Posted 21 Tháng 8, 2016 Wiki: Phụ Hảo (giản thể: 妇好; phồn thể; 婦好; bính âm: Fù Hǎo) (? - 1200 TCN ?), tên Hảo hoặc họ Hảo (tức Hảo Tử) còn được gọi là Phụ Hiếu, miếu hiệu Mậu Tân, là một trong 60 phi tần của vua Vũ Đinh nhà Thương. Bà là nữ tướng, nữ chính trị gia đầu tiên được ghi chép thành văn khắc trên đồ đồng xanh sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc. Theo những tư liệu có liên quan trong văn giáp cốt cho biết thì Phụ Hảo là một tướng lĩnh rất có tài năng, nắm đại quyền về quân sự, chinh nam phạt bắc, tiếng tăm vang dội. Trong những cuộc chiến tranh Vũ Đinh tiến hành nhằm chống lại sự quấy nhiễu của các bộ tộc, quốc gia xung quanh, có lúc Phụ Hảo làm tướng tiên phong, có lúc một mình thống lĩnh đại quân. Trong cuộc chiến chống Khương Phương, bà đã chiêu mộ một vạn ba ngàn quân, tự mình mình thống soái chỉ huy, vào thời đại bấy giờ một vạn ba ngàn quân một hành động quân sự đại quy mô.[4] Bà còn tham gia chỉ huy chiến đấu những trận đánh lớn với Thổ Phương, Ba Phương, Đông Di. Trong trận đánh với Ba Phương, bà đã dẫn quân bày trận mai phục, chờ quân của Vũ Đinh dánh đuổi Ba Phương vào trong vòng mai phục, lập tức xông ra tấn công tiêu diệt, lập được chiến công lẫy lừng, là trận phục kích được ghi chép sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc.[5] Thông qua các loại binh khí đã được khai quật nhiều lần (bao gồm một cái rìu chiến tốt nhất, đào được ở mộ phần của bà) cùng văn vật được xác nhận.[6] Phụ Hảo rất được Vũ Đinh yêu mến, chiều chuộng, sách phong cho bà đất phong ở gần triều đình, thậm chí căn cứ vào ghi chép trong Giáp cốt văn thì Vũ Đinh còn cho tiến hành bói toán, để đoán xem bào thai mà Phụ Hảo đang mang là nam hay là nữ.[4] Ngoài ra bà còn thực hiện việc chủ trì các hoạt động tế tự quan trọng, như chủ trì việc cúng tế tổ tiên, thần thánh, đất, trời...[7] Phụ Hảo mất khi Vũ Đinh còn sống. Năm 1976, các nhà khảo cổ học đã phát hiện mộ táng bà tại phía tây bắc thôn Tiểu Đồn, huyện An Dương, tỉnh Hà Nam, vật tùy táng trong mộ Phụ Hảo phong phú tinh xảo, đào được tổng cộng 1928 hiện vật, bao gồm đồ vật dùng bằng đồng, ngọc đá, gốm, xương, ngà, mã não, pha lê, trong đó vật dùng bằng đồng có tới 468 cái, có hơn 130 món binh khí, thanh đại đồng phủ trong đồ đồng nặng hơn 9 kg,[7] thi thể của bà được chôn trong một quan tài bằng gỗ quét sơn thô, đến bây giờ mới được phép mở cửa cho công chúng tham quan.[8] Cổ vật: Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 8, 2016 Ngư dân vô tình cất khối ngọc trai 34kg dưới gầm giường suốt 10 năm Một ngư dân Philippines nhiều năm trước đã bắt được một con trai đại bối, trong đó chứa khối ngọc trai ước tính trị giá tới 100 triệu USD. Khối ngọc khổng lồ (ảnh: SWNS) 10 năm trước ở ven bờ của đảo Palawan, một ngư dân đã bắt được một con trai đại bối (khổng lồ) trong đó có chứa khối ngọc lớn. Thế nhưng, người ngư dân không biết giá trị của nó, chỉ nghĩ là vật may mắn nên mang về nhà đặt dưới gầm giường. Một vụ hỏa hoạn hồi đầu năm đã buộc ông phải chuyển đi, khi dọn dẹp nhà, vô tình ông thấy khối ngọc phản chiếu lấp lánh dưới ánh sáng Mặt Trời. Khi đem tới cho chuyên gia xem xét thì nó nặng tới 34kg, trị giá ước tính 100 triệu đô la Mỹ, nhiều khả năng trở thành khối ngọc trai nặng nhất thế giới từng được phát hiện. Loài trai đại bối (khổng lồ) có thể cân nặng tới 400kg (ảnh: Flickr) Người ngư dân đã yêu cầu được giữ kín danh tính, nhưng khối ngọc thì có thể sẽ được trưng bày ở nơi ông sinh sống – Puerto Princesca để thu hút du khách. Khối ngọc trai có bề ngang 0,3 mét, dài 0,61 mét, lớn gấp 5 lần viên ngọc trai Lão Tử đang giữ kỷ lục thế giới với trọng lượng 6,4 kg và trị giá 35 triệu USD, được tìm thấy ở Palawan, Philippines, vào năm 1934. Phong Trần tổng hợp Share this post Link to post Share on other sites
Posted 25 Tháng 8, 2016 Tô Đông Pha (1037-1101) đã viết: ” … Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246 - 207 tr.CN), tuy có đặt quan chức cai trị, xong rồi trở lại tình trạng man di. Bì Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông Hán, lại có người con gái là Trưng Trắc, khởi binh rung động hơn 60 thành. Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đã mỏi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc Quan từ tạ Tây Vực. Phương chi Nam Việt là chỗ hoang viếng, không đáng phiền lụy đến quân đội nhà vua nếu không phải Tuân Tức Hầu (Mã Viện) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ.".* Chú thích: An Nam chí lược: Lê Tắc; Quyển đệ nhất; mục “Cổ Tích”. Viện ĐạI hoc Huế 1961. Giáo sư linh mục Cao Văn Luận. Tôi ghi chú: Tô Đông Pha còn có một bài thơ, các nhà văn Việt chỉ trích có hai câu thơ, trong hai câu này Tô Đông Pha có nói về những chữ Khoa đẩu thường được khắc trên bao kiếm của người Việt nữa. Hiện tôi chưa tra được tên bài thơ này, ai có đưa lên giùm, Thanks nhiều. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 8, 2016 Trong bài viết dưới đây có một số tư liệu rất quý giá, chẳng hạn nước Miến Điện (Myanmar) mà cổ thư gọi là "Đàn Việt", cạnh Miến Điến là tỉnh Vân Nam thuộc Trung Quốc gọi là "Điền Việt", Miến Điện nơi đây cũng có trống đồng Đông Sơn. KHẢO VỀ BÁCH VIỆT Tác giả Hà Văn Thùy Cuối thế kỷ III TCN, nhà Tần diệt nước Sở, sáp nhập đất đai, con người và văn hóa các nước Việt vào đế quốc Tần. Kế tục nhà Tần, nhà Hán củng cố, mở rộng cương thổ và thực thi chính sách trường kỳ, kiên định đồng hóa các sắc dân Việt trong lãnh thổ về huyết thống và văn hóa với mục tiêu xây dựng một đế quốc Trung Hoa thống nhất mà dân tộc Hán là chủ đạo. Tuy nhiên, sau hơn 2000 năm, trên đất Trung Hoa, dù bị đồng hóa một cách khốc liệt, người Việt, dưới danh xưng Bách Việt vẫn duy trì diện mạo riêng, không chỉ về di truyền mà càng rõ nét hơn về văn hóa. Trong quan niệm phổ cập hiện nay, Bách Việt là danh xưng để chỉ những sắc dân hay nước Việt từng tồn tại từ thời Tần Hán trở về trước ở phia nam sông Dương Tử. Theo La Hương Lâm trong sáchBách Việt nguyên lưu dữ văn hóa, thuật ngữ Bách Việt xuất hiện lần đầu tiên trong sách Lã Thị Xuân Thu, thiên Thị Quân: “Phía nam Dương Hán, trong khoảng Bách Việt, những đất Tệ Kha, Chư Phu, Dư My, các nước Phộc Lâu, Dương Xuất, Hoan Đâu, phần nhiều không có vua.” [1] Âu Đại Nhậm trong Bách Việt tiên hiền chí viết: “Cháu sáu đời của Câu Tiễn là Vô Cương cất quân đánh Sở, bị vua Sở Hùng Thích đánh bại. Vô Cương bỏ Lang Gia, đi đến ở Đông Vũ. Nước Việt tan. Các con của Vô Cương định cư ở duyên hải Giang Nam, chia nhau kẻ làm quận trưởng, người làm vương, tất cả đều thần phục Sở, gọi là Bách Việt. Châu Dương từ đấy bị phân chia. Cối Kê lấy các sao phương Nam là sao Thuần, sao Vỹ để định cương giới, đất Cối Kê thuộc vào Nam Hải. Khi Tần diệt Sở, vương Tiễn cai trị Dương Việt, chia cắt thành ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng. Con cháu Úy Đà thần phục nhà Hán. Họ Triệu cai trị cả ba quận ấy, lại kiêm thêm các quận Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm, Giao Chỉ, Cửu Chân, Châu Nhai, tổng cộng là chín quận. Nay vùng Nam Việt, bắc giáp Cô Tư đến tận Cối Kê là đất của Việt vậy. Phía đông, Vô Chư đóng đô ở Đông Trị đến Chương Tuyền là Mân Việt. Đông Hải vương là Diêu, đóng đô ở Vĩnh Gia là Âu Việt. Lãnh thổ xưa của Dịch Hu Tống, chạy dài từ sông Tương, sông Ly về phía nam là Tây Việt. Các đất Tang Ca, Tây Hạ, Ung, Dung, Tùy, Kiến là Lạc Việt vậy.” [2] Người Bách Việt từng xuất hiện trên đất Trung Hoa là sự thật lịch sử. Việc di duệ người Bách Việt hiện tồn tại ở phia nam Trung Hoa với phong tục, tập quán, tiếng nói riêng cũng là một thực tế không ai phủ nhận. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, Bách Việt chưa được khảo cứu kỹ, dẫn tới những hiểu biết chưa chính xác về con người, lịch sử và văn hóa Bách Việt. Hơn nửa thế kỷ trước, học giả La Hương Lâm ở Đài Loan xuất bản cuốn Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa, khảo cứu về nguồn gốc, địa vực cùng văn hóa các nước Bách Việt. Đây là một trong những công trình hiếm hoi và có giá trị về Bách Việt. May mắn được người bạn tặng bản dịch viết tay của cụ Vọng Chi Nguyễn Chí Viễn, chúng tôi xin dựa vào tư liệu của tác giả để trình bày về những vấn đề liên quan tới Bách Việt. Nhân đây, chúng tôi xin ngỏ lời cảm ơn nhiều tới cụ Vọng Chi và gia đình. Trong Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa, học giả La Hương Lâm viết: “Y theo tình huống địa lý ngày nay mà nói, Bách Việt là ở vòng mấy tỉnh miền Tây Nam Trung Quốc, như Xuyên, Điền, Kiềm, Quế v.v… Phía nam suốt đến An Nam và một bộ phận ở Tiêm La, Miến Điện. Phía đông ven theo biển như các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang… mà còn ở cả miền giao giới Hoãn, Cống, Ngạc nữa.” Nhìn tổng quan, có thể thấy rằng, các tên Việt trên là mảnh vỡ của những quốc gia Việt cổ đại như Ba, Thục, Văn Lang, Ngô, Việt, Sở, … sau cuộc xâm lăng của Tần Hán. Tùy theo thịnh suy, yếu mạnh của triều đình trung ương, các đầu lĩnh người Việt lãnh đạo dân chúng nổi dậy, lập những nước Việt độc lập. Dưới đây xin trình bày những nét chính yếu của các nước thuộc cộng đồng Bách Việt trong lịch sử. 1. Ư Việt: Nước Ư Việt, còn gọi là Vu Việt. Khi nhà Thương Ân đang thịnh, Ư Việt bị kiềm chế, không hoạt động nhiều. Nhà Chu lên, chưa củng cố được lãnh thổ, Ư Việt nhân đó quật khởi. Sử ký Việt vương Câu Tiễn thế gia viết: “Dư địa chí nói, Việt hầu truyền nước hơn 30 đời, trải nhà Ân đến nhà Chu. Thời vua Kính vương, có Việt hầu là Phu Hỗn, con là Doãn Thường, mở rộng đất đai, xưng vương. Thời Xuân Thu biếm xuống làm tước tử, hiệu là Ư Việt.” Sách kim bản Trúc thư kỷ niên ghi: “Chu Thành vương năm thứ 24, nước Ư Việt lai tân.” Điều này cho thấy, thời đầu nhà Chu, nước Việt đã hoạt động. Hoài Nam Tử trong sách Tề tục huấn viết: “Vua nước Việt là Câu Tiễn cắt tóc vẽ mình, không trang phục bì, biền, tấn, hốt (đội mũ biên da, đeo hốt), dung nghi nghiêm trang ấp tốn.” Người Ư Việt lấy Cối Kê làm căn cứ, thời Xuân Thu xưng vương rất hiển hách, duy trì cường thịnh được 200 năm. Sang đời Hán, tuy bị sáp nhập Hán quốc, nhưng người Ư Việt vẫn nổi lên đòi độc lập. Hán thư quyển 64, Nghiêm Trợ truyện chép: “Người Việt muốn gây biến tất ở trong địa giới Tiên Điền, Dư Can”. Dư Can là Nhiêu Châu tỉnh Giang Tây ngày nay. Như vậy, đầu thời Tây Hán, vùng đông bắc tỉnh Cống vẫn là sở cư của Việt tộc. Không những thế, người Mân Việt, do Ư Việt phân rã, vào gây hấn ở Tầm Dương của Cửu Giang. Điều này cho thấy, người Việt cư trú từ đông bắc tỉnh Cống cho tới đông nam Cửu Giang. Đầu nhà Hán, cảnh vực nước Ư Việt vẫn rộng đến thế thì thời Xuân Thu còn bao quát lớn hơn nhiều. Nói tóm lại, cương vực nước Ư Việt gồm bảy phủ Thanh, Thiệu Hưng, Ninh Ba, Kim Hoa, Cù, Ôn, Đài. Còn ba phủ Hoàng, Gia, Hồ thì phân giới với nước Ngô. Sách Quốc ngữ Việt ngữ thượng nói: “Đất của Câu Tiễn, nam đến Cù Vô, phía tây đến Cô Miệt, rộng liền 100 dặm.” 2. Âu Việt Một chi của Ư Việt về sau đổi thành Âu Việt, cũng gọi là Đông Việt, lấy đất Âu Giang phía nam Chiết Giang ngày nay làm trung tâm, bao gồm ba phủ Thanh, Ôn, Đài cùng các đảo ở ven biển. Thời nhà Tần không theo Tần. Vua Mân Việt là Vô Chư, vua Việt Đông là Dao, trước đều là con cháu Việt vương Câu Tiễn. Khi chư hầu phản nhà Tần, Vô Chư và Dao xuất lĩnh Việt tộc đánh Tần. Thủ lĩnh Âu Việt thời Hán Huệ đế từng được phong vương, sau đó giao chiến với Mân Việt, thua trận rồi đưa 40.000 dân xin di chuyển vào Trung Quốc, ở khoảng Giang, Hoài. 3. Mân Việt Mân Việt cũng là một chi của Ư Việt. Tần Thủy hoàng lấy đất cũ của Mân Việt, tức Phúc Kiến ngày nay, đặt làm Mân Trung quận, phế thủ lĩnh Mân Việt làm quận trưởng. Sau Vô Chư giúp nhà Hán có công, được phong làm Mân Việt vương, đóng đô ở Đông Dã, tức Phúc Châu ngày nay. Hán thư Vương Trợ truyện chép: “Hoài Nam vương An dâng thư lên Hán Vũ đế: “Việt (Mân Việt) là nước phương ngoại, dân cắt tóc vẽ mình, không thể dùng quốc pháp quan đới xử lý vậy… Ở trong hang suối, rừng núi, tập luyện thủy chiến, tiện dùng về thuyền, đất thâm u, sông nước hiểm, lấy địa đồ, xét về sông núi, ách yếu, gần nhau gang tấc mà tưởng chừng gián cách trăm ngàn dặm, hiểm trở rừng rậm, không thể thấy rõ. Muốn vào Trung Quốc phải xuống Lãnh Thủy. Sông Lãnh Thủy núi cao chót vót, dưới sông có đá ngầm, thuyền đụng phải là vỡ, không thể dùng thuyền lớn để chở lương thực vậy… Vả người Việt tài kém, sức yếu, lại không có xe ngựa cung tên, không quen lục chiến, nhưng không vào được là nhờ có địa điểm để cố thủ; mà người Trung Quốc lại không phục thủy thổ vậy. Thần nghe nước Việt giáp binh không dưới 200.000 cho nên muốn vào nước Việt, số quân phải gấp năm lần mới được.” Như vậy, có thể thấy, thời đầu nhà Hán, nước Mân Việt khá cường thịnh. Nước Mân Việt thời đầu Tần Hán, phía đông tới đảo Đài Loan, Bành Hồ, Lưu Cầu; phía tây vươn tới đông bắc tỉnh Cống. Cũng Nghiêm Trợ truyện viết: “Mân Việt muốn gây biến, tất trước phải do trong giới Dư, Can mà thủ lãnh từng âm mưu đi đốt lâu thuyền nhà Hán ở Tầm Dương, đấy đều là ở đông bộ hoặc bắc bộ tỉnh Cống.” Hoài Nam tử nhân gian huấn chép: “Tần Thủy hoàng phát quân 500.000 chia làm năm quân đoàn cùng Việt giao chiến. Một quân đoàn đóng ở sông Dư Can, đông bắc tỉnh Cống.” Nhà Tần đối với việc thú bị Mân Việt không ở đất Mân mà ở đông bắc tỉnh Cống, thế thì bấy giờ đông bắc tỉnh Cống vẫn còn là biên giới của Mân Việt. Hán thư Lưỡng Việt truyện chép: “Nguyên Đỉnh năm thứ 5, Nam Việt phản, Dư Thiện giữ nước đôi ngầm thông Nam Việt, kịp khi Hán phá Phiên Ngung, Lâu thuyền tướng quân Dương Bộc dâng thư xin đem quân đánh Đông Việt, thiên tử lấy quân sĩ mệt mỏi, không cho đánh, bãi binh, sai tướng hiệu lưu đồn ở Dự Chương, Mai Lĩnh đợi lệnh… Dư Thiện liền phát binh chặn Hán đạo, cùng bọn Lưu Lực Làn thôn Hải tướng quân, vào Bạch Sa, Vũ Lâm, Mai Lĩnh giết ba quan hiệu úy nhà Hán. Nhà Hán sai Hoành Hải tướng quân Hàn Thuyết xuất quân Cú Chương, vượt biển đi phương Đông. Lâu thuyền tướng quân Dương Bộc xuất quân Vũ Lâm, Trung úy Vương Ôn Thư xuất quân Mai Lĩnh, Việt hầu làm qua thuyền Hạ Lại tướng quân, xuất quân Như Tà, Bạch Sa. Nguyên Phong năm đầu mùa đông, đều vào Đông Việt. Đông Việt phát binh cứ hiểm, sai Tuân Bắc tướng quân giữ Vũ Lâm, đánh bại mấy quan hiệu úy lâu thuyền, giết trưởng lại. Dao vương là Cư Cổ mưu giết Dư Thiện, đem quân hàng Hoành Hải, phong Cư Cổ làm Đông thành hầu… Thiên tử chiếu rằng: “Đông Việt hẹp, hiểm trở. Mân Việt hay phản phúc. Chiếu cho quân lại, di hết dân đến miền Giang Hoài.” Tới đây, cả Mân Việt cả Đông Việt đều nhập Trung Quốc. 4. Đông Đề Đông Đề bao gồm các hòn đảo Đài Loan, Bành Hồ, Lưu Cầu ngày nay, là một bộ phận của Mân Việt. Trong khi Mân Việt đã nhập Trung Quốc thì do biển khơi cách trở nên Đông Đề vẫn giữ độc lập, trở thành một chi phái của tộc Việt. Hậu Hán thư Đông Di liệt truyện chép: “Ngoài biển Cối Kê có người Đông Đề, chia làm hơn 20 nước.” Lâm Huê Tường trong cuốn Đài Loan phiên tộc nguyên thủy văn hóa cũng nói: “Người Đông Đề là thổ dân ở các nơi Đài Loan, Lưu Cầu ngày xưa. Chữ Đề trong Đông Đề và chữ Đài trong Đài Loan là cùng một từ mà dịch khác nhau. Tùy thư Đông Di truyện nói: “Nước Lưu Cầu ở giữa hải đảo, phía đông quận Kiến An, đi biển năm ngày thì đến. Nhiều sơn động. Vua nước đó họ Hoan Tư, tên là Khát Thích Đâu. Chẳng hay nước ấy có từ thời đại nào. Thổ dân gọi là Khả Lão Dương, vợ gọi là Bạt Trà, ở ba la Đàn động, ba trùng hào nước chảy chung quanh. Trồng cây gai làm hàng rào. Nhà của vua ờ rộng 16 gian, chung quanh khắc chạm cầm thú, có cây đấu lũ, tựa cây quất mà rậm lá, những cành nhỏ rủ xuống như tóc. Nước có 4-5 tướng súy thống lĩnh các động, mỗi động có một tiểu vương. Thường có thôn như Ô Liếu, Súy… đều tự chọn người thiện chiến đứng đầu xử lý mọi việc trong thôn… Vua cưỡi con thú bằng gỗ, sai lính hầu khiêng đi, dẫn đạo và tùy tùng không quá 10 người. Người Lưu Cầu mắt sâu mũi dài, tựa như người Hồ. Đàn bà thường trổ hình rắn trên tay. Trai gái quen biết yêu nhau rồi thành đôi lứa. Khi yến hội, người cầm ly rượu, song đợi hô tên rồi mới uống. Dâng rượu vua cũng xưng hô vua, đụng ly cùng uống… Người chết gần tắt thở được đưa ra sân, thân bằng đến khóc điếu, rồi tắm xác chết, lấy vải lụa quấn kín, lấy cỏ lau bọc ngoài, đào đất chôn, không dùng quan tài, phía trên không đắp phần mộ… Ruộng đất phì nhiêu, trước hết đốt cỏ rồi dẫn nước vào ruộng, cầm cái búa cán dài bằng tre hay bằng gỗ, lưỡi bằng đá rộng hai tấc (20 cm), để xới đất, trồng lúa. Người thổ dân Đài Loan ngày nay là di duệ của Đông Đề. 5. Dương Việt Dương Việt hay Di Việt cư trú ở vùng Hán Thủy, thời Ân và Tây Chu rất thịnh. Sau thời Xuân Thu, Sử ký Sở thế gia chép: “Hùng Cừ (vua Sở) rất được lòng dân miền Giang Hán, bèn đem quân đánh các nước Dung, Dương Việt. Đến Ngạc, Hùng Cừ nói: “Ta là man di vậy, không cùng hiệu thụy Trung Quốc, bèn lập con trưởng là Khang làm Câu Đản vương, con thứ Hồng làm Ngạc vương, con út là Chấp Tỳ làm Việt Chương vương, đều ở đất Sở man giang thượng.” Nước Ngạc ở Vũ Xương ngày nay. Nước Dung là huyện Trúc Sơn tỉnh Hồ Bắc. Như vậy Dương Việt ở vào khoảng trung du Hán Thủy. Sở Hùng Cừ thôn tính ba nước Dung, Ngạc, Dương Việt vào thời vua Di vương nhà Chu. Điều này cho thấy, vào năm cuối thời Tây Chu, người Dương Việt còn tụ cư ở trung du Hán Thủy. Lưu vực Hán Thủy từ Xuân Thu về sau hoàn toàn thuộc về Kinh Sở. Nhà Chu từ vua Thái vương thiên đô tới đất Kỳ Sơn thượng du Vị Thủy, nam giáp Bao Tà, là thượng du Hán Thủy. Hai ông Thái Bá và Trọng Ung nhà Chu men theo Hán Thủy xuống miền nam, lấy đất của Dương Việt, nhưng theo tục của người Việt. Về sau con cháu theo sông Giang Hán sang miền Đông tới đất Ngô, được vua Vũ vương phong là bá nên truy xưng là Ngô Thái Bá. Sử ký Ngô Thái Bá thế gia ghi: “ Ông Thái Bá chạy đến Kinh Man tự hiệu là Câu Ngô, người Kinh Man khâm phục ông nghĩa khí, theo đến hơn ngàn nhà… Chu Vũ vương đánh được nhà Thương, tìm con cháu của Thái Bá và Trọng Ung, tìm được Chu Chương đang làm vua nước Ngô. Vua Vũ vương nhân đấy phong luôn.” Như vậy, ông Thái Bá ở đất Kinh Việt đã cắt tóc vẽ mình theo thổ tục người Việt. Sử ký Sở thế gia chép: “Thành vương Uẩn năm đầu, mới lên ngôi, sai sứ hiến lên thiên tử. Thiên tử ban thit tộ mà nói: Mi trấn giữ miền nam, đừng để Di Việt tác loạn, xâm nhập Trung Quốc. Do đấy đất Sở ngàn dặm.” Gọi Di Việt do chữ Di và chữ Dương thời cổ cùng âm. Dương Việt tuy lấy lưu vực Hán Thủy làm trung tâm nhưng có lúc địa vực còn mở rộng hơn. Sau khi bị Hùng Cừ nước Sở thôn tính, một phần đồng hóa theo Sở, một bộ phận dời xuống miền nam ở lẫn với các chi Việt khác tại giao giới các tỉnh Nhật Tương, Kiềm, Hoãn, Cống, Quế, Việt. Việt tộc ở các miền đều tự giữ đất xưng hùng. 6. Sơn Việt Ư Việt, Mân Việt cùng Dương Việt sau khi bị Sở, Tần, Hán thôn tính, tuy đại thể đã thuộc Hán nhưng di duệ vẫn còn một bộ phận gọi là Sơn Việt. Trong khoảng từ Tam Quốc đến Đường xuất hiện ở miền giao giới các tỉnh Mân, Chiết, Hoãn, Cống. Tuy chưa tới mức cắt đất xưng hùng nhưng bất thần quật khởi như thế cục thời Tam Quốc, không thể xem thường. Tam Quốc chí Ngô chí Tôn Phụ truyện: “Thuật (Viên) rất oán Sách, bèn ngầm sai đem ấn thụ cho bọn Đan Dương tôn súy, Lăng Dương, Tổ Lạng, khiến khích động Sơn Việt, mưu đồ giáp công Sách. Sách tự làm tướng, đánh cho Lạng bại.” Điều này cho thấy Sơn Việt có sức khiên chế Tôn Ngô. Lại Lục Tốn truyện: “Đan Dương tặc là Phí Sạn, nhận ấn thụ của Tào công, phiến động Sơn Việt làm nội ứng. Quyền sai Tốn đánh Sạn, tức thời phá địch, đem bộ ngũ ba quận miền Đông, được tinh binh mấy vạn người.” Đương thời Sơn Việt được hào kiệt Trung Nguyên trọng thị, chứng tỏ Sơn Việt thế lực không nhỏ, là mối lo tâm phúc cho Đông Ngô. Tuy nhiên Đông Ngô, Tào Tháo cùng Lưu Bị cũng chỉ dùng chính sách mền dẻo để liên hòa mà không dám khinh suất dùng binh. Sơn Việt lấy quận Đan Dương làm trung tâm. Tam quốc chí Ngô chí Gia Cát Khắc truyện: “Khắc cho là núi Đan Dương hiểm trở, dân nhiều dũng cảm, tuy trước có phát binh, chỉ lấy được bình dân ở ngoài huyện mà thôi, còn những nơi sâu xa không thể lấy được. Chúng nghị đều cho là Đan Dương địa thế hiểm trở, cùng với bốn quận: Ngô quận, Cối Kê, Tân quận, Bà Dương tiếp liền nhau, chung quanh mấy ngàn dặm sơn cốc vạn trùng… Núi sản xuất đồng sắt, tự đúc binh khí, tục hiếu võ tập luyện chiến đấu, khí lực cao thượng. Họ trèo núi vượt hiểm, xung đột bụi rậm gai góc, như cá ngoi nước, như vượn trèo cây vậy; rình lúc sơ hở, đột xuất ăn cướp. Quan binh tới đều tìm nơi hang hốc ẩn tàng, khi đánh nhau thì xúm lại như ong, bại thời lủi như chim, từ xưa đến giờ chưa kiềm chế được.” Sau đó Tư Mã Khắc thu phục được. 7. Nam Việt Nam Việt là một bộ phận của Dương Việt, lấy đất ở phía nam Dương Việt nên gọi là Nam Việt. Trong khoảng Tần Hán, Nam Việt đã từng lập thành đại quốc. Trước khi bị Tần chiếm, Nam Việt vẫn quan hệ qua lại với Ư Việt. Người Sở trong khi kiêm tính Bách Việt vẫn chưa đổi hết tổ chức nội hệ của người Việt. Nhà Tần sai úy Đồ Thư xuất quân 500.000, chia làm 5 đạo: một đạo đóng ở núi Đàm Thành (tây nam Vũ Lâm, tiếp với Uất Nam), một đạo giữ ở biên ải Cửu Nghi (Linh Lăng), một đạo đóng ở Phiên Ngung, một đạo giữ biên giới Nam Dã (thuộc Dự Chương), một đạo giữ ở Dư Can (Dự Chương). Tam quân không lúc nào cởi giáp buông cung. Giám Lộc không vận lương được, phải đem quân đào cừ thông sông Tương với sông Ly để thông đường vận lương đánh Việt. Giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống. Người Việt đều chạy vào trong rừng sâu, cùng ở với cầm thú, không để cho người Tần bắt. Đặt Kiệt Tuất làm tướng. Ban đêm tập công, phá tan quân Tần, giết úy Đồ Thư và mấy vạn người thây chất thành núi, máu chảy thành sông rồi lập đồn thú để phòng bị.” Hán thư Nghiêm Trợ truyện chép: “Hoài Nam vương dâng thư vua Vũ đế luận về người Tần dùng quân sự với nước Nam Việt: “Thần nghe trưởng lão nói, Tần từng sai úy Đồ Thư đánh Việt rồi phát binh đồn thú để phòng bị. Lúc bấy giờ trong ngoài chấn động, trăm họ nôn nao, người đi không trở về, cùng nhau lẩn trốn, tập làm giặc cướp, do đấy mà khởi lên nạn Sơn Đôi vậy.” Sử ký Nam Việt úy Đà truyện: “Vua Nam Việt là Đà, người Chân Định, họ Triệu. Nhà Tần đã kiêm tính thiên hạ, lược định Dương Việt, đặt Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để di dân cùng ở lẫn với người Việt. Thời Tần, Đà được dùng làm Nam Hải Long Xuyên lệnh. Đến thời Nhị Thế, Nam Hải úy là Nhâm Ngao, bị bệnh kịch, trước khi chết, triệu Long Xuyên lệnh Triệu Đà mà bảo rằng: Đất Phiên Ngung tựa núi hiểm trở. Nam Hải đông tây mấy ngàn dặm, lại có người Trung Quốc phò trợ, đấy cũng là một châu vậy, có thể lập quốc. Còn trưởng lại trong quận thời không đáng nói, nên tôi nói để ông rõ.” Đoạn làm lệnh giả cho Đà thay mình làm Nam Hải úy. Nhâm Ngao chết, Đà truyền hịch thông cáo các quận Hoành Phố, Sơn Dương, Hoàng Khê rằng, giặc sắp đến, gấp chặn đường đóng quân tự thủ. Rồi kiếm cớ giết hết các trưởng lại nhà Tần bổ dụng, đem thuộc hạ thay thế. Nhà Tần bị diệt, Đà đánh lấy Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt võ vương.” Triệu Đà và cháu ông Văn vương xưng đế, nghiêng ngửa với nhà Hán. Lúc cường thịnh cương vực Nam Việt phía đông bao bọc Mân Việt, bắc suất tới Hành Do, Tây kiêm Quảng Tây, Việt Nam ngày nay, nam tới đảo Hải Nam, lấy quận Nam Hải, tức Quảng Đông làm căn bản. Nhà Triệu truyền 5 đời, 93 năm. 8. Tây Âu Tâu Âu là một chi trong Bách Việt, nay bao gồm Liễu Giang tỉnh Quảng Tây trở về đông; tây nam Hành Dương tỉnh Hồ Nam, xuống đến Thương Ngô Phong Xuyên; bắc suất tới Âu cùng Lạc hoặc Lạc Việt. Địa lý chí Ung Châu Nghi Hòa huyện nói: “Hoan Thủy ở phía bắc huyện, vốn là sông Tang Kha, tục gọi là sông Uất Trạng, tức sông Lạc Việt, cũng gọi là Ôn Thủy vậy.” Ôn Thủy, Lạc Việt thủy hoặc Tang Kha hà, cứ theo địa vọng mà xét, tức là Nam Bàn giang trong địa vực Điền, Kiềm vậy. Hạ du sông này gọi là Hồng Thủy hà, qua các huyện Thiên Giang, Lai Tân đến Tượng huyện, Thạch Long trấn, cùng hợp với Liễu Giang, hợp lưu tới Quế Bình, cùng tương hội với Tầm Giang. Tây Âu cuối nhà Tần rất hoạt động nhưng vì Triệu Đà xưng vương, thế lực quá mạnh nên quy phục Triệu Đà. Khi Hán diệt Nam Việt, chiếm luôn Tây Âu, đặt làm quận huyện. Người Chàng ở Quảng Tây nay là di duệ của Tây Âu hoặc Lạc Việt. Chữ Chàng do từ chữ Tang của Tang Ca chuyển thành, tuy từ thời Hán về sau chuyên dùng làm tên sông. Ngày nay từ sông Nam Bàn Giang, Hồng Thủy Hà cho đến Liễu Giang, Tây Giang đều gọi là sông Tang Ca, khởi thủy chính từ con người mà có tên. Người Chàng còn tự xưng là Chàng Cổ, Chàng Cổ Lão cũng là do chữ Tang Ca mà ra. 9. Lạc Việt Là một chi của Bách Việt, đất Lạc Việt phía đông từ Tây Nam quận Nam Ninh tỉnh Quảng Tây, xuống đến bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam tỉnh Quảng Đông và Bắc Bộ, Trung Bộ Việt Nam. Thoạt kỳ thủy, khi người tiền sử từ châu Phi tới Việt Nam thì hai đại chủng người châu Phi Mongoloid và Australoid hòa huyết sinh ra bốn chủng người Việt cổ là Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritod, sau này được nhân chủng học xếp vào nhóm loại hình Australoid. Trong đó, người Indonesian là đa số và lãnh đạo người Việt về xã hội và ngôn ngữ. Người Lạc Việt thuộc chủng Indonesian và phân bố rộng khắp Trung Hoa. Khoảng 5000 năm TCN, cũng như các nhóm Việt khác, người Lạc Việt hòa huyết với người Mongoloid phương Nam của văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ để trở thành người Việt hiện đại với mã di truyền Mongoloid phương Nam. Người Lạc Việt là chủ nhân các nền văn hóa thời đồ đá mới, đồ đồng và sáng tạo trống đồng Lạc Việt cùng chữ tượng hình như chữ trên xẻng đá Cảm Tang và chữ của bộ tộc Thủy. Nhà Tần rồi nhà Hán sáp nhập đất đai, dân cư cùng văn hóa các tộc Việt vào đế quốc Trung Hoa. Tronng khi hầu hết các sắc dân Bách Việt trên đất Trung Hoa bị đồng hóa thì người Lạc Việt trên đất Việt Nam giữ được cương thổ, giống nòi và văn hóa của mình, trở thành đại diện cuối cùng của Bách Việt độc lập. 10. Việt Thường Việt Thường là một chi của Việt tộc, đất sinh sống là quận Cửu Chân thời Hán, gồm Thanh Hóa, Nghệ An tới Thuận Hóa ngày nay. Trúc thư kỷ niên đời Chu Thành vương năm thứ 10 ghi: “Việt Thường thị lai triều,” là văn bản sớm nhất nói tới Việt Thường thị. Đất của Việt Thường tuy lấy quận Cửu Chân thời Hán làm trung tâm nhưng phía nam tới quận Nhật Nam, tức là đất Lâm Ấp. Sách Thông điển của Đỗ Hữu Biên phong Lâm Ấp điều chép: “Nước Lâm Ấp thời Tần là đất huyện Lâm Ấp thuộc Tượng quận. Thời Hán là quận Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam, là địa giới Việt Thường ngày xưa vậy.” Thuật Dị Ký của sách Thông-chí (2AL, Q II, Ngũ Đế Kỷ Đệ Nhị, Chí #35, tr. 224) của sử gia Trịnh Tiều (1104-1162) chép: “Đào Đường chi thế, Việt Thường quốc hiến thiên tuế thần quy, bối thượng hữu văn, giai khoa đẩu thư, ký khai tịch dĩ lai, Đế mệnh lục chi, vi chi Quy-lịch. Dịch: “Đời Đào Đường, nước Việt Thường dâng thần quy ngàn tuổi, trên lưng có văn, đều là chữ khoa-đẩu [chữ nòng nọc], chép việc từ thuở khai thiên tịch-địa đến bấy giờ, Đế sai chép và gọi là Lịch Rùa.” Sự kiện này rất ý nghĩa, không chỉ nói lên quan hệ rất sớm giữa Việt Thường với Trung Nguyên mà còn cho thấy thời đó người Việt đã có lịch và chữ viết Khoa đẩu. 11. Đàn quốc Một chi của tộc Việt, từng ở một dải đất Miến Điện ngày nay, dựng nên Đàn quốc. Di duệ của Đàn quốc phân bố ở Việt Nam, Lào, Thái Lan và Miến Điện ngày nay. Hậu Hán thư ghi: “Chương đế Vĩnh Nguyên năm thứ 9 (97) Đàn quốc sai sứ vào cống.” Đó là tư liệu sớm nhất về Đàn quốc. Hậu Hán thư Nam Man Tây Nam di truyện: “Vĩnh Nguyên năm thứ 6 (94) quận Khiếu ngoại Nhẫn Đôn Ất vương là Mộ Duyên mộ nghĩa, sai sứ dâng tê ngưu, voi lớn. Năm thứ 9 Khiếu Ngoại man và Đàn quốc vương là Ung Do Điều sai trùng dịch dâng trân bảo. Vĩnh Ninh năm đầu (120) vua Đàn quốc là Ung Do Điều sai sứ giả vào triều hạ, dâng nhạc và trò ảo thuật, có thể biến hóa, miệng phun ra lửa, tự cắt chân tay rời ra, rồi dính liền lại, đổi đầu trâu ra đầu ngựa… Họ tự nói là người Hải Tây, tức Đại Tần…” Gọi là quận Khiếu Ngoại là chỉ khu vực biên địa tiếp liền với Tây bộ tỉnh Vân Nam, cũng là ở trong cảnh vực Miến Điện ngày nay. Thời Lục Triều, Đàn quốc tự như đã thay đổi hệ thống chính trị nên đổi tên là Phiếu quốc. Cựu Đường thư Nam man truyện Phiếu quốc điều chép: “Phiếu quốc ở phía nam cố quận Vĩnh Xương hơn 2000 dặm, cách thượng đô 14.000 dặm, mà cảnh vực nước đông tây 3000 dặm, nam bắc 3500 dặm. Phía đông gần nước Chân Lạp (tức dải đất Giản Phố trại của Việt Nam), tây tiếp nước Đông Thiên Trúc, nam giáp Minh Hải, bắc thông Ta Lạc thành nước Nam Chiếu.” Xét đời xưa, Việt tộc lấy vẽ hình rồng vào mình làm đặc trưng, mà người Đàn quốc cũng có tục vẽ mình. Người ở Việt Nam, Lào đến bây giờ vẫn còn giữ tục đó.” Theo cổ thư như trên, có thể xác định Đàn quốc ngày xưa, nay là xứ Karen của Miến Điện. Đó cũng là nơi sinh sống của người Việt từ 40 – 50.000 năm trước, cùng với người Dravidian bản địa Ấn Độ. Tại đây phát hiện nhiều trống đồng, gọi là trống đồng Karen, mặt trống có hình ngôi sao nhiều cánh, ngoài rìa có hình ếch nhái, tương tự trống đồng Lạc Việt [3] 12. Đằng Việt Đằng Việt nay là tên một huyện ở phía tây tỉnh Vân Nam. Nhưng dải đất này tiếp liền với Ai Lao di thuộc quận Vĩnh Xương thời Hán. Ai Lao di là một chi của Việt tộc nên Đằng quốc cũng liên hệ Việt tộc. Hậu Hán thư Nam man Tây Nam di truyện dẫn Phong tục thông nói: “Người Ai Lao di ngày xưa có người đàn bà tên là Sa Nhất, ở núi Lao Sơn, thường bắt cá dưới sông. Một hôm đụng vào cây trầm, bỗng rùng mình, nhân thế có thai, đủ 10 tháng sinh ra 10 người con trai. Sau cây trầm hóa thành con rồng ngoi lên mặt nước. Sa Nhất chợt nghe rồng nói: “Nàng vì ta sinh con, nay con ở đâu?” Chín đứa con thấy rồng liền chạy, đứa con nhỏ không chạy được, ngồi trên lưng rồng. Rồng âu yếm liếm khắp mình con. Người mẹ gọi lưng là cửu, rồng là long, nhân đó đặt tên đứa bé là Cửu Long. Đến tuổi trưởng thành, các anh thấy Cửu Long được cha liếm khắp mình nên thông tuệ, bèn cùng suy tôn lên làm vua. Về sau, ở chân núi Lao Sơn, có một cặp vợ chồng lại sinh được 10 người con gái. Anh em Cửu Long đều lấy làm vợ. Sau dần dần phồn thịnh. Giống người này đều trổ vẽ hình rồng lên mình. Năm Kiến Vũ thứ 27 (51) quốc vương là Hiền Lật đem 2770 hộ, 17.659 nhân khẩu đến Việt Tủy đầu hàng thái thú Trịnh Hồng, xin nội thuộc. Vua Quang Vũ phong Hiền Lật làm quận trưởng. Thời Đường, một dải đất Đại Lý trở về phía tây quật khởi lập nước Nam Chiếu. Sau khi Bì Lai Các được phong làm Vân Nam vương, quốc thế Nam Chiếu càng mạnh, truyền ngôi cho con là Các La Phương rồi hợp lực với Thổ Phồn, gây hấn với nhà Đường. Tới cháu là Di Mậu Tần quy hàng nhà Đường. Đến Phong Hữu nhằm thời vua Mục Tông lại phản nhà Đường, đánh nước Thục. Đến thời vua Tuyên tông (847- 859) đánh An Nam đô hộ phủ. Truyền ngôi cho con là Thản Xước Tù Long, tự xưng đế, lấy quốc hiệu Đại Lễ, bèn công hãm Bá Châu (nay là huyện Tuân Nghĩa Quý Châu), phía nam đánh Ung Quản (nay là Nam Ninh Quảng Tây)… Nam Chiếu còn truyền nhiều đời cho tới thời Nguyên bị Hốt Tất Liệt diệt. 13. Điền Việt Điền Việt xuất hiện đầu tiên trong Hán thư Trương Khiên truyện: “…Nghe bên tây có nước cưỡi voi gọi là Điền Việt, mà lái buôn ở đất Thục gián hoặc có đem hàng hóa đến bán, thế rồi nhà Hán tìm được đường đại hạ, mới thông được với Điền quốc. Điền Việt tức là biệt xưng của Điền quốc. Điền quốc từ thời Chiến Quốc có quan hệ mật thiết với nước Sở.” Sử ký Tây Nam di liệt truyện: “Tây Nam di quận trưởng kể hàng chục. Dạ Lang lớn nhất, phía tây lệ thuộc Mỹ Mạc, kể hàng chục. Điền là nước lớn nhất… Ngày trước, Sở Uy vương sai tướng quân là Trang Kiểu đem quân theo dòng sông lược định Ba Thục, Kiềm Trung trở về tây. Trang Kiểu là dòng giống Sở Trang vương. Kiểu đến Điền Trì đất vuông 300 dặm, bên bình địa phì nhiêu mấy ngàn dặm, đem quan lược định trở về Sở báo tin, gặp lúc Tần đánh, nghẽn đường, không đi được, bèn trở lại làm vua Điền quốc, đổi trang phục theo tục địa phương.” Sau đó Điền bị Tần diệt rối sáp nhập Hán thời Vũ đế, trở thành quận Ích Châu của Trung Quốc. 14. Tủy Việt Nay là một huyện ở Tây Nam Tứ Xuyên nhưng Tủy Việt thời Tây Hán là một quận rất rộng trong khoảng Xuyên, Điền. Nam giáp Điền quốc, bắc liền Thục quận, quản lãnh 15 huyện. Quận Việt Tủy thời Hán chính ở chỗ tương hội sông Nha Lung với sông Mân Giang, Kim Sa Giang, vốn có tên là Bộc Thủy. Đầu nhà Đường lấy đất đó đặt Tây Bộc La Mỵ châu, quản lĩnh bốn huyện. Chính vì là đất ở của Bộc tộc ngày trước mà có tên. 15. Bặc quốc Trương Thủ Tiết chính nghĩa viết: “Nay phía nam Ích Châu, phía bắc Nhung Châu, tới sông Đại Giang, là Bặc quốc đời xưa.” Nơi Bặc nhân kiến quốc tức là lấy các huyện Nghi Tân, Nam Khê, Bình Sơn làm trung tâm. Vũ Đức năm thứ 2 (619) cắt Du Châu đặt quận, quản lãnh 6 huyện, lại đổi làm Bặc châu. Châu có tên là Bặc hẳn chỗ đó là đất của người Bặc. Rõ ràng, ngày xưa người Bặc cư trú rất rộng. Người Bặc là một chi của Bộc tộc, một biệt danh của Việt tộc. Bài thơ của Trần Vũ đời Đường chép trong Tào thị Thục trung Quảng ký: Thành hạ văn di ca thi Kiện Vi thành hạ Tang ca lộ Không tung than tây cổ khách châu Thử dạ khả lân giang thượng nguyệt Di ca đồng cổ bất thắng sầu Dưới thành nghe người di hát Dưới chân thành Kiện đất Tang Kha Lác đác thuyền buôn đậu bến xa Vằng vặc trăng thanh in đáy nước Trống đồng buồn vẳng giọng di ca. Di ca và trống đồng là đặc trưng của văn hóa Việt. Trên đất Kiện Vi phát hiện nhiều trống đồng. 16. Dạ Lang Sử ký Tây Nam di liệt truyện chép: “Nước Dạ Lang bên Tang Kha giang, sông rộng hơn trăm bộ, đủ để đi thuyền. Nam Việt dùng tài vật để mua chuộc Dạ Lang, nhưng chỉ có thể bảo họ tương trợ, chứ không thể coi họ là thần hạ được… Dạ Lang có tinh binh hơn 10 vạn, nhiều thuyền trên sông Tang Kha, xuất phát bất thần, đấy là một kỳ sách chống chế người Việt vậy. Nhà Hán bèn cho Đường Mông làm Lang trung tướng quân, đem theo ngàn người cùng nhiều lương thực, theo đường Ba Thục Tịch quan đi tới, gặp Dạ Lang hầu Đa Đồng. Đường Mông ban thưởng cho rất hậu và dùng uy đức phủ dụ, hẹn sẽ đặt quan lại và cho con y làm quận lệnh. Các ấp nhỏ của Dạ Lang đều tham vóc lụa của nhà Hán bèn nghe theo lời Đường Mông hẹn ước. Mông về báo, bèn lấy đất làm quận Kiện Vi, phát quân Ba Thục sửa đường, từ Bặc đạo cho đến Tang Khê giang.” Nước Dạ Lang lấy lưu vực sông Tang Kha làm trung tâm, phía nam cùng Nam Việt có quan hệ dịch thuộc, phía bắc tiếp cận Bộc đạo. Sông Tang Kha là sông Bàn Giang chảy qua Quý Châu tỉnh Vân Nam. Cựu Đường thư địa lý Ung Châu: “Sông Hoan Thủy ở bắc huyện vốn là sông Tang Kha, tục gọi là sông Uất Trạng, tức sông Lạc Việt, cũng gọi là sông Ôn Thủy, xưa là đất Lạc Việt.” Sử ký Tây Nam di liệt truyện: “Nam Việt phản. Vua (Vũ đế) sai Trì Nghĩa hầu thúc Kiện Vi phát Nam di binh. Vua Thả Lan sợ đi xa, nước bên cướp những người già yếu, bèn cùng làm phản, giết sứ giả và thái thú Kiện Vi. Hán từng đem tội nhân ở Ba Thục đánh Nam Việt, tám hiệu úy hợp lại phá rối. Sau phá Nam Việt rồi mà tám hiệu úy chưa hạ, bèn rút quân về, giết Đầu Lan… Sau đó bình hết man di, đặt làm quận Tang Kha.” (Đầu Lan tức Thả Lan). 17. Quỳ Việt Quỳ Việt cũng là một chi nhánh của Việt tộc. Đất của Quỳ Việt là một dải Tỷ Quy thuộc Hồ Bắc và Phụng Tiết thuộc Tứ Xuyên ngày nay, còn được gọi là Quy di hoặc Bộc. Chu Tuyên vương năm đầu (827 TCN), con vua Sở là Thúc Kham tị nạn ở Bộc. Đến Chu BÌnh vương năm đầu (770 TCN), Sở Vũ vương là Hùng Thông mới mở mang đất Bộc. Quỳ Việt bị bức bách. Chu Tương vương năm 19 (633 TCN) Sở Thành vương đem quân diệt Quỳ. Tuy nhiên, thời Nam Bắc triều di duệ của người Quỳ Việt được gọi là Nam Đản hoặc Liêu, vẫn còn ẩn hiện ở giao giới Xuyên, Ngạc, tức là huyện Vu Sơn ở khoảng Tỷ Quy, Phục Tiết ngày nay. 18. Người Lê đảo Hải Nam Hán Vũ đế xâm chiếm Nam Việt, đặt làm chín quận. Hai quận Đạm Nhĩ và Châu Nhai trong đảo Hải Nam. Dân cư trên đảo là người Điêu Đề và người Lý Nhĩ cũng vẽ mặt hình vẩy cá, xăm mình. Chu Khứ Phi trong sách Lĩnh ngoại đại đáp viết: “Sử khen Lạc Việt nhiều đồng, bạc. Giao châu ký nói: Người Việt đúc đồng làm thuyền. Quảng châu ký nói: Lý Lão đúc trống đồng.” Lý Lão là tiền bối của người Lê. Đạo quang Quảng Đông thông chí dư địa lược: “Trống Lê kim hình tựa trống đồng mà dẹp nhỏ, trên có ba cái tai. Người Lê đánh trống đó để làm hiệu.” Khuất Đại Quân trong Quảng Đông Tân ngữ: “Trong niên hiệu Vĩnh Lạc (1403-1424), thổ quan Vạn châu là Hoàng Huệ, được một trống đồng trong khe Đa Huy, dải 3 xích, mặt rộng 1 xích 5 thốn, gồ lên hơn 2 thốn. Ở chung quanh riềm đều khoa đẩu, thắt eo rộng phía dưới. Văn Xương Vạn châu cũng có Đồng Cổ lĩnh (núi trống đồng), do đào được trống đồng mà đặt tên.” Sách Quỳnh châu phủ dư địa chí chép: “Tiếng người Lê thời hư trên mà thực dưới, như gà thịt họ nói thịt gà; huyện trước nói là trước huyện.” Điều này cho thấy người Lê cũng như một bộ phận người Quảng Đông, Triều Châu vẫn giữ cách nói “chính trước phụ sau: danh từ, động từ đứng trước, tính ngữ, trạng ngữ đi sau” của người Việt cổ. 19. Nước Nam Chiếu Biên giới Tây Nam Trung Quốc, từ Lý Đường đến cuối Tống, có một thuộc quốc chiếm đất khá rộng, lấy Vân Nam, Đại Lý ngày nay làm thủ đô, Côn Minh làm bồi đô. Có lúc nhận phong hiệu của Trung Hạ, có lúc phản bội Trung Hạ mà xưng chế. Tuy là tổ chức cùng văn hóa rất bị ảnh hưởng Trung Hạ mà Trung Hạ cũng từng bị binh họa của họ. Đấy là nước Nam Chiếu. Thủ lĩnh nước Nam Chiếu tự xưng là Mông thị nổi lên tại huyện Mông Hóa tỉnh Vân Nam, thuộc lưu vực Lan Thương Giang và Nô Giang. Thời Huyền tông (712-755), thủ lĩnh là Bì Tấn Các lập Thái Hòa thành tức huyện thành Đại Lý tỉnh Vân Nam ngày nay. Năm Khai Nguyên thứ 26 (738) nhà Đường phong làm Vân Nam vương. Thời vua Văn Tôn (827- 840), Nam Chiếu đem quân cướp nước Thục, hãm Thành Đô, hãm luôn An Nam đô hộ phủ. Vua xưng đế gọi là Đại Lý. Vua Lý Tôn (860-873) dùng Cao Biền mới dẹp yên. Chính Nam Chiếu góp phần làm nhà Đường sụp đổ. Cựu Dường thư Nam man truyện: “Nhà Đường mất vì Hoàng Sào mà họa cơ ở Quế Lâm!” Từ Mông Thị, nước Nam Chiếu truyền được 22 đời, đến Nguyên Hiến Tôn năm thứ 3 bị Hốt Tất Liệt diệt. Lời bàn Trước hết xin được làm rõ về nguồn gốc của Bách Việt. Xuyên suốt cuốn sách, ông La Hương Lâm cố công thuyết phục người đọc rằng Bách Việt có nguồn gốc từ tộc Hoa Hạ của Hạ Vũ. Khi nhà Hạ mất, bộ tộc của Hạ Vũ di cư đi nhiều nơi và tạo thành các tộc người thuộc Bách Việt. Đọc sách, chúng tôi có cảm tưởng rằng, có lẽ trong thâm tâm, tác giả không thật tin vào điều mình nói. Vì không thật vững tin và sợ người đọc hoài nghi nên buộc phải quá nhiều lần nhắc lại, khẳng định ý tưởng của mình! Tác giả không tin cũng phải vì điều ông nêu ra mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa và chính trị chứ không trên cơ sở khoa học. Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào xác định nguồn gốc của tộc Hạ Vũ. Nói chung, người ta cho rằng, tộc Hạ Vụ là một nhánh trong Hoa Hạ. Tuy nhiên thực tế không đơn giản như vậy. Theo khảo cứu của chúng tôi, dân cư vùng cao nguyên Hoàng Thổ thời Hoàng Đế gồm hai nguồn: đa số là người Việt bản địa, chủ nhân văn hóa Long Sơn, thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Số ít hơn là người lai Mông – Việt, tự gọi là Hoa Hạ, sinh ra từ sau cuộc xâm lăng của Hoàng Đế năm 2698 TCN, do hòa huyết giữa người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) và người Việt mang gen Mongoloid phương Nam, nên cũng thuộc chủng Môngoloid phương Nam. Theo suy đoán của chúng tôi, dựa vào phả hệ Hoàng Đế thì Đế Khốc là con cháu của Hoàng Đế. Con Đế Khốc là ông Tiết và ông Tắc cho ra tổ nhà Thương và nhà Chu. Đế Nghiêu là con Đế Khốc, di duệ của Hoàng Đế. Đế Thuấn rồi Đế Vũ không phải con cháu trực hệ của Hoàng Đế. Thượng thư ghi: khi vua Thuấn giao vương vị cho vua Vũ, vì Vũ là người Việt nên dân Hoa Hạ nổi loạn. Chi tiết này chứng tỏ vua Vũ không phải người Hoa Hạ. Theo văn bản, Hạ Vũ làm vua năm 2200 TCN. Do đó, ông không thể là tổ của các chi nhánh Bách Việt. Ở trên đã trình bày, đến khoảng 3000 năm TCN, người Việt là chủ nhân của toàn bộ đất Trung Hoa. Vậy, tổ tiên của Bách Việt đã sống ở Trung Quốc từ rất lâu và làm nên văn hóa Giả Hồ, Hà Mẫu Độ, Gò Ba Sao... Tại di chỉ Cảm Tang thành phố Bách Quả tỉnh Quảng Tây, tìm thấy chữ tượng hình khắc trên xẻng đá của người Lạc Việt từ 6000 tới 4000 năm trước… Những dân cư cố cựu như vậy không thể là con cháu của thị tộc ra đời sau mình nhiều nghìn năm! Điều thứ hai cần nói rõ là, tác giả [La Hương Lâm] không biết rằng người Ngô, người Sở cũng là những chi khác nhau của tộc Việt. Do lẽ đó, việc Việt diệt Ngô rồi Sở diệt Việt là những tranh chấp trong nội bộ tộc Việt quá lớn và phân bố rộng khắp Trung Hoa. Và tác giả [LHL] cũng không thể ngờ rằng, nhà Tần cũng là một chi nhánh Việt còn nhà Hán thì càng Việt hơn vì là dân cư vùng Trong Nguồn (nay là Hán Thủy, Trung Nguyên), đất hương hỏa lâu đời của người Việt. Ở trên, phần Dương Việt có viết: “Dương Việt ở vào khoảng trung du Hán Thủy. Sở Hùng Cừ thôn tính ba nước Dung, Ngạc, Dương Việt vào thời vua Di vương nhà Chu. Điều này cho thấy, vào năm cuối thời Tây Chu, người Dương Việt còn tụ cư ở trung du Hán Thủy. Lưu vực Hán Thủy từ Xuân Thu về sau hoàn toàn thuộc về Kinh Sở.” Như vậy là cho tới cuối thời Chu, người Việt, đồng bào của Lưu Bang ở vùng Hán Thủy vẫn độc lập. Điều thứ ba, như nhiều học giả khác, ông La Hương Lâm cũng lầm lẫn dây chuyền khi cho rằng Việt Thường “là một chi của Việt tộc, đất sinh sống là quận Cửu Chân thời Hán, gồm Thanh Hóa, Nghệ An tới Thuận Hóa ngày nay.” Thực tế, đó là quốc gia cổ của người Việt ở Nam Dương Tử tồn tại từ trước thời nhà Thương, có quan hệ với nhà Chu, có thể thuộc về nước Việt thời Tiền Câu Tiễn.[3] Từ khảo cứu này, có thế khẳng định: Bách Việt là giai đoạn tan rã của nước Sở mà hoàn toàn không phải là cội nguồn của tộc Việt. Cội nguồn của dân tộc Việt cùng các dân tộc phương Đông và phần lớn nhân loại sống ngoài châu Phi là người Lạc Việt hình thành 70000 năm trước trên đất Việt Nam. Tháng Ba năm 2016 Tài liệu tham khảo: 1. La Hương Lâm. Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa. Trung Hoa tùng thư. Đài Loan thư điếm, 1955. Bản dịch chép tay của Vọng Chi Nguyễn Chí Viễn. 2. Âu Đại Nhậm. Tựa Bách Việt tiên hiền chí. Thư viện Việt Nam, California, Hoa Kỳ, 2006. 3. Hà Văn Thùy. Việt Thường thị ở đâu? http://thuyhavan.blogspot.com/search?updated-max=2015-09-13T04:20:00-07:00&max-results=1&start=23&by-date=false Share this post Link to post Share on other sites
Posted 6 Tháng 9, 2016 Khoảng trống văn học dân ta: Những thành tích hàng hải Vũ-Hữu-San Lời Giới-Thiệu. Một mùa Xuân ly-hương nữa lại đến với người Việt tị-nạn. Mấy ngàn năm trước, những mùa Xuân ly-hương cũng đã đến nhiều lần với Tiền-nhân Việt-tộc trên những bước đường phiêu-lưu hàng-hải. Hai năm trước, qua bài "Tượng Phật nổi trôi" Vũ-Quân đã viết rằng: vì cơn quốc-biến, chúng ta phải ra đi theo nghiệp-dĩ của những bức tượng gỗ trôi nổi muôn phương qua các bờ bến đại-dương xa lạ, ở đó chúng ta không cô-độc vì đã gặp lại những tượng Phật cũ là tiền-nhân... Tuy thế, tiền-nhân Việt-tộc chỉ trở thành những người di-tản buồn từ khi nước Tàu bành-trướng và toàn-thể lãnh-thổ Bách-Việt bị xâm-lăng. Trước thời-kỳ đen tối đó, tiền-nhân chúng ta từng là những anh-hùng độc-bá đại-dương. Trong bài này, Vũ-Hữu-San xin trình-bày thành-tích tiền-nhân trong thời vàng son đó. Mời Quý-vị đọc vui trong ngày Xuân. 1 - Trong những thành-tích hiển-hách của Tiền-nhân Ngày nay, trong những buổi lễ-lạc, đa-số các vị được lên diễn-đàn để nói thì hầu hết đều ca-tụng những chiến-công hiển-hách của của tiền-nhân. Tuy vậy, qua hàng trăm, ngàn bài diễn-văn người ta chưa thấy hoạt-động Hàng-hải của Tổ-tiên được nhắc nhở tới. Trong những công-trình dựng Nước, mở Nước, giữ Nước trên vùng đất nước quê-hương mà sông biển bao trùm khắp nơi, sự hy-sinh vì nghĩa-vụ với "thân xác tử-sĩ chìm theo sóng nước" nhiều hơn số người "da ngựa bọc thây". Cũng ít ai từng nhắc tới công-lao người chiến-binh suốt những năm tháng dài đấu sức với ba đào, thi gan cùng sương gió ngoài khơi để bảo-vệ hải-biên, giữ gìn an-ninh cho hệ-thống đường thủy, hay khuyếch-trương hải-thương mong cho nước giàu, dân mạnh... Và tuyệt-nhiên, chưa bao giờ có ai nhắc nhở tới thành-tích hiển-hách bậc nhất trong lịch-sử loài người mà chúng tôi xin kể sau đây: những chuyến đi xuyên-dương nhiều ngàn năm trước của tiền-nhân Việt-tộc. 2 - Thương-mại và văn-hoá Trong khi sinh-hoạt với sông biển, người Việt cổ đã tạo-dựng được nhiều thành-tích vĩ-đại. Những truyền-thống hàng-hải lâu đời của dân-tộc vẫn còn tồn-tại đến ngày nay, cho dù hầu hết thành-tích của tiền-nhân đã bị thời-gian chôn vùi vào quên lãng. Thật thế, ảnh-hưởng của các nền văn-minh cổ-thời Hoà-Bình, Đông-Sơn rất bao la. Vết-tích các nền văn-minh này đi lên Đài-Loan, Nhật-Bản, Tây-Bá-Lợi-Á; qua Phi-luật-Tân, vùng Đa-Đảo; xuống Nam-Dương, Úc-Châu và sang tận Mã-Đảo, Phi-Châu. Công việc chuyển-vận hải-thương đã lôi kéo theo sự truyền-bá văn-hoá trên các bờ biển và hải-đảo xa vắng mà đôi chân con người không thể tới được bằng đường bộ. Vì mực nước biển vẫn giữ độ cao như hiện nay từ chục ngàn năm qua, cổ-nhân chúng ta nhất-định phải nhờ đến ghe thuyền và đường hàng-hải mới di-chuyển xa được. Trong thời tiền-sử, khi trình-độ kỹ-thuật đi biển của các dân-tộc láng giềng còn thô-sơ kém cỏi, dân Việt rất xứng-đáng để được ghi-nhận công-lao hàng đầu về hải-nghiệp. Những tiến-bộ của Đông-Nam-Á so với các nơi khác trên thế-giới. (Hình trong "New Light on a Forgotten Past", Wilheim G. Solheim II, National Geographic,V. 139,N. 3, March 1971: 330.) 3 - Người Việt đè bẹp bão tố Người Việt có sự liên-hệ văn-hoá với Trung-Hoa rất sớm, ít nhất cũng kể từ khi nhà Tần gửi quân Nam-xâm, thế-kỷ 3 trước Tây-lịch (TTL.). Những nhận-xét của họ về hàng-hải Việt thời cổ đã được chúng tôi đề-cập trong một số bài viết khác nhau. Sau đây người viết xin trình-bày khả-năng hàng-hải của dân ta qua những lời phê-bình của người Tây-phương Nhiều lời khen ngợi dân Việt đi biển được dẫn lại trong sách của Jean Chesneaux, cuốn "Contribution à l'histoire de la nation vietnamienne"€, bản địch Anh-ngữ: "The Vietnamese Nation - Contribution to a History," - Nhật-ký của George Windsor Earl Nhà hàng-hải George Windsor Earl viết trong sổ nhật-ký của ông trên đường dẫn lộ một chiếc thương-thuyền đến Singapore vào đầu thế-kỷ thứ 18 như sau: "... Bão táp thật dữ dội ngoài biển khơi, thiếu chút nữa thì thương-thuyền của chúng tôi bị gẫy đổ cả cột buồm. Thời-tiết đã tiếp-tục xấu như thế trong nhiều ngày. Vậy mà khi đang thận-trọng dẫn tàu vào eo biển, chúng tôi chợt nhận ra 6 chiếc thuyền nhỏ của người Việt-Nam đang giương hết mọi cánh buồm, cứ thản-nhiên như không, tiến thẳng tới trước. Mấy người mại-bản Trung-Hoa đi trên tàu chúng tôi, đứng sững sờ ngắm nhìn những dàn buồm no gió một hồi... rồi sau khi nhận-diện được, họ la lên một cách thán-phục: "Lại mấy người Việt đấy, thật lỳ quá trời..." Tôi nghĩ (lời Thuyền-trưởng George Windsor Earl): Mấy người Việt đó đang lèo lái những con thuyền bé nhỏ mà cách-thức vận-chuyển để vượt sóng lượn gió thật là tài-tình. Tài ba của họ không thua kém bất cứ một thủy-thủ-đoàn hạng nhất nào của toàn khu-vực Âu-Châu. Đoàn thuyền bé tí teo đó không có một chiếc nào vượt quá 50 tấn, vậy mà những người đi biển này có thể đè bẹp cả sóng gió Biển Đông vào giữa mùa bão-tố. Đã qua 20 năm rồi, rất ít thương-thuyền nào của công-ty chúng tôi dám thử hải-hành trong giữa mùa biển động như vậy..." Ông còn viết thêm nhiều câu rất cảm-động, thí-dụ như: "Thật thú-vị nếu được quen biết với những người Việt-Nam này. Tính-tình họ năng-động, ngôn-từ lại hoạt-bát như dân Pháp. Khi đến buôn bán ở Singapore, họ đã phải khéo léo trong sự cạnh-tranh. Hoàn-cảnh sinh-hoạt của họ thật sự khó khăn vì chính sách bế-môn tỏa-cảng của triều-đình Việt-Nam. Họ rất can-đảm khi xuất-dương. Thuyền họ lại không trang-bị vũ-khí và như thế có thể là miếng mồi ngon cho bọn hải-tặc." Vinh-dự thay cho truyền-thống của ngành hàng-hải Việt-Nam! Những câu khen ngợi đó có thể nói là không tiếc lời. Sự suy-tôn về nghề-nghiệp, đề-cao về nhân-cách cùng khâm-phục lòng can-đảm như vậy rất hiếm hoi trong giới hành-thủy. Người Việt như chúng ta ngày nay, nghe thấy cũng còn hãnh-diện lây. - Thủy-thủ Việt trong Báo-cáo của John Crawfurd Bác-sĩ Crawfurd đươc chính-phủ Anh đề-cử làm đại-sứ tại hai kinh-đô Bangkok và Huế năm 1822. Tuy bị thất-bại trong công-tác thành-lập một thương-điếm tại Việt-Nam, Ông vẫn giữ những cảm-tính sâu đậm với giới hành thủy Việt-Nam. Bác-sĩ Crawfurd có nhận-xét về khả-năng hàng-hải của dân ta trong mục báo-cáo số 145 như sau: "... Nếu như người Việt-Nam được phép tự-do viễn-dương thì người ta không thể tìm đâu ra được một sắc dân nào nữa ở Á-Đông mà lại có đầy đủ những đức-tính để trở thành các nhà hàng-hải siêu-đẳng như vậy... Tính họ không những cương-quyết, năng hoạt-động, tôn-trọng hạn-kỳ, mà lại luôn luôn vui vẻ chiều lòng khách hàng... Ghe tàu của họ được các nhà chuyên-môn xét-đoán và mô-tả như là những loại thuyền tốt nhất trong khu-vực Đông-„n, kiến-trúc rất chắc chắn, đủ sức hải-hành ngay cả những khi thời-tiết xấu nhất." Thêm vào các nhân-chứng (người Anh) này, hai người Pháp (Chaigneau và Vannier) đã làm quan trong triều-đình Việt-Nam và cũng đã từng làm hạm-trưởng các chiến-hạm loại trang-bị 16 súng đại-bác với thủy-thủ-đoàn hoàn-toàn Việt-Nam, bảo-đảm rằng họ là những thủy-thủ can-đảm và thật lành nghề. - Nhận-xét của John White Thuyền-trưởng White là một trong những nhà hàng-hải Hoa-Kỳ đầu tiên đến Việt-Nam vào năm 1820. Ông có dịp thăm viếng thủy-xưởng sau này là Hải-quân Công-xưởng Sài-Gòn, cho biết người Việt-Nam là những nhà kiến-trúc tàu bè có khả-năng kỹ-thuật cao nhất, hoàn-tất công-tác thật chính-xác. John White còn xem xét các ván gỗ đóng thuyền, Ông rất ngạc-nhiên là những hải-xưởng Việt-Nam thời đó lại có đầy đủ vật-liệu cho việc kiến-trúc đến cả loại tàu lớn nhất như Frigate (tức loại chiến-hạm chủ-lực của Hải-quân Hoa-kỳ sử-dụng vào đầu thế-kỷ 19). Ông tận mắt nhìn thấy một tấm gỗ dài rộng tới 120 ft x 4 ft . Vì khổ này lớn quá, gỗ lại rất tốt; vị Thuyền-trưởng Mỹ suy ra rằng rừng Việt-Nam sản-xuất được những loại cây gỗ dùng đóng tàu thuyền tốt nhất thế-giới. 4 - Hải-sử và Bách-khoa Chính-sử của nước ta ghi lại được một số hoạt-động hàng-hải lẻ tẻ, nhưng tiếc rằng phần viễn-duyên rất ít tài-liệu và đặc-biệt các hoạt-động xuyên-dương của dân ta chưa bao giờ được đề-cập đến. Những người ngoại-quốc, khi muốn tìm hiểu về truyền-thống hàng-hải của người Việt trong cổ-thời, đã gặp nhiều khó khăn. Cho đến hậu-bán thế-kỷ 20 này mới có một người Việt-Nam đầu-tiên viết một cuốn sử nhỏ bằng ngoại-ngữ với mấy đoạn đề-cập sơ-sài đến các hoạt-động hải-thương của dân ta ở Nam-Hải trong thời Bắc-thuộc. Đó là ông Lê-Thanh-Khôi với cuốn "Le Vietnam, Histoire et Civilisation", xuất-bản năm 1955 ở Paris, France. Vậy mà ông còn bị một tác-giả khác cũng người Việt-Nam phê-bình là nói quá đáng. Không phải chỉ người nước ngoài không biết đến nền cổ hàng-hải Việt mà có cả những người Việt cũng khiếm-khuyết những kiến-thức tương-tự như vậy! Muốn đi tìm những thành-tích to lớn hơn nữa của cổ-nhân, chúng ta cần cố công lục lọi thêm tài-liệu qua sách vở quốc-tế. May mắn thay, trong cộng-đồng nhân-loại không thiếu những học-giả quan-tâm nghiên-cứu tới những vấn-đề hệ-trọng này. Bách-khoa từ-điển The New Encyclopaedia Britanica xuất-bản những năm gần đây, về từ-mục Dongson Culture ghi như sau: "Đông-Sơn không những chỉ riêng là văn-minh đồ đồng mà cũng có đồ sắt nữa. Người Đông-Sơn cũng nổi bật với những công-trình bằng đá khối (?!) ... Đông-Sơn là dân đi biển, có thể đã hải-hành và thương-mại khắp vùng Đông-Nam Á-Châu". Chứng-tích quan-trọng của nền văn-hoá Đông-Sơn ghi-nhận trên các trống đồng cũng cho ta nhìn thấy một phần nào khía cạnh truyền-thống hàng-hải của cổ-nhân. Quang-cảnh được trình-bày rất phong-phú trên hầu hết các cổ-vật còn sót đến ngày nay là sự sinh-hoạt trên thuyền. Có người chuẩn-bị tác-chiến, có người như nhảy múa cùng bầy chim, đặc-biệt lại có người giã gạo. Chắc đây là những chuyến đi xa, kéo dài hàng tháng đến những vùng đất xa lạ nên họ vừa đi vừa chuẩn-bị thức ăn. 5 - Hải-trình Địa-trung-Hải / Đông-Dương Trong sách "The Junks & Sampans of the Yangtze", G. R. G. Worcester đã viết về hải-lộ thông-thương từ Âu-Châu qua Ả-Rập, „n-Độ đến vịnh Bắc-Việt, cho rằng Hà-Nội đúng là trạm hải-hành cuối cùng giữa Tây-phương và Đông-Á trong cổ-thời. Worcester hình-dung một "hải-trình tơ lụa" như sau: "...có thể đã có những ảnh-hưởng qua giao-tiếp đường biển rất sớm sủa với dân Địa-Trung-Hải, vì người ta tin rằng những thương-gia Phoenicia trên hải-trình tìm kiếm "đường tơ lụa", đã tới Đông-Dương vào năm 650 TTL." Vào thời đó, nước Văn-Lang của chúng ta đang lúc thịnh-thời và do các vua Hùng (2879-258TTL.) trị-vì. Những hải-trình tơ lụa giữa Địa-Trung-Hải và Đông-Á mà trạm chót là Cattigara. (Vẽ theo "Exploring Our Country", Stuart Hamer, Follett, Ahlschwede, Gross, Sacramento 1956: 25.) Hán-sử chép rằng vua Vũ-Đế tạo lập một đường biển tới „n-Độ và vào năm 140 TTL., chuyến hàng gồm có vàng và tơ lụa được đem tới một thành-phố gần Madras. Phương-tiện chuyên chở cho đường hàng-hải này do người Việt (mà Tàu thường gọi là Nam-Man) phụ-trách. Để phân-biệt Tàu-Việt trong hàng-hải, chúng ta đọc được hai ý-kiến chính-xác sau đây: - Lin Yu, viết trong nguyệt-san "T'ien Hsia Monthly", cho ý-kiến rằng lúc xưa người Man đi tàu biển. Cho đến cuối triều-đại Lưu Tống (Nam-triều, năm 420-479), có thể người Tàu mới bắt đầu đóng tàu thuyền cho việc hải-thương. - Friedrich Hirth và W. W. Rockhill, tác-giả của nhiều sách và bài khảo-cứu về hàng-hải Á-Châu, quả-quyết rằng vào đầu công-nguyên, không thể có một tàu thuyền nào của Trung-Hoa hoạt-động trong „n-Độ-Dương, mặc dù người Tàu thường quá-giang theo tàu thuyền của dân (Nam)-Man. 6 - Dân bản-địa Việt-Nam và đân di-cư dều là dân nước, dân thuyền, nhưng không phải người Tàu Khảo-cổ-học đã đề-cập đến các "dân nước, dân thuyền" tại hai vùng châu-thổ Sông Hồng và Sông Mã. Trong thời-gian nhiều thế-kỷ trước và sau công-nguyên, đất nước ta cũng nhận thêm nhiều người di-cư tới, họ cũng là những dân hàng-hải. Về nhân-loại-học, ông Cl. Madrolle trong bài "Le Tonkin Ancien B.E.F.E.A. XXXVII đã phát-biểu ý-kiến là ở Phước-Kiến có một nhóm Việt-tộc làm nghề chài-lưới, hàng-hải đã dùng thuyền gỗ hay mảng tre có buồm, hàng năm theo gió mùa, nhân gió bấc phiêu-lưu theo dọc miền duyên-hải rồi ghé vào miền trung-châu sông Nhị, sông Mã (Việt-Nam.) Nhóm này cũng có phen xuống cả Nam-Dương, rồi lại nhân tiết gió nồm quay về căn-cứ. Một số đã ở lại sinh sống... Sau này, tuy người Tàu xâm-chiếm được lãnh-thổ nước ta nhưng họ đã không thể làm tiêu-tan được truyền-thống hàng-hải của dân-tộc Việt. Trong sách Nanhai Trade, học-giả Wang Gungwu, tuy có thể có nguồn-gốc liên-hệ Trung-Hoa, nhưng lại rất khách-quan, đã mạnh mẽ lên tiếng bảo-vệ công-lý cho những người Việt thời đó như sau: "... Thực-sự phần cốt-cán trong những hoạt-động hàng-hải dọc theo bờ biển Trung-Hoa đều là của người Việt. Vì hầu hết dân-cư miền Nam chưa bị Tàu-hoá ... Vậy thật là lầm lẫn nếu gọi những người Việt hành-nghề thủy-thủ và kiến-trúc tàu thuyền trong giai-đoạn này là người Trung-quốc với chỉ một lý-do là lãnh-thổ của họ bị đặt dưới sự cai-trị của người Tàu". 7 - Kẻ-Chợ (Hà-Nội) trên bản đồ Ptolemy Sau cuộc viễn-chinh của Alexandre Đại-đế (336-323 TTL) sang „n-Độ, nhiều giao-tiếp đã xảy ra giữa Á-Âu, người Hy-Lạp biết thêm nhiều sinh-hoạt của người Á-Châu. Eratosthene (275-195 TTL) viết sách Geographia, Ptolemy (khoảng 100-170) phát-triển môn địa-lý, viết sách và hình-dung ra một bản-đồ thế-giới mà tận-cùng về phía Đông-Đông-Nam là bán-đảo Vàng Chersonese và hải-cảng Kattigara (kinh-độ 117 độ Đông, vĩ-độ 8 độ Nam - Kinh-tuyến gốc lấy từ đảo Ferro -Islands of the Blest- quần-đảo Canary.) Nhiều người cho rằng bán-đảo Vàng là Đông-Dương và Kattigara (hay Cattigara) chỉ Kẻ Chợ (Kesho), Long-Biên (Lugin) hay Hà-Nội ngày nay. Nói riêng về từ-ngữ hàng-hải, ta có thể hiểu theo như nghĩa người Bắc-Âu thường dùng: Kati là tàu thuyền, Gata là hải-đạo. Như vậy chữ Kattigara nghĩa là chỗ hải-cảng tàu thuyền hải-hành tới. Ông Bình-Nguyên-Lộc không thỏa-mãn với vị-trí ước-đoán cho rằng Kattigara nằm trong vùng Kẻ Chợ Hà-Nội, mà nghĩ rằng Kattigara có thể là Kẻ Thị Gay, tức thành phố Ghe thuyền. Ông suy ra tên Kattigara chính là địa-danh của thương-cảng Hòn-Gay như ta vẫn gọi ngày nay. Việc xác-định xem thương-cảng Kattigara ở đâu vẫn chưa thực-hiện được. Theo ý một vài nhà nghiên-cứu, khi biết đúng vị-trí, những cuộc khai-quật chắc chắn sẽ mang lại thêm nhiều hiểu biết mới và giúp chúng ta trả lời được nhiều câu hỏi chưa có giải-đáp về thành-quả hàng-hải và thương-mại của người cổ Việt. Tác-giả sách "Ancient India as Described by Ptolemy" là J. W. McGrindle, cũng đồng-ý Kattigara là Hà-nội. Nơi trang 9, lời tác-giả ghi-chú : "Trung-Hoa trong gần 1,000 năm đã được biết như là quốc-gia nằm trong nội-địa Á-Châu (inner Asia)". Tại trang 26, ông viết: "... với lý-thuyết rằng Kattigara, điểm xa nhất về phía Đông tới được bằng đường biển, phải nằm gần hay trên cùng kinh-tuyến với với nước Tàu, điểm xa nhất đi đến được qua đất liền". Vị-trí Cattigara trên các bản-đồ cổ Âu-Châu (phỏng theo "Ancient History Atlas" Michael Grant, Cartograph by Arthur Bank, Mcmillan Publishing Co., Inc., New York, 1971: 75) Người Âu-Châu thời đó, khi nghĩ đến Đông-phương hàng-hải là nghĩ đến vùng đất quê-hương chúng ta nhiều của cải, đầy vàng bạc châu báu, và cửa biển chính thông-thương ở Hà-nội. Từ trước thời Bắc-thuộc, lưu-vực sông Hồng, sông Mã đã là những trung-tâm hàng-hải cùng thương-mại phồn-thịnh, hàng-hoá đi khắp nơi và có liên-lạc thường xuyên với Tây-phương. Mối giao-thương này chắc chắn sâu-đậm đến mức-độ tất cả những bản-đồ thế-giới do Tây-phương ấn-hành suốt 13 thế-kỷ sau đó, đều cố ghi địa-danh Kattigara. Tuy vậy vì chưa biết sự hiện-hữu của Mỹ-Châu và Thái-Bình-Dương nên trên tất cả bản-đồ cũng như cầu-đồ, vị-trí của Á-Đông được vẽ quá gần với Âu-Châu. Các hải-đồ này cho thấy hình-dạng bán-đảo Hoa-„n thật sai-lầm kèm với vị-trí hải-cảng nước ta nằm trên tọa-độ quá xa về hướng Đông (sai tới 55 độ kinh-tuyến) và cũng quá xa về hướng Nam (sai tới 30 độ vĩ-tuyến.) Lý-do sự lầm lẫn lớn lao này của Ptolemy được Robert R. Newton phân-tách và giải-đáp chính-xác trong "The Crime of Claudius Ptolemy" ấn-hành năm 1977. Dù Ptolemy thật sự mắc "trọng-tội" (crime)€ hay không, "hào-quang" Kattigara vẫn nằm trong tâm-tưởng những nhà hàng-hải Tây-phương thời Trung-cổ, nhiều ít thúc-đẩy việc thực-hiện những chuyến viễn-hành và gián-tiếp đưa đến biến-cố Columbus tìm ra Mỹ-Châu. Ai ai bên Âu-Châu cứ cũng tưởng rằng nếu dong buồm hải-hành về hướng Tây-Tây-Nam là sẽ tới được "Hải-cảng [?!] Hà-Nội". Họ nghĩ Á-Châu nằm rất gần đâu đó ở bờ bên kia của Đại-Tây-Dương! Cho đến khi qua đời vào năm 1506, Kha-luân-Bố không bao giờ từ bỏ niềm tin-tưởng là ông đã thực-sự đặt chân tới ven bờ biển Á-Châu. Xem xét những tài-liệu mà giai-đoạn đó còn để lại, người ta thấy các nhà hàng-hải Âu-Châu thời Trung-Cổ bận-tâm rất nhiều đến việc làm sao đưa tàu tới được Kattigara. Chắc chắn là phải có sự phán-quyết nào đó của Kha-luân-Bố (Cristoforo Colon) rằng "hải-cảng ước mơ" của người Việt chúng ta nằm gần đâu đó trên hải-trình thám-hiểm, nên người em của ông là Bartholomew Columbus (Bartolome Colon) mới ghi tên Cattigara một cách phỏng-định (?!) lên bản-đồ vùng đất xa lạ "Tân-thế-giới", tức Nam Mỹ-Châu. Magellan cũng lưu-tâm đến vị-trí Cattigara rất nhiều. Sau khi từ Đại-Tây-Dương vào được Thái-Bình-Dương, ông dẫn hải-đội dọc theo bờ biển Chí-Lợi, viên thư-ký giữ tài-liệu hải-hành của ông là Pigafetta có vẻ bi-quan khi nói rằng :"Cái mũi đất Cattigara mà ngay cả những nhà "Vũ-trụ-học" (!) cũng chưa nhìn thấy thì lúc này không những chẳng thể nào tìm ra mà (chúng ta) cũng không thể tưởng-tượng được là nó ở vào chỗ nào!" Trong khi băng ngang qua Thái-Bình-Dương, Magellan ra lệnh cho đoàn tàu đi hơi chếch lên phía Bắc-bán-cầu để tiếp-tục hy-vọng tìm ra cảng mơ ước này nhưng cuối cùng đã thất-bại. Đoàn thám-hiểm gồm toàn những tay lang bạt kỳ hồ đó, không những chẳng thấy Cattigara, mà nhiều người đã cùng chung số phận với Magellan, đành bỏ xác lại ở vùng đảo Phi-luật-Tân. Thật lạ lùng là sau chuyến đi của Marco Polo (thế-kỷ 13), các nhà địa-lý đã không sửa được bản-đồ cho đúng, mà cả sau khi Magellan mất mạng trên đường đi vòng quanh thế-giới (năm 1521), tọa-độ địa-dư của Kittigara vẫn giữ nguyên như cũ. Địa-danh hải cảng này (hay Hà-Nội cũng vậy) do đó được tiếp-tục ghi trên lục-địa Mỹ-Châu trong nhiều thế-kỷ. Hình phác thảo bởi Bartolome Colon (Columbus) năm 1505. Cattigarra được phỏng-định là ở Nam-Mỹ. Hình của Bartolome được Grasso vẽ lại. Dựa theo bản vẽ của Bartolome, Grasso vẽ lại hình-thể địa-cầu "giả-tưởng". Từ phải sang trái: Âu-Châu, Tân-thế-giới, Cattigara (Á-Châu), „n-Độ, và Phi-Châu. 8 - Thương-mại ở Nam-Hải Đã có nhiều sách do người Âu-Á-Mỹ đề-cập đến các hoạt-động thương-mại vùng Đông-Nam-Á, nhiều ít nói tới những kỳ-công của người Việt Cổ trong ngành hàng-hải, cận-duyên cũng như viễn-duyên. Như ta biết, trong suốt dòng lịch-sử Á-Đông, dân Trung-Hoa và dân Việt-Nam là hai thế-lực chính đối đầu nhau lâu nhất trên biển cả. Tuy vậy, thực sự chỉ có người Việt độc-hành vì người Tàu lúc xưa không liên-hệ nhiều đến hàng-hải. Trong sách "Eighth Voyage of the Dragon - History of China's Quest for Sea Power", Hải-quân Học-hiệu Annapolis ấn-hành năm 1982, Bruce Swanson đã mở đề chương 1 như sau: "Lịch-sử hàng-hải Trung-Hoa trong ngàn năm qua biểu-thị đặc-tính nơi sự đối-kháng giữa hai thực-thể văn-minh lớn: nước Tàu có tính-cách lục-địa, ảnh-hưởng Khổng-Tử và nước Tàu có liên-quan đến biển. (Nước Tàu) ở phần trên bộc-phát từ khi thống-nhất trung-tâm miền Bắc, gồm nhiều nước khác-biệt hồi chiến-quốc, vào năm 221 TTL. Suốt hai ngàn năm sau đó, hai triều-đại nhà Hán (220 TTL.- 221) và nhà Đường (618- 907) đã biến-đổi Trung-Hoa thành một đế-quốc tráng-lệ, có căn-bản văn-hoá lục-địa (landbased cultural empire)". Sau đó Bruce Swanson lại mở đầu chương 2 với lời khẳng-định: "Thời-đại hàng-hải của Trung-Hoa thực-sự bắt đầu vào thế-kỷ thứ 8, thứ 9 khi dân-số miền Bắc nước Tàu tăng lên tới ba lần và khí-hậu thay đổi làm suy-giảm số lượng đất canh-tác." Trên quan-điểm của một người Á-Đông, Wang Gungwu đã làm một cuộc nghiên-cứu về giao-thương thời cổ trong biển Nam-Hải. Sau đó, vào tháng 6 năm 1956, để phổ-biến kết-quả của công-trình đó, cơ-sở xuất-bản Journal of the Malayan Branch Royal Asiatic Society cho phát-hành một tập sách nhan-đề "The Nanhai Trade - A Study of the Early History of the Chinese Trade in the South China Sea". Wang mô-tả khá đầy đủ về những hoạt-động hàng-hải trong khoảng 11 thế-kỷ trước khi thành-lập triều-đại nhà Tống, năm 960. Theo đó, thổ-dân người Việt, sau khi đế-quốc Nam-Việt của nhà Triệu bị sụp đổ, vẫn tiếp-tục nắm giữ hầu hết ngành hàng-hải dọc duyên-hải hay đường viễn-duyên đến các nước Đông-Nam-Á và „n-Độ, như đã từng nắm giữ trước kia. Đặc-biệt hải-cảng sầm-uất hàng đầu vùng Đông-Nam-Á vẫn là Luy-Lâu hay Long-Biên (Hà-Nội ngày nay) với vùng hậu-cảng trù-phú nhất đế-quốc là quận Giao-Chỉ. Quận này đóng góp thuế má cho hoàng-đế Trung-Hoa rất đáng kể, số dân-đinh của Giao-Chỉ cao hơn tổng-số tất cả số dân-đinh của 6 quận khác còn lại ở miền Nam Trung-Quốc cộng chung. Mọi hàng-hoá chuyên chở đường biển ra vô nước Tàu đều từ Giao-chỉ mà ra vô. Đôi khi Quảng-Châu được chia sẻ một phần nhỏ hoạt-động hàng-hải nhưng người Việt cũng vẫn luôn luôn nắm giữ hết hệ-thống thương-thuyền. Phải đợi đến thời Ngũ-Đại (907-960) và sơ-diệp nhà Tống (960-1279) những thương buôn mới, người Tàu Việt (Chinese- Yủeh) bắt đầu xuất-hiện. Họ là người Việt bị Tàu-hoá hay người Tàu bị tiêm-nhiễm thói thích biển của người Việt bằng cách lập-nghiệp chung với họ. 9 - Đường biển đi Đông-Nam-Á và đi Tây-Bá -Lợi-Á Người Tây-phương thường nói "cứ có thuyền là đi biển được". Người Việt đóng được thuyền; mà thuyền người Việt lại thật tốt. Việc hải-thương của dân Việt trong thời thượng-cổ cùng các dân-cư khác nằm quanh vùng Biển Đông rất phồn-thịnh. Các hoạt-động hàng-hải vẫn tiếp-tục tiến-triển ngay cả thời-gian sau khi nước ta bị Trung-Hoa đô-hộ . Trống Đông-Sơn và những hải-trình thương-mại vùng Đông Á và Nam-Á trước Công-Nguyên. (hình trong sách Nu-Sun của Gunnar Thompson, 1989.) Trước Tây-lịch 6, 7 thế-kỷ, chiến-thuyền Lạc-Việt thời Hùng-Vương đã có hai sàn, những cây nỏ thần được thiết-trí ở trên, người chèo và lái ở dưới. Nhiều kiểu thuyền trang-bị đầy dủ cả bánh lái phía đuôi, mái chèo lái bên cạnh, cây xiếm cố-định ... Hình ảnh được ghi khắc trên nhiều chiếc trống đồng tìm thấy tại lưu-vực các sông Mã, sông Hồng. Cùng thời này, Trung-Hoa đang trải qua giai-đoạn Xuân-Thu Chiến-Quốc. Tại một nước Việt khác mà vua là Việt-Vương Câu-Tiễn, thủy-quân rất mạnh. Quân-đội nhà vua thường được chuyển-vận bằng đường thủy để hành-quân xa căn-cứ hàng trăm hải-lý. Trong những thiên-kỷ TTL., người Việt theo nghề hàng-hải đã giao-thương với nhiều nơi rất xa ở vùng Bắc Thái-Bình-Dương mà dấu-tích buôn bán được ghi-nhận rõ ràng như ngà voi, đồ sắt tại Đại-Hàn và Tây-bá-lợi-Á (Ballinger, 1978: 73; Bandi, 1969: 76.) Joseph Needham cùng các cộng-sự-viên của ông người Trung-Hoa cho rằng dân Việt đã thám-hiểm khắp Thái-Bình-Dương, sang tới tận Bắc và Nam-Mỹ. 10 - Đường biển tới Úc-Châu và Tân-Tây-Lan Như mọi người đã biết, thổ-dân Úc là người gốc từ Đông-Nam-Á. Tổ-tiên họ đã dùng thuyền bè vượt biển sang lục-địa này 60,000 năm xưa. Theo Tiến-sĩ Wilheim G. Solheim II, người Đông-Nam-Á thuộc nền văn-minh Hoà-Bình đã mang ảnh-hưởng sang Úc-Châu qua những đồ đá mài mà Ông ước-lượng từ hơn 20 ngàn năm trước. Người Việt cũng tới cả Tân-Tây-Lan. Trong những cuộc nghiên-cứu văn-hoá nghệ-thuật vào năm 1937, Heine Geldern tìm thấy có nhiều liên-hệ trực-tiếp giữa các dân-cư quần-đảo Marquesas và vùng Đông-Á khoảng 600 TTL. Sau đó Geldern lại còn nói rõ ràng hơn, là người Việt vùng Hoa-Nam có thể đã hải-hành tới Tân-Tây-Lan vào khoảng 3 thế-kỷ TTL. Tuy Tân-Tây-Lan (New Zealand) gần những quần-đảo Polynesia, Mélanesia nhưng nghệ-thuật người Maori tại đó lại tương-tự như nghệ-thuật của những người Việt Cổ ở một nơi xa xăm là Hoa-Nam. 11 - Hải-trình đi Hồng-hải và Địa-Trung-Hải Trong số các nhà nghiên-cứu hàng-hải có một học-giả người Đức, Ông Herrmann A. đã theo dõi những hoạt-động viễn-dương của dân Việt thời cổ. Ông cho rằng họ buôn bán với bến Adulis ở Hồng-Hải mà sử Tàu ghi là Huang Chih (ngày nay là hải-cảng Massawa.) Tài-liệu của Ông Herrmann viết vào năm 1913 vẫn còn được bàn cãi. Gần đây, khi các giả-thuyết "Đông-Nam-Á, một cái nôi văn-minh nhân-loại" bắt đầu được phổ-biến rộng rãi, Tiến-sĩ Wilheim G. Solheim II lấy căn-cứ vào chứng-tích khảo cổ mới nhất, tin-tưởng rằng đã có những liên-lạc trực-tiếp giữa Việt-Nam và Địa-Trung-Hải hơn 2,000 năm trước đây. Nhờ hải-thương, văn-hoá được trao đổi giữa hai vùng Ba-Tư (Persia)/ Trung-Đông và Việt-Nam/ Đông-Dương. Những ảnh-hưởng sâu đậm trên một số khía cạnh sinh-hoạt kể từ trước Công-Nguyên đã được học-giả Shahab Setudeh-Nejad tường-trình hồi gần đây trong bài "Cultural and Cosmological Impact of Sasanian Civilization in Vietnam and Peninsular Areas of Southeast Asia". 12 - Đường biển tới Phi-Châu Các nhà khảo-cứu Âu-Á-Mỹ ngày nay nghiên-cứu các sách sử Trung-Hoa, „n-Độ, La-Mã để tìm hiểu về thương-mại ở „n-Độ-Dương trong những thiên-kỷ trước Tây-lịch. Nhiều người tin-tưởng rằng dân Việt cổ là những nhà thương buôn gan dạ, đã vượt biển tới các đảo ngoài „n-Độ-Dương và đi xa tới tận Ethiopia thuộc Phi-Châu. Sách sử đầu tiên ghi chép đến những chuyến đi Á-Phi này là pho Tiền Hán-Thư của Ban-Cố và Ban-Chiêu. Những đoạn có ghi nơi khởi hành và bến quay về của "Sứ" Tàu quá giang như sau: "Từ Nhật-Nam, Giao-Chỉ đi bằng thuyền buôn người Man năm tháng sau tới xứ Tu-Yuan... Nếu không bị cướp, bi giết, gặp bão hay chết đuối, nhiều chuyến đi dài tới nhiều năm... Người ta nói phía Nam xứ Huang Chih là xứ Ssu-Chhêng-Pu. Đến chỗ này thì "Sứ Hán" quay về". Vào năm 1696, học-giả Pháp Louis Lecomte viết trong cuốn sách "Nouveaux Mémoires sur l'état présent de la Chine", trang 230 rằng những dân-cư lúc xưa ở đất Trung-Hoa (ngày nay) đã hải-hành khắp „n-Độ-Dương và khám-phá cả mũi Hảo-Vọng. Người giỏi Hán-tự có thể tham-khảo sách Tàu. Với tính tự-cao tự-đại, coi nhẹ nghề hàng-hải, Sử-thần Trung-Hoa thường có ý phân-biệt các sinh-hoạt của thuyền-nhân người Man và sinh-hoạt của người Tàu như những Sứ-thần Thiên-Triều Trung-Nguyên. Người biết tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây-Ban-Nha; có thể đọc các sách hay bài viết của Needham, Wang Gunwu, Pelliot, Duyvendak, Grasso... để tìm hiểu về các chuyến viễn-dương của tiền-nhân Việt-tộc. Những học-giả sau này có lẽ đã làm người Trung-Hoa rất buồn vì họ phân-tích còn rõ ràng hơn nữa về vai trò của thuyền-chủ cùng thủy-thủ-đoàn người Việt ra khỏi "sứ-đoàn" quá giang người Tàu. 13 - Đường biển tới Mỹ-Châu Căn cứ vào khả-năng hàng-hải tiền-tiến của giống dân Việt, đồng thời tìm thấy nhiều điểm tương-đồng Mỹ-Việt trước thời-đại Kha-luân-Bố, khá đông các nhà nghiên-cứu Âu-Mỹ đưa ra giả-thuyết là người Việt cổ đã cùng với người Trung-Hoa khám-phá và khai-thác Mỹ-Châu nhiều ngàn năm trước đây. Nói tổng-quát, các khoa-học-gia kim-thời hầu hết đã chấp-nhận giả-thuyết có sự giao-tiếp hiển-nhiên giữa Á-Mỹ, nhưng khi đi sâu vào chi-tiết thì họ vẫn còn những điểm bất-đồng. Khi vai trò của Việt trong công-trình khám-phá Mỹ-Châu lu mờ trước cái bóng to lớn của một Tàu quá "vĩ-đại" thì cũng có người tìm ra được những lý-do xác-thực và lý-luận thích-đáng để phủ-nhận sự hiện-hữu của Trung-Hoa trong công-trình đó. Ta hãy xem một trong những nghiên-cứu tiêu-biểu nhất, đó là bản báo-cáo của Alphonso Caso trình-bày trong tập-san Congreso Internacional de Americanista, phát-hành tại Mexico năm 1962, trong đó, Caso đanh thép lập-luận: "Không một điều nào chứng-tỏ được rằng dân-chúng đời nhà Thương (Shang) có thể đi xa hơn ngoài bờ biển và việc xuyên-dương rõ ràng là khỏi phải hỏi tới. Người Tàu đời nhà Thương, cũng như đời nhà Chu (Chou) đúng là dân ở trong đất liền, không phải dân sống ngoài biển. Do đó người Tàu không thể nào là một yếu-tố trong việc phát-minh chữ viết và lịch toán ở Trung-Mỹ. Về phần người Việt, những khả-năng về viễn-dương của cổ-nhân, dù chưa được cả thế-giới chính-thức suy-tôn, nhưng cũng chẳng bao giờ bị phủ-nhận. Trong hai năm liên-tiếp 1942-1943, một học-giả Pháp-quốc đứng hàng đầu về kiến-trúc thuyền bè Việt-Nam, Ông Pierre Paris đã mạnh mẽ phát-biểu về những ảnh-hưởng văn-hoá Đông-Dương hiện-diện tại Mỹ-Châu. Hai bài khảo-cứu dài tới hơn 60 trang được đăng tải trên bưu-báo của hội Học-thuật Đông-Dương các năm 1942-1943. Ngoài ra lại còn có nhiều học-giả nước khác, trên đường tìm kiếm sự thật, đã và đang cố công nghiên-cứu đến những khả-năng, phương-tiện, hải-đạo... mà dân Việt đã dùng để đến Mỹ-Châu. Sau đây xin lược-kê một số nhỏ các việc làm đó: a - Những Vòng cung Ngôn-ngữ ghe thuyền. Để hỗ-trợ cho những giả-thuyết về di dân bằng ghe thuyền từ vùng Đông-Nam-Á đi ra khắp nơi, người ta thường xem xét đến cách gọi tên ghe thuyền làm bằng-chứng: (1) Tiếng "Bè" Đi theo âm "Bè" hay "Mảng", ta thấy người Tàu ngày nay sống trong lãnh-thổ của Cổ Việt kêu "B'ai", "Palsam"; thổ-dân Đài-Loan gọi là "P'ai", người Đại-hàn kêu "Palson", dân Polynesia gọi là "Paepae", người Ecuador kêu "Balsa", người Brazil gọi là "Jangada". Tài-liệu với chi-tiết về ngôn-ngữ này được trình-bày bởi Ling Shun-Shêng vào năm 1956€. Thổ-dân duyên-hải Tây-Bá-Lợi-Á kêu thuyền độc-mộc thông-dụng trong vùng là "Baidars", người Eskimo gọi là "Umiaks", dân quần-đảo Salomon kêu loại ghe bản-xứ của họ là "Mon". (2) Tiếng "Ghe" Sau đây ta xét tiếp đến tiếng "Ghe". Stephen C Jett€ lấy thêm tài-liệu từ Ling,€: 1956: 47 và Thompson€ 1950: 73) cho biết thổ-dân các nơi gọi như sau: "Banga" ở Đài-Loan, "Banca" ở Phi-Luật-Tân, "Pongayi" ở Nam-„n, "Pongo" ở Oaxaca, Mễ-Tây-Cơ; "Bongo" ở Panama, "Panga" ở vùng duyên-hải xứ Colombia. Theo đó, ta nhận ra rằng âm-hưởng "Ghe" tìm ra ở khắp hai đại-dương, tới cả Bắc, Trung và Nam Mỹ-Châu. Ngoài tiếng "bè", tiếng "ghe" ra, âm-hưởng những ngôn-ngữ hàng-hải khác cũng mang những dấu-vết tương-đồng như cây "lui-hạ", người Nam-Mỹ kêu là "Guara", "nước" họ gọi là "Unu" còn "khoảng xa" thì được kêu là "Kora". Những con đường biển người xưa sử-dụng đến nay còn ghi lại các dấu vết trên sinh-hoạt của thổ-dân. Bản-đồ thế-giới về hàng-hải cổ-thời rõ ràng cho thấy đã có một vòng cung liên-tục ghi những dấu-tích phát-triển đủ loại thuyền-bè đi từ Việt-Nam qua Đài-loan lên Bắc Thái-bình-Dương (Kayak, Umiak) qua vùng Đông-Bắc Mỹ, California (Dug-out, Canoe), Trung-Mỹ, Nam-Mỹ (Balsa). Hình thuyền thân cong, Mái nhà cong và Totem được tìm thấy trên khắp vòng cung Thái-Bình-Dương trong cổ thời. (Hình lấy từ bản-đồ của Covarrubias, 1940: thuyền thân cong, totem, nhà ở New Zealand và Bắc-Mỹ. Hình lấy từ sách "Nguồn gốc Mã-Lai của Dân-tộc Việt-Nam": mái nhà cong trên Trống Đông-Sơn, Thuyền và nhà của người Lạc-Việt.) Bên phía Đại-tây-Dương, những chuyến xuyên-dương có lẽ không nhiều lắm. Clinton Edwards đã không thấy những hình-ảnh tương-tự như vậy xuất-hiện. b- Dick Edgar Ibarra Grasso chứng-minh ảnh-hưởng Đông-Sơn lan tràn khắp các nơi ở Thái-Bình-Dương, rõ rệt qua Trung-Mỹ và Nam-Mỹ. Dick Edgar Ibarra Grasso bắt đầu viết rất nhiều sách kể từ thập-niên 1930 cho đến hồi gần đây. Vào những năm của thập-niên 1980, Grasso công-bố rất nhiều tài-liệu mới mẻ liên-hệ đến tầm ảnh-hưởng của văn-hoá Đông-Sơn trên đất Mỹ-Châu, làm sửng sốt các giới khoa-học. Trong cuốn sách ưng-ý nhất của ông, "America en la Prehistoria Mundial" (Mỹ-Châu trong Thế-giới Tiền-sử), Grasso đưa ra quan-niệm dứt khoát là không thể có sự cô-lập ở Mỹ-Châu, tôi (lời Grasso) cho rằng những người chấp-nhận lý-thuyết văn-minh biệt-lập là điên, không biết lý-lẽ. Sách gồm 6 chương thì có tới hai chương chú-tâm bàn-luận đến ảnh-hưởng Đông-Nam-Á trên đất Mỹ-Châu. Chương I bàn tới các liên-hệ văn-hoá xuyên-dương mà Đông-Sơn là một nguồn chính. Đến chương IV, Grasso đưa ra hai giả-thuyết về: (1)- Những thương-nhân Cattigara (tiếng gọi hải-cảng cổ xưa ở Bắc Việt-Nam thời Đông-Sơn) đã mang kỹ-thuật luyện-kim, nhất là đồng và vàng, tới Nam-Mỹ. (2)- Phải có nhiều di-dân đến Tân-thế-giới bằng cách dùng hải-lộ xuyên Thái-Bình-Dương. Đã có nhiều nhà nghiên-cứu viết tiếng Tây-Ban-Nha phát-biểu cùng ý-kiến với Grasso. Học-giả Pedro Bosch Gimpera cho rằng nền văn-minh Đông-Sơn đã mang lại những hiểu-biết về kỹ-thuật luyện-kim cho vùng Chavin ở Peru. c- Edwin Doran tìm ra những ảnh-hưởng kiến-trúc ghe thuyền Việt ra Đại-Dương-Châu. Người Việt có mặt tại Úc, tại Tân-Tây-Lan, cũng truyền-bá ảnh-hưởng kỹ-thuật ghe thuyền ra Đại-Dương-Châu. Edwin Doran, Jr. , một chuyên-gia về ghe thuyền thế-giới, cho rằng nguyên-thủy của loại thuyền nhiều thân rải rác khắp Thái-Bình-Dương và cũng thấy ở „n-Độ-Dương có lẽ phát-xuất từ Việt-Nam. Doran rất nổi tiếng nhờ đã khám-phá ra nhiều hiểu-biết mới lạ về khả-năng vượt đại-dương của bè và ghe nhỏ. Ông và Stephen Jett đồng-ý với nhau là liên-lạc giao-tiếp xảy ra trước nhất giữa Á và Mỹ-Châu có thể qua phương-tiện là những chiếc bè chạy buồm có gắn cây xiếm như thường thấy ở Trung-phần Việt-Nam và Đài-Loan. d- Robert Von Heine-Geldern trong suốt một phần tư thế-kỷ kể từ 1939, đã viết rất nhiều về giao-tiếp Á-Mỹ. Ông liệt-kê thành hệ-thống những điểm tương-đồng, lưu-tâm khá nhiều đến nền văn-minh Đông-Sơn. Ông cho rằng những dân đi biển ở Đông-Á tới Mỹ-Châu trước hết, người „n nhờ học hỏi kinh-nghiệm người đi trước, cũng vượt Thái-Bình-Dương đến sau. Tàu thuyền Đông-Nam-Á và „n-Độ có thể cũng hải-hành về hướng Tây, vượt cả Đại-Tây-Dương tới Mỹ một cách ngẫu-nhiên. e- Kuno Knobl, một phóng-viên Đức làm cho Đài truyền-hình Úc, sau khi thấy "chùm giây buộc nút" (knotted cords - kết-thằng) trong viện Bảo-tàng ở Huế giống y hệt loại Quipu của Peru, nhìn nhận ra rằng đã có sự giao-tiếp trực-tiếp giữa hai nơi. Để chứng-minh niềm tin của mình là đứng đắn, Knobl đứng ra quyên góp tiền bạc, đóng thuyền buồm theo kiểu cổ-thời Đế-quốc Nam-Việt với thủy-thủ-đoàn 8 người từ Hồng-Kông đi Mỹ-Châu. Con hà (teredo), một loại sâu gỗ thân mềm, đục thủng ván gỗ làm hư hỏng vỏ thuyền trước khi tới bờ biển Mỹ-Châu, phải nhờ thương-thuyền cứu giúp. Sách viết bằng Đức-ngữ, nhan-đề "Thái-Cực", bản dịch Anh-ngữ: Tai-Ki, Journey to the Point of No Return. f- Tiến-sĩ Gunnar Thompson sáng lập Nu-Sun institute, cũng dự-trù thiết-lập một bảo-tàng-viện về viễn-dương, một trung-tâm nghiên-cứu về một Thái-Bình-Dương hoà-bình và một tờ báo định-kỳ, xuất-bản mỗi ba tháng. Sẽ có một chuyến hải-hành hoà-bình tưởng-niệm những lần Nu-Sun vượt Thái-Bình-Dương. Cuộc đi này sẽ dùng tàu thuyền kiểu Á-Đông, khởi-hành từ Đông-Dương qua Nhật, Tây-Bá-Lợi-Á, Gia-Nã-Đại, Hoa-Kỳ, Mễ-Tây-Cơ, El Salvador, Guatemala, Nicaragua và trở lại, qua ngả Polynesia. Thompson viết sách "Nu-Sun, Asian-American Voyages 500 B.C.", tin-tưởng rằng người Á-Đông, lãnh-đạo bởi những nhân-vật huyền-thoại như Đô-Đốc Nu-Sun (Nguyễn-Sơn), đã hải-hành tới Guatemala và Honduras khởi-sự từ năm 500 TTL, thiết-lập một thuộc-địa thương-mại giữa dân bộ-lạc Maya, họ sống thật hoà-hợp và giúp phát-triển nền văn-minh ở Tân-thế-giới. Công-trình biên-khảo của tác-giả rất công-phu, đặc-biệt cung-cấp nhiều hình vẽ chi-tiết, trải dài khắp cả cuốn sách, chứng-minh hùng-hồn sự thật hiển-nhiên về giao-tiếp Á-Mỹ. Truyền-thống hàng-hải Cổ Việt, văn-minh Đông-Sơn được đề-cập đến rất nhiều. Theo Thompson€, con đường hàng-hải Á-Mỹ mà cổ-nhân sử-dụng trên Thái-Bình-Dương là theo chiều kim đồng-hồ, với dòng nước và gió mùa rất thuận-lợi cho các tàu thuyền buôn bán qua lại suốt thời-gian dài nhiều ngàn năm. g- Tim Severin vượt biển với bè Sầm-Sơn Vì thán-phục học-thuyết "xuyên-dương" của Joseph Needham, Tim Severin đã quyết-tâm minh-chứng rằng người Á-châu đã tới Mỹ nhiều ngàn năm trước đây. Nhà văn Ái-Nhĩ-Lan này rất ưa thích việc khảo-cứu hàng-hải. Chiếc bè của Severin được đóng tại Sầm-Sơn (Thanh-Hoá, Việt-Nam) gồm có 220 cây luồng buộc lại với nhau bằng những giây leo trong rừng dài tới 46km, đặc-biệt không dùng đến một chiếc đinh nào bằng kim-loại. Thủy-thủ-đoàn gồm có 5 người, trong đó có một người Việt-Nam, đã lái chiếc bè này bằng cách điều-chỉnh độ nông sâu của 10 chiếc xiếm. Họ đã hải-hành qua 5,500 hải-lý, tức là gần hết hải-trình xuyên Thái-Bình-Dương 6,500 hải-lý thì chiếc bè bị bể. Tim Severin vượt biển từ Sầm-Sơn (ghé Hồng-Kông) tới Mỹ với bè Sầm-Sơn 14 - Càng đi xa, càng thêm nhớ quê-hương đậm đà. Người Việt yêu nước, yêu dân thật đậm đà. Tình yêu quê-hương đã buộc chặt đời họ vào làng nước. Paul Mus ví sự thống-nhất của dân-tộc Việt như một sợi dây xích. Người Việt thuở xa xưa sống đời hải-hồ, cũng thương yêu đồng-bào của họ không kém. Chúng tôi dịch thoát ý một đoạn văn kể chuyện trong sách Nam-Hoa-Kinh của Trang-Tử (thế-kỷ thứ 4 TTL.) để làm chứng. Phần trích-dẫn này là lời của một vị Đạo-gia nói với Ngô-Công nước Nguỵ: "Ngài đã từng nghe người ta kể chuyện về giống dân Việt chuyên đi giang-hồ nay đây mai đó hay không? Khi người Việt xa quê-hương nhiều ngày, họ vui khi nhìn thấy người thân. Khi họ xa quê-hương nhiều tuần nhiều tháng, họ sung sướng khi gặp được người đã từng gặp gỡ một lần ở quê nhà. Nhưng thời-gian cứ trôi qua, khi xa quê-hương suốt cả năm dài, họ hân-hoan tột độ cho dù chỉ gặp được một người nào đó trông hơi giống như người bản-xứ của họ. Càng xa nhà càng lâu, giống dân Việt này lại càng nhung nhớ, càng có lòng thân-ái với đồng-bào của họ hơn. Thưa Ngài, chuyện thật như vậy đó !" Nhân khi kể câu chuyện này, Needham và các đồng tác-giả pho sách "Science and Civilisation in China" muốn đưa ra như một chứng cớ là người Việt vào thời Chiến-quốc (403-256 TTL.) đã xây dựng được cả một hệ-thống gồm nhiều hải-trình viễn-thương. 15- Tị-nạn Việt từng xuyên-dương hàng ngàn năm trước Nhiều nhà nghiên-cứu đã mang ra ánh-sáng những ý-kiến mới mẻ về sự hiện-diện của di-dân nói chung và tị-nạn Việt nói riêng trên đất Mỹ-châu từ nhiều ngàn năm qua. Một số tài-liệu điển-hình như sau : (1)- Arnold Channing và Frederick J. Tabor Frost cho rằng các phế-tích Mayan cũng cổ như các phế-tích ở Ai-Cập. Các kiến-trúc-sư đầu-tiên là những Phật-tử di-dân từ Bán-đảo Hoa-„n và Nam-Dương đến Trung-Mỹ bằng tầu, mỗi chiếc chở được hai hay ba trăm người. Trong khu-vực 150 dậm Anh gần Copan, những công-trình điêu-khắc mang nặng các nét thuần-túy Đông-Dương. (2)- Joseph Campbell họa bản-đồ đường di-dân từ Đông-Á qua Mỹ châu ngang quần-đảo Aleutian, Alaska, Bắc, Trung và Nam-Mỹ tới Ecuador. Ông quả-quyết có nhiều chứng-cớ hiển-nhiên không chối cãi được là những người Đông-Á, trong đó có Bắc Việt-Nam, Cambodia, Tàu, Nhật đã khởi-sự di-cư sang Mỹ từ thời Cựu-thạch, khoảng 3,000 năm TTL. (3)- William Henry Holmes phát-biểu sự đồng-ý với lý-luận của nhiều học-giả khác mà ông nhắc đến làm dẫn-chứng rằng: di-dân Á-châu chiếm hầu hết thành-phần di-dân đến Mỹ-châu. Tuy vậy, Holmes nói rằng ta không nên bỏ qua sự khả-hữu của các di-dân khác thuộc giống Bạch-chủng, Đa-đảo và cả Hắc-chủng nữa. (4)- Stephen C. Jett, ngoài sự trình-bầy những nét tương-đồng ĐNÁ - Nam-Mỹ về nhiều phương-diện mà ông lập thành hệ-thống chặt chẽ, lại còn đưa ra sự so-sánh về các yếu-tố nhân-hình của giống người Mã-lai và dân Nam-Mỹ. Jett đề-nghị có thêm thử-nghiệm cho giả-thuyết về sự di-dân ngang qua Thái-Bình-Dương. Trong khi chờ đợi có thêm chứng-cớ hiển-nhiên khác nữa, ông nhận rằng chỉ có các cuộc di-dân như vậy mới là cách giải-thích có thể chấp-nhận được về những sự giống nhau như in hệt bao gồm cả các lãnh-vực chủng-tộc, văn-hóa, thảo-mộc giữa Mỹ-châu nhiệt-đới và vùng Mã-lai. Theo những tài-liệu xuất-bản hồi gần đây, nguồn gốc dân-tộc ta dính liền với giống Mã-lai nên những yếu-tố về nhân-hình như chiều cao tầm-thước, sọ ngắn, loại máu O ... mà Jett đưa ra so-sánh, cũng rất sát với đặc-điểm của người Việt chúng ta. Riêng mầu da, mái tóc; những đồng-bào ta sống ở núi rừng, đồng ruộng, đời sống lam lũ, dầm mưa giãi nắng quanh năm, qua nhiều thế-hệ cũng có người ngả sang mầu nâu, hung đỏ gần như mầu da thổ-dân Mỹ-châu. (5)- Rafique Ali Jairazbhoy đưa ra chứng-cớ về di-dân từ khu-vực của Trung-Hoa và Ai-Cập đã đóng góp cho nền văn-minh Mỹ-châu. Ông có một nhận xét rất đặc-biệt rằng ảnh-hưởng của văn-minh Trung-Hoa không thực-sự sâu đậm nhưng bàng bạc khắp nơi trong mọi lãnh-vực của đời sống Mỹ-châu. (6)- Paul Shao, học-giả gốc Trung-Hoa, trình bầy trên quan-điểm nghệ-thuật cổ-thời, sinh-hoạt Á-Đông và Mỹ-châu có thật nhiều sự tương-đồng sâu-sắc, cả đến trong các lãnh-vực triết-lý, tôn-giáo. Theo Paul Shao, tuy có văn-minh Trung-Hoa trên đất Mỹ nhưng những di-dân Á-Đông mang văn-minh đi truyền-bá phần lớn lại không phải người Trung-hoa thuần-túy mà là các giống dân khác như Đông-Di, Nam-Man... Shao là một trong số các tác-giả hiếm hoi đưa ra đề-nghị nghiên-cứu kỹ-lưỡng vai trò khai-phá Mỹ-châu của tị-nạn Việt chúng ta, đặc-biệt là các "thuyền-nhân" trốn chạy ngoại-xâm. Nhiều biến-cố trong cổ-sử Á-Đông được ông mang ra phân-tích và bàn nhiều đến những đợt sóng tị-nạn vượt thoát ra Biển Đông từ 4,000 năm xưa. Theo sử Trung-Hoa, địa-bàn sinh-hoạt của người Bách-Việt trải dài từ Ngô-Việt (bán-đảo Sơn-Đông) tới Việt-Thường (Huế). Bản-đồ lấy trong sách "China's March Towards the Tropics", Harold J. Wiens, Conn, 1954. (7)- Oswald Menghin dành thì-giờ viết nhiều về thuyền-nhân vượt biển từ Á qua Mỹ, khá nhiều chi-tiết liên-hệ đến văn-minh Đông-Sơn. Theo Menghin, đã có nhiều đợt di-dân bằng đường biển khắp nơi. Riêng những người di-cư từ Đông-Dương và Hoa-Nam đã tới Mỹ bằng nhiều đợt, kéo dài trong suốt khoảng thời-gian từ 3,000 năm TTL cho đến năm 1,000. 8- Grafton Elliot Smith nhận ra rằng văn-minh Mỹ-châu trước thời Kha-luân-Bố không hoàn-toàn có tính-cách bản-xứ mà phần chính còn được gây cảm-hứng từ những di-dân vượt Thái-bình-Dương suốt trong mười hai thế-kỷ sau khi Thiên-chúa giáng-sinh và có lẽ 2 hay 3 thế-kỷ trước đó nữa. Smith viết nơi các trang 117-129: "Những sự hiển-nhiên chỉ-dấu cho biết Đông-Dương là nguồn cảm-hứng chính cho văn-minh Maya"€. Ông chú-tâm đến bán-đảo Hoa-„n mà ông cho rằng việc nghiên-cứu vùng Đông-Dương cần-thiết hơn là hướng nỗ-lực đó qua phía „n-Độ. 16- Kiến-thức giúp các nhà Mỹ-Châu-Học. Tân thế-giới Mỹ-châu là lục-địa cô-lập, hoàn toàn bị ngăn cách với Cựu thế-giới bằng các đại-dương. Vì giao-tiếp văn-hoá giữa hai nơi chỉ có thể thực-hiện được bằng đường biển nên người ta cần tìm hiểu kỹ-thuật kiến-trúc ghe thuyền. Đó là lý-do thúc đẩy những nhà xuất-bản cho in các sách nghiên-cứu mới và tái-bản những sách cũ mà tài-liệu liên-hệ đến nền hàng-hải cổ-thời của Việt-Nam chúng ta. Khi phát-hành sách của Pierre Paris, Cơ sở xuất-bản của Museum voor Land- en Volkenkunde en Maritiem Museum -Prins Hendrik kể trên cũng góp ý trong phần Avant-Propos rằng thuyền bè từ Đông-Á và Đông-Nam-Á đã hải-hành qua lại Mỹ-Châu trong khoảng từ năm 1,000 TTL. đến năm 1,200. Trong lúc nghiên-cứu về liên-hệ nghệ-thuật giữa Á-Đông và Mỹ-Châu, một số học-giả Âu-Mỹ đã thắc mắc tại-sao các ảnh-hưởng nghệ-thuật khởi sự nhiều ngàn năm TTL. lại đột ngột chấm dứt vào khoảng năm 1,000 như trường-hợp Oswald Menghin phát-biểu ở trên. Các nhà khảo-cổ tên tuổi như Robert Heine-Geldern, Gordon F. Ekholm, Gordon R. Willey khi khảo-sát văn-minh cổ Trung-Mỹ cũng có những nghi-vấn tương-tự. Dựa vào sử Trung-Hoa và Việt-Nam, người tị-nạn Việt-Nam như chúng ta có thể tìm kiếm ra được những câu trả lời hữu-lý như sau: - Những đợt di-tản của người Bách-Việt khởi sự vào thời người Tàu bắt đầu bành-trướng (2 thiên-kỷ TTL.) - Người Việt trốn chạy bằng đường biển, đã mang ảnh-hưởng văn-hoá Á-Đông đi khắp nơi, đặc-biệt có những nhóm tới cả Mỹ-Châu. - Người Việt tiếp-tục ra đi vì người Tàu cai-trị dân ta một cách tàn ác. - Di-cư chỉ ngưng lại khi người Việt-Nam đạt được mộng-ước tự-trị ở vùng châu-thổ sông Hồng, sông Mã vào thế-kỷ thứ 10. Khi không có người ra đi, ảnh-hưởng văn-hoá nghệ-thuật sang Mỹ-Châu đương-nhiên cũng chấm dứt. Vì cơn quốc-biến, người Việt đành chấp nhận phải giang-hồ xa quê-hương. Nhưng tinh-thần yêu nước và quyết sống chết vì quê-hương của dân Việt-Nam sau khi quốc-gia dành được độc-lập lại thật là cao. Joseph Buttinger xác-nhận trong giai-đoạn 1000-1500 không có một người Việt-Nam nào đành lòng rời xa gia-đình, làng mạc quê-hương mà theo giấc mơ đi tìm đất lạ. 17 - Những hải-lộ của di-dân thời Hậu Băng Đá. Thủy-vận là yếu-tố thiết-yếu cho nền văn-minh nhân-loại. Âu Á xem ra khó gặp gỡ nhau, nếu không nhờ những cánh buồm no gió. Và ... nếu không có bánh lái gắn vào đuôi tàu thuyền, Mỹ-Châu có thể vẫn còn là lục-địa xa lạ đối với nhân-loại sinh sống tại Cựu lục-địa. Tuy vậy còn có nhiều khía-cạnh quan-trọng hơn nữa về việc chuyển-vận trên biển, đặc-biệt ngay trong buổi bình-minh của văn-minh nhân-loại. Năm 1944, R. Buckminster Fuller cho ra mắt một tập tài-liệu nhan-đề 'Fluid Geography' căn cứ vào những quan-sát và kinh-nghiệm của nhiều năm lái thuyền buồm. Fuller tuyên-bố đã khám-phá ra những hải-lộ con người từng sử-dụng hàng chục ngàn năm trước. Những kết-quả nghiên-cứu này xem như rất lạ vào thời đó và vẫn còn được coi là mới đến hôm nay. Theo Fuller, Đông-Nam-Á là trung-tâm truyền-bá văn-minh vào thời Hậu Băng-Đá. Vào cuối thời Băng Đá, nước biển dâng lên, đồng bằng Sunda bị ngập lụt. Theo Meacham, dân-cư những vùng thấp chạy lên những vùng đất cao hơn. Dân Việt theo các dòng Hồng-Hà, Tây-Giang,Dương-Tử lập-nghiệp tại vùng Đông-Á. (Hình vẽ lấy trong sách Naga). Theo Buckminster Fuller, làn sóng di-dân cũng đã dùng thuyền bè đi xa tới các đảo Thái-Bình-Dương, phía Tây qua tận Phi-Châu Tóm tắt các hải-lộ di-dân của Fuller như sau: - Thế-hệ đầu tiên của người đi biển Đông-Nam-Á, dùng bè thả trôi từ Biển Đông theo những dòng hải-lưu đi dọc bờ biển đến những nơi thuận-tiện trong vùng. - Thế-hệ thứ hai biết dùng buồm vuông loại căn-bản chạy xuôi theo mùa gió Tây-Nam vào mùa Hạ và Đông-Bắc vào mùa Đông, đổ-bộ sang bờ biển Trung-Hoa và các đảo Nhật-Bản. - Thế-hệ sau nữa, khi biết dùng buồm chạy vát có khả-năng đi ngược chiều gió để hải-hành đi khắp nơi. Trong giai-đoạn này, các loại thuyền hai thân hay có thân phụ outriggers ra đời. Người Đông-Nam-Á mở ra những hải-lộ đi các nơi trên hai đại-dương „n-Độ và Thái-Bình. Trên „n-Độ-Dương, người Đông-Nam-Á đã đi hết con đường cho đến tận biển Ba-Tư và Địa-Trung-Hải. Với cách lý-luận này, Fuller đi đến những kết-luận mới lạ và dễ dàng thuyết-phục mọi người như sau: - Những hải-lộ di-dân mang lại một hệ-quả: ta thấy ngày nay mật-độ dân-cư của thế-giới không được phân-phối đồng đều. Bờ nước châu Á tập-trung tới 54 phần trăm nhân-loại mặc-dù chỉ chiếm có 5 phần trăm diện-tích địa-cầu. - Ngoài khu-vực "bờ nước châu Á", phần còn lại của nhân-loại rất thưa thớt, sinh sống rải rác và xa cách nhau. Căn-cứ trên những hải-lộ chuyển-vận và mật-dộ dân-cư, Fuller kết-luận rằng văn-minh Bắc Á, Âu-Châu và Mỹ-Châu chỉ tương-đối xảy ra mới đây. Thuyết Buckminster Fuller về Hải-lộ phân-tán dân-cư: Khi nước biển dâng cao, từ Biển Đông di-dân đi ra khắp nơi theo các giai-đoạn phát-minh thuyền bè, buồm, xiếm... - Dân-số và tầm quan-trọng của Bách-Việt thời cổ Địa-bàn dân Bách-Việt thời cổ không những bao bọc tới gần 40 phần trăm vùng "bờ nước châu Á" mà lại chiếm trọn khu-vực thuận-hảo nhất cho sự sinh-hoạt. Nếu thuyết Fuller chính-xác, nó cũng đưa đến các hệ-quả hiển-nhiên như sau: - Bách-Việt một chủng-loại tương-đối đồng nhất có thể cũng là chủng đông đảo nhất nhân-loại trong các thiên-kỷ thứ 3 hay thứ 4 TTL. Ước-tính theo tỷ-lệ Fuller, Việt-chủng có thể chiếm đến khoảng 15-20% nhân-số thế-giới. Hỗ-trợ cho thuyết này, thống-kê thời nhà Hán cho thấy đã có cả triệu người tại châu-thổ sông Hồng (lúc đó còn hẹp) vào đầu công-nguyên. Bản-đồ của Fuller chứng-minh sự liên-hệ giữa nguồn-gốc văn-minh, di-dân và mật-độ nhân-số. Lưu-ý địa-bàn rộng lớn và quan-trọng của Cổ-Việt trong vùng "bờ nước Châu-Á" (Sách Naga) - Biển Đông của Việt-Nam là chiếc động-cơ một thời đã đẩy đưa cái nôi văn-minh loài người. - Giống Việt có lẽ nắm vai trò độc-bá hàng-hải. Căn-cứ trên sử-liệu thời-kỳ đó, người Á-Rập và „n-Độ chưa xuất-hiện trên biển. Hỗ-trợ cho thuyết này là thuyết của Paul Rivet .Nhà ngôn-ngữ-học này có lẽ là học-giả kiên-trì nhất trong việc cố gắng thuyết-phục mọi người hãy tin-tưởng nơi chứng-cớ ngôn-ngữ khi muốn đi tìm sự thực về mối giao-tiếp giữa Cựu và Tân-thế-giới. Nhóm quan-trọng nhất trong các ngôn-ngữ Đông-Nam-Á là Mon-Khmer/ Việt-Nam đã được truyền-bá đi bằng đường hàng-hải đến Nhật-Bản, Tasmania, Địa-trung-Hải, Phi-Châu và Mỹ-Châu. Trong những công-trình nghiên-cứu của Rivet, người ta lưu-tâm tới một khám-phá hoàn-toàn mới lạ về tầm quan-hệ mật-thiết giữa ngôn-ngữ và hàng-hải. Sau khi minh-chứng rằng có nhiều giống dân đã "khám-phá" Mỹ-Châu trước Kha-luân-Bố, Rivet căn-cứ vào phương-pháp từ-nguyên ngữ-học để đưa ra thuyết sau đây: "Từ trung-tâm vùng Đông-Nam-Á, một thứ ngôn-ngữ được truyền-bá đi bằng đường hàng-hải đến khắp nơi như Nhật-Bản, Tasmania, Địa-trung-Hải, Phi-Châu và Mỹ-Châu". Cuốn sách này lấy những từ-ngữ Sumérien làm mốc rồi tìm một chuỗi danh-từ tương-đương của các thứ tiếng Melanesian, Polynesian, Indonesian, Munda, Mon-Khmer, Australian, Tasmanian và Ainu để so sánh và đi đến kết-luận rằng Đông-Nam-Á chính là nơi xuất-xứ những chuỗi từ-ngữ đó.€ 19 - Nhớ về các chuyến vạn-lý xuyên-dương Mang tâm-trạng một thuyền-nhân xa xứ nhớ tới những ngày xuân của tiền-nhân nơi đất khách trong các chuyến hải-hành vạn-lý xuyên-dương đã bị đời quên lãng, chúng tôi xin chép lại đây những thành-tích lẫy lừng của tổ-tiên dân Việt ta và cũng là những anh-hùng biển cả ngày xưa. Tuy vậy bài viết này, như đã được trình-bày kèm theo với nhiều dẫn-chứng, không phải là chuyện giả-tưởng. Chúng ta đồng-ý với học-giả Buckminster Fuller trong câu phát-biểu có tính-chất triết-lý của Ông như sau: những dân-tộc Đông-Nam-Á (trong đó thành-phần cốt cán là dân Việt-Nam) đứng biệt-lập với những giống dân khác vì họ được thiên-nhiên ban-phát cho cái bản-năng của loại dân nước, dân thuyền. Họ đã từng nắm được chân-lý về sự kết-hợp nhẹ nhàng trong các kiến-trúc (principle of lightweight structural tensioning) áp-dụng vào đời sống. Đi theo quan-niệm của Buckminster Fuller, chúng ta cũng như Ông, cùng mong rằng vì sự sống còn của nhân-loại trong tương-lai, con người nên noi theo chân-lý "nước" đó mà tiết-kiệm vật-liệu, năng-lượng v.v... Dịện-tích "lục-địa" Đông-Nam-Á thời Băng Đá rộng lớn hơn toàn-thể nước Trung-Hoa hiện-thời (9,561,000km2 tức 3,691,521 dậm vuông) hay hai lần lớn hơn Âu-Châu (1,905,000 dậm vuông). Nền văn-học dân-tộc, theo đúng nghiã phải phản- ảnh các sinh-hoạt của dân-tộc ấy. Tuy vậy văn-học nước ta đã có một khoảng trống quá lớn về Hàng-hải. Ngày xưa, nền văn-hoá "Nước" tiền-tiến của nhân-loại đã khởi-sự tại vùng quê-hương chúng ta. Cho đến nay, sinh-hoạt sông biển vẫn tiếp-tục quan-trọng biết là nhường nào. Thế nhưng, văn-học đã vô-tình lãng quên. Triết-lý sống của dân-tộc chúng ta thật là cao và đã có sẵn. Theo một số học-giả đương-thời, người Việt là giống dân-cư bản-địa tại vùng Biển Đông với nền "Văn-hoá Nước". Xin hãy ngưng việc tìm kiếm những thuyết "hão-huyền" nào đó ở Tàu, ở Tây... Và cũng đã đến lúc chúng ta không còn thể đọc tiền-sử của Việt-Nam một cách lầm lẫn, để lạc mất quá-khứ và nguồn gốc dân-tộc. Cho dù bài này không thuyết-phục hoàn toàn được độc-giả theo ý người viết, chúng tôi luôn luôn giữ vững niềm tin-tưởng rằng với các chứng-liệu mỗi ngày mỗi nhiều thêm, rồi ra sẽ có những người viết khác chứng-minh sự thực. Vũ-Hữu-San Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 9, 2016 KATTIGARA - KINH ĐÔ HUYỀN THOẠI VIỆT Hà Hữu Nga (Viện Phát triển Bền vững Bắc Bộ - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) Kattigara - Kinh đô Ba con sông - Hạc Thành, giống như một cuốn phim, không phải ngẫu nhiên đã được Marinus, Ptolemy và những bộ óc vĩ đại khác của thế giới Hy - La ghi lại như để dành tặng riêng cho người Việt. Không phải ngẫu nhiên, vì chính bản thân Lạc Việt - Phong Châu - Kinh đô Ba con sông - Hạc Thành đã một thời tỏa rạng bên bờ biển Đông. Giống như một định mệnh, cái tên Kattigara đã từng một thời thân quen như máu thịt đã vang lên lần cuối đến tận trời Tây của Ptolemy và các tiền bối của ông, để rồi khuất lấp vào dĩ vãng và sống dưới dạng các mảnh vụn huyền thoại. Cái thời đó tưởng đã lùi xa, tưởng đã bị vùi lấp trong thẳm sâu quá khứ, nhưng giống hệt một chân lý, và đó chính là chân lý - những gì là giá trị thực thì sẽ vĩnh viễn tồn tại cùng con người. Kattigara là một chân lý như vậy. Trong thời gian Alexander Đại đế (365-323 TCN) mở một loạt chiến dịch lớn tiến về phương Đông, đánh bại Đế quốc Ba Tư vào năm 334 TCN, chinh phục Ai Cập năm 332-331 TCN, và thiết lập nền cai trị tại Ấn Độ vào năm 326 TCN thì vùng đất sau này được gọi là China (Đất Tần - Trung Quốc) chưa có nước Chin (Tần), còn người Hy Lạp thì thực sự bắt đầu quan tâm đến các Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) ở Phương Đông theo đường biển. Các bộ óc lớn nhất của thế giới Hy Lạp – La Mã cổ đại như Erathostenes (276-194 TCN), Hipparchus (190-120 TCN), Strabo (63 TCN - 24 SCN), Marinus (70-130 SCN), và đặc biệt là Ptolemy đã kế tiếp nhau xây dựng bản đồ thế giới, xác định vị trí của các đất nước, các đô thị quan trọng nhất trên trái đất, trong đó có Kattigara, một địa danh được cho là thuộc cực đông của thế giới theo quan niệm Hy Lạp cổ đại. Trong khoảng 2000 năm nay biết bao nhiêu công sức, trí tuệ, khát vọng và cả sinh mạng người đã được đánh đổi để mong tìm ra vị trí chính xác của cái đô thị đầy duyên nợ ấy, nhưng dường như Kattigara vẫn còn là một ẩn số lớn đối với người đời. Ptolemy (90-168 SCN) Sách Địa lý học của Ptolemy(bản in 1535) Ptolemy (90-168 SCN) là một học giả cổ đại nổi tiếng, mang họ Hy Lạp sống ở thành phố Alexandria. Tên đầy đủ của ông viết theo tiếng Hy Lạp là Κλαύδιος Πτολεμαῖος, còn theo tiếng Latin là Claudius Ptolemaeus, và chính cái tên này dường như lại cho thấy ông là một công dân La Mã. Ông nổi tiếng với tư cách là nhà thiên văn học, toán học, và đặc biệt là nhà địa lý học; Học thuyết Địa tâm gắn liền với tên tuổi ông đã thống trị thế giới cả ngàn năm dòng. Tập Địa lý học của ông gồm 8 cuốn, có ý nghĩa to lớn trong lĩnh vực nghiên cứu cổ bản đồ và địalý học nói chung. Cuốn thứ nhất phác thảo về các nguyên lý làm nền tảng để ông xây dựng tọa độ, xác định vị trí chính xác cho các vùng đất trên thế giới, còn các cuốn sách khác, về cơ bản là tập chỉ dẫn cho việc thể hiện thành bản đồ dựa trên các tính toán của ông. Tuy nhiên di sản của Ptolemy còn lại cho đến bây giờ lại là các bản đồ phục dựng vào thế kỷ XIV-XVI, dựa trên các dữ liệu trong tập Địa lý của ông. Giá trị của những bản đồ này đã được thẩm định một cách nghiêm nhặt và đã cho thấy một mức độ chính xác nhất định về các con số thể hiện các tọa độ và một số địa danh được mô tả, trong đó có đô thị cổ Kattigara trong công trình của Ptolemy. Trong số 8.000 địa danh được ông ghi chú và mô tả thì Kattigara là cái tên gắn liền với nhiều nhân vật lừng lẫy từ thời cổ đại, kể cả bản thân Ptolemy; các nhà thám hiểm vĩ đại thời trung đại: Cristoforo Colombo (1451-1506), Amerigo Vespucci (1454-1512), Fernand de Magellan (1480-1521); và các học giả danh tiếng thời hiện đại như Ferdinand von Richthofen (1833-1905), George Coedes (1886-1969), Édouard Chavannes (1865-1918), Louis Malleret (1901-1970) v.v...cùng với rất nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi khác của Đông Nam Á, và của Việt Nam. I. Kattigara và Thuyết địa tâm Hy Lạp cổ đạiThành phố Alexandria, nơi Ptolemy sinh sống vốn là một trung tâm tri thức cổ đại lớn nhất và nổi tiếng với thư viện Alexandria, do vua Ai Cập Ptolemy I Soter I (Πτολεμαῖος Σωτήρ, 367 – 283 TCN), là một dũng tướng thân tín nhất và là một trong 7 vệ sỹ của Alexandros Đại đế cho xây dựng. Ông cai trị Ai Cập từ năm 323 đến 283 TCN, và khoảng năm 305 TCN ông đã lấy tước hiệu Thần vương Pharaoh đặt cho mình, trong khi đó tước hiệu này chỉ sử dụng cho các vua Ai Cập cổ đại cho đến thiên niên kỷ II TCN mà thôi. Khoảng năm 290 TCN, Pharaoh Ptolemy I cho xây "Museion", trong đó có một đại học, một viện hàn lâm và thư viện Alexandria với khoảng 400.000 cuộn sách vào lúc khởi đầu. Thư viện chỉ thực sự hoạt động dưới thời vua kế tiếp là Ptolemy II Philadelphus (285-246 TCN) với 500.000 cuộn sách [Tarn, W.W. 1928]. Đời vua Ptolemy III Euergetes đã cho người đi khắp nơi mua sách hoặc mượn sách có đặt cọc rất lớn, có cuốn tới 15 talent vàng, sau đó không nhận lại tiền cọc mà đổi lấy sách cho thư viện [Erksine A. 1995: 38 – 48]. Theo sử gia Plutarch, người viết tiểu sử Caesar thì năm 48 TCN thư viện bị cháy trong cuộc tấn công của Julius Caesar vào Alexandria dưới thời trị vì của Ptolemy XIII. Sau này Marcus Antonius (83 – 30 TCN) lại lấy 200.000 cuộn sách tặng Cleopatra làm quà cưới, khiến cho thư viện ngày càng nghèo đi. Strabo (Στράβων, 64 TCN-24 SCN), nhà địa lý, lịch sử, triết học Hy Lạp cổ đại, tiền bối của Marinus và Ptolemy, đã từng làm việc tại thư viện Alexandria năm 23 TCN cũng ghi nhận điều đó, còn nhà triết học La Mã nổi tiếng Licius Annaeus Seneca (4 TCN-65 SCN) có nói đến 40.000 cuộn sách của thư viện Alexandria đã bị đốt cháy [Griffin, Miriam T. 1976]. Có thể thư viện Alexandria vẫn được duy trì cho đến khi phần lớn sách bị mất lúc hoàng đế La Mã Aurelius (270–275) chiếm Alexandria từ nữ hoàng Zenobia xứ Palmyra [El-Abbadi, Mostafa 1992]. Thành phố Alexandria (chữ màu vàng) trên bản đồ Ai-cập Sống trong bối cảnh tri thức của thành Alexandria như vậy, chắc chắn các tiền bối của Ptolemy, và chính bản thân ông đã có rất nhiều điều kiện để thu thập nhiều nguồn tư liệu địa lý trong thế giới cổ đại, cho dù đến thời ông thư viện Alexandria đã trải qua nhiều phen binh lửa. Điều đó chứng tỏ một thực tế là ông đã đưa vào công trình của mình hơn 8000 địa danh mà nhiều địa danh đối với ông, chắc chắn cũng mơ hồ như đối với chính những người tìm kiếm khác vậy. Một nghiên cứu so sánh của Strabo cho thấy phạm vi hiểu biết về phần thế giới chưa được biết đến còn mênh mông đến mức nào. Khối tri thức to lớn và cách mô tả rất cụ thể trong bộ Địa lý của Strabo đã tạo nền tảng vững chắc cho sự hiểu biết phần thế giới Địa Trung Hải, Tây Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Ba Tư và một phần Ấn Độ cho những người đi sau, trong đó có Ptolemy (Strabo 1917-1932). Các đoạn chú thích của Marinus chứa đựng nhiều dữ kiện đã được xây dựng dựa trên các ghi chép của các cuộc hành trình dài, các cuốn nhật ký hành trình chính thức, các tư liệu hành chính và cả các quan sát thiên văn của các nhà hàng hải và các thương nhân từ rất nhiều thế hệ khác nhau. Nhờ đức siêng năng và say mê đặc biệt với sự nghiệp địa lý học mà Ptolemy đã được thế giới cổ đại Hy La ngưỡng mộ. Nhà địa lý học Marcianus Heracleensis (thế kỷ IV) đã gọi ông là “nhà địa lý học cổ điển cuối cùng”. Cái tên Ptolemy gắn liền với học thuyết địa tâm ở giai đoạn đỉnh cao của nó. Với tư cách là một đặc thù tư duy Hy Lạp cổ đại, thuyết này cho rằng Trái đất là trung tâm của vũ trụ và Mặt trời cùng các thiên thể khác quay xung quanh nó. Hệ này được coi là hình mẫu tiêu chuẩn thời Hy Lạp cổ đại, kể từ Aristotle (384 BC – 322 BC) – thầy dạy của Alexandros Đại đế - cho đến Ptolemy cũng như đa số các triết gia Hy Lạp khác đều đồng thuận coi Mặt trời, Mặt Trăng, các vì sao là vệ tinh của Trái Đất. Mô hình địa tâm bắt đầu xuất hiện trong triết học và thiên văn Hy Lạp từ rất sớm. Có thể tìm thấy những dấu vết mô hình này trong triết học trước cả Socrates (469-399 TCN). Ngay từ thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên Anaximander (610 – 546 TCN) đã đưa ra một vũ trụ học với Trái đất như một mặt cắt của một hình trụ là trung tâm của vạn vật. Mặt trời, Mặt trăng và các hành tinh lồng trong những bánh xe vô hình quanh Trái Đất. Còn các môn đồ Pytagoras (khoảng 580-490 TCN) thì cho rằng Trái đất là một hình cầu, nhưng không phải ở trung tâm; họ tin rằng nó chuyển động quanh một ngọn lửa vĩnh cửu. Sau này các quan điểm đó được phối hợp với nhau, vì thế đa số những học giả Hy Lạp từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên đều nghĩ rằng Trái Đất là một hình cầu tại trung tâm vũ trụ [Dreyer J.L.E. 1953; Heath, Thomas 1913]. Trong thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, hai nhà triết học Hy Lạp có nhiều ảnh hưởng đã viết các tác phẩm dựa trên mô hình địa tâm. Đó là Platon (427-347 TCN) và học trò của mình, Aristotle. Theo Platon, Trái Đất hình cầu, và nằm ở trung tâm vũ trụ. Các ngôi sao và các hành tinh được gắn trên các mặt cầu quay quanh Trái đất, với thứ thự (từ trong ra ngoài): mặt trăng, mặt trời, sao Kim, sao Thủy, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ, các ngôi sao cố định. Plato miêu tả vũ trụ một cách thần bí, còn Eudoxus Cnidus (408-355 TCN) đồng thời với Platon thì cho rằng toàn bộ các hiện tượng thiên thể có thể được giải thích bằng một chuyển động tròn duy nhất. Aristotle đã thêm chi tiết vào hệ thống của Eudoxus. Trong hệ thống đã được phát triển đầy đủ của Aristotle, Trái đất hình cầu nằm ở trung tâm vũ trụ [Dreyer J.L.E. 1953; Evans, James 1998]. Dù những giáo lý căn bản của thuyết địa tâm Hy Lạp được hình thành từ thời Aristotle, các chi tiết về hệ của ông không phải là một tiêu chuẩn. Tăm tiếng này được dành cho Hệ Ptolemy, được nhà thiên văn học Ptolemy đưa ra vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Cuốn sách thiên văn học quan trọng của ông Almagest là thành quả cao nhất của công trình kéo dài hàng thế kỷ của các nhà thiên văn Hy Lạp; nó đã được chấp nhận trong suốt hơn một nghìn năm sau, được những người Châu Âu và các nhà thiên văn học Hồi giáo coi là mô hình vũ trụ chính xác. Vì ảnh hưởng của nó, hệ Ptolemy thỉnh thoảng được coi tương tự với mô hình địa tâm. Đó chính là một trong những cơ sở lý thuyết để Ptolemy sử dụng các công cụ toán học và vật lý áp dụng vào các khung tính toán địa lý của các tiền bối, kết hợp với việc phê phán các bậc tiền bối để xây dựng hệ thống kinh tuyến, vĩ tuyến và tính toán các tọa độ trên trái đất [Evans, James 1998.; Heath, Thomas 1913]. Một trong những tiền bối lỗi lạc nhất của Ptolemy là Eratosthenes làm việc tại thành phố Alexandria. Ngay từ rất sớm, ông đã sử dụng các phương pháp khoa học để tìm cách đo đạc trái đất. Khai thác tri thức và các ghi chép của rất nhiều người thuộc nhiều thời lưu tại thư viện, ông biết giữa trưa ngày 21 tháng 6, mặt trời lên đến thiên đỉnh tại Syene (Aswan) [thành phố ở khu vực thượng nguồn sông Nil của Ai Cập cổ đại], trong khi đó tại Alexandria bao giờ mặt trời cũng có bóng dài, nhờ đó ông tính được Syene thuộc về phía nam Alexandria. Dựa vào kết quả quan sát từ hai địa điểm cách xa nhau ấy ông đã tính được chu vi của trái đất là 250.000 stadium, tổng cộng là khoảng 28.700 dặm, thừa khoảng 15 phần trăm so với chu vi thực mà ngày nay khoa học tính được một cách chính xác. Và phương pháp đo đạc vĩ mô của ông đã trở thành một đóng góp lớn cho nhân loại. Tiếp theo Eratosthenes, Ptolemy còn có một tiền bối vĩ đại khác, đó là Hipparchus, xứ Nicea, người đã chia trái đất thành 3600 và mỗi độ cách nhau 70 dặm, tương đương với khoảng cách giữa hai kinh tuyến để tính toán. Các thuật ngữ kinh tuyến, vĩ tuyến là do ông xây dựng và sử dụng (Broorstin, Daniel J. 1983). Bản đồ thế giới của Ptolemy trong sách Địa lý học (bản phục chế bằng tay tk. XV) Trong các công trình của các học giả trước Ptolemy, trái đất được biết với các dữ liệu sau: chiều Đông Tây là 1800, còn chiều Bắc Nam là 900. Trong công trình Almagest ông muốn chia trái đất thành 4 phần bằng đường xích đạo và quỹ đạo kinh tuyến qua hai cực trái đất. Phần thế giới đã biết của Ptolemy thuộc vùng phía bắc, phương Bắc Nam được tính từ cực bắc đến đường xích đạo, còn phương Đông Tây được tính bằng đường quỹ đạo kinh tuyến, có khoảng cách là 1800, không nhiều hơn sự khác biệt của 12 giờ, mà mỗi giờ được tính là 150 giữa hai điểm của phần thế giới đã biết, tính theo số lần bị che lấp của mặt trăng tại bất cứ một điểm nào ở phần trái đất đã biết. Đối với ông, vùng con người sống được là các khu vực thuộc bắc xích đạo. Điểm cực bắc có vĩ độ 630 Bắc (vùng Thule), còn điểm cực Nam thuộc vĩ độ 16.5/120 Nam (vùng Aigisymba - Cặp tê giác và Mũi Prason). Vậy là từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Sinae (mà nhiều học giả sau này giả định là Trung Quốc) theo hướng Đông - Tây là 1800. Đó chính là các điểm giới hạn của bản đồ thế giới của ông. Trong ranh giới đó, ông cố gắng xác định một cách ổn định các dữ liệu địa lý mà ông thu thập được của các bậc tiền bối với các dữ liệu thiên văn của ông để xây dựng bản đồ. [Riley T. M. 1995, 232]. Bản đồ thế giới của Ptolemy trong sách Địa lý học (bản khắc của Johannes Schnitzer năm 1482) Ông tính toán sự khác biệt giữa các cuộc hành trình của các nhà hàng hải, các thương nhân đã được ghi chép và khoảng cách thật, tức là khoảng cách theo vĩ độ Bắc qua Thule (Vùng Bắc Âu) và vĩ độ Nam qua Aigisymba (Trung Phi) và Mũi Prason (Ven biển châu Phi) bằng các phương pháp tính thông thường. Còn cực Đông thì ông sử dụng Kattigara làm vĩ độ 1800., có nghĩa là Kattigara cũng thuộc vùng đất Sinae. Marinus đã khai thác số liệu được ghi chép nhiều lần của các thương nhân, các nhà hàng hải, nên đã tính được khoảng cách về phía Nam tính từ đường xích đạo là 24.680 stade (đơn vị tính chiều dài, số nhiều của từ stadium, mỗi stadium = 184m), trong đó 500 stade = 10 vĩ, vậy thì quãng đường 24.680 stade người lữ hành phải qua 490 vĩ Nam. Marinus cũng đã tính quãng đường từ Ptolemai ở Trogloditya đến Mũi Prason, thuộc đất Ethiopia, là 27.800 stade, 560 vĩ Nam. Theo Ptolemy thì các khoảng cách đó cho thấy Ethiopia ở vùng lạnh thuộc Nam Bán cầu, trong khoảng 500-550 vĩ Nam, vì vậy Tê giác không thể sống được ở đó. Không những thế, người Garamantes lại chính là người Ethiopia thì “các dữ liệu của Marinus sẽ trở thành trò cười cho vị vua ở đó”, vì làm sao mà một vị vua lại có thể sống xa thần dân của mình đến thế được. Hơn nữa lại còn phải tính đến sự tương thích về khí hậu, chủng tộc, động vật giữa các vùng tương ứng thuộc Bắc và Nam bán cầu. Trong khi đó những người Ethiopia da đen lại sống gần những người ở phía Nam Ai Cập, người Ethiopia sống giáp đường Xích đạo về phía nam, còn người Ai Cập lại sống giáp đường Xích Đạo về phía bắc, vì vậy theo Ptolemy, khoảng cách thực phải giảm đi một nửa so với con số của Marinus, còn 23.1/20 mà thôi. Ngoài ra Marinus cũng có các báo cáo về các cuộc hải trình giữa Aromata (Sừng Châu Phi) và Rhapta (thuộc bờ đông Châu Phi). Diogenes xứ Kunikos (Διογένης ὁ Κυνικός, 404-323 TCN) đã phải mất 25 ngày đi thuyền về phía nam để đến các nguồn sông Nile ở Mũi Rhapta. Vậy thì số liệu của Marinus rất vô lý, nên Ptolemy đều giảm đi một nửa. [Riley T. M. 1995, 233]. Trên cơ sở đó, Ptolemy đã coi việc giảm các số liệu của Marinus xuống còn một nửa là một nguyên tắc. Vì vậy đối với trường hợp Đông Tây, đương nhiên ông cũng áp dụng nguyên tắc này cho các khu vực thuộc phần thế giới đã biết. Marinus có các báo cáo về cuộc hành trình từ Hierapolis tại Euphrates (Syria) đến Tháp đá thuộc “ranh giới phía tây của Sinae” là 26.280 stade, và hải trình từ Tháp đá đến “Sera thủ đô của Sinae” là 36.200 stade, về thời gian mất 7 tháng với tổng chiều dài đoạn đường là 62.480 stade hoặc là 156,1/50. Thêm vào con số ấy 720, tính từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Hierapolis và tổng đoạn đường Tây - Đông của thế giới đã biết là 228,1/50. Với vĩ tuyến Tây – Đông, Ptolemy tính mỗi độ bằng 400 stade, và áp dụng nguyên tắc giảm một nửa như đối với trường hợp châu Phi, Ptolemy cũng giảm con số tính toán của Marinus là 36.200 stade xuống còn 18.100 stade, và nếu tính theo độ thì còn 45,1/20, tình cờ là nó lại gần với con số thực. Con số 26.280 stade từ Hierapolis đến Tháp đá thuộc Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) được điều chỉnh xuống còn 24.000 stade, hoặc 600, và tổng số độ từ Hierapolis đến Sera là 105,1/40. Vậy là đoạn đường từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Hierapolis là 720, và từ Hierapolis đến Sera là 105,1/40, tổng cộng là 177, 1/40, gần khớp với tổng chiều dài vĩ tuyến Tây – Đông 1800. [Riley T. M. 1995, 233]. Trong chương I.14 của công trình Địa lý học, khoảng cách đường biển theo các báo cáo từ Ấn Độ đến Kattigara trên cùng vĩ tuyến với Sera cũng áp dụng nguyên tắc giảm thiểu như trên, để tính phương Đông Tây, vì vậy mà cũng còn gần 1800. Tất nhiên Ptolemy còn có các nguồn tư liệu khác nhau vì vậy ông chỉnh sửa các số liệu cũ bằng các số liệu mới hơn, và cũng đề cập đến tính cần thiết của việc phải cập nhật các nguồn dữ liệu mới đó. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể dễ dàng thực hiện đối với vùng thế giới đã biết, chủ yếu thuộc phạm vi Ả Rập, xa nhất là đến Ấn Độ, nơi mà cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế chấm dứt ở đó. Còn ngoài phạm vi đó thì các nguồn số liệu, dữ liệu mới là rất hiếm hoi. Trong thực tế thì đối với công trình Địa lý, Ptolemy đã sử dụng khuôn khổ và số liệu mà các tiền bối đã thực hiện. Đối với trường hợp này thì bản đồ truyền thống bao gồm cung ¼ bán cầu bắc, và ông đã điều chỉnh các báo cáo và các số liệu cũ bằng nguyên tắc giảm ½ đối với phần thế giới đã biết như vừa đề cập ở trên. [Riley T. M. 1995, 234]. Trên cơ sở học thuyết của mình, một địa điểm tại cực đông của địa cầu như Kattigara chính là một nhu cầu thúc bách trí tưởng tượng Hy Lạp cổ đại trong rất nhiều đời nhằm kiểm nghiệm lý thuyết địa tâm và mục đích cuối cùng là chinh phục địa cầu của tinh thần Hy Lạp. Nhưng có lẽ chỉ đến thế kỷ thứ tư TCN, sau khi Alexander Đại đế, học trò của Aristotle, chiến thắng Ai Cập, Ba Tư và Ấn Độ thì các hiểu biết về phương Đông, đặc biệt là những thông tin và tên gọi kiểu như Kattigara mới được các thương gia Nam Ấn cung cấp cho Alexander Đại đế và các tướng lĩnh dưới quyền ông một cách rõ ràng và chắc chắn nhất. Giai đoạn này tương đương với thời Hùng Vương 18 gồm có “Hùng Duệ Vương, Hùng Kính Vương và Tản Viên” trong truyền thuyết Việt, sau đó nhà nước Hùng Vương bị Thục Phán thôn tính vào năm 257 TCN theo Đại Việt sử ký Toàn thư hoặc vào năm 179 TCN theo các nguồn khác. II. Kattigara – Marinus và PtolemyTuy địa danh Kattigara không phải do Ptolemy phát hiện, nhưng cái tên đó lại gắn liền với Ptolemy và tất cả những nghi vấn mà ông đã để lại cho đời sau trong chính các ghi chú của công trình Địa lý học của mình. Một trong những ghi chú được tất cả những người tìm kiếm Kattigara phân tích, đó là việc ông than phiền Marinus không ghi rõ khoảng cách hải trình từ Bán đảo Vàng, ngày nay được thừa nhận là Bán đảo Malay đến Kattigara. Trong công trình của mình, Marinus chỉ ghi một cách mơ hồ là Alexandros đã viết rằng vùng đất đó ở bên kia vùng đất quay về phía nam, và phải bơi dọc theo đó đến Zabai mất 20 ngày, sau đó từ Zabai bơi tiếp một hồi về phương nam rồi rẽ trái đi tới Kattigara trong “vài ngày”. Theo Ptolemy thì “Marinus đã phóng đại khoảng cách đó bằng cách nói “vài ngày” có nghĩa là nhiều ngày, lại còn nói là vì vô số ngày nên không thể hiện bằng con số cụ thể được. Điều đó thật nực cười: làm gì có chuyện không tính được cụ thể số ngày, cho dù có đi vòng quanh cả trái đất đi nữa?” Hoặc có điều gì đó đã cản trở Alexandros không nói “nhiều ngày”, mà chỉ nói “vài ngày”, hệt như Marinus nói: “Dioskoros cho biết hải trình từ Rhapta đến Mũi Prason mất “nhiều ngày” [Ptolemy, 2000: 76]. Địa danh “Cattigara” trên bản đồ Ptolemy (được khoanh đỏ) Như vậy với ghi chú trên chúng ta biết chắc chắn rằng cái tên Kattigara không phải là do Ptolemy tìm kiếm được thông tin trực tiếp và đưa vào công trình Địa lý học của ông, mà do ông sử dụng lại từ công trình của Marinus. Trong thực tế thì nếu không có Địa lý học của Ptolemy, người ta sẽ không biết gì nhiều về Marinus. Có thể nói nhờ có Ptolemy thì người đời sau mới biết được vị thế và đóng góp to lớn của Marinus cho Địa lý học thế giới. Nhưng chính bản thân Marinus cũng để lại cho Ptolemy những vấn đề mà ông không giải quyết được, chẳng hạn ông không biết Marinus nói về hải trình đến Kattigara của Alexandros nào, ở thời nào. Liệu người này có trực tiếp đến Kattigara hay ông ta phái người đi đến đó. Khi tính khoảng cách từ Hy Lạp đến Kattigara ông cho rằng Marinus đã phóng đại kinh độ bằng cách xác định khoảng cách giữa các đảo Fortunes ở phía Tây đến các vùng cực đông thuộc Sera của Sinae và đến Kattigara không hơn 12 giờ. Bằng cách xác định vị trí của Sera, Marinus đã sử dụng tuyến hải hành của các thương nhân hoặc nhà hải hành nào đó đã đến đó và Ptolemy đã phê phán việc xác định đó. “Vì ông nói với chúng ta rằng các khoảng cách mà một kẻ tên Maes nào đó có họ Titianus, một người Macedonian, và cũng là một thương nhân giống như cha ông ấy; đâu phải tự ông ta thực hiện cuộc hải hành mà là cử người tới buôn bán với người Seres”. Nhưng rất may là sau này người ta đã tìm được tung tích của nguồn thông tin thứ hai mà Marinus đã sử dụng cho việc tính toán đoạn đường đến Kattigara. Nhân vật Maes Titanius ấy chính là một nhà lữ hành đã từng đi theo con đường tơ lụa trên bộ từ Địa Trung Hải tới phương Đông vào cuối thế kỷ I TCN hoặc đầu thế kỷ I SCN; nhờ có lời phàn nàn của Ptolemy mà thân phận của Maes Titanius đã được làm sáng tỏ [Cary M. 1956: 130-134]. Trong Ghi chú II của tác phẩm Địa lý, Ptolemy cho rằng: Phần có người ở của trái đất chúng ta còn có Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) ở phương Đông bao bọc, có các dân tộc ở cực đông của Đại Á cư trú, là người Sinae và các dân tộc Serice; tương tự như vậy là Vùng đất Chưa biết ở phía Nam khép kín biển Ấn Độ và ôm lấy Ethiopia đến nam Libya, được gọi là đất Agisymba; vòng về phía tây là Vùng đất Chưa biết bao quanh vịnh Ethiopic của Libya, và sau đó bao quanh Đại Tây dương nằm ở cực tây của Libya và châu Âu; và đại dương này bao gồm phần phía bắc với các đảo Britanic và phần cực bắc châu Âu có các tên gọi Duecalydonian và Sarmatic; tiếp đến một Vùng đất Chưa biết trải dọc các phần cực bắc của Đại Á, đó là Sarmatia, Scythia, và Serice…”. Và vùng đất này cũng bọc kín biển Hyrcanian còn được gọi là Caspian. Tương tự như vậy các vịnh Ả Rập, vịnh Ba Tư, vịnh Hằng Hà và Vịnh Lớn ở phương Đông cũng được đất liền bọc kín. Vì vậy chúng ta thấy có ba đại lục châu Á tiếp nối với Libya bởi eo đất Ả Rập tách biển (Địa Trung Hải) của chúng ta khỏi vịnh Ả Rập, và bởi Vùng đất Chưa biết khép kín biển Ấn Độ…”. Cực đông của Vùng đất Chưa biết giới hạn bởi kinh tuyến chạy qua thủ đô của Sinae, ở một khoảng cách là 1190 tính từ Alexandria, tương đương với 8 giờ tính đến đường xích đạo… [Institute on the Far East Works 1915, tập vii, chương 5]. Trong cuốn sách thứ nhất của mình, Ptolemy nói về Marinus như là một tác giả Hy Lạp lớn nhất về phương diện Địa lý học. Có rất nhiều bản in bổ sung các biểu địa lý của ông, nhưng các phán đoán của ông cần phải được chỉnh sửa và ông đã đưa ra rất nhiều con số tính toán về các khoảng cách, chiều dài, chiều rộng của thế giới có con người sinh sống. Về vĩ độ, Ptolemy đã minh họa bằng cách phê phán vị trí do Marinus xác định dựa vào những chuyến hải hành nào đó đến vùng cực nam Ethiopia được gọi là Agisymba. Việc tính toán khoảng cách đại quát từ các tuyến đường đó có lẽ đã đặt vùng này vào khoảng cách 24.680 stades kể từ đường xích đạo về phía nam, hoặc như Ptolemy nói là thuộc về vùng Nam cực băng giá. Tổng cộng, Marinus đã cắt giảm con số đó xuống còn 12.000 stades để đưa nó lại gần với vùng nhiệt đới phía nam, và Ptolemy bằng cách suy đoán là thích hợp với một số loại động vật nhất định nên đã giảm khoảng cách đó xuống còn 8000 stades. Ông cho rằng Marinus đã phóng đại kinh độ khi xác định khoảng cách giữa các đảo Fortunes ở phía Tây đến các vùng cực đông thuộc Sera của Sinae và đến Kattigara không hơn 12 giờ [Institute on the Far East Works 1915]. Một trong những vấn đề làm đau đầu những người tìm kiếm Kattigara là việc Ptolemy đã cố gắng xác định vị trí kinh tuyến chạy theo đường biển từ Mũi Kory ở Nam Ấn Độ đến Kattigara, được giả định là một cảng thị của Sinae, và nó thuộc vào vị trí 1770 đông. Những băn khoăn chủ yếu gắn liền với kinh độ này liên quan đến đoạn mô tả đô thị đó “ở mãi trong hẻm núi, cuối vùng đồng bằng” (chương 13-14 tập Địa lý của Ptolemy). Nhưng đoạn đó lại nói về tuyến đường trên đất liền đi qua Tháp đá, và bên kia là trạm nghỉ cho các thương nhân đi đến vùng đất của người Seres (bk.vi, chương 13). Richthofen cho rằng trạm này thuộc vùng Pamir [Richthofen, von Ferdinand 1877-1912]. Tuy nhiên theo Stein thì ngày nay khó lòng mà xác định được vị trí của “Tháp đá” nữa, nhưng nơi nghỉ mà Maes Tititanus nói là phía đông “Tháp đá” và nằm trên con đường đi Sera thì chắc chắn vẫn còn đó. Theo Richthofen thì vị trí này phải gần với vùng phân thủy giao nhau với tuyến đường trên, vì Ptolemy đã xác định vị trí đó trên tuyến Imaus, chắc chắn là phù hợp với vùng Pamir ở phương đông [Stein M.A. 1907: 54-5]. Tháp đá của Ptolemy chắc chắn không thể bị lẫn lộn với Tash Kurghan. Nhưng theo Ptolemy, có lẽ hợp lý nhất là xem xét kỹ chi tiết mà Alexandros đã mô tả vùng đất bên kia Vùng đất vàng Chersonese nằm hướng về phía nam, và sau khi đi thuyền trong vòng 20 ngày thì đến thành phố Zabai, sau đó bơi vài ngày nữa theo hướng nam, rồi rẽ trái sẽ đến Kattigara. Điều đó có nghĩa là Ptolemy vẫn nghi ngờ tính xác thực của nguồn thông tin do Maes Tititanus cung cấp trên tuyến đường bộ mà sau này được Richthofen gọi là “Con đường tơ lụa”. Trong chương 17 của tập Địa lý học, Ptolemy nói về những người đã thực hiện các chuyến hải hành đến Ấn Độ và đã từng sống lâu ở đó: Từ những người này chúng ta có những thông tin chính xác hơn về Ấn Độ cũng như về những đất nước xa hơn ở Vùng đất vàng, cho đến tận Kattigara. “Tất cả mọi người đều nhất trí rằng để đến được các vùng ấy, thì phải đi về phương Đông, còn để quay lại thì phải đi về phía Tây, và như thế thì không thể ấn định trước một khoảng thời gian chắc chắn trong bối cảnh đó”. “Họ cũng đồng ý rằng đất nước của người Seres có thủ phủ nằm về phía bắc vùng đất của người Sinae, còn đi tiếp về phía đông thì là Vùng đất Chưa biết, với rất nhiều đầm lầy mọc đầy loại lau sậy lớn, dày đặc đến mức người thổ dân khi đi qua đó cũng phải có cách riêng, vì ở đó không có đường đi” [Institute on the Far East Works 1915]. Theo nhà Đông phương học kỳ cựu H. G. Rawlinson thì các công trình của Ptolemy về địa lý của giai đoạn này chủ yếu dựa vào các thông tin do Marinus xứ Tyre thu thập, đã thể hiện một sự hiểu biết sâu sắc hơn về vùng ven biển châu Á so với các bậc tiền bối của họ. Trong khi đó tác giả của sách Periplus biết không nhiều, hoặc thậm chí không biết gì về vùng biển bên kia sông Hằng. Ptolemy đã phải đương đầu với một vấn đề lớn có lẽ vì ông đã phải phụ thuộc vào nguồn thông tin của “các nhà hàng hải mù chữ với các thông tin mù mờ và lẫn lộn”. Ông đã nhầm Java với Sumatra; ông không nói gì về eo Malacca và ông nghĩ rằng bờ biển Trung Quốc đáng lẽ là ở hướng bắc thì lại quanh về phía nam để tiếp giáp với vùng ven biển Châu Phi. Thông tin mà ông thu lượm từ “các thủy thủ ít học, không đánh vần được đúng tên gọi các cảng biển mà họ cập bến”. Trong đầu họ chỉ có con đường từ cảng này đến cảng khác và thường là lẫn lộn; còn về khoảng cách thì như bản thân ông thú nhận là ông phải dựa vào phép tính trung bình của con tàu đi trong một ngày để tính toán, cùng với phép tính trung bình là các suy luận để giải quyết những bất thường của các vùng biển ông không có thông tin chắc chắn hoặc những nhân tố nhiễu loạn khác. Kết quả ấy đưa đến những sai lạc ghê gớm dù chỉ là về vùng ven biển Ấn Độ. Ptolemy dường như hoàn toàn không biết gì về sự thật là tiểu lục địa này xuôi theo hướng nam. Từ mũi Kory đến vùng cửa sông Hằng có hàng loạt đô thị, trong đó có một đô thị không được nêu tên, nằm giữa Maesolia và Palura. Maesolia hay Masalia trong sách Periplus có lẽ là quận Masulipatam và Palura nơi bắt đầu của Vịnh Hằng Hà nằm thiên về phía bắc một chút. Chính từ vị trí này mà các con tàu bắt đầu cuộc hải hành về phương Đông. Qua khỏi vịnh Bengal, họ đến Sada thuộc vùng Đất Bạc, và từ Sada đến Temala hoặc Tamala gần mũi Negrais, nằm ở đầu vịnh Thái Lan (Vịnh Lớn). Sau đó đi tiếp đến đến một cảng gọi là Zaba. Yule cho đó là Champa và tìm kiếm nó ở bờ phía tây Campuchia và có lẽ gần sông Kampot hoặc sông Kang Kao. Hải trình đó mất 20 ngày; và từ Zabai đến Kattigara có cùng một khoảng cách tương tự như vậy. Tuy nhiên về chặng đường này Ptolemy thừa nhận là ông cũng rất nghi ngờ vì những thông tin mà Marinus có được từ một người nào đó có tên là Alexanderos [Rawlinson H. G. 1916: 131, 132]. Tiếp tục con đường ven biển từ Palura, Ptolemy mô tả cửa sông Hằng. Ông là một tác giả phương Tây đầu tiên đề cập đến vùng đồng bằng sông Hằng. Ngay cả tác giả sách Periplus cũng không nói gì về điều này, còn Strabo và toàn bộ các tác giả trước đó đều im lặng, nếu không kể đến “các tài liệu tham khảo đáng ngờ” của Vergil về “7 ngọn nguồn êm đềm” của dòng sông đó. Ptolemy gán cho sông Hằng có năm cửa. Từ sông Hằng ông mô tả Ấn Độ xuyên Hằng Hà, trước hết là vùng đất Airrhadii; tiếp đó là Ấn Độ từ sông Hằng đến Tokosanna hoặc sông Arakan; sau đó ông dẫn ta đến Đất Bạc, Arakan và Pegu; rồi đến Besynga hoặc Bassein; và cuối cùng đến vùng Đất Vàng, Bán đảo Malay. Cái tên đó được dịch từ tiếng Phạn Suvarnabhumi để chỉ vùng tam giác châu Irrawady, mà các biên niên sử Mianma gọi tên tương tự vùng ranh giới của họ là Sonaparanta. Tiếp đến là Mũi Lớn Campuchia, và Vịnh Lớn Thái Lan. Ở phía Tây của vịnh này có cảng Zabai đã được các đoàn hải hành nói đến khi bơi tới Kattigara. Cư dân ở đó được mô tả là “lễ phép, đầu tóc bờm xờm, mũi tẹt và hay ngồi xổm” – một đoạn mô tả khái quát khá rành mạch [Rawlinson H. G. 1916: 133-4]. Nhưng dù có to tiếng phê phán các sai lầm của Ptolemy thời cổ đại thì rồi cuối cùng Rawlinson thời hiện đại cũng vướng không ít mơ hồ khi kết luận rằng: “Kattigara có lẽ là Kian-chi (có thể Rawlinson viết sai từ Kau Chi) ở Bắc Kỳ, Việt Nam hiện nay, vì các biên niên sử Trung Quôc nói về sứ bộ La Mã đến Trung Quốc đã ghé vào đó mua bán rất nhiều. Còn thủ đô của Trung Quốc có lẽ là Nam Kinh; dân Sinae ở Đông Nam Trung Quốc mà Ptolemy nói đến chính là những thương nhân buôn bán với Đông Ấn Độ. Người Seres hoặc Người Dâu tằm cư trú ở phía tây hoặc phía bắc của Sinae, và tiếp xúc với phương Tây qua con đường Pamirs” [Rawlinson H. G. 1916: 136]. III. Kattigara – danh phận đoạn trườngĐối với Ptolemy câu hỏi Kattigara là gì không mấy quan trọng, điều quan trọng nhất đối với ông là cần phải xác định nó ở đâu, có nghĩa là ở kinh độ và vĩ độ nào trong cái mô hình bản đồ thế giới tuyệt vời của ông. Câu hỏi đó đã được ông trả lời bằng các tính toán và suy lý để rồi chấm được nó ở một vùng đất mà đại đa số các nhà nghiên cứu đều nhất trí là ở Việt Nam ngày nay. Tuy nhiên, vấn đề về địa danh Kattigara mà Marinus và Ptolemy đưa ra từ thời cổ đại vẫn tồn tại nguyên vẹn và liên tục cho đến thời trung đại. Nhà thám hiểm vĩ đại, người đã tìm ra châu Mỹ là Amerigo Vespucci đã thực hiện chuyến đi năm 1499 đã viết: Ông hy vọng đến được vương quốc “Melaccha ở Ấn Độ”, thực tế thì đó là Malacca hoặc Melaka thuộc bán đảo Malay, bằng chuyến hải hành từ Tây Ban Nha, bơi về phía tây, qua Đại Tây Dương, vòng qua “Mũi Kattigara” đến Vịnh Lớn Sinus Magnus [Vespucci A. 1500-1944-1999]. Thomas Suarez cho rằng vị trí chiến lược của Kattigara đã được các nhà thám hiểm tiên phong Châu Âu xác định ở Đông Nam Á, chẳng hạn như Amerigo Vespucci, Christopher Columbus và Ferdinand Magellan[Suarez, Thomas 1999: 92]. Nhưng Vespucci đã thất bại trong việc tìm kiếm Mũi Kattigara trong chuyến thám hiểm năm 1499, khi ông bơi dọc theo bờ biển Venezuela Nam Mỹ, nhưng lại chưa bơi đến được tận cùng để giải quyết câu hỏi: có phải Sinus Magnus của Ptolemy vượt sang đến dải đất bên này không. Tương tự như vậy, Christopher Columbus cũng thất bại trong việc trả lời câu hỏi này khi ông bơi dọc theo chính bờ biển đó. Trong chuyến thám hiểm lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng của mình vào năm 1502-1503, Columbus đã xây dựng kế hoạch đi dọc bờ biển Champa về phía nam vòng qua “Mũi Kattigara” và bơi qua eo biển ngăn cách nó với Tân Thế giới để tới Sinus Magnus phía Malacca. Đây chính là tuyến đường mà ông cho rằng Marco Polo đã trở về từ Trung Quốc qua Ấn Độ vào năm 1292 [Nunn, George E. 1992; Wallis, Helen 1992]. Columbus cho rằng ông sẽ gặp đoàn thám hiểm của Vasco da Gama từ Bồ Đào Nha đi Malacca theo con đường Châu Phi, vòng qua Mũi Hảo vọng và đem theo ủy nhiệm thư của Quốc vương Ferdinand và Hoàng hậu Isabella của Tây Ban Nha giới thiệu với da Gama [Millares A. Carlo (ed.) 1951; Serrano C. Seco (ed.) 1954-1955]. Khi đến Cariay, ngày nay là Puerto Limon thuộc bờ biển Costa Rica, Columbus nghĩ rằng ông đã đến được các mỏ vàng Champa mà Marco Polo đã nói tới. Chính vì vậy từ Jamaica ông đã viết thư về cho Quốc vương và Hoàng hậu như sau: “Thần đã tới Cariay…Ở đây thần đã biết được về các mỏ vàng của người Champa mà thần tìm kiếm” [Varela, Consuelo (ed) 1992]. Một đoạn chú dẫn những tấm bản đồ do Bartolome Colon, tức là Bartholome Columbus, anh trai Christopher Colon và Alessandro Zorzi xây dựng năm 1504 cho thấy Christopher Columbus đã ước tính khoảng cách giữa Bồ Đào Nha và cái gọi là “Mũi Kattigara” trội lên quá nhiều, tới 2250 đông, thay vì tính toán của Ptolemy là 1800, nên đã làm cho ông tin rằng khoảng cách về phía tây chỉ là 1350. Chính vì vậy các vùng đất Châu Mỹ mà ông phát hiện lại được ông gọi là Đông Ấn. Nội dung của chú giải này là như sau: “Theo Marinus xứ Tyre và Columbus, từ Mũi St. Vincent đến Kattigara là 2250, tức là 15 giờ; theo Ptolemy đến tận Kattigara là 1800, tức là 12 giờ”. Như George E. Nunn đã lưu ý, theo tính toán thì tấm bản đồ của Colon/Zorzi đã sử dụng kinh độ của Ptolemy từ Mũi St. Vincent về phía đông đến Kattigara, nhưng việc tính toán kinh độ của Marinus và Columbus lại được sử dụng cho khoảng không gian từ Mũi St. Vincent đến Kattigara theo hướng tây. Tấm bản đồ thế giới của Waldseemueller năm 1507 đã sử dụng cả hai tính toán kinh độ trên để thể hiện bờ biển phía đông Châu Á lên hai lần: một lần theo kinh độ của Ptolemy để thể hiện địa cầu như Martin Behaim đã làm vào năm 1492; và lại theo kinh độ của Columbus để thể hiện các phát hiện của ông và các nhà hàng hải Tây Ban Nha băng qua Đại Tây Dương. Các vùng bờ biển phía tây do người Tây Ban Nha phát hiện được Waldseemueller mô tả là “Incognita” - Vùng đất Chưa biết với một vùng biển phỏng đoán ở bên kia, làm cho vùng đất này rõ ràng là một lục địa tách riêng. Vị thế của Nam Mỹ với tư cách là một hòn đảo tách biệt hoặc là một phần của Châu Á, nhất là bán đảo Thượng Ấn (Đông Dương), nơi có địa điểm Kattigara vẫn chưa được xác định chắc chắn là ở đâu. Chính vì vậy mà Nunn đã viết: “Đó là một cách rất hợp lý để trình bày một vấn đề không giải quyết được” [Nunn, George E. 1927: 476-480], hoặc vấn đề Kattigara đã được giải quyết bằng cách đặt nó ở Nam Mỹ. [Nunn, George E. 1932: 12,13-49-51]. Tương tự như vậy, trên bản đồ địa cầu Jagiellonian Globe, những khác biệt về thước đo khoảng cách kinh tuyến chạy về hướng đông và hướng tây đã tạo ra một Châu Mỹ lưỡng vị gồm cả hai nửa bán cầu đông và tây. Nếu Costa Rica/Panama là một phần của Ấn Độ, như Christopher Columbus khẳng định thì vùng đất choãi về hướng nam đến eo biển kia chính là Mũi Kattigara đã được tìm thấy, và đô thị Kattigara phải nằm trên bờ phía tây của nó, như đã được thể hiện trên bản đồ của Colon/Zorzi vào năm 1504. Và niềm tin của Columbus đã được thể hiện rõ trên tấm bản đồ thế giới của Giovanni Contarini xuất bản tại Venise năm 1506, trên đó có một hình xuáy trôn ốc gắn liền với Champa, được ghi là: “Cristophorus Columbus …bơi về phía tây, đã đến vùng đất có tên gọi Champa…có một kho vàng lớn”. Trên tấm bản đồ này ghi rõ bờ biển phía đông của Vịnh Lớn Sinus Magnus ở vị trí 8.1/20 Nam, và vùng đất Sancta Crucis thuộc Brazil ngày nay, do Pedro Alvares Cabral phát hiện vào tháng Tư năm 1500, được thể hiện thành một lục địa phương nam riêng biệt [National Library of Australia 2010]. Hơn 23 năm sau, trên bản đồ thế giới năm 1523 nhà địa cầu học Schoener đã thể hiện Kattigara hoặc bán đảo Thượng Ấn - Đông Dương, bao gồm cả Mexico và Nam Mỹ, còn cái tên Biển Đông của Ptolemy thì trở thành Thái Bình Dương [Wieder F.C. (ed.) 1925]. Schoener cũng đưa phát hiện vùng đất Tierra del Fuego của Ferdinand Magellan năm 1520 vào tấm bản đồ với tên gọi là vùng đất Hạ Australis-Brasilia [Schilder G. 1976: 10]. Cũng trong năm 1523 Maximillianus Transynvanus công bố các phát hiện của Magellan ở De Moluccisinsulis với lời chua rằng: Mặc dù các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đã đi tới tận vị trí 120 Nam, nhưng họ vẫn không tìm ra được Kattigara. Cuộc đi vòng quanh thế giới đầu tiên do Antonio Pigafetta, De Moluccis Insulis, và Maximilianus Transylvanus thực hiện, với lời giới thiệu của Carlos Quirino, (Manila, Filipiniana Book Guild, 1969). Antonio Pigafetta ghi là khi đi qua Thái Bình Dương, Magellan chắc chắn đã biết tọa độ Kattigara do Ptolemy xác định, nhưng “đã tìm kiếm Mũi Kattigara” ở vùng xung quanh vị trí 120 Bắc của đường xích đạo [Peillard L. 1984 : 128]. Chuyến thám hiểm thất bại của Magellan trong cuộc tìm kiếm bán đảo Kattigara, tức là Thượng Ấn tại khu vực lân cận Moluccas, đã khiến cho Schoener đi đến kết luận rằng Châu Mỹ chính là bán đảo đó. Còn bản thân Magellan thì bị thổ dân Philippines giết chết. Trong Opusculum Gegraphicum, Schoener viết phụ thêm vào tấm bàn đồ đó như sau: Sau Ptolemy, nhiều vùng đất vượt qua vị trí 1800 về phía đông đã được Marco Polo và những người khác phát hiện, giờ đây Collombus và Amerigo Vespucci đã cập đến các bờ biển đó sau khi bơi từ Tây Ban Nha đến Đại Tây Dương, và đã đến thăm các khu vực đó khi nghĩ rằng phần thế giới đó là một hòn đảo gọi là America, phần thứ tư của địa cầu. Nhưng từ các chuyến thám hiểm gần đây nhất của Magellan trong năm 1519…họ đã nhận thấy rằng vùng đất đó trong thực tế là đại lục Thượng Ấn, một phần của Châu Á [Schoener, J. 1961]. Trong bản đồ của ông năm 1533, Châu Mỹ vẫn được khẳng định là một vùng mở rộng của Đông Dương với ghi chú: Châu Mỹ, một phần của Thượng Ấn và của lục địa Châu Á. Kattigara vẫn là nơi mà Ptolemy đã xác định, tại tọa độ 8 1/20, tính từ đường xích đạo, ở bờ đông của Oceanus Orientalis, Biển Đông, mà giờ đây được xác định là bờ tây Châu Mỹ, thuộc Nam Mỹ. Cũng giống như năm 1515, trên tấm bản đồ này Brazil lại được tái khẳng định là lục địa Nam Cực, một phần của Terra Australis, mới được phát hiện nhưng chưa được biết một cách đầy đủ. Môn địa cầu học của nhà toán học và bản đồ học người Pháp, Oronce Fine được khởi nguồn từ Schoener [Harrisse, Henry 1961]. Trên tấm bản đồ thế giới của Fine năm 1531, công bố năm 1532 trong Novus Orbis Regionum ac Insularum, Brasielie Rego được thể hiện nằm ở phía đông Châu Phi và ở phía nam Java. Kattigara vẫn giữ nguyên vị trí như trên bản đồ của Fine tại bờ tây của Nam Mỹ như trên bản đồ của Schoener các năm 1523 và 1533, giống với các tấm bản đồ thế giới các năm 1540. Hệt như Schoener và Fine cho rằng Canada, Mexico và Peru tạo thành một lục địa nối liền với Châu Á, vì vậy mà Jean Alfonse, cũng là một nhà bản đồ học lại cho rằng vùng đất Kattigara cũng chính là Cathay và gồm toàn bộ các vùng Cực viễn Hằng Hà trải về phía đông, có cả Canada và thuộc châu Á. Tây Ban Nha mới (Mexico) và Peru cũng gắn liền với nó, vì vậy đối với Alfonse, Kattigara ôm trọn các vùng đất này [Alphonse, Jean 1904 : 398, 401-2]. Phù hợp với địa cầu học của Schoener, Fine, và Alphonse, nhóm Harleian đã đặt Kattigara ở bờ tây của Nam Mỹ và tách Mexico thành hai phần, một phần ở Bắc Mỹ và một phần ở Đông Á, là hàng xóm của Cathay và Mangi [Coote C.H. 1898]. Các bản đồ thế giới được sản xuất từ những năm 1530 đến những năm 1560 tại Dieppe khi nước Pháp do các nhà thương mại và hàng hải Norman dẫn đầu mong muốn sớm có quan hệ thương mại với các vùng thế giới mới. Vì vậy các nhà bản đồ học phải nhanh chóng nhập cuộc. Họ dựa vào công trình của người đồng hương Oronce Fine, vốn chịu ảnh hưởng lớn của Schoener và Martin Waldseemueller. Đến lượt mình, hai người này cố gắng cập nhật hóa nguồn thông tin địa lý mới do các nhà thám hiểm Christopher Columbus, Amerigo Vespucci, Pedro Alvares Cabral, Ferdinand Magellan và những người đương thời của họ vào khung địa cầu học kế thừa từ Claudius Ptolemy và Marco Polo, như đã được thể hiện thành khái niệm trong công trình của Martin Behaim năm 1492. Schoener và Fine bán sát vào tuyên bố của Columbus là ông đã đến Champa năm 1502 bằng cách bơi từ Tây Ban Nha về phía tây. Nam Mỹ được Waldseemueller xác định là Châu Mỹ năm 1507, và cũng được Schoener và Fine cho là Brazil, hoặc là một phần của Nam Cực, Terra Australis, cũng còn có nghĩa là một miền đất kéo dài thành Thượng Ấn – Bán đảo Kattigara – Đông Dương theo Behaim. Các bản đồ thế giới của Dieppe thể hiện giai đoạn tột cùng của địa cầu luận này với những lẫn lộn nghiêm trọng giữa Nam Cực với Brazil, Nam Mỹ lẫn với bán đảo Kattigara - Đông Dương. Điều đó khiến cho việc tìm kiếm Kattigara trong các thế kỷ XVI, XVII càng trở nên mờ mịt, và lắng dần xuống vào thế kỷ XVIII. Giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XIX và 40 năm đầu thế kỷ XX, cùng với các hoạt động quân sự và khai thác thuộc địa tại Đông Á, người Anh, người Pháp, người Đức, người Hà Lan cùng một số cá nhân và tổ chức học thuật phương Tây khác cũng đã xúc tiến nhiều nghiên cứu lịch sử - văn hóa vùng đất này. Trong bối cảnh đó, vấn đề Kattigara và việc tìm kiếm địa danh Kattigara lại bắt đầu trở nên sôi động, nhưng quan điểm học thuật chi phối việc tìm kiếm của các nhà nghiên cứu phương Tây chủ yếu vẫn gắn liền với hai nền văn hóa lớn kẹp lấy Đông Dương, đó là Trung Quốc và Ấn Độ. Trước hết, khi đề cập đến vấn đề Kattigara họ liền gắn nó với cái gọi là con đường tơ lụa và những người sản xuất ra tơ lụa. Xuất phát điểm ấy đương nhiên đã xác định đường hướng tìm kiếm Kattigara gắn liền với đất nước Trung Quốc và/hoặc các vấn đề liên quan đến lịch sử - văn hóa Trung Quốc, trong trường hợp địa điểm đó có thể nằm ở Bắc Bộ Việt Nam. Nếu như địa điểm đó ở Nam Việt Nam thì đương nhiên người ta phải tìm các xuất phát điểm gắn liền với lịch sử văn hóa của cái gọi là các quốc gia Ấn Độ hóa, mà cụ thể là Phù Nam và Champa. Hai loại định kiến thực dân về phương diện lịch sử văn hóa một cách tự nhiên và vô thức ấy đã giành hết cơ hội cho một khả năng thứ ba, đó là tìm kiếm một Kattigara thuần túy bản địa, hay nói cách khác là thuần túy Việt, dù rằng khả năng này là hoàn toàn có thể. Về phương án Kattigara nằm ở khu vực Bắc Bộ Việt Nam hoặc Nam Trung Quốc thì có thể coi tổng kết của McCrindle là một đại diện. Theo ông “trên tấm bản đồ thế giới năm 1489 của Henricus Martellus dựa trên công trình Địa lý của Ptolemy thì điểm tận cùng của Châu Á ở Đông Nam Á chính là Mũi Kattigara. Ptolemy hiểu Kattigara là cảng cực đông của các chuyến hải hành từ thế giới Hy La đến các vùng đất Viễn Đông, đó được coi là Mũi Kattigara, được gọi theo tên gọi của đô thị Kattigara mà Ptolemy cho là nằm bên Vịnh Lớn Sinus Magnus, “thực ra là Vịnh Thái Lan tại tọa độ 8.1/2 độ bắc của đường Xích đạo, choãi dài về phía Trung Quốc ở bên kia Vịnh” (McCrindle J.W. 1885-1974). Đối với người phương Tây thời gian đó, nói tới Đông Dương thì điều đó dường như đồng nghĩa với hai khả năng: Trung Hoa hoặc Ấn Độ. Với trường hợp đầu thì nhiều nhà Đông phương học người Châu Âu cho rằng Kattigara nằm ở Bắc Bộ, có thể là vùng cửa sông Cái (sông Hồng), hoặc xung quanh Hà Nội, thậm chí chính là Hà Nội [institute on the Far East Works 1915; Rawlinson, H. G. 1916]. Cattigara trên bản đồ con đường hồ tiêu tk. XV (phần Đông Nam Á) Một quan điểm khác, công nhận Kattigara nằm trên đất Việt Nam, nhưng không phải là ở vùng Đồng bằng Sông Hồng, mà là ở Đồng bằng Sông Cửu Long, cụ thể là ở Sài Gòn (Herrmann, Albert 1938: 123-8) hoặc Óc Eo [Malleret L. 1951, 1962; Chakravarti Adhir K. 1972]. Điển hình cho trường hợp đầu là các nhà nghiên cứu tập trung xung quanh một tổ chức được gọi là Hakluyt Society, được thành lập năm 1846 tại London, Vương quốc Anh. Mục đích của Hội là tìm cách thúc đẩy tri thức và giáo dục thông qua việc công bố các hồ sơ, ghi chép, tác phẩm về các chuyến thám hiểm, các cuộc lữ hành xuyên lục địa và các tài liệu địa lý khác. Hội lấy tên họ của Rechard Hakluyt (1552-1616), một nhà sưu tập và chủ bút của các xuất bản phẩm về các chuyến hải hành, các cuộc thám hiểm, các chuyến phiêu lưu và các tư liệu khác liên quan đến lợi ích của người Anh tại hải ngoại dưới hình thức các xuất bản phẩm học thuật. Bên cạnh đó Hội còn tổ chức các cuộc gặp gỡ, hội thảo, hội nghị khoa học nhằm thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau giữa các nhà nghiên cứu và công chúng. Vì mục đích phi lợi nhuận đó Hội đã công bố được nhiều bản dịch từ tiếng Hy Lạp, Latin, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp, Hà Lan, v.v…ra tiếng Anh. Bên cạnh đó, Hội Hakluyt cũng có những cộng tác viên đắc lực, đó là tổ chức Những người bạn Mỹ của Hội Hakluyt được thành lập năm 1996 tại Thư viện John Carter Brown Library tại Đại học Brown Hoa Kỳ. Đây cũng là một tổ chức phi lợi nhuận có mục đích tương tự như Hội Hakluyt London, nhưng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực lịch sử Châu Mỹ [Foster, William 1946; Bridges R. C. & P. E. H. Hair (eds) 1996]. Đại diện cho quan điểm Kattigara nằm ở Bắc Bộ là của Nam tước Fernand von Richthofen, cha đẻ của cụm từ “con đường tơ lụa”. Quan điểm này hầu như đã được tất cả các thành viên Hội Hakluyt nhất trí, và được cho là rất thuyết phục, vì mấy lý lẽ lỏng lẻo và không khỏi lầm lẫn sau: i) trong nhiều thế kỷ kể từ trước Công nguyên đến năm 263 Giao Chỉ thực sự là quận huyện của Trung Quốc; ii) Giao Chỉ là cảng duy nhất trong giai đoạn đó được đề cập đến trong biên niên sử Trung Quốc là có quan hệ ngoại thương, và đó cũng chính là Đông Kinh, Kẻ Chợ, hoặc Hà Nội sau này. Trong khi không có bất cứ báo cáo nào đề cập đến việc người nước ngoài đến Trung Quốc thì riêng Giao Chỉ lại có chuyến thăm của sứ bộ nổi tiếng của vua Đại Tần (La Mã) An Đôn, tức là Marcius Aurelius Antonius (161-180) đến Giao Chỉ vào năm 166; iii) tên gọi vùng đất Jinan (Nhật Nam) có thể chính là từ Sinae đã theo chân các đoàn lữ hành để đến được với các thư viện phương Tây. Richthofen cũng nhấn mạnh: Tác giả Biên niên sử Trung Quốc về chuyến viếng thăm của sứ bộ Đại Tần còn viết thêm: “Người của nước đó thường xuyên đến Phù Nam, Nhật Nam, và Giao Chỉ buôn bán”. Chúng ta đều biết Phù Nam là Champa hoặc Zabai. Riêng ở Nhật Nam, với bến cảng chính Giao Chỉ, chúng ta có thể đảm bảo rằng đó chính là “Kattigara, cảng thị Sinarum” (Yule H. 1882: 658-9). Còn đại diện cho quan điểm Kattigara thuộc vùng Nam Bộ, sớm nhất phải kể đến ý kiến cho rằng Kattigara là cảng thị Banteaymeas, (nay là Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) không xa Óc Eo [Caverhill, John 1767]. Đến đầu thế kỷ XX, nhiều cuộc nghiên cứu Kattigara lại được tiếp tục khởi động, trong đó có quan điểm cho Kattigara là Sài Gòn xưa (Herrmann 1938); còn lại hầu hết thiên về di chỉ khảo cổ học Óc Eo (Malleret 1951, 1962; Chakravarti 1972). Đối với trường hợp Óc Eo, bên cạnh tài liệu khảo cổ học, các nhà nghiên cứu còn sử dụng tài liệu cổ ngôn ngữ để diễn giải lập luận của mình. Điển hình cho cách tiếp cận này là nghiên cứu của giáo sư người Ấn Độ Chakravarti. Ông cho rằng địa danh Kattigara có thể là các từ Sanskrit Kirti-nagara कीर्ति-नगर“Thành phố Lừng danh”, hoặc Kotti-nagara कोटि-नगर“Thành phố Cường thịnh” (Chakravarti Adhir K. 1998). Tuy nhiên chúng tôi cho rằng việc suy diễn bằng cách biến đổi hẳn các từ mà không chứng minh được quy luật hoặc tính phổ biến của sự biến đổi như vậy có vẻ là một trò chơi ngôn ngữ có họ hàng rất gần gũi với một con dao hai lưỡi[1]. Cuối cùng cũng cần phải nhắc đến nghiên cứu mới toanh của Ferra, bằng cách bác bỏ hoàn toàn Ptolemy và sử dụng phương pháp xác định tọa độ của Marinus để chứng minh Kattigara là cảng cửa sông Châu Giang, thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Chỉ có điều duy nhất làm người đọc băn khoăn là tác giả này hoàn toàn tin tưởng vào phép tính toán xác định tọa độ Hy La cổ đại của Marinus với thông tin về khoảng cách và hàng loạt địa danh liên quan không được xác minh chắc chắn, nhưng lại lờ tịt một cứ liệu không dễ bác bỏ là cái tên Kattigara mà không hề nói lý do, (Ferra M.J. 2010), chẳng khác nào một hai tiền bối của ông trong Hội Hakluyt đã làm khi cho rằng Kattigara là Hợp Phố, cũng thuộc Quảng Đông, Trung Quốc [Yule, H. 1882]. Tuy nhiên chúng ta có thể hiểu được tại sao Ferra lại không đã động gì đến việc khai thác ngôn ngữ học lịch sử đối với địa danh Kattigara trong loạt bài viết của mình, bởi vì việc sử dụng cách tiếp cận ngôn ngữ đối với trường hợp Kattigara không phải dễ. Hơn nữa, nếu sử dụng phương pháp địa danh học thì khó mà tìm được Kattigara ở Quảng Châu, vì những từ này chẳng chút liên quan nào đến tiếng Hán cả. Trong thực tế, cho đến bây giờ không ai dám chắc Kattigara là loại ngôn ngữ nào, vì vậy cách xử lý tình huống có vẻ là một biện pháp dễ chấp nhận nhất đối với từng trường hợp cụ thể, trong đó việc lý giải bằng tiếng Sanskrit của giáo sư Chakravarti là một điển hình, cho dù nó có rất ít sức thuyết phục, bởi vì ông không đưa ra được bất cứ một sợi dây liên kết dù mong manh nào của mấy từ đó với bất kỳ mảnh ngôn ngữ nào còn sót lại ở Óc Eo liên quan đến các từ trên. Ấy là chưa kể việc người dân bản địa chắc gì đã sử dụng mấy từ ngoại lai ấy để gọi mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình. Có lẽ so với Chakravarti, Ferra và rất nhiều người khác nữa, cách tiếp cận của Bình Nguyên Lộc tỉnh táo và đúng đắn hơn nhiều, khi ông đi tìm Kattigara tại vùng Vịnh Hạ Long của Việt Nam bằng cách dựa vào sự phân tích chính cái địa danh ấy bằng tiếng Việt. Vốn là người khẳng định nguồn gốc Mã Lai của người Việt, theo công thức Việt = Mã Lai, ông cho rằng: “Bắc Việt chỉ mới mất những danh từ thuần Việt là Bông, Trái, Muỗng, Ghe vào đầu đời Thanh vì lưu vong nhà Minh tràn ngập vùng đó. Thế nên không ai biết Hòn Gay là cái gì. Có lẽ đó là cái đảo mà ngày xưa là Bến Ghe thương hồ, và nó ăn khớp phần nào với Kattigara của Ptolémée, chớ Kattigara không thể là Oc Eo như ông Melleret đã viết. Kathi có thể nào là Kẻ Thị chăng? Vâng, Kẻ Thị và Kẻ Chợ cũng thế thôi. Và Kathi Gara là Kẻ Thị Gay, tức thành phố ghe thuyền, tức thương cảng. Cũng nên biết rằng Ptolémée đến nơi đó[2] vào cuối thế kỷ thứ II SCN, thế nghĩa là ta bị Mã Viện chinh phục gần hai trăm năm rồi, và sự vay mượn danh từ Thị đã xảy ra rồi. Hoặc Kattihay Kathi là Cái Xị của Quảng Đông không chừng, vì dân cổ Tây Âu đã tràn sang đó để buôn bán vì bị trị trước và vì thạo thương mãi hơn ta. Dầu sao, không vì thế mà Kattigara lại nằm trong tỉnh Quảng Đông như có nhiều ông Tây đã nói, vì Gara không ăn vào với địa danh nào cả trừ với Gay ở Hòn Gay mà thôi. Kattigara cũng không thể là Óc Eo như ông Melleret đã viết vì ông R.A. Stein đối chiếu sự miêu tả cảnh vật của Ptolémée thì thấy nó không ăn khớp với vùng Óc Eotí nào cả” [bình Nguyên Lộc 1971 – 2007]. Tuy nhiên cũng tương tự với rất nhiều trường hợp khác, chúng ta có thể dễ dàng chỉ ra những mặt mạnh gắn liền với những bấp bênh trong lập luận của Bình Nguyên Lộc khi ông đọc Kattigara là Kẻ Thị Gay. Trước hết trong cụm từ này đọc Ka là Kẻ thì có thể chấp nhận về phương diện nghĩa, mặt dù trong thực tế thì Ka và Kẻ là hai từ Việt cổ về hình thức không khác nhau là mấy cho nên mới qua mặt cả những trí thức Việt uyên thâm như cụ Đào Duy Anh (1997: 31-34), nhưng lại có nội hàm rất khác nhau. Việc đọc Ti là Thị và lý giải vì “ta bị Mã Viện chinh phục gần hai trăm năm rồi” nên “sự vay mượn danh từ Thị đã xảy ra rồi” nghe thì rất thông minh và có lý, nhưng cái lý thông minh đó có gì hơi bất ổn, vì trong thực tế dường như chưa thấy có trường hợp nào người Việt quên mình là người Việt để đến nỗi phải cấy ghép một từ của kẻ ngoại vào giữa hai từ đặc sản Việt để gọi tên một địa danh đặc Việt như Hòn Gay (Gai) cả. Không những thế, nếu ai đã từng đến Hòn Gay, đã sống với kẻ Chã Hòn Gay, đã yêu kẻ Chã Hòn Gay thì mới thấy người Việt tự trọng đến mức nào. Kẻ Chã thà mù chữ chứ không bao giờ quên mình là Việt để đến nỗi chưa đầy 200 năm đã biến mình thành kẻ ngoại. Và không phải chỉ chưa đầy 200 năm, mà trong thực tế đã hơn 2000 năm qua kẻ Chã Hòn Gay nhất định không chịu bán mình mà vẫn nguyên vẹn là kẻ Chã Hòn Gay của nước Việt từ mấy nghìn năm trước. “Kẻ Thị Gay”, đúng là gay ngay cả với một kẻ tinh đời, một bộ óc trác việt và yêu nước Việt đến độ như Bình Nguyên Lộc khi không đọc ra một từ Việt nào khác nên đã phải ngậm đắng để cho từ 市Thị chen vào giữa hai từ đặc Việt: Kẻ - Gay, cho dù một lần nữa ông buộc phải đem cái tài trí siêu quần của mình ra để biện bác: “Hoặc Kattihay Kathi là Cái Xị của Quảng Đông không chừng, vì dân cổ Tây Âu đã tràn sang đó để buôn bán vì bị trị trước và vì thạo thương mãi hơn ta”. Thật đau cho Bình Nguyên Lộc, và cũng thật mừng vì gần nửa thế kỷ trước nước Việt lại có một Bình Nguyên Lộc uyên áo và thâm trầm đến mức nhận ra Việt = Mã Lai, cho dù đúng ra thì phải đảo lại là Mã Lai = Việt, vì đơn giản đối với tôi chí ít thì Việt cũng chắc chắn là tổ của một vài bộ phận Mã Lai-Đa đảo quan trọng, mà vùng đất tổ của họ chính vùng văn hóa biển Soi Nhụ, Cái Bèo, Hạ Long nơi có “Kẻ Thị Gay” của Bình Nguyên Lộc. IV. Kattigara - Những bối cảnh hy hữuLịch sử thật công bằng vì đã đem đến cho Lạc Việt nhỏ bé một cơ hội hiếm hoi để xây đắp nên một nền văn minh Đông Sơn rực rỡ đến nhường ấy, và đã tỏa dạng ảnh hưởng của mình đến nhường ấy. Cái cơ hội ngàn năm có một theo nghĩa đen của cụm từ ấy đã đến vào khoảng thế kỷ V – III TCN khi lục địa Ấn Độ với nền văn minh kỳ vĩ của nó ở phía Tây bị nền văn minh Hy Lạp do Μέγας Αλέξανδρος - Alexandros Macedonia thử thách bằng chiến tranh; khi nền văn minh Hoa Hạ lừng lẫy của nhà Chu ở phía Bắc chìm đắm trong cuộc chiến tương tàn giành giật mảnh đất Trung Nguyên màu mỡ được tạo bởi hai đại giang Hoàng Hà và Dương Tử. Trong thời khắc hy hữu ấy, Lạc Việt đã trở thành trung tâm văn minh của Đông Nam Á lục địa, bên cạnh hai nền văn minh láng giềng Ấn – Hằng và Hoàng Hà – Dương Tử. Và may mắn là trước cơn sóng trào nguy cơ Hán hóa mạnh như vũ bão xuống phương nam thì Lạc Việt có được ba vùng đệm văn hóa làm phên dậu: Điền Việt ở phía Tây Bắc, Dạ Lang thiên chính Bắc, và Nam Việt ở Đông Bắc. Nhờ đó Lạc Việt vừa tỏa dạng được ánh sáng văn hóa của mình, lại vừa có thời gian chuẩn bị để đối phó với nạn đồng hóa của ngoại xâm phương Bắc. Đây không chỉ là giai đoạn lịch sử quyết định để tự biết sức mạnh của mình, mà còn là giai đoạn mà thế giới cũng bắt đầu biết đến mặt trời Đông Sơn của nền văn minh Lạc Việt, mà Kattigara là trung tâm của nguồn sáng đó. Thời kỳ văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ chính là một trong những kích thích tố cho sự lớn mạnh của Điền quốc (khoảng 278 – 115 TCN) mà chủ nhân có thể là những người thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến. Sự kiện đó càng làm tăng cường các tương tác văn hóa giữa Lạc Việt và Điền Việt: Lạc Việt là cánh cửa mở ra biển Đông cho Điền quốc, đến lượt mình Điền quốc lại trở thành cách cửa mở về các xã hội Tạng Miến phía Tây Bắc của Lạc Việt. Giao lưu mạnh mẽ nhất là giữa Đông Sơn và Điền được thúc đẩy nhờ sông Hồng, sông Đà, sông chảy và theo các chi lưu của các con sông này, mà chủ đạo là sông Hồng. Dấu tích của sự giao lưu nổi nét vẫn là trống Đông Sơn được chôn theo như một dạng quan tài hay đồ đựng tại đây. Bên cạnh đó còn có những chiếc vỏ sò - một loại tiền tệ được gọi là “bối tiền” sản phẩm của biển Đông nước ta cũng được chôn trong mộ của khu Thạch Trại Sơn. Một số trống Đông Sơn còn tìm được trong mộ táng ở những khu vực khác của tỉnh Quảng Tây như trống Điền Đông, trống La Bạc Loan, trống Phổ Đà… đều có thể được đem đến từ miền bắc Việt Nam theo những con đường trên bộ hoặc đường sông suối [Trịnh Sinh 1997: 55-65]. Chứng cớ xa nhất về phía bắc là chiếc trống đồng “đặc sản” của Đông Sơn đã có mặt ở Triết Giang, Trung Quốc. Ngôi mộ có trống minh khí là ngôi mộ số 10, được xác định vào thời Tây Hán, tức trùng vào thời Đông Sơn muộn [Trịnh Sinh 1997]. Nhiều khả năng Điền quốc trở thành nơi cung cấp nguyên liệu đồng và trao đổi nhiều công nghệ đồng với Lạc Việt, đặc biệt là những công nghệ được người vùng Lưỡng Hà và Ấn Độ sáng tạo từ rất sớm. Bên cạnh đó Lạc Việt còn nhận được các sản phẩm và công nghệ chăn nuôi, chẳng hạn bò, dê, ngựa. Trong khi đó Lạc Việt cung cấp cho Điền các sản phẩm nông nghiệp như lúa gạo, các loại nông sản, và đặc biệt là các sản phẩm biển như đồi mồi, ngọc trai, cá, muối, tơ tằm, và nhất là nguồn ốc tiền cowries của vùng biển Hạ Long v.v...Riêng nguồn hàng hóa đặc biệt này cũng có thể làm cho Lạc Việt có một vị thế không gì sánh nổi đối với Điền quốc, vì đơn giản loại ốc đó là vật trao đổi ngang giá, là tiền đối với một quốc gia nằm ở ngã ba đường giữa một bên là Ấn Độ ở phương Tây, một bên Trung Quốc ở phương Đông và cao nguyên Thanh Tạng ở phương Bắc. Tại Thạch Trại Sơn, nơi chôn cất các nhân vật hoàng tộc Điền, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một chiếc bình đồng thiếc trang trí 2 con hổ và 7 con bò, chứa vỏ sò, ốc được sử dụng làm tiền tệ, do người Điền chế tạo trong thời kỳ Tây Hán (202 TCN – 9). Những bằng chứng đó cho thấy cửa ra biển qua Lạc Việt đối với Điền quốc là có tính chất sống còn. Ở phía bắc của Lạc Việt, từ thời Chiến quốc, thế kỷ VII TCN đã xuất hiện một nhà nước tự trị có tên gọi là Dạ Lang được cho là tổ tiên của người Di/Lô Lô. Trung tâm của nước này là xã Khả Lạc, huyện Hách Chương, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc ngày nay. Sử ký của Tư Mã Thiên mục Tây Nam Di chí gọi nước này là 牂牁 Tường Kha và đã mô tả cuộc tấn công của 庄跤 Trang Kiệu, một tướng nước Sở vào Dạ Lang vào cuối thế kỷ IV hoặc đầu thế kỷ III TCN. Cuối thế kỷ I TCN, Dạ Lang gây chiến tranh với các quốc gia láng giềng để mở rộng lãnh thổ và quyền lực. Theo Sử ký thì Dạ Lang đã từng phát triển rất hùng mạnh, có tới 100 nghìn quân tinh nhuệ, tàu bè của người Dạ Lang đi lại trên mặt sông, quang cảnh hết sức tấp nập. Năm 136 TCN Hán Vũ đế cử Đường Mông làm Lang trung tướng dẫn 1000 binh sĩ và mấy vạn dân đem theo lương thực và công cụ sản xuất xuất phát từ Ba quận vượt qua Phù Quan (Hợp Giang, Tứ Xuyên) đến Dạ Lang. Đường Mông tuyên truyền với Chúa Dạ Lang Đa Đồng về sức mạnh của Hán triều, ban tặng của cải để Đa Đồng cho Đường Mông đặt cơ quan quản lý ở đó và cử con trai Chúa Dạ Lang làm Lệnh ở đó. Năm 130 TCN Hán Vũ đế đặt Dạ Lang thành quận huyện và mở đường từ Ba Thục thông đến sông Tường Kha. Sau khi tiêu diệt Nam Việt, nhà Hán tấn công Thả Lan, tây nam huyện Hoàng Bình, Quý Châu ngày nay, giết chết mấy vạn người, đặt thành quận Tường Kha. Chúa Dạ Lang thấy Nam Việt của nhà Triệu bị tiêu diệt liền quy thuận nhà Hán và được Vũ đế phong làm Dạ Lang vương vào năm 111 TCN [Wade, Geoff 2009]. Về phía đông bắc Lạc Việt, văn hóa Đông Sơn cũng đã phát huy ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là khu vực Lưỡng Quảng, vốn là vùng đất của tổ tiên người Tày – Thái cổ. Đây chính là vùng đệm quan trọng, giống như một dạng phên dậu phía đông bắc cho quốc gia Lạc Việt trong công cuộc ngăn cản sự đồng hóa của phương Bắc, bắt đầu từ thời Tần (221 – 206 TCN) và sau đó là nhà Tây Hán (202 TCN – 9 SCN). Nếu như Điền quốc do một người nước Sở đến tiếm quyền cát cứ khi các thế lực phương Bắc của người Hoa tranh chấp Trung Nguyên thì hệt như vậy, Quốc gia Nam Việt của Triệu Đà cũng ra đời trong bối cảnh nhà Tần và sau đó là nhà Tây Hán không đủ sức với tay trực tiếp thống trị vùng đất Bách Việt phía nam sông Dương Tử. Dù Triệu Đà có mưu lược đến mấy thì cũng phải tự mình hòa đồng với người Việt để cát cứ và buộc phải chống lại những người chủ cũ Tần Hán của mình ở Trung Nguyên. Để tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, và có thể yên ổn cai trị Nam Việt quốc chủ yếu thuộc hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay, Triệu Đà đã thi hành những chính sách hòa hoãn và mềm dẻo với người Việt, đặc biệt là với người Lạc Việt. Trên thực tế, Đà không đủ sức đánh bại được người Lạc Việt ở vùng Bắc Bộ Việt Nam ngày nay, nên mới buộc phải cho con trai là Trọng Thủy gửi rể ở cung đình của An Dương Vương tại Cổ Loa, và đến lúc lừa chiếm được Âu Lạc thì cũng chỉ để lại hai quan sứ cai quản Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi [Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991]. Đây cũng chính là thời kỳ văn hóa Đông Sơn đã có những ảnh hưởng sâu đậm đến các dân tộc trong vùng Đông Nam Á như Lào, Thái Lan, Malaysia, và Indonesia, mà đại diện là chiếc trống đồng Đông Sơn nổi tiếng. Một số trống đồng Đông Sơn tìm thấy ở sâu trong địa phận Lào như trống Đon Đét, trống Phôn Xa Vẳn, trống Huổi Hủa Xang I và II, trống Viêng Xay ở vùng mường Viêng Xay của tỉnh Sầm Nưa [Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987]. Tại Thái Lan đã phát hiện được 22 chiếc trống đồng Đông Sơn [Trịnh Sinh 1988: 93-102]. Đó là những trống đồng tìm được trong hang Ongbah giống với trống đồng Quảng Xương, Hữu Chung [P. Sorensen 1979], trống đồng tìm thấy ở hang Thung Yang [R.B. Smith 1979]. Trong địa phận Việt Nam về phía nam, dấu tích văn hóa Đông Sơn được phát hiện tại Sa Huỳnh, di tích Gò Quê, xã Bình Đông, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; một loạt trống đồng tìm thấy ở ven biển như ở Nha Trang, Vũng Tầu. Trống đồng còn thấy ở Cao Nguyên Đắc Lắc, ở vùng núi Bình Định, Bình Dương. Vượt ra ngoài Việt Nam về phía nam các nhà khảo cổ cũng tìm thấy trống Đông Sơn ở Ko Samui, tỉnh Surathani, miền nam Thái Lan, chỉ cách bờ biển có 300 m. Vùng bờ biển của Malaysia cũng phát hiện được trống Đông Sơn, điển hình là hai chiếc trống Kuala Torengganu I và II ở bờ phía đông của bán đảo nước này. Vùng Kampon Sungai Lang cũng tìm được 2 trống Đông Sơn cùng được chôn ngửa trong một vò gốm và trống được trang trí hoa văn hiện thực khá đẹp như chim bay, hình người hoá trang lông chim, tượng cóc. Đặc biệt ở vùng quần đảo Indonesia phát hiện khá nhiều trống đồng Đông Sơn trên các đảo, điển hình như trống Xiandua, đảo Java. Đảo này còn có nhóm trống Somarang, trống Dieng. Trên đảo Sumbava có nhóm trống Sanghi gồm 6 chiếc là trống Đông Sơn trang trí đẹp. Trên các đảo Roti, Salayar và nhiều đảo nhỏ khác cũng tìm thấy khá nhiều trống Đông Sơn. Quần đảo Kai, gần Irian Jaya, có lẽ là vùng tìm thấy trống đồng Đông Sơn xa nhất về phía đông mang dấu tích giao lưu văn hoá. Trống đồng Đông Sơn có mặt ở quần đảo này muộn hơn, có thể được nhập từ Bắc Việt Nam vào khoảng 200 năm trước Công Nguyên [Trịnh Sinh 1997]. Hầu hết các nhà nghiên cứu Đông Nam Á đều cho rằng quá trình Ấn Độ hóa về phương diện văn hóa vùng này được định niên đại từ thế kỷ II SCN, nhưng thật ra thì tri thức của người Ấn Độ về vùng này lại cổ xưa hơn rất nhiều. Và đúng là tri thức Hy Lạp thời Ptolemy về khoảng cách giữa các vùng tại Đông Nam Á chỉ là sản phẩm phụ của thương mại. Sarkar cho rằng sự truyền bá của Đạo Phật một cách rộng rãi trong thời Asoka (270-230 TCN) đã làm biến đổi hẳn tri thức về Đông Nam Á từ một vài vùng đất mới chỉ được biết một cách mơ hồ đối với vùng phía nam Mianmar vốn được gọi là Suvarnabhûmi-Vùng đất vàng, cho đến Suvarnadvîpa – Vùng Đảo vàng với tư cách là một cánh cửa mở vào Trung Quốc [sarkar H.B. 1981]. Trong khi đó quá trình giao lưu văn hóa giữa Đông Nam Á và Ấn Độ thể hiện thông qua con người, các loại gia vị và các loại cây trồng đã được khảo cổ học phát hiện từ giai đoạn 1000 đến 400 năm TCN [Laffan, Michael 2005]. Ở Bắc Việt Nam, dấu ấn của Asoka đã được sách Giao Châu ký của Lưu Hân Kỳ ghi lại như sau: Con sông Trường Giang (sông Hồng) chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê nghe nói do A Dục Vương xây; thành này ở phía đông nam huyện An Định, tháp và giảng đường xưa vẫn đó [Lịch Đạo Nguyên (chú) 2005: 433]. Còn phương tiện để liên lạc với thế giới bên ngoài thì đã có thuyền đồng, như sách Lâm Ấp ký làm chứng: từ Giao Chỉ đi về phía nam, có sông ngách Đô Quan Tái Phố chảy ra…phía bắc kèm theo sông Trường Giang (sông Hồng) trong sông có chiếc chiếc thuyền đồng do Việt Vương đúc, lúc nước triều xuống người ta có thấy chiếc thuyền ấy (Lịch Đạo Nguyên (chú) 2005: 433). Vì vậy việc thế giới Ấn Độ và Lạc Việt đã có quan hệ tối thiểu là từ thời Asoka अशोकtrị vì (299 – 232 TCN) là điều hoàn toàn có thể, và chỉ cần thông qua người Ấn và người Ả Rập thì người Hy Lạp – La Mã cũng có thể thu thập được tư liệu về phương đông, về Lạc Việt cho thư viện Alexandria, và có thể dễ dàng biết đến một đô thị Kattigara huyền thoại của người Lạc Việt. Marcianus Heracleota, một nhà địa lý Tiểu Hy Lạp, sống sau Ptolemy khoảng hai trăm năm (thế kỷ IV SCN), được coi là người có thẩm quyền tri thức để diễn giải Ptolemy cũng mô tả con đường từ bán đảo Vàng đến Kattigara như sau: bơi về phía nam, rẽ trái hướng đến đất Sinae về phía đông, đến một vịnh lớn có nhiều thú hoang, bơi theo vịnh lớn gọi là vịnh Sinea, nơi con sông Cotiaris chảy vào vịnh, ngược theo sông đó thì đến Kattigara [Caverhill, John 1767]. Dù người ta vẫn nhầm lẫn vịnh này là Vịnh Thái Lan, nhưng tên con sông thì lại gọi là sông Giao Chỉ (Cotiaris). Có một điều rất lạ là đến thời Marcianus đã có các thương đoàn và sứ bộ đi về giữa Alexandria và Trung Quốc, đã ghé qua Giao Chỉ, con đường tơ lụa trên biển đã hình thành, nhưng diễn giải của ông và rất nhiều người khác vẫn không cho biết chắc chắn Kattigara ở chỗ nào, và càng về sau thì người Châu Âu lại càng bối rối trong việc xác định địa danh này như chúng ta đã thấy. Trong số khá nhiều nhà Địa lý học tìm kiếm vị trí của Kattigara mà chúng ta có thể tiếp cận được cho đến hiện nay thì có lẽ mô tả của nhà địa lý kiêm bản đồ học lớn người Pháp Bourguignon d'Anville (1697-1782), là một diễn giải kỹ lưỡng hơn cả. Chọn cái tên Sinae trong Địa lý của Ptolemy làm xuất phát điểm ông cho rằng cái tên đó là để thể hiện Cochin-China, đối với những người Châu Âu thì cái tên ấy chính là Giao Chỉ, có nghĩa là Bắc Kỳ của Việt Nam. Theo ông những người Ả Rập đã gọi Giao Chỉ là Sines, nhờ đó mà Ptolemy biết được đó là dân Sines. Kinh đô của dân Sines được Marinus và Ptolemy gọi là Thyna và đó là từ Latin của Sinae. Kinh đô ấy nằm cách cửa biển của con sông Cotiaris - Giao Chỉ một khoảng xa và về phía trái của con sông này có một con sông khác có tên gọi là Senus, và con sông này chính là sông lớn Camboia, cách cửa biển 80 leages (344km, 1 league = 4.3km). Ở đó có hai nhánh sông khác, còn sông chính nằm về phía bên phải là sông Cotiaris, dẫn đến một đô thị mà nhà Địa lý học Ả Rập kia nói là rất nổi tiếng về buôn bán, đó là Loukin, và đó chắc là Thinae của Ptolemy. Nhưng còn cái kinh thành của người Sines mà các nhà địa lý Ả Rập gọi là Sin, và các cuốn sử ký của Trung Quốc gọi là Tehen-tehen thì lại là nơi hẻo lánh hơn Loukin, có tên gọi là Sinhoa đã từng là một đô thị phồn thịnh nhất của Giao Chỉ khi cảng thị này chưa bị sa bồi vùi lấp [d'Anville 1810: 128-133]. Trong trường hợp trên có lẽ d'Anville đã có một số nhầm lẫn về địa danh với Cửu Chân, tên gọi xứ Thanh dưới thời Hán, nhiều khả năng ông đã sử dụng tư liệu hoặc hỏi chuyện các nhà buôn và/hoặc các nhà truyền giáo đã đến Việt Nam rất nhiều vào thế kỷ XVII, XVIII, mà không đặt chân đến Bắc Bộ Việt Nam nên một hai tên sông có thể nhầm với Campuchia. Trong công trình của ông, một số địa danh nghe khá lạ, tuy nhiên vẫn có thể phân biệt được, chẳng hạn Loukin thì người Châu Âu viết nhầm địa danh Long Biên, còn Tehen-tehen có tên gọi Sinhoa thì có vẻ là Thạch Thành, thành đá của nhà Hồ ở Thanh Hóa, chỉ có điều đó không phải là một cảng thị. Tuy nhiên khi nói về Kattigara và xác định nó thuộc Bắc Bộ Việt Nam thì d'Anville lại tỏ ra bám khá sát vào hướng dẫn của Ptolemy, đặc biệt là các ghi chú của ông nói rằng đô thị đó “ở mãi trong hẻm núi, cuối vùng đồng bằng” trên đường bơi tới đó “hai bên có những dãy núi lớn sừng sững” (chương 13-14 tập Địa lý của Ptolemy). Vậy thì có thể lý giải như thế nào về các lầm lẫn suốt gần 2000 năm qua trong việc xác định chính xác địa danh và vị trí địa lý Kattigara? Một kịch bản có thể hình dung là Alexandros đã thực sự bơi đến Kattigara vào thời điểm cuối cùng trước khi đô thị này đã bị quên lãng, còn những người khác, trong đó có sứ bộ của Antonius thì đến vùng đô thị mới của Giao Chỉ, chứ không phải là Kattigara. Chính vì vậy mà về sau người ta không còn biết tìm Kattigara ở đâu nữa. Nếu căn cứ vào mô tả trong ghi chú của Ptolemy và trong sự hình dung của d'Anville thì Kattigara chính là vùng Kinh đô Phong Châu huyền thoại của người Việt cổ mà vào giai đoạn trước sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng nơi đó vẫn còn là Kinh đô Lạc Việt, dù đã có một thời Cổ Loa thay thế vị trí của nó theo một nghĩa nào đó, trong một thời điểm rất ngắn ngủi, nhưng đối với người Lạc Việt thời đó thì sự xuất hiện của Cổ Loa trong vòng vài chục năm vẫn chưa đủ để xóa đi ký ức của họ về kinh đô Phong Châu huyền thoại, vốn đã trở thành vị trí trung tâm văn minh Việt cổ hàng ngàn năm trời rồi. Ấy là chưa kể xuất thân còn chưa mấy rõ ràng của Thục Phán, chủ nhân thành Cổ Loa và mối quan hệ phức tạp giữa Thục Phán và Nam Việt Vương gốc Hán Triệu Đà trong một bối cảnh ngàn cân treo sợi tóc của hàng trăm ngàn con dân Lạc Việt trước nguy cơ bị Hán hóa. Vì vậy trước sau công nguyên, Kinh đô Phong Châu vẫn là trái tim của mọi con dân nước Việt, và nói tới vùng đất Lạc Việt là phải nói tới Kinh đô Phong Châu. Hơn nữa, về phương diện địa lý, trong thời gian ấy, khi vịnh Bắc Bộ còn ăn sâu vào gần đất Hà Nội thì vùng ngã ba Bạch Hạc vẫn mang bóng dáng là một loại cảng biển, với cảnh hàng năm Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh nhau với Sơn Tinh dưới chân núi Tản Viên. Lúc đó Hà Nội vẫn còn các làng Láng lênh láng nước, và vùng Mê Linh, quê hương Hai Bà Trưng vẫn còn là những vùng nước Mlênh – Mlang (Mênh Mang) về phía bắc tràn lan lên đến vùng Yên Lãng gần Vĩnh Yên bây giờ, còn về phía nam thì thông ra biển ngay sát quê chồng bà Trưng Trắc ở cửa sông Châu Giang, giáp với thành phố Hưng Yên ngày nay. Chỉ sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, cùng với những chính sách đồng hóa thâm độc của Mã Viện bằng cách tiêu diệt tận gốc các tinh hoa Việt, cướp hết trống đồng - biểu tượng tinh thần Lạc Việt - nung chảy để đúc ngựa và đúc cột đồng, truy sát đến tận diệt các cừ soái Lạc Việt, hòng bắt người Lạc Việt phải quên đi quá khứ huy hoàng của mình thì cái tên Kinh đô Phong Châu mới dần dần bị khuất lấp sau tấm màn đen của chính sách khủng bố đại Hán tộc mà Mã Viện và những hậu bối của ông ta thực thi. Trong bối cảnh đó, có lẽ giống như một định mệnh, cái kinh đô có thật kia, cái tên Kattigara đã từng một thời thân quen như máu thịt kia đã vang lên lần cuối cho đến tận trời Tây của Ptolemy và các tiền bối của ông, để rồi khuất lấp vào dĩ vãng và sống dưới dạng các mảnh vụn huyền thoại Việt dưới màn đêm đen nghìn năm Bắc thuộc, đến nỗi mới có một hai trăm năm sau người ta chỉ còn biết đến lỵ sở Liên Lâu, Luy Lâu thời kỳ đầu Bắc thuộc, và tiếp đó là vùng đô thị Long Biên ngày một trở nên phồn thịnh cùng với quá trình biển thoái, và đồng bằng châu thổ sông Hồng ngày một vươn xa về phía biển. Đương nhiên đối với các nhà địa lý Hy-La và Ả Rập, cái tên Kattigara không có ý nghĩa gì khác hơn là một địa danh được lấy làm cực đông của địa cầu để chứng minh cho học thuyết địa tâm Hy Lạp. Chính vì vậy ngay cả sau này, khi đã biết quá rõ Trung Quốc nhưng người phương Tây vẫn không thể nào tìm kiếm được Kattigara, không thể nào biết được Kattigara ở đâu. V. Kattigara - Kinh đô huyền thoại Việt Phải công bằng mà nói Bình Nguyên Lộc đã và sẽ còn đồng hành lâu dài với sự nghiệp nghiên cứu nền văn minh Việt cổ khi ông gắn Việt tộc với Mã Lai, dù theo cung cách quay đầu xuống đất. Chính vì vậy, theo tôi, với trường hợp Kattigara ông đã đọc gần đúng nghĩa của cụm từ này theo cách đọc của người Việt cổ, nói cách khác là theo cách đọc của (một bộ phận) tổ tiên người Malayo. Từ một vài từ gốc được người Hy-La cổ đại viết thành một từ đa âm tiết, ông đã tách được thành ba từ riêng biệt theo đúng phong cách và cấu trúc ngôn ngữ Việt, trong đó Ka được đọc thành Kẻ, Ti được đọc thành Thị, còn Gara được đọc thành Ghe (thuyền). Theo tôi, ông đã gần đúng với trường hợp chữ Ka, còn Ti và Gara thì chưa đúng, cho dù ông rành rẽ tiếng Mã Lai, như ông đã nói và đã thể hiện trong hai tác phẩm quan trọng Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam và Lột trần Việt ngữ. Lầm lẫn của ông, có lẽ xuất phát từ việc ông bị định kiến trước với từ Thị của người Hoa tại Sài Gòn xưa, và đặc biệt có lẽ còn hơn cả định kiến trước, ông đã bị ám ảnh với từ Gay (ghe thuyền) trong tiếng Mã Lai, nên đã lập tức tách thành một từ gọi là Gara để đọc thành Gay. Ấy là chưa kể về phương diện lịch sử, Hòn Gay chỉ thực sự có mầm mống một đô thị kể từ năm 1878, khi nhà buôn người Thanh là Ngô Nguyên Thành xin chính quyền Tự Đức cho khai mỏ than tại vùng này; và đặc biệt là kể từ khi Pháp đánh chiếm Quảng Ninh năm 1883 cho đến Thế chiến I, với chính sách đẩy mạnh khai thác thuộc địa phục vụ cho chính quốc [Trần Văn Giàu 1961]. Còn gần 2000 năm trước thì vùng Hòn Gay có lẽ vẫn chỉ có những vạn chài thưa thớt với những con thuyền và kiếp sống lang thang rày đây mai đó mà thôi. Giống Bình Nguyên Lộc, tôi cũng hiểu Kattigara là một cụm từ tiếng Việt cổ, chứ không phải là tiếng Phạn hay một thứ tiếng nào khác, để ghi lại một địa danh Việt cổ nổi tiếng; từng từ trong cụm từ đó có nghĩa rất rõ ràng; cả cụm từ được viết rất đúng với cấu trúc tiếng Việt, và không hề nhầm lẫn. Tuy nhiên vì là tiếng Việt cổ, cách xa chúng ta hàng 2000 năm ròng, nên muốn hiểu hết nghĩa của các từ cổ đó thì cần phải so sánh nó với các ngôn ngữ liên quan, trong đó có tiếng Mã Lai. Giống với Bình Nguyên Lộc tôi cũng tách cụm từ đó thành ba từ riêng biệt, nhưng khác với Bình Nguyên Lộc, tôi không tách cụm từ đó thành Ka-Ti-Gara, mà thành Kat-Tiga- Ra. Và cũng khác với Bình Nguyên Lộc, trong ba từ của ông có một từ ngoại lai là Ti (Thị), còn trong ba từ của tôi không có bất cứ từ ngoại lai nào, mà là ba từ tiếng Việt cổ, hoàn toàn cổ, đến mức là ngày nay hầu như người ta không hiểu được rõ ràng, vì vậy cần phải diễn giải các từ này một cách chi tiết hơn. Trước tiên với trường hợp chữ Ra, theo các nhà ngôn ngữ học trong địa danh thuần Việt, dạng ngữ âm Ra có các biến thể la, lô, rào dùng để chỉ các con sông, chẳng hạn sông Hồng cũng mang tên là Lô, một nhánh sông từ Tuyên Quang nhập vào sông Hồng ở Việt Trì cũng mang tên Lô; về ngữ âm la, có sông La ở Hà Tĩnh, suối La ở Quảng Trị; về biến thể Rào, có Rào Quán ở Quảng Trị, Rào Nậy- sông Gianh ở Quảng Bình, Cửa Rào- Nậm Nơn hợp thành sông Cả ở Nghệ An v.v.. [Trần Trí Dõi 2008]. Bên cạnh các tương đồng và biến đổi trên, chúng ta còn thấy ở Việt Nam và Đông Nam Á, sự biến đổi rất phổ biến giữa bán nguyên âm ya, các nguyên âm kép ia, ea, ai, ay (sông nước) trở thành các dạng có phụ âm đầu như ba, da, đa, tạ, đạ, đà, đái, đak, đáy, pa, trà vẫn để chỉ sông nước, ở miền Bắc có Tạ Khoa, Tạ Pú, sông Đà, sông Đáy; đặc biệt là ở các vùng miền Trung – Tây Nguyên có vô số sông suối mang tên Ia, Ea, Trà, Đạ, Đak như Ia Ly, Ea Hleo, Trà Giang, Trà Bồng, Trà Cú, Đạ Đờng, Đạ Tẻ, Đạ Hoai, Đak Bla, Đak Lak, Đak Krông, v.v.... Cho nên hiện tượng biến âm giữa ia, ea, tạ, đà, lô, la thành ra để chỉ sông nước trong cụm từ cổ Kattigara là điều rất bình thường. Và như vậy hoàn toàn có thể đọc Ra là sông, nước. Riêng với trường hợp từ Kat nếu bỏ phụ âm cuối [t] còn lại Ka thì đúng là một đặc sản Việt cổ xuất phát từ cuộc sống gắn liền với sông biển. Trong môi trường cư trú của người Việt cổ - một bộ phận của tổ tiên người Malayo-Polynesian - chúng ta thấy có ba từ tạo thành một hệ thống sinh thái nước hoàn chỉnh, đó là Cái để chỉ vũng vịnh ven biển, nơi con người có thể tụ tập thành cộng đồng và sinh sống lâu dài. Vùng biển Quảng Ninh, vịnh Hạ Long và Hải Phòng điển hình cho môi trường này. Ở khu vực này vẫn còn thấy rất nhiều địa danh có từ Cái như Cái Bầu, Cái Lân, Cái Làng, Cái Bèo, v.v... Những vùng này ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán cho nên ít thấy có trường hợp sử dụng từ Hán Việt để mô tả từ này ở khu vực Quảng Ninh, Hạ Long. Nhưng lùi về bờ biển phía đồng bằng Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, chúng ta thấy có hàng loạt từ Hải, chắc chắn đã được dùng thay cho từ Cái, đó là Hải trong Hải Phòng, Hải Hậu. Ở Hải Phòng còn thấy một số địa danh cải biến Cái thành 吉Cát hoặc lai giữa Việt và Hán Việt, trong đó có thể từ Cát là tiếng Việt thay cho từ Cái như Cát Bà, hoặc Cát Cụt, Cát Dài nhưng đối với trường hợp Cát Hải thì lại có thể được diễn giải bằng hai từ Hán 吉海, trong khi vẫn tồn tại địa danh Cái, chẳng hạn Cái Tráp huyện Cát Hải. Có lẽ các biến đổi địa danh trên diễn ra muộn, không xa ngày nay là bao nhiêu. Riêng từ Cửa cũng khá phức tạp, vì từ này được dùng để mô tả các cửa sông chảy ra biển, hoặc cửa sông chảy vào một con sông chính nào đó. Hầu hết các vùng này đều dần dần trở thành thủ đô hoặc các đô thị, các trung tâm quan trọng của vùng, nên khi bị người Hán đô hộ, từ Cửa đã được khoác bằng một hai chiếc áo Hán để ghi bằng các âm tương ứng trong tiếng Hán như 古Cổ (Cổ Loa, Cổ Đô (cạnh ngã ba Hạc Trì), Cổ Lương (Hà Nội), hoặc Khả 可(Khả Lũ - Cổ Loa; Khả Lạc - Kinh đô của người Dạ Lang cũ nay thuộc Quý Châu, Trung Quốc) chẳng hạn. Như vậy trong hầu hết các trường hợp thì Cổ - Khả là để chỉ một loại trung tâm như Kinh đô, hoặc chính là Kinh đô. Riêng với Kẻ, giống như trường hợp Cái, vì xa các trung tâm đô thị Hán hóa và ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán nên nó vẫn tồn tại nguyên vẹn với tư cách là một từ tiếng Việt, cho dù có một hai âm đọc tương ứng khác là Kẽ, Khe, và cũng có thể được viết bằng từ Hán 溪Khê. Đây là những địa điểm tụ cư tại cửa các con sông nhỏ, hoặc cửa các con ngòi, lạch nhỏ chảy vào một vùng nước, hoặc một con sông chính. Vì vậy về cấu trúc phân cấp xã hội phải có một loạt Kẻ phụ thuộc vào một Cửa – Cổ - Khả nào đó. Trong lịch sử thủy cư Việt thì ba từ trên tương ứng với ba quy mô lớn nhỏ khác nhau. Về mặt nguyên ủy, nếu chỉ sống dựa vào tự nhiên thì Cái có quy mô diện tích lớn nhất, và cũng có thể nuôi chứa được một dân số đông nhất vì nguồn lợi thiên nhiên dồi dào của nó. Tuy nhiên khi nông nghiệp, thủ công nghiệp và đô thị phát triển thì Cửa - Khả - Cổ lại là môi trường thuận lợi nhất để nuôi chứa được một dân số lớn đến mức khó tưởng tượng đối với con mắt của người quen nhìn cuộc sống phụ thuộc vào các nguồn thuần túy tự nhiên. Cuối cùng Kẻ vẫn là quy mô làng thôn theo đúng nghĩa của từ khe, ngòi chỉ đủ nguồn lợi để nuôi chứa được một cộng đồng dân số nhỏ bé. Riêng Kẻ Chợ là một khái niệm phiếm chỉ, có lẽ nó ra đời cùng với lớp thị dân vừa thoát khỏi thân phận nông nô, hoặc nông dân tự do nghèo khổ, là những người sống bên lề của xã hội quan lại, quý tộc phong kiến. Vì vậy Kẻ Chợ không nằm trong hệ thống Cái, Cổ, Kẻ truyền thống Việt, mà lại là một từ có vẻ tiên báo về một giai cấp tiểu tư sản thị dân đang xuất hiện và dần dẫn trở thành chủ đạo, giống như các thành thị Châu Âu thời Cận đại vậy. Tuy nhiên vấn đề ở đây lại không phải là chữ Ka, mà là Kat. Liệu có phải Marinus, Ptolemy và những người trước họ đã viết thừa một phụ âm [t]; nếu họ viết thừa một phụ âm [t] thì khi tách ra sẽ đúng là có ba từ Ka-Tiga-Ra mà thôi. Nhưng theo tôi chắc không có chuyện viết thừa phụ âm [t] ở đây. Tôi đã kiểm tra lại nguyên bản viết tay tiếng Hy Lạp của Ptolemy do thư viện Paris công bố [Ptol. Geograph. l.i.c. 17. Paris, 1546, Lib. i, c. 14] thì thấy tất cả đều được viết là Καττιγαρα[3] với hai phụ âm [t]. Như vậy khi tách cụm từ đó thành ba thì sẽ là Kat – Tiga – Ra, và vấn đề sẽ trở nên khó khăn, rắc rối hơn, vì sẽ không còn là Ka để có thể đọc là Khả, Kẻ, Cổ nữa. Như vậy thì không thể đơn giản bỏ một phụ âm [t] đi để đọc cho thuận được. Chỉ còn cách duy nhất là phải thử đọc chữ Kat đó, và tất nhiên cũng phải đọc nó là một từ tiếng Việt. Tôi nhớ hồi còn nhỏ ở quê, bà nội và bà ngoại tôi rất già, không bao giờ gọi Việt Trì, mà chỉ gọi là Vật Trì, dù bà ngoại là người Bạch Hạc. Tại sao các bà lại nhầm lẫn hoặc nói nhịu kiểu đó? Trong thực tế khả năng biến âm giữa [iê] (chẳng hạn từ thiệt) và [â] (chẳng hạn từ thật) của Việt và Vật là thông thường. Nhưng điều đó có ý nghĩa gì không? Tôi nhớ cạnh Việt Trì, bên huyện Ba Vì, sát kề sông Đà có xã Vật Lại. Và tôi cũng đã từng đọc mấy câu thơ nổi tiếng của sĩ phu Ngô Quang Bích (1832 – 1890) làm quan lâu năm ở xứ Hưng Hóa và gắn bó máu thịt với non nước nơi này; chính vì vậy ông đã có được những vần thơ để đời như hai câu 眾水皆東走, 沱江獨北流Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu; vừa mượn hướng chảy của sông Đà để nói về chí khí của mình, vừa nói về kinh đô Phong Châu, nơi hồn thiêng núi sông ngàn năm hội tụ. Vậy thì chắc hẳn chữ Việt trong Việt Trì, được viết Kat là biến/hoán đổi âm của Vật ↔ Quật ↔ Quặt ↔ Kat được dùng để mô tả dòng Hắc Long – sông Đà chảy vật lại, quật lại, quặt lại, quay lại, từ phía tây nam ngược lên phía bắc; dòng Thanh Long – sông Lô từ phía đông lượn sát Việt Trì quành về phía tây bọc lấy Bạch Hạc; còn dòng Xích Long – sông Hồng đón nước Đà giang rồi lượn vòng hẳn về phía đông hợp lưu với Lô giang, trở thành ba con rồng thiêng quần chầu ôm lấy vùng Đất tổ, tạo thành một Đại huyệt đạo Kattigara. Tuy nhiên, thử thách lớn nhất trong ba từ trên chính là Tiga, thật không dễ tìm được một từ nào trong vốn tiếng Việt hiện đại tương ứng để suy luận nghĩa của nó. Chính vì vậy, chúng tôi đã phải tìm đến các ngôn ngữ gần gũi hoặc có quan hệ với tiếng Việt, mà trước hết là các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Malayo-Polynesian. Và ở đây chúng tôi đã tìm thấy một gợi ý rất có ý nghĩa, khi phát hiện ra Tiga chính là số 3 (Ba) trong hệ số đếm của các ngôn ngữ Malayo-Polynesian như dưới đây (Anderbeck K. R. 2008): Malay: TigaIndonesian: TigaJavanese: Tiga, TeluBalinese: Tiga, TeluSundanese: Tilu Toraja: TalluTagalog: TatloAcehnese: Lhè Nhìn bảng trên có thể thấy các ngôn ngữ Balinese, Indonesian, Javanese, và Malay vẫn còn giữ được nguyên vẹn số đếm Ba từ thời cổ đại, trong khi đó các ngôn ngữ còn lại đã có những biến đổi hoặc đôi chút khác biệt, tuy nhiên vẫn có những mối liên hệ ngữ âm rất rõ ràng và có tính quy luật. Bình Nguyên Lộc đã chứng minh rằng người Việt cổ cũng sử dụng hệ số đếm này trong cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Còn bản thân chúng tôi vẫn chủ trương khu vực văn hóa Soi Nhụ - Cái Bèo - Hạ Long của người Việt cổ là một trong những cội nguồn của người Malayo-Polynesian, nên đương nhiên ngữ hệ Malayo-Polynesian cũng là một cơ tầng ngôn ngữ Việt. Chính vì vậy ở đây chúng tôi không chứng minh lại nữa, mà chỉ xem xét riêng về khả năng biến đổi những từ đa âm tiết trong tiếng Việt cổ thành từ đơn âm tiết sau khi tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ - văn hóa Hán. Một trong vô vàn trường hợp đó chính là từ Tiga đã biến đổi thành một từ đơn tiết trong tiếng Việt hiện đại là Ba. Như trên chúng ta đã thấy, bên cạnh Tiga của các ngôn ngữ Indonesian, Javanese, Malay đã xuất hiện phụ âm [l] trong chính các từ số đếm Ba của các ngôn ngữ Javanese, Balinese, Sundanese, Toraja, Tagalog, và Acehnese. Trong tiếng Việt, có thể thấy rất rõ sự biến âm giữa [t] ~ [bl]; đặc biệt là vẫn còn rất nhiều hiện tượng biến đổi trực tiếp [g] → như: gạy → bẩy, gói → buộc, gập → bẻ, gò → bó, gạt →bạt, guá → bụa, gả → bán. Vì vậy trong trường hợp này, quá trình đơn tiết hóa có thể diễn ra như sau: tiga → tiba → tba → ba. Vậy là chúng ta đã đọc được cụm từ Kattigara, và đến đây thì ai cũng biết là cụm từ ấy có thể diễn giải theo nghĩa đen là Vùng đất Ba sông Cuộn lại, nói theo cách hiện đại là Thành phố Ngã ba sông, Thành phố Việt Trì. Còn trong lịch sử và tiềm thức thì người Việt vẫn coi đó là Kinh đô Phong Châu của nước Văn Lang, Kinh đô huyền thoại của các vua Hùng, của người Lạc Việt. Như thế có nghĩa là cái đặc trưng lớn nhất của vùng đất linh thiêng này là nơi hợp lưu của ba con sông, và ngay cả đặc trưng 北流bắc lưu của Hắc Long – Đà Giang cũng đã được người xưa ghi nhận trong chính cái tên mà họ đã gọi nó. Tuy nhiên có một số vấn đề cơ bản về ngữ âm học lịch sử, danh pháp học lịch sử liên quan đến những từ cổ để gọi Kinh đô Phong Châu vẫn còn lại ở vùng này, đó là chữ Trì trong địa danh "Việt Trì". Chữ Việt thì mọi người đều có thể dễ dàng đồng ý là về sau người ta có thể dùng từ chữ Hán là 越Việt trong cái tên quen thuộc Việt Nam. Nhưng còn chữ 池Trì được ghép thành 越池Việt Trì để giải thích là Ao Việt thì không có nhiều sức thuyết phục so với cả trường ý nghĩa rất sâu sắc gắn liền với Kinh đô Phong Châu huyền thoại của dân tộc. Chúng tôi chỉ tạm thấy yên tâm với chữ Trì khi mạo muội cho rằng đó có thể chính một mảnh ngữ âm còn rớt lại từ quá trình biến đổi nghĩa tiga thành ba, nhưng về phương diện ngữ âm thì lại vẫn lưu giữ một mối liên hệ ngầm theo con đường giữa tiga với ti, tli, để rồi cái mảnh ngọc nhỏ xíu quý báu đó đã ẩn mình sau tấm áo Hán 池trì (ao);và một lần nữa lại long đong cùng các cố đạo Pháp, khi họ dùng chữ cái Latin để ghi âm tiếng Việt thì ti hoặc tli hoặc âm trì trong tiếng Hán của địa danh này đã chính thức trở thành chữ Trì trong hai chữ Việt Trì, vẫn được giải thích là Ao Việt. Nhưng vẫn không hết băn khoăn, vì bên cạnh chữ Việt Trì, vẫn còn một chữ quen thuộc khác là Hạc Trì. Vậy thì Hạc là gì? Về phương diện thuần túy danh pháp thì có thể diễn giải Hạc Trì là Ao Hạc, nơi có nhiều hạc, sếu đến kiếm ăn. Trong thực tế có thể có chuyện đó, và đúng là có chuyện đó. Vào cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX, khi người viết bài này còn nhỏ, nhà bên dòng sông Lô, cách Việt Trì không bao xa, vào mùa thu chúng tôi vẫn thấy những đàn sếu, bồ nông chân dài, mỏ dài, sải cánh lớn bay về kiếm ăn bên dòng sông vẫn còn rất êm đềm, vắng vẻ. Vì vậy nếu hình dung khoảng hơn 2000 năm trước, cùng với quá trình biển thoái, cả một vùng đất ngập nước bao la, màu mỡ của Ngã ba sông hiện ra, thì đúng là nơi “đất lành chim đậu”. Bên cạnh đó, có thể còn những khả năng khác để diễn giải chữ 鶴Hạc. Trước hết, trên các trống đồng Lạc Việt có hình khắc chim hạc, sếu. Vì vậy có thể hạc, sếu được sử dụng làm biểu tượng của cư dân Phong Châu nói riêng, làm biểu tượng của người ở nơi cao ráo, ít bị ngập úng, thuộc vùng đồi núi, vùng của mẹ Tiên, người ở trên núi Tiên, mà chữ trên trong tiếng Việt cổ có thể có nguồn gốc từ tlên, tliên, chiền, tiên vẫn còn có thể quan sát được. Ngoài ra cũng còn một cách khác để diễn giải chữ Hạc từ khả năng tương đồng âm giữa chữ Kat và chữ Hạc. Trong tiếng Trung Quốc phổ thông hiện đại, chữ Hạc được phát âm là hứa, khứa, còn những nhóm người khác nhau ở Đài Loan và Quảng Đông thì phát âm là hộc, hạc, hác, khác, khách không xa âm Kat trong tiếng Việt cổ. Tuy nhiên tích truyện xưa lại lý giải cái tên Bạch Hạc với cây Chiên đàn “cao hàng nghìn nhẫn, tỏa ra một vừng rộng, che rợp như rừng, có đến hàng nghìn dặm, thường có đôi hạc đậu ở trên nên gọi là Bạch Hạc” [Vũ Quỳnh 1993: 95] thì rõ ràng có màu sắc Phật giáo. Trước hết là hình tượng cây Chiên đàn, 栴檀树Chiên đàn thụ - là loại cây quý, màu vàng tro, tỏa hương thơm ngào ngạt, người xưa dùng để tạc tượng Phật. Theo Kinh Tăng nhất A hàm, quyển 28, trong thời gian đức Phật lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp độ mẫu thân, vua Ưu Điển (Udayana) không được đảnh lễ Ngài, nên sinh bệnh. Các quan lấy cây Chiên đàn tạc pho tượng Phật cao 5 thước, vua liền khỏi bệnh, và đó chính là pho tượng đầu tiên của Đức Phật tại Ấn Độ. Vì vậy hình tượng cây Chiên đàn tại Bạch Hạc chính là cây Chiên đàn trong tích truyện vua Ưu Điển. Cùng với hình tượng cây Chiên đàn thì hình tượng chim Bạch Hạc cũng chính là biểu tượng của Đức Phật. Kinh Đại Niết Bàn chép rằng khi đức Phật nhập niết bàn tại Sa La viên, cả rừng Sa La rủ bóng che chở Ngài, toàn bộ lá trong rừng đều biến thành màu trắng như ngàn cánh hạc trên kim thân đức Phật. Màu trắng là gốc của các màu thể hiện đức Phật nhập Niết Bàn là quay về với bản nguyên vô thủy, vô chung. Chính vì vậy các khu vườn của tăng đoàn sau này thường được gọi là Hạc lâm. Một phiên bản khác nói rằng khi đức Phật nhập Niết Bàn thì hai cây Sa La bên kim thân Ngài biến thành đôi hạc trắng, nên hai cây Sa La đó còn được gọi là Sa La Song thụ, hoặc có tên gọi khác là cây Hạc trắng. Ngoài ra sách Đại Nhật kinh sớ, quyển 3 còn nói ở Ấn Độ có loại chim Sarasa, giống như chim uyên ương, nhưng lớn hơn đôi chút, tiếng hót rất thanh nhã, loài chim này không có ở Trung Quốc, sách Tuệ Lâm Âm nghĩa dịch là Cộng hành điểu, còn gọi là Bạch Hạc – tượng trưng cho Phật tính. Vậy là dù có những phiên bản khác nhau, nhưng tất cả các hình tượng trên đều là biểu tượng của đạo Phật, của sự quay về với cái bản nguyên của con người. Tuy nhiên trong trường hợp Bạch Hạc, chắc chắn tác giả của tích truyện còn muốn sử dụng hình tượng của Phật giáo để gửi gắm tâm sự và niềm tin của người dân đất Việt vào nơi gốc tổ, coi đó không chỉ là bản nguyên của mỗi cá nhân, gia đình, mà còn là bản nguyên, là nguồn sức mạnh vô song của cộng đồng, và của cả dân tộc. Đặc biệt là khi đất nước gặp nguy nan như khi kẻ thù phương Bắc xâm lược, hoặc gặp thời tao loạn, người con dân Lạc Việt luôn luôn quay trở về tìm lại nguồn sức mạnh vô tận từ gốc tổ, từ bản nguyên, để hồi sinh, lớn mạnh, và chiến thắng. Vài lời cuối bài viếtHai nghìn năm là một quãng đường dài, nhiều hiện thực lịch sử đã trở thành ký ức, nhiều ký ức đã trở thành huyền thoại, và đến lượt mình nhiều huyền thoại đối với nhiều người chỉ còn thuần túy là huyền thoại. Có thể Hạc Thành - Phong Châu không ở trong trường hợp đó, nhưng với nhiều người, thật không dễ để nhìn thấy nó như một hiện thực sống động. Trong bối cảnh đó Kattigara - Kinh đô Ba con sông - Hạc Thành, giống như một cuốn phim, không phải ngẫu nhiên đã được Marinus, Ptolemy và những bộ óc vĩ đại khác của thế giới Hy - La ghi lại như để dành tặng riêng cho người Việt. Không phải ngẫu nhiên, vì chính bản thân Lạc Việt - Phong Châu - Kinh đô Ba con sông - Hạc Thành đã một thời tỏa rạng bên bờ biển Đông. Cái thời đó tưởng đã lùi xa, tưởng đã bị vùi lấp trong thẳm sâu quá khứ, nhưng giống hệt một chân lý, và đó chính là chân lý - những gì là giá trị thực thì sẽ vĩnh viễn tồn tại cùng con người. Kattigara là một chân lý như vậy. Tôi hình dung một ngày không xa Việt Trì - Phong Châu - Hạc Thành sẽ có một công viên, một con đường, một nhà hát, một bảo tàng, một đại học mang lại cái tên đầy âm hưởng xưa: Kattigara của những thế hệ tổ tiên vĩ đại. Ở đó bên cạnh bố Rồng, mẹ Tiên, các vua Hùng và các tiên hiền Lạc Việt, còn có những bức tượng của Alexandros, Titanus, Marinus, Ptolemy, Columbus, Magellan và nhiều vĩ nhân khác nữa - những con người đã chót bén duyên Lạc Việt. Và tương lai sẽ có những tuyến hải hành quay trở lại con đường cổ, từ Kattigara - Phong Châu - Hạc Thành tỏa đến Alexandria, Châu Phi, Châu Mỹ để tưởng nhớ những bước chân các vĩ nhân xưa trên con đường đi tìm một Kattigara huyền thoại nay đã trở về cùng hiện thực. Tài liệu trích dẫn1. Alphonse, Jean 1904. La Cosmographie, 1544 ff.150r and 151rv, in Georges Musset (ed.), Recueil de Voyages et de Documents pour servir a l'Histoire de la Geographie, XX, Paris, 1904, pp.398 and 401-2. 2. Anderbeck, Karl Ronald 2008. Malay Dialects of the Batanghari River Basin (Jambi, Sumatra). SIL International Library of Congress Catalog.3. Bình Nguyên Lộc 1971-2007. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Chương V: Dấu vết Mã Lai trong xã hội Việt Nam ngày nay. Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn 1971. Bản điện tử do talawas thực hiện ngày 13/10/2007. 4. Bridges R. C. & P. E. H. Hair (eds) 1996. Compassing the Vaste Globe of the Earth, Studies in the History of the Hakluyt Society, London. 5. Broorstin, Daniel J. 1983. A History of Man's Search to Know His World and Himself. Random House, Inc., United States of America. 6. Cary, Max 1956. Maes, Qui et Titianus. In The Classical Quarterly, New Series, 6.3/4 (July–October 1956), pp. 130–134. 7. Caverhill, John 1767. Some Attempts to ascertain the utmost Extent of the Knowledge of the Ancients in the East Indies. In Proceedings of the Royal Society of London; Philosophical Transactions, vol.57, 1767, pp.155-174. Publisher: Royal Society of London. 8. Chakravarti Adhir K. 1972. Early Sino-Indian Maritime Trade and Fu-Nan, D.C. Sircar (ed.), Early Indian Trade and Industry, Calcutta, University of Calcutta Centre of Advanced Study in Ancient Indian History and Culture, Lectures and Seminars, no.VIII-A, part I, 1972, pp.101-117. 9. Coote C.H. 1898. Autotype Facsimiles of Three Mappemondes, Aberdeen, 1898. 10. D'Anville 1810. Sinae - Compendium of Ancient Geography. In The Royal Academy of Inscription and bells lettres at Paris. Translated from the French. Vol. II, London. 11. Dreyer J.L.E. 1953. A History of Astronomy from Thales to Kepler. 2nd edition. New York: Dover Publications. 12. Đào Duy Anh 1997. Đất nước Việt Nam qua các đời – Nghiên cứu Địa lý học lịch sử Việt Nam. In lần thứ hai, Nxb. Thuận Hóa – Huế. Tp. Huế, Thừa Thiên Huế. 13. El-Abbadi, Mostafa 1992. Life and fate of the ancient Library of Alexandria (2nd edition). Paris: UNESCO. 14. Erksine A. 1995. Culture and Power in Ptolemaic Egypt: The Museum and Library of Alexandria. Greece & Rome, 2nd ser., 42(1), 38-48. 15. Evans, James 1998. The History and Practice of Ancient Astronomy. New York: Oxford University Press. 16. Ferra M.J. 2010. The maps of Claudius Ptolemy explained with a resolution of the place names including Cattigara. India Intra et Extra Ganggem – Sinea and Taprobane. http://www.cartographyunchained.com/cartographicalabstracts.html 17. Foster, William 1946. The Hakluyt Society, a Retrospect 1846–1946. In Edward Lynam (ed.), Richard Hakluyt & his Successors, A Volume issued to commemorate the Centenary of the Hakluyt Society, London, 1946 18. Griffin, Miriam T. 1976. Seneca: A Philosopher in Politics, Oxford 1976. 34. 19. Harrisse, Henry 1961. The Discovery of North America, London, 1892 (reprinted Amsterdam, N. Israel, 1961), p.583. 20. Heath, Thomas 1913. Aristarchus of Samos. Oxford: Clarendon Press, 1913. 21. Herrmann, Albert 1938. Der Magnus Sinus und Cattigara nach Ptolemaus. Compte-rendu du Congrès international de géographie (Amsterdam), pp. 123-8. 22. Hirth F. 1885. China and the Roma Orient, Text p. 42, and commentary, pp. 173-178. Shanghai & Hong Kong, 1885. 23. Institute on the Far East Works 1915. Note II. Extracts from the Geography of Ptolemy. Vol. I. Second Series No. XXXVII. Issued for 1915 by Society Cathay and the Way thither 1915. Liberary of Wellesley College Presented by Institute on the Far East Works, (Ptolemy K. 1915). 24. Laffan, Michael 2005. Finding Java: Muslim nomenclature of insular Southeast Asia from Śrîvijaya to Snouck Hurgronje. Asia Research Institute, Working Paper Series No. 52. Princeton University. 25. Lịch Đạo Nguyên (chú), Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh (sớ), Đoàn Hy Trọng (điểm hiệu), Trần Kiều Dịch (phúc hiệu) 2005. Thủy Kinh chú sớ. Nxb. Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, (Bản tiếng Việt của Nguyễn Bá Mão). 26. Malleret L. 1951. Les fouilles d’Oc-Eo (1944). Rapport préliminaire, BEFEO 1951, tr. 75-88. 27. Malleret L. 1962.L’Archéologie du delta du Mékong, Tome Troisiéme, La culture du Fu-nan, Paris, 1962, chap.XXV, “Oc-Èo et Kattigara”, pp.421-54. 28. McCrindle J.W. 1885-1974. Ancient India as described by Ptolemy, London, Trubner, 1885, New Delhi, Today & Tomorrow's Printers & Publishers, 1974, p.204. 29. Millares A. Carlo (ed.) 1951. Columbus' letter of credence.In Historia de las Indiaspor Fray BartOlome de las Casas, Mexico, Fondo de Cultura Economica, 1951, Lib.2, cap.iv, pp.219-20. 30. National Library of Australia 2010. Digital Collections – Maps – A Map of the World 1506.. http//:nla.gov.au/nla.map-f887 31. Nunn, George E. 1927. The Lost Globe Gores of Johann SchOner, 1523-1524. The Geographical Review, vol.17, no.3, July 1927, pp.476-480. 32. Nunn, George E. 1932. The Columbus and Magellan Concepts of South American Geography. Glenside, the author, 1932, pp.12-13 & 49-51. 33. Nunn, George E. 1992. The Three Maplets attributed to Bartholomew Columbus. Imago Mundi, vol.9, 1952, 12-22, p.15 34. Peillard, Leonce 1984. Antonio Pigafetta, Relation du Premier Voyage autour du Monde par Magellan, Paris, Tallandier. 35. Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987. Trống Đông Sơn. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 36. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991. Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp. 37. Priaulx, Osmond de Beauvoir 1873. Indian Embassies to Rome(J.R.A.S. xix.294) (bound with Apollonius of Tyana), London. 38. Ptolemy K. 1885. Ancient India as described by Ptolemy. Translated by J.W. McCrindle, Publisher: Trübner. 39. Rawlinson, H. G. 1916. Intercourse between India and the Western World from the Earliest Times to the Fall of Rome. Cambridge : University Press, 1916. — vi, [2], p. 196. 40. Reinaud M. 1863. Relations Politiques et Commerciales de l’Empire Romain avec l’Asie Oriental. L’hyrcanie, L’Inde, La Bactriane et La Chine p. 184, Paris. 41. Richthofen, von Ferdinand 1877-1912. China, Ergebnisse eigner Reisen und darauf gegründeter Studien (China: The results of my travels and the studies based thereon, 1877-1912, 5 vols. and atlas). 42. Riley T. M. 1995. Ptolemy’Use of his Predecessors’ Data. Transactions of the American Philosophical Association 125 (1995) 221 – 225, California State University, Sacramento. 43. Sarkar H.B. 1981. A geographical introduction to South-East Asia: The Indian perspective. Bijdragen tot de Taal-, Land- en Volkenkunde (hereafter BKI) 137-2/3 (1981): 293-323. 44. Schilder G. 1976. Australia Unveiled, Amsterdam, Theatrum Orbis Terrarum, p.10. 45. Schoener, J. 1961. Opusculum Geographicum, Norimberga, [1533], cap.xx; quoted in James R. McClymont The Theory of an Antipodal Southern Continent during the Sixteenth Century, Report of the Fourth Meeting of the Australasian Association for the Advancement of Science, Hobart, January 1892, Hobart, the Association, 1893, p.455; (reprinted Amsterdam, N. Israel, 1961), pp.525-6. 46. Serrano C. Seco (ed.) 1954-1955. Obras de Martin Fernandez de Navarrete. Madrid, 1954-55, vol.1, pp.223-5. 47. Smith R.B. 1979. Check list of “Heger type I” Bronze drums from South East Asia. ESA. New York-Kualalumpur. 48. Sorensen P. 1979. The Ongbah Cave and Its fifth drum. EAS. New York-Kualalumpur. 49. Suarez, Thomas 1999. Early Mapping of Southeast Asia, Hong Kong, Periplus, 1999, p.92. 50. Stein R. A. 1907. Ancient Khotan - Detailed Report of Archaeological Explorations in Chinese Turkestan Carried out and Described under the Orders of H.M. Indian Government. Indian Educational Service. Vol.II, Oxford at the Clarendon Press. London, Edinburgh, New York and Toronto. 51. Stein R. A., A. Herrmann 1940. Das Land der Seide und Tibet im Lichte der Antike, BFEO 1940, No.2, tr. 456-460. 52.Strabo 1917-1932. The Geography of Strabo. Loeb Classical Library, 8 volumes, Greek texts with facing English translation by H. L. Jones: Harvard University Press, 1917 thru 1932. 53. Tarn, W.W. 1928. Ptolemy II. The Journal of Egyptian Archaeology, 14(3/4), 246-260.54. Trần Trí Dõi 2008. Tên gọi của sông Hồng: Dấu tích biểu hiện nét đa dạng văn hóa trong lịch sử người Việt. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba. Hà Nội 4-7 tháng 12 năm 2008. 55. Trần Văn Giàu 1961. Giai cấp công nhân Việt Nam - Sự hình thành và phát triển của nó từ giai cấp “tự mình„ đến giai cấp “cho mình„. Nxb. Sự thật, Hà Nội. 56. Trinh Sinh 1988. A comment on the bronze drums dícovered in Thailand. Comparative Thai-Vietnamese Archaeoloy: Culture in Metal Age. Bangkok: 93-102. 57. Trịnh Sinh 1997. Nhân chiếc trống đồng Đông Sơn mới tìm được ở Triết Giang, Trung Quốc. Tạp chí Khảo cổ học, số 3 năm 1997. 58. Varela, Consuelo (ed) 1992. Lettera Rarissima, Jamaica, 7 July 1503, in Cristobal Colon: Textosy Documentos Completos, Madrid, Alianza Editorial, 1992, p.48. 59. Vespucci A. 1500-1944-1999. Amerigo Vespucci to Lorenzo de'Medici, Seville, 18 July 1500; quoted in Frederick J. Pohl, Amerigo Vespucci: Pilot Major, New York, Columbia U.P., 1944, p.77; Early Modern Literary Studies, vol.5, no.2, September 1999. 60. Vũ Quỳnh 1993. Tân đính Lĩnh Nam Chích quái. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 61. Wade, Geoff 2009. The Polity of Yelang (夜郎) and the Origins of the Name ‘China’. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, Sino-Platonic Papers, 188 (May 2009). 62. Wallis, Helen 1992. What Columbus Knew. History Today, vol.42, May 1992, pp.17-23. 63. Wieder F.C. (ed.) 1925. Monumenta Cartographica, The Hague, Martinus Nijhoff, 1925, Vol.I, pp.1-4, The Globe of Johannes SchOner, 1523-1524, and Plates 1-3. 64. Yule, H. 1882. Notes on the oldest records of the sea route to China from Western Asia. Proceedings of the Royal Geographical Society IV: 658-9. London. Nguồn: Tác giả. * Các ảnh, bản đồ trong bài do Trần Ngọc Thêm bổ sung [chú thích của người post bài]. [1]Với vốn Phạn ngữ nghèo nàn của mình, nhân tiện trò chơi ngôn ngữ của Giáo sư Chakravarti, tôi cũng xin mạo muội vui đùa tạo ra những từ tiếng Phạn dù có thể hơi ngớ ngẩn, nhưng còn gần gũi với Kattigara hơn là hai từ của ông. Chẳng hạn कटी-गिरा(Kattigira) = Bị bổ vỡ-Bị sụp đổ (hú vía! gira chứ không phải là gara - nagara); कोटि-गिरा (Kottigira) = Cường thịnh Sụp đổ (rủi là gira chứ không phải là gara - nagara); कटी-गेरा(Kattigera) = Bị bổ vỡ - Khu vực (may là gera chứ không phải là gara - nagara); còn từ कोटि-गेराKottigera = Khu vực Cường thịnh, thì nghĩa rất hay, nhưng chỉ có điều trớ trêu là cái từ này dường như vừa may (vì Kot = cường thịnh), lại vừa rủi (vì chỉ có Kot chứ không có Kat như trong nguyên văn Kattigara !). [2]Về điều này thì Bình Nguyên Lộc đã nhầm lẫn, vì Ptolemy chưa bao giờ đến Kattigara. Còn nếu ông, với tư cách là một nhà địa lý vĩ đại, chuyên đo đạc, tính toán, và xây dựng tọa độ địa lý cho cả địa cầu mà đã đến Kattigara rồi thì hậu thế sẽ không bao giờ phải bận tâm đến việc đi tìm Kattigara như bây giờ nữa. [3]Nguyên văn các đoạn bằng tiếng Hy Lạp của Ptolemy đều có hai phụ âm [t] ở chữ Kattigara in đậm dưới đây: Φησι δε Αλεξανδρον αναγράφεται την γλω εντεύθεν εναντιαν ειναι τη μεσημβρίαν, και τους πλέονταςπαρ αιτην εν ημεραις εικοσι κατα λαμβανσιν πολυ Ζαβας. Απο δε των Ζαβων προς νοτου διαπλευσαντας, και μαλλον εις τα ευωνυμα ημερας τινας, εκδεχεδαι τα Καττιγαρα. [Ptol. Geograph. l.i.c. 17. Paris, 1546, Lib. i, c. 14.]. Dịch nghĩa: Tuy nhiên Alexander thông báo rằng vùng đất từ đó choãi về phía bắc của tuyến hải hành; và những người bơi dọc theo bờ biển đó đến thành Zaba mất hai mươi ngày; từ Zaba bơi về phía nam, và cần nhất là sau đó rẽ về bên trái, mất vài ngày thì đến Kattigara. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 9, 2016 Nàng Vương Chiêu Quân là người Việt? Nhiều người biết Vương Chiêu Quân là một trong “tứ đại mỹ nhân” của Trung Hoa cổ đại. Nhưng tại một làng quê nhỏ vùng đồng bằng Bắc bộ Việt Nam cũng có một Vương Chiêu Quân mà đền thờ còn hiển hiện và thần tích còn ghi rõ. Mỹ nhân lừng lẫy lịch sử Trung Hoa… Theo các tài liệu lịch sử chính thống thì Chiêu Quân tên là Vương Tường, cũng được gọi là Vương Chiêu Quân, là con gái một gia đình thường dân ở Nam Quận, nay là huyện Hưng Sơn, tỉnh Hồ Bắc, được tuyển vào nội cung vào khoảng sau năm 40 TCN, đời vua Hán Nguyên Đế. Vương Chiêu Quân là một trong 4 tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa ngoài ra còn có Điêu Thuyền, Tây Thi và Dương Qúy Phi Năm 33 TCN, thiền vu Hung Nô là Hô Hàn Tà đến kinh đô Trường An để tỏ lòng thần phục nhà Hán. Ông đã được vua Hán Nguyên Đế ban cho 5 cung nữ, một trong số này là Vương Chiêu Quân. Theo Hậu Hán Thư thì trong suốt thời gian ở hậu cung, Chiêu Quân chưa hề được gặp mặt nhà vua. Đến khi được triệu kiến để chuẩn bị sang Hung Nô, sắc đẹp của nàng đã khiến Hán Nguyên Đế sững sờ muốn đổi ý, nhưng không được. Tranh vẽ Vương Chiêu Quân Chiêu Quân trở thành vợ Hô Hàn Tà và sinh được 2 trai, 1 gái. Năm 31 TCN, Hô Hàn Tà chết, Chiêu Quân muốn trở về Trung Quốc, nhưng Hán Thành Đế đã buộc nàng phải theo tập quán nối dây của người Hung Nô và Chiêu Quân trở thành vợ của thiền vu tiếp theo là Phục Chu Luy Nhược Đề, con trai lớn của Hô Hàn Tà với người vợ trước. Trong cuộc hôn nhân mới này nàng có 2 người con gái. Sau khi chết, Chiêu Quân được táng tại "Thanh Trủng", Nội Mông. Xung quanh nhân vật Vương Chiêu Quân, trong dân gian còn tồn tại rất nhiều giai thoại và truyền thuyết. Câu chuyện về Chiêu Quân được gọi Chiêu Quân Cống Hồ đã trở thành một điển tích trong văn học Trung Hoa cổ đại. … quê ở Thái Bình? Tôi tình cờ đến làng Diêm Tỉnh, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình - một làng quê nhỏ ở đồng bằng Bắc Bộ vào đúng ngày hội của làng, 13 tháng 3 Âm lịch. Tại đây, tôi đã rất bất ngờ khi được cụ Hoàng Ngọc Phin, năm nay 84 tuổi mời đến dự hội với lời giới thiệu: “Hôm nay là ngày sinh của Bà Chúa Vương Chiêu Quân người làng này. Vì vậy, ban tế toàn là nữ và sẽ có màn tế Nữ Quan”. Nghĩ đến một sự trùng tên nên tôi hỏi lại: “Có phải Chiêu Quân cống Hồ không? Bà ấy ở Trung Quốc cơ mà” thì cụ Phin khẳng định: “Đúng là Chiêu Quân cống Hồ đấy, nhưng là người làng này”. Thấy tôi một mực không tin, cụ lấy từ trong tủ ra một cuốn sách mỏng sách bằng giấy bản đã ố vàng, mép nhiều trang đã sờn, dày đặc chữ Nho và bảo: “Bác không tin thì xem đây. Đây là bản Thần tích ghi chép về Bà Chúa mà làng tôi đã lưu giữ mấy trăm năm nay rồi. Ngoài ra còn bản sắc phong từ thời Khải Định nữa”. Cụ Phin và cuốn Thần tích Chỉ tay vào dòng chữ trên trang ngoài cùng, cụ rành giọt giải nghĩa luôn: “Ở đây viết rõ là cuốn Thần tích này được chép lại từ năm đầu triều Lê Chiêu Thống (1786). Đến năm Khải Định thứ tám triều Nguyễn (1924) thì sửa lại”. Theo Thần tích thì vào thời thuộc Hán, ở “phủ Hạ bát đụn tang” (tám cái gò cao nổi lên ở vùng Hạ - người dân Diêm Tỉnh coi quê mình nằm trong vùng đó) có ông Vương Thức người nước Nam, thời trẻ học rộng biết nhiều được cử làm Kim Thành thái thú, sau về Lâm Ấp, có vợ là Phạm Thị Dụ. Đêm 12 tháng 3, bà nằm mộng thấy con rắn cuốn, sau sinh quý nữ. Lúc sinh ra, hương thơm bay ngào ngạt, có 3 con rồng xuất hiện trên bầu trời. Cũng ngày đó, ở kinh đô có 3 tiếng động lớn kinh động sơn hà, hàng đàn muông thú kéo về. Vương Thức đặt tên con là Vương Tường. Lớn lên đóng cửa học hành, môn gì cũng giỏi. Năm 14 tuổi được coi là bậc “quốc sắc thiên hương”, không ai so được. Đời Hán đế, ngày 8 tháng 1, Hoàng đế nằm mơ thấy một ông tiên cho biết ở phía Nam xuất hiện một người con gái kỳ tài, có một không hai (hộ quốc tý dân, trung trinh vô nhị) tại nhà quan Thái thú. Sáng hôm sau vua hội bá quan kể lại giấc mơ. Triều đình thảo luận rồi cử Diên Thọ đến tận nơi xem xét, họa lại chân dung đem về báo cáo. Diên Thọ đến gặp, Vương Tường không tiếp mà cứ ngồi đọc sách. Sau đó tự mình vẽ chân dung rồi gửi cho Diên Thọ mang về. Nhận được chân dung, Hán đế triệu Vương Thức về gặp và hậu thưởng cho các bậc cao niên. Sau đó lệnh đưa Vương Tường vào cung, đặt tên là Chiêu Quân. Diên Thọ bực tức vì nàng đã lạnh nhạt với mình nên đưa bức tranh vẽ Chiêu Quân ngầm giới thiệu với vua Hồ. Vua Hồ đòi Hán đế phải gả cho người trong tranh. Vì bang giao hai nước, Hán đế phải đồng ý. Sang Hồ, Chiêu Quân có một cái áo bảo vệ nên Hồ vương không thể gần gũi được. Nàng bảo phải kiên trì, 16 năm sau mới được gần gũi. Một hôm, Chiêu Quân yêu cầu xây một cây cầu nổi. Cầu xây xong, rất nhiều cá và rồng hiện về. Có một con rồng vàng dài hơn một trượng hiện ra, nàng liền theo đó đi mất. Sắc phong Năm Vĩnh Hựu (triều Lê Ý Tông, 1735- 1740), Chiêu Quân được phong “Hiển linh tạ thuận thiên vi thái tỷ công chúa”, được thờ ở 12 đền trong “Bát đụn tang”. Thần tích còn ghi rõ bà sinh ngày 12 tháng 3, mất ngày 13 tháng 12. Vào hai ngày này, người dân thôn Diêm Tỉnh tổ chức Lễ hội tại đền Bà Chúa. Vùng đất mỹ nhân một thuở Theo lời cụ Phin thì đền Bà Chúa đã có từ xưa lắm rồi. Hàng năm hội đền được tổ chức rất trang nghiêm, thành kính. Anh Hoàng Ngọc Lễ, con trai cụ Phin còn cho biết: “Ngày trước, ở sân đền có một cây đa to lắm, phải đến hàng chục người ôm. Sau này, cây bị sét đánh chết mất. Ngày trước, con gái làng này đẹp nổi tiếng cả vùng. Bây giờ thì không được như xưa nữa”. Đền Bà Chúa Khi tôi cùng cụ Phin ra đền, nghi lễ dâng hương đang diễn ra. Điều đặc biệt ở lễ hội này là trừ đoàn đại biểu chính quyền và các cụ phụ lão là có nam giới, còn lại tất cả những người vào làm lễ dâng hương đều là nữ. Tôi tranh thủ quan sát ngôi đền, tuy mới được tu tạo song các đường nét đều tinh xảo và cổ kính. Trên nóc đền là hình lưỡng long chầu nguyệt, hiên trước của đền là 3 chữ “Tạc quyết linh”- nghĩa là nơi linh thiêng. Trên hai cột chính trước cửa là đôi câu đối bằng chữ Hán: “Nam thổ giáng sinh phù đế mộng; Bắc phương tuyệt sắc hiển thần cơ”, theo cụ Phin nghĩa là: “Sinh ra tại nước Nam ứng với giấc mộng của nhà vua; Là bậc tuyệt sắc ở xứ Bắc hiển hiện do thần linh”. Lễ dâng hương tại đền Bà Chúa Trong đền, nổi bật trên ban thờ là bức đại tự có 4 chữ “Quốc sắc thiên hương” và mấy đôi câu đối nữa. Nội dung các câu đối này đều ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và sự hiển linh của Bà Chúa. Trong đó có đôi câu đối chỉ rõ dân Diêm Tỉnh phải thường xuyên cúng lễ vào các dịp tuần tiết: “Diêm hải ba thương tình đại tiết; Tỉnh điền địa di tự thường nghi”. Trong hậu cung, bên trong khám thờ che rèm kín là bức tượng của Bà Chúa. Không biết tượng được tạc bao giờ song vẫn toát lên vẻ đẹp tinh khôi, cao quý của một trang tuyệt sắc. Hậu duệ của Bà Chúa Đúng 9 giờ, màn tế “Nữ Quan”, nghi thức chính của lễ hội bắt đầu. Trong tiếng nhạc réo rắt, 17 cô gái trong trang phục truyền thống nhiều màu sắc sắp thành hai hàng, do một nữ quan dẫn đầu trang trọng tiến vào. Đắm mình trong tiếng nhạc, lời ca và không khí tưng bừng, tôi cứ bâng khuâng tự hỏi: “Phải chăng có thật một Vương Chiêu Quân ở xứ này?”. Tôi ghi chú: - Sắc phong triều Lê khoảng năm 1700 như trên nhưng trước đó khoảng hơn 400 năm, sự kiện này đã tồn tại và rõ rồi. - Và tất nhiên, tiểu thuyết tài tử giai nhân nổi tiếng Chiêu Quân cống Hồ là của người Việt. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 9, 2016 Hồi 66 của Tây du ký đã có bài thơ rằng: Núi thần giữa trời đất Trấn giữ cõi đông nam Sừng sững đỉnh Phù Dung Chất ngất non Tử CáiNước Cửu giang dồn Kinh Dương mãi Non Bách Việt liền Dực Chẩn bao la Động báu Thái Hư sừng sững một tòa Xây đài cao nơi linh thiêng Chu LụcBa mươi sáu cung khánh vàng thánh thót Trăm nghìn vạn khách kính lạy dâng hương Sách ngọc với kinh vàngVua Thuấn Vũ cầu cúngLầu các chim xanh lượnTràng phan giải đỏ bayĐất mọc danh sơn vũ trụ lừng thay Trời bày tiên cảnh bầu không lộng lẫy Mấy khóm mai thơm hoa nụ nẩyĐây non cỏ ngọc sắc xanh tươiRồng đáy vực rình ngồi Hổ sườn non nằm phục Chim kêu giọng thánh thót Hươu nai dạo quanh ngườiHạc trắng bạn mây đậu ngọn gội tươi Loan xanh phượng đỏ chầu vầng dương hót Thầy cãi Ngọc Hư đất Tiên Bụt tươi tốtKim khuyết nhân từ gìn giữ thế gian. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 9, 2016 Hoàngnt thân mến. Từ ngày 14 6 2016, không thấy Hoàngnt vào diễn đàn? Có trục trặc gì có thể trực tiếp gọi điện thoại cho tôi, số: 0906 645 989. Hoangnt sao không dùng ảnh đại diện. Tự nhiên cái lớn phải có hình thức, hai nữa là có thần chú, linh phù thì phải có khế ấn. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 17 Tháng 9, 2016 Hoangnt sao không dùng ảnh đại diện. Tự nhiên cái lớn phải có hình thức, hai nữa là có thần chú, linh phù thì phải có khế ấn. Đã nhận biết, thanks Rubi nhiều. Tiếp theo trích bài: Ý nghĩa của đèn kéo quân Tết Trung thu Đèn kéo quân, hay còn gọi là đèn cù, là một loại đồ chơi bằng giấy có nguồn gốc từ Trung Quốc, ngày xưa phổ biến trong nhiều dịp lễ tết, nay chỉ còn xuất hiện trong dịp Tết Trung Thu. Cùng tìm hiểu về ý nghĩa của chiếc lồng đèn kéo quân nhé. Cách làm lồng đèn kéo quân Bên trong của đèn kéo quân: Chính giữa là một cái trục thẳng đứng làm bằng một thanh tre thẳng, vót tròn (chỉ nhỉnh hơn chiếc xe điếu), chốt bằng hai kim nhọn hai đầu. Trục dài ngắn tùy thuộc kích thước đèn cao thấp, có thể từ năm, sáu mươi phân, đến nhiều mét. Xung quanh trục đèn , những vòng trụ giấy dán nội dung của chiếc đèn như hình người, thú, cảnh vật,... được sắp xếp, gá buộc thành nhiều tầng gọi là các tầng đèn. Ðể cho có nhiều hình phong phú, người ta lồng và cắt dán đến bốn, năm tầng. Do trục trơn và các hình nhẹ nên khi đốt đèn, lửa sẽ làm nóng không khí bên trong khiến không khí giãn nở và tăng thể tích, khiến khối lựợng riêng của khí giảm. Khí nóng nhẹ bay lên va vào vòng trụ sẽ làm cho đèn quay. Luồng không khí bên ngoài nhẹ hơn luồng vào tiếp tục được đốt nóng, bay lên tạo thành dòng đối lưu trong không khí làm đèn tiếp tục quay. Màu sắc đèn kéo quân Những đèn màu trắng sẽ như một tấm màn chiếu những hình ảnh bên trong. Ví dụ: trên trục quay gắn một con ngựa màu đỏ, thì trên mặt giấy trắng sẽ hiện hình một con ngựa đỏ; một bà quan mặc xiêm áo xanh, đỏ, tím, vàng cũng hiện lên xanh,đỏ,tím,vàng, từ mắt mũi, tóc tai, cúc áo, đồ vật kèm theo... cũng thấy rõ. Nếu đèn kéo quân có dán giấy màu, các hình sẽ nhạt màu hơn hoặc đen thẫm. Một cây đèn kéo quân là một màn diễn rối bóng tự động, không cần người điều khiển. Sự tích đèn kéo quân Có nhiều phiên bản về sự tích cây đèn kéo quân, văn bản sau chỉ là ví dụ: “Ngày xưa, gần đến dịp Tết Trung thu, theo lệnh Vua, dân chúng nô nức thi nhau chế ra những chiếc đèn kỳ lạ nhưng không có chiếc đèn nào làm cho vua vừa ý. Bấy giờ, có một nông dân nghèo khó tên là Lục Đức mồ côi cha, ăn ở với mẹ rất hiếu thảo. Một hôm nằm mơ, Lục Đức thấy một vị thần râu tóc bạc phơ hiện ra phán rằng: "Ta là Thái Thượng Lão Quân, thấy nhà ngươi nghèo khó nhưng ăn ở hiếu thảo với mẹ, vậy ta bày cho ngươi cách làm chiếc đèn dâng Vua". Ý nghĩa đèn kéo quân Cây đèn kéo quân có mục đích ban đầu là để trẻ em nhớ về lịch sử cũng như giáo dục lòng yêu nước. nên hình ảnh trên cây đèn thường nói về việc nghĩa, về những đoàn quân lính xung trận ( nguồn gốc của tên gọi "kéo quân").Về sau người ta mở rộng nhiều đề tài khác như thêm ông quan trạng vinh quy bái tổ, cảnh tứ linh nhảy múa, bác nông dân làm ruộng, mục đồng chăn trâu,… và đến nay là các yếu tố hiện đại hoặc giải trí như Tôn Ngộ Không, mèo máy Đôrêmon, thủy thủ Mặt Trăng… Tôi sẽ trích các bài liên quan đến đèn kéo quân và chỉ ra ý nghĩa thêm của nó từ đặc điểm: - Luôn có 6 mặt, duy nhất. - Vạn vật hiện lên trên 6 tấm giấy trong, giấy kiếng. - Lục đức! - Hỏa khí tạo sự quay của đèn. - Cù: quay tròn, con cù, con vụ, cù lách để cười... Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 9, 2016 Nguồn gốc và ý nghĩa chữ Song Hỷ Trong lễ ăn hỏi, đám cưới của người Việt Nam, do ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa nên chữ Song Hỷ màu đỏ xuất hiện rất nhiều, từ thiệp cưới, phông cưới đến vỏ hộp bánh cốm, chè, hạt sen, quả cau, lá trầu… Có khi chữ Song Hỷ còn được dán ở nhà, ngoài ngõ để thông báo với mọi người về đám cưới. Chữ này gắn với một giai thoại đẹp, đầy yếu tố may mắn, trời định về tình duyên, thi cử của bậc danh sĩ nổi tiếng đời nhà Tống, một trong “Đường Tống bát đại gia" - Vương An Thạch. Giai thoại về ông liên quan đến chữ Song Hỷ như sau: Thuở nhỏ Vương An Thạch học rất giỏi, năm 20 tuổi chàng lên kinh đô cách quê chừng 200 dặm để dự thi. Dọc đường Vương An Thạch đi qua một vùng trù phú. Nhà Mã Viên ngoại của vùng đang kén chồng cho con gái rất xinh đẹp. Viên ngoại là người có học nên muốn chọn rể giàu chữ làm hiền sĩ chứ không phải lắm của nhiều tiền. Khi Vương An Thạch qua đó cũng là lúc Viên ngoại đang mở tiệc mừng thọ. Trong nhà treo đèn kết hoa rực rỡ, khách khứa ra vào đông như hội. Bên ngoài cổng có treo một lồng đèn lớn, kẻ qua người lại xúm nhau xem xét, bàn tán. Vương An Thạch thấy lạ, ghé vào nhìn thì thấy trên đèn kéo quân dán một vế đối: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ” (Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân). Vương An Thạch nghĩ mãi không đối được, nhưng vẫn nói cứng: “Câu này dễ đối thôi”, rồi bỏ đi. Người nhà của Mã Viên ngoại nghe được, chưa kịp vào trình với Viên ngoại thì Vương An Thạch đã lên đường lên kinh đô. Tại trường thi, Vương An Thạch làm bài thi xong, đem nộp quyển trước tiên. Quan chủ khảo lật ra xem, tấm tắc khen tài, vấn đáp ông trả lời trôi chảy đã có ý lấy ông đỗ đầu. Nhà vua cho vời ông vào triều để biết mặt và thử tài thêm. Thấy ở sân rồng có một lá cờ lớn, trên có thêu một con hổ, Vua ra cho ông một vế đối: “Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân (Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình). Vương An Thạch chợt nhớ tới vế đối trên đèn kéo quân trước nhà Mã Viên ngoại và thấy âm, ý rất hay và rất chỉnh khi đối với câu nay liền ứng khẩu đọc luôn: Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ. Vua và chủ khảo thấy Vương có tài ứng đối mau lẹ, vế đối rất chỉnh, có ý nghĩa xuất sắc nên đã chấm Vương An Thạch đậu thủ khoa kỳ thi đó. Trong khi chờ đăng tên lên bảng vàng, Vương An Thạch trở về quê nhà. Khi đi ngang qua Mã gia trang, người nhà của Mã Viên ngoại nhận ra Vương là người đã từng nói vế ra dán trên đèn kéo quân dễ đối, nên mời Vương vào nhà trình với Mã Viên ngoại. Mã Viên ngoại yêu cầu Vương An Thạch đọc vế đối, Vương liền lấy câu của Vua ra đọc lên thành: Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ;Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân. Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân, Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình. Mã Viên ngoại vô cùng mừng rỡ, thấy vế đối rất chỉnh, rất khéo lại ẩn ý khoe tương lai nên nói với Vương An Thạch rằng: Vế đối dán trên đèn kéo quân là của con gái lão, nó kén chồng nên thách đối như thế, nếu ai đối được nó mới đồng ý lấy làm chồng. Để lão gọi con gái lão ra cho hai đàng giáp mặt. Sau đó đám cưới được tổ chức linh đình tại Mã gia trang. Vương An Thạch cưới được vợ tài giỏi và giàu có, ở luôn tại nhà Mã Viên ngoại. Ngay liền trong ngày đó, triều đình đăng bảng, Vương An Thạch đậu Trạng nguyên, được triều đình gọi lên kinh đô nhậm chức. Thế là chàng họ Vương nhờ may mắn mà đạt được một lượt hai điều vui mừng: cưới được vợ tài giỏi giàu có và đậu Trạng nguyên. Vương An Thách bèn hứng chí ngâm nga: Vận may đối đáp thành song hỷ,Cờ hổ, đèn quân kết vợ chồng. Sau đó lấy giấy viết hai chữ Hỷ rất to trình lên nhạc gia và gửi về gia đình mỗi nhà một bản. Thông báo lại hai việc cực kỳ may mắn, tốt lành là đại đăng khoa (thi đỗ) và tiểu đăng khoa (lấy vợ). Với việc viết hai chữ Hỷ liền nhau đọc là “Song hỷ”, vị Trạng nguyên tài danh này đã sáng tạo ra một chữ mới, chữ Song Hỷ. Như vậy, nguồn gốc của chữ Song Hỷ là do điển tích vừa cưới được vợ đẹp giỏi, vừa thi đậu Trạng nguyên. Nhiều người nói rằng, Song Hỷ còn có nghĩa hai việc vui mừng song song với nhau, nhà trai cưới được vợ cho con trai, nhà gái gả được chồng cho con gái. Nhật Linh (tổng hợp) Phải chăng đây là lão nho gàn Vương An Thạch đặt kế hoạch tấn công Đại Việt để giải quyết rối loạn nội tình Trung Hoa? Share this post Link to post Share on other sites
Posted 19 Tháng 9, 2016 Lục đức - sáu mặt của đèn kéo quân: 1- Ý nghĩa: Sáu trạng thái tâm hồn của con người làm cho con người không được hư tâm, thanh thản, đó là: ái: yêu; ố: ghét; hỷ: vui; nộ: giận; sân: ngu dốt; si: si mê, đã được nói trong truyền thuyết Đèn kéo quân. Vượt được những tình cảm thường tình của tinh thần, thắng được ham muốn vật chất là diệt được dục vọng để vượt cõi Dục giới đi vào cõi Vô sắc giới. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 9, 2016 Bình Nguyên Lộc Tống Ngọc sống khoảng vài trăm năm trước Tây lịch. Cái đất phương nam tả trong bài thơ Chiêu hồn không phải là nước Văn Lang hay Âu Lạc đâu, mà đại khái là vùng Lĩnh Nam. Người Việt tộc ở Lĩnh Nam xăm trán, nhuộm răng đen. Người Lạc Việt tổ tiên ta cũng xăm trán, nhuộm răng đen.(1) Tức cái tục xăm da, nhuộm răng là tục chung của nhiều nhóm Bách Việt, có lẽ của cả Bách Việt, chứ không phải tục riêng của nhóm Việt nào...(Thu Tứ)(1) Xem Chử Văn Tần và Nguyễn Lân Cường. Bài thơ Chiêu hồn Nghiên cứu bài Chiêu hồn, Ghéquier trong Văn học sử Trung Hoa cho rằng Tống Ngọc chiêu hồn một ông vua. Nhưng không phải thế. Tống Ngọc chỉ làm bài thơ đó cho vui và để có dịp tả các thứ dân sống quanh nước Trung Hoa thời ấy (...) Ðây, bài thơ Chiêu hồn:“Hồn, hỡi hồn, về đây, đừng đi ra bể Ðông,Ở đó, hằng chục mặt trời, làm chảy đá, chảy loại kim,Hồn sẽ tiêu tan thành nước, đừng tin cậy vùng đó.Hồn, hỡi hồn, về đây, đừng đi về hướng Tây,Cát mềm ngàn dặm, sa mạc minh mông,Ngũ cốc không mọc, sông hồ cạn queo,Hồn sẽ bị đốt cháy khô, nên tránh hướng đó.Hồn, hỡi hồn, về đây, đừng đi lên miền Bắc,Băng giá cao như núi, tuyết phủ ngàn dặm.Hồn hỡi hồn, về đây, đừng xuống phương Nam,Ðó là xứ rắn mãng xà khổng lồ,Bọn xâm trán, bọn đen răng sẽ mần thịtHồn để cúng tế, nấu xương hồn mà làm canh.” (Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Sài Gòn, 1971, tr. 808-809) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 9, 2016 Hưng Thánh quán và Đạo giáo Bách Việt Trùng Cửu Đạo giáo có ở Việt Nam từ bao giờ? Có thật Đạo giáo nước ta là được du nhập vào từ Trung Quốc? Những di tích Đạo giáo để lại ở nước ta giúp hiểu thêm về nguồn gốc tín ngưỡng và triết lý nhân sinh này của người Việt xưa? Toàn cảnh chùa Mui – Hưng Thánh quán. Chùa Mui nằm ở thôn An Duyên, xã Tô Hiệu (Thường Tín, Hà Nội) là một di tích có tiếng, không phải là nơi thờ Phật mà là một Đạo quán. Quán này có tên Hưng Thánh quán (興聖觀), là một trong số ít những di tích Đạo quán cổ còn lưu lại được ở nước ta tới nay. Đôi câu đối hai bên cột trước cửa quán: 擇地立聖宮五世李朝起造開天眞秘籙千秋老道長書 Trạch địa lập thánh cung, ngũ thế Lý triều khởi tạoKhai thiên chân bí lục, thiên thu Lão đạo trường thư. Dịch: Chọn đất lập thánh cung, triều Lý năm đời khởi dựngMở trời soạn bí lục, đạo Lão ngàn thu mãi ghi. Vế đối đầu cho biết Hưng Thánh quán được xây dựng vào thời Lý đời thứ 5 (Lý Thần Tông?). Vế đối sau nói tới “chân thư khai thiên” của Đạo Lão được lưu truyền. Chân thư này là chỉ tác phẩm Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Hưng Thánh quán thờ Thái Thượng Lão Quân, tức là Lão Tử, nên chân thư của Lão Tử được đề cao ở đây. Trấn Vũ cung. Phía sau Hưng Thánh quán còn một nơi nhỏ hơn, xây riêng gọi là Trấn Vũ cung (鎮武宮), thờ thần Trấn Vũ. Cung thờ cũng được khởi dựng cùng vào thời Lý với Hưng Thánh quán. Không xa khu vực này có đền Bộ Đầu (xã Thống Nhất, Thường Tín) thờ Huyền Thiên Đổng Thiên Vương, cũng gọi là Quán Thánh. Nếu ở đền Bộ Đầu có bức tượng Huyền Thiên bằng đất cao 7-8 m thì trong Hưng Thánh quán cũng có riêng tượng đất một vị đức thánh khá lớn, tay đang bắt quyết, xung quanhtượng là các loài thú, tôm cá. Người trong chùa Mui gọi là Đức Thánh Lương. Còn theo tài liệu thì cho rằng đó là thần Đông Nhạc. Tượng Đức thánh ở Hưng Thánh quán. Kết nối dữ liệu ở cả 3 di tích trên thì thần Huyền Thiên là Trấn Vũ ở Quán Thánh. Đổng Thiên Vương có lẽ đã bị nhầm thành Đông Nhạc thần. Như đã biết, Huyền Thiên Đổng Thiên Vương chính là Lão Tử. Hưng Thánh Quán như vậy là một di tích khởi dựng thời Lý, thờ Lão Tử (Thái Thượng Lão Quân), gắn với sự tích Huyền Thiên Trấn Vũ. Rất có khả năng, “thời Lý” khởi dựng ở đây là thời Lý Đường, tức là thời nhà Đường, là một triều đại tôn Lão Tử làm thủy tổ của mình và cho xây dựng đạo quán ở khắp nơi. Hưng Thánh quán là bằng chứng hiện hữu về vị thần bất tử thứ ba Đổng Thiên vương, ở ngôi Thượng thiên của nước Nam. Lão Tử là Huyền Thiên đại thánh người đã giúp vua An Dương Vương trừ yêu dẹp quỷ, xây thành Cổ Loa. Câu đối ở chính điện ngoài cùng (ban thiêu hương) của Hưng Thánh quán: 蘭麝飄香金鴨氤氳無量界笙璈響奏霓裳縹缈大羅天 Lan xạ phiêu hương, kim áp nhân uân vô lượng giới,Sanh ngao hưởng tấu, nghê thường phiếu miểu Đại La thiên. Dịch: Lan xạ mùi hương, lư vàng hòa khí chốn vô lượng,Sênh ngao tiếng tấu, nghê thường thăm thẳm trời Đại La. Chính điện Hưng Thánh quán. Điện thờ chính của Hưng Thánh quán có tượng Thượng đế, hai bên là một vị đồng tử và một vị tiên ông. Điện thờ này có 2 cặp câu đối. Một cặp bên ngoài là: 玄之又玄三十六天真主宰極而無極萬千億劫大元尊 Huyền chi hựu huyền, tam thập lục thiên chân Chủ TểCực nhi vô cực, vạn thiên ức kiếp Đại Nguyên Tôn.Dịch: Huyền là có huyền, ba mươi sáu thiên chính Chúa Tể,Cực mà không cực, nghìn vạn ức kiếp Đại Nguyên Tôn. “Huyền chi hựu huyền” là câu trong Đạo Đức Kinh nói về giáo nghĩa của Đạo, phép huyền diệu thâm sâu vô cùng. “Thái cực mà vô cực” là khẩu hiệu của nhà lý học Chu Liêm Khê thời Tống, cũng nói về giáo nghĩa của Đạo. Người là chân chúa tể của 36 cung trời và là khởi nguyên của ngàn vạn ức kiếp được nói đến trong câu đối là Thượng Đế hay Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế. Hưng Thánh quán thờ Lão Tử ở ngôi Thượng thiên. Ba bức tượng ở điện thờ chính này thể hiện Thượng Đế ở giữa, một bên là Thái Thượng Lão Quân (hình một tiên ông) và một bên là Huyền Thiên Đại Thánh với khả năng trấn quy xà (hình rắn và rùa). Như vậy đây không phải là 3 nhân vật khác nhau mà là 3 ngôi của cùng một vị – Lão Tử. Cặp đối thứ hai ở điện thờ Thượng đế: 道傳太一三元始法演玄空萬古崇 Đạo truyền Thái Nhất Tam Nguyên ThủyPháp diễn Huyền Không Vạn cổ sùng. Dịch: Đạo truyền Thái Nhất - Ba Nguyên Thủy, (Hoangnt ghi chú: Một Khí hóa Tam Thanh, tức Thái cực chuyển thành Âm Dương và "Cái không phải Âm Dương").Phép giảng Huyền Không Vạn cổ sùng. (Hoangnt ghi chú: cách chơi chữ "Vạn" mà cũng "Vạn vật" tức "Vũ trụ") Nếu câu đối trước nói tới giáo nghĩa của Đạo Giáo và Thần chủ của Đạo Giáo thì câu đối này nói tới việc thực hành, truyền giảng Đạo Giáo. Thái Nhất là khái niệm được nêu thời Kim (Tống) trong môn phái Thái Nhất trong Đạo Giáo, tôn thờ thần Thái Nhất (Thái Cực). Phép màu Huyền Không của Đạo cũng được nói tới trong bức hoành phi ở Tam quan của quán: Đạo diễn huyền không 道演玄空. Tam bảo Hưng Thánh quán. Điện thờ trên cùng của Hưng Thánh quán là điện Tam bảo (Đại hùng bảo điện), nhưng không phải thờ Phật mà thờ Tam Thanh. Tam Thanh là ba vị thần tiên tối cao của Đạo Giáo gồm Ngọc Thanh Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn, cũng chính là Thái Thượng Lão Quân. Nguyên Thủy Thiên Tôn được đặt ngồi ở giữa. Bên phải là Linh Bảo Thiên Tôn tay cầm gậy như ý. Bên trái là Đạo Đức Thiên Tôn cầm quạt. Câu đối ở ban thờ Tam bảo: 两儀開闔乾坤人類和同真善美三寳勸懲善悪衆生苦滅貪嗔癡 Lưỡng nghi khai hạp, kiền khôn nhân loại hòa đồng chân thiện mỹ,Tam bảo khuyến trừng, thiện ác chúng sinh khổ diệt tham sân si. Dịch: Hai ngôi khai mở, trời đất nhân loại hòa đồng chân thiện mỹ, (Hoangnt ghi chú: Hai ngôi tức Âm Dương).Ba báu khuyên răn, lành dữ chúng sinh khổ diệt tham sân si. (tức tinh, khí, thần). Trước ban Tam bảo là bệ hoa sen. Bệ này còn lưu lại những trang trí gạch gốm của thời Mạc, hình rồng, hoa sen và chim thần khá đẹp. Tương truyền thì dưới bệ tượng này là huyệt đan sa, nơi luyện kim đan của các đạo sĩ trước đây. Hình rồng trên gốm ở Hưng Thánh quán. Trường phái Kim Đan trong Đạo Giáo có thể nói bắt đầu phát triển từ nhà y học, đạo sĩ Cát Hồng với tác phẩm Bão Phác Tử thời Đông Tấn. Theo thư tịch cổ thì Cát Hồng từng xin vua Tấn cho làm huyện lệnh ở huyện Câu Lậu của Giao Chỉ vì cho rằng Giao Chỉ có nguyên liệu để luyện đan. Trên đường đi Cát Hồng bị giữ lại ở Quảng Châu, vào núi La Phù tu luyện và viết sách. Giáo sư Trần Quốc Vượng căn cứ theo sách Thiền uyển tập anh cho rằng ”huyện Câu Lậu quận Tế Giang” nay thuộc đất Văn Giang – Khoái Châu tỉnh Hưng Yên bởi ở đó có dòng chảy Kim Ngưu (Trâu vàng), có vũng Trâu Đằm, có huyền tích về Trâu vàng chạy từ Phật Tích xuống. Khu vực Hưng Thánh quán nằm đối diện bên bờ sông Hồng với đất Khoái Châu. Phải chăng đây là nơi mà Cát Hồng đã tu luyện đan sa? Có thật Cát Hồng đã ở lại Quảng Châu chứ không phải đã đến Giao Châu tu hành? Dù thế nào thì Đạo Giáo đã phát triển mạnh mẽ ở Giao Châu khá sớm, nếu không nói đây là nơi khởi nguồn của Đạo Giáo. Lão Tử vốn thành nghiệp ở nước Nam sau khi giúp Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa đầu thời Đông Chu. Cát Hồng cất công sang Giao Châu để tìm đường học đạo, tu đạo, luyện kim đan. Nhiều “cổ tích” khác của Đạo Giáo còn thấy ở nước Nam, cần được xem xét kỹ lưỡng thêm. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 25 Tháng 9, 2016 Phiền não là Bồ đề Trịnh Nguyên Phước Tại sao lại có câu " Phiền não là Bồ đề " ? Nói như vậy chẳng phải là nghịch lý lắm sao ? Vì phiền não (kilesa), cũng như lậu hoặc (asava), là những điều làm vẩn đục tâm thức, đưa tới hành động bất thiện (akusala), là lý do của khổ đau (dukkha). Chúng trói buộc chúng ta đời đời kiếp kiếp trong vòng sanh tử luân hồi (samsara). Tu là tìm cách dứt bỏ các phiền não đó, từng cái một, như nhổ từng ngọn cỏ dại trong một khu vườn. Nhổ được ngọn này thì ngọn kia lại mọc ! cho đến khi... Cho đến khi không còn một mẩy may phiền não nữa, thì hành giả đã đạt được giác ngộ, hay Bồ đề (bodhi), tức là trở thành Phật, gọi là A La Hán theo truyền thống Nguyên thủy. Đồng thời tự giải thoát (moksha) ra khỏi sanh tử luân hồi, và đạt được Niết Bàn (nibbana). Như vậy " phiền não " đối ngược lại với " Bồ đề ", và " luân hồi " đối ngược lại với " Niết Bàn ", cũng như " trắng " với " đen ", " thiện " với " ác ", v.v. ; khi có cái này thì không thể có cái kia. Nếu lấy hình ảnh làm tượng trưng, thì phiền não là bùn lầy, mà Bồ đề là hoa sen, bùn lầy là bùn lầy, mà hoa sen là hoa sen, không thể nào lẫn lộn vàng thau được. Nếu " phiền não là Bồ đề " thì chẳng còn lý do gì để tu Phật nữa : ăn chay, giữ giới, tụng kinh, ngồi thiền làm gì, khi mà phiền não đã tự nó là Bồ đề rồi, chẳng làm gì rồi cũng thành Phật ! Vậy thì, tại sao lại có câu lạ lùng như vậy, đi ngược lại với lời dậy nguyên thủy của đức Phật ? Thật ra, chúng ta cũng thừa biết rằng ở đời không có gì trắng hoàn toàn, mà cũng không có gì đen hoàn toàn, thiện và ác cũng chỉ là tương đối; tất cả đều là tương đối. Rồi tất cả đổi thay, từ trắng ra đen, từ tối ra sáng, từ đục ra trong. Sen trong đầm tàn tạ rồi cũng hóa thành bùn, bùn bổ dưỡng rễ rồi cũng hóa thành sen... Chắc các bạn hẳn còn nhớ câu chuyện một gã samourai thắc mắc không biết " thiên đường, địa ngục " là gì, nên mới tìm đến hỏi một vị thiền sư. Nghe xong, vị thiền sư lên tiếng mắng: " - Đồ ngu! Có thế mà cũng không biết ". Gã samourai nổi xung, mặt mày đỏ gay, rút kiếm đưa lên cao. " - Đó là địa ngục ", vị thiền sư thản nhiên nói. Giật mình và sượng sùng, gã samourai nét mặt dịu hiền trở lại, và từ từ hạ kiếm xuống. " - Đó là thiên đường ", vị thiền sư nheo mắt mỉm cười. Như vậy là chỉ trong một nháy mắt, gã samourai đã xuống địa ngục và lên thiên đường. Chỉ trong một nháy mắt, tâm thức hắn đã thay đổi, phiền não đã trở thành Bồ Đề. Thật ra, địa ngục hay thiên đường chỉ là ảo tưởng, là huyễn tượng, không hề có thật. Huyễn tượng là huyễn tượng, cho nên địa ngục cũng là thiên đường, và phiền não cũng là Bồ Đề. " Phiền não là Bồ đề " cũng không khác gì " luân hồi là Niết Bàn ". Đó chính là một tôn chỉ của Đại Thừa, một biểu hiện của tinh thần Bát Nhã. Ngài Long Thụ (Nagarjuna) (tk. 1-2), nhà luận sư Ấn Độ đã sáng lập trường phái Trung Quán (Madhyamaka), đã chứng minh điều đó. Theo ngài, nếu ta lấy khởi điểm là giáo lý căn bản của đức Phật, tức là vô ngã (anatta), duyên khởi (paticca-samuppada), thì ta sẽ đi tới tánh không (sunyata), rồi từ tánh không sẽ tới " luân hồi là Niết Bàn ". Nếu ngừng ở giáo lý cổ điển (như Tứ Đế, Bát Chánh Đạo, ngũ uẩn, lục căn, lục trần...), thì ta chỉ hiểu sự thật tương đối, qui ước (paramartha-satya), hay tục đế, trong khi sự thật tuyệt đối (samvriti-satya), hay chân đế, vì mang tánh không, không nắm bắt, không diễn tả được, cho nên vượt khỏi khái niệm, ngôn từ. Tuy nhiên, chỉ cần đọc lại ba câu 277, 278 và 279 của Kinh Pháp Cú (Dhammapada): " Các hành vô thường. Các hành khổ. Các pháp vô ngã " (Sabbe samkhara anicca. Sabbe samkhara dukkha. Sabbe dhamma anatta), là chúng ta cũng thấy tầm quan trọng của các suy diễn theo sau. Nhà Phật học Walpola Rahula đã nói rõ tại sao hai câu trên dùng chữ " hành ", mà câu cuối lại dùng chữ " pháp ". " Hành " tức là các pháp hữu vi (conditionnés), tức là ngũ uẩn; trong khi đó " pháp " gồm tất cả các pháp, hữu vi và vô vi - Niết Bàn là pháp vô vi -. Như vậy, không phải chỉ có cái ta (ego) là vô ngã, mà Niết Bàn cũng là vô ngã. Vì tất cả các pháp (dhamma) đều hiện hữu do duyên khởi, cho nên mọi sự vật đều không có tự tánh, tức là không (sunya). Như vậy, mặc dù trong kinh điển nguyên thủy không có từ tánh không (sunyata), nhưng theo ngài Long Thụ, tánh không đã có mặt tiềm ẩn trong duyên khởi, và nói tới cái này tức là nói tới cái kia. Điều đó, ngài đã nói rõ trong Trung Quán luận tụng (Madhyamaka-karika): " Duyên khởi, ta gọi là không " (chương XXIV, câu 18). Và vì tất cả các pháp không có tự tánh, vì tất cả là không (" vạn pháp giai không "), cho nên tất cả đều như nhau, không khác gì nhau. Bởi vì luân hồi là không, Niết Bàn cũng là không, cho nên luân hồi là Niết Bàn, cũng như lời ngài đã nhắc đi nhắc lại trong Trung Quán luận tụng: " Không có một sự khác biệt nào giữa luân hồi và Niết Bàn " (chương XXV, câu 19). " Ranh giới của Niết Bàn là ranh giới của luân hồi. Giữa hai bên, không thể tìm thấy một sự khác biệt nào, dù vi tế nhất " (chương XXV, câu 20). Như vậy, " luân hồi là Niết Bàn " đương nhiên trở thành một điểm nòng cốt của giáo lý Đại Thừa, của tinh thần Bát Nhã. Theo ngài Nguyệt Xứng (Candrakirti)(tk. 7), luận sư nổi tiếng thứ hai của phái Trung Quán, tánh không không phải chỉ là một lý thuyết suông, mà còn đóng một vai trò thực tiễn giúp con người tự giải phóng trên con đường giải thoát theo đạo Phật. " Mọi nhận thức về thế giới đều bị ngăn chận bởi tánh không, vì qua đó người ta nhìn thấy rõ cái không của mọi hiện hữu "(Minh Cú luận, Prasannapada). Thấy rõ cái không của chính mình, làm cho người ta thoát khỏi sự trói buộc. Tánh không làm tan biến đi tất cả các ý tưởng, lời nói, hành động và các điều bất tịnh gắn liền với chúng. " Từ đây, ta gọi không là Niết Bàn, vì nó mang lại sự ngưng nghỉ của tất cả mọi ưu tư ". Thế giới sanh tử (samsara) và Niết Bàn đều là không, cho nên hai bên không có khác gì nhau. Phiền não và Bồ Đề cũng vậy. Cuối cùng, theo Candrakirti, " bài học của đức Thế Tôn nhằm hướng dẫn chúng ta tới sự thật chân thật, an tịnh, không lệ thuộc vào một điều gì, không bị cản trở bởi ý tưởng, suy tư, không còn một mẩy may phân biệt ". Nguyên Phước(20/01/2010) Tôi ghi chú: "Tánh không làm tan biến đi tất cả các ý tưởng, lời nói, hành động và các điều bất tịnh gắn liền với chúng" -> Phải giải thích thêm thực tế phản ánh thế nào hay trong tâm trạng hành giả nhận biết như ra sao? Share this post Link to post Share on other sites
Posted 26 Tháng 9, 2016 VŨ TRỤ XUÂN Thứ Hai, ngày 22 tháng 8 năm 2016 Minh triết sáng màu xuân lồng lộng Vương hoa trời nguyên thủy soi chung Giáng chín phương lại chín phương hồng Thế như nước từ trên cao rót xuống… Hoa năm xưa nay hồng như mộng Long tỏ đất trời thu cả vào tay Trên vai người có hơi thở nồng say Trời trở giấc xoay tay ta những ngọc… Thời khí vận theo núi, cây, suối róc Chuyển màu người xuân vào cả trong tim Thế nhân xanh chỗ có tiếng chim Đến đêm trắng như tiếng chìm trong đất… Nào đâu xa, người lặng im chuốt đọc Nhìn khí đời, đất, nước đang rung Như giếng đất nâng soi vũ trụ Hoa một đường thông đến tận cung Đồng… Rồng thiêng cứ mải rong chơi như gió Bay cánh chim xuân đã ngỏ thương yêu Ngôi đỉnh chung nào mùa xanh Người gọi Hai nỗi nâng niu khát vọng Thiên triều… Thơ khác thêm vào đọc chung: Đạo Trời hợp nhất ai ơi! Vạn năm có một đạo đời hóa sinh Mỗi ngày có một bình minh Lịch sử có một ân tình này thôi! Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 9, 2016 Thi hóa Kinh Lăng Nghiêm của nhà thơ Phạm Thiên Thư - tác giả của nhiều bài thơ được các nhạc sĩ phổ nhạc như Phạm Duy, Đưa em tìm động hoa vàng, Ngày xưa Hoàng Thị... Share this post Link to post Share on other sites
Posted 1 Tháng 10, 2016 PHẬT GIÁO CÓ TIN RẰNGCÓ LINH HỒN TỒN TẠI HAY KHÔNG HT. Thích Thánh Nghiêm Không tin. Phật giáo không tin là có một linh hồn vĩnh hằng, bất biến. Nếu tin có linh hồn như vậy, thì đó là "thần ngã ngoại đạo", không phải là người Phật tử chính tín. Đúng là trong quan niệm của người bình thường, trừ những người theo duy vật luận ra, còn thì ai cũng cho rằng mỗi người đều có một linh hồn vĩnh hằng bất biến, gần đây, ở Âu Mỹ, có lập ra "Linh tri học hội", đối tượng nghiên cứu của Hội là linh hồn. Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Lão giáo v.v… đều là những tôn giáo ít nhiều tin tưởng có linh hồn, cho rằng người ta làm thiện hay ác, sau khi chết đi, sẽ bị Thượng Đế hay Diêm Vương phán xử, người tốt thì linh hồn lên thiên đường, người xấu thì linh hồn đọa địa ngục. Ở trong dân gian Trung Quốc, sự mê tín linh hồn có gốc rễ rất sâu bền, lại còn thêm sai lầm to lớn này nữa là người Trung Quốc tin rằng, sau khi người chết linh hồn biến thành quỷ. Linh hồn là quỷ, trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, là cả một mớ mê tín lớn và bùng nhùng khó gỡ ra được. Điều đáng buồn cười là vì quỷ có chút ít thần thông cho nên lại cho rằng linh hồn là một vật tập hợp của "3 hồn 6 phách". Kỳ thực, quỷ chỉ là một trong 6 loại chúng sinh cũng như người là một trong 6 loại chúng sinh không khác. Sinh làm người, có sống có chết. Sinh làm quỷ, cũng có sống có chết. Nhưng người sinh từ bào thai, còn quỷ là hóa sinh. Huống hồ, người chết rồi vị tất đã làm quỷ. Vấn đề này, sẽ được bàn rõ trong một tiết khác. Đối với linh hồn, ở Trung Quốc có rất nhiều truyền thuyết, hoặc cho rằng, trong việc sống chết của người, linh hồn có một tác dụng bắc cầu. Linh hồn đầu thai là sinh, linh hồn tách rời thân xác là chết, xem quan hệ giữa linh hồn và thân xác giống quan hệ giữa chủ hộ và nhà cửa. Nhà cũ, hư nát thì dọn đến nhà mới, nhà mới thay nhà cũ, thay đi thay lại, chủ hộ đi đi lại lại nhưng vẫn vĩnh hằng bất biến. Tức là nói con người là linh hồn, đắp thêm cái áo thân xác. Thân xác có thể thay đổi, còn linh hồn là bất biến, là chủ thể trong dòng lưu chuyển sinh tử. Trên sự thực, Phật giáo không công nhận những quan niệm về linh hồn như vậy, vì những quan niệm đó không thể đứng vững với thuyết duyên sinh, duyên diệt của đạo Phật. Trên quan điểm sinh diệt vô thường, Phật giáo xem tất cả mọi sự vật đều sinh diệt vô thường. Trong cả hai thế giới vật chất và tinh thần, đều sinh diệt vô thường. Dùng mắt thịt mà nhìn sự vật, thì đôi khi nhìn thấy có sự vật không biến đổi, nhưng nên dùng dụng cụ khoa học tinh vi để nhìn, thì thấy không có sự vật nào là không biến đổi trong từng giây phút một. Kinh Dịch nói "sinh, sinh", nhưng kỳ thực, ở đàng sau "sinh, sinh" là "tử, tử", tức là biến biến, hóa hóa. Hiện tượng vật lý trong thế giới vật chất, là sinh diệt không ngừng. Hiện tượng tâm lý tinh thần lại càng dễ quan sát. Là bởi vì, hiện tượng tâm lý nảy sinh là do tinh thần biến động. Hiện tượng tâm lý biến động, dẫn tới hành vi thiện, ác. Hành vi thiện ác ảnh hưởng trở lại khuynh hướng tâm lý, tiền đồ của chúng ta, tương lai của chúng ta được quy định bởi tác dụng tuần hoàn đó của tâm lý ảnh hưởng tới hành vi, và hành vi ảnh hưởng trở lại tâm lý. Thử hỏi : Làm sao có thể có linh hồn bất biến, linh hồn vĩnh hằng ? Dường như là không thể có được, không những người chết rồi, không có linh hồn cố định, mà ngay khi còn sống, thân tâm chúng ta đều biến đổi không ngừng trong từng phút giây một. Thế nhưng, Phật giáo đã không tin có linh hồn, thì bản thể của việc luân hồi trong sáu cõi và siêu phàm nhập thánh là gì ? Hay nói cách khác, cái gì "luân hồi", cái gì "siêu phàm, nhập thánh" ? Đây chính là điểm ưu việt đặc thù của Phật giáo, vừa không xem trọng giá trị vĩnh cửu của tự ngã, lại vừa khẳng định giá trị hướng thượng của tự tính. Phật giáo chủ trương thuyết "nhân duyên sinh" và "tự tính vốn là không" (tự tính bản không). Phật giáo xem vật chất là nhân duyên sinh, xem tinh thần cũng là nhân duyên sinh. Nhân duyên tụ hội gọi là sinh, nhân duyên ly tán, gọi là diệt. Lớn như một tinh cầu, một thiên thể cho đến cả thế giới vũ trụ, nhỏ như một sợi cỏ, một hạt bụi, một nguyên tử… không có một sự vật nào là không do nội nhân, ngoại duyên hội tụ mà tồn tại. Nếu loại bỏ nhân và duyên ra, không có một sự vật nào có thể tồn tại được. Vì vậy, nếu xét trên căn bản, thì không có một sự vật nào hết. Về vấn đề này, các nhà khoa học vật lý và hóa học, có thể cung cấp cho chúng ta câu trả lời chính xác và chính diện. Còn tinh thần là gì ? Phật giáo tuy bác thuyết linh hồn, nhưng không phải là theo duy vật luận. Cái gọi là tinh thần thì Phật giáo gọi chúng bằng danh từ "thức". Phật giáo Tiểu thừa chỉ nói sáu thức, và lấy thức thứ 6 (đệ lục thức) làm chủ thể của sinh mạng. Phật giáo Đại thừa nói thêm hai thức nữa, tổng cộng có tám thức, và lấy thức thứ tám (đệ bát thức) làm chủ thể của sinh mạng. Ở đây, chỉ giới thiệu thuyết tám thức của Đại thừa. Trong 8 thức của Đại thừa, thì sáu thức đầu giống như sáu thức của Tiểu thừa, và phân tích sâu hơn công năng của thức thứ sáu, nhận ra thêm thức thứ bảy và thức thứ tám. Trên thực tế, chủ thể của 8 thức chỉ có một, nhưng do phân tích công năng mà chia thành tám. Làm ác, làm thiện là bảy thức đầu, và đem các nhân thiện, ác đó ký gửi ở thức thứ tám. Thức thứ tám là cái kho tàng chấp chứa tất cả hạt giống của nghiệp, tất cả nghiệp nhân. Người tổng quản của kho tàng là thức thứ bảy. Lấy của ra, đưa của vào kho là thức thứ 6, còn 5 thức đầu là tạo nghiệp. Như vậy công năng của thức thứ tám là tàng trữ, nhưng không giống như ông Thần tài giữ của, chỉ nhập mà không xuất kho, ở kho tàng thức thứ tám, tình hình xuất và nhập kho nối tiếp không ngừng, nhập kho là các hành vi ảnh hưởng đến tâm lý, và để lại dấu ấn trong thức thứ tám gọi là nghiệp nhân hay chủng tử. Còn xuất kho là tâm lý dẫn tới hành vi tạo nghiệp hay cảm thụ, gọi là nghiệp quả hay hiện hành. Chủng tử thành hiện hành, đó là xuất. Hiện hành thành chủng tử đó là nhập. Trong một đời, tình hình là như vậy. Trong 2, 3 đời hay là vô số đời liên tiếp, tình hình cũng là như vậy. Tất cả mọi diễn biến nhân quả trong đời hiện tại cũng như trong vô số đời quá khứ và đời vị lai, tình hình cũng đều như vậy, đều không ra ngoài quy luật quan hệ giữa chủng tử và hiện hành. Do đó mà có tinh hình sinh tử tương tục, sinh mạng nối tiếp không ngắt đoạn. Do quan hệ xuất nhập của chủng tử và hiện hành, tiến hành thường xuyên không ngắt đoạn như vậy, cho nên bản chất của thức thứ tám cũng là thường xuyên biến động không ngừng. Không những thức thứ tám của đời này, so với đời trước và đời sau là biến động không ngừng mà từ một niệm trước đến niệm sau, đã có biến đổi rồi. Vì tình hình của thức thứ tám là niệm niệm sinh diệt, niệm niệm biến đổi, cho nên chúng ta mới luân hồi sinh tử và đồng thời có khả năng thoát ly sinh tử. Thức thứ tám tồn tại chính là nghiệp nhân và nghiệp quả liên tục tồn tại và biến động. Ngoài sự biến động liên tục của dây chuyền nghiệp nhân nghiệp quả này, không thể tìm đâu ra thức thứ tám ! Cũng như dòng nước chảy, là do nước chảy mà có, không thể tìm đâu ra cái gọi là dòng nước chảy, ở ngoài nước ! Mục đích giải thoát của đạo Phật là cắt đứt dòng chảy sinh tử nhân quả liên tục đó. Khi tác dụng của thức thứ tám không còn nữa, thức thứ tám không còn chấp chứa gì nữa, cũng không còn hiện hành gì nữa, thì thành tựu được "tính không", thức (phiền não) chuyển thành trí (thanh tịnh), không còn bị sinh tử chi phối nữa, và trở thành tự do trong sinh tử. Có thể thấy thức thứ tám không giống như linh hồn vĩnh hằng. Nếu tin có linh hồn vĩnh hằng, thì sẽ mất khả năng siêu phàm, nhập Thánh, giải thoát khỏi sinh tử. Phật giáo trên quan niệm thì phủ định linh hồn, trên mục đích thì phủ định thức thứ tám. Chỉ có phủ định thức thứ tám như là sự giả hiện của vô minh phiền não tương tục thì mới có thể được triệt để giải thoát. Nhưng phủ định thức thứ tám không có nghĩa là không có gì hết nữa, mà là còn trí tuệ lặng chiếu, siêu việt hữu và vô, không còn có vô minh phiền não bức nhiễu nữa. Trích từ sách: PHẬT GIÁO CHÍNH TÍNHòa Thượng Thích Thánh NghiêmPhân Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam dịch Tôi ghi chú: 1. Thức thứ (8 - 7 - 6) - một tổ hợp, trong Duy thức học của Di Lạc Bồ Tát đó chính là "linh hồn". Trong Phật giáo từ ngữ "linh hồn" được giải thích nhiều nghĩa khác nhau bởi do sự giải thích trực tiếp chính từ chính... "linh hồn". Hầu kết kinh sách Phật giáo đều truyền từ "linh hồn" tới người có khả năng thông linh. 2. Thành tựu khoa học: dựa trên các thành tựu khoa học ngày nay, chúng ta dùng logic học có thể giải thích sự tồn tại của linh hồn, đơn giản thôi cứ không quá phức tạp như ta nghĩ. 3. Trong Đạo giáo thì linh hồn tương đương với "Thánh thai". 4. Trong đạo Mẫu: thì hiện tượng nhập đồng quan là thực tế cụ thể nhưng không có học thuyết về nó. Đây là một truyền thống của đạo Mẫu, hiện tượng nhập hồn của các linh hồn thần thánh vào thân xác con nhang đệ tử để dạy bảo là phổ biến. 5. Trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành: không giải thích về nó. Nhưng trong Kinh Dịch của Nho giáo có viết: "... Hồn thoát ra tạo nên biến hóa". 6. Cao Đài Đại Đạo và Thông Thiên Học: xác nhận có linh hồn, tu luyện chủ động. Thánh giáo Cao Đài Đại Đạo đều từ trí tuệ của các linh hồn mà ra. 7. Đạo Hồi: Linh hồn Tổng lãnh sự thiên thần Gabriel (một nhân vật bí ẩn có nói trong Do Thái giáo) thông linh với nhà tiên tri Mohamet, đọc cho ông ghi chép kinh Cô-ran. 8. Do Thái và Ki-tô giáo: Có linh hồn. Các trạng thái linh hồn: - Khi ngủ mộng hay mộng du, bị động, tự nhiên. - Sau khi chết, linh hồn thoát ra từ đỉnh đầu, tự nhiên. - Tu luyện Đạo giáo, Thiền... linh hồn thoát ra một cách chủ động, nhưng nó vẫn giữ mối quan hệ nhân quả (năng lượng...) với thân xác bởi một sợi dây màu bạc (kim quang tuyến) nối hai đỉnh đầu với nhau. - Hiện tượng nhập hồn: ngoại cảm, đồng quan, phù thủy... là khả năng tự nhiên của linh hồn. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 2 Tháng 10, 2016 LINH HỒN LÀ GÌ?PHẬT GIÁO HIỂU THẾ NÀO VỀ LINH HỒN ĐI ĐẦU THAI Do quan niệm linh hồn theo nhiều cách khác nhau nên người ta vẫn bàn cãi về có hay không có linh hồn. Thường thì linh hồn được hiểu là phần tinh anh, cái tinh thể, tinh thần của con người, đối lập với vật chất, với bất cứ cơ quan sinh học nào của cơ thể. Linh hồn, tiếng Hy Lạp là “Psyche”, nghĩa là sự sống, tinh thần, ý thức. Socrates bảo linh hồn là tinh thể (Essence). Platon giảng rằng linh hồn bao gồm lý trí (Logos), tình cảm (Thymos) và ái dục (Eros). Aristote định nghĩa linh hồn là hoạt tính của một cơ thể sống và cho rằng linh hồn sẽ mất đi khi cơ thể không còn nữa, giống như hoạt tính của con dao là cắt, khi con dao bị hư hoại thì hoạt tính cắt không còn nữa (xem De Anima - Về Linh hồn). Nhìn chung, các tín ngưỡng, tôn giáo thường cho rằng linh hồn là thiêng liêng, là bất diệt. Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo đều cho rằng linh hồn là bất diệt, do Thượng đế ban cho mỗi người như là sự sống, nếu một người sống thiện lành, thờ kính Thượng đế thì khi chết đi, linh hồn người ấy sẽ được về sống hạnh phúc đời đời bên cạnh Ngài; ngược lại, nếu sống mà làm ác, không tin vào Thượng đế thì linh hồn sẽ bị phạt sống khổ đau trong địa ngục. Ấn giáo quan niệm linh hồn hay bản ngã, tự ngã (Atman, Jiva, Purusa) là trường tồn và hòa đồng được với Đại ngã hay Phạm thiên (Brahman), gồm ba tính chất là chân lý (Sat), trí tuệ (Chit) và hạnh phúc (Ananda). Kỳ-na giáo cho rằng linh hồn có trong con người, loài vật và cây cỏ và là những thực thể bất diệt. Tây Khắc giáo (Sikh) bảo rằng linh hồn hay tự ngã (Atma) của mỗi người là một thành phần của linh hồn vũ trụ vĩnh hằng, của Thượng đế (Parmatma). Tín ngưỡng dân gian còn cho rằng linh hồn người chết có thể nương gá vào đâu đó và có thể hiện hình trên đời mà người ta thường gọi là “ma”. Lắm người tin rằng khi một người chết đi, linh hồn người ấy sẽ đến cõi âm, sinh sống ở đấy, chờ sự phán xét của Diêm vương, linh hồn ác có thể bị hành hạ cho đến khi được đầu thai ở dương thế. Phật giáo thuận theo ngôn ngữ, tín ngưỡng của dân gian, vẫn nói đến linh hồn, vong linh, hương linh… để chỉ cái phần còn lại sau khi chết của một người. Nhưng dù gọi là gì đi nữa thì theo giáo lý duyên sinh, vô thường, vô ngã, Phật giáo không bao giờ chủ trương cái phần phi vật chất này, hay linh hồn, là thường hằng, bất diệt. Theo Phật giáo, “linh hồn” là tính biết, cái biết, sự nhận thức, tư duy…, gọi chung là Thức. Thức bao gồm một nội dung được xem là những dấu ấn, những hạt mầm (chủng tử - bija) được tạo nên bởi những hành tác của một người trong đời sống hiện tại và những đời sống trước kia, còn được gọi là nghiệp hay nghiệp thức. Sau thời đức Phật, các luận gia suy diễn rằng có một cái thức gọi là A-lại-da hàm chứa mọi nội dung của thức. Nội dung này luôn luôn biến đổi theo hoàn cảnh sống và theo hành động của chúng sang mang nó. Chính đấy là năng lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, nó đẩy A-lại-da hay Thức nương gá vào một thân thể mới vừa tượng hình có hoàn cảnh phù hợp với nó. Đó là ý nghĩa của “linh hồn đi đầu thai” mà Phật giáo gọi là Thức đi đầu thai. Trong kinh Đại Duyên (Mahanidanasutta) của Trường Bộ (Dighanikaya), Đức Phật cật vấn Tôn giả A-nan: “Này A-nan, nếu Thức không đi vào trong bụng mẹ thì danh sắc có thể hình thành trong bụng mẹ không?” Tôn giả A-nan đáp: “Bạch Thế Tôn, không”. Rõ ràng Đức Phật đã dạy rằng chính cái Thức đi đầu thai. Về sau, nhiều luận gia gọi cái Thức đi đầu thai này là Càn-thát-bà (Gandharva) hay thân Trung hữu (Antarabhavakaya), Trung ấm mà giới Phật học vẫn còn chưa thống nhất quan điểm về tính chất, sự hiện hữu và thời gian hiện hữu của nó trước khi nhập thai. Nói tóm lại, Phật giáo gọi “linh hồn” là “Thức” hay “Nghiệp thức” do vô minh từ vô thỉ mà có. Nó là vọng thức, luôn luôn vận hành, biến đổi theo hoàn cảnh và hành tác của một người, và là động lực khiến chúng sinh trôi lăn trong sinh tử luân hồi. Do tu tập, “Thức” sẽ biến thành “Trí tuệ tuyệt đối”, thành Giải thoát tối hậu, chấm dứt sinh tử, chứng đạt Niết bàn. (Văn hóa Phật giáo) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 3 Tháng 10, 2016 Xưa nay người đẹp như danh tướng... Nhân tại giang hồ kỉ đa sầu,Hưng suy thành bại tuế tuế thu,Tiếu trảm thiên nhân đồ nhất khoái,Bi tòng vạn cốt mịch phong hầu. Thanh san vị cải tân tú loạn,Hồi đầu tức khán tịch dương hồng,Giai nhân tự cổ như danh tướng,Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.Thời Chiến quốc, năm thứ mười sáu đời Huệ Văn Vương nước Triệu (283 TCN), Liêm Pha làm tướng nước Triệu, đánh Tề, phá tan quân Tề, Từ đó nổi tiếng dũng khí ở các nước chư hầu, đánh đâu thắng đó, nước Tần không dám xâm phạm Triệu. Khi về già Liêm Pha không còn được tin dùng, nước Triệu thường bị nguy khốn, đất đai dần mất vào quân Tần. Vua Triệu lại nghĩ đến việc dùng Liêm Pha, chỉ hiềm một nỗi không tin vào sức khỏe của ông, mới sai sứ giả đến xem ông ra sao. Liêm Pha vì vậy ăn một đấu gạo, mười cân thịt trong một bữa cơm, mặc áo giáp lên ngựa để tỏ rằng mình còn dùng được.Trở lại bài thơ ở trên, được cho là được sáng tác vào cuối thời Khang Hy (1661-1722), dù còn một vài chữ chưa hiểu, mình cũng tạm dịch nó là như thế này:Người trong giang hồ lòng mang nhiều nỗi sầu,Ngàn vạn năm hưng, suy, thành, bại ...Cười theo ngàn cái đầu rơi dưới một lưỡi đao,Khóc theo vạn nắm xương khô chỉ vì giấc mộng công hầu. Núi xanh thành đám loạn cỏ,Quay đầu là thấy mặt trời lặn,Từ ngày xưa người đẹp đã như là danh tướng,Không cho ai thấy mái đầu đã pha sương.Bài thơ là vậy, mọi người thường chỉ nhớ có hai câu cuối: giai (mỹ ) nhân tự cổ như danh tướng, bất hứa nhân gian kiến bạch đầu. (Bài viết của một nickname). Tôi ghi chú: chúng ta nên quay lại vai trò lịch sử của công chúa An Tư! An Tư công chúaXưa nay người đẹp như danh tướng,Chẳng hẹn nhân gian thấy bạc đầu. An Tư công chúa, còn gọi là Thiên Tư công chúa, là con gái út của vua Trần Thái Tông (1218-1277). Bà cũng là em gái của Trần Thánh Tông và là cô ruột của Trần Nhân Tông. Cuộc đời của An Tư công chúa được sử Việt chép rất sơ lược, không rõ cả năm sinh năm mất. Trong Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ chỉ ghi: "Thoát Hoan lên sông Nhĩ Hà, cột liền bè vào làm cầu, cho quân qua sông; quân ta theo hai bên sông lập đồn để cự lại, không được; ngày đã về chiều, quân giặc qua được sông vào kinh thành, vua sai đưa Thiên Tư Công chúa cho chúng, để thư nạn cho nước". Đầu năm 1285, quân đội nhà Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm Thăng Long. Thánh Tông Thái thượng hoàng và vua Trần Nhân Tông đi thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ, còn thuyền ngự thì đưa ra vùng Ngọc Sơn để đánh lạc hướng đối phương nhưng quân Nguyên vẫn phát hiện ra. Ngày 9/3 cùng năm, thủy quân Nguyên đã bao vây Tam Trĩ suýt bắt được hai vua. Để có thời gian củng cố lực lượng, Thượng hoàng Trần Thánh Tông bất đắc dĩ phải dùng đến kế mỹ nhân, dâng em gái út của mình cho tướng Thoát Hoan để tạm cầu hòa. Sau đó, quân Trần bắt đầu phản công, quân Nguyên đại bại. Trấn Nam vương Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt đã phải "chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy" để về Tàu. Năm 1943, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã viết cuốn tiểu thuyết lịch sử An Tư để nói về cuộc đời của nàng công chúa nhà Trần không được lịch sử nhắc đến. Chiến thắng, hoàng tộc Trần làm lễ tế lăng miếu, khen thưởng công thần, nhưng không ai nói đến An Tư công chúa. Không rõ công chúa còn hay mất, được mang về Trung Quốc hay đã chết trong đám loạn quân. Chỉ có sách An Nam chí lược của Lê Tắc Trắc - một thuộc hạ của Trần Ích Tắc và Trần Kiện theo chủ chạy sang nhà Nguyên, sống lưu vong chép rằng: "Trước Thái tử (Thoát Hoan) lấy người con gái nhà Trần sinh được hai con...". Giáo sư Phạm Đức Dương, Chủ tịch Hội Khoa học Đông Nam Á cho rằng nhà Trần trở thành triều đại vinh quang nhất trong lịch sử Đại Việt vì đã 3 lần chiến thắng quân Nguyên, đội quân đã từng làm mưa làm gió khắp Á - Âu. Trong chiến công chung đó người ta ghi nhận sự đóng góp, hy sinh thầm lặng của những người phụ nữ, trong số ấy có công chúa An Tư. Theo ông, người con gái "lá ngọc cành vàng" ấy vì nợ nước đã ra đi không trở lại. Nhưng trớ trêu thay, sau chiến thắng quân Nguyên, tháng 7/1285, vua trở về kinh thành hân hoan khen thưởng những người có công, nhưng không ai nhắc tới công chúa An Tư. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 6 Tháng 10, 2016 Người Việt Nam thờ ai? Người VN thờ những người Trời thuộc 4 dòng sau đây: Tên dòng thờ - Thờ những ai? Dòng Phật Đức Phật, các Bồ Tát, Thiên Thần (Đức Ông ở chùa, Đức Thành hoàng đình làng, Sơn Thần Thổ Thần Thủy Thần...), Thần linh, Gia tiên, Linh hồn người âm theo đạo Phật. Dòng Trời Ngọc Hoàng Thượng Đế, Các Thiên Quan nhà Trời, Thánh Địa tạng, Các vị Tiên... Dòng Mẫu Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Các đời vua chúa, các hàng Quan, Thánh Mẫu, Cô Cậu... Dòng Thánh Các Đức Thánh thuộc các Đạo giáo khác nhau như: Đạo Thiên chúa (Thánh Giêsu), Đạo Hồi (Thánh Ala) v.v... Để hiểu về các vị được thờ thuộc các dòng này, bạn đọc hãy quan sát Hình 1. Hình 1 Trên Hình 1 ta thấy cung Trần là không gian cõi Trần, nơi ta đang sống. Tiến lên theo chiều kim đồng từ cung Trần đến cung Thiên linh vũ trụ là không gian cõi Trời. Đây là không gian của cõi vô hình mà mắt thường ta không thể nhìn thấy, gọi là không gian Vi tế. Các vị mà ta thờ đang ở trên các cung này. Càng tiến theo chiều kim đồng hồ thì các cung càng có hàm cao, trong đó cung Phật tổ Như Lai, tức Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, có hàm cao nhất. Mỗi cung lại có một số bậc (được đặt trong dấu ngoặc đơn). Thí dụ cung Tiên Thần (cỡ Đức Ông ở chùa hoặc Thành hoàng đình làng, gọi là Thiên quan) có 4 bậc, cung Thượng Phật có 9 bậc (QAABT và Đại Thế Chí Bồ Tát là thượng Phật bậc 9), các cung Đức Phật chỉ có 1 bậc, không phân biệt cao thấp trong cùng một cung. Bây giờ ta xét 4 dòng thờ nêu trong Bảng trên như sau: 1) Dòng Phật: Chi phối toàn vũ trụ chứ không phải chỉ trên Trái Đất. Đứng đầu dòng này là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Dòng Phật giáo huấn chúng sinh toàn vũ trụ chịu sự chi phối của vũ trụ, duy trì tâm đức cho chúng sinh sống thiện để trở thành Chân Thiện Nhẫn, bất kể là ở Cõi Trời hay ở cõi Trần, đặng mà lên được tầng cao của vũ trụ. Nơi thờ của dòng này là các chùa, đình làng, nhà thờ, bàn thờ tại gia. 2) Dòng Trời: Chi phối toàn vũ trụ, duy trì chúng sinh toàn vũ trụ tuân thủ Luật vũ trụ, là Luật Nhân- Quả. Đứng đầu dòng này là Ngọc Hoàng Thượng Đế (ngang với hàm Thượng Phật bậc 8). Nơi thờ dòng Trời thường là các miếu thờ lộ thiên trên núi, trong vườn nhà, bàn thờ tại gia v.v...., thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thánh Địa tạng (ngang với hàm Thượng Phật bậc 5), các vị Tiên và các Thiên quan. Ngọc Hoàng Thượng Đế tuy có tượng đặt trong các chùa, nhưng chùa không thờ ngài. Ngài chỉ về chùa vào những ngày đại lễ do Đức Phật mời (như ngày Đức Phật đản sinh, ngày rằm tháng 7, tháng 8 ...), vì ngài là khách sang của Đức Phật. 3) Dòng Thánh: Chi phối trên Trái đất, giáo huấn con người sống thiện, thực hiện những quy định của đạo Thánh. Đứng đầu dòng này là các vị khai sáng mỗi đạo giáo cụ thể. Thí dụ: Đạo Thiên chúa là Đức Chúa Giêsu, Đạo Hồi là Đức Thánh Ala' Ở VN còn có một số đạo giáo khác như Đạo Cao Đài thờ con mắt thần (coi Thượng Đế là Đấng sáng lập ra vũ trụ), Đạo Hòa Hảo chủ trương tu hành tại gia theo Tịnh độ tông v.v... Nơi thờ của dòng Thánh là các nhà thờ đạo giáo, bàn thờ tại gia. 4) Dòng Mẫu: Chi phối trên Trái đất, giáo huấn con người đức tôn kính cha mẹ tổ tiên. Đứng đầu dòng này là Mẫu Thượng Thiên (ngang với hàm Thượng Phật bậc 6), thường được thờ trên các đỉnh núi cao. Nơi thờ dòng Mẫu là các điện thờ mẫu trên núi như điện thờ Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn (ngang với hàm Thượng Phật bậc 4), Mẫu Thoải (ngang với hàm Thượng Phật bậc 2), các Bà Mẫu linh thiêng khác, các đền thờ các thế hệ vua chúa, các hàng Quan, Cô Cậu, điện thờ tại gia (các ông đồng bà cốt, thầy Mo thường có điện thờ Thánh Mẫu tại gia). 5) Thánh bất tử: Người Việt Nam tôn thờ 4 vị được coi là Thánh bất tử, với tên gọi đúng và xếp hàm cao thấp theo thứ tự như sau: 1) Thánh Tản Viên Sơn, Thiên quan bậc 4, đại diện cho dòng Phật, đền thờ trên núi Tản Viên. Đây là một vị thần cai quản vùng núi Ba Vì, nằm ở phía Đông TP Hà Nội. Tản Viên là ngọn núi chúa không cao lắm trong 3 ngọn núi (Ba Vì) ở đây, nhưng rất linh thiêng, trấn ngự cả vùng châu thổ Bắc Bộ. Thánh Tản Viên Sơn được cọi là Tổ Thần của bách Thần Việt Nam. 2) Chử Đồng Tử, một Thiên Thần (ngang với Thiên quan bậc 4 của dòng Phật), đại diện dòng Trời. Đền thờ ở thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Truyền thuyết về Chử Đồng Tử có nói đến vợ là công chúa Tiên Dung, con của Hùng Vương thứ 18. Người Việt thờ Chử đồng Tử -Tiên Dung để tri ân con người có ý chí lớn, từ rất nghèo khó đã vươn lên giúp dân cả vùng phát triển kinh tế, trở nên thịnh vượng. 3) Bà chúa Liễu Hạnh, một vị Thần đại diện cho dòng Mẫu (ngang với Thiên quan bậc 4 của dòng Phật), được tôn vào bậc “Thiên hạ Mẫu nhi” trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở VN. Đền thở Bà có ở nhiều nơi, nhưng nơi thờ chính phải kể đến Phủ Giầy thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tình Nam Định, và đền thờ Phủ Tây Hồ ở Hà Nội. 4) Thánh Gióng, còn gọi là Phù Đồng Thiên Vương, một vị Thần (ngang với Thiên quan bậc 3 của dòng Phật), đại diện dòng Thánh. Thánh Gióng được tôn vinh là vị anh hùng chống ngoại xâm. Đền thờ chính ở làng Gióng, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, và đền Sóc Sơn trên núi Sóc, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội. 6) Thờ thế nào cho đúng? - Người tu Phật thì thờ dòng Phật, có thể cùng lúc thờ cả dòng Trời (vì cùng chi phối toàn vũ trụ), nhưng không thể cùng thờ dòng Mẫu và dòng Thánh (vì chỉ chi phối trên Trái đất). Khi thờ cả Trời Phật thì trên bàn thờ phải đặt tượng Phật cao hơn tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế. Trong chùa tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế bao giờ cũng đặt thấp hơn tượng Đức Phật. Vì chùa thờ Phật nên không thờ Mẫu, vì vậy điện thờ Mẫu không thể xây trong khuôn viên nhà chùa, mà phải xây ngoài khu vực chùa. Vì Thánh Địa Tạng thuộc dòng Trời, nên Ban thờ ngài không đặt trong gian chùa chính, mà phải đặt ngoài sân hoặc trên đồi núi. Nhiều nơi vẫn nhầm tưởng Thánh Địa Tạng là một vị Bồ Tát, nên đặt tượng ngài trong chùa, và niệm danh ngài: “Nam mô Địa Tạng vương Bồ tát!?” Nhà sư tu chùa mà lại có điện thờ Thánh Mẫu riêng tại nhà mình, thậm chí tại chùa, là hỏng tận gốc, không còn là tu tâm chính Phật. - Người tu Trời thì chỉ thờ dòng Trời, không thể cùng lúc thờ cả Đức Phật, cũng không thể cùng lúc thờ cả dòng Mẫu và dòng Thánh. - Người tu dòng Thánh thì không thể cùng lúc thờ Phật, Trời và Mẫu. Vì vậy tại nhà thờ Thánh thường chỉ có tượng Đức Thánh mà thôi. - Người tu dòng Mẫu thì thờ Mẫu, không thể cùng thờ Phật, Trời và Thánh. Vì vậy trong các điện thờ Mẫu mà đặt cả tượng Phật và tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế thì không có nghĩa, vì các ngài không về. Người đời muốn tu thờ dòng nào cũng được, không kể ai hơn ai, miễn là tu thờ phải chính tâm, nghĩa là theo dòng nào thì chỉ một dòng ấy. Thờ pha tạp lẫn lộn là loạn thờ, là thờ không chính tâm, thì hiệu quả thờ sẽ thấp. Thờ một dòng, nhưng tâm vẫn trân trọng các dòng khác thì vẫn tốt. GS. Nguyễn Tiến Đích Tôi ghi chú: Giáo sư Đích là người mở được con mắt thứ ba. Các Đạo của nước Văn Lang và truyền bá khắp thế giới: - Đạo Tổ Tông. - Đạo Tiên (Đạo giáo), - Đạo Thánh (anh hùng, hào kiệt tức đạo Nho - Nhân). - Đạo Thần: các vị hóa thần, các bậc thầy khai Đạo "gốc". - Đạo Mẫu tức Đạo Chúa ("Chúa": thường tượng trưng cho người phụ nữ), chẳng hạn Bà Chúa Thượng Thiên, Bà Chúa Thượng Ngàn, Chúa Mẫu Thoải, Thánh Cô... Trong Đạo Mẫu, đặc biệt chỉ có ba danh xưng "Chúa" như trên, đây chính là mật ngữ "Tam Vị Nhất Thể" - Tam Âm, tất nhiên đối ngẫu sẽ là Tam Dương. "Thần" tượng trưng cho phương Đông - khai đạo lần thứ nhất, sao qua thời gian truyền trao chánh pháp lần thứ 2 thành Phật giáo, mở rộng nhiều tôn giáo trên thế giới, sao đó cuối thời Mạt pháp lại chuyển chánh pháp lần thứ 3 - cuối cùng, gọi "Đại Đạo". Người cứ tưởng Cao Đài tôn giáo, Nào hay đâu Đại Đạo hoằng dương. Đại Đạo không phải là tôn giáo! 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 10, 2016 Cuốn sách Đối thoại với Thượng Đế, tác giả Walsch Tôi trích nội dung Chương 12, trong đó chữ đen là lời người đối thoại và chữ xanh nghiêng là lời "Thượng Đế". Chúng ta chú ý mảnh đối thoại nói về linh hồn và một số ý chính khác... Tại sao tôi không thể làm điều tôi thực sự muốn làm trong đời, mà vẫn kiếm sống được? Cái gì? Ngươi nói ngươi thực sự muốn vui đùa trong đời mình, mà vẫn lãnh được tiền ư? Ông anh ơi, có mà mơ; Cái gì?... Đùa thôi, chỉ cần động não một chút xíu là đủ. Ngươi thấy đấy, đó là ý nghĩ của ngươi về chuyện đó. Đó là kinh nghiệm của tôi. Ừ, ái chà, chúng ta đi qua chuyện này mấy lần rồi mà. Những người kiếm sống bằng cách làm nghề họ yêu thích là những người cứ nhất định làm như thế. Họ không bỏ cuộc, họ không bao giờ bỏ cuộc. họ thách cuộc sống không để họ làm nghề họ yêu thích. Nhưng có một yếu tố khác phải được đưa vào, vì đây là yếu tố thiếu trong hiểu biết của đại đa số người ta khi xét đến công việc của cuộc đời. Đó là gì vậy. Có sự khác nhau giữa là và làm, và hầu hết mọi người đã nhấn mạnh cái sau hơn cái trước. Họ không nên à? Không hề có “nên” hay “không nên trong chuyện này. Chỉ có điều ngươi chọn, và làm thế nào ngươi có thể có được nó mà thôi. Nếu ngươi chọn bình an, hoan lạc và yêu mến, ngươi sẽ không có được nhiều thông qua điều ngươi đang làm đâu. Nếu ngươi chọn hạnh phúc và hài lòng, ngươi sẽ chỉ tìm thấy ít ỏi trên con đường hành động. nếu ngươi chọn kết hợp với Thượng đế, thượng trí, thâm hiểu, mẫn tuệ vô biên, toàn trì đại ngộ, tuyệt đối mãn nguyện, ngươi chẳng đạt được bao nhiêu từ những điều ngươi đang làm. Nói cách khác, nếu ngươi chọn sự tiến hóa – tiến hóa của linh hồn mình – ngươi sẽ không tạo ra được điều đó bằng các hoạt động trần thế của thân xác ngươi. Làm là một chức năng của thân xác. Là là chức năng của linh hồn. Thân xác luôn luôn làm một cái gì đó, mỗi giây phút của mọi ngày, thân xác luôn bận rộn một điều gì đó. Nó không bao giờ ngừng, không bao giờ ngơi nghỉ, nó luôn luôn làm một điều gì. Thân xác hoặc là làm điều nó làm theo chỉ thị của linh hồn – hoặc bất chấp mệnh lệnh ấy. Chất lượng của đời ngươi năm ở giữa. Linh hồn thì mãi mãi là, Nó luôn là cái nó đang là, bất chấp thân xác đang làm gì, và không phải vì điều gì mà thân xác đang làm. Nếu nghĩ rằng đời sống của ngươi là lo về làm thì ngươi không hiểu gì về ngươi cả. Linh hồn ngươi không quan tâm đến điều ngươi làm để kiếm sống – và khi nào đời sống ngươi kết thúc, ngươi cũng sẽ không quan tâm. Linh hồn của ngươi chỉ quan tâm đến điều ngươi đang là trong khi ngươi đang làm bất cứ cái gì ngươi đang làm.Chính trạng thái là của linh hồn mới đứng sau cùng, chứ không phải trạng thái làm. Linh hồn muốn là cái gì? Ta, ngươi. Đúng vậy, là Ta.Linh hồn của ngươi là ta và nó biết thế. Điều nó đang làm là tìm cách trải nghiệm điều ấy. Và điều nó đang nhớ lại là: cách tốt nhất để có được cảm nghiệm này là bằng cách không làm bất cứ cái gì. Không có gì phải làm, ngoại trừ việc là. Là cái gì? Bất cứ cái gì ngươi muốn là. Hạnh phúc, buồn, yếu, mạnh, vui, oán thù, trực giác, mù lòa, tốt, xấu, đực, cái. Ngươi đặt tên cho nó. Ta nói theo nghĩa đên đấy, ngươi đặt tên cho nó. Tất cả những chuyện này là rất uyên áo, nhưng nó có liên quan gì đến nghề nghiệp của tôi đâu? Tôi đang muốn tìm cách để kiếm sống, để nuôi bản thân tôi và gia đình tôi, bằng việc làm điều tôi muốn mà là. Ngươi hãy là cái mà ngươi muốn là. Ý Ngài là sao? Một số người kiếm được rất nhiều tiền khi làm điều họ làm, còn những người khác lại không thể làm được như thế - và họ cũng đang làm cùng một việc. Thế cái khác nhau là gì? Một số nguopwif khéo léo hơn những người khác. Đó là nhát dao đầu tiên thôi. Nhưng bây giờ chúng ta đi đến nhát thứ hai. Bây giờ chúng ta thử xem hai người có các kỹ năng khéo léo gần như bằng nhau. Cả hai cùng tốt nghiệp đại học, cả hai đều đứng đầu lớp, cả hai đều hiểu được bản chất của những gì họ đang làm, cả hai đều biết cách sử dụng các công cụ của mình một cách nhuần nhuyễn – nhưng người này vẫn khá hơn người kia. Một người thì thăng tiến vùn vụt, trong khi người kia vất vả lận đận mãi. Thế chuyện này nói về cái gì? Địa điểm. Địa điểm? Có người nói với tôi rằng chỉ có ba điều nên xem xét khi bắt đầu công việc mới, đó là địa điểm, địa điểm và địa điểm. Nói cách khác, không phải là “anh đang làm gì”? Nhưng là “anh sẽ ở đâu”? Chính xác. Nói như vậy cũng giống như câu trả lời cho những câu hỏi của ta rồi. Linh hồn chỉ quan tâm đến việc ngươi sẽ ở đâu mà thôi? Ngươi sẽ ở một nơi gọi là sợ hãi, hay một nới gọi là tình yêu? Ngươi ở đâu – và ngươi đến từ đâu – khi ngươi gặp mặt cuộc sống? Bây giờ trong thí dụ về hai nhân công có phẩm chất như nhau trên kia, một người thành công, còn người kia thì không, không phải vì bất cứ điều gì họ đang làm, nhưng vì cái cả hai người đang là. Một người thì cởi mở, thân thiện, quan tâm, sẵn sàng giúp đỡ, tận tâm, vui vẻ, thận trọng, thậm chí vui vẻ trong việc làm, còn người kia thì khép kín, giữ khoảng cách, thờ ơ, không tập trung, cộc cằn, thậm chí chán ghét điều mình đang làm. Bây giờ giả sử ngươi phải chọn những trạng thái hiện hữu còn cao quý hơn nữa? Giả sử ngươi phải chọn sự thiện, lòng nhân ái, từ bi, hiểu biết, tha thứ, yêu thương? Điều gì xảy ra nếu ngươi phải chọn sự giống Thượng đế? Khi ấy kinh nghiệm của ngươi sẽ là gì? Ta bảo ngươi điều này:LÀ hấp dẫn là và tạo ra kinh nghiệm. Ngươi không hiện diện trên hành tinh này để tạo ra cái gì đó bằng thân xác ngươi. Ngươi ở đây để tạo ra cái gì đó nhờ linh hồn. Thân xác ngươi chỉ và đơn thuần chỉ là công cụ của linh hồn.Tâm trí ngươi là sức mạnh để làm cho thân xác hoạt chuyển. Như vậy cái ngươi có ở đây là một công cụ mạnh mẽ, được dùng để sáng tạo cái ước muốn của linh hồn. Ước muốn của linh hồn là gì? Thật vậy, nó là gì? Tôi đâu có biết, tôi đang hỏi Ngài mà. Ta không biết, ta đang hỏi ngươi. Việc này có thể tiếp tục mãi sao? Có đấy. Chờ chút nhé: Mới nãy Ngài nói rằng linh hồn tìm cách để là Ngài. Đúng vậy. Vậy đó là ước muốn của linh hồn. Theo một nghĩa rộng nhất, đúng vậy. Nhưng cái Ta này mà nó tìm cách để là thì lại rất phức tạp, rất đa diện, đa cảm, đa phương. Có cả hàng triệu phương diện về ta. Một tỷ, một trăm tỷ. Ngươi thấy không? Có cái nông cạn và sâu xa, có cái hơn và cái kém, cái tục và cái thiêng,cái ti tiện và cái thanh quý, ngươi thấy không? Vâng, vâng, tôi thấy… cái lên, cái xuống, cái trái cái phải, cái đây cái đó, cái trước cái sau, cái tốt cái xấu… Chính xác. Ta là Alpha và Omega. Đó không chỉ là một lời nói suông, hay một khái niệm tùy tiện. Đó là chân lý hiện tỏ. Như vậy, khi tìm cách để ta là, linh hồn có một công việc lớn lao ở phía trước, một menu là khổng lồ để chọn. Và nó là điều nó đang làm ngay trong lúc này đây. Chọn trạng thái là. Đúng, và tiếp đó là tạo ra những điều kiện đúng và hoàn hảo trong đó, để tạo ra kinh nghiệm về điều ấy. vì thế, đúng là không có gì xảy ra cho ngươi hoặc qua ngươi nếu không phải là để hướng đến sự thiện cao nhất của chính ngươi. Ngài muốn nói linh hồn tôi tạo ra mọi kinh nghiệm của tôi, bao gồm không chỉ những gì tôi đang làm, mà cả những điều đang xảy đên với tôi ư? Chúng ta hãy nói rằng linh hồn dẫn dắt ngươi đến những cơ họi thích hợp và hoàn hảo để ngươi trải nghiệm đúng những gì ngươi định trải nghiệm. Ngươi thực sự trải nghiệm điều gì, điều đó tùy thuộc ở ngươi. Đó có thể là cái ngươi đã dự định trải nghiệm, hoặc cũng có thể là cái gì đó khác, tùy vào cái ngươi chọn. Sao tôi lại chọn điều gì đó mà tôi không muốn trải nghiệm? Ta không biết, tại sao ngươi lại chọn nhỉ? Có phải Ngài muốn nói rằng đôi khi linh hồn ước một dằng, thân xác và tâm trí muốn một nẻo không? Ngươi nghĩ sao? Nhưng làm sao thân xác hay tâm trí đè lên linh hồn được? Không phải là linh hồn luôn luôn tìm được điều nó muốn hay sao? Theo một nghĩa rộng, tinh thần của ngươi tìm kiếm cái giây phút vĩ đại, khi ngươi ý thức được về những điều nó ước muốn và kết hợp với chúng một cách vui vẻ. Nhưng tinh thần không bao giờ áp đặt ước muốn của nó trên cái phần thể lý, ý thức và hiện tại của ngươi. Cha sẽ không áp đặt ý mình trên con. Đó là vi phạm chính bản chất của Người, và như thế hoàn toàn không thể được. Con sẽ không áp đặt ý muốn của mình trên thánh thần. Đó là đi ngược lại bản chất của Người, và như thế hoàn toàn không thể được. Thánh thần không áp đặt ý muốn của mình trên linh hồn ngươi. Điều ấy nằm ngoài bản chất của tinh thần. và như thế hoàn toàn không thể được. Đây là nơi chấm dứt những cái không thể. Tâm trí rất thường tìm cách áp đặt ý muốn của nó trên thân xác – và thường là như thế. Tương tự, thân xác thường tìm cách kiểm soát tâm trí – và thường thành công. Nhưng thân xác cùng tâm trí không phải làm gì để kiểm soát linh hồn cả - vì linh hồn hoàn toàn không cần đến chúng (chứ không như thân xác và tâm trí, chúng bị xiềng vào với linh hồn) và vì thế, linh hồn cho phép thân xác và tâm trí lúc nào cũng tự do theo cách của mình. Thật vậy, linh hồn không có cách nào khác – vì nếu cái thực tại là do ngươi muốn sáng tạo, và qua đó biết được nó thực sự là ai, thì nó phải bắt đầu qua một hành vi tự do ý thức, chứ không phải một sự vâng phục vô thức. Vâng phục không phải là sáng tạo, và do đó không bao giờ có thể tạo ra ơn cứu độ. Vâng phục là một đáp ứng, trong khi sáng tạo và lựa chọn thuần túy, không bị chỉ đạo, không được yêu cầu. Chọn lựa thuần túy sản sinh ra sự cứu độ thông qua việc sáng tạo thuần túy ý niệm cao nhất trong giây phút hiện tại. Chức năng của linh hồn là xác định ước muốn của nó, chứ không phải áp đặt nó. Chức năng của tâm trí là chọn giữa các giải pháp. Chức năng của thân xác là hành động từ lựa chọn ấy. Khi thân xác, tâm trí và linh hồn cùng sáng tạo, trong hòa hợp và hợp nhất thì Thượng đế trở thành xác phàm. Khi sấy linh hồn biết được mình trong kinh nghiệm của chính nó. Khi ấy thiên đàng sẽ mừng vui. Ngay lúc này, linh hồn ngươi một lần nữa tạo ra cơ hội cho ngươi để ngươi là, làm và có những gì nó muốn biết Người Mà Ngươi Thực Sự Là. Linh hồn ngươi đã mang ngươi đến với những câu ngươi đang đọc lúc này đây – cũng như nó mang ngươi đến những lời lẽ khôn ngoan và sự thật trước đây. Ngươi sẽ làm gì bây giờ? Ngươi sẽ chọn là gì? Linh hồn ngươi chờ đợi và quan sát một cách hứng thú, như nó đã làm nhiều lần trước đây. Tôi có hiểu Ngài không khi tôi nói rằng từ trạng thái là mà tôi chọn, thành công của tôi trên trần thế sẽ được xác định? Tôi vẫn đang muốn nói về nghề nghiệp của tôi ở đây. Ta không quan tâm đến thành công của ngươi về mặt thế tục, chỉ có ngươi mới bận tâm điều đó. Đúng là khi ngươi đạt đến một vài trạng thái hiện hữu nhất định nào đó trong một thời gian dài, thành công trong việc ngươi đang làm trong thế giới là điều đương nhiên. Nhưng ngươi không lo lắng về chuyện “kiếm sống”. Các bậc thầy đích thực đã chọn làm nên một cuộc sống, hơn là kiếm sống. Từ một vài trạng thái hiện hữu sẽ vọt ra một đời sống rất phong phú, tràn đầy, rất huy hoàng, rất thỏa mãn, đên độ những của cải trần thế và thành công trong đời sẽ chẳng còn là mối quan tâm của ngươi nữa. Cái oái oăm của cuộc đời là ngay khi của cải và thành công trần thế không còn là mối quan tâm của ngươi nữa, thì con đường lại rộng mở để chúng ùa đến với ngươi. Hãy nhớ nhé, ngươi không thể có cái mà ngươi muốn, nhưng ngươi có thể trải nghiệm bất cứ những gì ngươi có. Tôi không thể có cái mà tôi muốn ư? Không. Điều này Ngài nói trước đây rồi, ở ngay đầu cuộc nói chuyện. Nhưng tôi vẫn không hiểu. tôi nhĩ Ngài nói với tôi rằng tôi có thể có bất cứ những gì tôi muốn. “Ngươi nghĩ sao, hãy tin nhue vậy, và mọi điều sẽ được làm cho ngươi”, cùng những thứ khác. Hai câu này không phải không nhất quán với nhau đâu. Không à? Tôi cảm thấy chúng rất thiếu nhất quán. Đó là vì ngươi thiếu hiểu biết. Ái chà, tôi thừa nhận điều này. Đó là lý do tôi nói chuyện với Ngài đây. Vậy thì ta sẽ giải thích. Ngươi không thể có bất cứ điều gì ngươi muốn. chính hành vi muốn gì đó đẫ đẩy nó ra xa ngươi, như Ta nói trước đây, trong chương một. Này, có lẽ Ngài đã nói trước đây rồi, nhưng Ngài làm tôi quên mất nhanh thật. Hãy cố theo cho kịp. ta sẽ trở đi, trở lại vào chi tiết. Hãy cố bám lấy nó. Chúng ta hãy trở lại một điểm ngươi đã hiểu rồi: ý nghĩ có khả năng sáng tạo. Đồng ý không? Được. Lời nói có tính sáng tạo, đồng ý chứ. Hiểu rồi. Hành động mang tính sáng tạo. Ý nghĩ, lời nói, hành động là ba cấp độ sáng tạo, ngươi vẫn theo kịp chứ. Kịp mà. Tốt, bây giờ hãy lấy “thành công trần thế” làm chủ đề ngay lúc này, vì đó là điều ngươi đang nói và đang hỏi. Tuyệt lắm. Bây giờ ngươi có suy nghĩ này không: “tôi muốn thành công về mặt đời sống trần thế”? Đôi khi có. Và ngươi thỉnh thoảng có nghĩ; “tôi muốn có nhiều tiền hơn”? Đúng. Vì thế, ngươi không thể có cả thành công lẫn tiền bạc. Tại sao không? Vì vũ trụ không có lựa chọn nào ngoài việc đem đến cho ngươi sự thể hiện trực tiếp ý nghĩ của ngươi về nó. Ý nghĩ của ngươi là: “Tôi muốn thành công trên trần thế”. Ngươi hiểu chứ, sức mạnh sáng tạo giống như ông thần đèn. Lời nói của ngươi là mệnh lệnh, ngươi hiểu không? Thế tại sao tôi không thành công hơn được nữa? Ta nói rồi, lời nói của ngươi là mệnh lệnh. Bây giờ lời nói của ngươi là: “tôi muốn thành công”. Và vũ trụ nói “Được, ngươi muốn”. Tôi vẫn không chắc mình hiểu chỗ này. Hãy nghĩ theo cách này nhé. Từ “tôi’ là chìa khóa khởi động động cơ sáng tạo. Chúng là những câu khẳng định với vũ trụ. Những mệnh lệnh. Bây giờ, bất cứ chữ gì đi sau chữ “tôi” (nó đưa ra công thức TÔI LÀ) đều hướng đến việc thể hiện ra trong thực tại vật lý. Vì thế, “tôi” + “muốn thành công” tạo ra một người đang muốn thành công. “tôi” + “muốn tiền” phải tạo ra một người đang muốn tiền. Nó không thể tạo ra một thứ khác, vì ý nghĩ và lời nói đều có khả năng sáng tạo. các hành động cũng vậy. Và nếu ngươi hành động theo cách thức cho thấy ngươi muốn thành công và tiền bạc, thì khi ấy các ý nghĩ, lời nói và hành động của ngươi đều hòa hợp, và chắc chắn ngươi có được kinh nghiệm về sự muốn này. Ngươi có thấy không? Vâng, Ôi Thượng đế -Có thực nó xảy ra như thế không nhỉ? Dĩ nhiên, ngươi là một kẻ sáng tạo rất quyền lực. Bây giờ giả như, nếu ngươi có một ý nghĩ, hoặc tuyên bố một câu, chỉ một câu thôi – trong giận dữ chẳng hạn, hay tuyệt vọng, có vẻ như ngươi không chuyển những ý nghĩ hay lời nói ấy thành hiện thực. Vì thế ngươi không phải lo lắng về những câu “mệt chết được”; hay “xuống hỏa ngục đi” hay tất cả những thứ khó nghe khác đôi khi ngươi nghĩ đến hay nói ra. Tạ ơn Chúa. Không có chi. Nhưng nếu ngươi lặp lại một ý ghĩ, hoặc nói một câu nhiều lần – không chỉ một lần, hai lần, mà hàng chục, hàng trăm , hàng ngàn lần – ngươi có ý kiến gì không về sức mạnh sáng tạo của việc đó? Một ý nghĩ hay lời nói được diễn đạt lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trỏ nên đúng như thế - được thể hiện. Tức là được đẩy ra ngoài, nó trở nên thực tại thể lý của ngươi. Ôi trời. Đó chính là cái nó rất thường hay tạo ra – đau khổ tốt lành. Ngươi yêu mến đau khổ ngươi thích bi kịch. Tức là nó hiện diện cho đến khi ngươi không yêu nó nữa. Sẽ đến một thời điểm nào đó trong cuôc tiến hóa của ngươi, khi ngươi thôi không yêu thích bi kịch nữa, thôi không yêu “câu chuyện” như ngươi đang sống qua nữa. Đó là lúc ngươi quyết định – cchur động chọn – thây đổi nó. Chỉ có điều hầu hết mọi người không biết phải làm sao. Bây giờ thì ngươi biết rồi đấy, để thay đổi hiện thực, chỉ cần thôi không suy nghĩ như thế nữa. Trong trường hợp này, thay vì nghĩ “tôi muốn thành công”, “hãy nghĩ tôi thành công”. Điều ấy với tôi giống như lời nói đối vậy.Tôi đàng tự nhạo mình nếu tôi nói thế. Tâm trí tôi sẽ hét lên: “mày nói cái quái quỉ gì vậy”. Vậy thì nghĩ đến một ý nghĩ mà ngươi có thể chấp nhận được. “Thành công sẽ đến với mình bây giờ thôi”, hoặc “mọi sự đều đưa đến thành công cho mình”. Hóa ra đây là cái mẹo đằng sau phương pháp khẳng định của nhóm Thời Đại Mới. Các câu khẳng định chẳng có tác dụng gì đâu nếu chúng chỉ là lời khẳng định về điều ngươi muốn nó trở thành hiện thực. Chúng chỉ có tác dụng khi chúng là những khẳng định về một điều mà ngươi đã biết là hiện thực. Lời khẳng định được cho là tốt nhất là câu khẳng định tạ ơn và thừa nhận. “xin cảm ơn Chúa đã đem thành công đến cho đời con”. Bây giờ, ý niệm đó, khi được nghĩ, được nói và hành động dựa vào, sẽ tạo ra những kết quả diệu kỳ - khi nó xảy đến từ hiểu biết thực, không phải từ một cố gắng tạo ra kết quả, mà từ một ý thức rằng các kết quả đã được tạo ra rồi. Giêsu có được sự minh bạch này. Trước mỗi phép lạ, Ngài đều cảm ơn ta trước vì đã cho nó xảy ra. Ngài không bao giờ không có thái độ biết ơn, vì không bao giờ có chuyện điều Ngài tuyên bố lại không xảy ra. Ý nghĩ đó không bao giờ đi vào đầu Ngài được. Ngài rất chắc chắn về Người Mà Mình là và mối quan hệ của Ngài với ta, đến độ mọi ý nghĩ, lời nói và hành động của Ngài đều phản ảnh ý thức ấy – cũng như ý nghĩ – lời nói và hành động của ngươi phản ảnh ý thức của ngươi. Bây giờ, nếu có điều gì đó mà ngươi chọn để trải nghiệm trong đời đừng “muốn” nó nữa,hãy chọn nó. Ngươi có chọn thành công về những việc trên cuộc sống trần thế không? Ngươi có chọn có nhiều tiền hơn không? Tốt. Vậy hãy chọn nó. Thật đấy. Chọn hết mình, đừng có nửa vời. Nhưng ở giai đoạn phát triển của ngươi đừng ngạc nhiên nếu “thành công trên đời” không còn là mối quan tâm của ngươi nữa. Thế điều ấy muốn nói gì? Sẽ đến lúc trong cuộc tiến hóa của mọi linh hồn, khi ấy mối quan tâm chính không còn là sự sống còn của thân xác này nữa, mà là sự tăng tiến của tinh thần, không còn là việc đạt tới thành công trên đời nữa, mà là sự hiện thực hóa của Bản Ngã. Theo ý nghĩa nào đó, đây là một thời gian rất nguy hiểm, nhất là ngay lúc đầu, vì thực thể cư ngụ ngay trong thân xác hiện giờ biết rằng nó chỉ là thế thôi: một hữu thể trong một thân xác – chứ không phải một hữu thể - thân xác. Ở giai đoạn này, trước khi thực thể đang lớn ấy trưởng thành về quan điểm này, thường có một cảm giác như không còn lo lắng đến những chuyện trong thân xác nữa. Linh hồn quá phấn khích về việc cuối cùng cũng bị “khám phá”. Tâm trí rời bỏ thân xác và tất cả chất thể của thân xác. Mọi thứ đều bị bỏ qua. Các mối quan hệ đều bị dẹp qua một bên. Các gia đình biến mất. Công việc chỉ xếp hàng thứ yếu. Các hóa đơn không được thanh toán. Bản thân cơ thể thậm chí không được nuôi dưỡng trong thời gian dài. Toàn bộ sự tập trung và chú ý của thực thể giờ chỉ ở linh hồn và các chất thể của linh hồn mà thôi. Điều này có thể đưa đến một khủng hoảng ca nhân nghiêm trọng trong đời sống hàng ngày cảu hữu thể, mặc dù tâm trí không nhận ra một chấn thương nào. Nó đang lơ lửng trong hạnh phúc. Những người khác nói rằng ngươi đã mất trí – và theo một nghĩa nào đó, ngươi quả như thế thật. Việc khám phá ra sự thật rằng đời sống chẳng có liên quan gì đến thân xác có thể tạo ra sự mất quân bình theo cách khác. Trong khi thoạt đầu thực thể ấy hành động như thể thân xác là tất cả những gì tồn tại, giờ đây nó lại hành đông như thể thân xác chẳng còn giá trị gì. Dĩ nhiên điều này không đúng, như thực thể chẳng bao lâu nữa sẽ nhớ lại (đôi khi một cách đau đớn). Ngươi là một hữu thể có ba phần, bao gồm thân xác, tâm trí và tinh thần. Ngươi sẽ luôn luôn là hữu thể có ba phần, không chỉ khi ngươi còn sống trên trái đất mà thôi đâu. Có những người đặt giả thuyết rằng khi chết, thân xác và tâm trí bỏ đi, thân xác và tâm trí không bỏ đi. Thân xác thay đổi hình thức, để lại phần đậm đặc nhất đằng sau, nhưng vẫn luôn giữ lấy cái vỏ bên ngoài. Tâm trí (ngươi đừng nhầm nó với bộ óc) cũng đi với ngươi luôn, hợp cùng tinh thần và thân xác thành một khối năng lượng có ba chiều kích, hay ba phương diện. Nếu ngươi chọn trở về với cơ hội trải nghiệm này, mà ngươi gọi là cuộc sống trên trái đất, Bản Ngã thần linh của ngươi một lần nữa sẽ tự tách rời các chiều kích thực sự của nó thành cái mà ngươi gọi là thân xác, tâm trí và tinh thần. Quả thực, toàn bộ ngươi là năng lượng, nhưng có ba đặc tính phân biệt. Khi ngươi quyết định cư ngụ trong một thân xác mới ở trên mặt đất này, thân xác siêu phàm của ngươi (như có người đã dặt tên cho nó) hạ thấp nhịp rung của mình – tự làm chậm nó lại từ một rung động quá nhanh không ai thấy được đến một tốc độ làm tạo ra khối lượng và vật chất. Vật chất thực này là sáng tạo của tư tưởng thuần túy – là công trình của tâm trí, khía cạnh tâm trí cao cấp của hữu thể ba phần của ngươi. Vật chất này là sự đông đặc lại của hàng triệu tỷ , trăm ngàn tỷ đơn vị năng lượng, một khối khổng lồ - có thể kiểm soát được bằng tâm trí… ngươi thực là một bộ óc quá tuyệt; Khi các năng lượng nhỏ xíu này dung hết năng lượng của mình, chúng bị cơ thể đào thải, trong khi tâm trí tạo ra đơn vị mới. Tâm trí tạo ra chúng từ tư tưởng liên tục của nó về Người Mà Ngươi Là; Cơ thể siêu phàm “bắt lấy” ý nghĩ, có thể nói như vậy, và hạ thấp tần số rung của nhiều đơn vị năng lượng hơn (“kết tinh” chúng lại), và chúng trở thành vật chất – vật chất mới của ngươi. Bằng cách này, mọi tế bào trong cơ thể ngươi thay đổi sau vài năm. Ngươi hoàn toàn không còn là cùng một người như vài năm trước nữa. Nếu ngươi có ý nghĩ về bệnh tật (hoặc liên tục giận dữ, oán ghét và tiêu cực), cơ thể ngươi sẽ diễn dịch những ý nghĩ ấy thành hình thể vật lý. Người khác sẽ nhìn thấy hình thái bệnh tật, ủ rũ này và họ sẽ nói: “là cái gì vậy”? Họ sẽ không biết rằng câu hỏi của họ chính xác đến mức nào đâu. Linh hồn quan sát toàn bộ tấn kịch này diễn ra, năm này đến năm khác, tháng này tiếp tháng kia, ngày qua ngày, từng giây phút tiếp nối. Và linh hồn luôn nắm giữ sự thật về ngươi. Nó không bao giờ quên mất bản thiết kế, cái kế hoạch ban đầu, cái ý niệm nguyên thủy, ý nghĩ sáng tạo. Công việc của nó là nhắc nhở ngươi – tức là, nhắc nhở ngươi - để ngươi có thể một lần nữa nhớ lại Ngươi là Ai – và khi ấy chọn Người mà Ngươi lúc này Muốn là. Bằng cách này, chu trình sáng tạo và cảm nghiệm, phác họa và hoàn thành, biết và trưởng thành trên cái không biết, tất cả tiếp diễn, cả trong hiện tại và mãi mãi. Ồ. Đúng, chính xác. Ồ, còn nhiều điều phải giải thích nữa, rất nhiều nữa. Nhưng không bao giờ nó được thực hiện hoàn toàn thậm chí trong cả một cuốn sách – thậm chí trong cả một đời người.Nhưng ngươi đã bắt đầu và thế là tốt. Chỉ cần nhớ điều này, cung như vị thầy vĩ đại của các ngươi wiliam Shakespeare đã nói: “hỡi Horatio, trên trời dưới đất còn biết bao điều mà triết học của anh còn chưa với tới được”. Cho phép tôi hỏi Ngài vài câu hỏi chỗ này nhé? Chẳng hạn, khi Ngài nói tâm trí đi với tôi sau cái chết, điều đó có nghĩa rằng “nhân tính” của tôi có đi với tôi phải không? Tôi có biết được ở đời sau tôi là ai không? Có… và cả người mà ngươi từng là nữa.Tất cả sẽ mở ra cho ngươi – bởi vì khi ấy biết sẽ có lợi cho ngươi.Bây giờ, ngay lúc này, biết không ích lợi gì. Và đối với đời này, sẽ có một cuộc “kiểm toán” – một sự duyệt lại – chứ? Không hề có phán xét trong cái mà ngươi gọi là đời sau. Ngươi thậm chí sẽ không được phép để tự xét đoán mình (vì ngươi hẳn sẽ tự cho mình điểm kém, xét từ sự xét đoán và không tha thứ mà ngươi tự dành cho mình trong đời này). Không, không hề có sự kiểm toán nào. Cũng không có ai giơ ngón tay trỏ lên hoặc xuống. Chỉ có loài người là hay xét đoán, và vì ngươi là người, ngươi cho rằng ta cũng vậy. Nhưng, Ta không phải thế - và đó là một chân lý vĩ đại mà ngươi không thể nào chấp nhận. Tuy nhiên, mặc dù không hề có phán xét ở đời sau, sẽ vẫn có cơ may để nhìn lại tất cả những gì ngươi đã nghĩ, đã nói và đã làm ở đây, và quyết định xem đó có phải là cái ngươi muốn chọn lần nữa không, dựa trên Người mà Ngươi Nói Ngươi là và Người Mà Ngươi Muốn là. Có một giáo lý của truyền thống thần bí Đông phương, quay quanh học thuyết gọi là Kama loka – theo đó, vào lúc từ trần, mỗi người được cho một cơ hội để sống lại mọi ý nghĩ đã có, mọi lời từng được nói ra, mọi hành vi đã được thực hiện, không phải từ quan điểm của mình, mà từ quan điểm của những người chịu ảnh hưởng bởi chúng. Nói cách khác, chúng tôi đều trải nghiệm điều chúng tôi cảm thấy khi suy nghĩ, nói và làm điều chúng tôi đã làm rồi. Bây giờ chúng tôi được cho kinh nghiệm cảm nhận điều người khác cảm nghiệm trong mỗi thời khắc đó – và chính nhờ thước đo này, chúng tôi sẽ quyết định liệu chúng tôi có suy nghĩ, nói hoặc làm điều ấy nữa hay không. Ngài có nhận xét gì không? Điều xảy ra trong đời ngươi sau này thì quá sức ngoại thường, không thể mô tả ở đây bằng những từ ngữ mà ngươi có thể hiểu được. Đó là vì kinh nghiệm này thuộc một chiều kích khác và nó thách đố việc mô tả có sử dụng những công cụ hạn chế trầm trọng như ngôn từ. Chỉ cần nói rằng ngươi có cơ hội duyệt lại lần nữa đời sống hiện tại của ngươi, không đau đớn, sợ hãi hay phán xét, với mục đích quyết định xem ngươi cảm thấy thế nào về kinh nghiệm của ngươi ở thời điểm này và ngươi muốn đi đâu từ đó. Nhiều người trong các ngươi sẽ quyết định quay trở lại hiện tại này, trở về với thế giới của cái đậm đặc và tương đối này để có một cơ hội nữa trải nghiệm các quyết định và lựa chọn của họ về Bản Ngã ở cấp độ này. Những người khác - một số ít – sẽ quay trở lại với sứ mạng khác. Các ngươi quay trở về với cái đậm đặc và vật chất với một sứ mạng cho linh hồn: đưa người khác ra khỏi sự đậm đặc và vật chất. Trên trái đất luôn có những người ở giữa các người đã chọn lựa như thế. Ngươi có thể xếp riêng họ ra ngay tức thì. Công việc của họ đã chấm dứt. Họ trở vế trái đất chỉ để giúp những người khác mà thôi. Đây là niềm vui của họ. Họ chẳng tìm kiếm gì ngoài việc phụng sự. Ngươi không thể nào không nhận ra họ được. Họ ở khắp nơi, có nhiều người như thế hơn ngươi tưởng. Có thể là ngươi biết một người, hoặc nghe nói về một người. Tôi là một người đó ư? Không, nếu ngươi phải hỏi thì ngươi không phải là người như thế rồi. Một người như thế không đi hỏi ai cả. Chẳng có gì để hỏi. Ngươi, con Ta, là một sứ giả trong cuộc đời này. Một người tiền trạm, một người đem tin, một người tìm kiếm và thông thường là một phát ngôn viên của sự thật. thế là đủ cho một đời rồi, hạnh phúc nhé. Ô, tôi hạnh phúc. Nhưng tôi có thể luôn hy vọng thêm nữa; Đúng, và ngươi sẽ như vậy; Ngươi sẽ luôn hy vọng thêm nhiều nữa. Nó nằm trong bản tính của ngươi mà. Nó là bản tính thần linh, luôn tìm kiếm điều hơn nữa. Vì thế hãy tìm kiếm, bằng mọi phương tiện, hãy tìm kiếm. Bây giờ ta muốn trả lời dứt khoát câu hỏi của ngươi đã đem ra khởi đầu phần nói chuyện này. Hãy đi tới và làm những gì ngươi thực sự thích làm; Đừng làm gì khác; Ngươi có quá ít thời gian. Làm sao ngươi có thể nghĩ đến việc ãng phí một giây phút làm điều gì đó để kiếm sống mà ngươi không thích làm? Kiểu sống gì lạ vậy? Đó không phải là sống, đó là chết. Nếu ngươi nói: “nhưng, nhưng…tôi có những người khác phải phụ thuộc vào tôi … con nheo nhóc…vợ thiếu thốn…” Ta sẽ trả lời: “nếu ngươi nhất quyết rằng cuộc đời ngươi là để lo cho điều mà thân xác ngươi đang làm thì ngươi không hiểu tại sao ngươi đến đây rồi. Ít nhất hãy làm gì đó hài lòng ngươi – điều gì đó nói lên Ngươi Là Ai”. Khi ấy, ít ra ngươi có thể bước ra khỏi oán hận và giận dữ, để đến với những người mà ngươi cho rằng đang cản trở niềm vui của ngươi. Điều gì thân xác ngươi đang làm không thể đáng giá thấp được. Nó quan trọng, nhưng không quan trọng theo cách ngươi suy nghĩ. Hành động của thân xác là nhằm phản ảnh một trạng thái hiện hữu, chứ không phải những nỗ lực để đạt tới một trạng thái hiện hữu. Trong trật tự đúng của các sự việc, người ta không làm điều gì đó để được hạnh phúc, và vì thế, họ làm điều gì đó. Người ta không làm một vài việc gì đó để có lòng trắc ẩn. Họ có lòng trắc ẩn và vì thế, họ hành động theo một cách thức nào đó. Nơi một người có ý thức cao độ, quyết định của linh hồn đi trước hành động của cơ thể. Chỉ có những người vô ý thức mới tìm cách tạo ra một trạng thái của linh hồn ngang qua một điều gì đó mà thân xác đang làm. Đây là điều được nhắm đến qua câu khẳng định: “đời sống của ngươi không phải là lo điều thân xác ngươi đang làm”. Nhưng đúng là những gì thân xác ngươi đang làm là một phản ảnh của điều mà cuộc đời ngươi đang lo. Nó là một mâu thuẫn nan giải khác của cái linh thiêng. Nhưng hãy biết điều này, nếu ngươi không hiểu được những điều khác: Ngươi có quyền đối với niềm vui của ngươi, có con hay không có con,có vợ hay không có vợ.Hãy tìm kiếm nó; Hãy tìm ra nó. Và ngươi sẽ có một gia đình an vui, bất kể ngươi có kiếm được nhiều tiền hay không. Và nếu họ không vui, họ đứng dậy và lìa bỏ ngươi, khi ấy, hãy cho họ đi với lòng yêu mến, để tìm kiếm niềm vui của họ. Mặt khác nếu ngươi tiến đến chỗ mà mọi thứ của thân xác ngươi không còn là điều ngươi quan tâm nữa thì khi ấy ngươi còn tự do nhiều hơn nữa để tìm kiếm niềm vui của ngươi – dưới đất cũng như trên trời. Thượng đế nói rằng hạnh phúc thì đúng – thật vậy, thậm chí hạnh phúc trong việc làm của ngươi nhữa. Công việc trong đời ngươi là một lời khẳng định Ngươi Là Ai. Nếu không phải thế, tại sao ngươi đang làm nó? Ngươi có cho rằng ngươi phải làm thế không? Ngươi không phải làm bất cứ một điều gì. Nếu Người Mà Ngươi Là là một người chu cấp cho gia đình bằng mọi giá, ngay cả phải hy sinh hạnh phúc của chính mình thì hãy yêu việc làm của ngươi, vì nó đang hỗ trợ cho ngươi trong việc sáng tạo một lời khẳng định sống động về Bản Ngã. Nếu “Người Mà Ngươi là” là một phụ nữ đang làm một công việc chán ghét, để đáp ứng trách nhiệm như bà quan niệm, thì hãy yêu mến, yêu mến, hãy yêu mến công việc của mình, vì nó hoàn toàn ủng hộ hình ảnh của ngươi, quan niệm của ngươi về Bản Ngã. Mọi thứ có thể yêu mến mọi thứ, vào lúc họ hiểu được điều họ đang làm và lý do để làm việc đó. Không một ai làm bất cứ điều gì họ không muốn làm. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 10, 2016 Qua cuộc đối thoại giữa tác giả Walsch và Thượng Đế ở trên, chúng ta chú tâm vào sự giải thích của Thượng Đế về "Linh hồn". Linh hồn là "Cái luôn đang là!" tức là "chính chúng ta" trong bất kỳ mọi trạng thái nào, nhưng đồng thời nó là "Cái cuối cùng", không phải thân xác. "Cái cuối cùng" này có thể hiểu chính là cái khởi nguyên vũ trụ tức "bản thể" vạn vật. Bởi vì Nó luôn luôn là "Cái đang là" và do vậy, Nó mang tính "quan sát hay thấy" mà thôi, chính Nó cũng không hiểu "Nó đang là"! Linh hồn không suy nghĩ, không hiểu, không tình cảm, không cảm giác nhưng chính Nó lại là gốc rễ mọi thứ - vấn đề này cần phân tích vô cùng sâu sắc hơn nữa. Ý nghĩa bí hiểm này chỉ được giải đáp rõ ràng trong Phật giáo: tức "tính Thấy", tuy nhiên "tính Thấy" này còn phải được giải thích sâu hơn nữa thì mới rõ. Ở đây, hiểu nôm na thân xác được coi là một cái vỏ, sau đó là Linh hồn! Tuy nhiên, Linh hồn này có cái vỏ như thân xác hay không và có Linh hồn thứ cấp "i" nào đó trong cái gọi là Linh hồn sơ cấp? Tất nhiên, là như vậy rồi. Cuốn... quên tên rồi của Đạo giáo có vẽ hình: 3 hồn 7 vía. Cuối cùng, sẽ hiểu Linh hồn chính là "1 điểm linh quang siêu việt" - kinh Phật và Cao Đài Đại Đạo có nói về nó, nhưng chỉ tiệm cận ý nghĩa thôi, không cho lộ bí quyết. Đến đây, một lần nữa sẽ hiểu tận cùng và xác định rõ ràng của khái niệm "Điểm" trong toán học, hình học... Trong môn thiên văn cổ Đông phương, "Điểm" này được quy ước như là ngôi sao của chòm sao Tiểu Hùng mà trục quay của trái đất đi xuyên qua nó (biểu kiến). Tuy nhiên, còn điểm quay trên Hoàng đạo tại chòm sao Đại Hùng thì thế nào? Độc đáo, đây là cũng là một điểm tượng trưng cho cái "Đại" và một điểm tượng trưng cho cái "Tiểu" như nhau, đây hàm ý chính là bản thể vạn vật đồng nhất và đẳng hướng. Tôi tham khảo được một bài thơ dưới dây, được cho là của linh hồn chí sĩ Trần Cao Vân (người Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) giáng cho! Tương truyền, ông có viết cuốn sách nổi tiếng: Trung Đạo. THÁI BÌNH PHÁ ĐIỀN THÁI cực hoàn nguyên Chính Pháp khaiBÌNH an thiên hạ đẹp trong ngoàiPHÁ tan mây tuyết muôn phương sáng ĐIỀN xuất hồng quang trổ Thánh tài Năm trăm năm Trạng Trình tiên đoán Cách PHÁ ĐIỀN bài toán cổ kimTrải bao thế hệ lặng imQuật dòng lịch sử đi tìm tri âm Đã đến lúc đồng tâm hiệp nhấtHiển danh ngài THÁI ẤT THẦN KINH (tôi ghi chú: cách chơi chữ, Thái Ất Thần Kinh cũng là sản phẩm của Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn trong Đạo giáo).Đông Tây đều phục Trạng TrìnhNgồi nhà tiên quyết trị bình, an bang Thế “Ly - Tâm” mở mang vận nướcKế Tam phân thuở trước diệu kỳGậy thần vạch hướng đường điGiữa thời Trịnh, Mạc, Nguyễn ly loạn nhiều Trạng phá điền cao siêu vi diệuTrịnh tỉnh thời nương chịu phò LêÂm mưu phủ quyết mọi bềNắm quyền chính trị gồm về trong tay Mạc thất thế cao bay xa chạyNgược Cao Bằng hết thảy yên thânNguyễn Hoàng khủng hoảng tinh thần”Hoành Sơn nhất đái” tiến lần vào Nam Lý thiên cơ bao hàm kỳ lạSinh Trạng Trình “Định Bá, Đồ Vương”Thần thư Lý học phi thườngLóng tai nghe thấu bốn phương đất trời Ngài truyền lại cho đời Sấm KýTừ Đinh, Lê, Trần, Lý về sauMáy trời sắp đặt liền nhauThịnh suy, bĩ thái, cơ màu diễn ra Ngài đắc đạo nhìn xa đoán trướcVận hội lành của nước Việt taHồn thiêng TỔ QUỐC, SƠN HÀKỷ nguyên hai mốt Thánh ra cứu đời Nhìn thế giới tơi bời khổ nạnVì cái TA biến bạn thành thùTá danh TƯỢNG GIÁO mê mùTham quyền cố vị ngục tù đeo mang Thiên vật chất buộc ràng tà thuyếtQuên tinh thần minh triết cao sâuĐạo đời hỗn loạn đối đầuGây mầm thù oán hận sầu về sau Truyền thống Việt trước sau đoàn kếtNghĩa ĐỒNG BÀO sống chết có nhauNát lòng máu chảy ruột đauLương tâm đạo lý một bầu ÂU CƠ Dòng huyết thống tôn thờ TIÊN TỔTrở về nguồn hít thở sáng trongNoi gương tổ phụ LẠC LONGChia mà không rẽ giống giòng yêu thương Ngán bài học thương trường tái diễnCảnh tóc tang, chinh chiến rùng mìnhViệt Nam Chủ Đạo hòa bìnhPhá ĐIỀN giải mã nghĩa tình bao la Chữ Vạn thuận Thích Ca nhân áiVạn nghịch sinh ra loài Hít LeThuận THIÊN tất cả đều ngheNghịch THIÊN tận diệt phái phe không còn ĐIỀN biến hóa “vuông tròn” chung thủyPhật Chúa đều cũng chỉ CON NGƯỜIAi làm lẽ sống tốt tươiThế gian qúy trọng người đời tôn danh Người trên người, trở thành Thánh PhậtNgười dưới người THÚ VẬT, YÊU TINHLàm NGƯỜI phải biết nhục vinhLương tâm tòa án bạch minh tỏ tường Điền gói trọn tình thương bất diệtKhông có còn phân biệt thấp caoTinh thần nhân loại đồng bàoNhư TRỜI, TRĂNG hiệp ngàn SAO vận hành Điền khai phóng trở thành bình đẳngNhư mẹ hiền lòng nặng TRĂM CONChia hai xuống biển lên nonTrung hòa, Trung đạo lại còn Trung dung Khi hữu sự hiệp chung trở lạiNhớ BỌC xưa tồn tại nhất nguyênPhải chăng từ một chữ ĐiềnPhương hành năng diệu, quy nguyên Đại Đồng Phật, Tiên, Chúa suốt thông vạn phápCác siêu nhân phù hạp, vô tranhPHÁ ĐIỀN bất chiến nhiên thànhChính "tâm" - “Vương Đạo”, vô danh Thái Bình. 10/12/2000, 29-10- Canh Thìn, Sứ giả Thái Bình 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 10, 2016 Đi tìm nguồn gốc thí nghiệm "Tạo ra linh hồn" gây xôn xao thế giới (Tamsugiadinh.vn) - Năm 1972 là lần đầu tiên, một nhóm các tình nguyện viên, chuyên gia tâm linh hàng đầu thế giới cùng quy tụ để thực hiện thí nghiệm thuộc hàng siêu tưởng: Tạo ra linh hồn. Đi tìm nguồn gốc thí nghiệm "Tạo ra linh hồn" gây xôn xao thế giới Ý tưởng có vẻ điên rồ ấy xuất phát từ tiến sĩ, chuyên gia thần học Owen người Canada. Sau một thời gian nghiên cứu, ông này cho rằng tâm trí con người có thể tạo ra những thực thể siêu tự nhiên thông qua các kỳ vọng, trí tưởng tượng và hình dung. Chính năng lượng cùng sóng của những người tham gia đã tự “vẽ” nên một dạng năng lượng vô hình được gọi là “hồn ma”. Dĩ nhiên, những người có khả năng tạo ra thứ năng lượng ấy cũng thuộc hàng có “số má” hay nói theo kiểu dân gian là “có căn”. 8 người được chọn ra trong cuộc thí nghiệm tạo ra linh hồn Tiến sĩ Owen tập hợp được 8 người. Những người này đều thừa nhận là nhiều lần trong đời thấy hồn ma hoặc cảm giác được sự hiện diện của cõi âm. Những người này được chính tiến sĩ Owen kiểm tra bằng cách đưa lần lượt từng người tới những địa điểm có sóng âm kì lạ. Họ sẽ phải chứng tỏ mình có khả năng nghe được tần số sóng mà tai người bình thường không nghe thấy. Bài kiểm tra của họ được đo cùng với máy dò tần số chuyên dành đi “bắt ma”. Vì thế, bất cứ ai ngộ nhận mình có khả năng giao tiếp với linh hồn đều sẽ bị trượt ở bài kiểm tra này. Philip Aylesford Tiến sĩ Owen chọn ra một nhân vật đã chết từ cổ xưa mà chưa ai trong số 8 người trên được biết tới. Họ sẽ phải đọc tiểu sử, các câu chuyện, xem ảnh và tự hình dung về nhân vật này. Nhân vật được chọn là Philip Aylesford. Philip Aylesford sinh năm 1624 tại Anh. Ông này đi lính từ năm 14 tuổi và tới năm 16 tuổi đã có hàm tước do những chiến công xuất sắc ngoài chiến trường. Ông đã tham gia cuộc Nội chiến Anh và trở nên thân thiết với vua Charles II, thường được vua cử đi làm gián điệp. Sau khi tình hình chiến sự ổn định, Philip được nhà vua dàn xếp một cuộc hôn nhân với con gái của một công tước. Thế nhưng, người vợ có tên Dorothea này lại quá lạnh lùng, trịch thượng và không hợp với phong cách có phần dân dã của Philip. Buồn chán về cuộc hôn nhân không như ý muốn nhưng Philip cũng không thể bỏ vợ vì đó là một hành vi phạm thượng. Trong một lần cưỡi ngựa ra ngoại thành, Philip đi ngang qua các khu trại của dân du mục và bất ngờ bắt gặp một cô gái có đôi mắt đen tròn đẹp như thiên thần. Philip đem lòng yêu mến. Ông đã đưa cô gái có tên Margo này về một căn nhà bí mật bên hồ trong rừng cách nơi ở của ông khoảng 30 phút cưỡi ngựa. Mối tình bí mật ấy đã đem lại cho Philip quãng thời gian hạnh phúc nhất của cuộc đời. Nhưng "cái kim trong bọc" sớm muộn cũng phải lòi ra. Không lâu sau đó, cô vợ Dorothea đã nhận ra những dấu hiệu khác lạ, lảng tránh từ chồng. Cô cho người bí mật theo dõi Philip và nhanh chóng phát hiện ra tình nhân trong rừng của ông này. Dorothea bắt tại trận khi Philip và Margo đang ân ái trong căn nhà gỗ. Dorothea cáo buộc Margo là phù thủy đã dùng bùa phép để cướp chồng cô. Dorothea đã cho lính trói Margo lại trong ánh mắt và giọt nước mắt bất lực của Philip. Mặc cho người tình sợ hãi, đau khổ kêu gào nhưng Philip bỏ mặc dửng dưng. Ông sợ bị hủy hoại danh tiếng, sợ mất đi hình ảnh trước nhà vua và quân lính nên đã để mặc người vợ của mình ra tay hãm hại tình nhân. Margo bị trói và hỏa thiêu ngay trong căn nhà gỗ trước ánh mắt thất thần của Philip và giọng điệu hả hê của Dorothea. Đau khổ vì mất đi người tình. Bản thân cũng tự nguyền rủa sự hèn kém của lương tâm, Philip đã không còn giữ được sự sắc sảo tỉnh táo. Ông khiến cho cuộc chiến ở Diddington thất bại và làm nhà vua chán nản. Một buổi sáng sau đó không lâu năm 1654, người ta tìm thấy Philip tự vẫn khi ông mới 30 tuổi. Nhóm 8 người nắm tay nhau ngồi quanh một chiếc bàn và cùng nghĩ về Philip Aylesford. Xung quanh là máy ảnh, máy quay, máy dò sóng âm và các thiết bị chuyên dụng dùng để “bắt ma”. Sau một hồi tập trung nhưng không có điều gì xảy ra, Owen quyết định giảm sáng đèn, dựng các tấm tranh ảnh ở quanh phòng cho giống với những gì họ tưởng tượng về lâu đài nơi Philip sống. Sau một vài lần thử nghiệm, Philip đã kết nối với thế giới. Ông không biểu hiện ở dạng linh hồn hay những bóng ma quái dị mà chỉ trả lời các câu hỏi của nhóm thông qua những tiếng gõ bàn. Nếu có tiếng gõ là đúng, không có gì là sai hoặc không trả lời. Philip đã trả lời đúng toàn bộ các câu hỏi về tiểu sử của mình nhưng không trả lời thêm bất cứ điều gì khác. Tiến sỹ Owen không công nhận kết quả này và cho rằng, chính hiện tượng “vô thức tập thể”, một hiện tượng xảy ra do sự kỳ vọng của những người tham gia đã khiến tay họ di chuyển và gõ một cách vô thức. Chiếc ghế bay lơ lửng trong buổi thí nghiệm Không từ bỏ, nhóm nhà khoa học tiếp tục thực hiện các buổi thí nghiệm tiếp theo. Thật không ngờ, một loạt các hiện tượng kỳ lạ đã xảy ra mà chưa ai có thể giải thích bằng khoa học. Philip bắt đầu khiến chiếc bàn nghiêng ngả, trượt từ bên này qua bên kia... Các âm thanh phát ra rất rõ, bao gồm cả tiếng gõ và tiếng đập bàn. Đèn hay ánh sáng trong phòng cũng không hoạt động bình thường, liên tục có hiện tượng đèn chớp sáng rồi tắt. Chưa dừng lại ở đó, tiến sĩ Owen cùng đồng nghiệp còn nghe thấy những tiếng thì thầm rất nhỏ nhưng họ lại không thể tìm thấy tiếng động đó trên băng ghi hình. Chiếc bàn nghiêng ngả, trượt từ bên này sang bên kia Rất nhiều giả thuyết được đưa ra nhằm lý giải cho hiện tượng này, tuy nhiên vẫn chưa có lời giải nào đủ sức thuyết phục. Trong câu chuyện này, thậm chí không một ai có thể chứng minh được tại sao lại xảy ra hiện tượng như vậy. Một số người cho rằng, vô thức của chúng ta có thể chịu trách nhiệm cho nhiều loại hình của hiện tượng siêu tự nhiên, trong đó có việc mở cánh cổng tới “thế giới bên kia”. Tuy nhiên, thí nghiệm Philip đã khởi đầu cho một trào lưu nghiên cứu các “linh hồn tưởng tượng”. Mặc dù vẫn gây nhiều tranh cãi nhưng các nhà khoa học lại bắt đầu phải hoài nghi về việc liệu có tồn tại một thực thể siêu tự nhiên được tạo ra từ chính nhận thức của con người? Câu hỏi này cho tới nay vẫn chưa có lời giải đáp. Những lời giải thích Ngay sau khi thí nghiệm xảy ra, rất nhiều giả thuyết hình thành để lí giải. Một số nhận định cho rằng, đó là hành động vô thức và nó có thể chịu trách nhiệm cho nhiều loại hình của hiện tượng siêu tự nhiên, trong đó có việc "liên lạc" với thế giới tâm linh. Vậy tại sao ta lại có thể gọi hồn được một nhân vật "hư cấu"? Một số giải thích cho rằng đó là do một linh hồn ác quỷ nào đó đã "chiếm lĩnh" nhân vật này và "hiện hồn" về. Tuy nhiên, những nhà khoa học khác lại cho rằng nó là một trò bịp bợm và kĩ xảo là thứ mà nhóm thí nghiệm đưa ra để "lòe" mọi người. Họ cho rằng nhóm đã sử dụng những sợi dây cước nhỏ để thực hiện việc chiếc bàn nghiêng ngả, bay lên… Mặc dù vậy, nhiều nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học tâm linh rất kì vọng vào kết quả thí nghiệm này. Hiện họ vẫn tiếp tục nghiên cứu và kì vọng một ngày có thể liên lạc được với "thế giới bên kia". Theo Báo Tuổi trẻ & Đời sống Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 10, 2016 Tôi trích một phần bài thơ Lạc Hồng ca do Lạc Hồng Quốc Tổ (chắc ai cũng biết?) ứng linh qua một nhân vật có khả năng nhận bằng tư tưởng, do tham khảo được. Hà - Đồ xuất hiện trên sông Là cơ hiển Thánh Lạc Hồng khai nguyên Hồn non nước linh sơn tú khí Nghĩa đồng bào tôn chỉ hoằng dương Người sinh ra có quê hương Công Cha nghĩa Mẹ yêu thương gia đình Là nguồn cội hữu tình nhân loại Dẫu thế thời biến cải mưu sinh Cũng không quên được thâm tình Lìa quê nhớ Mẹ xa đình nhớ Cha Trải cuộc thế ngày qua dầu dãi Nợ áo cơm khôn dại đi về Thoáng buồn cuộc sống xa quê Thị thành nắng bụi làng đê mưa bùn Tình cảm của anh hùng hào kiệt Khởi đầu chung muôn việc hy sinh Gởi thân vào cuộc thăng bình Viết trang sử đẹp hợp tình Âu Cơ Đây là lúc Đồ - Thư khai hóa Đến tận nguồn minh họa Hồn thiêng Mẹ cha Hồng Lạc, Rồng Tiên Nêu cao đạo nghĩa thiêng liêng giống nòi Trang sử cũ lần coi từng nét Lý Đồ - Thư suy xét tận tường Quốc hồn, quốc túy, quốc cương Đâu đây phảng phất tình thương đồng bào Mỗi dân tộc tự hào nguồn cội Thờ Mẹ Cha là tội hay sao? Lạ xa mang vội tin vào Mẹ Cha cùng nghĩa đồng bào ai thương? Sống chẳng có lập trường trung hiếu Tu luyện thành quy liễu về đâu? Sớm khuya Cha Mẹ không cầu Chắc gì kế mẫu trọn câu thâm tình Ta quyết lập Tổ đình Hồng Lạc Sợ cháu con rời rạc tinh thần Dù đời đày đọa tấm thân Quyết không nô lệ tinh thần Đông Tây! ... Ảnh đẹp trống đồng Đông Sơn tại Indonesia Thưa Quốc Tổ - Hùng Quốc Vương, chúng con biết bị ăn "quả nừa dzồi"! Share this post Link to post Share on other sites