phongthuysinh

Hư Thực Của Thuyết Nạp Giáp

136 bài viết trong chủ đề này

... kỷ phá Ất ...

Anh Thiên Sứ mến,

What ??? Anh có đánh lộn không đó. Đã nói là "phá" có nghiã là dòng sông Dương Tử đã chảy ngược dòng, thì Ất phá Kỷ mới đúng. Tặng anh tấm hình cho những năm âm Can

Posted Image

Trong hình đó, thì

Ất phá Kỷ

Kỷ phá Quý

Quý phá Đinh

Đinh phá Tân

Đào Hoa

ps: khi nào rãnh em sẽ vẽ thêm vài tấm hình tặng anh để giải thích hết sự "hợp" và "phá" trong thập can . Nó sẽ giúp anh bổ sung bài viết về nguồn gốc của con cháu Lạc Việt trong thời cổ đá, trước thời Lạc Thư và Hà Đồ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hà Uyên chào anh chị em.

Phongthuyssinh thân mến.

Đọc bài viết của Phongthuysinh, Hà Uyên cần một vài ngày, bạn đã đánh thức quá khứ mà Hà Uyên đang nhớ lại dần.

Phongthuysinh cứ tiếp tục bình giải cùng anh chị em.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Thiên Sứ mến,

What ??? Anh có đánh lộn không đó. Đã nói là "phá" có nghiã là dòng sông Dương Tử đã chảy ngược dòng, thì Ất phá Kỷ mới đúng. Tặng anh tấm hình cho những năm âm Can

Posted Image

Trong hình đó, thì

Ất phá Kỷ

Kỷ phá Quý

Quý phá Đinh

Đinh phá Tân

Đào Hoa

ps: khi nào rãnh em sẽ vẽ thêm vài tấm hình tặng anh để giải thích hết sự "hợp" và "phá" trong thập can . Nó sẽ giúp anh bổ sung bài viết về nguồn gốc của con cháu Lạc Việt trong thời cổ đá, trước thời Lạc Thư và Hà Đồ

Chào chú DaoHoa,

Mấy hôm nay, suy đi nghỉ lại cái cái vòng hợp phá của Thiên Can, sắp xếp các số tiên thiên, hậu thiên, vv…. Nay đã có thể đạt đến chổ thấu triệt và xin luận giải như sau:

Vòng số tiên thiên 61834927 là vòng tương khắc, vòng số hậu thiên Lạc Việt 61832749 là vòng tương sinh. Xung Phá và Hợp Hóa chính là nói lên sự vận chuyển của các hành trong tiên thiên và hậu thiên.

Thiên Can Xung Phá đi theo vòng Thiên Thiên Tương Khắc, Thiên Can Hợp Hoá đi theo vòng Hậu Thiên Lạc Việt. Vòng Xung Phá là vòng vận chuyển nghịch, vòng Hợp Hóa là vòng vận chuyển thuận theo hình số 8.

Can Xung thì có:

Giáp xung Canh, Ất xung Tân, Bính xung Nhâm, Đinh xung Quí, Mậu xung Nhâm, Giáp xung Mậu, Ất xung Kỷ .

Can Phá ta có:

Giáp phá Mậu, Ất phá Kỷ, Bính phá Canh, Đinh phá Tân, Mậu phá Nhâm, Kỷ phá Quí, Canh phá Giáp, Tân phá Ất, Nhâm phá Bính, Quí phá Đinh.

Theo nhận xét về Xung và Phá thì vòng Phá bao gồm luôn cả các trường hợp Xung.

Vòng Xung Phá

[4 Tân-][9 Canh-][2 Đinh]

[3 Giáp][Mậu Kỷ][7 Bính]

[8 Ất---][1 Nhâm][6 Quí-]

Vòng xung phá chia làm 2 vòng, 1 đi theo 4 cung tứ chính, 1 đi theo 4 cung tứ duy

Vòng Tứ Chính: Giáp phá Mậu, Mậu phá Nhâm, Nhâm phá Bính, Bính phá Canh, Canh phá Giáp. Dương Mộc khắc Dương Thổ khắc Dương Thủy khắc Dương Hỏa khắc Dương Kim khắc Dương Mộc.

Vòng Tứ Duy: Ất phá Kỷ, Kỷ phá Quí, Quí phá Đinh, Đinh phá Tân, Tân phá Ất. Âm Mộc khắc Âm Thổ khắc Âm Thủy khắc Âm Hỏa khắc Âm Kim khắc Âm Mộc

Vòng Xung Phá này vẻ theo cách nào củng không thể giải thích hợp lý hết được 10 cái can phá ngoạo trừ 2 vòng nghịch chuyển tứ chính và tức duy này.

Can Hợp Hóa ta có:

Giáp Kỷ hoá Thổ, Ất Canh hóa Kim, Bính Tân Thủy, Đinh Nhâm hóa Mộc, Mậu Quí hóa Hỏa.

Vòng Hợp Hóa

[2 Ất--][7 Canh--][4 Đinh-]

[3 Bính][Mậu Quí][9 Nhâm]

[8 Tân-][1 Giáp--][6 Kỷ---]

Vòng này do số 5 nhập trung cung vận chuyển theo lường thiên xích Lạc Việt. Hành hợp hóa thì đi theo vòng lưỡng nghi thuận.

Giáp Kỷ 1-6 hóa -> Thổ, Mậu Quí 5-10 hóa -> Hỏa, Ất Canh 2-7 hóa -> Kim, Đinh Nhâm 4-9 hóa -> Mộc, Bính Tân 3-8 hóa -> Thủy, Giáp Kỷ 1-6.

Số thì đi theo lường thiên xích Lạc Việt, hành thì hóa theo vòng lưởng nghi số 8!!!

Nếu vòng này vẻ theo số Tiên Thiên thì lại bỏ xót Ất Canh 2-7 hóa Kim không vận mà dậm chân tại chổ-> không hợp lý!!!

Có gì sai sót mong các Bác, Chú chỉ điểm.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào các vị,

Có hai điều chúng ta cần lưu ý đó là vị trí của thiên can trên địa bàn, tại sao vị trí của nó phải là ở tứ chánh mà không phải tứ ngung hay chia đều ra ? Nếu xấp xếp tùy ý thì đương nhiên ít nhất cũng có một cách giải thích .

PTS

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào các vị,

Có hai điều chúng ta cần lưu ý đó là vị trí của thiên can trên địa bàn, tại sao vị trí của nó phải là ở tứ chánh mà không phải tứ ngung hay chia đều ra ? Nếu xấp xếp tùy ý thì đương nhiên ít nhất cũng có một cách giải thích .

PTS

Phongthuysinh thân mến.

Hay quá, Phongthuysinh bình giải tiếp nhé: "Nó phải ở Tứ chính" .

Chúng ta đã bắt đầu ra đường cao tốc rồi. Với tốc độ quy định cho luồng xe đi trên đường cao tốc, thì "Tứ chính" đóng vai trò chủ đạo. G-K dùng 3, A-C dùng 5, B-T dùng 7, Đ-N dùng 9, M-Q dùng 1.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào anh, Thiên Sứ

Nói cho rõ là vầy: chúng ta có cùng câu hỏi dành cho anh Thiên Sứ về (1) Bính phá Canh và (2) Tân phá Ất như thế nào khi anh ấy gia ngũ hành phương vị với độ số trên Hà Đồ theo lý giải "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt" của anh ta. Vì anh Thiên Sứ:

- cho Bính là Mộc và Canh là Hỏa thì làm sao Mộc lại tương khắc với Hỏa

- cho Tân là Mộc và Ất là Hỏa thì làm sao Mộc lại tương khắc với Hỏa

Còn về bạn, DaoHoa cho rằng Tổ tiên Lạc Việt đâu có ghi "ngũ hành tương sinh" hay "ngũ hành tương khắc" thì anh ấy vay mượn ngũ hành của ai, của người Trung Hoa ư để nói sinh, nói khắc?

Hy vọng DaoHoa đã rõ ý!

Anh Sapa ah:

Bính phá Canh - Hỏa khắc Kim - .....Thiên Can ở Tiên Thiên. Giáp sinh Bính - Mộc sinh Hỏa - ......Thiên can ở tiên thiên.

Giáp hợp kỷ phá Ất xung Canh....Thiên Can ở Hậu thiên nên phối với số Hà Đồ.

Có vậy thôi.

Tôi không tranh luận phần ứng dụng.

Khi anh nói: Thiên Can ở Tiên Thiên hoặc Thiên Can ở Hậu Thiên là anh muốn lý giải nó ra sao?

Khi thì: Thiên Can ở Hậu thiên nên phối với số Hà Đồ ...

Khi thì: Thiên Can ở Tiên thiên nên Giáp là Mộc, Bính là Hỏa v.v...

Vì ngay cả cái gọi là Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì anh đã dựa vào đâu để gán đặt và xử dụng theo kiểu sinh / khắc?

Ví dụ: ở Hà Đồ, vốn dĩ chỉ là 5 nhóm (trắng-đen) với 1 nhóm (5-10) ở trung tâm còn lại nằm ở 4 hướng chính (1-6), (3-8), (2-7), (4-9). Anh đã dựa vào 4 hướng chính này và trung tâm để định ngũ hành theo sách vở (của người Trung Hoa ư hay là người Lạc Việt)? Điều này, ta sẽ không đi vào thảo luận ở đây nhưng cái mà anh cho là:

Giáp = Mộc, Bính = Hỏa v.v...

sẽ tương ứng với số Hà Đồ thế nào khi anh bảo Thiên Can ở Hậu thiên nên phối với số Hà Đồ nhé.

Trên Hà Đồ cửu cung, anh cho:

(6-1) Âm-Dương THỦY

(8-3) Âm-Dương MỘC

(2-7) Âm-Dương HỎA

(4-9) Âm-Dương KIM

(10-5) Âm-Dương THỔ

rồi quay sang Thiên Can:

Giáp: D.Mộc (1) - Kỷ: Â.Thổ (6)

Ất: Â.Mộc (2) - Canh: D.Kim (7)

Bính: D.Hỏa (3) - Tân: Â.Kim (8)

Đinh: Â.Hỏa (4) - Nhâm: D.Thủy (9)

Mậu: D.Thổ (5) - Quý: Â.Thủy (10)

thì khó mà nhìn ra độ số ngũ hành của Hà Đồ có tương ưng gì với "ngũ hành" của Thiên Can.

Anh Thiên Sứ có thể nói rõ hơn không? Cám ơn.

Sapa

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào bạn, DaoHoa

Anh Thiên Sứ mến,

What ??? Anh có đánh lộn không đó. Đã nói là "phá" có nghiã là dòng sông Dương Tử đã chảy ngược dòng, thì Ất phá Kỷ mới đúng.

Thiết nghĩ, anh Thiên Sứ không có đánh lộn mà là quá cô đặc thành ra DaoHoa mới nghĩ vậy.

Anh Thiên Sứ viết:

Giáp hợp Kỷ phá Ất xung Canh

có nghĩa là:

GIÁP hợp Kỷ

GIÁP phá Ất

GIÁP xung Canh

Nếu không đúng ý anh thì anh lên tiếng đính chính nhé, anh Thiên Sứ.

Tặng anh tấm hình cho những năm âm Can

Posted Image

Trong hình đó, thì

Ất phá Kỷ

Kỷ phá Quý

Quý phá Đinh

Đinh phá Tân

Đào Hoa còn chưa xong đó nghen:

Ất phá Kỷ

Kỷ phá Quý

Quý phá Đinh

Đinh phá Tân

Tân phá Ất

mà như vậy thì đâu còn hình chữ S của lưỡng nghi nữa. Chẳng những thế, Đào Hoa dựa vào đâu để cho Quý nằm giữa và Ất, Kỷ, Tân, Đinh nằm ở 4 hướng như thế kia?

Thực ra, không gia ngũ hành vào các Thiên Can ấy thì đặt để Quý, Ất, Kỷ, Tân, Đinh ở đâu mà chẳng được miễn sao theo trình tự như trên thôi, phải không Đào Hoa!

Đào Hoa

ps: khi nào rãnh em sẽ vẽ thêm vài tấm hình tặng anh để giải thích hết sự "hợp" và "phá" trong thập can . Nó sẽ giúp anh bổ sung bài viết về nguồn gốc của con cháu Lạc Việt trong thời cổ đá, trước thời Lạc Thư và Hà Đồ

Với đồ hình ở trên, e rằng Đào Hoa khó mà giải thích hết sự "hợp" và "phá" trong thập can một cách mỹ mãn.

Khi nào rãnh và có vẽ xong thì đăng lên rồi Sapa cũng sẽ đăng lên đồ hình Thiên Can Hợp Phá để chia sẽ và học hỏi nhé.

Sapa

Share this post


Link to post
Share on other sites

... Thiết nghĩ, anh Thiên Sứ không có đánh lộn mà là quá cô đặc thành ra DaoHoa mới nghĩ vậy.

Sapa

Các bạn thân mến,

Anh Thiên Sứ là người có công trong sự nghiên cứu và hồi phục lý học đông phương, cho nên dùng danh từ "cô đặc" thì chúng ta không nên nói như vậy. Đào Hoa thay mặt các anh em xin lỗi anh qua lời nói nầy.

Quay lại với đề tài và lấy sự trao đổi học thuật làm trọng, trong sách của anh Thiên Sứ về phần Thiên Can, có nhiều phần rất là đúng. Một trong những cái đúng đó nằm trong trang 200-202. Anh Thiên Sứ có cho:

Giáp = 1, Ất = 2, Bính = 3, Đinh = 4, Mậu = 5, Kỷ = 6, Canh = 7, Tân = 8, Nhâm = 9, Quý = 10

Cho như vậy là đúng. Rất nhiều nhà Thiên Văn xưa và ngày nay cũng cố dáng ghép 10 độ số vào Lạc Thư và Hà Đồ. Thí dụ như VinhL đã viết.

[4 Tân-] [9 Canh-] [2 Đinh]

[3 Giáp] [Mậu Kỷ] [7 Bính]

[8 Ất-- ] [1 Nhâm] [6 Quí-]

[2 Ất--] [7 Canh--] [4 Đinh-]

[3 Bính] [Mậu Quý] [9 Nhâm]

[8 Tân ] [1 Giáp--] [6 Kỷ]

Lạc Thư và Hà Đồ là 2 món trong những đồ quý của tổ tiên để lại mà có mang những độ số đó. Ngoại trừ 2 món đồ (Lạc Thư và Hà Đồ), có những món khác mang những độ số đó. Một trong những món đồ đó là Lưỡng Nghi.

Posted Image

Nếu tại hạ thay đổi vị trí của 2 con số : "2" và "8" thì sẽ có tấm hình Lạc Thư như sau:

Posted Image

Đây là nguồn gốc của Lạc Thư. Như tại hạ đã nói khi xưa, Lạc Thư là con cháu của Lưỡng Nghi.

Như tại hạ đã nói: con bước đầu tiên của anh Thiên Sứ về

Giáp = 1, Ất = 2, Bính = 3, Đinh = 4, Mậu = 5, Kỷ = 6, Canh = 7, Tân = 8, Nhâm = 9, Quý = 10

là đúng. Thay vì ghép độ số vào Hà Đồ trong lúc ban đầu, thì nên ghép vào độ số của Lưỡng Nghi trước tiên, sau đó mọi thứ sẽ đi đúng chiều đúng hướng. Vì vậy Lục Thập Hoa Giáp còn có tên là Lạc Thư Hoa Giáp

Còn về cách luận đoán hợp và phá của Thiên Can thì các bạn nên tự tìm kiếm theo con đường trên, rồi từ từ phối hợp với 12 địa chi. Các bạn sẽ thấy được bí mật trong Lạc Thư Hoa Giáp và hiểu được tại sao:

Canh Tý phá Giáp Thìn

và cũng hiểu tại sao

Canh Thìn lại không phá Giáp Tý

Chúc các bạn nhiều may mắn. Tại hạ phải đi công tác xa nhà và cũng không tiện vào đây một thời gian ngắn tới

Đào Hoa

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào các vị,

PTS đang chờ chú Sapa cho lên họa đồ, họa đồ của chú Đào Hoa vẫn còn nhiều sơ hở. Hy vọng ông Tàu đưa cho chú Sapa đồ hình thật. Nếu lấy ngũ hổ độn kết hợp với thời lệnh thì thấy rõ về hai chử hợp và hóa lại không phải thay đổi vị trí của thiên can.

Bác Hà Uyên: Trình tính nguyệt tượng PTS dùng từ trang nasa.gov hiện giờ không kết nối được, cho nên phần 3 tiếp sẽ có trể nảy tới lúc PTS tìm được nguồn khác đáng tin.

PTS

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào bạn, Đào Hoa

Dẫu có phải đi công tác xa hay không tiện vào đây thì hy vọng bạn cũng có lần ghé ngang để đọc những lời này.

Các bạn thân mến,

Anh Thiên Sứ là người có công trong sự nghiên cứu và hồi phục lý học đông phương, cho nên dùng danh từ "cô đặc" thì chúng ta không nên nói như vậy. Đào Hoa thay mặt các anh em xin lỗi anh qua lời nói nầy.

Theo như Sapa đã có viết là: "Nếu không đúng ý anh thì anh lên tiếng đính chính nhé, anh Thiên Sứ."

Anh Thiên Sứ cũng không lên tiếng nên không rõ Đào Hoa xin lỗi cho ai vì hai chữ "cô đặc" là do Sapa viết mà, phải không?

Hy vọng chúng ta không có điều gì lầm lẫn hay hiểu lầm gì nhau đấy chứ, Đào Hoa?

Quay lại với đề tài và lấy sự trao đổi học thuật làm trọng, trong sách của anh Thiên Sứ về phần Thiên Can, có nhiều phần rất là đúng. Một trong những cái đúng đó nằm trong trang 200-202. Anh Thiên Sứ có cho:

Giáp = 1, Ất = 2, Bính = 3, Đinh = 4, Mậu = 5, Kỷ = 6, Canh = 7, Tân = 8, Nhâm = 9, Quý = 10

Cho như vậy là đúng. Rất nhiều nhà Thiên Văn xưa và ngày nay cũng cố dáng ghép 10 độ số vào Lạc Thư và Hà Đồ. Thí dụ như VinhL đã viết.

Lạc Thư và Hà Đồ là 2 món trong những đồ quý của tổ tiên để lại mà có mang những độ số đó. Ngoại trừ 2 món đồ (Lạc Thư và Hà Đồ), có những món khác mang những độ số đó. Một trong những món đồ đó là Lưỡng Nghi.

Posted Image

Nếu tại hạ thay đổi vị trí của 2 con số : "2" và "8" thì sẽ có tấm hình Lạc Thư như sau:

Posted Image

Đây là nguồn gốc của Lạc Thư. Như tại hạ đã nói khi xưa, Lạc Thư là con cháu của Lưỡng Nghi.

Trước tiên, với ý đồ muốn vẽ hình chữ "S" ngược nên Đào Hoa mới vẽ hình ở trên khi chưa hoán vị "2" và "8" theo thứ tự từ "1" đến "9" như sau:

[1][2][3]

[6][5][4]

[7][8][9]

nhưng ngặt một cái, tới "9" thì phải "đá" chéo 45 độ "tả thượng" cho số "10" vào trung cung.

[1][2][3]

[6][5:10][4]

[7][8][9]

Kế đến do nguyên nhân tu sửa cho giông giống Cửu cung Lạc Thư mà Đào Hoa lại đi hoán vị "2" và "8" như sau:

[1][8][3]

[6][5:10][4]

[7][2][9]

nhưng trên thực tế thì chỉ có cái bên ngoài, vòng ngoài có những con số tuần tự như Lạc Thư mà thôi. Một điều khác, Lạc Thư thì có tổng số khi cộng (chéo, ngang, dọc) là 15; trong khi đồ hình do Đào Hoa vẽ ra lại không đạt được tiêu chuẩn ấy, thì khó mà công bố đó:

"là nguồn gốc của Lạc Thư, là tấm hình của Lạc Thư"

Mong Đào Hoa xét lại khi nào rãnh hoặc có dịp trở lại đây thì chúng ta sẽ thảo luận sâu hơn nhé.

Như tại hạ đã nói: con bước đầu tiên của anh Thiên Sứ về

Giáp = 1, Ất = 2, Bính = 3, Đinh = 4, Mậu = 5, Kỷ = 6, Canh = 7, Tân = 8, Nhâm = 9, Quý = 10

là đúng. Thay vì ghép độ số vào Hà Đồ trong lúc ban đầu, thì nên ghép vào độ số của Lưỡng Nghi trước tiên, sau đó mọi thứ sẽ đi đúng chiều đúng hướng. Vì vậy Lục Thập Hoa Giáp còn có tên là Lạc Thư Hoa Giáp

Còn về cách luận đoán hợp và phá của Thiên Can thì các bạn nên tự tìm kiếm theo con đường trên, rồi từ từ phối hợp với 12 địa chi.

Hôm qua khi viết rằng:

Đào Hoa còn chưa xong đó nghen:

Ất phá Kỷ

Kỷ phá Quý

Quý phá Đinh

Đinh phá Tân

Tân phá Ất

mà như vậy thì đâu còn hình chữ S của lưỡng nghi nữa. Chẳng những thế, Đào Hoa dựa vào đâu để cho Quý nằm giữa và Ất, Kỷ, Tân, Đinh nằm ở 4 hướng như thế kia? (là biết Đào Hoa đã ép chế các thiên can: Ất, Kỷ, Quý, Đinh, Tân theo Lạc Thư hay Hà Đồ; kết quả là theo Lạc Thư, chứ đâu có phải như là Đào Hoa đã khẳng định:

Và tại hạ cũng không cần nhắc tới Lạc Thư, Hà Đồ, TTBQ, HTBQ hay ngũ hành tương sinh tương khắc)

Với đồ hình ở trên, e rằng Đào Hoa khó mà giải thích hết sự "hợp" và "phá" trong thập can một cách mỹ mãn.

Quả nhiên, 2 tấm hình trên của Đào Hoa vẽ ra còn nhiều điều chưa thông!

Phải chi Đào Hoa không bận đi công tác thì Sapa sẽ góp ý vì ý tưởng đột phá đó khá hay nhưng còn thiếu chút đỉnh.

Các bạn sẽ thấy được bí mật trong Lạc Thư Hoa Giáp và hiểu được tại sao:

Canh Tý phá Giáp Thìn

và cũng hiểu tại sao

Canh Thìn lại không phá Giáp Tý

Khi Đào Hoa nói đến Lạc Thư Hoa Giáp là nói đến ngũ hành nạp âm của 2 hành Thủy và Hỏa đã hoán đổi phải không?

Nếu như không phải dùng ngũ hành để biện minh cho tại sao Canh Tý phá Giáp Thìn thì Đào Hoa cũng sẽ khó mà chu toàn không lộ sơ hở.

Chúc các bạn nhiều may mắn. Tại hạ phải đi công tác xa nhà và cũng không tiện vào đây một thời gian ngắn tới

Đào Hoa

Chúc bạn đi công tác sớm hoàn thành và trở lại để chúng ta có dịp đàm luận tiếp tục.

Sapa

Chào bạn, VinhL

Hiểu được nổi khó khăn của VinhL, vì với đồ hình mà Sapa sẽ đưa lên khi bạn Đào Hoa có rãnh để vẽ Thiên Can Hợp Phá thì bạn sẽ dễ dàng hiểu và có thể lý giải nhiều điều hơn nữa.

Chỉ là, nếu như nói rằng món quà đó từ một người Hán tặng cho người Lạc Việt thì không biết các bạn đây có ngại gì không?

Ngày mai Sapa sẽ góp ý ở một vài điểm chưa được thông của VinhL.

Sapa

Hôm nay khá bận rộn, chỉ kịp viết đôi lời cho bạn Đào Hoa. Ngày mai sẽ góp ý với bạn VinhL nhé.

Sapa

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào bác Hà Uyên,

Vậy thì PTS xin tiếp tục phần 2. Căn bản về thái âm

Căn bản về thái âm (mặt trăng)

Từ xưa tới nay người á đông chúng ta lấy âm lịch làm gốc nhưng rất ít trong chúng ta hiểu nguyên lý bên trong của nó, với một chút hiểu biết PTS xin dẫn giải từng bước về sự tuần hoàn của thái âm tạo nên trăng khuyết rồi tròn rồi lại khuyết. Tài liệu về tính chất của thái âm được lấy ở http://solarsystem.nasa.gov/planets/pro ... bject=Moon cho nên phần tin tưởng có thể nói là 95%.

Mặt trời có đường bán kính là 696,000 km (lớn hơn trái đất gấp 109 lần, lớn hơn mặt trăng 400 lần)

Trái đất có đường bán kính là 6378.1 km

Mặt trăng có đường bán kính trung bình là 1737.4 km (27% so với đường bán kính của trái đất).

Độ nghiên so với vòng ecliptic là 5.145 độ

Vận tốc mặt trăng bay vòng quanh trái đất 0.964 km/s tới 1.076 km/s (khoảng giửa 1.023 km/s)

Thời gian bay một vòng trái đất là 27.3217 ngày (đây là thời gian trên trái đất mặt trăng bay một vòng cho rằng trái đất đứng yên một chổ, nếu tính luôn sự di chuyển của trái đất vòng quanh mặt trời thì một vòng bay của mặt trăng sẽ phải là 29.53 ngày).

Chu vi của vòng bay là 2,290,000 km

Khoảng cách từ mặt trăng tới trái đất là từ 356,400 km to 406,700 km (trung bình là 384,400 km)

Khoản cách từ trái đất tới mặt trời là từ 147100000 km tới 152100000 km (khoảng giửa 149600000 km)

Tính ra thì ta có :

Mỗi ngày mặt trăng đi 83816.16 km, nhưng chu vi của vòng bay của mặt trăng chia cho 12 cung là 190833.33 km, chia cho 24 cung là 95416.67 km (chỉ tính trung bình, vì vòng bay không phải hình tròn mà là hình trứng hột gà, trái xoan, cho nên những cung ở vị trí hai đầu sẽ nhỏ hơn những cung ở vị trí hai bên hong nếu tính theo chiều dài, còn nếu tính theo độ số thì những cung ở vị trí hai đầu sẽ dài hơn những cung ở vị trí hai bên hong). 27.3217 ngày đi trên 24 cung thì mỗi cung phải mất hết 27.3217 giờ vậy mỗi vòng thì phải mượn 19.302 phút của ngày sau, 85 vòng mượn đi 1 cung. Như vậy thì cung khởi đầu của mỗi vòng kết hợp với ngày khởi đầu sẽ bị di chuyển mỗi 85 vòng. Nhưng cách tính này PTS cho là trái đất không di chuyển, nếu tính luôn sự tương tác của mặt trời thì trái đất di chuyển vòng quanh như vậ thì mặt trăng phải tốn thêm thời gian để đi một vòng của nó tức là 29.53 ngày, tính ra thì 29.53 ngày đi trên 24 cung thì mỗi ngày đi mất 29.53 giờ tức là mỗi vòng mượn đi 31.8 phút, 56 vòng mượn đi một cung, 1282 vòng mới trở lại cung khởi đầu. Đây chỉ là bài tính phỏng, phần ba PTS sẽ thu tập một số tượng mặt trăng bổ sung thêm (đương nhiên là không phải tháng nào dùng xem trăng tới 1282 lần).

Nguyệt tượng:

Trăng tròn, trăng khuyết, không trăng là do ánh sáng của mặt trời chiếu vào mặt trăng, con người trên trái đất quan sát mặt trăng, nhìn thấy phần ánh sáng đó di chuyển từ tối tới khuyết tới tròn tới khuyết rồi tới tối. Khi tối, khuyết và tròn đại khái tương ứng với bốn vị trí sau:

http://www.huyenkhong.com/board/download/f...1&mode=view

http://www.huyenkhong.com/board/download/f...2&mode=view

Nói nôm na là trăng tròn là thời gian người đứng xem trăng nhìn vào mặt sáng của mặt trăng và mặt sáng này là do ánh sáng của thái dương chiếu vào, nhưng người xem trăng chỉ nhìn thấy mặt sáng đó vào ban đêm tức là lúc trái đất “xoai lưng” lại. Cho nên mỗi một cung trên 24 cung của địa bàn đều có thể có không trăng, ¼ trăng và trăng tròn ở thời điểm khác nhau (bài tính phỏng ở trên đã cho biết điều này). Điều này, chưa thấy Phongthuysinh nói về mối liên hệ với Thiên can. (!)

Phần này chỉ nói tới 24 sơn không hề nói tới vị trí của nó, vậy vị trí của 24 sơn này lại ở đâu ? có cùng với vị trí của địa bàn không ? nếu phải thì lại càn sáng tỏ sự việc . Hà Uyên chưa hiểu rõ về phần này. Mong Phongthuysinh giải thích cụ thể thêm một bước nữa được không ?

Kính,

PTS

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tham khảo thêm một số thông tin.

Thời Hán là thời đại phát triển mạnh của tượng số Dịch học, ở thời điểm này tượng số rất được coi trọng, và được liệt vào Dịch học chính thức. Tiêu biểu cho giới tượng số Dịch học là Mạnh Hỷ, Tiêu Cán, Kinh Phòng.

Thuyết quái khí của Mạnh Hỷ, là sự kết hợp Bát quái, Lục thập tứ quái với khí tiết, để tạo nên “Tứ chính quái thuyết”, “Lục thập quái ứng thất thập nhi hậu thuyết”, và nổi tiếng là “Thập nhị nguyệt quái thuyết” (12 thuyết quái tiêu sinh)

Mối quan hệ Âm – Dương với khí tiết, tương ứng với quy luật chuyển hoá âm dương và quá trình luân chuyển của mặt Trăng, mặt Trời, làm tăng khả năng nhận thức Lịch pháp thiên văn, trở thành mối tương quan mật thiết với sự chuyển vận của mặt Trời. Bát quái đã phản ánh tiêu chí biến hoá của Đạo Trời. Thuyết quái khí của Mạnh Hỷ có ý nghĩa xuyên thời đại.

Trên cơ sở thuyết Quái khí, Kinh Phòng đã xây dựng học thuyết Bát cung, làm tăng giá trị của Bát quái, giao phó cho Bát quái những hàm nghĩa về không gian và thời gian.

Kinh Phòng đưa ra thuyết “Bát quái nạp giáp”, kết hợp giữa Bát quái với Thiên can - Địa chi và “Thập nhị Luật lịch”, tạo nên sự kết hợp chặt chẽ giữa Bát quái và Luật lịch. Do vậy, đã mở rộng phạm vi ứng dụng của Bát quái. Đây cũng chính là khởi dòng cho mạch chảy của học thuyết nổi tiếng “Nguyệt thể nạp giáp” của Nguỵ Bá Dương.

Học thuyết “Nguyệt thể nạp giáp” của Nguỵ Bá Dương, kết hợp Bát quái với chu kỳ vận chuyển của mặt Trăng, giao cho Bát quái thêm một chức năng giải thích mới, trở thành lý luận chủ đạo của “Nội đan” Đạo gia và khí công nuôi dưỡng sức khoẻ.

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯỢNG SỐ THỜI HÁN

“Pháp biến quái” bắt nguồn từ Pháp phệ cỏ thi của “Đại diễn chi số”.

Dịch truyện viết: “Tham ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số, thông kỳ biến, toại thành Thiên Địa chi giao; Cực kỳ số, toại định thiên hạ chi tượng, phi thiên hạ chi chí biến ,...)

(Làm ba và năm thao tác thì có được một biến. Phân bổ ra và kết hợp lại. Thông suốt biến hoá thì tạo lên sự giao nhau giữa Trời và Đất. Khi số biến hoá tăng tới cực, thì sẽ định được tất cả các tượng trong Thiên hạ. Nếu không phải là vật biến hoá nhất trong thiên hạ, thì làm sao được như thế).

Đặc biệt đáng chú ý là phái tượng số thời Đông Hán, là “quái biến” và “hào biến”. Tuân Sảng thời Đông Hán, đã phát minh ra thuyết về sự thăng giáng “ngôi” của hào âm – dương, xây dựng một quy luật biến hoá của quẻ, Tuân Sảng lấy hai quẻ Càn – Khôn làm gốc, thông qua sự thăng giáng “ngôi vị” của hào Năm và hào Hai của hai quả Càn – Khôn, mà diễn thành Bát quái 64 quẻ.

Cốt lõi mà Tuân Sảng xây dựng nên học thuyết cho mình là: “Dĩ dương tại thượng giả dương thăng ngũ vị quân âm tại ngũ giả, dương giáng cư an nhị vị thần”. (Dương ở trên, đưa Khôn hào Năm lên thành quân vương, âm tại ngôi Năm rồi hạ Càn hào Hai xuống làm thần dân). Điều này, có ảnh hưởng rất lớn tới học thuyết biến quái của Ngu Phiên.

Ngu Phiên đã đưa thuyết quái biến của Tuân Sảng lên tới đỉnh điểm. Thuyết quái biến lấy hai quẻ Càn – Khôn làm quẻ Phụ - Mẫu, biến thành quẻ sáu con, rồi biến thành quái tạp. Từ đây, Ngu Phiên đã phát minh ra học thuyết “Bàng thông” (Sự biến đổi đối lập), thuyết “Hỗ thể”, tức là thuyết Hỗ tượng, từ hào 2, 3, 4 tạo thành quái “nội hỗ”, từ hào 3, 4, 5 tạo thành quái “ngoại hỗ”, sự chệnh lệch này tạo thành một quái khác, trong đó hào 3 – 4 là hào giao thoa bộc lộ thông tin vô cùng quan trọng. Thuyết “Bán tượng”, chỉ tượng bán thể, tức là chỉ lấy hai hào ở trên hoặc hai hào ở dưới của quẻ làm “Bán tượng”, sau đó tìm sự tương ứng với “Bán tượng” của quẻ khác để giải thích ý nghĩa. Thực tiễn, Ngu Phiên đã làm phong phú thêm nội dung của phép Chiêm phệ, và còn ảnh sâu sắc tượng số Dịch học đời Tống, trong đó Mai hoa của Thiệu Ung cũng bắt nguồn từ đây.

Tượng số Dịch học nhà Hán đã xây dựng, đặt nền móng cấu tạo nên mối quan hệ giữa Bát quái với Nhật Nguyệt (mặt Trời, mặt Trăng). Chủ yếu là Trịnh Huyền đã đưa Đại diễn chi số trong Dịch truyện vào thuyết Ngũ hành: “Thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, dĩ ngũ hành khí thông, phàm ngũ hành giảm ngũ, đại diễn hưu giảm nhất, cố tứ thạp hữu cửu”. (Số của Trời - Đất là năm mươi năm lấy ngũ hành thông khí, ngũ hành giảm đi năm, số Đại diễn lại giảm một thì còn bốn mươi chín).

Đưa Đại diễn chi số kết hợp với số Ngũ hành, khiến cho việc khí hoá Ngũ hành có thêm sức sống và phát triển.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào bác Hà Uyên,

Bài trên của bác rất bổ ích giúp cho PTS hiểu được cội nguồn của một số vấn đề. Mấy ngày nay PTS quá bận và câu hỏi của bác cần phải có một số hình ảnh mởi giải thích cho rỏ, PTS xin phép bác vài ngày sẽ trở lại vấn đề về sự liên hệ của thiên can

Kính,

PTS

Share this post


Link to post
Share on other sites

Viết gần xong, cả bài dài .. VÔ DUYÊN đụng cái nút nào mở sang trang báo lỗi MẤT HẾT. Khá mệt rồi nên không viết nữa ... Sorry VinhL nhé.

Sapa

Chào bạn Sapa,

Kinh nghiệm nhiều lần mất bài nên lúc nào VinhL củng đánh bài trong Word sau đó mới copy qua phần trả lời.

Bài mất thì thôi coi như chưa có duyên được đọc phần giải thích của bạn Sapa vậy.

Thân

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nói nôm na là trăng tròn là thời gian người đứng xem trăng nhìn vào mặt sáng của mặt trăng và mặt sáng này là do ánh sáng của thái dương chiếu vào, nhưng người xem trăng chỉ nhìn thấy mặt sáng đó vào ban đêm tức là lúc trái đất “xoai lưng” lại. Cho nên mỗi một cung trên 24 cung của địa bàn đều có thể có không trăng, ¼ trăng và trăng tròn ở thời điểm khác nhau (bài tính phỏng ở trên đã cho biết điều này). Điều này, chưa thấy Phongthuysinh nói về mối liên hệ với Thiên can. (!)

Chào bác Hà Uyên,

Sự thật thì PTS muốn tránh nói tới sự liên quan với thiên can lý do là nếu nói tới sự liên hệ này thì phải nói tới vị trí của thiên can và nếu nói tới vị trí của thiên can thì tức sẽ mâu thuẩn, sự mâu thuẩn này (tức là câu hỏi của bác về đoạn dưới) PTS vẫn chưa lý giải được . Lý do thứ 2 là chỉ cần nêu lên vị trí của nguyệt tượng bị di chuyển đi thì đã đủ chứng minh thuyết nguyê.t tượng là không hoàn toàn đúng. Cho nên PTS xin giải thích sơ sơ không đi sâu vào vị trí của thiên can (giáp ất ở đông, bính đinh ở nam, canh tân ở tây, nhâm quý ở bắc). Như lập luân ở trong phần hai có nói là điểm khởi đầu của mặt trăng sẽ bị di chuyển lần lần, vậy lấy nguyên lý giáp ất tại đông, bính đinh tại nam, canh tân tại tây, nhâm quý tại bắc, mậu kỷ tại trung ương và lấy lúc trăng tròn vị trí mặt trăng tại giáp (tức là lúc mặt trời ở bên trái của vòng hoàng đạo còn mặt trăng thì ở phía đông của vòng bay của mặt trăng, PTS không biết gọi vòng này là gì). Như vậy dựa theo bài tính phỏng trong phần 2 thì sau vòng mặt trăng thứ 56 vị trí trăng tròn sẽ ở tại phương dần, sau vòng thứ 112 thì vị trí của trăng tròn sẽ ở tại phương cấn. Như vậy 56 vòng đầu thì càn có thể nạp giáp còng sau đó thì càn cũng có thể nạp ất, nập bính, hay nạp nhâm cho tới 1282 vòng thì mới trở lại nạp giáp. Như PTS đã nói là bài tính trên chỉ tính phỏng, các đồ hình dưới đây sẽ chính xác nhiều hơn. Nhưng lại hỏi vị trí của thiên can thật ra ở đâu ? mặt trời bay vòng quanh (xin được nói như vậy cho tiện) trái đất trên vòng A nhưng mặt trăng bay vòng quanh trái đất trên vòng B vậy vị trí của thiên can trên hai vòng này có thể là khác nhau và cũng có thể giống nhau (đây lại là một chủ đề riêng cần nghiên cứu sâu hơn). Ở đây ta cứ cho là vị trí đó giống nhau và cũng nằm đúng vị trí ta thường dùng (giáp ất tại đông, v.v.).

Sự khác biệt về thời gian bay một vòng của mặt trăng khi cho rằng trái đất đứng yên và trái đất xoai vòng như sau:

Khi trái đất đứng yên không xoai vòng trục của nó thì mỗi 27.3217 ngày mặt trăng sẽ trở lại đúng vị trí mà nó khởi đầu, tức là đúng vị trí mà người quan sát đứng. Trong hình thì người quan sát đứng tại sơn giáp, mặt trăng khởi từ giáp thì 27.3217 ngày sau sẽ trở lại đúng sơn giáp. Nhưng vì trái đất cũng xoai vòng cùng chiều với mặt trăng bay, vị trí sau một vòng của mặt trăng cũng vẫn là giáp nhưng còn vị trí của người quan sát đã di chuyển nơi khác, lấy sự khác biệt giửa con số đã cho thì 29.53 ngày – 27.3217 ngày là 2.2083 ngày thì mặt trăng phải bay thêm 2.2083 ngày nửa mới cùng vị trí của người đứng xem. Hai ngày bay của mặt trăng là khoảng gần 2 cung tức là vị trí khoảng chừng sơn cấn. (Chú ý: trái banh màu xanh là trái đất, banh màu đỏ hay hồng là người đứng, banh màu xám là mặt trăng, banh màu cam là mặt trời)

Posted Image

Trở lại phần liên hệ giửa sự di chuyển của mặt trăng và vị trí của thiên can. Giờ thì PTS xin lấy thuyết nạp giáp để chứng minh nó không hoàn toàn đúng. Tức là lấy càn nạp giáp, càn nạp giáp là lúc nguyệt tượng sáng và tròn và ở vị trí của can giáp như hình sau đây:

Posted Image

Thêm thông tin ta cần là mặt trời bay quanh trái đất mất khoảng 365.25 ngày tức là khoảng 15 ngày đi một sơn. Vậy sau một vòng bay của mặt trăng 27.3217 ngày và 29.53 ngày :

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Như vậy tới vòng thứ tư thì đã thấy vị trí sơn giáp không còn là tượng càn nửa mà vị trí sơn nhâm mới đúng là tượng càn. Nhưng dựa vào đây, PTS lại phát hiện ra điều khác nhưng chưa thể nói được, khi nào PTS tìm được trình tính vị trí mặt trăng lẫn vị trí mặt trời thật chính xác thì mới tìm hiểu xâu hơn và lúc đó kết quả có thể khẳng định thuyết nạp giáp theo nguyệt tượng là đúng, sai hay đã bị sửa đổi .

Phần này chỉ nói tới 24 sơn không hề nói tới vị trí của nó, vậy vị trí của 24 sơn này lại ở đâu ? có cùng với vị trí của địa bàn không ? nếu phải thì lại càn sáng tỏ sự việc . Hà Uyên chưa hiểu rõ về phần này. Mong Phongthuysinh giải thích cụ thể thêm một bước nữa được không ?

Như đã nói ở trên, vòng mặt trời đi xung quanh trái đất là vòng A, vòng mặt trăng đi lại là vòng B mà hai vòng này không tròn vậy có nghĩa là đầu hộv vịt của hai vòng chưa chắc ở cùng một phương, vậy thì vị trí 24 sơn phải an làm sao? theo vòng mặt trời hay theo vòng mặt trăng ? Vấn đề này PTS vẫn còn tìm hiểu nên chưa thể giải thích tỏ tường được.

PTS

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào anh PTS và mọi người .

Lâu lâu tôi mới quay lại chốn này thấy anh lập mục này tôi cũng có đôi lời về vấn đề này như sau :

Về thuyết nạp giáp theo mặt trăng tôi cũng đã từng quan sát mặt trăng và thấy cũng đúng với quỹ đạo của nó .

Quý đạo của các vị trí trăng thượng huyền thấy vào các buổi hoàng hôn đi từ phương canh đến phương giáp không qua phương ngọ (Ly) .Quỹ đạo của các vị trí trăng hạ huyền thấy vào các buổi bình minh từ phương tân đến phwong ất không qua phương tý (khảm) .như vậy khi trăng có tượng biến từ chấn đến càn và từ tốn đến khôn không qua khảm ly nên khảm ly không có sinh diệt . Đường tý ngọ là đường trung tâmkhi qua tý ngọ trăng không ở phương nào cả nên ly và khảm không có phương nào trong tám can để nạp can .Mặt khác mười thiên can thì mậu kỷ là thỏo trung tâm nên khảm dương được nạp mậu dương ,ly âm nên được nạp kỷ âm .

Lúc này ta đặt ra câu hỏi nạp can vào các quẻ để làm gì ?

Theo tài liệu tôi có được thì nạp can vào trong phong thủy để định bát sát và người ta cũng áp dụng vào việc kiêng kỵ khi chọn ngày giờ tháng năm khởi công xây dựng nhà như sau : Thiên can địa chi của các tiêu quẻ còn là thiên can của của ngày giờ tháng năm khởi công xây dựng nhà theo các phương bị tiêu sát .

Ví dụ hào hào canh tý của quẻ chấn là hào tiêu khôn nên khởi công xây dựng nhà hướng khôn phải kiêng kỵ ngày giờ tháng năm canh tý ,quẻ khôn bị mão sát cho nên khi khởi công xây dựng phải kiêng kỵ ngày mão tháng mão năm mão .

Vậy cách này có đáng tin không . Theo ý kiến của bản thân tôi thì dùng được bởi mặt trăng gần quả đất nhất trong thất đẩu tinh và nó còn ảnh hưởng đến chu kỳ tâm sinh lý của con người nhất . Ví dụ như kinh nguyệt của phụ nữ ( là theo mặt trăng ) đến những lúc trăng tròn và trăng khuyết tâm sinh lý của con người ta bị ảnh hưởng rất lớn .

Sau đây là một ví dụ về nhìn tượng trăng mà lập quẻ :

Ngày mồng 3 trăng thượng huyền khuyết phía trên ở phương canh lúc hoang hôn ,trăng sáng một phần ba ở phía dưới , phần sáng đó tượng trưng cho một hào dương ,hai phần khuyết có tượng của hai hào âm ,mặt trăng buổi đó có tượng của quẻ chấn ở phương canh cho nên quẻ chấn nạp canh ,nghĩa là sáu hào của quẻ chấn được nạp canh

Chấn vi lôi

Thê tài canh tuất

Quan quỷ canh thân

Tử tôn canh ngọ

Thê tài canh thìn

Huynh đệ canh dần

Phụ mẫu canh tý

Lấy hào quan quỷ canh thân làm diệu sát cho nên quẻ chấn bị thân sát

Từ ngày 29 đến ngày mùng 2 tháng sau ,mặt trăng hoàn toàn tròn đầy nhưng không sáng vào lúc rạng đông có tượng của quẻ khôn cả ba phần không sáng tượng trưng cho 3 hào âm .

Ngày mùng 3 một phần trăng sán ở phía dưới là tượng hào sơ dửu của quẻ chấn được sinh ra ,hào sơ lục cảu quẻ khôn tiêu đi để biến từ quẻ khôn thành quẻ chấn hào sơ cửu canh tý của quẻ chấn gọi là hào "tiêu khôn " Các quẻ khác cũng tương tự theo đó mà lập

LongTuan.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào anh LongTuan và các vị,

PTS nghĩ anh LongTuan cũng rơi vào tình trạng như người lâ.p ra thuyết nạp giáp theo nguyệt tượng này. Nếu nói như anh LongTuan thì vị trí của thiên can nhất định phải di chuyển theo thời gian còn nếu không thì khẳng định rằng thuyết nạp giáp chưa đúng hay đã bị thay đổi.

PTS vừa tìm được trình này từ một trường đại học sẽ dể dàng nhìn thấy trăng hàng tháng trong vài nút nhấn : http://jove.geol.niu.edu/faculty/stoddard/.../moonphase.html

Tuy chưa thể khẳng định sự chính xác của phần mềm ở trên PTS dám khẳng định nó đủ khả năng cung cấp tài liệu chính xác hơn người xưa quan sát nguyệt tượng. Và phần mềm này cũng là một bằng chứng khá tốt cho giả thuyết của PTS ở trên .

Kính,

PTS

À: cho những ai không rành về phần mềm, chỉ cần chọn nút "Seconds" "Minutes" "Hours" "Days" sẽ làm cho nguyệt tượng thay đổi nhanh hay chậm.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào bạn Sapa,

Trước hết mong bạn giải thích vòng số 61834927 được gọi là Lạc Thư từ đâu có, và vấn đề hợp thập của Hà Đồ như thế nào? Tại sao cửu cung lại mất đi một số?

Thân

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào bạn, VinhL

Chào bạn Sapa,

Trước hết mong bạn giải thích vòng số 61834927 được gọi là Lạc Thư từ đâu có,

Vòng số: 61834927 là do VinhL dùng nó trước mà và VinhL có thể xem một số chi tiết ở đây về cái gọi là Lạc Thư là như thế nào:

http://e-cadao.com/Vanminhco/chudichvakinhdich.htm

và vấn đề hợp thập của Hà Đồ như thế nào? Tại sao cửu cung lại mất đi một số?

Thân

Hà Đồ thì có 5 nhóm cặp-số vị chi là 10 con số nếu tương phối với Thập Can thì vừa đủ nên Cửu Cung phải có 5/10 ở trung cung. Còn như xét 5/10 là cặp số biểu thị cho hành Thổ thì người ta bỏ 10 cho đủ Cửu cung chi số vậy thôi.

Sapa

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sapa ơi,

Nếu Sapa có lấy web-site khác để thảo luận thì trước tiên Sapa coi web-site đó có ghi đúng hay không ? Thí dụ như trang

http://e-cadao.com/Vanminhco/chudichvakinhdich.htm

Những độ số Hà Đồ vẽ khác với độ số trong post trước của TuBinhGiaGia. 2 hình vẽ có độ số khác nhau. Nếu tại hạ không rành Hà Đồ thì chắc tẩu hỏa nhập ma. hahaha.

Khi chúng ta bàn về Hà Đồ thì chúng ta phải bàn về Hậu Thiên Bát Quái. Vì nếu cho Tiên Thiên Bát Quái với Hà Đồ thì đó là gượng ép 2 cái nằm úp trên nhau. Thôi vậy chúng ta thử bàn về lịch sử của Tiên Thiên Bát Quái trước rồi Hậu Thiên Bát Quái.

Không thôi sapa giải thích cho tại hạ hiểu hình vẽ Tiên Thiên Bát Quái. Tại sao Khôn là 1 và nằm hướng Bắc. Đừng nói là trên web-site trên giải thích rồi nhe.

hahaha,

Đào Hoa

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào Chú DaoHoa, bạn Sapa,

Trước khi có Chu Dịch, Văn Vương Bát Quái thì đã có Liên Sơn Quy Tàng Dịch. Thời Hoàng Đế thì bắt đầu có Kỳ Môn Độn Giáp, vậy Độn Giáp có dùng Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương không? Nếu đã có Kỳ Môn Độn Giáp tức đã có Lường Thiên Xích 61834927 trước khí có Bát Quái Văn Vương. Nếu chưa có Bát Quái Văn Vương vậy Lường Thiên Xích dùng Bát Quái nào???

Theo VinhL suy luân, vòng số mà từ xưa đến nay cứ gọi là Lạc Thư chính là vòng số của Tiên Thiên Bát Quái. Nếu theo Tiên Thiên Bát Quái, bước theo thứ tự Càn Chấn Khãm Cấn, Khôn Tốn Ly Đoài thì sẻ thấy.

Càn Chấn Khãm Cấn:

….….…Càn 9….……….

..………….………Khãm 7

Chấn 8…………....Cấn 6

Khôn Tốn Ly Đoài:

Đoài 4 ………….…Tốn 2

Ly 3………….………….

………….Khôn 1……….

Trong Dịch lại nói

Càn giao với Khôn một lần mà được Chấn: 9 – 1 = 8

Càn giao với Khôn hai lần mà được Khãm: 9 – 2 = 7

Càn giao với khôn ba lần mà được Cấn: 9 – 3 = 6

Càn giao với một lần nừa được 5 (9 – 4 = 5)

Khôn giao với Càn một lần mà được Tốn: 1 + 1 = 2

Khôn giao với Càn hai lần mà được Ly: 1 + 2 = 3

Khôn giao với Càn ba lần mà được Đoài: 1 + 3 = 4

Khôn giao với Càn một lần nửa được 5 (1 + 4 = 5)

Vì vậy ta có

Càn 9, Chấn 8, Khãm 7, Cấn 6

Khôn 1, Tốn 2, Ly 3, Đoài 4

Theo tiên thiên bát quái thì ta có số sắp xếp như sau:

Đoài 4 …Càn 9….…Tốn 2

Ly 3………5………Khãm 7

Chấn 8….Khôn 1…..Cấn 6

Đây có phải là số Tiên Thiên không?

Nếu cổ nhân đã có thể nhìn thiên tượng mà lập Hà Đồ, thì đâu cần phải đợi con quy xuất hiện ở sông Lạc mới biết được vòng số 61834927 này chứ.

Tại sao không thấy số 10?

Số 10 chính là số Thái Cực!!!

Từ Thái Cực sang lưởng nghi, cho nên mới có 9 và 1, sau đó 8 và 2, …..

Thế số Thái Cực có trong Hà Đồ không?

Dĩ nhiên:

…._______ 7

__|_______ 2

|…|

|…|

8..3………5, 10………4...9

…………………………|…|

…………………………|....|

……………1 ________|__|

……………6 ________|.

Suy luận viễn vong chức dám cho là đúng 100%, có gì sai sót mong chỉ điểm.

Thành thật cám ơn

Share this post


Link to post
Share on other sites

VinhL thân mến.

Kiến thức mà người xưa đã để lại, đều tôn chỉ một mục đích nhằm phục vụ cho con Người. Nhận thức về thế giới Tự nhiên khi mà tư duy vẫn còn sơ khai, thì từ Phục Hy, đến Văn Vương, đến Khổng Tử, cho tới ngày hôm nay, là chúng ta, những giá trị này đều hướng tới cái có ích trong lẽ Nhân sinh mà thôi. Cho dù Phục Hy hay Văn Vương có đổi vị trí Tiên thiên với Hậu thiên, thì chúng ta phải đặt câu hỏi: với mục đích gì ? mang lại giá trị gì ?

Đối với cá nhân Hà Uyên, cái Lý để thích nghi cho sự sống tồn tại thì ở Tiên thiên, còn cái Lý để biết được sự tiến - thoái thì ở Hậu thiên. Còn nói về Hà đồ - Lạc thư cũng chỉ là một, vậy thôi. Tại sao Hà Uyên lại suy nghĩ như vậy ?

1, 2, 3, 4, 5, (1 + 5), (2 + 5), (3 + 5), (4 + 5), (5 + 5).

Khi 1 + 5, thì số 5 ứng với Giáp. Khi 2 + 5, thì số 5 ứng với Ất. Khi 3 + 5, thì số 5 ứng với Bính. Khi 4 + 5, thì số 5 ứng với Đinh. Khi 5 + 5, thì số 5 ứng với Mậu. Đều là số "5", mà lại có sự đổi thay là tại sao ? Có phải "thời gian" mang lại sự thay đổi về "chất" không ?. Tổng 1 => 10 là 55, mà số chia hết cho các con số từ 1 => 9 là số 504, chia cho 10 thì còn dư 4, số 4 này có phải là số của 4 mùa chăng ? Tại sao lại nói như vậy ?

Trời ở Tý, Đất ở Sửu, Người ở Dần => Trời ở Mão, Đất ở Thìn, Người ở Tị => Trời ở Ngọ, Đất ở Mùi, Người ở Thân => Trời ở Dậu, Đất ở Tuất, Người ở Hợi. Do vậy, mà Dịch viết: "trời 1 đất 2 trời 3 đất 4, ... ,

Thêm một cách nhìn về kiến thức của người xưa để lại.

Share this post


Link to post
Share on other sites