giáo, những câu chuyện cổ tích … mê tín nhất mà người ta từng biết ! Người ta có thể tin rằng cái đinh sẽ tự chui vào miếng gỗ trước khi cái búa nện vào đít nó còn hơn là nghi ngờ xem, liệu có sự không chính xác nào trong các luận điểm lý thuyết khoa học hay không … Người ta thí nghiệm và quan sát thấy một số hiện tượng có qui luật trong không gian và hoàn cảnh của mình rồi vội vã tổng quát hóa cho toàn … Vũ trụ.. Với phương pháp nghiên cứu “mê tín” như thế thì gặp mâu thuẫn là điều tất yếu. Nhưng khổ một nỗi là khi gặp các mâu thuẫn đó, thay vì binh tĩnh lại, xem xét cái cơ sở khoa học của mình nó có cái gì không ổn, xem xét những ý kiến khác nhau, thì người ta lại “bịa ra” những thứ còn “mê tín” hơn nhằm tìm cách cứu vãn tình thế! Những “vật chất tối”, “hạt Hiss”, “đường chân trời sự kiện” của lỗ đen, “điểm kỳ dị”, “vụ nổ lớn”, “vụ co lớn” … là kết quả của những cái “bịa ra “ đó. Vừa tốn tiền vừa mất thời gian, trí lực, vật lực … Em cho rằng những “con ma” còn hiện thực hay đỡ mê tín hơn những “kết quả” nghiên cứu đó! Ấy vậy mà vẫn được số đông tung hô, ai nói ngược lại thì bị ném đá … thì số đông ấy còn … “mê tín” hơn nhiều. Khi anh sống trong đám đông “mê tín” mà anh không “mê tín” thì anh lại là người “mê tín” nhất !!! Để cái đám đông ấy không còn “mê tín” nữa thật vô cùng khó khăn với một con người, cần nhiều thời gian và lao động của nhiều người. Vì thế không nên nóng vội, cứ thản nhiên từ từ … lâu năm rồi … khoai nó cũng sẽ … nhừ thôi anh ạ ! Các cụ nói rất đúng: “Động thiện thời” !!! Anh cũng đừng buồn, cái “thời” ấy rồi cũng sẽ đến, tuy rằng hơi lâu cũng như “cái đuôi con nòng nọc” cũng sẽ “đứt” thôi khi nó đủ lớn! Chẳng thể nhanh cũng như chẳng ai có thể cưỡng lại được cả!
  6. Không hẳn như vậy. Theo em, thuyết tương đối chỉ là một trường hợp riêng của một bộ phận không lớn của học thuyết ADNH mà thôi. Hơn nữa, "trường hợp riêng" này cũng không được "kín cạnh" lắm, còn nhiều "lỗ hổng" làm cho một số kết quả không phù hợp. Ví dụ như phép biến đổi Lorentz trong thuyết tương đối không chính xác dẫn đến sự phủ nhận tính đồng thời và luật nhân quả...
  7. Thực ra, vấn đề như sau: Hai tiên đề của E là: + Trong tiên đề đầu tiên: Mọi hiện tượng vật lý (cơ học, nhiệt động lực học, điện từ học...) đều xảy ra như nhau trong các hệ qui chiếu quán tính. + Trong tiên đề thứ hai, theo phát biểu ban đầu của Einstein: Tốc độ ánh sáng trong chân không là một đại lượng không đổi trong tất cả các hệ qui chiếu quán tính. Sau đó người ta suy ra công thức E = k.E0. Để công thức này có nghĩa thì V <= c với V là vận tốc hạt vật chất chuyển động. Rồi từ đó họ suy ra c là vận tốc tới hạn của chuyển động hạt vật chất. Nhưng một số người lại nghĩ rằng, trong Vũ trụ chỉ có chuyển động của hạt vật chất hay năng lượng thôi, mọi chuyển động khác đều có thể qui vào đây được cả, mà không biết rằng còn có những thứ khác nữa nên mới phát biểu rằng c là vận tốc giới hạn của Vũ trụ. Lỗi ở đây là sự tư duy của mấy con "ếch" thôi chứ không phải của ông E. Kính anh!
  8. Thuyết tương đối không nói vậy, anh đã hiểu lầm! Thuyết tương đối nói vận tốc ánh sáng là vận tốc giới hạn chuyển động của các hạt vật chất. hay vận tốc giới hạn của truyền năng lượng. Hai cái này không đồng nhất ! Điều này thì em thấy đúng nhưng em không coi là tiên đề, mà là hệ quả của cái cơ bản hơn. Hơn nữa, vận tốc ánh sáng, theo em, không giống nhau ở các không gian khác nhau. Em cũng cho rằng không tồn tại cái gọi là chân không nên luận điểm vận tốc ánh sáng trong chân không là 300000 km/s là vô nghĩa! Trong các tương tác vật chất, tương tác cảm ứng không truyền năng lượng trực tiếp (vì thế, lực cảm ứng điện từ luôn vuông góc với chuyển động làm cho công A = 0) nên vận tốc truyền tương tác này là vô cùng lớn, thời gian là tức thời. Điều này lý giải được cái "mâu thuẫn" về nhận thức Vũ trụ bị giới hạn bởi vận tốc ánh sáng mà anh đề cập. Nói chung, nếu khoa học không từ bỏ được định luật bảo toàn năng lượng, kéo theo các khái niệm như "vật chất tối", không gian đồng tính và đẳng hướng, đường "chân trời sự kiện" của các lỗ đen, hạt Hiss, ... thì họ không bao giờ thoát khỏi bế tắc trong các tham vọng nghiên cứu những hiện tượng vi mô hoặc rất vĩ mô (như sự hình thành và phát triển của Vũ trụ) cả. Họ phải bằng lòng với những kết quả nghiên cứu những hiện tượng đỡ cực đoan hơn khi hiệu ứng ảnh hưởng của các luận điểm trên đủ nhỏ. Kính Anh!
  9. Họ không thể xác định được bởi vì họ chẳng biết cái học thuyết ấy nó như thế nào? các luận điểm của nó nột cách hệ thống ra làm sao? Nghe người này hay nghe người kia là đúng? Hay là nghe sách cổ? Liệu có đúng không (họ vốn trọng kim hơn cổ)? Lý luận gì mà loằng nhoằng quá, chẳng rõ ràng gì cả mà thấy mâu thuẫn tùm lum, mỗi người một phách !!! ... Anh đừng trách họ, các nhà khoa học chân chính sẽ ủng hộ ngay nếu họ hiểu. Vì vậy, cái chúng ta cần là phải làm sao phục hồi được học thuyết ADNH đó (vì nó đã thất truyền), sau đó phải diễn đạt lại sao cho họ có thể hiểu và thấy được tính ưu việt của học thuyết này. Nếu làm được, họ sẽ là những người hăng hái nhất bảo vệ và phát triển nó cho dù khi đó hầu hết những nền tảng kiến thức bao năm dày công nghiên cứu của họ sẽ bị đảo lộn. Thật là khó lắm thay !!! Nhưng khó cũng không phải là không thể !!! Kính anh!
  10. Giới hạn tốc độ Vũ trụ bằng vận tốc ánh sáng là sai lầm nhưng không phải duy nhất mà còn nhiều sai lầm khác của vật lý hiện đại. Nhưng chủ yếu là vật lý hiện đại không biết đến một thông số vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp khi mô tả mọi quá trình vận động trong Vũ trụ và không nhận thức được giới hạn của định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Chính vì vậy, mọi phương trình vật lý hiện đại chỉ đúng trong miền giới hạn khi ảnh hưởng của thông số kia đủ nhỏ. Nhưng các nhà khoa học lại tìm cách áp dụng những phương trình của họ cho mọi quá trình vật lý, do đó, sai lệch và mâu thuẫn là không thể tránh khỏi. Nhưng quan trọng hơn, phương pháp luận, quan điểm tư duy của giới khoa học ngày nay không thể giải quyết được vấn đề này mà khi giải quyết mâu thuẫn nào đó sẽ lại dẫn đến một mâu thuẫn khác nghiêm trọng hơn. Nói cách khác, khoa học hiện đại đang trong giai đoạn giống như trước năm 1905 khi thuyết tương đối ra đời. Các tương tác mà khoa học hiện đại gọi là tương tác hấp dẫn, tương tác mạnh, tương tác yếu thực chất chỉ là phản ứng của vật chất với không gian mà trong đó nó tồn tại mà thôi chứ không phải là tương tác giữa hai đối tượng vật chất (trường khí âm dương). Trong tự nhiên, chỉ có hai tương tác của trường khí âm dương: Thứ nhất là tương tác trực tiếp dựa trên qui tắc quân bình âm dương (ví dụ là lực hút, đẩy tĩnh điện …). Thứ hai là tương tác cảm ứng (ví dụ: lực cảm ứng điện từ …). Các nhà khoa học hợp cà hai lại thành tương tác điện từ mà không thấy được sự khác biệt về bản chất giữa chúng. - Tương tác trực tiếp thay đổi xu thế vận động của vật chất (lực F) bằng cách thêm vào một xu thế ngoại lai (công thêm lực P: F’ = F + P). Tốc độ giới hãn của tương tác này là tốc độ truyền năng lượng chính là vận tốc ánh sáng. Bản chất của tương tác này là quá trình lập lại trạng thái quân bình âm dương khi dương, âm quá lớn. - Tương tác cảm ứng làm xu thế vận động của vật chất tự thay đổi theo một chiều hướng khác (F --- > F’), hoàn toàn không có sự truyền năng lượng trong quá trình cảm ứng. Đó là lý do lực cảm ứng điện từ luôn vuông góc với phương chuyển động của điện tích. Do không có quá trình truyền năng lượng nên tốc độ truyền tương tác cảm ứng không bị cái gì giới hạn nên nó là vô cùng. Nói cách khác, tương tác cảm ứng là ngay lập tức trong toàn Vũ trụ. Đó là bản chất của cái mà các nhà khoa học gọi một cách mơ hồ (vì không hiểu được bản chất, tuy thấy được hiện tượng) là “rối lượng tử” hay “vướng lượng tử”. Tương tác cảm ứng có tốc độ vô cùng lớn cho chúng ta hiểu tại sao một niệm phát sinh lại có thể chấn động ba ngàn thế giới, các linh hồn giao tiếp như thế nào? … Tất cả những luận điểm trên tôi đều rút ra trong quá trình nghiên cứu học thuyết ADNH của Việt tộc (Chứ không phải Hán tộc) mang ra chia sẻ cùng các ACE trên diễn đàn Thân ái!
  11. Dạo này Diễn đàn nhiều thứ tào lao quá, cứ viết (past) tràn lan, đầu tư suy nghĩ ít, tính học thuật thấp.
  12. Ngón tay Đức Phật chỉ trăng không phải là mặt trăng. Nương theo ngón tay Đức Phật để thấy mặt trăng. Có người nương theo ngón tay ấy thấy được mặt trăng, có người chỉ mãi cũng chẳng thấy. Có người thì lại thấy ...quả chuông trên nóc nhà thờ.... Lại có người thây ... trái dừa trên cây!!! ... Tùy duyên thôi mà.
  13. Anh Thiên Sứ ạ, theo em, công án tiến vỗ của một bàn tay là một cách diễn đạt về Thái cực đâý. Đó là trạng thái âm dương chưa sinh (2 bàn tay), chưa có tương tác âm dương (tiếng do hai bàn tay vỗ vào nhau), mà mới chỉ có 1 bàn tay (Thái cực), khi đó khái niệm "bàn tay" và "tiếng vỗ" cuả nó cũng chưa có, chỉ có "caí một " hay "Thái cực" mà thôi. Khi xuất hiện một bàn tay nữa (âm) thì cái "bàn tay" có trước kia (Thái cực) trở thành dương và tương tác âm dương (hai bàn tay vỗ vào nhau) mới sinh ra những caí mới (tiếng vỗ) hay là sự phát triển của Vũ trụ.Như vậy, công án "tiếng vỗ của một bàn tay" là một kiểu "ngón tay chỉ trăng" giúp người ta quán xét để thấy được cái "bất khả tư nghị" là Thái cực hay Bản thể của Vũ trụ - Đạo theo cách diễn đạt của em. Vì thế, nếu dùng ngôn từ mô tả tiếng vỗ của một bàn tay, theo em, là bất khả (vì Đạo bất khả tư nghị mà). Đó là lý do sau biết bao năm tháng mà đây vẫn là đề tài hóc búa, chưa có lời gỉai thấu triệt, chỉ vì người ta cố dùng ngôn từ mà mô tả nó. Kính anh.
  14. Chủ đề của topic này trùng với một trao đổi đã lâu trên diễn đàn: (http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/2938-nhung-diem-dac-sac-cua-phat-giao/page__st__-10). Tôi xin pot lại ý kiến của tôi về Đạo Phật Diệt Khổ trong lần trao đổi ấy. Nếu muốn rõ hơn, các bạn có thể xem lại các phản biện theo link trên. ĐẠO PHẬT VÀ DIỆT KHỔ VÔ TRƯỚC I. Đạo Phật là Đạo Diệt khổ Trong các học thuyết mà con người từng nghĩ ra được, theo tôi, Đạo Phật là một học thuyết tuyệt vời nhất còn được lưu truyền cho tới ngày nay. Về cái hay của Đạo Phật về bất cứ phương diện nào cũng mênh mông như bể, sâu sắc vô cùng, khó mà hiểu hết chứ đừng nói là có thể phân tích hết ra được. Nhưng thôi, chúng ta hãy tạm dừng nói về cái hay của Đạo Phật vì đã có không biết bao nhiêu người đã viết về nó mà vẫn chưa hết, ta thử bàn về mặt hạn chế xem sao. Thử hỏi, cái gì đã làm này sinh tâm nguyện của Đức Thích Ca Mâu Ni từ bỏ mọi vinh hoa phú quí khi ngài đang là Thái tử kế vị để bước vào con đường tu hành? Theo kinh sách, là do Ngài thương xót khi nhìn thấy nỗi khổ mênh mông của chúng sinh ngày càng trầm trọng. Đến khi đắc đạo, cũng chính vì thương xót chúng sinh vẫn ngập chìm trong bể Khổ mà Ngài phát tâm hoành dương Phật Pháp phổ độ chúng sinh. Lần đầu tiên khi truyền bá Đạo Phật, tuyên bố về học thuyết của mình, Ngài khẳng định rằng đây là Đạo Diệt khổ và đưa ra Tứ Diệu Đế là Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế bàn về: Khổ và nguyên nhân của Khổ, cách diệt Khổ và cái đạt được sau đó, y như một lương y bắt mạch chữa bệnh cho nhân loại vậy. Tựu trung tất cả các luận điểm của Đạo Phật, cho dù cao siêu đến đâu cũng xoay quanh mục tiêu Diệt Khổ này. Diệt khổ cho nhân loại đầu tiên phải xuất phát từ diệt khổ cho mỗi cá nhân. Sau này, các pháp môn Ngài truyền dạy rất phong phú và thâm sâu vô cùng, nhưng chỉ những yếu tố nào phục vụ cho Diệt Khổ mới được Ngài giảng giải kỹ lưỡng nhất, những yếu tố khác, không thiết thực lắm cho Diệt Khổ Ngài đều gác lại hoặc chỉ nói qua. Xét cho cùng, những pháp môn đó được Ngài giảng dạy chỉ nhắm tới mục tiêu Diệt Khổ, do đó, đối với Đạo Phật, đó cũng chỉ là những biện pháp Diệt Khổ mà thôi. Vì thế, mục tiêu ban đầu và cuối cùng của Đạo Phật là Diệt Khổ. Theo Đức Phật, khi Khổ đã bị diệt triệt để theo phương pháp của Ngài thì đạt được Giải thoát. Nói cách khác, Giải thoát chính là kết quả của Diệt Khổ. Nếu không còn khổ thì có nghĩa là đã Giải thoát. Vì vậy, khi bàn đến Diệt Khổ cũng chính là bàn đến con đường Giải thoát. Tuy vậy, sau hơn 2500 năm đã qua, dù học thuyết của Phật tổ có hay đến đâu, dù có sự đóng góp của biết bao trí tuệ siêu việt từ nhiều thế hệ phật tử suất sắc nhất, thì đến ngày nay, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng, kết quả của Đạo Phật đối với quảng đại chúng sinh cũng còn rất hạn chế. Có thể nói, về mặt cá nhân, hàng triệu người thực hành theo con đường của Phật tổ cũng không mấy người đạt được thành tựu cuối cùng, không mấy người diệt được khổ. Về mặt xã hội, bao nhiêu thời đại qua đi cũng không thấy xã hội nào hết được khổ đau dù trong thời gian ngắn. Đấy là tôi chưa nói đến những điểm sáng thành công ngày càng ít ỏi dần. II. Suy nghĩ về hiệu quả diệt khổ của Đạo Phật Kính thưa các quí vị quan tâm! Đối với tôi, Đạo Phật luôn là học thuyết mà tôi hằng kính ngưỡng, đánh giá cao nhất trong tất cả các học thuyết mà tôi từng được biết. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni là người tôi kính phục nhất trong tất cả các vĩ nhân tự cổ chí kim. Đặc biệt, tôi luôn tâm niệm một lời của Đức Phật: “Hãy kiểm tra giá trị những lời dạy của ta như khi ngươi kiểm tra độ tinh khiết của vàng, chà nó cho sạch bụi đất, dùng búa nện nó, nung chảy nó. Đừng chấp nhận những lời nói của ta chỉ vì kính trọng ta. Hãy tiếp nhận chúng khi các ngươi thấy rằng chúng là thật ” Người học Phật phải có tinh thần tự do, không nên lệ thuộc vào một kinh sách nào, một giáo lý nào; Phá trừ kiến chấp, mở rộng tâm hồn, trí não nên có thể thông cảm với tất cả mọi giáo lý khác. Người học Phật phải có tinh thần Vô trước, không nên để mình bị ràng buộc, bị dính mắc vào đâu cả, dù là đối với chân lý … Tinh thần đó chính là tinh thần của người Phật tử chân chính khi học hỏi. Trên tinh thần ấy, không để mình dính mắc vào bất cứ điều gì, kể cả với kinh điển Đạo Phật, tự mình tìm hiểu, tôi nhận thấy rằng: Đúng như tuyên bố ban đầu của Đức Phật, Đạo Phật trước tiên và cuối cùng là học thuyết diệt khổ. Tất cả những luận điểm chính được Đạo Phật đưa ra như Vô ngã, Vô thường, Luân hồi, Nhân quả, Thập nhị nhân duyên, Nghiệp chung, Nghiệp riêng, Hằng và Chuyển, Duy thức luận, Thực tướng ấn, Bình đẳng quan, Bát chánh Đạo, Niết bàn, cho đến Ngã quỉ, Địa ngục, Ta bà, … đều xoay quanh mục tiêu diệt khổ. Những quan điểm đặc sắc, tinh tế của các lĩnh vực này có thể được khai thác ở nhiều khía cạnh, nhưng Đạo Phật đặc biệt chú ý vào những khía cạch có thể hướng chúng sinh vào mục tiêu diệt khổ, còn các khía cạnh khác Đạo phật không bàn hoặc bàn đến rất ít. Còn những học thuyết khác khai thác được những luận điểm đó của Đạo Phật để phục vụ cho mục tiêu của họ thì lại là chuyện khác. Tuy những luận điểm đó của Đạo Phật rất hay, sâu sắc và tinh tế, nhưng tôi vẫn thấy rằng, nó quá nhấn mạnh đến cái tuyệt đối và do đó có thể chỉ thích hợp với một số ít cá nhân rất suất sắc còn rất khó khăn cho quảng đại chúng sinh. Cái quá ư thâm sâu của Đạo Phật vốn là ưu điểm nhưng ở khía cạnh đối với quảng đại chúng sinh có khi lại là mặt hạn chế. Cái đó gọi là mặt hạn chế của ưu điểm. Chỉ nội ngộ được chữ Không của Đạo Phật, triệu người chưa được một. Ngộ được chữ Không còn khó hơn lên Trời, mà từ chữ Không tới Giác ngộ, giải thoát cũng còn xa thăm thẳm, trong khi cái Khổ cận kề sát bên, ngày càng lan tràn khủng khiếp. Cái tuyệt đối có hay đến mấy cũng chỉ để ngắm nhìn thôi nếu không thể thực hành được. Vẫn biết rằng, Đạo Phật cũng tùy đối tượng mà thuyết pháp, nhưng phần giảng cho chúng sinh bình thường thì, theo tôi, không suất sắc lắm và hiệu quả còn hạn chế vì còn nặng vào hướng tới mức cao, hướng tới cái tuyệt đối, khó tiếp thu, chưa phù hợp với hoàn cảnh riêng của mỗi người. Tất nhiên, hướng tới mức cao là tốt nhưng cần phương pháp hiệu quả hơn. Đó là lý do mà sau hơn 2500 năm ra đời, bằng quá nửa thời gian của văn minh nhân loại, với biết bao đóng góp của các trí tuệ siêu việt nhất của nhiều thế hệ đông đảo Phật tử nối tiếp nhau, cái Khổ trên thế gian này chẳng hề vơi đi, mà ai cũng thấy là ngày càng phổ biến, trầm trọng mà thậm chí còn tiến tới nguy cơ hủy diệt toàn nhân loại. Vì vậy, theo tôi, một trong những hạn chế của Đạo Phật là tính hiệu quả không cao trong mục tiêu của nó là diệt khổ. Con người ngày càng tha hóa, xã hội ngày càng nhiễu nhương, cái khổ không giảm đi mà ngày càng khủng khiếp chẳng nhẽ không phải là những ví dụ cho tính thiếu hiệu quả của Đạo Phật đối với quảng đại chúng sinh, ít nhất là về mặt phương pháp thực hành, hay sao ? Lý giải về tình trạng thiếu hiệu quả này, các đệ tử nhà Phật cho rằng nguyên nhân là ở chỗ chúng sinh vẫn mê lầm, chịu không kiên tâm theo con đường mà Đức Phật đã chỉ dạy, để cho tham, sân, si, dục vọng … chi phối. Có người lại cho rằng, đó là do Đạo Phật quá thâm sâu mà chúng sinh, với trí năng có hạn, không thể lĩnh hội nổi. Cũng có người, do thấy sự thiếu hiệu quả đó, nghi ngờ tính đúng đắn của Đạo Phật. Hơn nữa, nhiều tôn giáo khác ra đời và phát triển không khỏi ảnh hưởng tới vị trí của Đạo Phật trong xã hội, và tất nhiên ảnh hưởng tới con đường Diệt khổ của chúng sinh mà Đức Phật đã chỉ dạy…. Những lý do trên là có căn cứ. Nhưng dù vì bất cứ một lý do gì đi nữa thì cũng đều dẫn đến một kết luận chung là: Tính hiệu quả của Đạo Phật trong mục tiêu Diệt khổ có vấn đề. Thật vậy. Nếu Đạo Phật tự coi là Đạo Diệt khổ cho chúng sinh thì việc đầu tiên là phải làm sao cho chúng sinh khỏi mê lầm, kiên tâm theo lời chỉ dạy của tôn sư mà dần dần phá trừ chấp ngã, rũ bỏ tham, sân, si, dục vọng, … làm cho nhiều người thành tựu thì mới gọi là hiệu quả. Đằng này, nội một bước sơ đẳng đầu tiên là làm cho chúng sinh tin theo mà thực hiện cũng chưa tốt thì nói gì đến những khó khăn hay thành tựu tiếp theo. Như vậy rõ ràng là tính hiệu quả của Đạo Phật là có vấn đề. Thực ra, rất nhiều chúng sinh đã tin và thực hành theo giáo lý nhà Phật. Nhưng do tính hiệu quả quá thấp, công sức bỏ ra thì nhiều mà kết quả thu được thì ít, dần dần người ta mất kiên nhẫn, xa rời Phật pháp. Nếu nói Đạo Phật quá ư thâm sâu, quảng đại chúng sinh khó bề lãnh hội thì rõ ràng nó không phù hợp với đối tượng chính của nó là quảng đại chúng sinh, và do đó, tính thiếu hiệu quả là cái đương nhiên. Cũng do tính thiếu hiệu quả đó nên mới xuất hiện sự ghi ngờ tính đúng đắn của Đạo Phật trong không ít bộ phận quảng đại chúng sinh, đối tượng mà Đạo Phật nhắm tới. Nếu nói sự xuất hiện và phát triển của nhiều tôn giáo, học thuyết xã hội khác ảnh hưởng tới vị trí của Đạo Phật trong xã hội, ảnh hưởng tới nỗ lực diệt khổ trên con đường chánh đạo, thì đó là vì còn nhiều khoảng trống mà Đạo Phật không bao quát hết được do tính hiệu quả thấp gây nên, để cho các tôn giáo, học thuyết đó có đất phát triển. … III. Thử tìm một phương pháp diệt khổ hiệu quả hơn Kính thưa các quí vị quan tâm! Theo logic ở phần trên thì thực tế Đạo Phật có hạn chế về mặt hiệu quả trong vấn đề mục tiêu của nó là Diệt khổ. Vậy, xuất hiện một câu hỏi tự nhiên rằng, liệu có tồn tại một học thuyết Diệt khổ khác hiệu quả hơn, hay ít nhất, một phương pháp diệt khổ khác với phương pháp của Đạo Phật mang lại hiệu quả tốt hơn hay không? Rõ ràng là chúng ta không thể kết luận chủ quan rằng, không tồn tại một phương pháp như thế. Quí vị có thể chất vấn tôi rằng, nếu tồn tại phương pháp diệt khổ hiệu quả hơn thì anh hãy chỉ ra đi! Thực ra, trong xã hội đang tồn tại rất nhiều những học thuyết Diệt khổ khác nhau nhưng không tuyên bố cụ thể mục tiêu Diệt khổ như Đạo Phật. Đạo Lão, Đạo Khổng, Đạo Hin đu, Đạo Thiên chúa, Đạo Hồi, …, các học thuyết xã hội, … đều có tham vọng mang lại hạnh phúc, tiêu trừ nỗi khổ của chúng sinh. Nhưng cũng giống như Đạo Phật, rõ ràng tính hiệu quả của chúng còn hạn chế vì sự thật hiển nhiên rằng, chúng sinh vẩn ngụp lặn trong bể khổ ngày càng mênh mông hơn, ngày càng sâu thẳm, khốc liệt hơn. Tôi không dám cuồng vọng, nhưng cũng cố theo tinh thần Vô trụ, Vô trước của nhà Phật để trình bày suy nghĩ của mình cho quí vị quan tâm “cười cợt” như sau: Trước tiên, tôi sẽ chưa bàn đến diệt khổ cho xã hội vì sẽ động chạm đến những vấn đề chính trị không thích hợp ở đây trong thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, không loại trừ trường hợp tôi sẽ xin trình bày với quí vị quan tâm suy nghĩ của mình về vấn đề này trong một điều kiện khác. Tôi chỉ xin trình bày diệt khổ về phương diện cá nhân mà thôi. Muốn diệt Khổ, trước tiên ta phải biết Khổ là gì. Đây là luận điểm then chốt quyết định sự triển khai tư duy tiếp theo. Vấn đề này Đạo Phật đã trình bày hết sức tinh tế và sâu sắc trong Khổ đế. Thống nhất với những phân tích đó của Đức Phật, nhưng dưới một góc nhìn khác, tổng hợp những nhận thức và kinh nghiệm của bản thân mình, tôi xin đưa ra định nghĩa như sau: Khổ là gì? “ Khổ là trạng thái cảm nhận của con người, nảy sinh khi khả năng không đáp ứng được ý muốn của người đó”. Trong định nghĩa này, “khả năng” và “ý muốn” cần phải được hiểu theo nghĩa rộng và tinh tế chứ không đơn thuần là vật chất, thô thiển. Thật ra, để hiểu rõ hơn định nghĩa này cần phân tích nhiều trường hợp khác nhau của Khổ, nhưng trong giới hạn phạm vi bài viết, tôi mong quí vị tự khảo sát. Như vậy, khi khả năng nhỏ hơn ý muốn, con người sẽ cảm thấy khổ. Ý muốn càng cao, khi khả năng không đáp ứng thì sự khổ não càng lớn. Khi khả năng quá nhỏ so với ý muốn thì ngoài khổ não còn có cảm giác tuyệt vọng xuất hiện. Khi khả năng nhỏ hơn ý muốn không nhiều thì khổ não đi kèm tiếc nuối…. Ngược với khổ là hạnh phúc! “ Hạnh phúc là trạng thái cảm nhận của con người, nảy sinh khi khả năng đáp ứng được ý muốn của người đó”. Như vậy, khi khả năng lớn hơn ý muốn, con người sẽ cả thấy hạnh phúc. Khi khả năng quá lớn so với ý muốn thì ngoài hạnh phúc còn có cảm giác nhàm chán xuất hiện. Khi khả năng lớn hơn một ý muốn mãnh liệt không nhiều thì hạnh phúc thật là to lớn. … Tóm lại, tương quan giữa khả năng và ý muốn là nguyên nhân, nguồn gốc của khổ não và hạnh phúc. Bất cứ một nỗi khổ não nào, một niềm hạnh phúc nào, từ thô thiển, giản đơn cho đến phức tạp tinh tế của con người cũng đều có thể phân tích đi đến nguyên nhân, nguồn gốc của nó là mối tương quan giữa khả năng và ý muốn của người đó. Để đơn giản hóa lý luận, ta thử dùng phương pháp diễn đạt toán học mô tả logic trên về cái Khổ như sau: Giả sử gọi X là đại lượng đặc trưng cho khả năng của một con người, Y là đại lượng đặc trưng cho ý muốn của người đó. Lập hiệu số: Z = X – Y Khi Z>= 0, khả năng đáp ứng được ý muốn, trạng thái khổ não không xuất hiện, thay vào đó là trạng thái hạnh phúc. Chất lượng của trạng thái hạnh phúc này phụ thuộc vào độ lớn của Y và Z. Nếu Z quá lớn, kèm với hạnh phúc là sự nhàm chán. Nếu Z không quá lớn thì hạnh phúc sẽ tràn trề khi Y lớn, sẽ nho nhỏ khi Y nhỏ. Khi Z < 0, khả năng không đáp ứng được ý muốn, trạng thái khổ não xuất hiện. Đặc tính của sự khổ não này phụ thuộc vào giá trị của Z và Y. Nếu Z quá âm, đi kèm khổ não là tuyệt vọng. Nếu Z không quá âm, khổ não sẽ lớn lao cùng tiếc nuối khi Y lớn, sẽ chỉ là khó chịu khi Y nhỏ. Tương quan giữa khả năng và ý muốn xác định trạng thái khổ não hay hạnh phúc được mô tả trong bảng sau: Z = X - Y Z < 0: Khổ não Z >= 0: Hạnh phúc Z << 0, Y lớn: Tuyệt vọng Z << 0, Y nhỏ: Tự ty Z >> 0, Y lớn: Tự mãn Z >>0, Y nhỏ: Nhàm chán Z >≈ 0, Y lớn: Rất hạnh phúc Z <≈ 0, Y lớn: Rất khổ não Z >≈ 0, Y nhỏ: niềm vui nho nhỏ Z <≈ 0, Y lớn: Khó chịu Vì vậy, muốn diệt được Khổ chúng ta chỉ cần làm cho Z >= 0 là đủ. Vì Z là một hiệu số: Z = X – Y nên, để điều chỉnh Z chúng ta có 2 phương pháp: Điều chỉnh khả năng X và điều chỉnh ý muốn Y sao cho Z >= 0. Trên cơ sở đó, để diệt khổ, trong cuộc sống chúng ta cần: - Một mặt không ngừng nâng cao năng lực (tăng X) của mình về mọi mặt bằng con đường tu tập, phấn đấu học hỏi, nghiên cứu, lao động, tu dưỡng đạo đức, gúp đỡ mọi người, … - Mặt khác luôn rèn luyện khả năng làm chủ ham muốn (Y) của bản thân, giữ sao cho lòng ham muốn đó không bao giờ vượt quá khả năng cho phép (X) bằng nhiều con đường tu tập, rèn luyện khác nhau. Để diệt Khổ, mỗi người có thể vận dụng tất cả tri kiến phù hợp của mình trong mọi lĩnh vực, từ tín ngưỡng, tâm linh cho tới khoa học kỹ thuật, xã hội, đạo đức, văn hóa,... không phân biệt học thuyết lớn nhỏ nào, dân tộc nào, ... miễn là hiệu quả, vào việc nâng cao năng lực X, điều tiết ham muốn Y sao cho X - Y = Z >= 0, trong hiện tại cũng như vận động tới tương lai để kết quả bền vững cho mình và cho người trong mọi hoàn cảnh. Như vậy, mọi thành quả văn minh của con người đều có thể hữu ích trong phương pháp diệt khổ mà tôi đề nghị. Trong xã hội, không chỉ có Phật giáo mới quan tâm tới khổ não của con người. Đạo Lão, Đạo Khổng, Đạo Hin đu, Đạo Thiên chúa, Đạo Hồi, Đạo Cao đài, Đạo Hòa Hảo, … cho tới rất nhiều các học thuyết xã hội khác đều có chung mục tiêu này với những phương pháp và chủ trương khác nhau và mỗi cái đều có cái hay riêng cùa nó. Phương pháp diệt khổ mà tôi đề nghị xử dụng mọi tri kiến có thể được vào mục tiêu Z >= 0, mở ra khả năng tận dụng được cái hay của tất cả những lý thuyết đó trong vấn đề diệt khổ. Nếu chúng ta thực hành được như thế thì chúng ta đã hoàn toàn diệt khổ, trở nên hạnh phúc. Nói thì đơn giản nhưng thực hành được hai điều đó cũng không hề đơn giản. IV. Phương pháp diệt khổ mới và Đạo Phật Kính thưa các quí vị quan tâm! Theo Đạo Phật, nguồn gốc sâu xa của Khổ chính là Vô minh (một khái niệm mà muốn hiểu nó cũng hết sức khó khăn đối với những tư duy bình thường) và Đạo Phật đề ra nhiều luận điểm hết sức tinh tế, cao siêu, nhiều phương pháp tu tập hữu ích để quét sạch Vô minh, mà suy cho cùng, cái chính là tiêu trừ được ham muốn của bản thân, diệt được bản ngã, Vọng tâm. Nói cách khác là làm cho Y = 0. Khi Y = 0 thì đương nhiên Z = X – Y >= 0 và do đó cái Khổ bị tiêu diệt. Như vậy, con đường diệt Khổ của Đạo Phật là con đường làm cho Y = 0. Con đường này quá lý tưởng, và do đó, quá khó khăn đối với quảng đại chúng sinh. Đó là lý do dẫn đến tính thiếu hiệu quả của Đạo Phật trong mục tiêu diệt Khổ. Thực ra, để diệt Khổ không nhất thiết phải làm cho Y = 0 mà chỉ cần sao cho Y <= X là đủ, và đó là con đường mà người viết đề nghị. Rõ ràng con đường này cũng đạt đến mục tiêu Diệt Khổ, tuy không hề đơn giản nhưng mức độ khó khăn đã giảm đi rất nhiều, kết quả là có thể rất nhiều người có khả năng thực hiện được diệt khổ trong chính cuộc đời ngắn ngủi của mình. Do đó, chắc chắn, tính hiệu quả tăng lên rất nhiều trên con đường diệt khổ. Hơn nữa, với góc độ này, chúng ta còn có một ý thức rõ ràng về hạnh phúc (Khi Z >= 0) để mưu cầu nó và khi quan niệm đúng thì đời không chỉ là bể khổ như nhiều Phật tử hay nói mà đời còn là đại dương hạnh phúc. Như vậy, phương pháp diệt khổ ở trên hoàn toàn không mâu thuẫn với Đạo Phật, do đó, những thành tựu của Phật giáo trong lĩnh vực diệt khổ hoàn toàn có thể được áp dụng hiệu quả trong phương pháp này. Việc nâng cao năng lực X bằng tu tập, điều tiết ham muốn Y bằng cách loại bỏ tham, sân, si như Đức Phật chỉ dạy hoàn toàn thích hợp với phương pháp diệt khổ mà tôi đề nghị. Tuy nhiên, phương pháp này và Phật giáo trong diệt khổ có một số khác biệt, mà bản chất sự khác biệt đó là ở chỗ: mọi tu tập của hành giả Phật giáo luôn nhắm tới diệt trừ cho hết tham, sân, si, hay làm cho Y = 0, còn phương pháp của tôi thì chỉ cần Y <= X là đủ. Đương nhiên, khi tu tập theo phương pháp của Đạo Phật mà đạt được Y = 0 thì cũng đồng thời thỏa mãn mục tiêu của tôi là Y < X và khổ cũng hết. Tuy nhiên, phương pháp đó quá khó khăn, chẳng mấy người làm được. Nhưng nếu mục tiêu Y = 0 được điều chỉnh thành Y <= X thì có nhiều người làm được, và khi đó họ cũng hết khổ và hạnh phúc. Ví dụ như đối với chữ tham, Đạo phật đòi hỏi hành giả phải triệt tiêu nó. Hành giả là những người bình thường, dù có nhận thức được cái mầu nhiệm của diệt chữ tham, nhưng họ cũng không thể diệt hết tham được. Lực bất tòng tâm, họ vẫn khổ khi không làm được điều này, khi thấy mình vẫn còn tham, mặc dù có thể, lòng tham của họ so với người khác đã giảm đi rất nhiều. Nhưng trong phương pháp của tôi, họ không cần phải triệt tiêu chữ tham mới khỏi khổ. Họ chỉ cần tu tập sao cho chữ tham ấy nhỏ hơn năng lực của họ là đủ, hoặc họ chỉ cần rèn luyện sao cho năng lực của họ đáp ứng được chữ tham đó một cách lâu dài. Được như vậy, họ cũng sẽ hết khổ và hạnh phúc. Tôi xin lưu ý rằng, cái cách diệt khổ đó phải sao cho không gây nên khổ cho kẻ khác thì mới lâu dài, nếu không, cái khổ của kẻ khác đó sẽ tác hại đến năng lực (X) của hành giả trong tương lai, phá vỡ cái cân bằng diệt khổ Y <= X đó và sự khổ của hành giả lại xuất hiện. Tức là, anh diệt khổ cho mình nhưng không được gây cái khổ cho người khác. Hơn nữa, khi diệt khổ cho mình anh cũng cần giúp người khác diệt khổ cho họ. Mặt khác, phải luôn luôn tu tập, trau dồi bản lĩnh, năng lực, đạo đức để giữ vững được cái cân bằng diệt khổ X – Y = Z <= 0, có thể thích ứng với mọi biến động sẽ sảy ra gây phương hại cho cái thế cân bằng ấy. Như vậy, cái năng lực (X) của anh mới bền vững, tránh được việc, cái khổ của người khác gây tồn hại cho năng lực của mình sau này. Ví dụ thô thiển thế này: Khi anh làm ra nhiều tiền để thỏa mãn nhu cầu của mình, để khỏi khổ về vật chất trong cuộc sống, thì cần đảm bảo rằng, đồng tiền đó được làm ra bằng chính năng lực của mình, anh không được chiếm đoạt, chèn ép, bóc lột kẻ khác, không tước đi cơ hội kiếm tiền của họ, phải luôn khiêm tốn, không chọc giận tự ái, khêu gợi lòng ham muốn đố kỵ của họ, thương yêu, giúp đỡ, an ủi họ khi họ khó khăn, … phải luôn trau dồi năng lực, tu dưỡng đạo đức, khả năng làm chủ ham muốn của mình ngày càng tốt hơn để đề phòng khi cái cân bằng diệt khổ Y <= X hiện tại của mình bị phá vỡ thì phải thiết lập và thích ứng ngay với sự cân bằng mới, … Được như vậy, cái hết khổ của anh mới bền vững, lâu dài, thì đó có khác gì được giải thoát khỏi khổ về mặt tiền bạc. Cầu mà không được thì khổ. Yêu mà phải xa nhau là khổ. Ghét mà phải đối diện là khổ. Ba cái khổ não này rõ ràng là cái khổ do ý muốn (Y - cầu mong, muốn gần, muốn xa) không được khả năng thực hiện (X - đạt được, gần nhau, xa nhau) đáp ứng, tức là Y < X hay Z < 0. Nếu muốn tránh 3 cái khổ này thì chỉ cần: Hoặc nâng cao khả năng (thực hiện được mình cầu, có thể gần nhau, có thể xa nhau) hoặc từ bỏ, điều chỉnh ý muốn ( giảm cầu cho phù hớp với điều kiện, không mong gần nữa, không sợ gần nữa) là đủ. Không nhất thiết thực hiện con đường quá chông gai theo Đạo Phật là tu hành để cho không có nhu cầu nữa, không yêu nữa, không ghét nữa. Sinh, bệnh, già mà chết là khổ do người đời có mong muốn trường sinh, bất lão, không bệnh. Mong muốn đó quá lớn so với năng lực của họ vì họ vẫn phải già bệnh và chết (Z < 0). Muốn diệt nỗi khổ này, người ta cần đều chỉnh ý muốn: Không sợ chết nữa, coi chết như về, coi đó như là qui luật tất yếu, bình thường của chúng sinh, hoàn thành mỹ mãn những trách nhiệm trong cuộc sống, coi cái chết như là bắt đầu một giai đoạn mới có thể có rất nhiều thú vị ...; Giữ gìn sức khỏe, sống thật dưỡng sinh, học hành y thuật, coi bệnh là điều tất yếu, bình thường, thấy rằng còn nhiều người khác bệnh hơn, ...; Vui thú tuổi già, giữ gìn sức khỏe, nuôi dạy con cái nên người, ...; Không nhất thiết phải theo con đường quá khó khăn của Đạo Phật là phải tu hành để đạt được Giải thoát. Vể ngũ dục, muốn khỏi khổ chỉ cần điều chỉnh cái dục ấy cho phù hợp với điều kiện, khả năng hiện tại là đủ. Không nhất thiết phải từ bỏ gia tài vào núi tu hành. Nói chung, mọi nỗi khổ khác đều có thể phân tích tương tự, là tương quan giữa khả năng và ý muốn làm cho Z < 0 mà thôi. … Tóm lại, qua những ví dụ thô thiển cho dể hiểu đó, chắc quí vị cũng hình dung phần nào phương pháp diệt khổ mà tôi đề nghị. Nó tuy không huyền bí thâm sâu, rốt ráo như Phật giáo nhưng đưa đến cùng một kết quả là diệt khổ, đạt được hạnh phúc và quan trọng là hiệu quả hơn do nhiều người (nhưng không phải là tất cả) có thể làm được. Đó là những bước đi thực tế trên con đường xa thẳm tiến tới giải thoát cuối cùng. Rõ ràng những phương thức và kiến thức tu tập của Phật giáo sẽ rất hữu ích cho phương pháp diệt khổ này, tuy rằng không hoàn toàn giống nhau, đặc biệt là khả năng chế ngự ham muốn (Y). Một hành giả Phật giáo, tuy chưa thành tựu chứng quả diệt khổ, nhưng sau bao năm tu hành cho Y về 0 mà vẫn chưa được, thì với công phu cố điều tiết Y về 0 ấy, chỉ còn phải điều tiết cho Y nhỏ hơn X thì thật dễ dàng. Như vậy, hành giả đó tuy chưa thể thoát khổ bằng phương pháp Phật giáo, nhưng dễ dàng thoát khổ bằng phương pháp mà tôi đề nghị. Để dễ hình dung, tôi xin đưa ra ví dụ so sánh như sau: Một ngày kia có người hỏi bạn: Có bao nhiêu hạt cát trong đống cát bạn vừa xe về chuẩn bị xây nhà. Để trả lời câu hỏi đó bạn có hai phương pháp: - Phương pháp 1: Bạn ngồi đếm từng hạt cát cho đến khi hết đống cát. Rõ ràng phựơng pháp này chắc chắn thàng công và bạn có thể đưa ra kết quả chính xác nhất về số lượng hạt cát trong đống cát đó. - Phương pháp 2: Bạn lấy 1cm3 cát và ngồi đếm số hạt cát trong 1cm3 đó. Sau đó bạn tính xem thể tích đống cát đó là bao nhiêu cm3 rồi nhân với số hạt cát bạn vừa đếm được thì ra số hạt cát trong đống cát. Rõ ràng phương pháp 2 cho kết quả chỉ là gần đúng, không chính xác bằng phương pháp 1 nhưng khả thi hơn. Phương pháp 1 chắc chắn được và cho kết quả chính xác tuyệt đối nhưng không khả thi và hầu như chẳng ai làm được. Nếu Diệt khổ cũng khó khăn như việc xác định số hạt cát trong đống cát thì Đạo Phật đã đề nghị với bạn phương pháp 1 còn người viết đề nghị với bạn phương pháp 2. Kính thưa các quí vị quan tâm! Trên đây là trình bày của tôi về phương pháp diệt khổ trên phương diện cá nhân. Diệt khổ trên phương diện xã hội tôi xin được trình bày với quí vị vào dịp khác thích hợp hơn. Chỉ khi nào hai lĩnh vực diệt khổ này (cá nhân và xã hội) đi vào cuộc sống thì, theo tôi, bể khổ vô bờ mà chúng sinh đang ngàn đời ngụp lặn, rên xiết trong đó mới cạn dần dần và từ từ mất hẳn (hay ít nhất, cũng gần như mất hẳn). Thay vào đó là đại dương hạnh phúc ngọt ngào.
  15. Chào TB.Chỉ là xảo thuật thôi. Giống mấy tay nhà báo lá cải, lập lờ đánh lận con đen. Không chân chính !!! (tuy rằng không phạm luật). Tuy nhiên mình cũng đã thông cảm rồi mà. Qua đây cũng nên chú ý rằng, chỉ một chút "sơ sẩy" kiểu này, tổn hại rất nhiều uy tín đã dày công tích lũy. Do đó, trong học thuật, viết nghiêm túc, chân thành, xuất phát từ cái tâm không phải ai cũng làm được. Thân mến!
  16. KHÁM PHÁ TẬN CÙNG VỀ CHIẾC BÁNH CHƯNG? Giật tít chủ quan, đao to búa lớn quá ! Không xứng với "Trí thì cao siêu, Lễ thì khiêm hạ" !!! Có lẽ ông Thùy viết trong lúc hơi phấn khích, "bốc đồng". Có thể thông cảm.
  17. Có lẽ không nên rạch ròi thứ tự sự phục hồi trước sau như trên. Ý em hình dung như bài trước là:"Lý thuyết mới ra đời dựa trên những luận điểm của học thuyết ADNH Lạc Việt, được kiểm chứng bằng những kết quả thực nghiệm khoa học, ứng dụng cho phép khoa học khi đi sâu vào những lĩnh vực mà nó đang vấp phải những mâu thuẫn, bế tắc. Khi giải quyết tốt được những bế tắc này, giới khoa học mới chợt nhận thấy sự kỳ vĩ của học thuyết ADNH và lao vào nghiên cứu nó. Trong quá trình nghiên cứu đó, họ mới thấy được chân tướng sự thật, ai mới là chủ nhân thực sự của học thuyết ADNH, ai mới chính là kẻ mạo nhận. Lịch sử sẽ được nhận thức lại, phục hưng Văn hóa Việt tộc thực sự bắt đầu" Có nghĩa là, sự phục hồi văn hiến Việt tộc và học thuyết ADNH sẽ diễn ra gần như song song, cái này là đông lực và điều kiện của cái kia. Nhưng đối với giới nghiên cứu khoa học thì phục hồi học thuyết ADNH sẽ là động lực phục hồi văn hiến Việt tộc và phục hồi những giá trị đích thực của văn hiến Việt tộc là điều kiện để phục hồi học thuyết ADNH, bởi vì họ sẽ chẳng thể phục hồi học thuyết ADNH (mong muốn thuần túy khoa học của họ) thành công nếu không phục hồi văn hiến Việt và quá trình phục hồi học thuyết ADNH sẽ làm cho những giá trị Văn hiến Việt tọc trở nên rõ ràng và có ý nghĩa hơn (đương nhiên, điều này cũng rất hấp dẫn giới nghiên cứu khoa học). Quan hệ hữu cơ trong quá trình này là như thế. Nhưng đó mới là những hình dung sơ bộ thôi, chắc còn phức tạp hơn nhiều. Kính anh!
  18. Đúng vậy! Nhưng cái gì cũng có quá trình của nó, từ thấp tới cao. Các cụ nói "Dục tốc bất đạt " mà.Logic thực chất là: " Việt sử 5000 năm (em nghi ngờ còn dài hơn) văn hiến" --- > Thuyết ADNH ---- > Vật lý lý thuyết. Nhưng quá trình phục hồi sẽ là: Vật lý lý thuyết --- > Thuyết ADNH --- > Lịch sử Việt 5000 năm Văn hiến. Kính anh.
  19. Lý thuyết về khởi nguyên cũng như kết thúc của Vũ trụ, BigBang, Lỗ đen Vũ trụ … của Khoa học hiện đại cho tới thời điểm này đều không đúng với thực tế khách quan sẽ được phát hiện, tất yếu xuất hiện mâu thuẫn, bị bác bỏ, cho dù các nhà khoa học có cố gắng, cầu thị chỉnh sửa … tới đâu cũng vậy thôi. Nguyên do là toàn bộ những cơ sở vật lý cơ bản nhất mà khoa học biết đến và dùng để xây dựng lên những lý thuyết đó cho đến nay đều còn bất cập, thiếu sót. Miền giới hạn của chúng không bao phủ lên những điều kiện vật lý của Hố đen, khởi nguyên và kết thúc … của Vũ trụ. Nếu một lý thuyết Vật lý mới, tổng quát hơn không xuất hiện thì mọi cố gắng đều trở nên vô ích. Theo sự phát triển, sớm muộn gì thì lý thuyết mới đó cũng ra đời, nhưng có lẽ sự ra đời của nó sẽ rất độc đáo. Không như các lý thuyết Vật lý khác xuất hiện trên cơ sở giải thích những mâu thuẫn giữa kết quả thực nghiệm của các nhà khoa học và lý thuyết cũ. Lý thuyết mới ra đời dựa trên những luận điểm của học thuyết ADNH Lạc Việt, được kiểm chứng bằng những kết quả thực nghiệm khoa học, ứng dụng cho phép khoa học khi đi sâu vào những lĩnh vực mà nó đang vấp phải những mâu thuẫn, bế tắc. Khi giải quyết tốt được những bế tắc này, giới khoa học mới chợt nhận thấy sự kỳ vĩ của học thuyết ADNH và lao vào nghiên cứu nó. Trong quá trình nghiên cứu đó, họ mới thấy được chân tướng sự thật, ai mới là chủ nhân thực sự của học thuyết ADNH, ai mới chính là kẻ mạo nhận. Lịch sử sẽ được nhận thức lại, phục hưng Văn hóa Việt tộc thực sự bắt đầu, lời tiên tri của bà Vanga về sự trở lại của một học thuyết cổ xưa sẽ thành hiện thực. Hy vọng rằng không phải chờ lâu quá! Thân ái!
  20. @ Anh Thiên Sứ: Em hiểu anh mà! Anh cứ thoải mái đi. Em là người không câu nệ tiểu tiết nhưng lại rất chú ý bản chất.@ Hoangnt: Tôi cũng muốn lắm, nhưng mất thời gian ghê lắm, mà đang phải "chạy ăn từng bữa toát mồ hôi". Đành phải chờ vậy chứ biết làm sao!Thân ái!
  21. Anh Thiên Sứ thân mến! Dù không muốn, ta cũng phải thừa nhận rằng, học thuyết ADNH dù đã từng kỳ vĩ đến đâu thì cũng đã thất truyền, chỉ còn rơi rớt lại một số ứng dụng và ý tưởng cơ bản mà thôi. Phục hồi nó là thiên nan vạn nan. Cho dù có phục hồi được thì những khái niệm của nó cũng vô cùng xa lạ với giới khoa học ngày nay, chẳng thể cùng nói chuyện. Anh không thể dùng tiếng Việt thời Hùng Vương để nói chuyện với cũng chính người Việt thời nay được. Họ có vô cùng nhiều những lý do mà theo họ, rất xác đáng, để không tin vào học thuyết ADNH. Dù anh có hiểu biết ADNH thâm sâu đến đâu, có chỉ ra nhiều điều đúng đắn đến đâu nhưng chỉ bằng ngôn ngữ của anh, không phải bằng ngôn ngữ của họ, họ không hiểu thì họ vẫn phớt đi chẳng thèm quan tâm. Họ sẽ cho rằng anh ăn may nếu anh đúng và ném đá tơi bời nếu anh sơ suất dù rất nhỏ (anh hiểu chuyện này quá mà !). Tất nhiên, anh có thể cũng chẳng thèm quan tâm đến họ nữa, nhưng ngặt một nỗi là anh vẫn muốn phục hồi học thuyết ADNH vì nhiều lý do. Mà muốn phục hồi học thuyết ADNH thì phải cần đến sức lực của toàn thể loài người, trong đó giới khoa học có vai trò quyết định, chứ một vài cá nhân thì chẳng đi đến đâu. Do đó, vẫn phải thuyết phục giới khoa học về tính ưu việt của học thuyết ADNH nếu muốn phục hồi nó. Muốn thuyết phục giới khoa học thì cần phải giải quyết được những vấn đề của họ, đang thu hút tâm trí họ, và quan trọng nhất là phải dùng ngôn ngữ của họ trên cơ sở những ý tưởng đúng đắn của học thuyết ADNH. Rất may rằng, học thuyết ADNH với tư cách học thuyết bao trùm Vũ trụ có dư khả năng làm điều đó, đồng thời, giới khoa học chân chính cũng rất khách quan, cầu thị không thành kiến miễn là đúng với chân lý. Vì thế, khi nghiên cứu học thuyết ADNH, nhận thấy tính bao trùm và đúng đắn của nó em ứng dụng cho lĩnh vực xã hội và học thuyết “Chủ nghĩa Công bản” của em ra đời. Theo em đây là học thuyết xã hội hay nhất, nhưng những nhậy cảm về chính trị hiện tại buộc em tạm gác lại chờ khi khác thuận lợi hơn. Sau đó, em nghĩ rằng, nếu học thuyết ADNH bao trùm tất cả thì nó phải bao trùm Vật lý. Em bắt tay vào nghiên cứu vật lý dưới giác độ học thuyết ADNH, và thật bất ngờ, cực kỳ thuận lợi. Sau mấy năm nghiên cứu (tất nhiên vẫn phải kiếm sống) em đã gần như hoàn chỉnh nó, chỉ cần viết ra cho “văn vẻ” nữa mà thôi. Trong học thuyết này, những vấn đề anh vừa đề cập cũng có câu trả lời rốt ráo, trong một hệ thống logic, chặt chẽ. Đặc biệt, em viết theo phong các khoa học đương đại với những suy luận rất “ trực quan”, những phương trình, công thức, đồ thị … mà bất cứ một sinh viên đại học tự nhiên năm thứ 3 với học lực trung bình nào cũng có thể hiểu chẳng khó khăn gì lắm. Người ta có thể nhận ra rằng, nếu em cho hệ số ζ= 1 thì được thuyết tương đối của Einstein. Nhưng tiếc rằng, trong Vũ trụ, hệ số này nhiều khi khác 1 rất nhiều. Đương nhiên, có nhiều hệ quả mà em cho rằng giới khoa học sẽ rất … tò mò! Nhưng phải nói thẳng rằng, tất cả những đột phá của học thuyết này đều dựa vào học thuyết ADNH Lạc Việt (chứ của Tàu thì chỉ càng sai lầm, bế tắc mà thôi!}. Vì thế, em mới dám hy vọng rằng, đây là đóng góp nhỏ của em vào phục hồi học thuyết ADNH của Tổ tiên Việt tộc trong thuyết phục giới khoa học đương đại về tính ưu việt của học thuyết ADNH Lạc Việt bằng cách giải quyết những vấn đề của họ, bằng ngôn ngữ của chính họ trên cơ sở học thuyết ADNH. Nhưng em đang lu bu về com áo gạo tiền nên đành để từ từ vậy!!! (Thật kỳ lạ, em nghiên cứu càng thuận lợi bao nhiêu thì cuộc sống càng khó khăn, rủi ro bấy nhiêu, không biết có phải ngẫu nhiên hay không dù đã rất cố gắng!) Kính anh!
  22. Anh Thiên Sứ thân mến!Dạo này quá lu bu (cũng chỉ com áo gạo tiền thôi, chắc anh hiểu hoàn cảnh em) không viết gì được, nhưmg em vẫn theo dõi diễn đàn và rất thích mục "Chiến lược và sự kiện" của anh. Hôm nào rảnh em sẽ ghé thăm anh. Sách của Trịnh Xuân Thuận mà anh đề cập là quyển “Những con đưòng của ánh sáng” - được Viện hàn lâm Pháp quốc (Một tổ chức có uy tín Quốc tế trong lĩnh vực khoa học) tặng giải thưởng lớn MORON 2007- Nhà xuất bản Trẻ 2008 - tập 1 trang 208 có đoạn: "“Từ sự khuếch đại kinh hoàng này, người ta (“người ta” ở đây phải được hiểu là những đại diện đủ tư cách của giới khoa học – Vô Trước) suy ra rằng năng lượng của Vũ trụ khởi thủy là vô cùng nhỏ ". Tiện thể, em cũng xin báo anh biết, trên cơ sở học thuyết ADNH Lạc Việt, em đã xây dựng (coi như xong 99%), em tạm gọi là "Thuyết tuyệt đối" về Vật lý mà "Thuyết tương đối" chỉ là trường hợp riêng tương tự như Cơ học Newton là trường hợp riêng của Thuyết tương đối vậy. Khi nào có điều kiện em sẽ viết hoàn chỉnh theo phong cách Vật lý hiện tại. Em hy vọng đó là một đóng góp nhỏ của em cho vinh danh học thuyết ADNH của Việt tộc vậy. Kính anh!
  23. Nhu vậy, theo Dala, Ý thức không phải là hiện tượng Tự nhiên ư???Theo tôi, ý thức cũng là hiện tượng tự nhiên. Chỉ có điều, Vật lý hiện đại không có khả năng nghiên cứu nó mà thôi. Đó cũng là một giới hạn của khoa học hiện đại. Do đó, theo tôi, chẳng thể tìm được TOE bằng con đường của khoa học ngày nay, cho dù họ có thống nhất được tất cả các loại lực tự nhiên hay các lý thuyết vật lý đang biết đi chăng nữa. Học thuyết ADNH mới là một lý thuyết khoa học nghiên cứu và có khả năng nghiên cứu "tất tần tật" những hiện tương của tự nhiên, kể cả những thứ mà vật lý học chẳng có tý khái niệm nào (ví dụ như tâm linh, linh hồn, tâm lý, phong thủy, tướng số, ...). Thân ái!
  24. Đôi lời góp ... vui! Ở đây, NASA muốn nói về "nước" có công thức hóa học là H2O. Nhận thức không nhất thiết phải có tốc độ lớn hơn so với vật được nhân thức. Nhận thức có thể dựa vào lịch sử và phát triển trên cơ sở suy luận, kinh nghiệm và thông tin. Nếu thiếu thông tin vẫn có thể suy luận theo kinh nghiệm và lịch sử, tuy nhiên, khả năng tiên tri có thể kém chính xác hơn. Nếu vạn vật trong Vũ trụ có cùng lịch sử ra đời, thì về nguyên tắc vẫn có thể tiên tri được dù gần đây, chằng có thông tin nào của đối tượng cần tiên tri do "nó" ... "chạy" nhanh quá!!! (sai số chắc là lớn!!!). Cái này thì hiển nhiên rồi. Đến đứa trẻ con cũng đúng trong "hệ thống" của nó mà!Điều này chỉ là nói về tính "không sai" (không mâu thuẫn) trong suy luận logic thôi. Nhung vấn đề là ở chỗ, nó có phù hợp với thực tế khách quan hay không mà thôi. Giới hạn nào của thực tế khách quan đó? Có giới hạn nào cho lý thuyết của họ không? Thật ra, cả Newton và Einstein đều đúng trong miền giới hạn nhất định của thực tế khách quan tương ứng với lý thuyết của họ (khi bỏ qua một vài sai số). Nhưng mâu thuẫn là ở chỗ, họ và hầu hết những người theo họ lại cứ nghĩ rằng lý thuyết của họ đúng trong mọi trường hợp, nghĩa là trong toàn Vũ trụ. Nhưng ngay cả những người không nghĩ mhư thế cũng khó mà chỉ ra miền xác định cho lý thuyết của họ. Einstein đã chỉ ra miền xác định của Newton, vậy ai sẽ chỉ ra miền xác định của Einstein ? Vì tính không giới hạn của mình, chắc chắn Lý học Đông phương sẽ đảm nhận thành công vai trò đó. Có lẽ không lâu nữa đâu! Thân ái!
  25. Các nhà khoa học trên toàn thế giới đang "mê tín" một cách rất ... khoa học!!! Còn anh Thiên Sứ đang ..."chánh tín" một cách rất ... ADNH!!!