Vo Truoc

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    787
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    13

Everything posted by Vo Truoc

  1. Anh chị em trên diễn đàn thân mến! Như vậy, tôi đã trình bày nội dung, ý nghĩa và phương pháp lập bảng Hoa giáp hoàn toàn bằng logic mà không phải viện dẫn bất cứ một tiên đề "tượng số" (phải thuộc lòng mà không cần hiểu ý nghĩa) nào do cổ thư truyền lại. Các anh chị em cũng thấy nó thật dễ hiểu, không một chút kỳ bí, hoàn toàn logic mà một người có tư duy bình thường nào cũng có thể hiểu. Thế mà suốt hàng ngàn năm nghiên cứu, các học giả Trung hoa, nơi được coi là nguồn gốc của nó, lại thấy " hoàn toàn bí ẩn" như Thiệu Vĩ Hoa đánh giá. Điều này chỉ có thể giải thích là bảng Hoa giáp không thuộc văn minh Hoa Hạ và do đó họ đã sai lầm về phương pháp nghiên cứu. Thực chất đây là bảng mô tả Vận khí và Bản mệh của một sự vật theo thời gian dưới sự chi phối của Vũ trụ, ở đó, Vận khí được coi như là một sự vật thành phần con của Vũ trụ. Cách lập bảng đó như sau: - Vẽ bảng 9 hàng 60 cột - Cột đầu tiên ghi các Địa chi bắt đầu từ Tý ---> Hợi liên tiếp hết 60 cột được 5 vòng Địa chi. - Cột thứ 2 ghi các Thiên can bắt đầu từ Nhâm ---> Quí liên tiếp hết 60 cột được 6 vòng Địa chi. - Cột thứ 3 ghi các hành của Thiên can tương ứng cột 2. Cứ 2 cột là một hành, theo chiều tương sinh từ Thủy, cho hết 60 cột được 30 ô hành - Cột thứ 4 ghi Hành vận khí. Cứ 2 cột là một hành, bắt đầu từ Thủy theo chiều tương sinh liên tiếp 3 bước thì nhảy cách một bước đến hết 60 cột được 20 ô hành. - Cột thứ 5 ghi quan hệ giũa Thiên can và Vận khí. Cứ qua 6 cột hay 3 hành là một quan hệ, lần lượt là: Thiên can hòa Vận khí, Thiên can sinh Vận khí, Thiên can khắc Vận khí, Vận khí khắc Thiên can, Vận khí sinh Thiên can và lặp lại. - Cột thứ 6 ghi Hành của Bản mệhh. Cứ 2 cột là một hành, bắt đầu từ Mộc (Thủy - Vận khí sinh Mộc bản mệnh) theo chiều tương sinh liên tiếp 3 bước thì nhảy cách một bước đến hết 60 cột được 20 ô hành. - Cột thứ 7 ghi quan hệ giũa Thiên can và Bản mệnh. Cứ qua 6 cột hay 3 hành là một quan hệ, lần lượt là: Thiên can sinh Bản mệnh, Thiên can khắc Bản mệnh, Bản mệnh khắc Thiên can , Bản mệnh sinh Thiên can, Thiên can hòa Bản mệnh và lặp lại. - Cột thứ 8 ghi thời kỳ Sinh, Vượng, Mộ của Vận khí và Bản mệnh.Cứ 2 cột hay 1 hành ghi lần lượt Sinh, Vượng, Mộ cho tới hết 60 cột. - Cột thứ 9 ghi lần lượt 60 đơn vị thời gian trong Hoa Giáp. Ta thu được bảng Lạc Thư Hoa Giáp như sau: Trong bảng Hoa giáp này, ngoài những tính chất mà anh Thiên Sứ đã trình bày trong nhiều tác phẩm của mình, cón có những tính chất mà bài viết đã nêu sau: - Hành của thời kỳ Mộ của sự vật cũ bao giờ cũng khắc hành của thời kỳ Sinh của sự vật mới tiếp theo. Vì, như trên ta biết, Mộ của sự vật cũ sinh Mầm mống của sự vật mới. Đồng thời, Mầm mống sự vật mới sinh Sinh của sự vật mới. Do đó, Mộ của sự vật cũ phải khắc Sinh của sự vật mới. - Hành của thời kỳ Sinh (Vượng, Mộ) sự vật mới luôn “sinh” hành của thời kỳ Sinh (Vượng, Mộ) sự vật cũ trước nó. Điều này phù hợp với kết kết luận ở trên là sự vật tiến hóa theo chiều dòng Hóa khí ngược chiều tương sinh. - Hành thời kỳ Sinh (Vượng) này chính là hành của thời kỳ sau nó 4 bước ở thời kỳ Vượng (Mộ). Đó chính là cơ sở nguyên lý “cách bát sinh tử” của thuyết Âm dương Ngũ hành cổ truyền (vì mỗi hành kéo dài 2 đơn vị thời gian cho 2 Thiên can và 2 Địa chi) - Hành thời kỳ Mộ này sinh hành của thời kỳ sau nó 4 bước đang ở thời kỳ Sinh - Trong thời kỳ một sự vật gồm 3 bước Sinh, Vượng, Mộ, các hành vận động theo chiều tương sinh Căn cứ vào bảng và qui luất đã trình bày, đánh trọng só cho các yếu tố Hành, Thiên can, Địa cho ta có thể tìm được các công thức tính nhanh bảng Lạc thư Hoa giáp như chuyên mục đã pót.
  2. VinhL nghiên cứu nhiều thứ lắm và rất có tư duy độc lập! VinhL có thể cho biết ý nghĩa và những ứng dụng của thứ tự trùng quái của Phục Hy và Văn Vương không?
  3. Anh Thiên Sứ và các anh chị em trên diễn đàn thân mến! Thật ngượng khi được anh Thiên Sứ khen ngợi vì tôi còn làm được quá ít. Anh Thiên Sứ đề nghị em pót cách tìm bảng Lạc thư Hoa Giáp của mình vào chuyên mục này vì trong chuyên mục "Cơ sở Học thuyết ADNH" - Vô Trước em trình bày khó xem. Vậy, em xin biên tập lại và pót lên đây mong anh Thiên Sứ và các anh chịu em khác chỉ bảo. Phương pháp của em hoàn toàn dựa vào logic, không dùng bất cứ một tiên đề "tượng số" nào, là một phần trong chuyên mục "Cơ sở học thuyết ADNH" - Vô Trước, nên có lẽ cần tham khảo chuyên mục này trước. Vận động tiến hóa của một sự vật – dòng Hóa khí Như phần nghiên cứu khái niệm Hành (trong chuyên mục “Cơ sở học thuyết ADNG” – Vô Trước trên diễn đàn này) ta đã biết, sự xuất hiện Kim, Mộc nằm trong xu hướng giải quyết mâu thuẫn âm dương đang ngày càng gay gắt, làm mâu thuẫn này giảm đi để sự vật phát triển thuận lợi. Nếu mâu thuẫn này không được giải quyết, và ngày càng gay gắt, các hành Thủy, Hỏa ngày càng suy yếu, Kim, Mộc ngày càng hưng thịnh dẫn đến quan hệ tương sinh Mộc sinh Hỏa, Kim sinh Thủy sẽ chuyển thành tương thừa, Hỏa khắc kim sẽ chuyển thành tương vũ, làm cho Thủy và Hỏa bị tiêu diệt, sự vật cũ bị tiêu biến đi và sinh ra sự vật mới với quan hệ âm dương mới do Mộc, Kim của sự vật cũ đóng vai trò Âm, Dương. Như vậy, ta có sơ đồ sau: Sơ đồ cho thấy, kết quả của quá trình tiến hoá là sự tiêu huỷ của sự vật cũ và sinh ra sự vật mới có quan hệ sinh đối với sự vật cũ. Nói cách khác, sự tiến hoá có chiều ngược với chiều tương sinh. Điều đó có nghĩa là: Giả sử có một sự vật là thành phần và thuộc một hành nào đó của sự vật khác lớn hơn bao trùm nó. Khi sự vật đó tiến hóa, nó sẽ không còn thuộc hành cũ nữa và di chuyển sang một hành mới của sự vật lớn. Sự di chuyển này ngược với chiều tương sinh trong sự vật lớn. Như vậy, sự tiến hoá của sự vật cũng theo một trật tự nhất định trong sự vật chứa sự vật đang tiến hoá. Trật tự này có thể hình dung như một dòng khí gọi là dòng Hoá khí vận động trong sự vật làm cho các yếu tố của sự vật tiến hoá không ngừng. Chiều của dòng Hoá khí ngược với chiều tương sinh: Thuỷ - > Kim - > Thổ - > Hoả - > Mộc Hay: Hoả - > Mộc - > Thuỷ - > Kim - > Thổ Vận động của sự vật con trong một sự vật lớn Một sự vật từ khi hình thành tới khi bị huỷ diệt phải trải qua 5 thời kỳ phát triển liên tiếp sau: - Thời kỳ Mầm mống: Những yếu tố cơ bản mới có mầm mống hình thành mà chưa phát triển. Thời kỳ này xuất hiện khi sự vật trước bắt đầu suy giảm. - Thời kỳ Sinh: Những yếu tố cơ bản của sự vật hình thành và phát triển nhanh chóng. Sự vật trước bắt đầu tiêu vong. - Thời kỳ Vượng: Mọi yếu tố cơ bản của sự vật phát triển mạnh mẽ và ổn định. Các yếu tố cơ bản của thời kỳ trước đã hoàn toàn bị tiêu vong. - Thời kỳ Mộ: Những yếu tố cơ bản của sự vật bắt đầu suy giảm, mâu thuẫn âm dương làm suy yếu sự vật. Bắt đầu hình thành các mầm mống của các yếu tố cơ bản của sự vật mới. - Thời kỳ Huỷ: Những yếu tố của sự vật bắt đầu tiêu vong, những yếu tố của sự vật mới bắt đầu phát triển nhanh chóng. Biểu diễn các thời kỳ tiến hóa đó của sự vật trên đồ thị ta được: Giả sử sự vật phát triển, sinh hoá trong lòng một sự vật khác lớn hơn bao trùm, chi phối. Ở mỗi thời điểm, nó sẽ thuộc một hành nào đó trong sự vật lớn, các thời kỳ của nó vận đông theo chiều Ngũ hành tương sinh trong sự vật lớn. Theo phân tích ở trên thì : - Mộ thời kỳ trước sinh Mẩn mống thời kỳ sau. - Mầm mống sinh Sinh - Sinh sinh Vượng - Vượng sinh Mộ - Mộ sinh Hủy Mỗi thời kỳ của sự vật cũ thuộc một hành của sự vật lớn. Ký hiệu các hành theo chiều tương sinh là I, II, III, IV, V và mô tả quá trình tiến hóa của sự vật trong sự vật lớn ta được đồ thị sau: Qua đồ thị trên ta thấy hành của một thời kỳ sự vật mới sinh hành thời kỳ tương ứng của sự vật cũ. Sự xuất hiên của sự vật mới khi sự vật cũ bị tiêu vong ngược chiều tương sinh hay theo chiều dòng Hoá khí như đã phân tích ở phần trên. Mặt khác, khi các sự vât cũ, mới nối tiếp nhau ra đời, tiêu vong môt cách xen kẽ như thế, biểu hiện của sự vât là biểu hiện của 3 thời kỳ trội hơn là Sinh, Vượng, Mộ còn các thời kỳ Mầm mống và Huỷ mờ nhạt đi. Do đó, hành của sự vật được thể hiện nổi bật là hành của 3 thời kỳ Sinh, Vượng, Mộ còn hành của Mầm mống, Hủy bị “lặn” đi. Căn cứ vào đồ thị trên ta thấy các nguyên tắc sau: - Hành của thời kỳ Mộ của sự vật cũ bao giờ cũng khắc hành của thời kỳ Sinh của sự vật mới tiếp theo. Vì, như trên ta biết, Mộ của sự vật cũ sinh Mầm mống của sự vật mới. Đồng thời, Mầm mống sự vật mới sinh Sinh của sự vật mới. Do đó, Mộ của sự vật cũ phải khắc Sinh của sự vật mới. - Hành của thời kỳ Sinh (Vượng, Mộ) sự vật mới luôn “sinh” hành của thời kỳ Sinh (Vượng, Mộ) sự vật cũ trước nó. Điều này phù hợp với kết kết luận ở trên là sự vật tiến hóa theo chiều dòng Hóa khí ngược chiều tương sinh. - Hành thời kỳ Sinh (Vượng) này chính là hành của thời kỳ sau nó 4 bước ở thời kỳ Vượng (Mộ). Đó chính là cơ sở nguyên lý “cách bát sinh tử” của thuyết Âm dương Ngũ hành cổ truyền (vì mỗi hành kéo dài 2 đơn vị thời gian cho 2 Thiên can và 2 Địa chi) - Hành thời kỳ Mộ này sinh hành của thời kỳ sau nó 4 bước đang ở thời kỳ Sinh - Trong thời kỳ một sự vật gồm 3 bước Sinh, Vượng, Mộ, các hành vận động theo chiều tương sinh Tổng hợp các lý luận trên ta được sơ đồ: Giả sử rằng, hành của sự vật lớn vận hành theo chiều tương sinh bắt đầu từ Thủy liên tiếp là Thủy > Mộc > hỏa > Thổ > Kim > … Sự vật con vận hành trong sự vật lớn theo nguyên tắc như mô tả ở trên cũng bắt đầu từ Thủy. Theo các phân tích ở trên, ta thu được các hành của sự vật con vận hành như sau: Qua sơ đồ này ta thấy quan hệ giữa sự vật lớn và sự vật con có 5 thời kỳ rõ rệt, mỗi thời kỳ gồm 3 hành liên tiếp, tổng cộng trải qua15 hành tất cả, thể hiện qua quan hệ giữa các hành của chúng: - Thời kỳ Lớn hòa Con. - Thời kỳ Lớn sinh Con. - Thời kỳ Lớn khắc Con. - Thời kỳ Con khắc Lớn. - Thời kỳ Con sinh Lớn. Bảng Lục thập hoa giáp Áp dụng các lý luận trên cho đơn vị thời gian ta thấy: Giả sử vũ trụ vận động theo thời gian qua 5 hành theo chiều tương sinh bắt đầu từ hành Thủy như đã xét ở trên. Vận khí như là một yếu tố con trong sự vận hành của vũ trụ (thể hiện như các thời kỳ Sinh, Vượng, Mộ) và sinh Bản mệnh của sự vật. Áp dụng các qui tắc Sinh, Vượng, Mộ ở trên khi coi Vũ trụ là sự vật lớn còn Vận khí là sự vật con, ta xây dựng đồ hình liên hệ giữa Thiên can và Vận khí như thể hiện trên đồ hình sau: + Trên đồ hình, Hành Thiên can bắt đầu từ Thuỷ, vận động theo chiều tương sinh. Vận khí cũng bắt đầu từ Thủy. + Ở Thời kỳ đầu tiên, Thiên can hoà Vận khí thể hiện cái tính của thời kỳ bắt đầu - Tiên thiên, khi mâu thuẫn trong tương tác âm dương còn chưa thể hiện rõ. +Tiếp theo cứ 3 hành một thời kỳ: Thiên can sinh Vận khí, Thiên can khắc Vận khí, Vận khí khắc Thiên can, Vận khí sinh Thiên can. + Các thời kỳ Sinh, Vượng, Mộ của Vận khí được thể hiện trên đồ hình bằng đường gấp khúc Như vậy, hành vận động qua 15 bước thì lặp lại chu kỳ thời gian có hành Thiên can và Vận khí trùng nhau. Tiếp theo, Vận khí sinh bản mệnh được thể hiên bằng đồ hình như sau: Các Hành Thiên can còn được chia nhỏ thành Thiên can gồm 10 yếu tố bắt đầu từ hành Nhâm thuộc hành Thuỷ: Nhâm, Quí, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân. Bàn chất các Thiên can, ta đã nghiên cứu trong chuyên mục “Cơ sở học thuyết ADNH” – Vô Trước trên diễn đàn, đặc trưng cho tác động từ Vũ trụ tới sự vật cần khảo sát. Đồng thời, vận động của sự vật cũng chia ra thành 12 Địa chi bắt đầu từ Tý, thể hiện đặc trung của sự vật trong thời gian tiến hoá. Thêm các yếu tố Thiên can, Địa chi vào đồ hình vừa dựng, tiếp tục nó cho tới khi kết thúc chu kỳ gồm các khoảng thời gian mà đặc trưng là các yếu tố Thiên can, Địa chi, Vận khí, Bản mệnh không lặp lại ta được bảng phân bố thởi gian như sau, gồm 60 khoảng: Áp dụng bảng phân bố đó cho thời gian mỗi khoảng là 1 năm, vẽ lại trên đồ hình dạng hình tròn, ta thu được bảng Lạc thư hoa giáp. Như vậy, bảng Lạc thư Hoa giáp chính là bảng mô tả vận động của Vận khí và Bản mệh của một sự vật theo thời gian dưới sự chi phối của Vũ trụ, ở đó, Vận khí được coi như là một sự vật thành phần con của Vũ trụ.
  4. Tôi cũng có đọc một số tư liệu về Đề Thám và cũng nghi ngờ kiểu người Pháp công bố về cái chết của vị anh hùng này. Tôi cũng rất mong chúng ta tìm lại được mộ cụ. Tôi vốn rất hâm mộ các nhà ngoại cảm, đặc biệt là Phan Thị Bích Hằng. Không biết các nhà ngoại cảm có ý kiến thế nào về vấn đề này. Tôi có nghe phong thanh về sự tham gia của các nhà ngoại cảm nhưng chưa thấy kết luận nào của họ. Tôi nghe nói, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã tìm thấy mộ của nhiều nhân vật lịch sử như Hoàng Công Chất, Lương Ngọc Quyến, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Phong Sắc, ... thì chắc chắn chị có thể cho biết những thông tin về Đề Thám. Anh chị em nào có thông tin về vấn đề này xin chia sẻ.
  5. Anh Thiên Sứ, Thanhdc, Vinh L thân mến! Cám ơn các anh vì đã quan tâm. Em thật thấy ngượng khi anh Thiên Sứ khen ngợi vì cái em làm còn quá bé nhỏ so với những gì anh đã làm. Thực ra tôi không có nhầm công thức đâu, Thanhdc ạ. Tôi viết như thế là có dụng ý cho dễ nhớ vì thấy được qui luật, có thể tính nhẩm hay bấm trên đầu ngón tay thôi. Kết quả không thay đổi khi tôi viết X = 6 - (TC-ĐC)mod5 (khi X= 6 được tính là 1) hay viết (6-TC+ĐC)mod5 trong bảng Hoa giáp, nhưng dễ thực hiện hơn khi bấm trên đầu ngón tay. Tôi cũng tính ra công thức H = (ĐC+TC)mod5 khi đặt 1(Tý-Ngọ, Sửu-Mùi) ... nhưng tôi không viết ra vì công thức tính Hành và số thứ tự năm cần xét trong Lục thập hoa giáp cần thống nhất về cách đánh trọng số. Không thể đánh trọng số khi tính Hành một cách, đến khi tính vị trí trong Thạp lục hoa giáp lại bằng cách khác. Vấn đề là ở chỗ phương pháp tìm ra công thức đó. Thưa anh Thiên Sứ, anh đề nghị em viết lại cách tìm bảng Lục thập hoa giáp của em vì trong chuyên mục em viết khó xem quá. Em sẽ viết nhưng phải sắp xếp lại vì nó liên quan đến những nguyên lý em trình bày ở các phần trước nên cần chút thời gian. Thực ra trong chuyên mục "Cơ sở học thuyết ADNH" mà em hân hạnh được trình bày trên diễn đàn, em đã bàn đến hầu hết các khái niệm, nguyên lý cơ bản của học thuyết này bằng logic (chứ không bằng "tượng số") chỉ trừ những ứng dụng thực tế từng môn mà thôi. Em đang cố gắng ứng dụng nó lý giải cho từng môn cụ thể, khi nào có kết quả mong anh thẩm định dùm. Chân thành cảm ơn.
  6. Anh Thiên Sứ, Thanhdc, Vinh L thân mến! Cám ơn các anh vì đã q
  7. Điều này thì nhất trí hoàn toàn.Thực ra, tôi là người rất hâm mộ Đề Thám. Nếu bức thư trên quả thật là của Đề Thám thì hẳn là tôi sung sướng lắm. Nhưng những vấn đề thế này phải hết sức thận trọng. Theo tôi được đọc thì Đề Thám tuy hết sức tài giỏi, nhưng cụ ít chữ, vất vả từ nhỏ (mồ côi cha mẹ, được người cậu bế lên Yên Thế thành dân ngụ cư, không được đi học). Hơn nữa, bài thơ trên thật lưu loát, hào sảng, so với thời bấy giờ thì mới quá cả về thể loại và ngôn từ. Tôi nghĩ khó có khả năng tác giả là Đề Thám
  8. Anh chị em trên dễn đàn thân mến! Tôi xin pót lên đây kiến giải của tôi về nạp Ngũ hành cho 12 Địa chi. Thực ra kiến giải này là tiếp tục mục VII.2 của đề tài "Cơ sở học thuyết ADNH" (mà tôi hân hạnh có dịp trao đổi với các bạn trong chuyên mục "Những bài nghiên cứu của Vo Truoc" trên diễn đàn này) khi xây dựng cấu trúc ADNH của thời gian (Lúc đó, tôi chưa nghiên cứu ra vấn đề này). Vì vậy, để hiểu bài viết, xin các bạn quan tâm đọc trước những kiến thức liên quan trong chuyên mục đó. Phương pháp của tôi thuần túy logic, không dựa vào bất cứ một "tượng số" nào của cổ thư truyền lại * Nạp Ngũ hành cho 12 Địa chi: Ta có thể coi sự vật tiến hóa qua 12 Địa chi như là một sự vật có đầy đủ Ngũ hành của nó rồi tiến hành nạp Ngũ hành cho các yếu tố tương ứng 12 Địa chi. Tý là Thủy + nằm trong bán phần dương. Nó là yếu tố tĩnh nhất trong phần tĩnh, hay dương nhất trong phần dương, nên theo ý nghĩa, nó phải thuộc hành Thủy của sự vật. Hợi là Kim + thuộc Thiếu âm của phần dương, tức là yếu tố động nằm trong tĩnh. Dậu là Hỏa + thuộc Thái âm của phần dương, tức là yếu tố động nhất ở trong tĩnh. Do đó, cả Hợi và Dậu đều là động ở trong tĩnh, âm ở trong dương. Nói cách khác, Hợi và Dậu đều là Thiếu âm hay thuộc hành Kim của sự vật. Nhưng do Dậu (Hỏa +) động hơn Hợi (Kim +) nên, Dậu thuộc Âm Kim, Hợi thuộc Dương Kim. Tuất là Thổ + ở trong dương, hay nó là Chung của dương. Trong quá trình phát triển của sự vật, Chung tuy là Trung tính (cân bằng âm dương), nhưng các yếu tố của nó có xu hướng động hơn lên do sự vật, theo đồ hình, đang vận động từ dương (tĩnh) sang âm (động). Do đó, Chung (Tuất) có xu hướng động lên trong dương. Hơn nữa, về phân bố theo thời gian, nó nằm giữa Dương Kim và Âm Kim. Do đó, Tuất phài thuộc Kim. Mặt khác, ở trong bán phần dương, Tuất là Thổ + (dương) nên khi xét cả 2 bán phần, Tuất thuộc Kim thì phải là Dương Kim. Thân là Mộc + thuộc thiếu âm nằm trong bán phần dương hay là yếu tố tĩnh nằm trong tĩnh. Do bản chất tĩnh nên nó không thể thuộc hành Kim. Do vị trí tương sinh của nó với Dậu (âm Kim) nên Thân phải thuộc âm Thổ. Mùi là Thổ 2 do thành phần động nhất hay âm nhất (Thủy - ) sinh nên nó phải tuộc âm Thổ. Lý luận tương tự cho bán phần âm của sự vật khi lưu ý dương tính trong bán phần này là tính động, ta thu dược kế quả: Ngọ thuộc Hỏa; Thìn, Tỵ thuộc âm Mộc; Mão thuộc dương Mộc; Sửu, Dần thuộc dương Thổ. Vậy, nạp Ngũ hành cho 12 Địa chi như sau: TÝ ....................................THỦY SỬU, DẦN .......................DƯƠNG THỔ MÃO .................................DƯƠNG MỘC THÌN, TỴ ..........................ÂM MỘC NGỌ ..................................HỎA MÙI, THÂN ......................ÂM HỎA DẬU ..................................ÂM KIM TUẤT, HỢI ........................DƯƠNG KIM Nếu bố trí trên mô hình 8 ô theo chiều tương sinh ta được:
  9. Thực ra không khó nhớ đâu, VinhL ạ. Chẳng qua là chưa quen thôi. Tôi thấy công thức của tôi đơn giản hơn (chỉ có 1 phép cộng và một phép lấy mod), cộng trừ các số nhỏ hơn, cũng có thể đếm trên đầu ngón tay và còn cho biết số thứ tự của năm trong Hoa giáp cũng như Sinh, Vượng, Mộ và cả các quan hệ giữa Thiên can và Vận khí, Bản mệnh. Nhược điểm của nó là số ứng với các hành khác với độ số hành truyền thống.Tôi còn khoái ở chỗ đây là công thức 100% made in VN, không tham khảo bất cứ một sách nào của Tàu.
  10. Huygenn viết: Tôi đề nghị VinhL đổi công thức bao giờ vậy ? Tôi chỉ bình luận: Nợi dung câu viết trên hoàn toàn không giống như bạn diễn giải. Thậm chí tôi còn tán dương VinhL: Huygenn viết: Bạn hơi quá khích đấy.Tôi chỉ cống hiến cho diễn đàn một phương pháp tính khác và hoàn toàn không bình luận gì về ưu nhược của nó: Thế mà bạn lại viết với tinh thần như vậy. Thật đáng buồn!
  11. Đao Hoa thân mến! Tôi luôn hiểu chân tình của bạn và rất cảm kích. Nhưng chỉ bởi hướng tư duy khác nhau nên nhiều chỗ không hiểu ý nhau, thuần túy trên phương diện học thuật mà thôi. Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận, kiến thức của bạn theo trường phái "tượng số" là rất cao cường. Tiếc rằng tôi lại không đồng tình với phương pháp nghiên cứu của trường phái ấy. Tôi rất trân trọng những trao đổi với bạn.Tôi cũng thừa nhận rằng cổ nhân đã phát triển học thuyết ADNH tới mức hoàn thiện và chúng ta chẳng thể phát minh thêm điều gì mới. Nhưng cái tôi nói đến là phương pháp nghiên cứu để có thể hiểu được học thuyết ADNH của cổ nhân chứ không phải là làm cái gì mới cả. Vì tôi nhận thấy những hạn chế của phương pháp "tượng số" nên mới đề xuất phương pháp khác mà thôi. Tôi đã dùng phương pháp logic xây dựng từ những khái nệm cơ bản ban đầu nghiên cứu ADNH và từ chỗ cách đây hơn 2 năm tôi luôn "kính nhi viễn chi" với học thuyết này, tôi đã xây dựng được "cơ sở học thuyết ADNH", và hầu hết những nguyên lý cơ bản (không phải các ứng dụng, do tôi chưa có đủ thời gian nghiên cứu) của nó tôi đã sâu chuỗi, lý giải được trong một hệ thống logic tương đối chặt chẽ. Tôi hiểu khối lượng công việc còn rất khổng lồ nên mới kêu gọi mọi người chung tay theo phương pháp này. Vài hôm nữa tôi sẽ xin trình bày trên diễn đàn kiến giải về nạp Ngũ hành cho 12 Địa chi của mình bằng phương pháp hoàn toàn dựa trên suy luận logic, xử dụng những kiến thức trong chuyên mục "Cơ sở học thuyết ADNH" của mình. Mong bạn và các anh chị em đóng góp ý kiến. Thân mến.
  12. Phở có nguồn gốc từ món sáo trâu của quê tôi - thành phố Nam định. Tôi có người bạn luôn tự tào rằng, làng của anh ta là quê hương của phở. Quả thực là gần như cả làng anh ta đều có nghề phở. Tất cà các quán phở Bắc Hải ở Tp HCM đều là người làng anh ta. Ở ngoài Bắc, đối với người sành phở thì phở Nam Định còn ngon hơn phở Hà nội. Phở Hà nội là do Nam Định truyền lên.
  13. Bài thơ nói là của cụ Đề Thám gửu Bá Phức như trên, tôi cho rằng không phải. Đây là một bài thơ của mộy vị tù Cộng sản dựa vào sự tích quan hệ giữa Đề Thám và Bá Phức để thể hiện ý chí của mình, trả lời địch khi chúng cho một người bạn cũ dụ dỗ. Bài thơ này đã được xuất bản khá lâu trong một tuyển tập thơ nào đó mà tôi đã đọc. Vì thích giọng thơ hào sảng, tôi đã thuộc từ lâu, có một số dị biệt với bài thơ trên nhưng chắc chắn là từ một bài thơ. Tôi xin chép ra đây bản mà tôi thuộc cách đây có đến hơn 20 năm: Đọc những lời trong thư cha dụ dỗ. Dòng lệ con hoen ố mảnh nhung y. Nhớ ngày nào ôm chí lớn ra đi. Trong quá khứ cha ghi nhiều kiêu hãnh Kìa lưỡi kiếm máu kẻ thù còn dính Bỗng anh hùng tim lạnh bởi hư vinh Ngoài phong ba vùng vẫy bóng nghê kình Tham mồi béo nộp mìmh cho ngư phủ. Trên rừng xanh tung hoành oai mãnh hổ Hám mồi ngon vò võ chốn chuồng con Bả vinh hoa làm chết cả tâm hồn Nhưng nào chuyển kẻ lòng son dạ sắt Mây Nùng Lĩnh còn mịt mờ u uất Sóng Nhị Hà còn chứa chất căm hờn Thì đời con là của cả giang sơn Dẫu thịt nát xương tan đâu dám kể Rồi những lúc cha vui vầy vị kỷ Là khi con rầu rĩ khóc non sông Đên canh trường cha nệm gấm chăn bông Nơi rừng thẳm con nằm chông nếm mật Cha hít thở hương trầm bay bát ngát Pha lẫn mùi máu thịt của lê dân Thì mũi con ngẹt thở cổ khô khan Tai vẳng tiến hồn oan trong thảm cảnh Cha ngực đầy mề đay kim khánh Con bên mình lóng lánh kiếm tiêm cừu Cha say mê bên thiếu nữ yêu kiều Con tận tụy với tình yêu Tổ Quốc Ngiã là cha mang tài năng trí óc Xem vinh thân là mục đích cuối cùng Thì con đây đem xương trắng máu hồng Để cứu vớt non sông làn chí nguyện Cha với con là hai trận tuyến Cha một đường và con tiến một đưồng Thôi từ nay hai chữ cương thường Con mở rộng để tôn thờ Tổ Quốc Buổi đoàn viên cha đừng mong ước Cuộc gặp mặt là đại bác thần công Bức thư này là bức thư cuối cùng Và cha chỉ là cha trong dĩ vãng Thôi hạ bút cho tâm tình gián đoạn Để nghe đời kết án kẻ gian phi Thanh kiếm thần ta tuốt sẵn chờ mi Tuy ngưỡng mộ và kính trọng Đề Thám, chúng ta cũng cần cẩn trọng với những tư liệu nếu không lại làm hại cho vị anh hùnh dân tộc náy
  14. Cám ơn bạn VinhL đưa ra công thức tính nhẩm nạp âm ngũ hành khá hay dựa vào Hợp kỷ biện phương thư và Thừa số học. Chỉ tiếc rằng nó chỉ đúng với bảng Lục thập Hoa giáp mà không đúng với Lạc thư Hoa Giáp của anh Thiên Sứ. Các bạn cũng đã biết, anh Thiên Sứ đã chứng minh bảng Lục thập Hoa giáp mà cổ thư truyền lại là không chính xác và đưa ra bảng Lạc thư Hoa giáp thay thế. Trong chuyên mục "Cơ sở Học thuyết ADNH" tôi cũng lập ra bảng Hoa giáp, đồng thời chỉ rõ cơ sở lý thuyết của nó bằng phương pháp lôgíc, hoàn toàn độc lập với phương pháp của anh Thiên Sứ, được kết quả chính xác là bảng Lạc thư Hoa giáp. Điều này gián tiếp khẳng định tính đúng đắn của Lạc thư Hoa giáp và lý thuyết trong chuyên mục "Cơ sở Học thuyết ADNH". Bạn VinhL đề nghị đổi Thủy - Hỏa để có thể dùng công thức của mình cho Lạc thư Hoa giáp, tuy kết quả chính xác nhưng logic thì có cái gì đó không ổn (không thể dùng công thức từ một nguyên lý bị sai lệch cho nguyên lý đúng). Trong khi nghiên cứu của mình, tôi cũng đưa ra công thức tính nạp âm Ngũ hành cho các đơn vị thời gian như sau, đúng vói Lạc thư Hoa giáp mà không đúng với Thập lục Hoa giáp của cổ thư. Xin chia sẻ với các anh chị em trong diễn đàn như sau: Đặt trọng số Địa chi, Thiên can: ĐC = 1 (Tý, Sửu), 2 (Dần, Mão), 3 (Thìn, Tỵ), 4 (Ngọ, Mùi), 5 (Thân, Dậu), 6 (Tuất, Hợi) TC = 1 (Giáp, Ất), 2 (Bính, Đinh), 3 (Mậu, Kỷ), 4 (Canh, Tân), 5 (Nhâm, Quí) Tính H = (ĐC+TC)mod5 (nếu ĐC < = 3). H = (ĐC+TC-3)mod5 (nếu ĐC > 3) Nếu: H = 4, Mệnh Thủy H = 3, Mệnh Hỏa H = 2, Mệnh Kim H = 1, Mệnh Mộc H = 0, Mệnh Thổ (Chiều giảm dần của H từ 4 tới 0 là chiều tương khắc của các hành bắt đầu từ Thủy) Mệnh thuộc Sinh khi ĐC = 1;4, Vượng khi ĐC = 2;5, Mộ khi ĐC = 3;6 Ngoài ra, hành của Vận khí xác định theo nguyên tắc: Vận khí sinh Bản mệnh. Vị trí đơn vị thời gian đang xét trong 60 đơn vị thởi gian của Hoa giáp tính theo công thức: X = 6 - (ĐC - TC)mod5, khi X = 6 được tính bằng 1 X là số thứ tự của vòng Địa chi trong Hoa giáp (1 Hoa Giáp có 5 vòng Địa chi) Căn cứ vào hành của Thiên can, Vận khí, Bản mệnh có thể biết thời điểm khảo sát có đặc tính gì. Ví dụ: Năm Ất Dậu: ĐC = 5 (Thân, Dậu) > 3 TC = 1 (Giáp, Ất) H = (5 + 1 - 3)mod5 = 3 ----> Mệnh Hỏa vượng (Sơn đầu Hỏa - Lạc thư Hoa giáp) ----> Vận khí Mộc vượng, Thiên can Kim (Tân) ---> Thiên can khắc Vận khí (Kim khắc Mộc), Bản mệnh khắc Thiên can (Hỏa khắc Kim) X = 6 - (5 - 1)mod5 = 2 ---> Ất Dậu thuộc vòng Địa chi thứ 2 trong Hoa Giáp, tức là năm thứ 22 của Hoa giáp (bắt đầu 12 đếm từ Tý đến Dậu đươc 22)
  15. Anh chị em trên diễn đàn thân mến! Rất vui vì câu hỏi của tôi trên diễn đàn được cả ba cao thủ hang đầu của diễn đàn là Thiên Sứ, Đào Hoa và VinhL cho ý kiến. Tôi xin sơ lược lại những ý kiến đó như sau: Đầu tiên là bạn VinhL cho rằng nạp ngũ hành cho 12 Địa chi là do vị trí trên bầu trời của 28 tinh tú và theo bảng Lạc thư Hậu thiên bát quái cửu cung. Sau đó anh Đào Hoa chỉnh lại: sự nạp Ngũ hành đó là do sự biến hóa Tiên thiên bát quái và Hậu thiên bát quái Văn Vương qua Lạc thư. Anh Thiên Sứ thì cho rằng người ta căn cứ vào Hà đồ để làm điều đó và Ngũ hành của Lạc thư không liên quan đến Ngũ hành của 12 Địa chi, thậm chí còn đưa ra ý kến: cách nạp Ngũ hành cho 12 Địa chi (của cổ thư truyền lại) mà tôi hỏi là sai. Tất cả các ý kiến trên đều không có lý giải chặt chẽ mà chỉ dựa vào sự tương ứng và gán chủ quan theo nhận định được cho là hợp lý đối với mỗi người và ai cũng chỉ ra được sự không hợp lý lắm trong giả thích của người khác. Cuối cùng, tôi cũng không thể hiểu nổi ý kiến của ai là chính xác, chính xác ở điểm nào và ý kiến của ai không chính xác, không chính xác ở điểm nào. Nếu có một cao thủ nào nữa tham gia, tôi cũng không chắc tình hình trên có được cải thiện hay không. Tại sao lại có tình trạng này trong khi những người cho ý kiến đều là những cao thủ trên diễn đàn mà mọi người đều biết và có thái độ hết sức thiện chí ? Đồng thời đồ hình trên là rất cơ bản, làm cơ sở trong các môn dự đoán học, rất quen thuộc với mọi người. Có lẽ ai cũng có thể biết được nguyên nhân là do cơ sở học thuyết ADNH đã bị thất truyền. Nhưng nếu muốn phục hồi nó thì, qua các thảo luận trên cho thấy, phương pháp tư duy dựa vào sự gán ghép “tượng, số” chỉ có thể tìm ra được một vài mâu thuẫn trong quá trình tam sao thất bổn mà không thể dẫn đến thành công, chỉ bổ xung vào những thất bại trong hàng ngàn năm nay của bao lớp tiền nhân tài trí. Để thành công, chúng ta phải cùng nhau khai phá con đường khác (tất nhiên không phải bằng cách ngồi thiền như có 1 bạn đề nghị !) tuy không bỏ qua những thành tựu của con đường cũ. Tôi cho rằng con đường tư duy logic là hợp lý trong thời đại ngày nay. Thân ái.
  16. Chào VinhL. Tôi xin trả lời các ý kiến của VinhL như sau: VinhL viết: Điều này thì hiển nhiên rồi. Nhưng Điều này thì tôi cho rằng chưa chắc chắn. Khi đặt tên cho một sự vật nào đó, người ta có thể dựa vào nguồn gốc của sự vật nhưng cũng có thể dựa vào đặc điểm, hoặc tính chất, hoặc biểu tượng, hoặc … vô số lý do, thậm chí dựa vào một kỷ niệm nào đó. Tôi nghiêng về khả năng, cái tên Tử vi Đẩu số dựa vào biểu tượng của yếu tố chính hơn là dựa vào nguồn gốc. Thuyết ADNH mà tôi trình bày không căn cứ vào “trường khí và năng lực của các thiên thể” mà ngược lại, “trường khí và năng lực của các thiên thể” tuân theo các qui luật của nó. Nói cách khác, phạm vi của nó rộng hơn nhiều tường khí của các thiên thể. Dĩ nhiên, khi các thiên thể thay đổi thì sẽ có những biến đổi tương ứng của trường khí vũ trụ nhưng các qui luật của thuyết ADNH không bị ảnh hưởng. Cũng giống như khi các thiên thể thay đổi như thế nào đi nữa thì định luật vạn vật hấp dẫn của Niuton vẫn thế mà thôi. Tuy nhiên, tôi cũng phải quan sát tự nhiên để tìm hiểu bản chất học thuyết ADNH, nhưng khi tìm ra các qui luật của ADNH thì thấy chúng chi phối các hiện tượng tự nhiên chứ không phải ngược lại. Điều này chứng tỏ rằng, học thuyết ADNH không thuộc sở hữu của người Hoa Hạ và là lý do cho những cố gắng phục hồi học thuyết vĩ đại này. Tôi mơ ước một ngày nào đó, những câu hỏi “tại sao” này sẽ được trả lời đầy đủ. Thứ nhất, tôi không dám “chỉ giáo” cho bất cứ ai, nhất là cho VinhL. Tuy tôi không thích kiểu tranh luận trên Vietlyso về chủ đề sự tương quan giữ Mộc tinh và sao Thái tuế, nhưng dù sao cũng thấy phần nào những lập luận cho rằng sao Thái Tuế trong Tử Vi không phải là Mộc tinh là có logic. Cái tôi không thích ở đây là phong cách, mục tiêu, ứng xử … chứ không phải là nội dung cuộc tranh luận. Vì thế mà tôi không tham gia Vietlyso nữa. Theo nghiên cứu của tôi, vòng sao Thái tuế, không những có trong Tử vi mà còn có mặt trong nhiều môn dự đoán học khác nữa, chính là sự mô tả chủ khí của năm vận hành trong thời gian một năm qua 12 Địa chi. Nó chẳng là hệ quả của một thiên thể nào cả, mà nếu có một thiên thể nào gắn bó với nó, thì chẳng qua đó là một biểu tượng của nó do sự trùng hợp một số đặc điểm mà thôi. Các sao khác cũng có ý nghĩa biểu tượng cho trường khí hay một nhóm trường khí một cách tương tự. Ý nghĩa của 12 Địa chi tôi đã trình bày trong chuyên mục “Đại cương cơ sở học thuyết ADNH”. Thân mến.
  17. Thật chí lý!Tôi cho rằng, nếu tồn tại một nền văn minh ngoài Trái đất thì sự tiến hóa sẽ cách nhau quá xa, tỷ như đối với ta họ cỡ như loài tảo hoặc là ngược lại, và thật tai hại khi trường hợp này sảy ra. Chưa kể rằng chiều hướng, bản chất sự sống và tiến hóa khác nhau. Chẳng thể hiểu nhau nếu có tiếp xúc. Sự trùng hợp về thời điểm, chiều hướng, bản chất có xác xuất hầu như bằng zero và ngay trong trường hợp ấy sảy ra thì 50% chúng ta sẽ bị hủy diệt (bài học tìm ra châu Mỹ vẫn còn đó)
  18. VinhL thân mến! Trong chuyên mục "Cơ sở học thuyết ADNH" của mình, Vô Trước viết: Do đó, tôi cho rằng đề xuất: là một sai lầm vì nếu như vậy ta đã lấy một hiện tượng, một hình thức không chính xác thay cho bản chất.Hình như trên Vietlyso cũng có một cuộc tranh luận nảy lửa về vấn đề này với kết quả không được hay cho lắm. Thực ra, khi bạn đến nhà một ai đó, để nhớ đường, bạn thường lấy một cái gì đó làm chuẩn, ví dư như cái cây, cột điện, ... làm chuẩn. Các sao trong các môn dự đoán theo học thuyết ADNH cũng chỉ là những cái mốc chuẩn tương tự mà thôi. Khi tôi hẹn bạn đi nhậu ở quán cây bàng thì không có nghĩa chúng ta sẽ dùng quả bàng làm mồi nhậu.
  19. Cái này chẳng ăn nhập gì với điều tôi viết cả.
  20. Tôi nghĩ rằng, anh Thiên Sứ rất tự tin ở cái "biết" của mình, chẳng sợ "đồ đó là của mình hay của người khác". Nhưng anh Thiên Sứ vẫn gắng sức là vì trách nhiệm xã hội, tấm lòng với sự thực, với dân tộc, với tổ tiên. Chúng ta nên tiếp sức.
  21. Anmay thân mến! Nếu thiền mà còn phải ngồi thiền thì cũng thường thôi, chưa cao lắm đâu. Sống thiền cao hơn nhiều! Tất nhiên dùng phương pháp nào đối với mỗi người còn tùy nhân duyên. Tuy ngón tay không phải mặt trăng nhưng cũng nhờ nó mà ta thấy mặt trăng. Nhưng nếu theo ngón tay mà vẫn không thấy mặt trăng (do chỉ sai) thì tốt nhất ta theo những cái khác hay hơn (ví dụ như cành cây chẳng hạn) miễn là thấy mặt trăng. Hà tất cứ nhất định phải nhìn theo ngón tay mà cả ngàn năm nay ta cố gắng cũng chưa thấy mặt trăng.
  22. VinhL thân mến! Vấn đề này tôi đã sai và đính chính lại trong chuyên mục "Lý học Đông phương \ Bắc đẩu Thất tinh" khi trả lời bạn Ru Bi rồi mà. Phải ngược lại mới đúng. Tuy nhiên, không ảnh hưởng tới bản chất những luận điểm của tôi trong chuyên mục " Đại cương Cơ sở học thuyết ADNH"Những nghiên cứu của các bạn về sự tương quan giữa các đồ hình của học thuyết ADNH với thiên văn rất hay. Nhưng theo tôi, dù có hay đến đâu cũng không chứng minh hay làm sáng tỏ được bản chất của tương tác ADNH, nên ứng dụng hay phát triển sẽ rất khó khăn. Quan điểm của tôi vẫn là: Tuy nhiên, tôi vẫn rất thích thú với những kết quả thú vị của các bạn. Nhưng thú thực, nếu cứ tư duy theo kiểu "tượng", "số" thì mỗi vấn đề nảy sinh sẽ có hàng chục cách lý giải khác nhau tùy thuộc vào trí tưởng tượng của mỗi người và chẳng thể kết luận được cái nào sai, cái nào đúng. Thực tế ứng dụng đã cho ta nhiều ví dụ như vậy.Tôi cho rằng, các nhà nghiên cứu hàng ngàn năm nay đã cố gắng tìm hiểu học thuyết ADNH bằng phương pháp đó, kết quả như thế nào chắc các bạn đã rõ. Có thể nói, ngày càng mờ mịt. Nếu ta không có cách tư duy khác thì cũng chỉ bổ xung cho chuỗi thất bại đã trải dài hàng ngàn năm đó mà thôi. Chẳng nhẽ điều đó không nhắc nhở bạn phải đổi mới phương pháp nghên cứu hay sao? Thân mến!
  23. Nghiên cứu Phật học và học thuyết ADNH, tôi cho rằng, học thuyết ADNH chính là học thuyết thống nhất vũ trụ như anh Thiên Sứ khẳng định và Phật học, về bản chất, chính là sự khai thác học thuyết ADNH ở góc độ nhân sinh quan giúp con người đạt được giác ngộ. Không một luận điểm nào của Phật học mâu thuẫn với học thuyết ADNH, mà trái lại làm sáng tỏ hơn và khai thác, ứng dụng một cách tài tình. Phật học được nghiên cứu và để lại nhiều trước tác sâu sắc, tương đối rõ ràng, còn học thuyết ADNH khá mịt mờ và sai lệch, biến dạng theo thời gian. Do đó, nghiên cứu Phật học giúp ích rất nhiều cho nghiên cứu học thuyết ADNH. Xin có mấy lời bàn góp.
  24. Nếu ta cho rằng, học thuyết ADNH là học thuyết thống nhất vũ trụ thì chắc chắn nó không chỉ xuất phát từ quan sát thiên văn, vì thiên văn chỉ là một lĩnh vực của tự nhiên mà thôi, đặc biệt, các sao quan sát được cũng càng nhỏ hẹp hơn nữa so với toàn vũ trụ. Những quan sát thiên văn phù hợp với học thuyết ADNH chứ không phải học thuyết này xuất phát từ các quan sát thiên văn. Sự phù hợp của các quan sát thiên văn với học thuyết ADNH chỉ chứng minh cho tính đúng đắn của học thuyết ADNH chứ không phải là nguồn gốc của nó. Nguồn gốc học thuyết ADNH phải là sự tổng hợp của tất cả các quan sát tự nhiên, tâm linh, tình cảm, ... chứ thiên văn chỉ là một phần rất nhỏ. Chỉ có như vậy học thuyết ADNH mới có thể đảm trách vai trò học thuyết thống nhất vũ trụ.Vì vậy, đối với tôi, các quan sát thiên văn chỉ có giá trị kiểm chứng, gợi ý nghiên cứu, nó tương đương với quan sát sự vận động phát triển của bất kỳ sự vật nào khác. Người xưa từng nói, một hạt bụi cũng chứa toàn vũ trụ mà. Đó là ý kiến của cá nhân tôi, xin chia sẻ cùng VinhL. Thân mến!
  25. VinhL thân mến!Lường thiên xích là đồ hình đường vận động của dòng khí âm qua các yếu tố trong sự vật. Dòng khí âm là dòng thứ tự các hiệu ứng tương tác trong sự vật làm cho sự vật phát triển, biến đổi thoát ra khỏi trạng thái cũ. Quĩ đạo dòng khí âm là: KHẢM -> KHÔN -> CẤN -> TỐN -> THỔ -> CÀN -> LY -> CHẤN -> ĐOÀI. Đồ hình bạn đưa ra là Lường thiên xích trên mô hình Lạc thư. Trên các mô hình khác, ví dụ như Hà Đồ có quĩ đạo Lường thiên xích khác. Vì ý nghĩa của nó như thế nên các môn dự đoán học phương Đông cổ như Thái ất, Kỳ môn độn Giáp, Cửu cung phi tinh... xử dụng Lường thiên xích như những nguyên lý căn bản bởi vì bản chất các môn đó là nghiên cứu ảnh hưởng của các dòng khí âm, dương, ... trong vũ trụ ảnh hưởng như thế nào tới một sự vật. Nguyên lý của Lường thiên xích hay nguyên lý vận động dòng khí âm qua các yếu tố của sự vật tôi đã trình bày kỹ lưỡng trong chuyên mục " những bài nghiên cứu của Vô trước", chắc VinhL có đọc qua nhưng không chú ý. Thân mến.