Kim Cương

Bản Chất Thật Của Pháp Luân Công?

353 bài viết trong chủ đề này

CHỦ ĐỀ: VÀO CÔNG NHÀ THIỀN, VÀO CỬA KHÔNG

...

Để kết luận bài giảng hôm nay, chúng tôi đọc bốn câu kệ của ông cư sĩ Bàng Long Uẩn:

Thập phương đồng tụ hội

Cá cá học vô vi

Thử thị tuyển Phật trường

Tâm không cập đệ qui.

Mười phương đồng tụ hội

Mỗi mỗi học vô vi

Đây là trường thi Phật

Tâm không thi đậu về.

Nghĩa là: Mười phương cùng nhóm họp. Mỗi người mỗi người đều học về lý bất sanh bất diệt. Đây là chỗ trường thi làm Phật. Người nào được tâm không là thi đậu, trở về quê hương vinh qui bái Tổ.

Như vậy chúng tôi đã nhiệt tình dẫn quí vị "Vào Cửa Không" rồi, và chúng tôi sẽ chỉ cho quí vị "Ông Chủ Nhà" hay là "Bản Lai Diện Mục" trong bài giảng thứ ba sắp tới.

THIỀN TÔNG VIỆT NAM

H.T THÍCH THANH TỪ

CHỈ ÔNG CHỦ

Hôm nay chúng tôi giảng tiếp đề tài thứ ba "Chỉ Ông Chủ". Đây là đề tài khó giảng nhất mà cũng khó lãnh hội nhất. Chúng tôi mong quí vị đem hết tinh thần của mình chú ý lắng nghe thật kỹ, và chúng tôi cũng cố gắng dùng mọi phương tiện trình bày, để may ra quí vị có thể lãnh hội được. Được như vậy mới không phí công quí vị đến nghe và không phí công chúng tôi giảng giải.

Chúng tôi xin nhắc lại, chúng ta hiện sống ở đây, ai cũng thường nói "mình làm việc này, mình nghĩ chuyện kia, mình tính việc nọ, hoặc tôi làm cái này, tôi nghĩ cái kia, tôi tính cái nọ v.v…" Nhưng thử hỏi cái tôi hay cái mình là cái gì? Là thân tứ đại này chăng? Thân tứ đại do đất, nước, gió, lửa hợp thành, nó là vô tri. Nếu nói tứ đại là mình thì thật là vô nghĩa. Cái hiểu biết, cái suy nghĩ là mình chăng? Cái hiểu biết, cái suy nghĩ luôn luôn thay đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác, không dừng ở một chỗ. Khi tìm lại nó liền mất, không còn hình ảnh, không còn tăm dạng. Thí dụ khi chúng ta nghĩ điều lành, nói tôi nghĩ điều lành, thì cái nghĩ lành đó là tôi, nhưng bất thần nghĩ điều xấu điều ác, thì cái nghĩ xấu ác là ai? Nếu cái nghĩ lành là tôi, cái nghĩ ác cũng là tôi, thì cái tôi rất là hỗn tạp.

Cái nghĩ lành, cái nghĩ ác, luôn luôn thay đổi, nhất là khi tìm lại thì mất bóng mất hình. Như vậy, cái tôi là cái gì? Hằng ngày chúng ta lo các việc, dồn các hành động sống cho cái tôi, sống vì cái tôi, mà rốt cuộc không biết cái tôi là gì, thật là đáng buồn vô cùng. Cho nên hôm nay chúng tôi cố tình chỉ cho quí vị cái tôi chân thật, ẩn náu trong cái không phải là tôi, đó gọi là "Chỉ Ông Chủ".

Chúng tôi đặt tên đề tài "Chỉ Ông Chủ" có lỗi lầm gì không? Phàm cái gì chỉ được phải có hình tướng, thí dụ như bình hoa ở trước mắt. Bình hoa có hình tướng và ở ngoài nên chúng ta trông thấy được, và mới chỉ được. Còn ông Chủ là cái không hình tướng, lại ở nơi mọi người, không phải ở bên ngoài, chúng tôi dùng ngôn từ "chỉ" là hết sức gượng gạo, đó là đã sai lầm rồi, không phải là chân lý nữa. Nhưng tại sao chúng tôi dùng chữ sai lầm như vậy? Vì đến chỗ tột cùng là chỗ vô ngôn, tức không lời để diễn tả. Nhưng chẳng lẽ vì chỗ vô ngôn đó mà chúng ta lặng thinh, người nghe làm sao lãnh hội được? Cho nên buộc lòng chúng tôi phải nói, mà đã có ngôn từ là đã có sai lầm, nhưng nhờ cái sai lầm đó chúng ta khéo tìm khéo thấy. Chúng tôi nói bên đông quí vị nhìn bên tây mà thấy, đừng nhìn bên đông mà lầm. Chúng tôi nói bên ngoài quí vị phải nhìn bên trong mới thấy. Nếu theo lời nói bên ngoài mà thấy, chắc rằng không bao giờ quí vị thấy được. Đó là điểm cần yếu trong khi quí vị nghe chúng tôi "Chỉ Ông Chủ".

Tên Ông Chủ tại sao có và tên ấy xuất xứ từ đâu? Trước nhất chúng tôi xin dẫn kinh. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói đến danh từ khách trần, Ngài giải thích như sau: "Như trong hư không, mỗi sáng khi mặt trời lên, ánh nắng xuyên qua kẽ hở. Nhìn vào ánh nắng đó, chúng ta thấy những hạt bụi lăng xăng trong hư không. Hư không là chẳng động mà hạt bụi chuyển động, hư không là không sanh diệt mà hạt bụi là tướng sanh diệt. Hạt bụi là trần đối với hư không". Chữ khách đức Phật nói rằng "Ví như có người khách đi đường, tạm nghỉ đêm nơi nhà trọ, sáng lại sửa soạn hành lý ra đi. Khách tạm dừng rồi khách ra đi, người không dừng cũng không đi gọi là chủ". Như vậy khách là người tạm có mặt rồi mất, ông chủ là người thường xuyên trong nhà. Y Ù nghĩa hai chữ "chủ" và "khách" cho chúng ta thấy rõ cái gì tạm có rồi mất gọi là khách, cái gì có mãi không mất gọi là chủ. Như vậy danh từ Ông Chủ xuất xứ trong kinh Lăng Nghiêm.

Ngoài tên Ông Chủ ra, đức Phật hay các Thiền sư còn dùng những tên khác như Phật tánh, Pháp thân, Như Lai tạng, Chân tâm, Trí tuệ Phật, Tri kiến Phật, Bản lai diện mục v.v… tùy chỗ đặt tên nên có rất nhiều tên không thể kể hết. Tại sao các tên chỉ Ông Chủ lại quá nhiều như vậy? Bởi vì chính Ông Chủ này là cái không tên. Phàm cái gì ta đặt tên được thì cái đó có vị trí cố định, còn cái gì không đặt tên được thì cái đó lại rất nhiều tên. Ví dụ như trong giảng đường này, có một người khách đến nghe giảng, bất thần người ấy đứng lên, tất cả thính giả đều thấy người đó vừa cao, vừa mập, vừa đen v.v… Khi về nhà, thính giả thuật lại: hôm nay có một ông khách đến nghe giảng bỗng đứng lên hỏi. Vì không biết tên ông khách nên có vị nói ông đó cao cao, vị khác không nói ông đó cao mà nói ông đó mập mập, vị khác nữa không nói ông đó mập mà nói ông đó đen v.v… Tại sao người nói cao, người nói mập, người nói đen? Nếu quí vị biết chắc tên ông đó là A thì không phải dùng nhiều tên như vậy. Vì không biết tên nên tùy hình dáng có gì đặc biệt tùy theo chỗ mà đặt tên.

Cũng vậy, Ông Chủ này là thể hằng giác chưa bao giờ sanh diệt cho nên gọi là Trí tuệ Phật. Ông Chủ này là cái thấy biết thường hằng của mọi chúng sanh nên gọi là Tri kiến Phật. Ông Chủ này là cái kho Như Lai nên gọi là Như Lai tàng. Ông Chủ này là cái tâm bất sanh bất diệt nên gọi là Chân tâm. Ông Chủ này là cái thể không bao giờ đổi thay cho nên gọi là Pháp thân. Ông Chủ này là bộ mặt thật sẵn có của tất cả mọi người cho nên gọi là Bản lai diện mục v.v… Do tùy chỗ đặt tên nên có rất nhiều tên để chỉ Ông Chủ.

Tuy nói chỉ Ông Chủ mà thật ra không thể chỉ được. Trong nhà thiền thường dùng những ngôn từ nói rằng "Đập cỏ rắn sợ, vỗ nước cá đau đầu". Tức là ở dưới hồ chúng ta không thấy cá đâu, nhưng lấy một tấm ván đập trên nước, dội vào cá ở dưới nước nên nó đau đầu. Trong bụi cỏ rắn ở chỗ nào, chúng ta không thấy, nhưng muốn rắn sợ, chúng ta quơ gậy ào trên cỏ, rắn hoảng sợ nên chạy. Như thế tuy không chỉ được mà vẫn có ảnh hưởng, đó là lối chỉ của nhà thiền và của chúng tôi hôm nay.

Chúng tôi xin dẫn vài vị Thiền sư nói về Ông Chủ. Đời Đường ở Trung Hoa có Thiền sư Tùng Thẩm (778-897), chúng ta thường gọi là Triệu Châu. Khi ngài Triệu Châu còn là một ông Sa-di đi hành khước, tức là đi tham vấn thiền, ông đến Thiền sư Phổ Nguyện (749-834) ở Nam Tuyền. Ngài Nam Tuyền hỏi: "Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ?" Ngài Triệu Châu đáp: "Dạ, con là Sa-di có chủ." Ngài Nam Tuyền hỏi: "Chủ ở chỗ nào?" Ngài Triệu Châu bèn bước tới gần, khoanh tay cúi đầu nói rằng: "Giữa mùa đông giá rét, kính chúc Hòa thượng được trăm phước." Ngài Nam Tuyền gật đầu và cho ngài Triệu Châu vào chúng.

Trường hợp thứ hai là Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (804-899) tông Qui Ngưỡng. Khi ngài còn là Sa-di, Ngài đến với Tổ Qui Sơn Linh Hựu (771-853). Tổ Qui Sơn hỏi: "Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ?" Ngài thưa: "Dạ, con là Sa-di có chủ." Tổ hỏi: "Chủ ở đâu?" Đang đứng bên đông, Ngài khoanh tay đi qua bên tây đứng. Ngài Qui Sơn gật đầu cho nhập chúng. Như vậy là Ngài đã chỉ Ông Chủ rồi.

Cuối đời Đường có Thiền sư Sư Nhan, huynh đệ với Thiền sư Sư Bị (835-908), Ngài ngồi tu trên tảng đá, thỉnh thoảng tự gọi: "Ông Chủ nhân", rồi Ngài: "Dạ!" Ngài dặn: "Tỉnh, tỉnh, mai mốt đừng để người lừa." - "Dạ!" Ngài tự gọi tự đáp, rồi tự bảo tỉnh tỉnh đừng để người lừa. Thử hỏi hiện giờ chúng ta có bị người lừa không? Khi chúng ta ngồi thiền, niệm Phật hoặc tụng kinh là cốt để định tâm, tức là sống trở về với Ông Chủ của mình. Nhưng khi đang tụng kinh hay ngồi thiền, khách dẫn mình đi lúc nào không hay. Nhớ chuyện hôm qua, ôn chuyện hôm kia, cứ như thế nó lừa gạt mình, dẫn mình đi xa mãi, quên mất Ông Chủ lúc nào không hay. Nếu chúng ta luôn luôn tỉnh giác, khi một ý nghĩ vừa dấy lên, biết nó là khách liền buông xả không theo, đó là chúng ta làm chủ, sống với Ông Chủ. Chỉ cần tự gọi tự nhắc là một pháp tu suốt năm suốt đời.

Đến phần chỉ thẳng Ông Chủ, chúng tôi không phải dùng tay để chỉ, mà dùng những ngôn từ. Qua những ngôn từ lạt lẽo ấy, nếu quí vị khéo nhìn quí vị sẽ thấy Ông Chủ của mình. Khi quí vị thấy Ông Chủ của mình rồi thì đời tu của quí vị được nhẹ nhàng.

Để chỉ thẳng Ông Chủ, chúng tôi xin dẫn kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói "Từ nhất tinh minh sinh lục hòa hợp", là từ một cái trong sáng sanh ra sáu cái hòa hợp. Ví dụ như có cái nhà nhỏ, trong nhà có một ngọn đèn néon đang cháy sáng. Nhà ấy có sáu cửa, mỗi cửa đều mở toang ra. Ban đêm có người đứng ngoài tối muốn biết trong nhà có đèn hay không thì phải nhìn vào các cửa, nếu thấy ánh sáng từ các cửa phát ra là biết bên trong có ngọn đèn. Thật sự chúng ta chưa thấy được ngọn đèn, chỉ thấy được ánh sáng của ngọn đèn phát ra từ sáu cửa. Như vậy chủ yếu của kinh Lăng Nghiêm là đức Phật muốn chỉ chân tâm hay là Như Lai tạng đã có sẵn nơi mọi người chúng ta. Theo danh từ chuyên môn gọi đó là "nhất tinh minh sanh ra sáu hòa hợp", tức là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý đều có mang ánh sáng của cái tinh minh đó, mà chúng ta không thấy, hoặc chúng ta không thấy đúng lẽ thật. Đức Phật muốn chỉ cho Tôn giả A-nan và toàn chúng biết nơi sáu căn đã có ánh sáng của tinh minh đó, nên Ngài đưa tay lên xòe ra nắm lại, xòe ra nắm lại, hỏi A-nan: "Ông có thấy không?" A-nan thưa: "Dạ thấy." Phật hỏi: "Ông thấy cái gì?" A-nan thưa: "Con thấy tay Thế Tôn đưa lên xòe ra nắm lại." Phật hỏi: "Như vậy tay ta động hay cái thấy của ông động?" A-nan trả lời: "Tay của Phật động, cái thấy của con không có tịnh huống nữa là động". Thấy là thấy, không có tịnh, không có động. Trong ví dụ khách và trần, trần là cái lao xao trong ánh nắng, còn hư không là cái an tịnh lặng lẽ. Cái lao xao khi có khi không, hư không không có đổi thay. Hạt bụi lao xao trong hư không, hạt bụi là sanh diệt, hư không là không sanh diệt. Như thế tay Phật đưa lên là tượng trưng cho ngoại cảnh, ngoại cảnh có động tịnh, động tịnh là cái sanh diệt. Cái thấy của ngài A-nan không có tịnh huống nữa là động, làm sao nói sanh diệt được. Hiện giờ quí vị có cái thấy ấy hay không? Như thế lo gì chúng ta không có Ông Chủ. Ví dụ chúng tôi chỉ bình hoa, hỏi quí vị thấy không? Quí vị trả lời: Thấy. Nếu chúng tôi dẹp bình hoa chỗ khác, thì quí vị trả lời: Không. Chúng tôi xin nhắc lại cái lầm lẫn của chúng ta. Có bình hoa quí vị thấy bình hoa, bình hoa là vật ở bên ngoài mình, còn cái thấy là cái gì? Nó có ở bên ngoài mình không? Như vậy tại sao có bình hoa quí vị gọi là có thấy, không bình hoa quí vị gọi là không thấy? Như thế cái thấy của quí vị đã bị lệ thuộc vào bình hoa rồi, tức là quên mình theo vật, không nhớ mình mà chỉ nhớ có vật thôi. Vì thế chúng ta mất mình, mất mình một cách đáng thương. Tất cả chúng ta đều như vậy, nghĩa là có bình hoa là có thấy, dẹp bình hoa mất đi gọi là không thấy. Cái thấy là cái hay thấy của mình, còn bình hoa là cái hình tướng bị thấy ở bên ngoài, khi có khi không. Cái thấy hằng nhiên, không bao giờ sanh diệt. Tại sao chúng ta đồng hóa cái thấy thành bình hoa? Vì vậy chúng ta quên mình chạy theo cái giả tướng bên ngoài. Có tướng bên ngoài gọi là thấy, là "mình", không có tướng gọi là không thấy, "không mình", quả thật đã mất mình rồi. Đó là khuyết điểm lớn lao của tất cả chúng ta.

Sau ví dụ xòe nắm tay, đức Phật lại dùng hào quang phóng qua bên trái ngài A-nan, Ngài xoay đầu ngó qua bên trái, Phật phóng hào quang bên mặt ngài A-nan, Ngài xoay đầu ngó qua bên mặt. Phật hỏi A-nan: "Tại sao cái đầu của ông hôm nay lay động vậy?" Ngài A-nan thưa: "Con nhìn hào quang của Phật phóng qua bên trái, bên phải con, nên đầu con xoay qua xoay lại." Phật hỏi: "Như vậy cái đầu của ông lay động hay cái thấy của ông lay động?" Ngài A-nan thưa: "Cái đầu của con lay động, cái thấy của con không lay động." Cái đầu tượng trưng cho thân, thân mình là cái động, vì động nên sanh diệt. Cái thấy là cái không động, không động nên không sanh diệt. Quí vị nhận mình có cái thấy không sanh diệt hay không? Thế thì mình lo gì không có Ông Chủ. Đó là giai đoạn thứ nhất chỉ Ông Chủ qua cái thấy.

Đến giai đoạn thứ hai cũng để chỉ Ông Chủ. Vua Ba-tư-nặc nghe Phật nói mình có cái chưa từng sanh chưa từng diệt, ông nghi nên hỏi Phật: "Tôi nghe chúng ngoại đạo nói chết rồi là hết, tại sao Phật lại nói ngay thân này có cái chưa từng sanh chưa từng diệt?" Phật hỏi thân ông hiện nay là thân sanh diệt hay không sanh diệt?" Ông thưa: "Thân tôi là thân hoại diệt." Phật hỏi: "Ông chưa hoại diệt sao ông nói thân ông hoại diệt?" Vua Ba-tư-nặc thưa: "Thân tôi tuy chưa hoại diệt nhưng tôi tự biết thân này hoại diệt từ từ. Khi tôi mười tuổi cho đến hai mươi tuổi thì đổi khác rồi, đến ba mươi tuổi thì già hơn hồi hai mươi tuổi, đến bốn mươi tuổi thì đã già hơn hồi ba mươi tuổi… cho đến hiện giờ tôi đã trên sáu mươi tuổi, nó đã già hơn hồi bốn mươi, năm mươi tuổi rất nhiều. Vì vậy tôi biết thân tôi là tướng hoại diệt." Phật hỏi: "Ngay nơi thân hoại diệt đó ông có thấy cái gì chưa từng hoại diệt chăng?" Vua Ba-tư-nặc thưa: "Không thấy." Phật hỏi: "Nhà vua hồi mấy tuổi thấy được sông Hằng?" Vua thưa: "Khi tôi ba tuổi, được mẹ bồng đi yết kiến thần Kỳ-bà-thiên, đã đi qua sông Hằng, và đã thấy được sông Hằng." Phật hỏi: "Khi ba tuổi thấy sông Hằng, đến khi mười tuổi, hai mươi tuổi thấy sông Hằng, cái thấy có đổi khác không?" Vua thưa: "Cái thấy không có đổi khác." Phật hỏi: "Từ hai mươi tuổi đến ba mươi, bốn mươi tuổi ông thấy sông Hằng, cái thấy có đổi khác không?" Vua thưa: "Cái thấy không có đổi, cho đến hiện giờ tôi sáu mươi mấy tuổi, cái thấy vẫn như xưa không đổi." Phật nói: "Ông lo thân ông bị hoại diệt, ngay nơi thân ông có cái chưa bao giờ đổi thay. Cái gì có đổi thay thì cái đó bị hoại diệt. Cái chưa từng đổi thay tại sao lo rằng nó bị hoại diệt, mà ông còn tin rằng thân này chết rồi là hết?" Như thế chúng ta thấy rõ cái tánh thấy sẵn có nơi mình, cái tánh thấy ấy không trẻ không già. Nếu cái thấy không già tại sao khi lớn tuổi chúng ta lại mang kiếng lão? Đó là vì bộ phận trong con mắt chúng ta nó cũ nó mờ đi, chớ không phải cái thấy của ta có cũ có mờ, cũng như bóng đèn xài lâu thì hư, chớ điện không có đổi khác.

Đến giai đoạn thứ ba đức Phật chỉ Ông Chủ qua tánh nghe thường trụ. Phật bảo ngài La-hầu-la đánh một tiếng chuông "boong", rồi hỏi ông A-nan và đại chúng: "Các ông có nghe không?" Đại chúng trả lời: "Có nghe." Khi tiếng chuông lặng dứt, Phật hỏi: "Có nghe không?" Ông A-nan và đại chúng đều đáp: "Không nghe." Phật lại hỏi: "Tại sao gọi là nghe, tại sao gọi là không?" Ngài A-nan và đại chúng thưa: "Khi đánh chuông, âm ba vang ra gọi là nghe, khi âm ba bặt hết gọi là không nghe." Đức Phật lại bảo ngài La-hầu-la đánh một tiếng chuông nữa rồi hỏi ông A-nan: "Có tiếng không?" Ông A-nan và đại chúng đáp: "Có tiếng." Giây lâu tiếng chuông im bặt, Phật hỏi: "Có tiếng không?" Ông A-nan và đại chúng đều đáp: "Không tiếng." Phật lại hỏi: "Tại sao gọi là có tiếng, tại sao gọi là không tiếng?" Ông A-nan và đại chúng đều thưa: "Khi đánh chuông âm ba vang ra gọi là có tiếng, khi âm ba lặng đi gọi là không tiếng." Đức Phật quở: "Tại sao hôm nay các ông điên đảo lắm vậy?"

Nếu chúng ta trả lời các câu hỏi của Phật như ngài A-nan và đại chúng, thì tất cả chúng ta đều điên đảo mà không hay biết. Vì sao? Vì tiếng thuộc về thanh trần tức là âm ba bên ngoài, còn nghe là cái hay nghe nơi mình, của chính mình. Tiếng và cái nghe, chúng ta đồng hóa là một, không phải điên đảo là gì? Chúng ta hằng ngày sống trong điên đảo, tiếng không biết thuộc về tiếng, nghe không biết thuộc về nghe. Tiếng là cái sanh diệt, có đánh chuông thì có tiếng kêu, cái nghe thì khi có tiếng có nghe, không tiếng vẫn có nghe, vì nếu không nghe làm sao biết là không tiếng, mà nói không nghe.

Chúng tôi xin thuật một câu chuyện sau đây: Tổ thứ mười tám ở Ấn Độ tên Già-da-xá-đa, đang đi hóa đạo, thấy một thanh niên dòng Bà-la-môn là người khí khái, có khả năng đảm đang việc lớn, có thể truyền được chánh pháp sau này. Người thanh niên ấy hỏi Tổ tu theo phái nào, Ngài đáp: "Tôi tu theo Phật giáo." Vừa nghe như vậy người thanh niên hoảng lên bỏ chạy về nhà đóng sầm cửa lại, núp trong nhà không dám ra. Tổ đuổi theo tới trước cửa nhà, Ngài gọi: "Chủ nhà mở cửa ra!" Người thanh niên ở trong nói vọng ra: "Không có chủ ở nhà." Tổ hỏi: "Không có chủ ở nhà vậy ai nói đó?" Người thanh niên hoảng sợ mở cửa ra. Ông được Tổ chinh phục, theo làm đồ đệ, sau được truyền Tổ vị. Câu chuyện mình mới nghe thấy như trẻ con, nhưng chúng ta có giống trẻ con như vậy không? Luôn luôn biết thấy, biết nghe, mà hỏi ông chủ đâu thì không biết. Nếu không có chủ thì ai nói, không có chủ thì ai nghe, không có chủ thì ai thấy? Biết nói, biết thấy, biết nghe mà hỏi ông chủ đâu thì đáp "Không biết, không có ông chủ", chẳng khác nào người thanh niên kia vọng ra bảo "Chủ không có ở nhà".

Để chỉ ông chủ các Thiền sư hay đưa ra câu chuyện sau đây, có một thiền khách đến hỏi một Thiền sư: "Bạch Ngài, thế nào là Phật?" Thiền sư trả lời: "Cỡi trâu mà tìm trâu." Chúng ta nghe câu nói đó lạ quá. Hỏi thế nào là Phật, tại sao lại trả lời "cỡi trâu đi tìm trâu". Nếu chúng ta biết Ông Chủ phát ra từ cái thấy, cái nghe, cái nói, cái ngửi, thì đó là Ông Chủ cũng là Pháp thân, Phật tánh. Không có cái đó làm sao biết hỏi, làm sao biết thấy, làm sao biết nghe? Nếu không chịu nhận cái đó mà đi tìm Phật ở bên ngoài là cỡi trâu tìm trâu. Mới nghe qua chúng ta tưởng như Thiền sư trả lời lạc đề, không giải nghĩa thế nào là Phật, lại bảo "cỡi trâu tìm trâu". Bởi vì chính cái biết hỏi đó đã là Phật rồi, nhưng cẩn thận, nhiều khi mình lầm tưởng là Phật, nhận luôn cả phiền não nữa, đó là bệnh.

Khi nói tới Ông Chủ, kinh Lăng Nghiêm lúc nào cũng chỉ thẳng tánh nghe, tánh thấy v.v… của chính mình đã biểu lộ nơi sáu căn. Như ở trên tôi đã ví dụ, trong căn nhà, có một ngọn đèn néon thắp sáng, ánh sáng xuyên qua các cửa. Nếu nhìn ánh sáng xuyên qua các cửa, chúng ta thấy có ánh sáng hình vuông to, hình vuông nhỏ, có ánh sáng hình dài, có ánh sáng hình tròn v.v… khác nhau. Sự khác nhau ấy do cái gì? Tại ánh sáng hay tại các cửa? Rõ ràng chúng ta thấy ánh sáng không khác, mà có khác là do từ các cửa. Nếu đứng ngay tại cửa mà xây mặt nhìn ra ngoài thì chúng ta thấy tất cả sự vật bên ngoài, không bao giờ thấy được ngọn đèn. Khi nhìn ra chúng ta chỉ thấy hoặc là cây cối vườn tược, hoặc là đường sá xe cộ v.v… Chúng ta toàn thấy những gì qua lại, những gì sai biệt. Nếu chịu khó xây mặt trở vào thì chúng ta không còn thấy cảnh vật ở ngoài nữa mà chúng ta thấy ngọn đèn. Cho nên kinh Đại thừa luôn luôn nói rằng "Hồi đầu thị ngạn", tức là xoay đầu lại là bờ Niết-bàn. Xoay mặt hướng ra là bờ mê, xoay mặt hướng vô là bến giác. Vì vậy kinh Đại thừa nói xoay ra ngoài gọi là bối giác hiệp trần, xoay trở lại là bối trần hiệp giác. Chúng ta đứng ở cửa xây mặt ra thì lưng trở vô ngọn đèn, gọi là bối, xây lưng lại ngọn đèn thì thấy toàn là cảnh vật bên ngoài. Nếu lúc chúng ta chịu xây lưng trở ra thì không thấy sự vật bên ngoài mà thấy ngọn đèn sáng. Như vậy bối giác hiệp trần hay bối trần hiệp giác chỉ là cái xây lưng mà thôi, mê hay ngộ chỉ là cái xây lưng lại thôi. Nhưng từ thuở bé đến giờ chúng ta đều xây mặt ra nhìn theo trần cảnh bên ngoài. Hiện nay chúng ta xoay nhìn trở lại mình, nào có khó gì? Cho nên Điều Ngự Giác Hoàng tức là vua Trần Nhân Tông, Tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm, khi đồ đệ là Pháp Loa hỏi: " Yếu chỉ của sự tu hành là thế nào?" Ngài đáp: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự." Nghĩa là xoay nhìn lại chính mình, đó là phận sự gốc của người tu.

Rất tiếc tất cả chúng ta đều xây mặt ra, nên muốn tu mà một bề chạy theo ngoài, lễ lạy những hiện tượng lạ bên ngoài, quên mất ông Phật của chính mình. Điều chính yếu là trở lại tánh giác của mình, tự mình sáng suốt soi rõ sự vật, không phải nhờ người ngoài soi thế cho mình được. Ví dụ có người học rất giỏi rất cao, được cử làm Viện trưởng Viện Đại Học, ông ký cấp bằng cho những sinh viên đỗ đạt đầy đủ khả năng, ông không thể ký cấp bằng cho các con ông nếu chúng chưa học đến mức, chưa đủ khả năng đỗ đạt. Nếu muốn được cấp bằng cha ký cho, các con ông phải nỗ lực học hành cho đúng mức, và đỗ đạt thành tài. Cũng như vậy, tu là giác ngộ, mà giác ngộ thì trước phải sạch hết bụi bặm phiền não. Nếu bụi bặm phiền não không chịu phủi giũ cho sạch, trí tuệ không mở mang, mà muốn được điểm đạo cho thành Phật ngay, giống như anh học trò không chịu học tập cho đến nơi đến chốn, mà muốn người cha ký cấp bằng cho mình thành cử nhân tiến sĩ vậy.

Đa số Phật tử thường yếu đuối biếng nhác, muốn làm việc gì cũng chóng kết quả. Nghe nói tu phải cực khổ, phải bỏ phiền não tam độc, xem như lâu quá. Chỉ tập khí sân thôi mà dứt hoài không được, biết chừng nào thành Phật! Vì muốn được kết quả mau chóng nhờ điểm đạo mà phải lạc vào con đường tà giáo, nguyên do tại yếu đuối và tham lam. Cho nên người tu hành chân chánh phải biết đúng lẽ thật và phải thực hành đúng lẽ thật đó. Học đạo là tìm chân lý, dùng chính trí tuệ của mình để thấy lẽ thật, chớ không nhờ ai bên ngoài điểm đạo cho mình được. Cũng như học là mở mang trí tuệ của mình, đến đúng trình độ thì được phát cấp bằng, học chưa đủ sức mà muốn được cấp bằng sớm, cấp bằng đó chỉ là giả thôi, không có nghĩa lý gì.

Chúng ta tu hành, không nên tham mau, mà phải bền chí, ngày nào cũng gỡ bỏ phiền não, xây mặt ngó vào mình thì tự nhiên con đường giác ngộ sẽ đến với mình. Nếu chúng ta xây mặt trở ra đếm người đếm cảnh, nhìn mặt người đi qua, nhìn mặt kẻ đi lại, nhớ người nhớ cảnh hoài, thì làm sao giác ngộ cho được. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy tầm quan trọng của sự tu. Tu là biết xoay lại, biết trở về con đường giác, tức là bối trần hiệp giác, nghĩa là xây lưng với trần cảnh, trở về với tánh giác của mình. Ngược lại như chúng ta hiện giờ, là bối giác hiệp trần, nghĩa là xây lưng với tánh giác, chạy theo trần cảnh, mà muốn thành Phật, thì thành sao được! Chỉ cần một cái xây lưng thôi thật là dễ, nhưng lắm người không chịu xây, chả trách gì chúng ta làm chúng sanh mãi.

Trong kinh Lăng Nghiêm, không riêng đức Phật Thích-ca mà mười phương chư Phật đồng nói cho ngài A-nan và đại chúng nghe rằng "Chính sáu căn của các ông là gốc của sanh tử luân hồi, cũng chính sáu căn của các ông là gốc của Bồ-đề Niết-bàn". Tại sao vậy? Cũng trong kinh Lăng Nghiêm có câu "Tri kiến lập tri tức vô minh bổn, tri kiến vô kiến tư tức Niết-bàn", nghĩa là thấy biết mà lập thấy biết là gốc của vô minh, thấy biết mà không lập thấy biết, đây là Niết-bàn. Tại sao? Như chúng ta xây mặt ra ngoài, nhìn người nhìn cảnh, phân biệt hay dở, tốt xấu v.v…, bởi chấp cái phân biệt cảnh vật ấy nên gọi là "tri kiến lập tri", đó là nguồn gốc của vô minh, tức là quên mình chạy theo cảnh. Khi chúng ta vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn biết mà không phân biệt tốt xấu hay dở, không thêm một lớp vọng tưởng phân biệt, gọi là "tri kiến vô kiến", là gốc Bồ-đề Niết-bàn. Như thế Phật chỉ quá rõ ràng, gốc của sanh tử hay gốc của Niết-bàn là ngay nơi sáu căn của mình, không có ở đâu xa xôi.

Chúng tôi xin trích dẫn trong kinh Pháp Hoa, phần chỉ về Ông Chủ. Kinh Pháp Hoa được gọi đầy đủ là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nghĩa là kinh Diệu Pháp dụ như hoa sen. Diệu Pháp là gì? Trong kinh nói "Chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật". Tất cả chư Phật chớ không riêng gì đức Thích-ca ra đời, đều vì một việc lớn là khai mở và chỉ bày cho chúng ta nhận ra và nhập Tri kiến Phật của chính mình. Tri kiến Phật đó chính là Diệu Pháp.

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm nổi nhất về chỉ Ông Chủ là phẩm Hiện Bảo Tháp, là phẩm thị Phật tri kiến. Trong hội Pháp Hoa, các Bồ-tát và thánh chúng đang nghe kinh, bất thần có tháp báu ở dưới đất vọt lên và trụ giữa hư không. Trong tháp ấy vang ra tiếng nói của Phật Đa Bảo khen ngợi đức Thích-ca Mâu-ni. Đức Đa Bảo khi xưa có bổn nguyện, hội nào có giảng kinh Pháp Hoa thì Ngài đến trong hội đó v.v… Nếu chúng ta không đạt được lý kinh, nghe đến đây sẽ thấy huyền bí thần thoại. Tại sao dưới đất lại vọt lên một tháp bằng bảy báu, trong tháp ấy có Phật Đa Bảo đã chết từ vô số kiếp rồi mà hiện nay còn nói và khen ngợi đức Thích-ca Mâu-ni. Vậy phẩm này chỉ Tri kiến Phật ở chỗ nào?

Chúng tôi xin gỡ từng điểm một để quí vị thấy tầm quan trọng của kinh Pháp Hoa. Quí vị còn nhớ đoạn nói về "Vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai" chăng? Nhà Như Lai là lòng từ bi, áo Như Lai là hạnh nhu hòa nhẫn nhục, tòa Như Lai là nhất thiết pháp không, tức là thấy tất cả pháp, tánh nó là không. Như thế bảo tháp vọt lên lơ lửng trong hư không, không dính với cái gì hết, đó là tượng trưng cho tất cả pháp không. Do vì không dính với sáu trần cho nên mới thấy cái gốc của chính mình, đó là Tri kiến Phật hay là Phật Đa Bảo ngay chính mình, không phải Phật Đa Bảo ở trong tháp báu kia. Phật Đa Bảo là tượng trưng cho Pháp thân, cho Tri kiến Phật. Tháp làm bằng bảy báu, có nghĩa là kim ngân, lưu ly, xa cừ, mã não v.v… hay không? Đó chính là thân thất đại của chúng ta. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói chúng ta mang thân thất đại, thất đại là bảy thứ lớn: đất, nước, gió, lửa, không, kiến và thức. Nơi chúng sanh mê lầm gọi là thất đại, khi chúng ta ngộ được Pháp thân rồi, gọi là thất bảo. Cho nên tháp của Phật Đa Bảo bằng thất bảo, tháp của chúng ta bằng thất đại.

Vì sao gọi Phật là Đa Bảo, tức là nhiều báu? Như trong các kinh, khi nói đến chỗ chân thật đều dùng các thứ báu để tượng trưng. Như ví dụ Hệ Châu trong kinh Pháp Hoa: Có một anh chàng ăn xin nghèo khổ, gặp được người bạn cho anh hạt châu và cột vào chéo áo cho anh. Vì anh mê uống rượu quên mất hạt châu, nên phải đi xin ăn, lang thang đói khổ. Gặp lại người bạn xưa, chỉ cho hạt châu trong chéo áo, anh lấy hạt châu ra xài và trở nên giàu có.

Ví dụ thứ hai nói về nhà vua có hạt minh châu trong búi tóc, nhà vua thưởng hạt châu đó cho vị tướng tài giỏi nhất đi đánh giặc, thắng trận trở về. Hạt minh châu trong búi tóc là ví dụ cho Tri kiến Phật, còn vị tướng tài giỏi là dụ cho người có khả năng dẹp được các giặc phiền não. Như vậy hạt châu dường như ở ngoài tặng cho mà thật ra là chỉ cái mình có sẵn, tức là Tri kiến Phật hay là Pháp thân của chính mình.

Các Thiền sư cũng thường nói đến của báu ấy. Có vị Thiền sư đến hỏi Hòa thượng Thạch Cựu, đệ tử của Mã Tổ: "Trong tay Bồ-tát Địa Tạng có hạt minh châu, đó là ý nghĩa gì?" Ngài hỏi lại: "Trong tay ông có hạt minh châu không?" Vị Thiền sư thưa: "Con không biết." Hòa thượng liền nói kệ:

Bất thức tự gia bảo

Tùy tha nhận ngoại trần

Nhật trung đào ảnh chất

Cảnh lý thất đầu nhân.

Báu nhà mình chẳng biết

Theo người nhận ngoại trần

Giữa trưa chạy trốn bóng

Kẻ nhìn gương mất đầu.

Nghĩa là: Mình không biết được kho báu nhà mình, cứ chạy theo những trần cảnh ở bên ngoài. Ví như đang ở giữa trưa trời nắng mà chạy đi trốn bóng, trốn có khỏi không, càng chạy trốn thì bóng càng đuổi theo. Như người xem gương mất đầu. Đó là ví dụ trong kinh Lăng Nghiêm: Có chàng Diễn-nhã-đạt-đa, một buổi sáng xem gương, thấy đầu mặt của mình trong gương, úp gương lại không thấy đầu mặt mình đâu nữa, hoảng lên ôm đầu chạy la: "Tôi mất đầu!", liền phát điên. Người đi cầu đạo cũng vậy, xin người chỉ dạy đạo cho mình mà không ngờ chính nó đã sẵn nơi mình rồi.

Trong Chứng Đạo Ca, ngài Huyền Giác ở Vĩnh Gia nói:

Ma-ni châu nhân bất thức

Như Lai tàng lý thân thâu đắc

Lục ban thần dụng không bất không

Nhất khỏa viên quang sắc phi sắc.

Ngọc ma-ni, người chẳng biết?

Như Lai kho ấy thâu trọn hết

Sáu ban thần dụng không chẳng không

Một điểm viên quang sắc chẳng sắc.

Nghĩa là: Mỗi người có một hạt châu Ma-ni mà không tự biết. Hạt châu Ma-ni còn gọi là hạt châu Như Y Ù, khi có hạt châu đó rồi thì ước muốn điều gì cũng được toại nguyện. Ngay nơi kho Như Lai của mình, chính nơi đó mà nhận. Sáu thứ thần thông mầu nhiệm dường như không mà chẳng phải không. Một viên tròn sáng sắc mà chẳng phải sắc. Đó là để diễn tả hạt châu riêng của mỗi người chúng ta ai cũng sẵn có.

Một câu chuyện khác như sau: Một thiền khách đến, ngài Pháp Đăng hỏi: "Đầu sào trăm trượng làm sao tiến được?" Thiền khách trả lời: "Câm." Ngài cứ khán câu đó hoài trong ba năm. Một hôm Ngài cưỡi ngựa đi qua cây cầu ván, ván mục, ngựa sụp chân té nhào, quăng Ngài rơi xuống cầu. Vừa rơi xuống Ngài liền ngộ, nói bài kệ:

Ngã hữu minh châu nhất khỏa

Cửu bị trần lao quang tỏa

Kim triêu trần tận quang sanh

Chiếu phá sơn hà vạn đóa.

Ta có một viên minh châu

Đã lâu bị bụi vùi sâu

Hôm nay bụi sạch phát sáng

Soi thấu núi sông muôn vật.

Dịch nghĩa là: Ta có một hòn ngọc minh châu. Lâu rồi bị bụi bặm che lấp không thấy. Sáng nay bụi hết, ánh sáng phát ra, soi rõ khắp cả núi sông muôn vật. Như vậy chính chỗ nhận ra được Ông Chủ hay là Pháp thân của mình thì luôn luôn ví dụ như được hạt minh châu.

Từ các kinh cho đến các Thiền sư đều dùng hạt minh châu để tượng trưng cho Pháp thân. Phật Đa Bảo hay Pháp thân là một kho báu quý vô lượng vô biên mà tất cả thế gian không gì sánh bằng. Cứu sống một sanh mạng được đền đáp bằng một số châu báu, sanh mạng ấy chỉ sống thêm được vài mươi năm. Nhận ra được mạng sống miên viễn bất tử, tức là Pháp thân hay Niết-bàn, chẳng là một kho báu vô lượng vô biên hay sao? Cho nên được tượng trưng là Phật Đa Bảo.

Nhưng làm sao thấy được Phật Đa Bảo, làm sao mở cửa tháp để thấy Phật? Đức Phật Thích-ca nói: Phật Đa Bảo có bản nguyện là "Sau này nếu nơi nào nói kinh Pháp Hoa, tháp ta sẽ hiện lên nơi đó. Vị Phật đang thuyết pháp muốn thấy được thân ta thì các phân thân của vị Phật ấy đang giáo hóa ở các nơi phải thu hồi trở về một chỗ, rồi mở cửa tháp sẽ thấy được thân ta". Khi ấy cõi ta bà ô uế này biến thành thanh tịnh và các loại ngạ quỷ súc sanh đều dời đi nơi khác. Nghĩa lý đoạn này rất thâm sâu.

Phật Đa Bảo là Pháp thân hay Tri kiến Phật của chính mình, muốn thấy Phật thì các tưởng nhớ đến nơi đây nơi kia, chuyện này chuyện khác phải gom về một chỗ, tức là trụ. Cho nên nói các hóa thân Phật trở về một chỗ không còn phân tán, tức là định vậy. Khi trụ một chỗ rồi thì tâm ô uế trở thành thanh tịnh, tham sân si không còn nữa, nên nói các cõi nước liền biến thành thanh tịnh, các loại ngạ quỷ súc sanh (dụ cho tham sân si) đều dời đi nơi khác, chỉ còn Phật thôi. Đức Phật Thích-ca dùng thần thông bước lên tháp, mở cửa tháp thấy Phật Đa Bảo, vào tháp được ngồi chung với Phật một tòa. Cũng vậy, sau khi tâm chúng ta an trụ rồi, không còn phóng tâm ra ngoài nữa thì lúc đó gọi là định. Khi định xong thì thấy Phật Pháp thân hay là thấy Phật tri kiến của chính mình. Đó là ý nghĩa Phật Tri Kiến trong kinh Pháp Hoa.

Đến đây chúng tôi xin nói về Ông Chủ, được chỉ qua các câu chuyện thiền. Đọc lại lịch sử Thiền tông, chúng ta nhớ lại lần đầu tiên đức Phật truyền chánh pháp cho vị Tổ thứ nhất là ngài Ma-ha Ca-diếp. Trong hội Phật nói kinh ở núi Linh Thứu, tức núi Linh Sơn, khi chúng hội đông đủ, đức Phật lên tòa, tay cầm hoa sen đưa lên, cả chúng hội đều ngơ ngác, chỉ có ngài Ca-diếp chúm chím cười. Phật bảo "Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, nay phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp v.v…" Như thế ngài Ca-diếp được truyền pháp là do đức Phật đưa cành hoa sen, Ngài nhìn thấy rồi ngộ đạo, được truyền tâm ấn. Ngài Ca-diếp thấy hoa sen ngộ đạo hay thấy cái gì? Trong nhà thiền gọi là "Kiến sắc minh tâm", là thấy sắc mà ngộ được tâm của mình. Đức Phật đưa cành hoa sen, không phải để nói về hoa sen, chính là nhân nhìn thấy hoa sen biết được mình có cái chưa bao giờ sanh diệt. Ngài Ca-diếp mỉm cười, biết được ý Phật, nên nhận tâm pháp của Phật truyền trao.

Trong nhà thiền cũng vậy, các Thiền sư khi có người đến hỏi đạo, liền đưa cây phất tử lên, không chịu trả lời. Trường hợp ngài Mã Tổ Đạo Nhất là một Thiền sư nổi tiếng, sau Lục Tổ hai đời. Một hôm Ngài đi dạo vườn với thị giả là ngài Bá Trượng Hoài Hải, thình lình có bầy chim bay qua, Tổ hỏi ngài Bá Trượng: "Cái gì đó?" Ngài Bá Trượng nhìn lên thấy bầy chim bay qua, nói: "Dạ, bầy chim le le bay." Giây lát Tổ hỏi: "Đâu rồi?" Ngài trả lời: "Bay qua mất rồi!" Khi nghe trả lời như thế, Mã Tổ nắm mũi của ngài Bá Trượng véo mạnh đau điếng. Ngài Bá Trượng la lên thất thanh. Tổ bảo: "Sao không nói bay qua mất đi?" Ngài Bá Trượng nhân đó liền ngộ.

Như thế là ngộ cái gì? Ngộ cái mũi đau hay ngộ bầy chim? Bầy chim bay qua là bay mất đi, nhưng cái thấy bầy chim bay và cái thấy bay mất, cái thấy ấy đâu có mất bao giờ! Chúng ta cứ cho thấy bầy chim là có thấy và chim mất đi là mất cái thấy của mình. Cho nên ngài Bá Trượng bị nắm mũi kéo mạnh, hoảng la lên. Tổ hỏi: "Sao không nói mất đi?" Nhân đó biết rằng cái mũi không bao giờ mất. Trong nhà thiền, lỗ mũi luôn luôn tượng trưng cho bản lai diện mục, nó ngay trước mắt mà mình quên. Vì vậy khi bị kéo mạnh lỗ mũi, biết rằng lỗ mũi không bao giờ mất, ngài Bá Trượng ngộ liền.

Đến khi ngài Bá Trượng làm thầy, có người đệ tử là Qui Sơn Linh Hựu. Một hôm trời lạnh, Qui Sơn đứng hầu thầy, ngài Bá Trượng bảo bới tro trong lò lấy lửa. Qui Sơn bới trong lò, không thấy lửa, bạch: "Bạch Hòa thượng, lửa hết rồi." Ngài Bá Trượng lại bới sâu trong lò, lấy được cục lửa, đưa lên hỏi: "Nói hết lửa, cái này là gì?" Qui Sơn liền ngộ, và sụp xuống lễ thầy.

Chúng ta vì không hiểu nên giải thích, đệ tử bới không thấy lửa là vì bới cạn, còn vị thầy nhờ bới sâu trong lò nên được lửa, và nói rằng Phật tánh phải tìm sâu mới gặp. Không ngờ chỗ ngộ của ngài Qui Sơn là do câu hỏi của thầy: "Nói hết lửa cái này là cái gì?", ngài Qui Sơn liền thấy cục lửa và ngộ liền. Nhân thấy lửa mà biết mình có cái thấy hằng sẵn nơi mình, chưa bao giờ mất. Có thấy là có biết, cái biết đó là tâm, có nghe là có biết, cái biết đó là tâm. Cái biết đó không bao giờ động, bất sanh bất diệt và thường hiện hữu. Nhận ra cái ấy là đã bước vào con đường của chư Tổ đã đi.

Hai câu chuyện trên dùng cái thấy để chỉ cho chúng ta cái chưa bao giờ mất ở nơi mắt, gọi là "Kiến sắc minh tâm".

Sau khi Tổ Ca-diếp ngộ đạo, đức Phật đem y bát truyền để làm tin. Khi đức Phật diệt độ rồi, vị đệ tử đa văn nhất của Phật là ngài A-nan hỏi ngài Ca-diếp: "Đức Thế Tôn, ngoài việc truyền y Kim Lan cho sư huynh, còn truyền cái gì nữa không?" Ngài Ca-diếp liền gọi: "A-nan!" Ngài A-nan: "Dạ!" Ngài Ca-diếp bảo: "Cây phướn trước chùa ngã." Ngài A-nan liền ngộ, ngộ việc ngoài lá y còn truyền cái khác.

Vậy cái khác là cái gì? Có phải là cây phướn trước chùa chăng? Phần nhiều chúng ta cứ giải thích cây phướn trước chùa ngã. Không ngờ khi kêu: "A-nan" - "Dạ", vừa kêu liền dạ, cái đó đã sẵn có, nhận ra cái đó là cái Phật đã truyền cho Tổ Ca-diếp. Như vậy ngài A-nan nhận được cái đó, ngộ đạo, được truyền y bát làm Tổ thứ hai.

Trường hợp Thiền sư Hoàng Bá (? - 850), đệ tử của Tổ Bá Trượng, đến ngụ tại một ngôi chùa, nhằm lúc tướng quốc Bùi Hưu đến thăm chùa. Ông Bùi Hưu thấy trên vách chùa có vẽ hình các vị cao tăng. Ông hỏi thầy trụ trì: "Hình cao tăng ở đây, cao tăng đâu?" Vị trụ trì không trả lời được. Ông Bùi Hưu hỏi: "Ở đây có Thiền sư không? Thầy mời hộ tôi." Vị trụ trì nói: "Hình như có một Thiền sư, để tôi mời ra." Và ngài Hoàng Bá được mời ra. Ông Bùi Hưu nói: "Khi nãy tôi có hỏi một câu mà quý Đại đức tiếc lời không đáp. Bây giờ xin hỏi Thiền sư, Thiền sư đáp dùm tôi". Ngài Hoàng Bá nói: "Ông cứ hỏi." Ông Bùi Hưu lặp lại câu hỏi: "Hình cao tăng ở đây, cao tăng đâu?" Ngài Hoàng Bá liền gọi: "Bùi Hưu!" - "Dạ!" Ngài hỏi: "Ở đâu?" Ông Bùi Hưu liền ngộ. Như vậy cao tăng ở đâu? Đến đây chúng ta thấy thuật truyền thừa có hệ thống rõ ràng, người ngoài đọc sẽ ngạc nhiên vì nghe lạ tai.

Đến trường hợp khác, ngài Thanh Nguyên Hành Tư (? - 740), đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng, có vị môn đệ là ngài Thạch Đầu Hy Thiên (695 - 785). Có Thiền sư Linh Mặc (747 - 818) đến hỏi đạo ngài Thạch Đầu Hy Thiên và tự nói "Nếu một câu khế hợp thì ở, chẳng hợp thì đi". Khi thưa hỏi, Thiền sư Linh Mặc không được hài lòng nên bỏ ra đi. Ngài Thạch Đầu theo sau tiễn đến cửa liền gọi: "Xà lê!" Sư xoay đầu lại. Ngài Thạch Đầu bảo: "Từ xưa đến giờ chỉ cái ấy, xoay đầu chuyển não làm gì?" Sư nhân câu nói này liền đại ngộ, dừng lại đây hai năm. Như thế chúng ta thấy sự truyền thừa theo hệ thống này đã bắt nguồn từ đức Phật đến ngài Ca-diếp, đến ngài A-nan và đến các Thiền sư sau này: chỉ bày cái thấy, cái nghe, cái biết luôn luôn có sẵn nơi chính mình. Tri kiến Phật là gồm cả kiến văn giác tri và hằng biểu lộ nơi sáu căn.

Để chỉ Tri kiến Phật, chúng tôi xin dẫn câu chuyện trong kinh Pháp Bảo Đàn, nhân bài thuyết pháp đầu tiên của Lục Tổ Huệ Năng cho ngài Huệ Minh. Khi nhận được tâm ấn của Ngũ Tổ, Lục Tổ đi trốn về phương Nam. Tu sĩ Huệ Minh, khi chưa xuất gia là một võ tướng, cưỡi ngựa rượt theo định giành lại y bát. Chẳng ngờ đến khi thấy y bát, Huệ Minh nhấc lên không nổi, biết có việc gì mầu nhiệm, vội kêu lên: "Hành giả! Hành giả! Tôi đến đây vì pháp, chớ không phải vì y bát." Lục Tổ lúc đó mới ra mặt và bảo ngài Huệ Minh hãy lặng tâm ý nghe Tổ hỏi: "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?" Vừa hỏi đến đó ngài Huệ Minh liền ngộ. Thế là ngộ cái gì? Nghĩ thiện, nghĩ ác là cái nghĩ hai bên, là tướng động, là tướng sanh diệt. Trong vũ trụ từ con người đến vạn vật, cái hai bên là nguồn gốc của sự sanh diệt, ở người thì có nam nữ, ở điện thì có âm dương v.v… Nếu buông được cái hai bên thì sự sanh diệt không còn nữa. Cho nên khi Lục Tổ bảo "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác" ngay đó Thượng tọa Minh liền nhận được bản lai diện mục của chính mình.

Câu chuyện sau đây thuật việc ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền (? - 867) đến hỏi đạo nơi Thiền sư Hoàng Bá: "Bạch Hòa thượng thế nào là đại ý Phật pháp?" Ngài Hoàng Bá liền đập cho ba gậy mà không trả lời. Ba lần hỏi đạo, ngài Lâm Tế đều bị ba lần ăn đòn đau đớn. Buồn tủi Ngài ra đi, Tổ Hoàng Bá bảo ông nên đến Thiền sư Đại Ngu mà hỏi đạo. Khi đến nơi, Thiền sư Đại Ngu hỏi: "Ông ở đâu đến?" Ngài Lâm Tế thưa: "Dạ con ở Hoàng Bá đến." Hỏi: "Hoàng Bá dạy ông cái gì?" Thưa: "Con ba lần hỏi đại ý Phật pháp, ba lần đều bị ăn đòn, không biết con có lỗi hay không lỗi." Vừa nghe như vậy ngài Đại Ngu liền nói: "Hoàng Bá thật là tâm lão bà (tâm như mẹ thương con), dạy người rất thống thiết, ngươi lại đến trong ấy hỏi có lỗi không lỗi." Ngài Lâm Tế ngay câu ấy liền đại ngộ, thưa: "Vậy thì Phật pháp của Hoàng Bá rất ít." Ngài Đại Ngu liền nắm đứng lại bảo: "Con quỉ đái dưới sàng, vừa rồi nói có lỗi không lỗi, bây giờ lại nói Phật pháp của Hoàng Bá rất ít. Ngươi thấy đạo lý gì, nói mau, nói mau." Ngài Lâm Tế liền thoi vào hông ngài Đại Ngu ba cái. Ngài Đại Ngu xô ra nói: "Thầy của ngươi là Hoàng Bá, chẳng can hệ gì đến ta." Về sau, khi ngộ đạo rồi, Ngài làm Tổ dòng Lâm Tế, còn truyền đến hiện nay.

Chúng ta không khỏi thắc mắc ngài Lâm Tế ngộ tại chỗ nào, ngài Hoàng Bá từ bi như thế nào? Nếu ngài Lâm Tế không ba phen bị đòn thì chắc Ngài không làm Tổ dòng Lâm Tế đến ngày nay. Ngài Hoàng Bá thật có tâm lão bà, nhưng nếu không có người bạn đồng hành là ngài Đại Ngu biết được chỗ đó, và gợi ý thì chắc ngài Lâm Tế không bao giờ ngộ được. Nhờ ngài Đại Ngu nhấn mạnh câu "có lỗi không lỗi" ngài Lâm Tế ngay đó liền bừng ngộ. Tại sao vậy? Vì vừa dấy niệm "có lỗi không lỗi" là đã sai đại ý Phật pháp rồi, cho nên bị ăn đòn. Bị ăn đòn mà không được trả lời, dồn người hỏi đến chỗ bế tắc, đau đớn cùng tột, đến khi được khai mở thì nhớ đời đời không quên. Đó là tâm lão bà thống thiết của người xưa. Vị thầy phải biết căn cơ của người học trò, có đủ khả năng chịu đựng sức dồn ép đến chỗ tột cùng không, nhờ người bạn đồng hành khai thông để dẫn đến chỗ ngộ đạo.

Đến câu chuyện của ông Tú tài Trương Chuyết hỏi đạo ngài Thạch Sương Khánh Chư (806-888). Thiền sư Thạch Sương hỏi: "Ông tên gì?" Ông Tú tài đáp: "Dạ con tên Trương Chuyết." Thiền sư bảo: "Trong đây cái xảo (khéo) còn không có, huống là cái chuyết (vụng)." Ông chợt tỉnh ngộ, làm bài kệ như sau:

Quang minh tịch chiếu biến hà sa

Phàm thánh hàm linh cộng ngã gia

Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện

Lục căn tài động bị vân già.

Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh

Thú hướng chân như tổng thị tà

Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại

Niết-bàn sanh tử đẳng không hoa.

Sáng soi lặng lẽ khắp hà sa

Phàm thánh hàm linh chung một nhà

Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện

Sáu căn vừa động bị che lòa

Muốn trừ phiền não càng thêm bệnh

Hướng đến chân như thảy đều tà

Tùy thuận các duyên không quái ngại

Niết-bàn sanh tử thảy không hoa.

Nghĩa là: Ánh sáng lặng lẽ chiếu soi khắp hết. Phàm thánh và tất cả chúng hàm linh đều ở trong nhà của ta, tức là nhà của Phật Đa Bảo. Một niệm không dấy lên thì cái quang minh tịch chiếu hiện rõ ràng. Sáu căn vừa dấy động, thấy cảnh dấy niệm phân biệt, liền bị che ngăn. Muốn trừ phiền não là thêm một lớp bệnh nữa, vì phiền não là niệm dấy lên, nó là giả tướng hư ảo, tìm nó thì nó mất tăm mất dạng, biết nó không thật thì trừ cái gì. Nếu cố tình trừ phiền não vì tưởng nó là thật thì thêm một lớp bệnh. Nếu nhắm hướng về chân như thì đó là tà. Vừa dấy niệm tìm chân như thì chân như ở ngoài mình rồi. Chân như là tâm thể chân thật ngay nơi mình, chỉ cần đừng theo vọng tưởng thì chân như hiện. Tìm chân như tức là quên cái thật nơi mình đi tìm cái giả, không phải tà là gì? Chỉ có sống tùy thuận với mọi duyên thì không có gì ngăn trở. Sanh tử và Niết-bàn cũng như hoa đốm giữa hư không, không có gì thật hết. Nếu còn thấy hai bên là còn thấy tướng đối đãi, giả dối không thật.

Người tu hành phải biết rõ tất cả niệm phân biệt hay dở, phải quấy v.v… đều là gốc của sanh tử. Cho nên khi sự việc đến, tâm không dấy động, như gương soi ảnh, người tới thì hiện ảnh người, vật tới hiện ảnh vật, người vật đi rồi gương vẫn trong sáng. Cũng như tâm không dấy niệm thì không có gì chướng ngại. Đó là đạo vậy. Khi ấy chúng ta mới nhận thấy rằng Niết-bàn sanh tử chỉ là một lối nói, còn nằm trong đối đãi, chớ chưa phải đến chỗ cứu kính. Trong kinh Pháp Hoa đức Phật nói "Những pháp Phật dạy hoặc Tam thừa hoặc Nhị thừa chẳng qua là hóa thành, chớ không phải là bảo sở". Dù nói được Niết-bàn cũng là tạm thôi, chưa phải là cứu kí?h. Cứu kí?h là không còn kẹt hai bên.

Sau đây là câu chuyện gia đình ông cư sĩ Bàng Long Uẩn. Một hôm ngồi trong am, ông chợt nói: "Nan, nan, nan! Thập thạch du ma thọ thượng than." (Khó, khó, khó! Mười tạ dầu mè vuốt trên cây). Nghĩa là: Đem mười tạ dầu mè vuốt trên cây làm một việc hết sức khó, dầu mè thì trơn mà muốn trèo lên cây vuốt hết mười tạ dầu mè là chuyện khó vô cùng. Long bà đáp lại: "Dị dị dị, bách thảo đầu thượng Tổ sư ý." (Dễ dễ dễ, trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư). Cô con gái tên Linh Chiếu đáp: "Dã bất nan dã bất dị, cơ lai khiết phạn, khốn lai thùy." (Cũng chẳng khó cũng chẳng dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò).

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy, trên phương tiện công phu tu hành, ông Long Uẩn thấy thật là khó, vọng tưởng là cái gốc của sanh tử luân hồi, mà nó khởi liên tiếp không ngừng, buông bỏ hết vọng tưởng là một việc hết sức khó khăn. Nhưng nếu mình thấy rõ cái gì cũng là ý Tổ sư thì không còn khó nữa. Ông bảo là khó, Bà nói là dễ, đó là còn hai bên, cho nên cô con gái kết thúc lại: Cũng không khó, cũng không dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò. Để chỉ trong mọi hành động tâm thể đều như, không đòi hỏi, không tính toán, tùy duyên hành động mà tâm không loạn.

Thiền sư Huệ Hải cũng cùng một ý trên, khi được hỏi: "Sự tu hành của Ngài như thế nào?" Sư bảo: "Đói thì ăn, mệt thì ngủ." Người hỏi bảo: "Như vậy thì Ngài giống hệt như người thế gian. Người thế gian cũng đói thì ăn, mệt thì ngủ, Ngài có gì hơn đâu?" Sư đáp: "Người thế gian đói mà không chịu ăn, đòi trăm thứ, mệt mà không chịu ngủ, nghĩ trăm việc, khác nhau ở chỗ đó." Có một số người không hiểu chỗ khác nhau này, nên nói đói thì ăn nên tha hồ ăn, mệt thì ngủ nên tha hồ ngủ, bê tha biếng nhác gọi đó là tu thiền, là lầm lẫn quá nặng.

Ông Bàng Long Uẩn lại có làm bài kệ:

Hữu nam bất thú

Hữu nữ bất giá

Đại gia đoàn biến đầu

Cộng thuyết vô sanh thoại.

Có con trai không cưới vợ

Có con gái không gả chồng

Cả nhà cùng đoàn tụ

Đồng nói lời vô sanh.

Như vậy trong nhà con trai con gái không lập gia đình, không sanh con cái, cả nhà tụ họp lại nói lời vô sanh; vô sanh trên hình thức và vô sanh trên tâm niệm. Cả gia đình ông Bàng Long Uẩn đều được sanh tử tự tại, tự do, không có gì chướng ngại. Sở dĩ được như vậy là do không kẹt ở hai bên, cho nên được chỗ vô sanh, nếu còn mắc kẹt hai bên là còn ở chỗ sanh hóa.

Khi chúng ta ngồi thiền, vọng dấy lên thì biết có vọng, vọng lắng thì biết không vọng. Như vậy vọng khởi vọng lặng là khách, còn cái biết vọng thì thường hằng, là chủ. Chủ thì có mặt luôn luôn. Hiện hữu rõ ràng, không sanh không diệt, không mắc kẹt ở hai bên có không, còn mất v.v… Trong mọi phương pháp tu hành đức Phật đều nói có định rồi mới có tuệ. Định là dừng vọng tưởng, vọng tưởng lặng rồi thì thể giác sáng suốt của chính mình hiện bày, đó gọi là tuệ. Như vậy trăm ngàn pháp môn Phật dạy đều gom về một mối, không có điều thứ hai, cứu kí?h không có hai.

Hình ảnh chúng ta thường thấy trong các chùa, ở phía sau nhà Tổ là hình Tổ Bồ-đề-đạt-ma, Ngài quảy trên vai một chiếc giày, tại sao như vậy? Vì đó là hình ảnh cụ thể của giáo lý Thiền tông hay giáo lý Đại thừa. Quảy trên vai là tượng trưng cho sự gánh vác đảm đang, một chiếc giày là vượt ngoài đối đãi. Thông thường giày có một đôi là còn hai bên, quảy một chiếc là vượt qua cái hai bên đó, bỏ cái tương đối đi đến chỗ không hai. Cho nên khả năng gánh vác của Tổ là đem con người đến chân lý tuyệt đối, không còn kẹt hai bên, thoát ra ngoài vòng đối đãi. Từ thủy chí chung, Phật, Tổ đều nói như nhau. Phải vượt qua cái đối đãi mới đến cái chân thật cứu kính, đó là thoát ly sanh tử.

Để kết thúc buổi nói chuyện "Chỉ Ông Chủ" hôm nay, chúng tôi xin kể một câu chuyện do chúng tôi vọng tưởng sau thời gian nhập thất ba tháng để ví dụ: Có anh chàng trớ trêu nọ, để trước nhà anh một bên là lọ mực đỏ một bên là lọ mực đen. Mỗi khi anh ra vào nhà, anh phết lên mặt anh hoặc một vết mực đỏ hoặc một vết mực đen. Anh bôi mực trên mặt hoài mà không chịu rửa mặt. Lâu ngày người ta nhìn vào mặt anh thấy phân nửa đỏ phân nửa đen. Người ta gọi anh là chú mặt đỏ mặt đen và quên tên thật của anh. Anh có một người bạn thân từ thuở nhỏ (lúc mười hai, mười ba tuổi) đi xa về, người bạn gặp anh thì nhìn không ra, hỏi: "Cái mặt chú mày sao lạ vậy?" Anh trả lời: "Cái mặt tôi như vầy, chớ có chi lạ đâu." Người bạn nói: "Mặt của chú mày ngày xưa đâu có đỏ đen như thế này." Anh nói: " Mặt của tôi đỏ đen như vậy chớ sao." Người bạn nói: "Không phải vậy, tao chơi với chú mày lâu năm tao biết rõ, mặt thật của chú mày hồi trước không phải đỏ và đen, đỏ và đen là tại chú mày bôi mực vào đó. Bây giờ muốn có cái mặt thật như hồi xưa, chú mày đừng bôi mực vào nữa, và chịu khó chùi rửa hết các vết mực đi, thì mới lộ được cái mặt thật xưa nay của chú mày." Anh nghe có lý, từ đó không bôi mực vào mặt nữa, và bắt đầu tẩy rửa các vết mực đi. Vì anh bôi mực vào mặt lâu ngày quá, nên công phu tẩy rửa phải khó khăn nhọc nhằn. Nhưng ngày qua ngày, anh cố tình tẩy rửa, màu đen đỏ nhạt dần, chỉ còn ửng ửng đỏ, thâm thâm đen. Anh rán dùng mọi phương tiện rửa thật sạch hết các vết ửng thâm còn sót lại, cho đến một hôm khi soi gương thì cái mặt thật của anh hiển bày.

Câu chuyện này kết thúc buổi nói chuyện "Chỉ Ông Chủ" hôm nay của chúng tôi. Như thế là chúng tôi đã đưa quí vị từ "Vào cổng nhà Thiền" bước "Vào cửa Không và "Chỉ Ông Chủ". Đây là trách nhiệm và bổn phận của chúng tôi xong.

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHỦ ĐỀ: TẤT CẢ CÁC PHÁP KHÔNG CỐ ĐỊNH

PHÁP VÔ ĐỊNH PHÁP

GIẢNG GIẢI CỦA CÁC TÁC GIẢ:

THIỀN SƯ VIỆT NAM ĐƯƠNG THỜI

LÝ HỒNG CHÍ (TÀ SƯ)

LÝ HỒNG CHÍ VÀ KIẾN GIẢI "PHÁP VÔ ĐỊNH PHÁP"

Sách Chuyển Pháp Luân-Bài giảng thứ nhất

Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau

Trước đây có nhiều khí công sư giảng rằng khí công có nào là sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Cái đó toàn là khí, đều là những thứ tại cùng một tầng luyện khí, mà cũng phân thành sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Về những gì thực sự tại cao tầng, hầu hết những người tu luyện khí công chúng ta không có gì trong đầu hết, [họ] hoàn toàn chẳng biết gì. Từ nay trở đi, những gì chúng tôi nói rõ đều là Pháp tại cao tầng. Hơn nữa tôi muốn khôi phục lại danh tiếng chân chính của [pháp môn] tu luyện. Tại khoá học này tôi muốn đề cập đến một số hiện tượng bất lương trong giới tu luyện. Chúng ta đối đãi, nhìn nhận những hiện tượng ấy như thế nào, tôi đều cần giảng rõ; hơn nữa truyền công giảng Pháp tại cao tầng có liên quan đến nhiều mặt, liên quan đến vấn đề rất lớn, thậm chí rất gay gắt; tôi cũng muốn giảng rõ những điều ấy; lại có những can nhiễu xuất phát từ không gian khác đến xã hội người thường chúng ta, đặc biệt can nhiễu đến giới tu luyện; tôi cũng cần giảng rõ; đồng thời [tôi] cũng giúp học viên của chúng ta giải quyết những vấn đề ấy. Nếu vấn đề ấy chẳng được giải quyết, [thì] chư vị không luyện công được. Muốn giải quyết tận gốc những vấn đề đó, chúng tôi cần phải coi mọi người [học viên] như những người tu luyện chân chính thì mới làm vậy được. Đương nhiên, không dễ mà chuyển biến ngay lập tức tư tưởng của chư vị; trong khi nghe bài giảng từ nay trở đi, chư vị sẽ chuyển biến tư tưởng của mình một cách từ từ; cũng mong muốn rằng chư vị chú ý nghe [giảng]. Tôi truyền công khác với người khác truyền công. Có người truyền công, họ chỉ đơn giản là giảng một chút về công lý của họ, sau đó kết nối [để truyền] một chút tín tức, rồi dạy một bộ thủ pháp là xong. Người ta hiện nay đã quen với [phương cách] truyền công như thế.

Truyền công chân chính cần phải giảng về Pháp, phải thuyết về Đạo. Qua mười bài giảng trên lớp, tôi cần nói rõ những [Pháp] lý tại cao tầng, chư vị mới có thể tu luyện được; nếu không, thì không cách nào tu luyện. Người ta chỉ truyền những thứ tại tầng chữa bệnh khoẻ người thôi; [nếu] chư vị muốn tu luyện lên cao tầng, [nhưng] chư vị lại không có Pháp để chỉ đạo tại cao tầng, [thì] chư vị không thể tu luyện được. Ví như chư vị đi học, chư vị mang sách giáo khoa tiểu học mà đến đại học, [thì] chư vị vẫn chỉ là học sinh tiểu học. Có người cho rằng [họ] học rất nhiều công, học công này, học công kia, có cả chồng chứng chỉ tốt nghiệp; nhưng công của họ vẫn chưa hề [tăng] lên. Họ cho rằng những thứ đó chính là nghĩa lý chân chính và toàn bộ khí công; không phải thế, đó chỉ là phần vỏ nông cạn của khí công, [là] những thứ tại tầng thấp nhất. Khí công không chỉ là vậy; nó là tu luyện, là điều rộng lớn tinh thâm; ngoài ra tại những tầng khác nhau tồn tại những Pháp khác nhau; vậy nó khác với những thứ luyện khí chúng ta biết hiện nay; [những thứ mà] chư vị có học nhiều nữa cũng vậy thôi. Lấy một thí dụ, sách tiểu học của Anh chư vị cũng học, sách tiểu học của Mỹ chư vị cũng học, sách tiểu học của Nhật chư vị cũng học, sách tiểu học của Trung Quốc chư vị cũng học, [rốt cuộc] chư vị vẫn chỉ là học sinh tiểu học. Chư vị học càng lắm khí công tại tầng thấp, nhận càng nhiều những thứ ấy, thì trái lại lại càng có hại, [vì] thân của chư vị đã bị loạn mất rồi.

Tôi cũng cần phải nhấn mạnh một vấn đề, tu luyện chúng ta cần phải có truyền công [và] giảng Pháp. Một số hoà thượng ở chùa, đặc biệt là [hoà thượng] Thiền tông có thể có cách nghĩ khác. Hễ nghe đến giảng Pháp, họ liền không thích nghe. Tại sao? Thiền tông [nhìn] nhận rằng: Pháp ấy không thể giảng, Pháp đã giảng ra [thành lời] thì không còn là Pháp nữa; không có Pháp có thể giảng; chỉ có thể tâm lĩnh thần hội; vậy nên đến ngày nay Thiền tông không giảng Pháp gì hết. Đạt Ma [bên] Thiền tông truyền [dạy] điều ấy; [đó] là căn cứ theo một câu của Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca Mâu Ni giảng: ‘Pháp vô định Pháp’. Ông ấy căn cứ trên câu thoại của Thích Ca Mâu Ni mà sáng lập pháp môn Thiền tông. Chúng tôi nói cái pháp môn ấy là thứ dùi sừng bò. Sao lại gọi là dùi sừng bò? Khởi đầu khi Đạt Ma dùi vào trong thì thấy còn rộng; nhị tổ dùi vào thì thấy không còn rộng nữa; tam tổ thì thấy còn lọt được; tứ tổ thì thấy hẹp lắm rồi; ngũ tổ về cơ bản chẳng còn gì để dùi nữa; tới lục tổ Huệ Năng thì đã đến đỉnh [sừng bò] và có dùi cũng chẳng đi đến đâu được nữa. Ngày nay chư vị nếu muốn đến Thiền tông học Pháp, chư vị chớ hỏi; nếu chư vị hỏi ông [thầy] bất kể vấn đề gì, [ông ta] sẽ quay lại cho vào đầu chư vị một gậy, gọi là “bổng hát”3. Đó nghĩa là chư vị không được hỏi, phải tự mình ngộ. Chư vị nói: ‘Tôi chưa biết nên mới đến học, ngộ được gì đây? Ông lại cho tôi một gậy [là sao]?!’ Đó là cái sừng bò kia đã dùi đến đỉnh rồi, không còn gì có thể giảng nữa. Đạt Ma giảng rõ là nó chỉ có thể truyền đến lục tổ, sau đó không dùng được nữa. Mấy trăm năm qua rồi, đến nay vẫn có người ôm chết cứng cái lý của Thiền tông mà không bỏ. Hàm nghĩa chân chính của lời giảng “Pháp vô định Pháp” của Thích Ca Mâu ni là gì? Tầng của Thích Ca Mâu Ni là [tầng] Như Lai; [nhưng] các tăng nhân sau này có rất nhiều vị không hề ngộ đến tầng của Thích Ca Mâu Ni, [không ngộ được] tâm thái trong cảnh giới tư tưởng của Ông, hàm nghĩa chân chính trong Pháp mà Ông giảng, [cũng như] hàm nghĩa chân chính trong lời mà Ông nói. Vậy nên đời sau người giải thích thế này, người giải thích thế kia, giải thích đến độ hỗn loạn; cho rằng ‘Pháp vô định Pháp’ nghĩa là chư vị không được giảng, đã giảng ra thì không còn là Pháp nữa. Thật ra không phải nghĩa như vậy. Thích Ca Mâu Ni dưới cội bồ đề khai công khai ngộ rồi, chưa lập tức đạt đến tầng Như Lai. Trong suốt 49 năm truyền Pháp, Ông liên tục tự mình đề cao. Mỗi khi đề cao [lên] một tầng, Ông quay lại xét thấy Pháp mình vừa giảng xong không còn đúng nữa. Lại đề cao lên, Ông phát hiện rằng Pháp mình vừa giảng xong lại cũng không đúng nữa. Cứ đề cao lên, Ông lại phát hiện rằng Pháp vừa giảng xong lại không còn đúng. Trong toàn bộ 49 năm, Ông không ngừng thăng hoa như thế; mỗi lần đề cao [lên] một tầng, [Ông] lại phát hiện Pháp Ông giảng trước đó về nhận thức đều là rất thấp. Ông cũng phát hiện rằng Pháp của mỗi một tầng là thể hiện của Pháp tại mỗi một tầng đó; mỗi một tầng đều có Pháp, nhưng đó không phải là chân lý tuyệt đối của vũ trụ. Vả lại Pháp của tầng cao so với Pháp của tầng thấp thì [tiếp cận] gần đặc tính của vũ trụ hơn; vậy nên, Ông bèn giảng: ‘Pháp vô định Pháp’.

Cuối cùng Thích Ca Mâu Ni lại giảng: ‘Ta đời này chưa có giảng Pháp nào hết’. Thiền tông lại lý giải rằng không Pháp có thể giảng. Vào những năm cuối, Thích Ca Mâu Ni đã đạt đến tầng Như Lai; hỏi tại sao Ông nói Ông chưa có giảng Pháp nào hết? Thực ra Ông đã nêu ra một vấn đề gì? Ông [muốn] nói: ‘Đạt đến tầng Như Lai như ta, ta chưa thể thấy được [chân] lý tối hậu của vũ trụ, Pháp tối hậu của vũ trụ là gì’. Vậy nên Ông muốn nói người đời sau không được lấy những lời Ông giảng làm chân lý tuyệt đối, chân lý bất biến; nếu không người đời sau sẽ bị hạn cuộc vào tầng Như Lai hoặc thấp hơn Như Lai, mà không thể đột phá lên tầng cao hơn. Người đời sau không lý giải được nghĩa chân chính của câu nói ấy, [nên nhìn] nhận rằng Pháp đã giảng ra thì không còn là Pháp, [họ] lý giải kiểu như thế. Kỳ thực Thích Ca Mâu Ni [muốn] giảng rằng: Các tầng khác nhau có Pháp của các tầng khác nhau, Pháp của mỗi một tầng không phải là chân lý tuyệt đối của vũ trụ; nhưng Pháp của mỗi một tầng có tác dụng [làm Pháp lý] chỉ đạo tại mỗi một tầng. Thật ra Ông đã giảng chính [Pháp] lý này.

Trước đây có nhiều người, đặc biệt [bên] Thiền tông, cứ nhất mực bảo trì nhận thức thiên kiến và sai lầm cực đoan ấy. Không dạy chư vị, thử hỏi chỉ đạo [tu] luyện làm sao, luyện thế nào, rồi tu ra sao? Trong Phật giáo có nhiều chuyện cổ Phật giáo, có thể có người đã từng xem; kể rằng lên trên trời, sau khi đến thiên quốc, rồi phát hiện rằng kinh «Kim Cương» ở đó so với kinh «Kim Cương» ở dưới [hạ giới], từng chữ đều khác nhau, ý nghĩa cũng khác nhau. Tại sao kinh «Kim Cương» kia lại khác với kinh «Kim Cương» tại nhân gian? Lại có người nói: Kinh sách của thế giới Cực Lạc so với [kinh thư] dưới [hạ giới] quả là khác hẳn, hoàn toàn khác nhau, không chỉ các chữ khác nhau mà hàm nghĩa, ý nghĩa cũng khác nhau, chúng đã thay đổi hẳn rồi. Thật ra, chính là cùng một Pháp đồng nhất [nhưng] tại các tầng khác nhau [thì] có các biến hoá và hình thức hiển hiện khác nhau; đối với người tu luyện tại các tầng khác nhau, có thể phát huy tác dụng chỉ đạo khác nhau.

Mọi người đều biết, trong Phật giáo có cuốn sách nhỏ tên là «Tây phương Cực Lạc thế giới du ký», kể rằng một tăng nhân kia đả toạ luyện công, nguyên thần [bay] đến thế giới Cực Lạc xem ngắm cảnh tượng [nơi ấy]; hết một ngày; rồi quay về nhân gian đã thấy sáu năm trôi qua. Vị ấy thấy được không? Đã thấy, nhưng điều vị ấy đã thấy không phải là chân tướng. Tại sao? Bởi vì tầng của vị ấy không đủ, [nên] chỉ có thể ở tầng của vị ấy mà hiển hiện cho vị ấy những thể hiện của Phật Pháp mà vị ấy nên được thấy. Bởi vì một thế giới kiểu như vậy chính là thể hiện cấu thành của Pháp; cho nên, vị ấy không thể thấy được chân tướng. Tôi giảng rằng ‘Pháp vô định Pháp’ chính là có hàm nghĩa như thế.

THIỀN SƯ VIỆT NAM GIẢNG GIẢI "TẤT CẢ CÁC PHÁP KHÔNG CỐ ĐỊNH"

CÀNH LÁ VÔ ƯU

H.T THÍCH THANH TỪ

Mọi con người chúng ta đều mắc phải bệnh cố chấp, muốn cái gì mình yêu thích phải còn như vậy mãi. Mỗi khi những cái đó đổi thay, mình sanh ra đau khổ chán chường, trách tại sao cái đó không giống ngày xưa. Bệnh cố chấp ấy khiến chúng ta sống trong hiện tại mà tâm hồn vẫn lùi về quá khứ. Quá khứ đã qua, đã mất, mà chúng ta cứ sống với cái mất, chính chúng ta đang sống mà đã chết đi rồi.

Trên đời, muôn vật luôn thay đổi như dòng nước chảy, chúng ta muốn nắm đứng chúng lại, chỉ là việc toi công. Sự biến chuyển đã thành qui luật của thiên nhiên, không ai có quyền làm sai qui luật ấy. Nếu chúng ta muốn khác đi với qui luật này, là chúng ta tự chuốc lấy sự đau khổ vào mình. Bởi thời gian cứ chạy mãi thì muôn vật cũng theo đó đổi thay. Chúng ta mới mua chiếc xe Honda thấy mới toanh, chạy mấy tháng sau đã phai màu, có vài bộ phận mòn lỏng. Nhớ lại lúc mới mua xe đem về, chúng ta cảm thấy buồn chiếc xe cũ rồi. Một cái nhà mới cất, chúng ta rất hài lòng, nhưng ở được đôi ba năm đã thấy trên tường có mấy lằn rạn nứt, những màu nước vôi đã trắng bạc, các cánh cửa đã lung lay. Chúng ta cảm thấy buồn, cái nhà mới cất mấy năm mà đã cũ. Mọi vật chung quanh ta luôn luôn biến đổi, biến đổi theo thời gian và biến đổi do nhân duyên hội tụ đủ thiếu. Ðóa hoa sen trong hồ, xây ở trước sân, vừa nở tròn thơm nhẹ, nhìn nó chúng ta cảm thấy vui lâng lâng. Vài hôm sau từng cánh hoa rơi lả tả, chúng ta trông thấy lòng buồn rười rượi. Cây cam trước nhà sung sức cành lá sum sê, trái đeo oằn nhánh, chúng ta nhìn nó với nụ cười thích thú. Mấy năm sau, cây cam già lụi lá rụng cành khô, chúng ta nhìn nó với vẻ buồn thất vọng. Chúng ta muốn giữ mãi cái gì làm đẹp mắt chúng ta. Chúng ta cố bám chặt cái gì đem lại quyền lợi cho chúng ta và những cái gì có tính thân tình liên hệ với chúng ta, khi mất mát nó chúng ta mới thật buồn khổ. Ðây là lòng tham cố giữ cái sở hữu của mình. Nếu chiếc xe của người khác hư, cái nhà người khác cũ, chúng ta có buồn không? Quả là do cái chấp ngã sở của chúng ta, nên khi vạn vật vô thường sanh diệt, chúng ta liền bị lôi kéo theo. Cố chấp là si mê, không thể thấy được sự thật của cuộc đời.

Con người chúng ta cũng thế, về thể xác thì tế bào sanh diệt, diệt sanh liên tục không dừng. Hết thời tăng trưởng tới thời suy tàn, như dòng nước thủy triều hết lên lại xuống. Thế mà, chúng ta nghe nói thân này già là cảm thấy buồn. Có những người thời trai trẻ khuân vác gánh gồng, làm nhiều mà không thấy mệt. Ðến khi tuổi sắp lục tuần, ra làm chút ít đã thấy thở hào hển, tự trách tại sao bây giờ yếu lắm vậy. Họ đâu biết thân họ đã đến lúc tàn cỗi rồi. Người ta cứ tưởng mình như thuở nào, chớ không biết mình đang xê dịch lần về cõi chết. Bởi vậy nghe nói cái chết đâm ra hoảng sợ. Ðó là chúng ta không biết thể xác này luôn luôn biến đổi vô thường. Sợ chết, sợ mất thân này là do si mê chấp ngã mà ra. Ðến phần tinh thần cũng vậy, trong ấy luôn luôn biến đổi diệt sanh. Tâm niệm này sanh tâm niệm kia diệt, cứ mãi đổi thay không cùng. Có ai đó nghĩ rằng tâm niệm mình trước sau như một, đây là một nhận định sai lầm. Bởi họ cho tâm niệm mình trước sau như một, nên thấy tâm ai trước trắng sau đen, họ đâm ra bực bội căm hờn. Họ quên rằng mỗi khi hoàn cảnh đổi thay, hoặc hội nhập vào xã hội xa lạ, tâm con người liền chuyển đổi theo thời theo cảnh. Chúng ta đừng ngây thơ nghĩ rằng kẻ kia trước thế nào, ngày nay dù hoàn cảnh khác đi, tâm họ vẫn như xưa. Ðó là nhận định sai lầm khiến ta ôm hận suốt đời. Nỗi đau khổ của con người là sợ già sợ chết, sợ người thân đổi dạ thay lòng. Song cái sợ ấy làm sao tránh khỏi. Chỉ cần sáng suốt nhận rõ rằng thân này là tướng vô thường hoại diệt, tâm này là một dòng biến chuyển vô chừng. Ðược vậy, thân ta có già có chết cũng không buồn, lòng người có đổi trắng thay đen cũng chẳng lạ. Thế là chúng ta sống cuộc đời an ổn vô cùng.

Ðây tôi thuật lại chuyện "Cố nhân về thăm cố hương" cho quí vị nghe: Tôi rời khỏi quê hương năm 1947, đến năm 1980 tôi trở về thăm. Quê hương tôi là nơi tôi đã sống hơn hai mươi năm, thật là gắn bó và thân thiết biết bao. Từ chùa Phước Hậu thuê thuyền máy đưa thầy trò chúng tôi về Rạch Tra. Ðến vàm Rạch Tra rồi! Chú phụ lái ngồi trước nói. Tôi vội vàng chun ra khỏi mui, ngồi trước mũi thuyền. Ðây là dòng sông thân thuộc chứa chan biết bao kỷ niệm ngày xưa. Tôi tin rằng không thể nào quên được những ngôi nhà của bà con thân quyến nằm bên cạnh bờ sông. Nhưng than ôi! Nhìn hai bên bờ sông tôi thấy lạ hết, những cảnh ngày xưa tôi biết, ngày nay đổi khác. Nào là nhà bác Chín Chiếu, nhà ông Cả Lập..., tôi tìm không ra ở chỗ nào. Cho đến bến sông nhà tôi ngày xưa, một chiếc cầu thang bắc xuống sông, bên phải bụi tầm vông, bên trái cây mít, kế một cái xẽo đi vô trong, nơi để ghe xuồng khi chúng tôi đi đâu về. Những hình ảnh ấy tôi tìm mãi, tìm mãi mà không thấy. Thuyền đi khá xa, tôi biết đã qua khỏi nhà xưa của chúng tôi rồi. Bảo ngừng thuyền lại, tôi tìm cây cầu lên bờ hỏi thăm, mới biết đã đi quá hơn nửa cây số. Thuyền quay đầu trở lại, ghé ngay bến theo người hàng xóm chỉ. Tôi theo cây cầu dừa bắc duỗi xuống sông trơn trợt, chống cây làm gượng lên đến bờ. Những đứa bé lớn có nhỏ có ở các nhà xung quanh thấy thuyền đậu, chúng chạy ùa đến xem. Tôi nhớ nhà tôi ngày xưa ở giữa, bên cạnh xẽo là nhà chú Tám, bên trái nhìn ra đường là nhà anh Hai Nhất, kế đó là nhà chú Bảy... mà nay nhà cất loạn, không còn một chút dấu tích gì của ngày xưa. Cho đến những người thân ngày xưa đâu mất cả, tôi không thấy ai, chỉ thấy đám người trẻ xa lạ không biết tôi, cũng như tôi không biết họ. Mấy mươi phút sau, có mấy ông già, bà già đến, nhìn ra tôi mới biết đây là anh Bảy Nhung con cô Năm tôi, kia là cô Tư con chú Bảy tôi, rồi thím Sáu Cừ dâu chú Tám tôi... Nhìn ra tôi, mỗi người nghẹn ngào vừa mừng vừa khóc. Tôi cũng cảm thấy nao nao trong lòng. Các vị ấy dẫn tôi đi thăm nền nhà cũ của tôi, ở đây chỉ còn là một khoảnh đất trống, cuốc thành những luống trồng khoai, trồng bắp. Tôi chợt nhớ đến hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan: "Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương." Những hình ảnh xưa sống lại trong ký ức tôi. Kế đến, đi thăm những ngôi mộ của Ông Nội, Bà Nội tôi, và mộ của các vị quyến thuộc quá cố, chính tôi cũng không nhận ra đâu là mộ của Ông Nội, Bà Nội tôi, mà ngày xưa mỗi năm ông thân tôi và tôi đều tảo mộ vào dịp hai mươi tháng chạp. Sắp từ giã trở về chùa Phước Hậu, mọi người vây quanh tôi nhắc chuyện năm xưa, khi kia mọi người đều còn trẻ, mà nay hầu hết đã từ biệt cõi đời, chỉ còn sót lại một ít người gặp nhau mà không nhận ra nhau, khiến lòng tôi se lại. Từ giã mọi người, chúng tôi trở về chùa Phước Hậu. Lòng tôi cứ ôn đi ôn lại, mình là "cố nhân về thăm cố hương" hay là "người mới về thăm cảnh mới". Cảnh đã hoàn toàn mới, người cũng mới, bản thân tôi cũng mới luôn. Khi xưa ra đi, tôi là một thanh niên trên hai mươi tuổi, ngày nay trở về tôi là ông già đầu bạc hoa râm. Khi xưa, tôi là người cư sĩ, ngày nay tôi là kẻ xuất gia. Từ thể xác lẫn tinh thần đều đổi mới. Nếu tôi cứ buồn trách cảnh thay đổi, người thay đổi, sao tôi không tự trách tôi cũng đã thay đổi. Ðúng như hai câu thơ của Thiền sư Mãn Giác: "Trước mắt việc đi mãi, trên đầu già đến rồi." (Sự trục nhãn tiền quá, lão tùng đầu thượng lai.) Chúng ta mới thấm thía lẽ "tất cả đều thay đổi, không có gì là cố định". Cố bám lấy hình ảnh xưa cũ, chúng ta sẽ đau buồn vì nó không còn như mình nhớ. Mọi vật là một dòng biến thiên từng phút giây, chúng ta luôn luôn sống với cái mới. Nhận thức được như vậy, chúng ta sẽ cười khi nhìn dòng đời luân lưu biến chuyển.

Bản thân các pháp là chuyển động là đổi dời. Thấy rõ sự chuyển động đó là thấy được sự thật. Nghĩ rằng các pháp là nguyên vẹn không đổi dời, là cái nghĩ sai lầm. Trên cái nghĩ sai lầm này, lại sanh tâm buồn phiền than trách là cố chấp. Cố chấp là nguồn gốc khổ đau. Cho nên người học Phật phải thấy các pháp đúng sự thật của nó. Chính cái thấy đúng sự thật này là khoa học. Vì khoa học nhận thấy sự vật là một dòng sanh diệt bất tận. Với con mắt khoa học hiện đại không thấy có một sự vật nào mà không sanh diệt và đứng yên một chỗ. Từ thân người cho đến cây cỏ, từng tế bào sanh diệt liên tục trong ấy. Vì vậy người vật hết thời kỳ tăng trưởng, đến thời kỳ lão hóa và bại hoại. Có cái gì bền lâu nguyên vẹn mà chúng ta cố chấp. Nếu cố chấp là si mê không giác ngộ, là sai lầm không đúng khoa học.

Sở dĩ các pháp biến chuyển không cố định, vì bản chất nó là vô thường và vô ngã. Chúng ta định nghĩa sống là gì? Là động. Còn luân lưu biến động là còn sống. Dừng sự biến động là chết. Bản thân ta là động, muôn vật là động. Ðã là động thì biến chuyển đổi dời, đấy là vô thường. Sống trong biển biến động vô thường của vạn vật mà chúng ta muốn nó được thường, thật là một điều không bao giờ có. Hành tinh chúng ta đang ở, nó quay tròn mãi không dừng, nếu dừng lại là nổ tung. Chính thân chúng ta, tim đập mãi không dừng, một khi nó dừng là chúng ta chết. Con người và muôn vật đều bám vào quả đất mà sống, bản thân quả đất lại quay cuồng, thì con người và muôn vật làm sao an định được. Cho nên sự tồn tại của quả đất, cũng như sự tồn tại của muôn vật là động, đấy là lý vô thường Phật đã dạy. Thấu triệt lý vô thường này, chúng ta sẽ cười trước mọi biến đổi, nhất là sự biến đổi của thân ta đến lúc bại hoại.

Con nguời và muôn vật sống trên quả đất, kể cả quả đất đều do nhiều nguyên tố họp lại thành hình. Không có vật nào đơn thuần từ một nhân tố mà thành. Ðã do nhiều nhân tố chung hợp thành sự vật, những nhân tố ấy nhà Phật gọi là nhân duyên. Nếu phân tích một con người hay sự vật, chúng ta thấy nhiều lớp nhân duyên tụ họp thành. Nơi con người thì có mấy tỷ tế bào chung hợp, mỗi loại dều có chức năng riêng. Ở mỗi vật cũng do nhiều tế bào kết hợp, hay những hạt nguyên tử đang quay cuồng xoắn chặt vào nhau. Ðã nhiều loại nhiều thứ thì loại nào thứ nào là chủ? Hoặc do nhiều thứ họp lại thành, tức không có thực thể. Không có chủ, không có thực thể, Phật gọi là vô ngã. Từ vô ngã là chỉ cho mọi vật do nhân duyên hợp không có chủ thể, nên nói "chư pháp vô ngã". Bởi vô ngã nên chúng ta không chấp mình thật, vật thật. Không chấp mình là không chấp ngã, không chấp vật là không chấp ngã sở. Không chấp ngã và ngã sở thì còn cái gì để chúng ta tham cầu. Nếu không tham cầu thì còn gì lo sợ, còn gì bực tức. Thế là do thấy được lẽ thật nơi con người và sự vật, chúng ta dứt được si mê. Do hết si mê, chúng ta dừng được tâm tham lam và nóng giận, ngang đây tam độc không còn. Ðó là kết quả tốt đẹp của người tu Phật.

Tóm lại, do biết rõ các pháp không cố định tức là vô thường, vô ngã, nên chúng ta buông xả tất cả cố chấp si mê. Chính đây là "chánh kiến" trong Bát chánh đạo. Mọi cố chấp đều y cứ nơi con người và sự vật. Thấy rõ người vật đều tạm bợ biến thiên không thật, thì mọi cố chấp đâu còn. Không còn cố chấp thì tất cả khổ đau đều tan biến. Sở dĩ chúng ta nhiều buồn khổ là sợ thân này bệnh, chết. Biết bệnh chết là lẽ thường, con đường mà ai cũng phải đến, còn gì sợ hãi việc bệnh và chết. Chúng ta sợ cái gì bất thường chỉ đến riêng mình, nên cố gắng né tránh. Nếu là việc chung của tất cả, chúng ta có sợ cũng chỉ vô ích thôi. Cho nên Tuệ Trung Thượng Sĩ khi sắp tịch, nằm trên cái giường tại Dưỡng Chân Trang nhắm mắt tịch. Các bà thê thiếp khóc rống lên, Ngài mở mắt quở: "Sanh tử là lẽ thường, tại sao làm náo động chân tánh ta." Rồi Ngài nhắm mắt an nhiên mà tịch. Cho đến mọi vật sở hữu của ta cũng thế, nó là vật vô thường bại hoại, chúng ta muốn nó còn mãi làm sao được. Chi bằng thấy chúng là tướng giả dối tan hợp vô thường, khi chúng còn thì chúng ta dùng, lúc chúng mất thì chúng ta cười, vì lẽ thường là như thế. Kinh Kim Cang Phật dạy: "Phàm cái gì có tướng đều là hư dối" (Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng). Lối nhìn này là trọng tâm thoát khổ của chúng sanh. Chúng ta sợ khổ mà không chịu mở con mắt trí tuệ thấy được lẽ thật này thì muôn đời cũng không hết khổ.

Đọc xong vài dòng của anh BBTL tôi cũng thấy rất bổ ích! Cám ơn anh. Tôi có 1 vài thắc mắc như sau. Vậy như trên đây thì họ nói việc tham thiền là 1 việc cần thiết dẫn tới con đường giác ngộ. Vậy đối với Tịnh Độ họ có thể kết hợp Đọc Kinh và ngồi thiền, Với Mật tông họ bắt kết ấn và trì trú trong lúc hành thiền. Vậy đối với thiền tông thì bên cạnh tham thiền là j. Vì hiểu biết về Thiền Tông nông cạn mong anh giải đáp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đọc xong vài dòng của anh BBTL tôi cũng thấy rất bổ ích! Cám ơn anh. Tôi có 1 vài thắc mắc như sau. Vậy như trên đây thì họ nói việc tham thiền là 1 việc cần thiết dẫn tới con đường giác ngộ. Vậy đối với Tịnh Độ họ có thể kết hợp Đọc Kinh và ngồi thiền, Với Mật tông họ bắt kết ấn và trì trú trong lúc hành thiền. Vậy đối với thiền tông thì bên cạnh tham thiền là j. Vì hiểu biết về Thiền Tông nông cạn mong anh giải đáp

Tâm là Mật

Tâm là Tịnh

Tâm là Thiền

Tất cả các Tông, đều lấy Kiến Tánh Khởi Tu.

Người ngộ tâm thì tu mật

Người ngộ tâm thì tu tịnh

Người ngộ tâm thì tu thiền.

Làm gì thì gì cứ phải ngộ được bản tâm cái đã rồi mới khởi tu.

Thiền Tông vừa là Chánh Pháp, vừa là Hộ Pháp của Phật Pháp. Nếu Thiền Tông bi diệt thì Phật Pháp mất đi Hộ Pháp rồi đấy.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tâm là Mật

Tâm là Tịnh

Tâm là Thiền

Tất cả các Tông, đều lấy Kiến Tánh Khởi Tu.

Người ngộ tâm thì tu mật

Người ngộ tâm thì tu tịnh

Người ngộ tâm thì tu thiền.

Làm gì thì gì cứ phải ngộ được bản tâm cái đã rồi mới khởi tu.

Thiền Tông vừa là Chánh Pháp, vừa là Hộ Pháp của Phật Pháp. Nếu Thiền Tông bi diệt thì Phật Pháp mất đi Hộ Pháp rồi đấy.

Vậy tức là tùy duyên thì tu theo một pháp môn đúng ko bác. Vì e nghĩ là các pháp môn là các con đường khác nhưng cuối cùng đều đi về 1 mục đích là được giác ngộ. Vậy Bác có biết 1 số cao nhân nào tu về Thiền Tông đang ở Anh Quốc ko. E muốn học hỏi thêm về các Pháp môn khác thuộc Phật Giáo. Hoặc bác có thể cho e 1 số những đường link về Phật Pháp ko

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vậy tức là tùy duyên thì tu theo một pháp môn đúng ko bác. Vì e nghĩ là các pháp môn là các con đường khác nhưng cuối cùng đều đi về 1 mục đích là được giác ngộ. Vậy Bác có biết 1 số cao nhân nào tu về Thiền Tông đang ở Anh Quốc ko. E muốn học hỏi thêm về các Pháp môn khác thuộc Phật Giáo. Hoặc bác có thể cho e 1 số những đường link về Phật Pháp ko

Bên Đức, Pháp, Mỹ, Canada vv..thì đều có Thiền Phái Trúc Lâm rồi, còn ở bên Anh, cũng có rồi hay sao đó, mới nghe nói có thầy sang đó giảng, nhưng do duyên chưa đủ nên lại chuyển chuyến sang Đức. Như vậy, bên Anh cũng đa có Thiền Phái Trúc Lâm, cụ thể, cậu có thể vào trang web thuongchieu.net và gửi thư hỏi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bên Đức, Pháp, Mỹ, Canada vv..thì đều có Thiền Phái Trúc Lâm rồi, còn ở bên Anh, cũng có rồi hay sao đó, mới nghe nói có thầy sang đó giảng, nhưng do duyên chưa đủ nên lại chuyển chuyến sang Đức. Như vậy, bên Anh cũng đa có Thiền Phái Trúc Lâm, cụ thể, cậu có thể vào trang web thuongchieu.net và gửi thư hỏi.

Ah trước e cũng có đến Thiền Viện Sùng Phúc ngoài Hà Nội. Có sư thầy định nhận e làm đệ tử nhưng em chỉ ở VN ngắn quá nên ko làm đệ tử ổng đc. Vì vậy e chuyển qua tu Mật Tông vì có người hướng dẫn được. Mà ko hiểu hiện bác BBTL ở đâu ạ?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xin thắc mắc ngoài lề một chút.

Nói về qui mô thì có lẽ hiện nay số lượng tín đồ theo Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo là nhiều nhất. Nhưng sao rất ít thấy hình ảnh hàng ngàn, hàng vạn người tập luyện như PLC đây ? Tại sao các tôn giáo đó không chụp hình lại như PLC ?

Việc nữa là theo nguyên tắc điều khiển đám đông thì một khi đã tập hợp và thuần hoá được đám đông, dĩ nhiên với thiện ý ban đầu rất tốt đẹp ( vì nếu không tốt đẹp thì người ta không theo) thì sau đó có thể hô mưa hô gọi gió tùy ý, chỉ cần gán cho một hành động nào đó ý nghĩa tốt đẹp ( cho dù bản chất hành động đó không tốt đẹp gì) thì lập tức đám đông sẽ tuân theo một cách ý thức và vô thức. Cái mà ĐCS TQ sợ là ở đây ? Bên Mỹ hay ở VN cũng vậy thôi, những tổ chức, giáo phái tập hợp đông người đều bị chính quyền cấp phép, theo dõi, trong khuôn khổ pháp luật.

Lại một việc nữa là làm gì cũng phải có kinh phí, việc tập hợp khối lượng người đông đảo và thường xuyên như vậy, có đạo diễn chụp hình..v..v... chắc chắn tốn rất nhiều tiền của. PLC la tự nguyện vậy kinh phí ở đâu ?

-Chào bạn , mình nghĩ việc chụp hình là bình thường, một người tập có máy ảnh họ chụp một cái là được - đâu phức tạp gì mà phải nghĩ là chuẩn bị công phu nhỉ . Hơn nữa tại VN môn tập này mới có, và chính quyền cũng gây khó khăn, nên mọi người không có biết, vậy thì phải đưa hình ảnh để minh chứng thôi, mình ko có ý gì cả. Các học sinh trong ảnh tại Ấn Độ , họ tập công hàng ngày , nên dễ thấy , điều đó ko có gì lạ. Còn tại Đài Loan có rất nhiều người tập, mình chỉ đưa ra ảnh để các bạn thấy sự tương phản giữa tại TQ và Đài Loan, hay nói cách khác là một bản sao tuy nhiên TQ thì ĐCSTQ đàn áp, còn tại Đài Loan thì ko.

Còn qua các hình ảnh anh kanglee111 đưa lên tôi chẳng thấy qua các buổi tập đó con người sẽ tốt đẹp lên chỗ nào,nó thưc chất chỉ là buổi tập thể dục,hay là một buổi tập họp của một nhóm người,họ ăn mặc đồng phục,múa tay múa chân cứ như là biểu diển cho ai xem ấy,Nếu thực muốn tập khí công thì cũng không cần phải gia nhập vào cái hội này làm gì,mình có thể tự tập ở nhà tôi thấy còn chất lượng hơn,Chắc mấy anh tham gia đây toàn mấy anh ham vui nhỉ.

- Các động tác trong ảnh là trong các bài công Pháp của Pháp Luân Công, trong Pháp môn chúng tôi có hai phần là tu tâm và luyện thân, các động tác là để bổ trợ , gia trì ; phần chính yêu là tu tâm , đọc sách Chuyển Pháp Luân , hành xử theo Chân Thiện Nhẫn , luôn luôn nghĩ đến người khác trước khi mình làm điều gì.

Nếu bạn nào có duyên xin mời xem thêm thông tin http://phapluan.org

Share this post


Link to post
Share on other sites

...

trong Pháp môn chúng tôi có hai phần là tu tâm và luyện thân, các động tác là để bổ trợ , gia trì ; phần chính yêu là tu tâm , đọc sách Chuyển Pháp Luân , hành xử theo Chân Thiện Nhẫn , luôn luôn nghĩ đến người khác trước khi mình làm điều gì.

...

Và nên suy xét thêm lý lịch và hành động của Lý Hồng Chí:

Hồng Chí sinh ngày 7 tháng 7, 1952 tại Thiên Tân. Tuy nhiên, trên nhiều mạng lưới (website) của phong trào này, ngày sinh của Lý Hồng Chí lại được ghi là 13 tháng 5, 1952.

Năm 1988 Lý Hồng Chí nghiên cứu Khí Công và 4 năm sau, thành lập Pháp Luân Công

Ông Lý Hồng Chí phải dời Hoa Lục mà di cư sang Hoa Kỳ năm 1998. Hiện nay ông sống tại vùng Long Island, tiểu bang Nữu Ước, cùng với vợ và một cô con gái.

Lý Hồng Chí đồng hóa Phật Pháp với vũ trụ quan Chân Thiện Nhẫn của ông trong Pháp Luân Công.

Phật Thích Ca và Thiền Tông Trung Hoa – Ông giải thích 49 năm hành đạo của Đúc Phật Thích Ca Mâu Ni theo vũ trụ quan về Chân-Thiện-Nhẫn và các tầng cao thấp của vũ trụ và nhân sinh.. Ông nói: “Thích Ca Mâu Ni dưới cội bồ đề khai công khai ngộ rồi, chưa lập tức đạt đến tầng Như Lai. Trong suốt 49 năm truyền Pháp, Ông liên tục tự mình đề cao. Mỗi khi đề cao [lên] một tầng, Ông quay lại xét thấy Pháp mình vừa giảng xong không còn đúng nữa. Lại đề cao lên, Ông phát hiện rằng Pháp mình vừa giảng xong lại cũng không đúng nữa. Cứ đề cao lên, Ông lại phát hiện rằng Pháp vừa giảng xong lại không còn đúng. Trong toàn bộ 49 năm, Ông không ngừng thăng hoa như thế; mỗi lần đề cao [lên] một tầng, [Ông] lại phát hiện Pháp Ông giảng trước đó về nhận thức đều là rất thấp. Ông cũng phát hiện rằng Pháp của mỗi một tầng là thể hiện của Pháp tại mỗi một tầng đó; mỗi một tầng đều có Pháp, nhưng đó không phải là chân lý tuyệt đối của vũ trụ. Vả lại Pháp của tầng cao so với Pháp của tầng thấp thì [tiếp cận] gần đặc tính của vũ trụ hơn; vậy nên, Ông bèn giảng: ‘Pháp vô định Pháp’. ào những năm cuối, Thích Ca Mâu Ni đã đạt đến tầng Như Lai; hỏi tại sao Ông nói Ông chưa có giảng Pháp nào hết”

Sang đến Thiền Tông Trung Hoa với sơ tổ Đạt Ma thì ông cho rằng chẳng đi đến đâu. Ông nói: “Thiền tông không giảng Pháp gì hết. Đạt Ma [bên] Thiền tông truyền [dạy] căn cứ theo một câu của Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca Mâu Ni giảng: ‘Pháp vô định Pháp’. Ông ấy căn cứ trên câu thoại của Thích Ca Mâu Ni mà sáng lập pháp môn Thiền tông. Chúng tôi nói cái pháp môn ấy là thứ dùi sừng bò. Sao lại gọi là dùi sừng bò? Khởi đầu khi Đạt Ma dùi vào trong thì thấy còn rộng; nhị tổ dùi vào thì thấy không còn rộng nữa; tam tổ thì thấy còn lọt được; tứ tổ thì thấy hẹp lắm rồi; ngũ tổ về cơ bản chẳng còn gì để dùi nữa; tới lục tổ Huệ Năng thì đã đến đỉnh [sừng bò] và có dùi cũng chẳng đi đến đâu được nữa”.

Ông cho rằng giáo pháp trong Phật giáo chỉ là một phần rất nhỏ trong cái mà ông gọi là Phật Pháp có tính chất căn bản là Chân-Thiện-Nhẫn. Pháp Luân Đại Pháp của ông là một Phật Pháp.

Ông viết: “Pháp trong Phật giáo chỉ là một bộ phận nhỏ trong Phật Pháp; còn có nhiều Đại Pháp cao thâm khác; trong mỗi tầng lại có các Pháp khác nhau. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng tu luyện có 8 vạn 4 nghìn pháp môn. Trong Phật giáo chỉ có một vài pháp môn, nó chỉ có Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông, Tịnh Độ [tông], Mật tông, v.v. chỉ mấy pháp môn ấy; đếm ra chỉ là một con số quá nhỏ! Do vậy nó không khái quát toàn thể Phật Pháp được; nó chỉ là một bộ phận nhỏ của Phật Pháp. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi cũng là một pháp môn trong 8 vạn 4 nghìn pháp môn ấy; [nó] không có quan hệ gì với Phật giáo nguyên thuỷ cho đến Phật giáo thời kỳ mạt Pháp, cũng không có quan hệ với các tôn giáo hiện đại”.

Pháp Luân Công tại Ngoại Quốc

Ông Lý Hồng Chí đã phải di cư sang Hoa Kỳ năm 1998 và tất nhiên mang theo phong trào Pháp Luân Công ra nước ngoài. Phong trào này nói là nay cũng đã có trên 100 triệu tín đồ trên 70 nước. Nhưng dường như Pháp Luân Công ở nước ngoài không còn là Pháp Luân Công chính cống như ở Hoa Lục nữa.

Người ngoại quốc đã đón nhận Pháp Luân Công nhu là một trường phái Khí Công hơn là một ngành tu luyện nửa Đạo gia nửa Phật gia như ông Lý Hồng Chí đã muốn. Sau kinh nghiệm đau thương tại chính quốc, ông Lý Hồng Chí chắc đã hiểu là truyền bá môn Khí công do ông sáng lập ra mà không nói tới những thần thông, pháp thuật khó tin của ông thì chắc phong trào Pháp Luân Công mới có cơ hội tồn tại và phát triển được. Bởi vậy trong những hội đoàn Pháp Luân Công tại những nơi như Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Na Uy… người ta chỉ thấy phương pháp tập Khí Công của ông Lý Hồng Chí là hoạt động chính của hội mà không mấy đả động đến những bài pháp thoại của Sư phụ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bát Bộ Thiên Long lập chủ đề này để nắm bắt một vài điểm "nóng" của phái Pháp Luân Công. Thế nào là "nóng", tức là người nóng và pháp nóng. Vấn đề "người nóng" thì có Thầy và Đồ phái Pháp Luân Công; vấn đề "pháp nóng" thì có cũng một vài điểm khá quan trọng cần nhìn nhận.

Ngoài ra, cũng có khi cần nói đến cách thức các học viên Pháp Luân Công truyền đạo với phương pháp như thế nào. Hay có thể nói một cách khoát hơn cho nội dung của chủ đề này:

-Giáo chủ Pháp Luân Công nói gì về Thiền Tông và Tổ Sư Thiền Ấn Độ và Trung Hoa ?

-Những người học Pháp Luân Công đã mất mạng và tàn tật, vậy Pháp Luân Công đã sử lý hậu quả này như thế nào ?

-Những người tuyên truyền Pháp Luân Công ở Việt Nam có chánh kiến hay không ?

-Và một số vấn đề liên quan.

Cảm ơn các đọc giả đã theo dõi và góp ý phân biện cho vấn đề mà Bát Bộ Thiên Long thấy và đặt ra.

PLC, Lý Hồng Chí và Học viên PLC

Học viên PLC có hai loại, một loại đã chết do nghiệp liên quan đến PLC, một loại thứ hai là còn sống nhưng rơi vào tà kiến do ham thích những khả năng thi triển công năng của Lý Hồng Chí.

Theo quả để nhìn thấy cái nhân của quá khứ gần, trực tiếp chỉ có trong tâm tư của Lý Hồng Chí. Quả là gì, đó chính là kết quả hay hậu quả tình trạng PLC và Học viên PLC. PLC và Lý Hồng Chí bị Chính Quốc khẳng định đó là Tà Giáo và là Kẻ Tà Kiến, do vậy có sự đối đầu giữa PCL, Lý Hồng Chí với Chính Quốc. Một trong những hệ quả của sự đối đầu này là cái sự đồng nghiệp, nghiệp thân tàn mạng mất của Học viên PLC.

Đó là cái quả, xét về cái nhân của nó, chỉ có Lý Hồng Chí mới cảm nhận được. Còn các Học viên, quả mải chìm trong tiếp thu sự biểu diễn của Lý Hồng Chí nên không nhìn như thật được vấn đề nguyên nhân.

Lý Hồng Chí đã quá háo thắng để trở nên đệ nhất Pháp môn và đệ nhất Khí công, cho nên đã phô trương những khả năng kỳ đặc. Nhưng trong những khả năng này, tại sao lại không có khả năng đoán biết được hậu quả trong tương lại gần trực tiếp liên quan đến Học viên PLC.

Nếu biết trước được, thì Lý Hồng Chí đã bất chấp hậu quả để đưa PLC trở nên Danh môn Tà phái như hiện giờ.

Nếu không biết trước được, thì đối với những lời phê phán của Lý Hồng Chí dành cho Phật Pháp và Phật Tử thể hiện một điều ông ta không có đủ tư cách để phê phán mặt tiêu cực. Ông ta đã đồng hóa Bác sỹ với Người bệnh đế đánh giá tình trạng Bác sỹ, cho rằng bệnh của Người bệnh là bệnh của Bác sỹ, và đưa ra ý kiến này nói cho nhiều người khác nghe, tức là, ông ta đã đồng hóa Thiền Sư với tâm bệnh của đến cửa Phật cầu đạo. Cho rằng tâm bệnh của người cầu đạo là tình trạng của Phật pháp. đó là một sự cố tình có ý lẫn lộn để mị dân, để mà truyền bá khí công.

Nếu là Danh môn Chính phái, thì ông ta đã phạm phải một điều, là đã quá vội phô trương khí công để cầu danh, bất chấp tất cả. Do vậy, có nhân thì phải có quả, mà là nhân và quả hiện tiền trước mắt. Hậu quả thì người chết là thiệt, người sống còn thiệt hơn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ah trước e cũng có đến Thiền Viện Sùng Phúc ngoài Hà Nội. Có sư thầy định nhận e làm đệ tử nhưng em chỉ ở VN ngắn quá nên ko làm đệ tử ổng đc. Vì vậy e chuyển qua tu Mật Tông vì có người hướng dẫn được. Mà ko hiểu hiện bác BBTL ở đâu ạ?

Nói chung chung thôi là, tớ đang ở Việt Nam.

Thiền Viện Sùng Phúc ở ngoài Bắc, đây là ngôi Thiền Tự đầu tiên liên quan đến sự phục hồi Thiền Tông Đời Trần truyền từ Nam ra Bắc. Còn ngôi Thiền Viện chính thức đầu tiên trong sự kiện này là Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử ở Quảng Ninh.

Phật giáo trong 100 năm qua, đã lớn mạnh ở Tây Phương, cho nên rất nhiều Việt Kiều đã có duyên, biết về Việt Nam, tìm gặp Thiền Sư Việt Nam và mời sang bên họ để cùng góp sức thành lập và trụ trì Thiền viện, Thiền tự.

Tôi không so sánh Thiền, Mật, Tịnh cho nên không có góp ý gì về sự lựa chọn của mỗi người, ví như trường hợp của cậu. Nhưng mà, thì ra, cậu cũng biết đến Thiền Viện như vậy, cũng hay là :(

Share this post


Link to post
Share on other sites

Và nên suy xét thêm lý lịch và hành động của Lý Hồng Chí:

Hồng Chí sinh ngày 7 tháng 7, 1952 tại Thiên Tân. Tuy nhiên, trên nhiều mạng lưới (website) của phong trào này, ngày sinh của Lý Hồng Chí lại được ghi là 13 tháng 5, 1952.

Năm 1988 Lý Hồng Chí nghiên cứu Khí Công và 4 năm sau, thành lập Pháp Luân Công

Ông Lý Hồng Chí phải dời Hoa Lục mà di cư sang Hoa Kỳ năm 1998. Hiện nay ông sống tại vùng Long Island, tiểu bang Nữu Ước, cùng với vợ và một cô con gái.

Lý Hồng Chí đồng hóa Phật Pháp với vũ trụ quan Chân Thiện Nhẫn của ông trong Pháp Luân Công.

Phật Thích Ca và Thiền Tông Trung Hoa – Ông giải thích 49 năm hành đạo của Đúc Phật Thích Ca Mâu Ni theo vũ trụ quan về Chân-Thiện-Nhẫn và các tầng cao thấp của vũ trụ và nhân sinh.. Ông nói: “Thích Ca Mâu Ni dưới cội bồ đề khai công khai ngộ rồi, chưa lập tức đạt đến tầng Như Lai. Trong suốt 49 năm truyền Pháp, Ông liên tục tự mình đề cao. Mỗi khi đề cao [lên] một tầng, Ông quay lại xét thấy Pháp mình vừa giảng xong không còn đúng nữa. Lại đề cao lên, Ông phát hiện rằng Pháp mình vừa giảng xong lại cũng không đúng nữa. Cứ đề cao lên, Ông lại phát hiện rằng Pháp vừa giảng xong lại không còn đúng. Trong toàn bộ 49 năm, Ông không ngừng thăng hoa như thế; mỗi lần đề cao [lên] một tầng, [Ông] lại phát hiện Pháp Ông giảng trước đó về nhận thức đều là rất thấp. Ông cũng phát hiện rằng Pháp của mỗi một tầng là thể hiện của Pháp tại mỗi một tầng đó; mỗi một tầng đều có Pháp, nhưng đó không phải là chân lý tuyệt đối của vũ trụ. Vả lại Pháp của tầng cao so với Pháp của tầng thấp thì [tiếp cận] gần đặc tính của vũ trụ hơn; vậy nên, Ông bèn giảng: ‘Pháp vô định Pháp’. ào những năm cuối, Thích Ca Mâu Ni đã đạt đến tầng Như Lai; hỏi tại sao Ông nói Ông chưa có giảng Pháp nào hết”

Sang đến Thiền Tông Trung Hoa với sơ tổ Đạt Ma thì ông cho rằng chẳng đi đến đâu. Ông nói: “Thiền tông không giảng Pháp gì hết. Đạt Ma [bên] Thiền tông truyền [dạy] căn cứ theo một câu của Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca Mâu Ni giảng: ‘Pháp vô định Pháp’. Ông ấy căn cứ trên câu thoại của Thích Ca Mâu Ni mà sáng lập pháp môn Thiền tông. Chúng tôi nói cái pháp môn ấy là thứ dùi sừng bò. Sao lại gọi là dùi sừng bò? Khởi đầu khi Đạt Ma dùi vào trong thì thấy còn rộng; nhị tổ dùi vào thì thấy không còn rộng nữa; tam tổ thì thấy còn lọt được; tứ tổ thì thấy hẹp lắm rồi; ngũ tổ về cơ bản chẳng còn gì để dùi nữa; tới lục tổ Huệ Năng thì đã đến đỉnh [sừng bò] và có dùi cũng chẳng đi đến đâu được nữa”.

Ông cho rằng giáo pháp trong Phật giáo chỉ là một phần rất nhỏ trong cái mà ông gọi là Phật Pháp có tính chất căn bản là Chân-Thiện-Nhẫn. Pháp Luân Đại Pháp của ông là một Phật Pháp.

Ông viết: “Pháp trong Phật giáo chỉ là một bộ phận nhỏ trong Phật Pháp; còn có nhiều Đại Pháp cao thâm khác; trong mỗi tầng lại có các Pháp khác nhau. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng tu luyện có 8 vạn 4 nghìn pháp môn. Trong Phật giáo chỉ có một vài pháp môn, nó chỉ có Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông, Tịnh Độ [tông], Mật tông, v.v. chỉ mấy pháp môn ấy; đếm ra chỉ là một con số quá nhỏ! Do vậy nó không khái quát toàn thể Phật Pháp được; nó chỉ là một bộ phận nhỏ của Phật Pháp. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi cũng là một pháp môn trong 8 vạn 4 nghìn pháp môn ấy; [nó] không có quan hệ gì với Phật giáo nguyên thuỷ cho đến Phật giáo thời kỳ mạt Pháp, cũng không có quan hệ với các tôn giáo hiện đại”.

Các đoạn trên được trích ra từ mục Tầng khác nhau Có pháp khác nhau trong sách của Lý Hồng Chí. Đối với người có kiến thức đại cương Phật học, sẽ dễ nhận thấy sự phần tích của Lý Hồng Chí thực chất là một loạt các sự hiểu sai về câu cú vắn tắt trong Tôn giao và Tâm linh. Vì hiểu không đúng cho nên Lý Hồng Chí đã trộn đủ các luận lý với nhau làm thành một bài pháp, thành một thứ cám, ai ăn phải thì sẽ thành...tất nhiên là ăn cám thì thành loài ăn cám. Trong bài pháp đó, nếu coi không bàn đến chính tà, thì có thể nói, sự thuyết pháp như vậy tháo được rất nhiều đinh chốt cho người có nghi vấn. Nhưng phải nói thật là, Lý Hồng Chí nấu cám siêu thật, làm nhiều người cứ tưởng đó là bánh gato hay là một thứ bánh ngọt gì đó có thương hiệu đường hoàng.

Chính vì Lý Hồng Chí gộp nhiều thứ vào để thành một đoạn thuyết giảng, cho nên phản biện đoạn thuyết giảng này, sẽ không cần coi nó là một vấn đề mà chỉ cần xem nó là những vấn đề xếp và không tương đồng với nhau.

Pháp trong Phật giáo chỉ là một bộ phận nhỏ trong Phật Pháp; còn có nhiều Đại Pháp cao thâm khác; trong mỗi tầng lại có các Pháp khác nhau. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng tu luyện có 8 vạn 4 nghìn pháp môn. Trong Phật giáo chỉ có một vài pháp môn, nó chỉ có Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông, Tịnh Độ [tông], Mật tông, v.v. chỉ mấy pháp môn ấy; đếm ra chỉ là một con số quá nhỏ! Do vậy nó không khái quát toàn thể Phật Pháp được; nó chỉ là một bộ phận nhỏ của Phật Pháp. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi cũng là một pháp môn trong 8 vạn 4 nghìn pháp môn ấy; [nó] không có quan hệ gì với Phật giáo nguyên thuỷ cho đến Phật giáo thời kỳ mạt Pháp, cũng không có quan hệ với các tôn giáo hiện đại”.

Nếu mà đem số lượng Tông để mà so sánh với con số 84000 thì thật là một sự khập khiễng.

8 là gì, 4 là gì, 000 là gì ?

8 là bát thức.

4 là tứ đại.

000 là ba đời-quá khứ, hiện tại, vị lai.

Phiền não của chúng sinh trong Bát thức, Tứ đại, Ba đời cho nên nói chúng sinh có 8 vạn 4 ngàn phiền não. Pháp Phật là trị tâm bệnh chúng sinh, chung sinh có 8 vạn 4 ngàn bệnh thì cũng theo đó Phật pháp có 8 vạn 4 ngàn thứ thuốc.

Xem ra, một Tông của Phật Pháp cũng trị được tất cả 8 vạn 4 ngàn bệnh của chúng sinh.

Tôi cũng cần phải nhấn mạnh một vấn đề, tu luyện chúng ta cần phải có truyền công [và] giảng Pháp. Một số hoà thượng ở chùa, đặc biệt là [hoà thượng] Thiền tông có thể có cách nghĩ khác. Hễ nghe đến giảng Pháp, họ liền không thích nghe. Tại sao? Thiền tông [nhìn] nhận rằng: Pháp ấy không thể giảng, Pháp đã giảng ra [thành lời] thì không còn là Pháp nữa; không có Pháp có thể giảng; chỉ có thể tâm lĩnh thần hội; vậy nên đến ngày nay Thiền tông không giảng Pháp gì hết. Đạt Ma [bên] Thiền tông truyền [dạy] điều ấy; ...

Ngày nay chư vị nếu muốn đến Thiền tông học Pháp, chư vị chớ hỏi; nếu chư vị hỏi ông [thầy] bất kể vấn đề gì, [ông ta] sẽ quay lại cho vào đầu chư vị một gậy, gọi là “bổng hát”3. Đó nghĩa là chư vị không được hỏi, phải tự mình ngộ. Chư vị nói: ‘Tôi chưa biết nên mới đến học, ngộ được gì đây? Ông lại cho tôi một gậy [là sao]?!’ Đó là cái sừng bò kia đã dùi đến đỉnh rồi, không còn gì có thể giảng nữa. Đạt Ma giảng rõ là nó chỉ có thể truyền đến lục tổ, sau đó không dùng được nữa. Mấy trăm năm qua rồi, đến nay vẫn có người ôm chết cứng cái lý của Thiền tông mà không bỏ.

...

Phật Pháp từ Ấn Độ, đặc biệt là Thiền Tông, được truyền sang các nước khác như Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản .v.v...Đến nước nào thì Thiền Tông có cách thức và hình thức riêng để khai thị cho người học. Ví như ở Thiền Tông ngay tại Ân Độ : Trực chỉ, siêu lý giải. Thiền Tông Trung Hoa: Trực chỉ, táo bạo. Thiền Tông Nhật Bản: Trực chỉ, nghệ thuật và thông tục. Thiền Tông Việt Nam: Trực chỉ, thi vị và tùy cơ.

Còn trường hợp nhận định của Lý Hồng Chí đối với Thiền Tông Trung Hoa, chỉ nói nên một điều, mặt thực chất, Lý Hồng Chí vô học và vô hành đối với Phật Pháp.

Vậy thì hãy xem, ở Thiền Tông Trung Hoa trực chỉ và táo bạo có tác dụng gì đối với người học.

Tại sao lại không giảng pháp ?

Tại sao pháp ấy không thể giảng ?

Tại sao chỉ có thể tâm lĩnh thần hội ?

Tại sao lại cho người học ăn đòn ?

Thực tế vấn đề sự kiện của Thiền Tông rất logic và khoa học đối với sự tiến triển của quá trình học, hiểu, và hành của người cầu đạo.

Tại sao lại không giảng pháp ?

Thật tế Thiền và Kinh không hai, nên pháp đã giảng nhiều lắm rồi, người ta cũng đã học thông kinh luận luật rồi. Tam Tạng cũng là cơ bản của Thiền, và người học đã đạt được cái cơ bản ấy rồi. Bây giờ phải tiến lên, học rồi phải tiến đến hiểu.

Thiền Tông là Kiến Tánh Khởi Tu. Đối với Kiến Tánh, có Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đối với Khởi Tu, thì có trong Kinh Lăng Nghiêm và rất nhiều Kinh khác. Học Kinh là học về Kiến Tanh, học về Khởi Tu. Bước sang Thiền Tông là Hiểu về Kiến Tánh, Hiểu về Khởi Tu. Hiểu tức là Ngộ, cho nên có từ Ngộ đạo là vậy.

Tại sao pháp ấy không thể giảng ?

Người ta đã học nhưng chưa thật hiểu, nên muốn hiểu thì phải nghiền ngẫm cho kỹ, phải tự nơi người học đặt câu hỏi thì mới có thể tự nghi tự ngộ. Ngộ rồi thì xoay trở lại đối chiều với cái đã học để thấy thâm ý của Kinh.

Tại sao chỉ có thể tâm lĩnh thần hội ?

Tâm lĩnh thần hội tức là người khác không thể ngộ hộ mình được, ví như người ta không hể nhờ người khác ăn hộ để mình có thể tự no bụng được.

Tại sao lại cho người học ăn đòn ?

Cho người học ăn đòn tức là giống như một trận mưa, tùy theo mỗi loài đều được lợi ích nhiều ít.

Ăn đòn là pháp chung, tùy theo cái nghi của người được ăn đòn mà người học có thể ngộ. Vế dụ về mốt số vấn đề nghi:

Vế dụ có người đến hỏi Thiền Sư: Yếu chỉ thiền là Kiến Tánh rồi mới Khởi tu, người học lại nói: Khởi tu thì con không hỏi nhưng Kiến tánh là thế nào?

Sau khi được trả lời bằng một gậy với câu hỏi như thế thì sao đây. Người học có thể ngộ ra: à, Kiến tánh tức chẳng phải Kiến tánh, chẳng phải Kiến tánh mới thực là Kiến tánh. Cho ăn gậy liền thấy đau, cái thấy được cái đau đó chính là nơi Tánh Giác mà thấy. Cái thân xác vô tri, bị ăn đòn nhưng không biết đau, biết đau là Tánh Giác biết được.

Vế dụ có người đến hỏi Thiền Sư: Yếu chỉ thiền là Kiến Tánh rồi mới Khởi tu, người học lại nói: Kiến tánh thì con không hỏi nhưng Khởi tu là thế nào?

Sau khi được trả lời bằng một gậy với câu hỏi như thế thì sao đây. Người học có thể ngộ ra: à, Khởi tu tức chẳng phải Khởi tu , chẳng phải Khởi tu mới thực là Khởi tu.

Có học nhưng chưa hiểu, đến khi ăn đòn thì mới hiểu, hiểu như vậy thì thật là khó quên, đó là thật hiểu cho nên theo sự hiểu sự ngộ nơi mình mà có khả năng khai thị cho người khác.

Xong như trường hợp trên, người ta có thể có nhiều lớp ngộ sâu hơn theo thời gian về sau. Vế dụ, Kiến tánh mà không phải Kiến tánh mới thực là Kiến tánh, sâu hơn, xét thấy nó vẫn còn có thể lý giải nên chắc chắn vẫn còn chưa phải là Triệt. Kiến giải là ý thức, do tu mà thức chuyển thành trí, ở đây lại do trí mà ngộ vào sâu hơn, tức là khi buông cái kiến giải về Thật Kiến Tánh thì đó là Tùy Thuận Kiến Tánh.

Cũng như thế, khi buông được Kiến giải Thật Khởi Tu thì đó là Tùy Thuận Khởi Tu.

Cuối cùng từ Thiền Tông Tối Thượng Thừa lại nhận ra Tiểu Thừa Phật Giáo không khác với nhau về sự thực hành. Nhưng vấn đề sự kiện hiểu ngộ thì có khác nhau tùy theo căn có trí lực và học lực. Cho nên thực hành thì người ngu như Bàn Đặc cũng chứng ALAHAN, người trí như Đại Ca Diếp cũng chứng ALAHAN.

Như vậy thì, nếu Phật nói ý rằng một đời Phật giáo hóa mà chưa nói Pháp thì chúng ta phải hiểu là Phật nói với các đệ tử của Phật, chứ không phải nói với người chưa biết đến đao, chưa có tâm cầu đạo như những người phàm tục. Nếu là người có tâm cầu đạo, đã được học Phật thì đó là người trong Nhà Phật rồi, và người trong nhà Phật thì mới có cơ duyên hiểu được lời nói của Phật.

Vậy thì Lý Hồng Chí khi lớn lên, đâu phải là Đệ Tử Phật. Không phải là Đệ Tử Phật mà bàn chuyện của Nhà Phật thì e là sẽ sinh ra nhiều tà kiến, nên trở thành người nấu cám như đoạn trên đã nói... Vậy thì một lần nữa nhắc lại "...tất nhiên là ăn cám thì thành loài ăn cám".

Share this post


Link to post
Share on other sites

Pháp trong Phật giáo chỉ là một bộ phận nhỏ trong Phật Pháp; còn có nhiều Đại Pháp cao thâm khác; trong mỗi tầng lại có các Pháp khác nhau. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng tu luyện có 8 vạn 4 nghìn pháp môn. Trong Phật giáo chỉ có một vài pháp môn, nó chỉ có Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông, Tịnh Độ [tông], Mật tông, v.v. chỉ mấy pháp môn ấy; đếm ra chỉ là một con số quá nhỏ! Do vậy nó không khái quát toàn thể Phật Pháp được; nó chỉ là một bộ phận nhỏ của Phật Pháp. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi cũng là một pháp môn trong 8 vạn 4 nghìn pháp môn ấy; [nó] không có quan hệ gì với Phật giáo nguyên thuỷ cho đến Phật giáo thời kỳ mạt Pháp, cũng không có quan hệ với các tôn giáo hiện đại”.

Nếu mà đem số lượng Tông để mà so sánh với con số 84000 thì thật là một sự khập khiễng.

8 là gì, 4 là gì, 000 là gì ?

8 là bát thức.

4 là tứ đại.

000 là ba đời-quá khứ, hiện tại, vị lai.

Phiền não của chúng sinh trong Bát thức, Tứ đại, Ba đời cho nên nói chúng sinh có 8 vạn 4 ngàn phiền não. Pháp Phật là trị tâm bệnh chúng sinh, chung sinh có 8 vạn 4 ngàn bệnh thì cũng theo đó Phật pháp có 8 vạn 4 ngàn thứ thuốc.

Xem ra, một Tông của Phật Pháp cũng trị được tất cả 8 vạn 4 ngàn bệnh của chúng sinh.

Có thể nói thêm về có số 8vạn 4ngàn.

Nếu mà nói chúng sinh có 84000 tâm bệnh, nếu cho nó là thật thế thì thử hỏi chúng sinh có 84000 thân bệnh có phải thật thế không. Khoa học ngày này, trong ngành y, không biết liệt kê được người và động vật có được bao nhiều thứ bệnh, và có thể khẳng định các loại bệnh là có giới hạn cụ thể hay không.

Nếu mà bảo mỗi Tông trong Phật giáo chỉ đặc trị một tâm bệnh, vậy thì đối với chúng sinh, hạng độn căn tiểu trí, càng độn căn tiểu trí thì càng lắm tâm bệnh, thì hóa ra hạng này cơ duyên để khỏi bệnh thật là kém vì muốn khỏi bệnh phải tu một lúc ngần ấy tông pháp ứng với số tâm bệnh của Y.

Giáo Tông Tiểu Thừa là những bài pháp đặc trị từng bệnh.

Giáo Tông Đại Thừa là những bài pháp trị bách bệnh.

Thiền Tông Tối Thượng Thừa là không pháp nào hết vì thấy Tánh Giác của chúng sanh vốn không có bệnh, vốn tự Thanh tịnh.

Vì vậy Tổ Sư mới nói:

Phật nói tất cả Pháp

Để trị tất cả Tâm

Nếu không tất cả Tâm

Đâu cần tất cả Pháp.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giáo Tông Tiểu Thừa là những bài pháp đặc trị từng bệnh.

Giáo Tông Đại Thừa là những bài pháp trị bách bệnh.

Thiền Tông Tối Thượng Thừa là không pháp nào hết vì thấy Tánh Giác của chúng sanh vốn không có bệnh, vốn tự Thanh tịnh.

Vì vậy Tổ Sư mới nói:

Phật nói tất cả Pháp

Để trị tất cả Tâm

Nếu không tất cả Tâm

Đâu cần tất cả Pháp.

Tánh Giác vốn tự thanh tịnh, thường biết tất cả rõ ràng, chỉ là đừng gây thêm chướng ngại cho thân tâm, đói đến thì ăn, mệt đến thì ngủ, sự sự tùy duyên vô ngại, đó là khéo bảo nhiệm, thời tiết nhân duyên đến, các chướng dứt hết rồi thì cảnh Phật liền hiển hiện, ngồi một chỗ mà thấy mười phương chư Phật.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nói chung chung thôi là, tớ đang ở Việt Nam.

Thiền Viện Sùng Phúc ở ngoài Bắc, đây là ngôi Thiền Tự đầu tiên liên quan đến sự phục hồi Thiền Tông Đời Trần truyền từ Nam ra Bắc. Còn ngôi Thiền Viện chính thức đầu tiên trong sự kiện này là Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử ở Quảng Ninh.

Phật giáo trong 100 năm qua, đã lớn mạnh ở Tây Phương, cho nên rất nhiều Việt Kiều đã có duyên, biết về Việt Nam, tìm gặp Thiền Sư Việt Nam và mời sang bên họ để cùng góp sức thành lập và trụ trì Thiền viện, Thiền tự.

Tôi không so sánh Thiền, Mật, Tịnh cho nên không có góp ý gì về sự lựa chọn của mỗi người, ví như trường hợp của cậu. Nhưng mà, thì ra, cậu cũng biết đến Thiền Viện như vậy, cũng hay là :(

Bà em là Phật Tử nên hay đưa e đi các chùa chiền và thiền viện. Bà theo Thiền Tông và Tịnh Độ Nhưng nghiêng về Thiền. Mà chỉ đáng tiếc là e lại đi du học nên ko đi được nhiều. Ko có lẽ cũng vào Thiền Viện SÙng Phúc làm đệ tử. Tại mấy thầy trong đó kêu mặt e phúc hậu nên cứ xin bà e cho theo 1 trong các thầy học. Bà e cũng muốn e theo họ làm đệ tử nhưng đùng 1 cái lại fải đi nên ko đủ duyên. Bản thân e đã từng học Thiền và e cũng tu theo Tịnh Độ khá lâu. E cũng muốn theo cả 3 con đường nên hỏi thử bác xem biết Thiền Viện nào ở ANh ko. E có thấy 1 ngôi chùa VN ở đây nhưng e đoán chưa chắc có vị nào theo Thiền Tông ở đây

Share this post


Link to post
Share on other sites

PLC là một loại virus tâm linh có hai, nó thâm nhập vào những người có khả năng kém về chánh kiến trong lĩnh vực phân biệt chánh pháp tà pháp. Thành ra người bị nhiễm virus này biểu hiện bệnh trên Thân, Khẩu, và Ý.

Như vậy, các chiến sĩ Công an bậy giờ lại phải trở thành chiến sĩ Tâm linh để ngăn chặn và dẹp bỏ virus tâm linh PLC. Cũng với hình thức sử lý như đối với virus ở gia cầm là chôn sống tất cả những gia cầm có biểu hiện dương tính, tức là, người có khả năng đề kháng kém về chánh kiến tà kiến nếu có biểu hiện nhiễm virus này thì cũng sẽ bị cách ly hoặc bị sử lý mạnh như đối với gia cầm biểu hiện virus dương tính toàn phần.

Ở thành phố HCM, đã có biểu hiện người nhiễm virus này, và cũng đã có các chiến sĩ tâm linh ra tay phòng chống dịch trong năm 2009. Nhưng dịch này lại lan ra tới ngoài Bắc:

Ngày 10-5-2009, Hội giao lưu tâm đắc thể hội Pháp Luân Đại Pháp Việt Nam lần đầu tiên tổ chức thành công tại thủ đô Hà Nội. Gần 150 đồng tu từ các tỉnh thành đã tề tựu dự Pháp hội nghiêm trang này. Chiểu theo Pháp mà Sư phụ dạy, các đệ tử Việt Nam đã chia sẻ giao lưu tâm đắc thể hội của mình trong tu luyện và chứng thực Pháp, từ đó nhận ra những thiếu sót ở bản thân sao cho sau này thực hiện ngày càng tốt hơn nữa. Đệ tử Đại Pháp ở Việt Nam cũng nhân dịp Pháp Hội để bày tỏ lời chúc tốt đẹp nhất, bày tỏ sự tôn kính nghiêm trang nhất đến Sư phụ Từ bi Vĩ đại nhân ngày 13 tháng 5 sắp tới.

Pháp Hội bắt đầu bằng phát chính niệm tập thể, tiếp đó các đệ tử cùng nhau đồng thời đọc Luận Ngữ. Sau đó là phần chia sẻ tâm đắc thể hội của các đệ tử Đại Pháp Việt Nam.

Có 14 bài chia sẻ tâm đắc thể hội từ các đệ tử Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng, Vũng Tàu, Bình Đà, và có cả bài chia sẻ của một đệ tử người Việt đang sinh sống ở Đức và một đệ tử đang học tập ở Nga. Các bài chia sẻ vô cùng cảm động. Nhiều đồng tu đã bật khóc khi cảm nhận được sự vĩ đại và từ bi vô hạn của Đại Pháp và của Sư phụ.

Hầu hết các bài viết là của các đệ tử mới học nửa năm, một năm, và hai năm. Một đệ tử tu Đại Pháp gần 2 năm đã đọc bài viết rất dài nói lên tầm quan trọng của giảng thanh chân tướng, và khích lệ các đồng tu hãy bước ra để thực hiện thệ nguyện lịch sử xa xưa của mình. Một đệ tử viết về kinh nghiệm giảng thanh chân tướng cho người Hoa sống hoặc du lịch tới Việt Nam. Một đệ tử trẻ ở Sài Gòn có bài chia sẻ trong tu luyện đã vượt qua những khó nạn như thế nào khi bước ra giảng thanh chân tướng ở môi trường quanh mình. Một đệ tử cao tuổi mới đắc Pháp một năm có bài viết và làm thơ rất cảm động, nói lên kinh nghiệm tham gia tập công hàng ngày ở công viên và kinh nghiệm hồng Pháp cho thân bằng hảo hữu. Rất nhiều các khía cạnh tu luyện khác cũng được đề cập đến trong các bài chia sẻ tâm đắc thể hội: cân bằng giữa công tác người tường và việc Đại Pháp, cởi mở và từ bi hơn nữa khi xử lý mâu thuẫn trong gia đình, tầm quan trọng của tu khẩu, đột phá cái tâm người thường để đồng hoá hoàn toàn trong Pháp, học thuộc Chuyển Pháp Luân, v.v.

Sau khi phát chính niệm, lúc 5:15 chiều, Pháp Hội kết thúc. Sau đó các đồng tu chụp ảnh với khẩu hiệu thể hiện lời chúc mừng sinh nhật Sư phụ và cũng là nhân ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới 13 tháng 5.

Dự xong Pháp Hội, các đệ tử Việt Nam thu được rất nhiều lợi ích cho tu luyện, nhiều đệ tử đã bày tỏ rằng mình sẽ gắng sức tu luyện tinh tấn hơn nữa, và nỗ lực theo kịp tiến trình Chính Pháp.

Chúng con vô vàn biết ơn cơ hội mà Sư phụ Từ bi Vĩ đại đã cấp cho, và đệ tử Việt Nam sẽ nỗ lực tu luyện tinh tấn hơn nữa.

Posted Image

Pháp hội này, ổ dịch này, theo tin thì ở Hà Nội, nhưng không biết có phải thật ở Hà Nội hay không cũng không rõ người tổ chức là Việt kiều hay là không kiều.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bà em là Phật Tử nên hay đưa e đi các chùa chiền và thiền viện. Bà theo Thiền Tông và Tịnh Độ Nhưng nghiêng về Thiền. Mà chỉ đáng tiếc là e lại đi du học nên ko đi được nhiều. Ko có lẽ cũng vào Thiền Viện SÙng Phúc làm đệ tử. Tại mấy thầy trong đó kêu mặt e phúc hậu nên cứ xin bà e cho theo 1 trong các thầy học. Bà e cũng muốn e theo họ làm đệ tử nhưng đùng 1 cái lại fải đi nên ko đủ duyên. Bản thân e đã từng học Thiền và e cũng tu theo Tịnh Độ khá lâu. E cũng muốn theo cả 3 con đường nên hỏi thử bác xem biết Thiền Viện nào ở ANh ko. E có thấy 1 ngôi chùa VN ở đây nhưng e đoán chưa chắc có vị nào theo Thiền Tông ở đây

Khi hệ thống Thiền Viện Trúc Lâm chưa xuất hiện, mà ban đầu, xuất phát từ Pháp Lạc Thất. Trong Pháp Lạc Thất, Thiền Sư mộng thấy Ngũ Tổ và kiến trúc chùa chiền giống như kiến trúc hệ thống Thiện Viện Trúc Lâm ngày nay.

Luận Tối Thượng Thừa là một cuốn luận của Ngũ Tổ, Thiền Sư đã giảng giải cuốn này đề làm tư liệu cho việc thành lập Thiền Viện Chơn Không (là Thiền Viện đầu tiên trong hệ thống các Thiền Viện Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử). Giới thiệu với các đọc giả:

LUẬN TỐI THƯỢNG THỪA

Share this post


Link to post
Share on other sites

Pháp trong Phật giáo chỉ là một bộ phận nhỏ trong Phật Pháp; còn có nhiều Đại Pháp cao thâm khác; trong mỗi tầng lại có các Pháp khác nhau. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng tu luyện có 8 vạn 4 nghìn pháp môn. Trong Phật giáo chỉ có một vài pháp môn, nó chỉ có Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông, Tịnh Độ [tông], Mật tông, v.v. chỉ mấy pháp môn ấy; đếm ra chỉ là một con số quá nhỏ! Do vậy nó không khái quát toàn thể Phật Pháp được; nó chỉ là một bộ phận nhỏ của Phật Pháp. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi cũng là một pháp môn trong 8 vạn 4 nghìn pháp môn ấy; [nó] không có quan hệ gì với Phật giáo nguyên thuỷ cho đến Phật giáo thời kỳ mạt Pháp, cũng không có quan hệ với các tôn giáo hiện đại”.

Nếu mà đem số lượng Tông để mà so sánh với con số 84000 thì thật là một sự khập khiễng.

8 là gì, 4 là gì, 000 là gì ?

8 là bát thức.

4 là tứ đại.

000 là ba đời-quá khứ, hiện tại, vị lai.

Phiền não của chúng sinh trong Bát thức, Tứ đại, Ba đời cho nên nói chúng sinh có 8 vạn 4 ngàn phiền não. Pháp Phật là trị tâm bệnh chúng sinh, chung sinh có 8 vạn 4 ngàn bệnh thì cũng theo đó Phật pháp có 8 vạn 4 ngàn thứ thuốc.

Xem ra, một Tông của Phật Pháp cũng trị được tất cả 8 vạn 4 ngàn bệnh của chúng sinh.

8 là Bát thức, tức thuộc về Tâm (tâm thức: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, và a nại da thức).

4 là Tứ đại (Đất, Nước, Gío, Lửa), tức thuộc về Thân.

000 là ba đời-quá khứ, hiện tại, vị lai, tức là Luân hồi Sinh Tử Nhân quả Ba đời.

Như thế, 84000 bệnh nghĩa là Thân Tâm lạc trong Luân hồi theo Nhân quả Ba đời sinh sinh diệt diệt. Hay nói ngắn gọi hơn 84000 bệnh nghĩa là Thân Tâm Sinh Tử, hay là Chúng sinh chúng tử gọi tắt là chúng sinh. Ngắn hơn nữa, 84000 bệnh là Chúng Sinh.

Tánh không là Chúng sinh, Chúng sinh là Tánh không.

Không không tức Tánh không rồi đến Chân không.

Chân không là Phật, Phật là Chân không.

Nhân Không

Pháp Không

Tánh Không

Không Không

Chơn Không

Diệu Hữu

Lý Hồng Chí làm gì có cái kiến giải này. Chả qua có chút cảnh giới khí công, rồi khi giảng pháp thì thêm râu ria này kia tiền sử mới hiện đại vào để mà khua môi múa mép. Chúng sinh lại hiếu kì thấy biết nên lao tâm lao lực vào mà làm dân cho Lý Hồng Chí. Khí công mà Toàn giác cho được thì chắc Phật Thích Ca đã không phải hạ sinh.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nội dung trích dẫn

Pháp trong Phật giáo chỉ là một bộ phận nhỏ trong Phật Pháp; còn có nhiều Đại Pháp cao thâm khác; trong mỗi tầng lại có các Pháp khác nhau. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng tu luyện có 8 vạn 4 nghìn pháp môn. Trong Phật giáo chỉ có một vài pháp môn, nó chỉ có Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông, Tịnh Độ [tông], Mật tông, v.v. chỉ mấy pháp môn ấy; đếm ra chỉ là một con số quá nhỏ! Do vậy nó không khái quát toàn thể Phật Pháp được; nó chỉ là một bộ phận nhỏ của Phật Pháp. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi cũng là một pháp môn trong 8 vạn 4 nghìn pháp môn ấy; [nó] không có quan hệ gì với Phật giáo nguyên thuỷ cho đến Phật giáo thời kỳ mạt Pháp, cũng không có quan hệ với các tôn giáo hiện đại”.

Nội dung trích dẫn( @ Oct 15 2009, 03:38 AM)

Nếu mà đem số lượng Tông để mà so sánh với con số 84000 thì thật là một sự khập khiễng.

8 là gì, 4 là gì, 000 là gì ?

8 là bát thức.

4 là tứ đại.

000 là ba đời-quá khứ, hiện tại, vị lai.

Phiền não của chúng sinh trong Bát thức, Tứ đại, Ba đời cho nên nói chúng sinh có 8 vạn 4 ngàn phiền não. Pháp Phật là trị tâm bệnh chúng sinh, chung sinh có 8 vạn 4 ngàn bệnh thì cũng theo đó Phật pháp có 8 vạn 4 ngàn thứ thuốc.

Xem ra, một Tông của Phật Pháp cũng trị được tất cả 8 vạn 4 ngàn bệnh của chúng sinh.

8 là Bát thức, tức thuộc về Tâm (tâm thức: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, và a nại da thức).

4 là Tứ đại (Đất, Nước, Gío, Lửa), tức thuộc về Thân.

000 là ba đời-quá khứ, hiện tại, vị lai, tức là Luân hồi Sinh Tử Nhân quả Ba đời.

Như thế, 84000 bệnh nghĩa là Thân Tâm lạc trong Luân hồi theo Nhân quả Ba đời sinh sinh diệt diệt. Hay nói ngắn gọi hơn 84000 bệnh nghĩa là Thân Tâm Sinh Tử, hay là Chúng sinh chúng tử gọi tắt là chúng sinh. Ngắn hơn nữa, 84000 bệnh là Chúng Sinh.

Tánh không là Chúng sinh, Chúng sinh là Tánh không.

Không không tức Tánh không rồi đến Chân không.

Chân không là Phật, Phật là Chân không.

Nhân Không

Pháp Không

Tánh Không

Không Không

Chơn Không

Diệu Hữu

Lý Hồng Chí làm gì có cái kiến giải này. Chả qua có chút cảnh giới khí công, rồi khi giảng pháp thì thêm râu ria này kia tiền sử mới hiện đại vào để mà khua môi múa mép. Chúng sinh lại hiếu kì thấy biết nên lao tâm lao lực vào mà làm dân cho Lý Hồng Chí. Khí công mà Toàn giác cho được thì chắc Phật Thích Ca đã không phải hạ sinh.

Kênh Rạch mà so với Sông Biển. Kinh Phật nói về quá khứ hàng tỷ năm về trước, nói về tương lai hàng tỉ năm về sau. Nhỏ thì như sợi Tơ, Lớn thì bao trùm tam thiên đại thiên thế giới. Không Không Có Có, có Pháp nào mà không có trong Kinh Phật. So với Phật chỉ có Lão Tử thôi. Lớp lửng danh từ "Phật Giáo", "Phật Pháp", "Đại Pháp" chẳng qua muốn chen vào đó mà thôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kênh Rạch mà so với Sông Biển. Kinh Phật nói về quá khứ hàng tỷ năm về trước, nói về tương lai hàng tỉ năm về sau. Nhỏ thì như sợi Tơ, Lớn thì bao trùm tam thiên đại thiên thế giới. Không Không Có Có, có Pháp nào mà không có trong Kinh Phật. So với Phật chỉ có Lão Tử thôi. Lớp lửng danh từ "Phật Giáo", "Phật Pháp", "Đại Pháp" chẳng qua muốn chen vào đó mà thôi.

<_< , Lý Hồng Chí viết sách PLC, cứ lộn hết cả Phật gia, Phật Pháp.

Thấy Phật nói rằng Giáo Lý mà Phật đã nói ví như nắm lá trong bàn tay, còn những gì Phật biết mà chưa nói thì ví như số lá trong rừng. Thế là Lý Hồng Chí vớ luôn ý này, tuyên bố PLC thuộc một pháp trong số lá ở rừng kia. Níu mà thế, Bin Gớt cũng tuyên bố được là giáo chủ một pháp môn ví như một nắm lá thuộc số lá ở trong rừng ấy.

Lại nữa, Thấy Phật nói Giáo Lý có tám vạn bốn ngàn thứ thuốc để trị tám vạn bốn ngàn tâm bệnh chúng sinh. Không ngờ được đây là câu nói bất liễu nghĩa, Lý Hồng Chí vội ôm lấy, ngộ nhận liễu nghĩa để lập luận, hòng chen chân vào thế giới tâm linh.

8 vạn 4 ngàn tâm bệnh tức là Chúng sinh, cũng tức là Nhân quả ba đời trong Luân hồi. Công năng, công sở của Lý Hồng Chí cũng thuộc trong phạm vi Ngũ Ấm Ma, do không lường được tiến trình tâm linh tu chứng có Ma Ngũ Ấm, nên trong cảnh giới ấy, tự gây ra cái thấy cảnh giới cho nên liền bị lạc vào cạm bẫy của loại ma này, vẫn là cái bệnh Tri kiến Lập Tri. Mắc phải bệnh này, sau sẽ dẫn đến lỗi Tăng Thượng Mạn (chưa chứng mà đã cho là chứng), tự cho PLC là Phật Pháp. Rốt cuộc vẫn là Tâm bệnh, cho nên người và pháp vẫn trong luân hồi, lại thuộc vào dạng Bệnh Tâm khá nặng.

Các học viên không nhận ra được tình trạng Ma Ngũ Ấm mà Lý Hồng Chí đang ở trong đó, rồi cứ thế hùa theo, lấy Pháp Khí Phật Giáo và Hình Tượng Phật để lồng vào tài liệu tuyên truyền PLC, đây cũng là do Vô minh sắn đó mà kéo theo bệnh vô học và bệnh tăng thượng mạn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

:mellow: , Lý Hồng Chí viết sách PLC, cứ lộn hết cả Phật gia, Phật Pháp.

Thấy Phật nói rằng Giáo Lý mà Phật đã nói ví như nắm lá trong bàn tay, còn những gì Phật biết mà chưa nói thì ví như số lá trong rừng. Thế là Lý Hồng Chí vớ luôn ý này, tuyên bố PLC thuộc một pháp trong số lá ở rừng kia. Níu mà thế, Bin Gớt cũng tuyên bố được là giáo chủ một pháp môn ví như một nắm lá thuộc số lá ở trong rừng ấy.

Lại nữa, Thấy Phật nói Giáo Lý có tám vạn bốn ngàn thứ thuốc để trị tám vạn bốn ngàn tâm bệnh chúng sinh. Không ngờ được đây là câu nói bất liễu nghĩa, Lý Hồng Chí vội ôm lấy, ngộ nhận liễu nghĩa để lập luận, hòng chen chân vào thế giới tâm linh.

8 vạn 4 ngàn tâm bệnh tức là Chúng sinh, cũng tức là Nhân quả ba đời trong Luân hồi. Công năng, công sở của Lý Hồng Chí cũng thuộc trong phạm vi Ngũ Ấm Ma, do không lường được tiến trình tâm linh tu chứng có Ma Ngũ Ấm, nên trong cảnh giới ấy, tự gây ra cái thấy cảnh giới cho nên liền bị lạc vào cạm bẫy của loại ma này, vẫn là cái bệnh Tri kiến Lập Tri. Mắc phải bệnh này, sau sẽ dẫn đến lỗi Tăng Thượng Mạn (chưa chứng mà đã cho là chứng), tự cho PLC là Phật Pháp. Rốt cuộc vẫn là Tâm bệnh, cho nên người và pháp vẫn trong luân hồi, lại thuộc vào dạng Bệnh Tâm khá nặng.

Các học viên không nhận ra được tình trạng Ma Ngũ Ấm mà Lý Hồng Chí đang ở trong đó, rồi cứ thế hùa theo, lấy Pháp Khí Phật Giáo và Hình Tượng Phật để lồng vào tài liệu tuyên truyền PLC, đây cũng là do Vô minh sắn đó mà kéo theo bệnh vô học và bệnh tăng thượng mạn.

Đọc bấy nhiêu post của bạn BatBoThienLong tôi thấy bạn là người tuy có chút hiểu biết về Phật Pháp nhưng trong lòng lại chất đầy những sân hận.

Bằng chứng là bạn dùng những lời lẽ rất thô tục và thiếu văn hóa nhằm mục đích hạ nhục người khác.

Cái tâm sân hận ấy nó đã đưa bạn đến sự lệch lạc một cách đáng thương.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đọc bấy nhiêu post của bạn BatBoThienLong tôi thấy bạn là người tuy có chút hiểu biết về Phật Pháp nhưng trong lòng lại chất đầy những sân hận.

Bằng chứng là bạn dùng những lời lẽ rất thô tục và thiếu văn hóa nhằm mục đích hạ nhục người khác.

Cái tâm sân hận ấy nó đã đưa bạn đến sự lệch lạc một cách đáng thương.

Minh_Minh học mà không nghĩ. Hộ pháp cũng có ông thiện ông ác.

Các vị đem kiến thức Phật Pháp để mà giáo hóa mọi người, nhưng lại hướng họ về PLC. Mà Lý Hồng Chí chỉ là một vị phàm tục, nhưng các vị lại quy về Y, đem giống lành Phật nhân để trồng trên đất tà giáo, duyên như thế ắt quả kết rất kỳ dị, cho nên, đừng vội thương hại hay không thượng hại người khác, rồi lại còn vu cáo rằng thô tục với thiếu văn hoá. Cái vu cáo ấy, là tâm gì vậy, chắc là tâm mềm mỏng như khói lửa.

Share this post


Link to post
Share on other sites

thienlongbatbo len ra khoi dien dan nay thi hon

Share this post


Link to post
Share on other sites

thienlongbatbo len ra khoi dien dan nay thi hon

Cái gì mà nên ga mới không nên ga. Người không vì mình, trời chu đất diệt. Trời không chu mình, Đất không diệt mình, nhưng mình tự diệt mình nên không có cái gì bù đặp lại được. Luyện theo cái được PLC, tu đến lúc mất đi chánh kiến, sau rồi kết quả là có được thì có mất. Cho nên đừng có đứng đó mà sánh với Phật Giáo. Lợi dụng Phật Giáo, đưa lên ném xuống, ấy là ra khỏi Niết bàn, mở cửa nẻo ác, vào ngục tà kiến.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cái gì mà nên ga mới không nên ga. Người không vì mình, trời chu đất diệt. Trời không chu mình, Đất không diệt mình, nhưng mình tự diệt mình nên không có cái gì bù đặp lại được. Luyện theo cái được PLC, tu đến lúc mất đi chánh kiến, sau rồi kết quả là có được thì có mất. Cho nên đừng có đứng đó mà sánh với Phật Giáo. Lợi dụng Phật Giáo, đưa lên ném xuống, ấy là ra khỏi Niết bàn, mở cửa nẻo ác, vào ngục tà kiến.

Các bài viết của thầy BatBoThienLong hay và sâu sắc quá. xin ủng hộ hết mình ý kiến của thầy. mong một ngày diện kiến. Chúc thầy luôn an lành.

Share this post


Link to post
Share on other sites
Guest
Chủ đề này hiện đang đóng.