Posted 1 Tháng 1, 2014 Topic này mở ra để giới thiệu những câu chuyện phong thủy sưu tầm trên báo mạng, báo giấy, các trang web.... dùng làm tư liệp tham khảo . Không phải quan điểm học thuật chính thống của Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương. Nếu bạn đọc ứng dụng chúng tôi không chịu trách nhiệm. ====================== Những câu chuyện phong thủy lừng danh của Lưu Bá Ôn Tuy là một nhân vật có thực trong lịch sử, tuy nhiên, người ta lại biết tới Lưu Cơ – Lưu Bá Ôn chủ yếu qua các câu chuyện về phong thủy. Người ta nói rằng, bất cứ nơi đâu ở Trung Quốc có lưu truyền những truyền thuyết về Lưu Bá Ôn thì ở đó ắt có truyền thuyết về phong thủy. Có lẽ, chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta lại gọi Lưu Bá Ôn là bậc tông sư về phong thủy… Chuyện kể rằng, sau khi lên ngôi hoàng đế, cũng giống như những vị hoàng đế khác, muốn cho giang sơn do mình gây dựng có thể truyền cho con cháu ngàn vạn đời sau, Chu Nguyên Chương bèn phái Lưu Bá Ôn đi khắp nơi trong cả nước xem phong thủy, tìm mọi cách ngăn chặn xuất hiện những người “mệnh lớn”, có thể cướp đoạt thiên hạ của nhà họ Chu. Lưu Bá Ôn nhận lệnh của Chu Nguyên Chương, lưng mang thần kiếm đi khắp Nam Bắc. Một khi nhìn thấy long mạch lập tức vung kiếm phá bỏ, trừ hậu họa cho hoàng thất họ Chu. Một ngày, Lưu Bá Ôn đi tới Giang Trang ở chân núi Thạch Khanh, bỗng nhiên thấy từ dưới đất có một con trâu bằng đá đang chạy về phía Giang Trang. Lưu Bá Ôn liền bấm quẻ rồi đến buổi tối hôm đó xem tinh tượng, bỗng nhiên hét lên: “Không ổn!” Theo tính toán của Lưu Bá Ôn, trong Giang Trang nhất định sẽ sinh ra một người có “mệnh lớn”, tương lai có thể tranh đoạt giang sơn của triều Minh. Để ngăn chặn việc xuất hiện này, Lưu Bá Ôn đã thi triển phép thuật, dùng bảo kiếm chặt con trâu đá làm ba khúc, phá đi phong thủy của Giang Trang. Một khi phong thủy đã bị phá, người “mệnh lớn” sẽ không thể xuất hiện được nữa. Lưu Bá Ôn còn sợ con trâu đá sau khi bị giết sẽ hồi sinh nên lại dùng lại dùng pháp thuật đem ba khúc của con trâu vừa bị chặt chôn ở 3 nơi khác nhau. Một lần khác, Lưu Bá Ôn tới vùng Tương Hồ. Lưu Bá Ôn từ lâu đã biết rằng, vùng Tương Hồ là nơi từng được thần tiên làm phép, vì thế, núi sông nơi đây đều có khí tiên. Lần này được chứng kiến tận mắt, quả nhiên không hề tầm thường. Chân dung Lưu Bá Ôn - người có công rất lớn giúp Chu Nguyên Chương gây dựng nhà Minh. Chỉ thấy, vùng Tương Hồ ba mặt đều có núi vây bọc, tổng cộng có 99 con suối chảy từ trên núi xuống, mỗi con suối đều ẩn vào trong các khe đá. 99 con suối này đều được tích lũy khí âm nhu nhiều năm bên cạnh khí cương dương của Tương Hồ. Một khi suối và hồ tương giao, nhất định ngày sau sẽ xuất hiện bậc chân mệnh thiên tử. Tuy nhiên, dường như đây đã là địa thế do tự nhiên tạo ra, làm thế nào để phá được thế phong thủy này? Đây là một vấn đề hóc búa ngay cả với bậc tông sư như Lưu Bá Ôn. Vì thế, Lưu Bá Ôn đã ở lại Tương Hồ, suy nghĩ các phá giải địa thế phong thủy này. Một ngày, sau khi đã lao tâm khổ tứ nghĩ đủ mọi cách mà vẫn chưa nghĩ ra, Lưu Bá Ôn lang thang đi tới chân một quả núi, bất ngờ nhìn thấy một hòn đá. Đương lúc mệt mỏi, Lưu Bá Ôn thấy viên đá phẳng phiu bèn ngồi xuống nghỉ chân. Nào ngờ vừa ngồi xuống thì sự mệt mỏi từ đâu kéo tới, Lưu Bá Ôn dần dần chìm vào giấc ngủ. Cũng chẳng biết Lưu Bá Ôn đã ngủ bao lâu, chỉ biết khi tỉnh lại Lưu Bá Ôn thấy rằng thanh kiếm mình đeo ở hông đã bị tuốt ra khỏi vỏ, mũi kiếm đang chúc xuống dưới đất bên dưới viên đá, ngay chỗ mũi kiếm nước đang phun ra. Nước từ dưới đất như như những hạt châu báu bám lấy thanh kiếm mà nhảy lên mặt đất. Lưu Bá Ôn giật mình, thần kiếm làm sao tự động tuốt khỏi vỏ? Vì sao mũi kiếm lại chỉ đúng chỗ có mạch nước được? Nhìn kỹ lại, Lưu Bá Ôn chợt mừng thầm. Hóa ra chỗ đầu thạch kiếm chọc xuống đất chính là chỗ mạch quan trọng nhất giữa hồ và suối. Chỉ cần phá bỏ được mạch nước quan trọng này, biến nó thành một con suối, cho người qua đường hoặc chim thú trong rừng uống thì linh khí của nó tự khắc sẽ biến mất. Làm được như vậy thì nơi đây chỉ còn là một nơi danh lam thắng cảnh chứ không thể xuất hiện đế vương được nữa. Nghĩ vậy, Lưu Bá Ôn bèn dùng kiếm thần của mình chém xuống đất nhiều nhất, mạch nước suối từ dưới đất phun lên. Lúc bấy giờ, vừa may có một người tiều phu từ đâu đi tới. Lưu Bá Ôn thấy vậy vừa uống nước từ dưới đất phun lên, vừa cố ý nói lớn: “Nước ngon thật! Nước ngon thật!” Người tiều phu đang lúc khát nước, nghe thấy Lưu Bá Ôn nói nước ngon bèn quỳ xuống bên cạnh, dùng tay vốc nước đang phun từ dưới lòng đất lên uống. Quả thật, nước vừa vào tới miệng đã thấy ngọt như mật, người cũng không còn thấy khát nữa. Người tiều phu lúc này mới nhìn xung quanh tứ phía, thấy làm lạ, tự nói với mình: “Ta thường xuyên đi lại qua đoạn đường này mà trước nay chưa từng thấy con suối này. Không biết con suối này từ đâu mà ra?” Lưu Bá Ôn đang đứng bên cạnh nói: “Con suối này tất có nguồn của nó, uống được nó tất có điều tốt!” Nói xong, Lưu Bá Ôn liền dùng thuật ẩn thân, biến mất trong chớp mắt. Người tiều phu vừa thấy Lưu Bá Ôn đứng trước mặt mình nói chuyện, chỉ nhoáng một cái đã không còn thấy đâu nữa, cảm thấy rất kỳ quái. Chợt nghĩ lại, người tiều phu cảm thấy đã từng gặp người đàn ông kia ở đâu rồi. Nghĩ một lát, người tiều phu reo lên, hóa ra là Lưu quân sư. Hóa ra, người tiều phu này là một quân sĩ đã giải ngũ về ở ẩn. Khi còn trong quân ngũ, ông ta đã từng gặp Lưu Bá Ôn. Nhớ lại câu nói của Lưu Bá Ôn rằng uống nước này tất có điều tốt, người tiều phu bèn bỏ bó củi trên lừng, tìm vật liệu dựng một căn lều ngay bên con suối rồi sống luôn ở đây. Do thường xuyên uống nước từ con suối này, người tiều phu lúc nào cơ thể cũng tráng kiện, khuôn mặt hồng hào. Có người hỏi nguyên nhân vì sao ông có thể khỏe mạnh và trẻ lâu tới như vậy, người tiều phu đều nói là do ông uống nước ở con suối do Lưu Bá Ôn dùng kiếm thần tạo thành. Không chỉ được giao nhiệm vụ phá thế phong thủy, đoạn long mạch để ngăn chặn việc xuất hiện thiên tử, tranh chấp thiên hạ với họ Chu, Lưu Bá Ôn còn được Chu Nguyên Chương tin tưởng giao cho nhiệm vụ cải tạo phong thủy để đem lại điều lợi cho sự cai trị của triều Minh. Chuyện kể rằng, sau khi sửa sang song Bắc Kinh, nơi sau này được lựa chọn làm kinh đô triều Minh, Chu Lệ, khi đó vẫn còn là Yên Vương đã tiến hành tu sửa các lăng mộ. Kể từ lúc Chu Nguyên Chương lên ngôi đã lập tức cho sửa phần mộ. Tuy nhiên, việc sửa phần mộ trước hết phải chọn được nơi đặt mộ. Một hôm, Yên Vương nói với quân sư Lưu Bá Ôn rằng: “Ngươi hãy dẫn đường, chúng ta cùng đi tìm một nơi đặt mộ thật tốt”. Lưu Ba Ôn vừa nghe đã biết Yên Vương muốn tìm địa điểm để đặt hoàng lăng. Nơi đặt hoàng lăng có can hệ tới vận mệnh của cả triều đại, do vậy phải là nơi có phong thủy thượng đẳng mới được. Nghĩ thế, Lưu Bá Ôn đã cùng với Yên Vương ra đi. Tuy nhiên, hai người từ Đông đi sang Tây, rồi lại từ Nam đi lên Bắc nhưng vẫn không chọn được địa điểm ưng ý. Cuối cùng, hai người chọn đi từ Bắc xuống phía Tây. Đi một lúc thì tới Đông Trang, hai người nhìn thấy một cây óc chó và một ngọn núi đất vàng, phong cảnh khá đẹp. Yên Vương nói: “Nơi đây được đấy!” Lưu Bá Ôn nói: “Nơi đây chưa được!” Vì sao lại không được? Lưu Bá Ôn chỉ tay về ngọn núi đất vàng phía trước mặt nói: “Điện hạ xem, đây là phần đất cao, chắc chắn là không thể có long mạch. Xây lăng tại nơi đây, đất nước có nguy cơ bị hủy hoại”. Yên Vương vừa nghe đến câu đất nước bị hủy hoại đã lắc đầu nói: “Không được. Vậy tìm một nơi khác”. Hai người lại tiếp tục đi tới Tây Trang. Tới đây, Lưu Ba Ôn chỉ tay nói: “Điện hạ, ngài thử nhìn về hướng Bắc xem”. Hai người cùng nhìn về hướng Bắc, bỗng thấy ánh sáng phát ra. Yên Vương nói: “Nơi đây là mảnh đất tốt, thử tới gần xem thử ra sao”. Hai người cùng tới nơi thì thấy nơi đây ba mặt đều có núi che chở, dựa vào phía Bắc quay mặt về phía Nam, là một nơi có địa thế cực đẹp. Yên Vương lúc này vui mừng ra mặt quay sang hỏi Lưu Bá Ôn: “Giờ thì được rồi chứ?” Lưu Bá Ôn nói: “Không tệ, có thể nói là nơi đất tốt. Điện hạ từ đây nhìn về phía Nam thử, nơi đây phía bên trái có núi thanh long, bên phải có núi bạch hổ, tả thanh long, hữu bạch hổ, chỗ điện hạ đang đứng chính là ổ mà thanh long nằm đấy”. Yên Vương nghe xong vui mừng nói: “Được vậy sẽ xây lăng mộ tại đây”. Lưu Bá Ôn cầm một vốc tiền cổ đem chôn xuống dưới đất ngay chỗ Yên Vương đứng để đánh dấu. Một chuyện khác lại kể rằng, Lưu Bá Ôn sau khi giúp Chu Nguyên Chương lập nên nhà Minh thì xin cáo quan về quê ở ẩn, nhằm tránh những đòn thù của Chu Nguyên Chương lẫn quan thừa tướng Hồ Duy Dung. Để Hồ Duy Dung lẫn Chu Nguyên Chương không biết được hành tung của mình, Lưu Bá Ôn bèn cải trang làm đạo sĩ, bí mật rời khỏi nhà, ngao du thiên hạ, trở thành một đại sư phong thủy thần bí trong giang hồ. Một lần, Lưu Bá Ôn đi tới Cửu Đàm núi La Phù. Người đi cùng ông là tướng quân Bành Oánh Ngọc trong trang phục một hòa thượng. Vì sao Lưu Bá Ôn lại tìm tới Cửu Đàm ở núi La Phù? Hóa ra, chuyện là khi Lưu Bá Ôn dẫn quân nam chinh đã từng đi qua Cửu Đàm, nhận thấy nơi đây địa thế không tệ, tuy nhiên, nhân dân lại nghèo khó. Xem xét một hồi, Lưu Bá Ôn phát hiện ra rằng, mặc dù địa thế nơi đây tốt nhưng người dân vẫn nghèo là do nơi đây xuất hiện bố cục trấn phong thủy. Lúc bấy giờ, do quân tình khẩn cấp, không tiện dừng lại lâu, Lưu Bá Ôn đã hứa với người dân ở Cửu Đàm rằng, đợi tới khi đất nước thống nhất sẽ quay trở lại đây giúp họ thay đổi bố cục trấn phong thủy kia để họ có thể thay đổi cuộc sống của mình. Chính vì thế, sau khi cáo lão về quê, nhớ tới lời hẹn năm xưa, Lưu Bá Ôn đã quyết định quay trở lại Cửu Đàm. Năm xưa khi hành quân qua Cửu Đàm, Lưu Bá Ôn đã từng xem xét nhiều lần địa hình, địa thế của Cửu Đàm. Phần lưng của Cửu Đàm dựa vào núi La Phù, mỗi năm lũ từ trên núi La Phù đều đổ xuống Cửu Đàm. Đây chính là bố cục đã trấn áp phong thủy của Cửu Đàm. Vì vậy, Lưu Bá Ôn cho rằng, chỉ cần trị được lũ từ trên núi đổ xuống khu vực Cửu Đàm thì người dân có thể tránh được tai nạn hàng năm, từ đó có thể an cư lạc nghiệp. Lưu Bá Ôn đã cùng người dân Cửu Đàm nắn dòng chảy của con suối thành theo hình chữ chi để giảm sức chảy của dòng nước khi có lũ về nhờ vậy, thay đổi luôn cả bố cục phong thủy bị trấn áp của Cửu Đàm. Từ đó về sau, người dân Cửu Đàm không còn phải chịu lũ quét hàng năm nữa. Câu chuyện “Trăm mèo giữ cá” cũng ghi lại một truyền thuyết phong thủy rất thú vị về Lưu Bá Ôn. Chuyện kể rằng, ba anh em họ Du gồm Du Thông Hải, Du Thông Nguyên và Du Thông Uyên đều là những bộ tướng rất giỏi của Sào Hồ thủy quân Lý Bát Đầu. Khi Chu Nguyên Chương dẫn binh chiếm Hòa Châu, Lý Bát Đầu bị Nguyên Đạt Tử ở Lô Châu đán úp nên muốn mượn quân của Chu Nguyên Chương để báo thù. Trong khi đó, Chu Nguyên Chương muốn mượn thuyền của Bát Đầu vượt sông tới Thái Bình Phủ, giải quyết vấn đề lương thảo. Hai người liên hợp với nhau tuy nhiên mỗi bên đều có tính toán riêng cho mình. Anh em họ Du theo lệnh của Bát Đầu đã giúp Chu Nguyên Chương lên kế hoạch lấy được Thái Bình đồng thời mang thủy quân Sào Hồ tới đại doanh trại của Chu Nguyên Chương, khiến quân của họ Chu như hổ mọc thêm cánh. Ba anh em họ Du dũng cảm thiện chiến, lập được nhiều chiến công. Trong đó công lao lớn nhất chính là người anh cả Du Thông Hải. Du Thông Hải tự là Bích Tuyền, đã theo Chu Nguyên Chương phá Hải Nha, đánh gục Ninh Quốc, đuổi Trần Hữu Lượng, bắt sống Trương Sĩ Thành,… công trạng rất lớn, từng được phong làm Bình Chương Chính sự và nhiều chức vụ trọng yếu khác trong quân đội. Tuy nhiên, trong trận Bình Giang, Du Thông Hải không may bị trúng tên mà chết. Khi Du Thông Hải chết, Chu Nguyên Chương ôm xác họ Du mà khóc, đồng thời nói với Lưu Bá Ôn và tướng quân Từ Đạt rằng: “Vừa mới bắt đầu cuộc chiến, Bích Tuyền đã chết khác gì ta mất một cánh tay! Mau mau thu quân, tổ chức tang lễ cho ông ta”. Lúc bấy giờ, Lưu Bá Ôn và Từ Đạt cũng chảy nước mắt nói, khuyên rằng: “Bích Tuyền chết, thần cũng đau lòng, thiết nghĩ cũng nên tổ chức tang lễ. Chỉ là hiện tại không có thời gian, mong chúa công nên lấy xã tắc làm trọng, quân không thể thu, bính lính không thể rút lui được!” Du Thông Nguyên và Du Thông Uyên cũng khóc lóc nói: “Ơn sâu của chúa công khiến anh em họ Du chúng tôi dù có tan xương nát thịt cũng không thể báo đáp cho hết được. Khi cơ nghiệp sắp thành mà rút binh cũng không phải là mong muốn của anh trai chúng thần”. Mọi người đều khẩn khoản can gián, Chu Nguyên Chương nghe có lý, đành phải gạt nước mặt nói: “Được! quân sư, hãy nhớ cho kỹ, sau này nếu có phong thưởng thì Bích Tuyền sẽ là người đầu tiên”. Sau này khi khởi nghĩa thành công, Chu Nguyên Chương lập nên nhà Minh, xưng làm hoàng đế đã tổ chức quốc tang cho Du Thông Hải, truy phong làm Quắc Quốc Công, thụy hiệu là Trung Liệt. Du Thông Nguyên được phong làm Nam An Hầu còn Du Thông Uyên được phong làm Việt Tuyển Hầu. Ngoài ra, Chu Nguyên Chương còn đặc cách hạ lệnh cho Lưu Bá Ôn giúp mình xây dựng một căn nhà thật đẹp tặng cho anh em họ và con cháu họ Du. Lưu Bá Ôn cùng với ba anh em họ Du đều sống chêt vì Chu Nguyên Chương đánh lấy thiên hạ, lập nhiều chiến công. Trong quá trình khởi nghĩa, hai bên cũng có thể nói là vào sống ra chết cùng nhau, tình cảm sâu nặng. Nay được Chu Nguyên Chương giao việc xây nhà cho họ Du, Lưu Bá Ôn đương nhiên không có lý do gì để không làm hết sức mình. Vì thế, ngôi nhà mà Lưu Bá Ôn xây dựng cho anh em họ Du hết sức nguy nga tráng lệ. Ngoại trừ hoàng cung, tại Nam Kinh không có ngôi nhà nào có thể sánh kịp với căn nhà này. Tuy nhiên, người đời xưa thường nói, cây càng cao thì gió càng lớn. Căn nhà quá to, thường bị người ta lấy ra so sánh với hoàng cung của anh em họ Du đương nhiên khó tránh khỏi việc mang theo mầm họa. Thừa tướng Hồ Duy Dung trước mặt Chu Nguyên Chương đã bẩm tấu rằng: “Bệ hạ phong công, phong hầu cho nhà họ Du, lại còn tổ chức quốc tang cho Du Thông Hải, có thể nói là đối đãi với họ không hề bạc. Nay bệ hạ lại xây cho nhà họ Du một căn nhà to đẹp như vậy, sợ rằng…” Chu Nguyên Chương ngắt lời họ Hồ, nói: “Bích Tuyền công ở trên tất cả mọi người, đó là ý trẫm quyết định”. Hồ Duy Dung vẫn chưa chịu thôi, nói: “Đây là chỗ nhân hậu của bệ hạ. Tuy nhiên, đây có lẽ sẽ là điều bất lợi cho xã tắc”. Chu Nguyên Chương bắt đầu để ý, hỏi: “Vì sao?” Hồ Duy dung chỉ vào căn nhà cao ngất của nhà họ Du nói: “Bệ hạ xem, mây khói thành vòng, nhà họ Du xuất hiện vương khí!” Chu Nguyên Chương nghe thấy hai chữ “vương khí” thì trầm ngâm không nói. Hồ Duy Dung biết cơ hội đã tới, nói tiếp: “Du Thông Hải khi còn sống đức cao vọng trọng, bộ hạ cũ đều quen nghe chỉ huy của ông ta. Nay Thông Nguyên và Thông Uyên đều giữ chức vụ quan trọng, hậu duệ của Thông Hải lại đều là những người xuất sắc. Nếu một ngày nào đó họ có chí khác thì thiên hạ của Đại Minh e rằng không được bền lâu”. Vốn tính đa nghi, lại chỉ lo có kẻ tranh giành thiên hạ với mình nên khi nghe những lời này của Hồ Duy Dung, Chu Nguyên Chương không khỏi gật đầu, nói: “Ngươi nói nên làm thế nào?”Hồ Duy Dung nói ngay: “Dỡ nhà, phá vương khí”. Vừa may, câu chuyện mới tới đó thì Lưu Bá Ôn tới. Vừa nghe thấy lời của Hồ Duy Dung, trong lòng Lưu Bá Ôn đã thất kinh. Nếu như dỡ nhà thì chẳng phải nhà họ Du cũng bị hủy hoại hay sao? Lưu Bá Ôn định lên tiếng ngăn cản Chu Nguyên Chương, tuy nhiên, chợt nghĩ, nay Chu Nguyên Chương đã là hoàng đế chứ không còn là người ra sống vào chết với nghĩa quân khi xưa nữa, nếu không cẩn thận có thể mất mạng như chơi. Chợt trong đầu Lưu Bá Ôn lóe lên một cách. Ông vội bước vào trong phòng nói với Chu Nguyên Chương: “Hoàng thượng, khi xây dựng thần đã sơ ý xây nhà của họ Du quá cao. Thần đang định đến gặp hoàng thượng để xin ý kiến về việc giải trừ vương khí của nhà họ Du”. Chu Nguyên Chương thấy vậy hỏi: “Tiên sinh có kế gì không?” Lưu Bá Ôn nói: “Cá (trong tiếng Hán, chữ cá với họ Du có cách đọc như nhau, vì thế cá ý chỉ nhà họ Du) mà ra biển thì có thể hóa rồng. Nay thần chỉ cho căn nhà họ Du một cái giếng. Lại thêm, cá vốn rất sợ mèo ăn thịt vì thế, thần đã phái một con mèo canh giữ trước cửa, cá chỉ cần lò đầu ra thì mèo có thể nuốt gọn. Như vậy, chẳng cần phải tốn công sức dỡ nhà khiến mất lòng dân, phá hoại cảnh thái bình thịnh trị mà vẫn có thể trừ được vương khí nhà họ Du. Hoàng thượng thấy sao?” Chu Nguyên Chương nghe kế của Lưu Bá Ôn thấy hợp lý bèn nói: “Cứ theo cách của tiên sinh mà làm”. Sau khi được sự đồng ý của Chu Nguyên Chương, Lưu Bá Ôn đã bày “bát quái trận” xung quanh nhà họ Du. Ông lệnh cho quân sĩ dựng một tấm bia đá ở trước cửa nhà họ Du, bên trên bia khắc hình hơn 100 con mèo. Phía trước của tấm bia là một cái giếng. Phía sau nhà là một bức tường chặn kín. Phía Đông của căn nhà là một đài câu cá. Sau đó, Lưu Bá Ôn nói với Chu Nguyên Chương: “Nếu như một ngày nào đó, con cá này phá cửa mà ra thì sẽ bị hơn 100 con mèo nuốt chửng. Nếu như có chạy thoát khỏi 100 con mèo thì phía sau là tường chắn, hai phía Đông Tây là đài câu cá, tầng tầng lớp lớp bao vây, nó cũng không thể ra được tới biển để biến thành rồng được. Muốn có nước chỉ còn cách là xuống chiếc giếng ở trước nhà. Cá mà sống ở giếng thì không thể nào làm nên trò trống gì được”. Chu Nguyên Chương thấy rằng sắp đặt như vậy, nhà họ Du sẽ không bao giờ có thể ra tới biển để trở thành rồng thì vui mừng lắm, thưởng cho Lưu Bá Ôn rất hậu hĩnh. Theo Phunutoday 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 2 Tháng 1, 2014 Tựa đề sai chính tả: "Câu chuyện" mới đúng Thân Thế Trung 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 2 Tháng 1, 2014 Tựa đề sai chính tả: "Câu chuyện" mới đúng Thân Thế Trung Chú sửa lại rồi. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 2 Tháng 1, 2014 Tự Đức với nỗi niềm "vạn niên đại cát" Sau nhiều biến động thời cuộc bất lợi cho đất nước và triều Nguyễn, Vua Tự Đức nghĩ đến “nơi an nghỉ cuối cùng” của mình nên đã sai các quan chuyên trách về dịch lý phong thủy dò tìm một cuộc đất “vạn niên đại cát” để xây lăng sẵn… “Vạn niên đại cát” với nước nguồn thủy ngọc Vua Tự Đức sinh giữa mùa thu, ngày 25.8 năm Kỷ Sửu (22.9.1829), thể chất vốn yếu ớt, lại hay ốm đau từ nhỏ, lớn lên không thể có con được, nhà vua buồn bã nghĩ đến lẽ tử sinh của đời người như chính vua nêu trong phần mở đầu của một bài ký dài, đại ý: - Mây bay trên trời không có hình tướng cố định nhưng tồn tại mãi. Còn những thứ có tướng trạng rõ ràng, to lớn như mặt trời mặt trăng, cứng chắc như núi cao rừng thẳm, hoặc vàng đá đất đai, song tất cả đều phải chịu cảnh sáng - tối, tròn - khuyết, lành - vỡ, huống chi con người “sống nay chết mai” chẳng biết khi nào. Sống thì mỗi người mỗi khác nhưng chết thì đều giống nhau ở chỗ tấm thân mục rữa, nên cần chôn cất tươm tất, vừa khác với loài vật ở chỗ có lễ, lại vừa do cái tình mà nên như thế. Hãy ngẫm lại từ xưa các vị hoàng đế sau thời đăng quang đã sai đóng trước quan tài cho mình. Rồi cứ mỗi năm một lần đem quan tài ấy ra sơn mới lại, tự nhắc nhở mình trong 100 năm của đời người thì có 1 năm “đã chết” - đã trôi qua mất. Nay ta không thể trái lệ xưa của các tiên vương được. Vả lại những người cường tráng sức khỏe dồi dào còn phải lo lúc qua đời đột ngột, huống là ta thể trạng vốn không khỏe khoắn gì mà lại dám hờ hững xem thường chuyện ấy sao? Vì lẽ đó, Tự Đức muốn xây lăng mộ cho mình và tìm được một nơi có mạch nước tự nhiên từ trong lòng đất chảy ra (hữu thủy tự địa trung lưu xuất). Nước chảy khoan thai, từ tốn, êm đềm, nhỏ nhẹ, tránh được điều tối kỵ theo thuật “sơn thủy pháp” mà cụ Tả Ao cảnh báo: núi gồ ghề chứa ác khí là không tốt - nước chảy bộc phát rộn ràng thành tiếng kêu như khóc là rất xấu (Sơn tha nga, ác khí, bất cát - Thủy bộc lộ, khấp khốc, tối hung). Vua Tự Đức Màu nước nơi đó lại trong xanh như thủy ngọc, ứng với phép địa lý: nước chảy dạt dào mà trong suốt (thủy dương dương nhi triều cực thanh). Chảy như vậy ngày đêm chẳng lúc nào ngừng (nhật dạ bất đình) có thể ví như một “thủy khẩu” đưa nước từ trên bờ đá đổ xuống khoảng ruộng trũng nằm trên địa bàn làng Dương Xuân Thượng (sau thuộc xã Thủy Xuân - TP. Huế). Dựa vào thế tự nhiên sẵn có ấy, các nhà địa lý và ứng dụng phong thủy cho đào sâu xuống thành một cái hồ giữ nước rất rộng, xem tựa như chỗ “thủy tụ”. Đào đến nửa chừng bỗng đâu có nhiều đàn cá đến quần tụ sinh sống, chưa cần tay người thả nuôi, vua cho là một trong các điềm lành của “thủy hồ” nên sai tiếp tục đào sâu hơn. Hồ được tạo dáng khác với mực thước vuông hoặc tròn thường thấy ở các công trình trước đó, mà phá thể trông tựa như hình trái tim với các cuống tim và động mạch chủ từ phía bên phải đang vươn về phía bên trái để ôm lấy khu lăng mộ xây bằng gạch đá trên bờ. Nhìn bao quát, mặt nước không bị đóng khung thẳng tắp theo các cạnh hình chữ nhật của các hồ thường thấy, mà chảy uốn khúc khiến người ta liên tưởng đến dạng “thủy lưu” theo phép địa lý: “Nước chảy uốn khúc quanh co mà đến là chỗ đất quý” (thủy quý kỳ khuất khúc nhi chi). Đào xong, Vua Tự Đức đặt tên là hồ Lưu Khiêm, bên hồ dựng hai nhà mát Sung Khiêm và Dũ Khiêm, đắp hòn đảo lớn Tịnh Khiêm giữa hồ, bắc ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm, Do Khiêm và trồng sen hồng trong hồ. Trên bờ, ở khu lăng mộ cho xây các công trình để đời như: Minh Khiêm đường được xem là nhà hát xưa nhất Việt Nam tồn tại khá nguyên vẹn đến nay, Hòa Khiêm điện như một bảo tàng cung đình chứa đồ ngự dụng cùng một số tác phẩm tạo hình mỹ thuật thời Nguyễn. Ngoài khu vực lăng, long mạch được các núi đưa từ xa đến gần địa cuộc, mỗi ngọn núi được đặt tên riêng như Long Khiêm, Dần Khiêm, Lao Khiêm, Đạo Khiêm, Cư Khiêm, Lý Khiêm. Ngọn núi nằm phía bên phải có mở một cửa thông thoáng gọi Khiêm Cung môn. Nằm phía sau để làm chỗ tạm dừng chân nghỉ ngơi những lúc du ngoạn gọi Lương Khiêm. Nhà để các đồ dùng của vua khi đi dạo ghé qua, nằm về phía Tây gọi Ôn Khiêm. Lại có bốn nhà khác để các quan cũng như thợ thầy trú ngụ gọi Công Khiêm, Cung Khiêm, Lễ Khiêm, Pháp Khiêm. Lại lập bốn viện để phi tần mỹ nữ tháp tùng theo nhà vua có nơi ăn ngủ gọi Tùng Khiêm, Dụng Khiêm, Y Khiêm, Trì Khiêm. Dựng một căn lầu ở vị trí cao để có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn cảnh vật quanh vùng gọi Ích Khiêm. Lại có nơi để hương khói cho các cung nữ đã qua đời gọi Chí Khiêm… Gần 50 chữ “Khiêm” cho một cuộc đất Trên cuộc đất rộng khoảng 12 hecta của lăng Tự Đức có gần 50 công trình kiến trúc và tạo dáng phong thủy bao gồm mấy chục tòa nhà lớn nhỏ hợp thành một hệ thống cung điện và khu lăng mộ đều được đặt tên có chữ “Khiêm”, vì sao vậy? Chuyện liên quan đến những chuyển biến của thời thế xảy đến khi nhà vua lên ngôi được khoảng hơn 10 năm như: Đà Nẵng bị thực dân Pháp tấn công (năm 1858), đánh chiếm Gia Định (1859), lấn tới các tỉnh Nam Kỳ (1862). Ông mệt mỏi và cho bắt tay xây lăng tháng 10.1864, dự tính trong 6 năm sẽ xong và giao biện lý Nguyễn Văn Chất, thống chế Lê Văn Xa cùng trông coi. Cả hai vị ấy muốn rút gọn thời gian xây lăng khoảng 3 năm là xong. Vì gấp gáp như thế, nên 3.000 lính thợ ở công trường Vạn niên bị thúc bách, dẫn đến cuộc nổi dậy do Đoàn Trưng và Đoàn Trực lãnh đạo, tiến đánh hoàng cung nhưng bị chặn đứng và dập tắt (1866). Vua Tự Đức thoát hiểm, song uy tín của triều đình vốn bị mất mát nhiều sau những tổn thất trước thực dân Pháp thì bấy giờ lại xuống thấp hơn nữa. Vua thừa nhận: “Quân nổi loạn đã tìm cách lôi kéo dân binh dám xâm phạm tới cửa ngõ hoàng cung, ấy là do ta không có tài, không có đức, nên mới bị trời trách và người oán, vì thế ta phải khiêm thôi” và đổi tên công trình trên đất “Vạn niên đại cát” là Khiêm cung (sau gọi Khiêm lăng) cũng như các kiến trúc trực thuộc của lăng đều lấy chữ “Khiêm” để đặt tên với giải thích của vua, hàm nghĩa: “Khiêm” là khiêm nhường, kính cẩn, có địa vị cao hơn kẻ khác mà không lấy đó làm điều, chỉ muốn tự đặt mình khiêm tốn ở dưới vị thế của người mà thôi. Khiêm lăng hoàn tất tháng 8.1867, ngày nay đã cùng các lăng Vua Nguyễn khác trở thành một phần sống động trong quần thể di tích Huế thuộc Di sản văn hóa thế giới đầu tiên của Việt Nam. Địa cuộc phong thủy và yếu tố nhân văn ở những nơi ấy được các tác giả nước ngoài như Henri Guibier nhận xét: “Các lăng tẩm ở Huế thường nép mình dưới các bóng cây cổ thụ, hoặc được bao quanh bởi sắc hoa và màu cỏ mượt trên các đồi núi xa xa, tất cả đã trở thành chứng tích không những thuộc quá khứ mà còn tác động đến hiện tại, chứa đựng trong đó sức mạnh siêu nhiên và bí ẩn từng ảnh hưởng sâu đậm đến con người và cảnh vật nơi đây” (BAVH 1916). Tượng voi đá, ngựa đá trong sân lăng Hai năm sau, nhà văn học giả Phạm Quỳnh khi đến thăm lăng các vua Nguyễn đã viết: “Không những mấy nơi đó là những thắng tích đệ nhất của nước ta, mà lại có thể liệt vào bậc những nơi thắng tích của cả thế giới nữa” (Tạp chí Nam Phong số 10, tháng 4.1918). Đến cuối thế kỷ 20, nguyên Tổng giám đốc UNESCO Amadou Mahtar M’Bow đã phát biểu: “Giữa lòng Huế, Thành Nội lịch sử là mẫu mực về cấu trúc cân đối, mà sự hài hòa rất tự nhiên đến nỗi người ta quên bàn tay con người đã sáng tạo ra nó. Phía Nam, các lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn, rải ra dọc hai bờ sông Hương. Là tác phẩm của những người dân lao động và những thợ thủ công khéo tay nhất trong nước, những hệ thống kiến trúc ấy biểu hiện những biến tấu độc đáo trên một chủ đề thống nhất. Mỗi một lăng vua, với tính cách riêng biệt của nó, là một thành tựu tuyệt mỹ của nền kiến trúc cảnh vật hóa; và mỗi lăng tẩm khêu gợi trong cảm xúc của khách tham quan một âm vang đặc biệt. Lăng Gia Long giữa một khu rừng thiên nhiên bao la gợi lên một ấn tượng hùng tráng và thanh thản; lăng Minh Mạng đầy vẻ trang nghiêm; và lăng Tự Đức gợi cho khách du ngoạn hồn êm thơ mộng” (bản dịch của văn phòng Việt Nam cạnh UNESCO). Đúng vậy, lăng Tự Đức mang “hồn êm thơ mộng” như chính tâm hồn đa cảm của nhà vua, vốn là tác giả của hơn 4000 bài thơ chữ Hán, 100 bài thơ chữ Nôm với bài “Khóc Bằng phi”nổi tiếng trong đó có hai câu: “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng/ Xếp tàn y lại để dành hơi” sau này còn âm hưởng trong ca từ của tình ca vượt thời gian như “đập gương xưa tìm bóng” (Gửi gió cho mây ngàn bay) và thống thiết ở hai câu cuối: “Mối tình muốn dứt càng thêm bận. Mãi mãi theo hoài cứ chẳng thôi” nhắc nhớ một Nỗi lòng: “Yêu ai yêu cả một đời”. Thơ văn của ông không chỉ thể hiện nỗi buồn và bi kịch của một hoàng đế đương quyền bị sa sút, mà còn của một nhà văn hóa, một trí thức thất vọng trước mọi dự tính và mưu sự không thành. Ông nhận lỗi của mình qua các bài như: Sầu ngâm nhị thủ, Muộn tác nhị thủ, Bệnh nhị thủ, Tự vấn, Hư sinh… Ngày nay, văn hóa tâm linh và nhu cầu tìm hiểu phong thủy khiến chúng tôi đứng trước sơ đồ lăng Tự Đức không khỏi suy ngẫm đến những chỉ dẫn của cụ Tả Ao với lời bàn của nhà nghiên cứu dịch lý và phong thủy học Cao Trung sau đây: “Nơi nước tụ trước huyệt thì chỗ ấy gọi là Minh Đường… điều đáng kỵ là mùa thu mà Minh Đường cạn nước… Thực ra thì nước chảy theo chiều Tây Bắc, Đông Nam nên huyệt quay về hướng Tây Bắc, đã thu được tất cả thủy từ cao xa về lòng rồi. Tuy nhiên phương Đông Nam thiệt có thủy tụ, nhưng nếu sâu quá cũng đáng kỵ, mà thông thoáng rộng lớn, chảy xuôi cũng đáng kỵ”. Cũng cần nhắc lại, trong bài Khiêm cung ký dài gần 5000 chữ do Vua Tự Đức viết và sai khắc vào tấm bia đá nặng khoảng 20 tấn dựng ở Bi đình của lăng có đề cập đến hồ Lưu Khiêm mùa hè không cạn, mùa thu không tràn bờ, do nước được dẫn thông ra bên ngoài bằng các ống cống nằm dưới những con đường lót đá thanh. Bọc quanh khu vực lăng có vòng la thành được xây chạy dài thuận theo thế núi ở đó. Lại có thêm vòng “la thành tự nhiên” khác gồm những ngọn núi nhấp nhô tựa hồ như rồng lượn xa xa để che chắn bảo vệ cho lăng Khiêm. Vua Tự Đức qua đời ở tuổi 54, sau 35 năm ở ngôi (1848-1883) với nhiều nỗi sầu muộn chưa tan… Theo SBĐ Share this post Link to post Share on other sites
Posted 2 Tháng 1, 2014 Tại sao có tên là Hồ Con Rùa ????? Hồ Con Rùa, tên chính thức là Công trường Quốc tế, là tên gọi dân gian của một vòng xoay giao thông có đài phun nước, nối ba đường: Võ Văn Tần, Phạm Ngọc Thạch và Trần Cao Vân, nằm quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Khu vực Hồ Con Rùa hiện nay là một trong những khu vực hoạt động ẩm thực gần như từ sáng đến đêm, với rất nhiều nhà hàng và các quán bar xung quanh Lịch sử Nguyên thủy ban đầu, tại vị trí Hồ Con Rùa hiện nay, vào năm 1790 là vị trí cổng thành Khảm Khuyết của thành Bát Quái (còn gọi là thành Quy). Về sau Minh Mạng đổi tên Hồ Con Rùa Nay thành cửa Vọng Khuyết. Tuy nhiên, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (1833-1835) thì vào năm 1837, Minh Mạng đã cho phá thành Bát Quái và xây dựng một ngôi thành nhỏ hơn mang tên là thành Phụng. Vị trị cửa Khảm Khuyết trở thành một điểm ở ngoài thành và nối thẳng con đường ngoài mặt tây thành xuống bến sông. Vị Trí Hồ Con Rùa xưa là Tháp Nước Sau khi người Pháp chiếm được thành Gia Định (là tên chính thức của thành Phụng), họ đã cho san phẳng ngôi thành này vào ngày 8 tháng 3 năm 1859. Sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, người Pháp bắt đầu xây dựng thành phố vào năm 1862. Dựa trên những còn đường có sẵn dọc ngang trong thành Quy cũ, người Pháp đã quy họach khu hành chính của mình. Vị trí Hồ Con Rùa hiện nay nằm ngay vị trí cuối con đường dẫn ra bến sông được đánh số 16. Trên con đường này, dinh Thống đốc đầu tiên được xây dựng vào năm 1863. Năm 1864, Nha Giám đốc Nội vụ (Direction de I’ Intérieur - người dân đương thời gọi là “Dinh Thượng thơ”), được xây dựng ở phía đối diện dinh Thống đốc. Vào ngày 1 tháng 2 năm 1865, Thống đốc Nam Kỳ, Phó đô đốc Hải quân Pháp Pierre-Paul de la Grandière (1807-1876) đã đặt tên con đường số 16 là đường Catinat. Vào năm 1878, một tháp nước được xây tại vị trí Hồ Con Rùa ngay nay để phục vụ nhu cầu cung cấp nước uống cho cư dân trong vùng. Từ ngày 24 tháng 2 năm 1897, đoạn đường từ phía sau nhà thờ Đức Bà đến tháp nước đổi tên thành đường Blancsubé. Đến năm 1921 thì tháp nước bị phá bỏ do không còn đủ sức đáp ứng nhu cầu cung cấp nước nữa và con đường được mở rộng nối dài đến đường Mayer (nay là đường Võ Thị Sáu) và khúc cuối này có tên là đường Garcerie. Từ đó vị trí này trở thành giao lộ như ngày nay, với tên gọi là Công trường Maréchal Joffre (cắt giao lộ là đường Testard - nay là đường Võ Văn Tần - và đường Larclauze - nay là đường Trần Cao Vân). Chân Tháp đài Chiến sĩ đệ nhất thế chiến Tại vị trí này, người Pháp đã cho xây dựng một tượng đài ba binh sĩ Pháp bằng đồng với hồ nước nhỏ, để đánh dấu cuộc xâm chiếm và biểu tượng của việc người Pháp làm chủ Đông Dương. Do đó, người địa phương ở đây thường gọi nó là công trường ba hình. Các tượng đài này tồn tại đến năm 1956 thì bị người Việt phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước nhỏ. Giao lộ cũng được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ. Thời điểm xây dựng Hồ Con Rùa chưa được xác định chính xác. Một số tài liệu cho là nó được xây dựng vào năm 1965, vài tài liệu khác thì cho là 1967. Từ 1970 đến 1974, Hồ Con Rùa thực sự được trùng tu và chỉnh trang trong đó gồm việc dựng thêm và điều chỉnh 5 cột bê tông cao có dạng năm bàn tay xòe ra đón đỡ giống như các cánh hoa đón đỡ một nhụy hoa. Công trình mới này còn bao gồm một vòng xoay giao thông với đường kính khoảng gần 100 mét, được trang trí bởi cây xanh và hồ phun nước hình bát giác lớn với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm là đài tưởng niệm và hình tượng con rùa bằng hợp kim có đỡ trên lưng bia đá lớn với các dòng chữ ghi công những người đã hy sinh cho chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Do đó mới có tên gọi dân gian là Hồ Con Rùa. Sau khi xây dựng xong thì ban đầu khu giao lộ này được đặt tên là Công trường Chiến sĩ Tự do, đến năm 1972 thì đổi tên thành Công trường Quốc tế. Tuy nhiên, vào đầu năm 1976, tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ, nhưng người dân vẫn quen gọi là Hồ Con Rùa, thay cho tên gọi chính thức. Huyền thoại Hồ Con Rùa Theo các giai thoại truyền miệng, thì vào năm 1967, khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, đã mời một thầy phong thủy người Hoa nổi tiếng đến coi thế đất tại dinh Độc Lập. Người thầy phong thủy này khen vị trí của dinh là vị trí của long mạch, trấn yểm vị trí của đầu rồng[1]. Con rồng này đầu tại dinh Độc Lập và đuôi nằm tại vị trí Công trường Chiến sĩ, tuy phát hưng vượng, nhưng do đuôi rồng hay vùng vẫy nên sự nghiệp không bền. Vì vậy cần phải cúng yểm bùa bằng cách đúc một con rùa lớn để trấn đuôi rồng không vùng vẫy nữa thì mới giữ được ngôi vị tổng thống lâu dài. Theo một số người thì kiến trúc tháp cao giống như hình một thanh gươm (hoặc cây đinh/kim), đóng xuống hồ nước để giữ chặt đuôi rồng. Một số người khác thì lại cho rằng kiến trúc tháp lại giống hình đuôi rồng vươn cao, nhưng có con rùa đè chặt ở phần đầu ngọn. Số khác thì lại cho là nhìn từ trên cao xuống thì toàn thể kiến trúc trông giống như một con rùa. Do đó dinh Độc lập còn có tên gọi là Phủ Đầu Rồng Vụ án Hồ Con Rùa Cũng xuất phát từ quan niệm phong thủy trên, vào năm 1978, một nhóm người phản đối chính quyền Việt Nam thống nhất, cũng mê tín dị đoan, đặt bom phá hủy với mục đích giải thoát cho đuôi rồng để nó phá chính quyền mới. Tuy nhiên, đã bị lực lượng an ninh Việt Nam bắt giữ và ngăn chặn trong vụ án mang tên "Vụ án Hồ con Rùa". Bài do Yeuphunu sưu tầm Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 1, 2014 Những bí mật phong thủy của Dinh Độc Lập Người ta truyền rằng Dinh Độc Lập nằm trên thế đất hung hãn cho nên những nhân vật chính trị cư ngụ trong Dinh chẳng ai được lâu dài và an toàn. Đất hãm sát chủ Dinh Độc Lập được xây dựng từ thời Pháp thuộc với tên ban đầu là Palais Norodom. Có ý kiến giải thích rằng tên Norodom là do Dinh nằm ở đầu con đường có tên Boulevard Norodom chứ không có liên quan gì đến ông Norodom Sihanuk là Quốc vương Campuchia. Đến thời kỳ nước Pháp trao trả nền độc lập giả hiệu cho Bảo Đại thì Dinh này được đổi tên thành Dinh Độc Lập. Có lẽ cái Dinh này là một trong số ít những công sở được dân chúng quan tâm bàn tán nhiều nhất. Người ta chú ý đến nó vì có nhiều câu chuyện liên quan đến môn phong thủy. Cuốn sách Thiệu – Kỳ một thời hãnh tiến một thời suy vong của nhà báo Lý Nhân – một chứng nhân sống dưới chế độ Sài Gòn, cho biết rằng: Dân chúng đồn rằng Dinh nằm trên mảnh đất rất hung hiểm cho nên hầu hết những chính khách ở trong Dinh chẳng ai có sự nghiệp lâu dài, bền vững. Mặt tiền Dinh Độc Lập với 3 tầng ngang và cột cờ sổ dọc tạo thành chữ Vương. Họ dẫn chứng từ các ông toàn quyền Pháp mà điển hình là ông Ely khi làm cao ủy đóng ở Dinh Norodom thì quân Pháp thua liểng xiểng ở Điện Biên phải rút về nước. Cho đến ông Diệm làm Tổng thống cũng chỉ được 9 năm là bị đảo chính vong mạng. Hơn thế nữa, ngay trong 9 năm cầm quyền, ông Diệm cũng đã 1 lần suýt chết trong Dinh. Đó là vào ngày 27/2/1962, hai phi công của phe đảo chính đã ném bom vào Dinh làm sập cánh trái của Dinh. Tuy không có tổn thất nào về người nhưng cuộc ném bom cũng làm cho những người sống và làm việc trong Dinh một phen hú vía. Sau đó ông Diệm quyết định phá Dinh đi xây lại mới hoàn toàn. Công việc thiết kế được giao cho kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, một người tốt nghiệp trường kiến trúc danh tiếng ở Paris và là người Việt Nam đầu tiên được nhận giải Khôi nguyên Roma. Nhưng Dinh chưa thi công xong thì anh em ông Diệm bị đảo chính và chết thảm. Theo sau ông Diệm, chính trường Sài Gòn khủng hoảng, chỉ trong 2 năm mà cả chục chính phủ cứ lập lên rồi lại sụp đổ. Tầng thượng Dinh với 2 vòng tròn đỏ là vị trí bị ném bom năm 1975. Đến khi Nguyễn Văn Thiệu thâu tóm được quyền lực thì tình hình mới ổn định. Ngày 30/6/1966, Dinh khánh thành và ông Thiệu dọn vào ở trong Dinh. Người ta lại tính rằng kể từ ngày dọn vào đến khi phải tháo chạy ra nước ngoài, ông Thiệu cũng chỉ ở trong Dinh được 9 năm. Và trước khi nó rơi vào tay quân giải phóng thì cũng bị ném bom một lần nữa nhưng may mắn chỉ bị hỏng cầu thang. Ẩn ý của người thiết kế Dinh Năm 1966, trong lễ khánh thành Dinh mới, ông Ngô Viết Thụ - tác giả thiết kế Dinh đã phát biểu tóm tắt thiết kế của mình. Trong đó, nhiều ý đến nay vẫn được dẫn lại trong tài liệu giới thiệu về Dinh của ngành du lịch. Nét nổi bật là mặt tiền của Dinh với 3 tầng lầu và cột cờ sổ dọc tạo thành chữ “Vương” trong Hán tự. Nhưng bên trên lại có 1 cái tum giống như một dấu chấm ở trên đầu chữ “Vương” để tạo thành chữ “Chủ”. Lúc ấy, ông Thụ diễn tả chữ “Chủ” này là nghĩa là “Chúa”. Tuy nhiên, trong bài viết đăng trên một trang mạng, ông Trần Lê Quang, cựu bộ trưởng Bộ Cải cách điền địa dưới thời ông Diệm tiết lộ một câu chuyện khác về ý nghĩa chữ “Chủ”. Ông Quang viết: “Một tâm sự của KTS Ngô Viết Thụ, nay đã qua đời, được một ông bạn ghi nhớ và thuật lại như sau: Ngô Viết Thụ cho biết, khi Ông sáng tạo sơ đồ của dinh Độc Lập mới, đương sự có ý định thiết kế dinh với nhiều tầng lầu ngang, dài, giống nhau, như hình Hán tự chữ “Vương”. Theo ý nghĩa của Ngô Viết Thụ, “Vương” là “Vua”. Nhưng KTS Thụ cũng cho biết rằng Ông cố ý cho thêm ngay ở giữa tầng cuối, một tầng thượng nhỏ, như một nét phẩy trên đầu chữ Hán Tự “Vương”, để chữ Hán tự đó trở thành một Hán tự khác, là chữ “Chủ”, không còn có nghĩa là “Vua” nữa. Chữ Vương và chữ Chủ. Ý kiến của Ngô Viết Thụ là các nhân vật chính trị Việt Nam, nếu có cơ may cư ngụ tại dinh Độc Lập mới, thì chỉ là những người “Chủ nhà” tạm thời mà thôi. Các đương sự phải hành xử thế nào với dân gian và thời cuộc tại Việt Nam, mới mong về sau được trở thành "như một nhà Vua". Và ông Trần Lê Quang phân tích thêm về sự khác nhau trong ý nghĩa của hai chữ nói trên: “Tin tưởng của Ngô Viết Thụ rõ ràng bị ảnh hưởng bởi thuyết Phong Thủy. Tại Trung Quốc, cũng như tại Việt Nam hồi xưa, dư luận thường cho rằng ân huệ được làm Vua, là một ân huệ “Trời cho”, có thể truyền lại trong trật tự cho con cháu kế vị của nhà Vua, hay cho người thừa kế được lựa chọn. Nhưng nếu thêm trên đầu Chữ Hán tự “Vương” một nét phẩy, thì chữ đó trở thành Chữ Hán Tự “Chủ”, như chủ nhà, chủ tịch, chủ sự, dân chủ, v.v. Các chức vụ “Chủ” thông thường không phải là “Trời cho”, mà là “Người cho”. Các đương sự thụ hưởng chức vụ “Người cho” đó, phải hành xử thế nào với thành viên của cộng đồng liên hệ, mới được hưởng chức vụ “Chủ”, mà cộng đồng đó giao cho, thông thường trong một thời gian có hạn mà thôi”. Chuyện ông Thiệu trấn yểm Dinh Ông Nguyễn Văn Thiệu là một người rất tin thuật phong thủy. Ông ta từng mướn các thày địa lý về quê nhà Phan Rang tìm chỗ “cát địa” để đặt lại ngôi mộ ông thân sinh mình. Và năm 1975, khi các đoàn quân giải phóng trên đường tiến vào Sài Gòn thì ông ta cho lập phòng tuyến Phan Rang và hô hào tử thủ để bảo vệ cái “long mạch” đã làm nên ngôi Tổng thống của ông. Bởi vì sùng tín như thế cho nên khi vừa giành được quyền lực chính trị, ông đã quan tâm ngay đến các vấn đề nhà cửa, dinh thự sao cho phù hợp phong thủy để “ngôi vị” trường tồn. Nhà báo Lý Nhân đã viết những dòng mỉa mai về các hoạt động sùng tín phong thủy của ông Thiệu: “Rồi không biết thày bói sáng hay mù nào đó đã quân sư cho Thiệu rằng phải yểm vì dinh Độc Lập là đầu con rồng, và cái đuôi nó kéo dài mãi ra tới công trường chiến sĩ của Pháp xây dựng ở đường Duy Tân – Trần Quý Cáp. Đứng từ lầu 3 nhìn xuống thấy ngay đường Lê Duẩn đâm thẳng vào giữa Dinh. Thiệu nghe vậy cũng run nên đã bí mật cho một số học sinh sinh viên kéo tới đập phá đài chiến sĩ trận vong của Pháp và cho đào một cái hồ có mô tháp cao đặt tên là công trường quốc tế. Nhưng người dân Sài Gòn gọi nôm na là hồ con rùa, vì ở hồ này có làm 1 con rùa bằng đồng nằm dưới chân tháp. Theo huyền thoại thầy địa lý nào đó nói Thiệu muốn yên vị ở “phủ đầu rồng” thì phải xây cái hồ chỗ công trường chiến sĩ vì đó là đuôi con rồng, lại phải trấn yểm để nó khỏi quậy lung tung thì sự nghiệp mới bền vững. Bởi vậy bên trên con rùa có cái tháp cao tượng trưng cho cái đinh để cắm xuống đuôi rồng”. Ngoài việc xây hồ con rùa, ông Thiệu còn cho yểm bùa ở trước cổng Dinh Độc Lập. Điều đó cũng phát nguyên từ lời khuyên của các thày địa lý rằng tuy Dinh được xây cất lộng lẫy, bố trí độc đáo, nhìn bình diện từ trên cao xuống mặt bằng Dinh có hình chữ Cát nhưng trước mặt lại có con đường từ thảo cầm viên đâm thẳng vào Dinh như một mũi tên (Đó là đường Lê Duẩn ngày nay). Đó là điều đại kỵ trong phong thủy cho nên cần phải tìm cách giải trừ ảnh hưởng xấu này. Tác giả Nguyễn Hoàng Điệp trong sách Thế giới có gì thần bí viết: “Nhiều người còn tán tụng từ trên cao nhìn xuống toàn bộ mặt bằng của dinh Độc lập được xây dựng trên khu vực hình chữ “cát” có nghĩa là tốt lành. Nhưng rồi có người mách: con đường từ thảo cầm viên đâm thẳng vào dinh như một mũi tên. Ngài Thiệu bèn trích công quỹ bỏ ra 2 triệu đồng, cậy cục thuê một pháp sư yểm cho lá bùa chôn ngay giữa cổng chính. Đồng thời phía trước dinh, ông Thiệu còn cho bố trí những rào sắt chắn đặt thường xuyên trên con lộ. Nhất cử lưỡng tiện: vừa tạo thành vật cản chặt đứt mũi tên theo lời khuyên của thày địa lý, vừa chặn được những đám biểu tình đấu tranh của dân chúng”. Thiết nghĩ, người xưa nói ai được lòng dân thì được thiên hạ. Có phải đâu chỉ vì đất hung hiểm mà sự nghiệp ngắn ngủi thôi đâu. Cái chính là không được lòng dân, đi ngược lợi ích nhân dân thì bị đào thải đó thôi. Vũ Tiến Đức 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 1, 2014 Những câu chuyện thú vị về thuật phong thủy (Petrotimes) - Mấy năm trở lại đây, thuật phong thủy được coi trọng hơn rất nhiều trong cuộc sống của người dân Việt Nam. Không chỉ trong việc xây nhà, kinh doanh, sắp đặt nội thất gia đình, ngay từ những việc nhỏ nhất người ta cũng tính theo phong thủy. Tuy nhiên, không phải ai cũng áp dụng thuật này đúng cách, đúng hoàn cảnh. Độc giả có thể hiểu thêm khá nhiều điều trong lĩnh vực mang nhiều ý nghĩa tâm linh này thông qua những câu chuyện “dụng phong thủy” của một số “tiền nhân”… Lưu Bá Ôn phá long mạch trừ hậu họa cho họ Chu Người ta nói rằng, bất cứ nơi đâu ở Trung Quốc có lưu truyền những truyền thuyết về Lưu Bá Ôn thì ở đó ắt có truyền thuyết về phong thủy. Chuyện kể rằng, sau khi lên ngôi hoàng đế, cũng giống như những vị hoàng đế khác, muốn cho giang sơn do mình gây dựng có thể truyền cho con cháu ngàn vạn đời sau, Chu Nguyên Chương bèn phái Lưu Bá Ôn đi khắp nơi trong cả nước xem phong thủy, tìm mọi cách ngăn chặn sự xuất hiện những người “mệnh lớn”, có thể cướp đoạt thiên hạ của nhà họ Chu. Lưu Bá Ôn nhận lệnh của Chu Nguyên Chương, lưng mang thần kiếm đi khắp Nam Bắc. Một khi nhìn thấy long mạch lập tức vung kiếm phá bỏ, trừ hậu họa cho hoàng thất họ Chu. Một lần, Lưu Bá Ôn đi tới Giang Trang ở chân núi Thạch Khanh, bỗng nhiên thấy từ dưới đất có một con trâu bằng đá đang chạy về phía Giang Trang. Lưu Bá Ôn liền bấm quẻ rồi chờ tối hôm đó xem tinh tượng thì dự đoán trong Giang Trang nhất định sẽ sinh ra một người có “mệnh lớn”, tương lai có thể tranh đoạt giang sơn của triều Minh. Lưu Bá Ôn vội thi triển phép thuật, dùng bảo kiếm chặt con trâu đá làm ba khúc, phá đi phong thủy của Giang Trang. Một khi phong thủy đã bị phá, người “mệnh lớn” sẽ không thể xuất hiện được nữa. Lưu Bá Ôn còn sợ con trâu đá sau khi bị giết sẽ hồi sinh nên lại dùng pháp thuật đem ba khúc của con trâu vừa bị chặt chôn ở ba nơi khác nhau. Không chỉ được giao nhiệm vụ phá thế phong thủy, đoạn long mạch để ngăn chặn việc xuất hiện thiên tử, tranh chấp thiên hạ với họ Chu, Lưu Bá Ôn còn được Chu Nguyên Chương tin tưởng giao cho nhiệm vụ cải tạo phong thủy để đem lại điều lợi cho sự cai trị của triều Minh. Đường lên núi Lương Sơn nơi đặt Càn Lăng Lưu Bá Ôn sau khi giúp Chu Nguyên Chương lập nên nhà Minh thì xin cáo quan về quê ở ẩn, nhằm tránh những đòn thù của Chu Nguyên Chương lẫn quan thừa tướng Hồ Duy Dung. Để Hồ Duy Dung lẫn Chu Nguyên Chương không biết được hành tung của mình, Lưu Bá Ôn bèn cải trang làm đạo sĩ, ngao du thiên hạ, trở thành một đại sư phong thủy thần bí trong giang hồ. Ông đã cùng tướng quan Bành Oánh Ngọc tới Cửu Đàm núi La Phù để thực hiện lời hẹn năm xưa. Chả là khi Lưu Bá Ôn dẫn quân nam chinh đã từng qua Cửu Đàm, nhận thấy nơi đây địa thế không tệ, tuy nhiên, nhân dân lại nghèo khó. Xem xét một hồi, Lưu Bá Ôn phát hiện ra rằng, mặc dù địa thế nơi đây tốt nhưng người dân vẫn nghèo là do nơi đây xuất hiện bố cục trấn phong thủy. Nhưng khi đó do không dừng lại lâu, Lưu Bá Ôn đã hứa với người dân ở Cửu Đàm đợi khi đất nước thống nhất sẽ quay trở lại đây giúp họ thay đổi bố cục trấn phong thủy kia. Phần lưng của Cửu Đàm dựa vào núi La Phù, mỗi năm lũ từ trên núi La Phù đều đổ xuống Cửu Đàm. Đây chính là bố cục đã trấn áp phong thủy của Cửu Đàm. Vì vậy, Lưu Bá Ôn cho rằng, chỉ cần trị được lũ từ trên núi đổ xuống khu vực Cửu Đàm thì người dân có thể tránh được tai nạn hằng năm, từ đó có thể an cư lạc nghiệp. Lưu Bá Ôn đã cùng người dân Cửu Đàm nắn dòng chảy của con suối thành theo hình chữ chi để giảm sức chảy của dòng nước khi có lũ về, nhờ vậy, thay đổi luôn cả bố cục phong thủy bị trấn áp của Cửu Đàm. Từ đó về sau, người dân Cửu Đàm không còn phải chịu lũ quét hàng năm nữa. Ẩn ý dụng phong thủy trong quyết định cuối đời của Võ Tắc Thiên Nhiều người tin rằng, ngay cả khi đã chết, nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên vẫn có những ảnh hưởng rất lớn tới vận mệnh quốc gia. Chuyện rằng, khi lâm chung, Võ hậu yêu cầu Lý Hiển dùng thụy hiệu cho bà là hoàng hậu chứ không phải hoàng đế, do vậy bà không có miếu hiệu như những vị hoàng đế khác. Võ hậu cũng yêu cầu chôn mình ở Càn Lăng cùng với chồng mình là Đường Cao Tông Lý Trị, đồng thời dựng trên mộ bà một tấm bia trống (gọi là Vô tự bia). Cho tới nay, người ta vẫn chưa thể lý giải vì sao một người phụ nữ đầy tham vọng như Võ Tắc Thiên - người đã dám phá bỏ cả một vương triều lừng lẫy, tự lập nên vương triều của dòng họ mình - đến phút cuối cùng lại quay về thân phận một người vợ, yêu cầu hợp táng cùng chồng. Tuy nhiên, các nhà phong thủy thì tin rằng, một trong những nguyên nhân khiến Võ Tắc Thiên lựa chọn Càn Lăng làm nơi chôn cất của mình chính là vì địa thế cực kỳ đắc địa của khu lăng mộ này. Càn Lăng được xây dựng trên đỉnh núi Lương Sơn, nằm cách huyện thành Thiên Càn 6km về phía bắc. Nơi đây cách Tây An - kinh đô thời Đường - khoảng 160 dặm, tạo thành thế hô ứng với các dãy núi Cửu Tông, Kim Túc, Ta Nga, Nghiêu Sơn… Khác với vị trí Chiêu Lăng do chính Lý Thế Dân - ông vua nổi tiếng triều Đường tự lựa chọn, người ta nói rằng, vị trí của Càn Lăng được lựa chọn một cách cực kỳ chuyên nghiệp. Người lựa chọn vị trí xây dựng Càn Lăng chính là thái sử lệnh Lý Thuần Phong - vị quan chịu trách nhiệm về âm dương và thiên văn của triều đại nhà Đường. Sử chép, họ Lý là một trong những nhà thiên văn và số học cổ đại có tiếng của Trung Quốc. Cùng thời với Lý Thuần Phong lúc bấy giờ còn có một người khác tài danh không kém, gọi là Viên Thiên Canh. Viên chính là người đã cùng Lý Thế Dân lựa chọn vị trí xây dựng Chiêu Lăng. Do Lương Sơn - nơi xây dựng Càn Lăng - có địa thế rất giống với bộ ngực của người phụ nữ nên người dân địa phương nơi đây còn gọi núi Lương Sơn là Nãi Đầu Sơn. Ngọn núi này nhìn gần thì rất kỳ vĩ nhưng nhìn xa lại rất thấp. Viên Thiên Canh cho rằng, nơi đây âm khí nặng hơn, vì vậy nếu như không tính toán cẩn thận thì long mạch nhà họ Lý sẽ bị một người phụ nữ làm cho tổn hại. Lý do mà Viên Thiên Canh đưa ra dường như rất hợp lý. Ngọn Lương Sơn nằm ở phía tây của núi Cửu Tông, trong khi đó, long mạch của nhà Đường thì nằm ở phía đông Cửu Tông. Vì vậy, Viên cho rằng, Chiêu Lăng - nơi chôn cất Lý Thế Dân - chính là phần đầu của long mạch triều Đường. Theo quan niệm truyền thống về phong thủy thì vị trí xây dựng lăng mộ cho Lý Trị phải nằm dưới phần đầu rồng này. Như vậy, vị trí mộ lý tưởng nhất phải thuộc các dãy núi Kim Túc, Ta Nga, Nghiêu Sơn… Hàng tượng người không đầu ở khu Càn Lăng Tuy nhiên, nay lại có một người phụ nữ ngồi ở trên đầu của những người đàn ông dòng họ Lý. Hơn nữa, đại thế phong thủy của Lương Sơn lại không hô ứng với phong thủy của Chiêu Lăng vốn đã được Lý Thế Dân lựa chọn. Sự không hô ứng này khiến vương khí bị đứt đoạn, e là chỉ sau ba đời sẽ bị cản trở. Trưởng Tôn Vô Kỵ và Lý Thuần Phong đều nói đây là mảnh đất tốt, ngàn năm có một, trong khi đó Viên Thiên Canh thì lại khẳng định rằng, nơi này không thích hợp. Đứng trước hai ý kiến hoàn toàn trái ngược, Lý Trị lúc bấy giờ cũng không biết quyết định ra sao. Khi đó, Võ Tắc Thiên mới là Chiêu Nghi, nghe được chuyện này mừng lắm. Viên Thiên Canh từng dự đoán rằng, triều đại nhà Đường sẽ bị một người phụ nữ họ Võ xâm phạm. Lý Thế Dân cũng vì lý do này mà giết không ít người họ Võ. Hơn nữa, khi trước, họ Viên khi xem tướng mạo của Võ Tắc Thiên đã nói rằng: “Nếu như không phải là nữ giới thì nhất định sẽ là chủ thiên hạ”. Như vậy, địa thế phong thủy của Lương Sơn chẳng phải là ứng với những gì Viên Thiên Canh đã dự đoán hay sao? Nghĩ vậy, Võ Tắc Thiên đã tìm mọi cách khuyên Lý Trị không nên do dự, nghe theo lời của cậu là Trưởng Tôn Vô Kỵ. Lý Trị vốn là người nhu nhược nên chẳng mấy chốc đã bị Võ Tắc Thiên thuyết phục, việc lựa chọn vị trí xây dựng Càn Lăng được quyết định. Viên Thiên Canh sau khi biết chuyện đã thở dài mà than rằng: “Người thay nhà Đường không ai khác chính là Võ Chiêu Nghi”. Lời nói của Viên sau này quả nhiên ứng nghiệm. Tới tháng 9 năm 690, Võ Tắc Thiên chính thức lên ngôi hoàng đế, trở thành nữ hoàng duy nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Trung Quốc. Các nhà phong thủy cho rằng, chính địa thế phong thủy của Càn Lăng đã giúp Võ Tắc Thiên làm nên sự nghiệp lẫy lừng như vậy và chính vì thế nên đến cuối đời, Võ Tắc Thiên đã quyết định được chôn cất tại Càn Lăng chứ không phải chỉ vì muốn hợp táng với Đường Cao Tông Lý Trị. Có rất nhiều bí ẩn xung quanh mộ của Võ Tắc Thiên, như những bức tượng không đầu; việc NASA nhìn thấy khu lăng mộ họ Võ từ vũ trụ; bia mộ không khắc chữ cùng với những bí ẩn về vật liệu xây dựng. Bọn trộm mộ thường nhòm ngó đào bới của cải của những lăng mộ; những triều đại mới nổi lên, muốn trả thù triệt “long mạch” của triều đại cũ; các nhà khảo cổ khai quật để nghiên cứu… Thế nhưng lăng mộ của nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên thì người ta đào không nổi. Lý Quang Diệu xây đường tàu điện ngầm trên lưng rồng Từ khi ông Lý Quang Diệu lên làm Thủ tướng, đất nước Singapore bắt đầu có những bước phát triển rất mạnh liên quan tới các chính sách quản lý đất nước. Nhu cầu xây dựng đường tàu điện ngầm ngày một cấp thiết. Nhà thầu xây dựng được chọn là một tập đoàn xây dựng quốc tế có năng lực tài chính và kỹ thuật vào loại siêu mạnh. Nhưng lạ thay, công trình này không cách nào có thể thi công được qua một khu vực có điều kiện địa chất phức tạp. Các kỹ thuật hiện đại nhất đã được đưa ra áp dụng nhưng vẫn thất bại. Do việc lái tuyến thi công sang hướng khác không thực hiện được trong khi việc xây dựng được yêu cầu thực hiện sớm, tình hình được báo cáo lên chính phủ. Ông Lý Quang Diệu vốn là một nhà chính trị tài ba, nhưng cũng rất coi trọng vấn đề phong thủy. Ông đã cho mời một thầy phong thủy người gốc Hoa từ Mỹ về để nhờ tư vấn. Sau khi xem xét thầy phong thủy phán: Khu vực thi công có điều kiện địa chất phức tạp, đó chính là cái lưng của một con rồng lớn. Khi con rồng nằm yên thì thi công được, nhưng khi nó cựa mình thì công trình lại đổ vỡ. Vì vậy mà công tác thi công ở đây không thể tiến triển được cho dù có áp dụng các kiểu kỹ thuật hiện đại. Muốn thi công được và đảm bảo an toàn cho công trình trong quá trình sử dụng thì phải dùng biện pháp trấn yểm sao cho con rồng ấy chịu nằm yên không cựa quậy nữa. Và biện pháp trấn yểm chỉ có thể là: Toàn dân Singapore khi đi ra ngoài đường đều phải đeo hình bát quái trên người. Biện pháp này mới nghe tưởng là đơn giản nhưng làm sao thuyết phục được dân chúng chịu làm việc kỳ dị đó? Thủ tướng Lý Quang Diệu cùng nội các luận bàn rất nhiều mà vẫn chưa tìm được cách nào để thuyết phục dân chúng. Thấy chồng lo lắng buồn phiền về việc đó, vợ của Thủ tướng Lý Quang Diệu hiến một kế: “Cho đúc loại tiền xu 1$ có hình bát quái cho lưu hành thay thế đồng 1$ hiện tại”. Toàn dân Singapore, từ kẻ nghèo nhất đến người giàu có khi đi ra đường cũng đều có ít nhất 1$ trong người. Quả nhiên khi đồng 1$ có hình bát quái được lưu hành, sau đó một thời gian thì tuyến đường ngầm cũng được xây dựng xong và sử dụng ổn định cho đến ngày nay. Và ở Singapore tất cả các đồng tiền xu khác đều có hình tròn, nhưng riêng đồng 1$ thì lại có hình bát quái. Từ sau vụ việc xây dựng tuyến tàu điện ngầm đó, Chính phủ Singapore và cả người dân rất chú trọng vấn đề phong thủy trong xây dựng. Phú Vinh (Tổng hợp) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 1, 2014 Khảo cổ phương pháp trừ tà "đuổi quỷ dữ" của người cổ đại Cập nhật lúc 15h55' ngày 14/01/2014 Theo các nhà khảo cổ học, việc chôn trứng dưới nền nhà sẽ giúp người xưa tránh khỏi ma quỷ và thảm họa trong tương lai. Trong khi khai quật một tòa nhà cổ ở Sardis, Thổ Nhĩ Kỳ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện thấy chiếc bát và bình nhỏ bị chôn vùi dưới lớp đất đá sau trận động đất xảy ra vào năm 17. Đi vào nghiên cứu, các nhà khảo cổ vô cùng bất ngờ khi phát hiện trong chiếc bát có một vỏ trứng, một đồng xu, và ít công cụ bằng đồng nhỏ vẫn còn nguyên vẹn. Theo đó, việc những vật dụng này chôn dưới nền đất được coi như một lá bùa may mắn, giúp người dân tránh khỏi ma quỷ và các thảm họa trong tương lai. Nhà khảo cổ Elizabeth Raubolt thuộc ĐH Missouri, Columbia cho biết: "Những phát hiện này thực sự rất tuyệt vời. Chúng tôi may mắn tìm thấy một vỏ trứng còn nguyên vẹn. Điều này cho phép chúng tôi đục một lỗ tròn nhỏ và khám phá bí ẩn bên trong nó". Nhà sử học La Mã Pliny cho rằng, một số sự mê tín dị đoan trong thế giới cổ đại liên quan đến trứng. Để tránh khỏi lời nguyền của ác quỷ, mọi người sẽ đập vỡ quả trứng và đặt chiếc thìa sau khi dùng để ăn trứng trong vỏ. Không chỉ dùng để giải lời nguyền, chúng cũng được sử dụng để ếm bùa một người nào đó, bằng cách chôn vùi quả trứng ở trước cửa nhà. Nhà nghiên cứu Raubolt cho rằng, vỏ trứng được tìm thấy ở Sardis có tác dụng bảo vệ người dân trong tòa nhà này tránh xa những thế lực hắc ám - một trong số đó là các trận động đất trong tương lai hay lời nguyền từ một người nào. Đồng xu có biểu tượng của Thần Zeus Lydios Bên cạnh trứng, các nhà khảo cổ cũng phát hiện nhiều đồng tiền xu có biểu tượng của nữ thần Cybele - gắn liền với núi hay Thần cha của khu vực - Zeus Lydios. Theo Raubolt, những đồng tiền xu này sẽ được sử dụng trong các việc bất trắc xảy ra ở thời kỳ đó. Hiện các nhà khảo cổ học vẫn đang tiến hành nghiên cứu để hiểu hơn về những phong tục trừ tà kỳ lạ của người xưa. Theo PLXH ========================= Phong thủy Lạc Việt làm trò này xịn hơn nhiều. Hì! 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 1, 2014 Ngọn núi thánh gia tộc Thành Cát Tư Hãn và câu chuyện phong thủy lưu truyền Thủ lĩnh của đội quân ấy là Thành Cát Tư Hãn, ông vua khai quốc của triều đại nhà Nguyên, đồng thời cũng là người sáng lập ra Đế quốc Mông Cổ rộng lớn trải dài từ châu Á sang châu Âu. Vậy điều gì đã khiến một thủ lĩnh bộ lạc ở vùng thảo nguyên xa xôi trở thành vị hoàng đế của cả một đế chế? Hồ Bối Gia Nhĩ sinh thành vương khí Thành Cát Tư Hãn sinh ra tại bộ lạc Khất Nhan, một bộ tộc Mông Cổ sinh sống ở phía Tây Bắc của Trung Quốc, nay là khu vực Hồ Bối Gia Nhĩ. Hiện tại hồ Bối Gia Nhĩ thuộc lãnh thổ của Nga, tuy nhiên, thời cổ đại, nó do một số dân tộc ở phía Bắc của Trung Quốc khống chế. Từ thời Hán, qua thời Tam Quốc, Tấn, Ngũ hồ Thập lục quốc, Bắc triều cho tới Đường, Tống, hồ Bối Gia Nhĩ là khu vực sinh sống của người Tiên Ti, Ô Hoàn, Hồi Hồi và Khiết Đan,… Thành Cát Tư Hãn Tới khi tộc Mông Cổ phát triển mạnh mẽ, hồ Bối Gia Nhĩ trở thành Long Hưng thủy thành của người Mông Cổ. Sở dĩ gọi là thủy thành bởi vì nó là thành trì được xây dựng trên hình thế của các nguồn nước như sông, hồ hoặc biển. Tác dụng chính của thủy thành chính là tạo nên ranh giới của nước. Quan niệm phong thủy cho rằng, nếu như nước có ranh giới thì long khí sẽ không bị phân tán, ngược lại, sẽ là nơi sinh khí tích tụ, tất sẽ trở thành một nơi đất lành về phong thủy. Nếu như là nước biển thì lấy chỗ nước triều dâng cao nhất chính là nơi đại cát (tốt nhất). Còn nếu như là nước sông thì lấy việc uốn khúc quanh co của dòng chảy là nơi đại cát. Nếu như là nước suối thì lấy chỗ dòng chảy khoan thai, chậm rãi làm nơi đại cát. Nếu là hồ thì lấy nơi mặt nước tĩnh lặng, mặt hồ giống như một tấm gương lớn là nơi đại cát. Tất nhiên ở đây chỉ mới nói tới cái thế của nước, ngoài ra nó còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người. Các hồ nước ở hồ Bối Gia Nhĩ rất rộng lớn, vì vậy, xét về thế của nguồn nước thì có thể khẳng định nơi đây là 1 mảnh đất cực tốt về mặt phong thủy mà khó nơi nào có thể tìm thấy được. Hơn nữa, những hồ nước ở hồ Bối Gia Nhĩ cũng là những hồ nước sâu nhất từng được phát hiện từ trước tới nay, sâu tới mức không thể nhìn thấy đáy. Chính “thủy thành” này đã đem lại sự may mắn đặc biệt cho tộc người Mông Cổ. Ngoài ra, hồ Bối Gia Nhĩ không chỉ là 1 tòa “thủy thành” rộng lớn mà còn tĩnh lặng như đại dương rộng lớn của tự nhiên. Bối Gia Nhĩ, trong tiếng của người Mông Cổ có nghĩa là “đại dương của tự nhiên”. Nước của hồ Bối Gia Nhĩ nổi tiếng là rất trong và không bao giờ bị đục. Người đứng trên bờ có thể nhìn thấy cá bơi ở dưới lòng hồ. Thời bấy giờ, những người dân sống quanh vùng hồ này đều cho rằng, chỉ cầy dùng cánh tay là có thể chạm được xuống đáy hồ. Tộc người Mông Cổ thường chăn nuôi gia súc ở ven hồ. Vào những ngày lễ tết hoặc những ngày có đám cưới, người ta thường bày tiệc ngay bên bờ hồ, dùng nước hồ để uống, rửa mặt và thậm chí cả tắm nữa. Hải Đô, tổ tiên của Thiết Mộc Chân đã xây dựng trung tâm đầu tiên của Mông Cổ tại đây. Lúc bấy giờ, trong mắt người Trung Nguyên, Mông Cổ chỉ là 1 bộ tộc dã man ở vùng hoang mạc phía Bắc và không có gì đáng sợ. Tuy nhiên, các nhà phong thủy cho rằng, sự hưng- suy, phúc- họa của con người đều có liên quan tới vị trí địa lý. Hồ Bối Gia Nhĩ với địa thế của nó đã tạo nên một vùng đất có phong thủy cực tốt, tất yếu sẽ sản sinh “chân long thiên tử”. Tuy nhiên, có rất nhiều bộ tộc Mông Cổ khác nhau sinh sống trên vùng thảo nguyên Âu – Á rộng lớn này. Mối liên hệ khác nhau giữa các bộ tộc với long mạch đã tiên định một cuộc tranh chấp hơn thua sống chết giữa họ để chọn ra người xứng đáng nhất. Sự thực đã diễn ra đúng như vậy. Khi Hải Đô còn nhỏ, bà nội của ông ta là Na Mạc Luân, tức tổ tiên đời thứ 7 của Thành Cát Tư Hãn đã trở thành thủ lĩnh của bộ lạc. Tuy nhiên, sau đó, Na Mạc Luân đã bị giết trong 1 cuộc chiến tranh. Hải Đô may mắn thoát khỏi tai kiếp đó. Sau khi lớn lên, việc đầu tiên mà Hải Đô làm chính là tiêu diệt những kẻ đã giết hại mẹ mình – người Trát Lạt Nhi Tới thời đại của Hải Đô, gia tộc của Thiết Mộc Chân bước vào thời kỳ của những cuộc chiến tranh chinh phục trên khắp thảo nguyên. Dựa vào sự dũng mãnh, quyết liệt và trí tuệ, Hải Đô đã tiêu diệt và thu phục tất cả những bộ lạc khác và cuối cùng thành lập vương triều Mông Cổ đầu tiên ở hồ Bối Gia Nhĩ. Thời gian qua đi, hồ Bối Gia Nhĩ không những không bị khô cạn, ngược lại nguồn nước ngày càng trở nên dồi dào. Điều này đã dự báo trước rằng, trên thảo nguyên Mông Cổ chắc chắn sẽ xuất hiện một lực lượng cực kỳ lớn mạnh, hấp thụ tất cả các long mạch thành một thể thống nhất. Sự bảo hộ của núi Thánh Hồ Bối Gia Nhĩ đã nuôi dưỡng khí vương giả của gia tộc Thiết Mộc Chân, tuy nhiên, nó không thể bảo vệ gia tộc Thiết Mộc Chân đến vạn đời. Khi thời đại của Hải Đô đã trở thành quá khứ, gia tộc của Thiết Mộc Chân buộc phải tìm tới một nơi định cư khác, và họ đã tới núi Bất Nhi Hãn. Khi linh khí của Bối Gia Nhĩ hợp nhất với sự hùng tráng của núi Bất Nhi Hãn thì cũng là thời điểm “chân long” xuất thế đã gần kề. Nếu như Bối Gia Nhĩ giúp gia tộc Thiết Mộc Chân hình thành vương khí thì chính núi Bất Nhi Hãn đảm trách việc bảo hộ vương khí này. Đã rất nhiều lần Bất Nhĩ Hãn cứu gia tộc Thiết Mộc Chân thoát khỏi hiểm nguy, chờ tới ngày “chân mệnh thiên tử” chào đời. Theo sách “Mật sử Mông Cổ” ghi chép thì khi tổ tiên của Thiết Mộc Chân di cư tới khu vực núi Bất Nhi Hãn thì phát hiện ra rằng, ngọn núi này cao hơn bất cứ ngọn núi nào khác trong vùng. Họ cho rằng đây là ngọn núi cao nhất thế giới, không có ngọn núi nào cao hơn do vậy mới gọi nó là Hãn Sơn (hãn nghĩa là ít có, hiếm có). Bất Nhi Hãn Sơn tức là ngọn núi Đại Khẳng Đắc ở Mông Cổ ngày nay. Khu vực Đại Khẳng Đắc là nơi sinh thành của rất nhiều con sông ở Trung Á. Ngoại trừ sông Onon, sông Kherlen và sông Tuul đều bắt nguồn từ khu vực này. Chính vì vậy, nơi đây còn có tên gọi là “nơi đầu nguồn của 3 con sông”. Đây là khu vực cây cối xanh tươi, đất đai màu mỡ, tạo nên những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Mông Cổ. Thời cổ đại, bất Nhi Hãn Sơn được gọi là Lang Cư Tư Sơn, là nơi cư ngụ chính của Lang Tộc. Địa thế của ngọn núi này rất hùng tráng, khí thế bất phàm, lưng dựa vào nhiều dãy núi, phía trước lại rộng rãi, có sông chảy qua, Bạch Hổ, Thanh Long bao quanh huyện chính ở 2 bên phải trái. Hãn Sơn Theo miêu tả của sách Sơn Kinh về hướng của long mạch thì đây chính là nơi giao nhau của phần đuôi Đoái Long ở phía Bắc Hoa Hạ và Chấn Long ở phía Đông Hoa Hạ. Vì thế, đây là nơi hội tụ được đặc tính của cả 2 long mạch này. Nếu như một ngày nào đó “chân long” xuất hiện, thì chắc chắn người đó sẽ làm nên sự nghiệp “kinh thiên động địa”. Bất Nhi Hãn Sơn là nơi chôn cất của cha ruột Thành Cát Tư Hãn. Theo quan niệm phong thủy truyền thống, tổ tiên được chôn đúng long huyệt thì đời sau nhất định sẽ xuất hiện thiên tử. Vì thế, việc Thành Cát Tư Hãn trở thành ông vua khai quốc triều Nguyên, hoàng đế của Đế chế Mông Cổ chắc chắn có liên quan tới việc chôn cất cha mình. Sách “Sơn Kinh” còn nói rằng, mỗi 1 dãy núi nơi đây đều nơi người ta phải tranh chấp. Mỗi dãy núi dường như kéo dài bất tận, kéo dài tới tận vùng sa mạc ở phía Bắc, khí thế rất mạnh mẽ. Quả thực, trong suốt cuộc đời của Thành Cát Tư Hãn, ông đã tham gia rất nhiều cuộc chiến và không ít lần được chính ngọn núi này bảo vệ, thoát khỏi những cơn nguy hiểm. Đó có lẽ là lý do mà cho đến tận cuối đời, Thành Cát Tư Hãn vẫn rất thích ngọn núi này. Mỗi khi có sự việc lớn, Thành Cát Tư Hãn đều vào núi này làm lễ để nhờ núi Thánh chỉ cho mình cách giải quyết vấn đề tốt nhất. Khi Thiết Mộc Chân – Thành Cát Tư Hãn còn nhỏ, cha ông ta là Dã Tốc Cai bị người Tháp Tháp Nhi hại chết. Từ đó, gia tộc Thiết Mộc Chân bước vào thời kỳ suy sụp, thường xuyên bị các bộ lạc khác ức hiếp. Thậm chí khi họ Thái Diệc Xích Ngột Thích chuẩn bị di cư tới một vùng đất màu mỡ hơn, đã có ý định bỏ lại gia đình góa phụ Ha Ngạch Luân. Mẹ của Thiết Mộc Chân – Ha Ngạch Luân chỉ đành đem theo các con, sống nhờ vào cây dại, quả núi, trải qua những ngày tháng gian khổ nhất. Vào thời điểm đó, mặc dù tuổi vẫn còn nhỏ nhưng Thiết Mộc Chân đã tỏ ra là một kẻ khí khái hơn người. Vì vậy, họ Thái Diệc Xích Ngột Thích muốn diệt cỏ tận gốc, tiêu diệt Thiết Mộc Chân để tránh hậu hoạn sau này. Trong tình thế nguy kịch ấy, Thiết Mộc Chân đã chạy vào trong núi Bất Nhi Hãn để lẩn trốn. Mặc dù Thiết Mộc Chân không thể chạy ra khỏi núi Bất Nhi Hãn và cuối cùng đã bị người Thái Diệc Xích Ngột Thích bắt giữ, tuy nhiên, lần lẩn trốn đó đã giúp Thiết Mộc Chân quen thuộc với ngọn Bất Nhi Hãn. Điều này giúp ích rất nhiều cho cuộc đời Thiết Mộc Chân sau này. Sau khi bị bắt, Thiết Mộc Chân lại tìm cơ hội trốn thoát, tiếp tục cuộc sống khốn cùng, nay đây mai đó để tránh sự truy sát. Cho tới khi Thiết Mộc Chân lớn lên, trở thành 1 người sức khỏe hơn người, dũng cảm và bạo liệt. Người Thái Diệc Xích Ngột Thích tuy không thể giết được Thiết Mộc Chân, tuy nhiên vẫn để ý và thù ghét nhà Thiết Mộc Chân. Một lần, người Thái Diệc Xích Ngột mang quân tới nơi ở của nhà Thiết Mộc Chân để cướp bóc. Nhờ được người nhà báo tin, người nhà Thiết Mộc Chân đã nhanh chóng trốn vào núi Bất Nhi Hãn Sơn. Nhờ có kinh nghiệm của lần trốn trước, lần này, gia đình Thiết Mộc Chân trốn ở núi này rất lâu. Người Thái Xích Ngột tìm rất lâu vẫn không tìm ra được nơi lẩn trốn của họ. Từ đó về sau, Thiết Mộc Chân rất thích thú đối với ngọn Bất Nhi Hãn Sơn vì cho rằng ngọn núi này không chỉ cứu mình mà còn cứu cả gia đình mình. Thiết Mộc Chân gọi Bất Nhi Hãn Sơn là “Thánh Sơn” (ngọn núi Thánh), mỗi năm đều đến đây lễ tế và quy định con cháu đời sau đều phải tuân theo tục lệ này. Nổi dậy ở thảo nguyên Sau khi Thiết Mộc Chân lớn lên đã tích cực tìm kiếm các đồng minh, và cuối cùng đã tìm được nhạc phụ là Đức Tiết Thiền. Đức Tiết Thiền và cha của Thiết Mộc Chân từng là chiến hữu. Cha của Đức Tiết Thiền từng nhiều lần được Dã Tốc Cai giúp đỡ. Vì thế, 2 người từng hẹn với nhau rằng, con gái của Đức Tiết Thiền là Bột Nhi Thiếp sẽ được gả cho Thiết Mộc Chân làm vợ. Sau này, khi Dã Tốc Cai mất đi, gia đình Thiết Mộc Chân trở nên sa sút, song Đức Tiết Thiền vẫn không hề quên lời hứa trước đây, ngược lại còn rất vui vẻ thúc đẩy hôn sự giữa Thiết Mộc Chân và con gái mình. Đức Tiết Thiền còn tặng cho mẹ của Thiết Mộc Chân 1 chiếc áo da báo đen làm lễ vật. Rất nhanh sau đó, chiếc áo đã có tác dụng. Nhờ vào sự dũng mãnh và trí tuệ, Thiết Mộc Chân nhanh chóng xây dựng cho mình 1 lực lượng nhỏ trên vùng thảo nguyên. Để nhanh chóng phát triển lực lượng của mình, Thiết Mộc Chân đã đem chiếc áo da báo này tặng cho Thoát Oát Lân Lặc. Thoát Oát Lân Lặc cũng từng là 1 người bạn cũ của Dã Tốc Cai, nhờ có sự giúp đỡ của Dã Tốc Cai mà giữ được ngôi vương, nên 2 người từng kết nghĩa anh em. Thiết Mộc Chân tới gặp Thoát Oát Lân Lặc, tặng quà quý hiếm nhưng không hề nhắc tới chuyện nhờ vả. Thoát Oát Lân Lặc mừng lắm, tự mình bày tỏ ý muốn giúp Thiết Mộc Chân tập hợp những người thuộc bộ tộc cũ của mình đã bị li tán. Sự nghiệp của Thiết Mộc Chân từ đó bước sang một bước ngoặt mới. Thế lực của Thiết Mộc Chân sau đó phát triển rất nhanh. Năm 1183 sau Công nguyên, Thiết Mộc Chân được các quý tộc tiến cử làm Khả Hãn của bộ Khất Nha Thích của Mông Cổ. Trước khi cuộc bầu Khả Hãn diễn ra, Thiết Mộc Chân đã có sự chuẩn bị rất chu đáo. Trong hội nghị bầu chọn, Hãn và các quý tộc tuyên thệ lòng trung thành của mình. Trước đó, 1 vị thủ lĩnh của bộ Trát Lạt Nhi từng nói với Thiết Mộc Chân rằng: “Dưới gốc cây này, vị Khả Hãn cuối cùng của Mông Cổ Hốt Đồ Lạt đã ăn mừng lễn lên ngôi của mình. Thế nhưng, từ sau khi Hốt Đồ Lạt qua đời, người Mông Cổ bị đẩy vào cơn khủng hoảng, từ đó không có Khả Hãn nữa. Tuy nhiên, trời xanh vẫn không quên gia tộc Hốt Đồ Lạt. Người Mông Cổ sẽ sinh ra 1 người anh hùng, 1 người Khả Hãn đáng sợ có thể báo thù cho Hốt Đồ Lạt…” Vị thủ lĩnh của bộ Trát Lạt Nhi này chính là Mộc Hoa Lê, người sau này trở thành một vị tướng giỏi của Thích Mộc Chân, lập rất nhiều công trạng trong sự nghiệp xây dựng Đế chế Mông Cổ của Thiết Mộc Chân, được coi là người đứng đầu trong “tứ kiệt” (bốn người tướng giỏi nhất của Thành Cát Tư Hãn). Lời nói của Mộc Hoa Lê sau này đã trở thành mục tiêu phấn đấu suốt cả đời của Thiết Mộc Chân. Sau khi xưng Hãn, liên minh của bộ Khất Nhan ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên, sự lớn mạnh của Thiết Mộc Chân nhanh chóng bị Trát Mộc Hợp của bộ Trát Đáp Lan để ý. Trát Mộc Hợp và Thiết Mộc Chân từng là anh em kết nghĩa nhưng kể từ khi 2 người xung đột về lợi ích thì tình bạn cũng bắt đầu sứt mẻ. Trát Mộc Hợp đưa người anh em kết nghĩa của mình vào danh sách những kẻ cần phải tiêu diệt. Một ngày, em trai của Trát Mộc Hợp do đến cướp một bầy ngựa của bộ tộc Thiết Mộc Chân đã bị giết. Trát Mộc Hợp lấy cớ đó, tập hợp hơn 30 ngàn quân của 30 bộ lạc rầm rập kéo tới tấn công bộ tộc của Thiết Mộc Chân. May mắn có 2 người của bộ tộc Xích Khất Liệt Tư ở chỗ Trát Mộc Hợp đã đến báo tin cho Thiết Mộc Chân. Thiết Mộc Chân sau khi biết tin cũng tập hợp 30 ngàn kỵ binh, phân thành 13 cánh, nghênh chiến với Trát Mộc Hợp ở hồ Hô Luân. Trong cuộc chiến đó Thiết Mộc Chân đã thất bại, rất nhiều người dân của các bộ tộc bị bắt sống. Tuy nhiên, Thiết Mộc Chân lại được cái gọi là đạo nghĩa. Sau cuộc chiến đó, rất nhiều bộ tộc theo về với Thiết Mộc Chân. Vì thế, dù thất bại nhưng lực lượng của Thiết Mộc Chân lại càng lớn mạnh hơn. Sau đó, Thiết Mộc Chân nhận được tin Tháp Tháp Nhi thất bại trong cuộc chiến với quân Kim, bèn liên thủ với Thoát Oát Lân Lặc tấn công Tháp Tháp Nhi, giành được thắng lợi lớn. Triều Kim phong cho Thoát Oát Lân Lặc làm vương, Thiết Mộc Chân cũng được phong làm thống lĩnh bộ lạc. Những phong hiệu này thực tế chỉ là sự thừa nhận đối với quyền lực và địa vị của họ, tuy nhiên, nhờ có tước phong của nhà Kim mà Thiết Mộc Chân đã củng cố được địa vị của mình. Sau đó không lâu, Thiết Mộc Chân bắt đầu truy kích bộ tộc Thái Xích Ngột. Việc Thái Xích Ngột bị diệt vong đã giúp Thiết Mộc Chân vượt qua được một trở ngại rất lớn trên con đường thống nhất Mông Cổ. Thêm vào đó, rất nhiều bộ tướng của Thái Xích Ngột sau đó đều trở thành những dũng tướng tài năng của Thiết Mộc Chân. Quý tộc các bộ lạc trên thảo nguyên sợ Thiết Mộc Chân sẽ nổi dậy vì vậy, Trát Mộc Hợp đã tập hợp những kẻ thù của Thiết Mộc Chân tạo thành một liên minh quân sự bầu một người thống lĩnh gọi là Cổ Nhi Hãn nhằm chống lại Thiết Mộc Chân. Liên quân của 12 bộ đã tấn công Thiết Mộc Chân và bộ Khắc Liệt nhằm tiêu diệt thế lực của Thiết Mộc Chân. Tuy nhiên, Thiết Mộc Chân sau khi phân tích tình hình, bèn cho người xây 3 trạm gác ngay ở trận tiền đồng thời phái 3 cánh quân tổ hợp thành quân tiên phong, tấn công quân địch. Quân địch vừa mới tấn công đã thất bại. Thiết Mộc Chân và Vương Hãn Thoát Oát Lân Lặc chia quân tấn công, chưa đầy 1 ngày, đội quân ô hợp của Trát Mộc Hợp đã bị tiêu diệt sạch. Mùa Thu năm 1202, Thiết Mộc Chân lại đem quân tấn công bộ Tháp Tháp Nhi. Rất nhanh sau đó, Tháp Tháp nhi bị tiêu diệt, tuy nhiên, lực lượng của Thiết Mộc Chân cũng bị tiêu hao không ít. Lúc này, trên thảo nguyên Mông Cổ hình thành thế “chia 3 thiên hạ” với 3 thế lực lớn gồm Thiết Mộc Chân, Thoát Oát Lân Lặc và Nãi Man. Vì mục tiêu trở thành người thống lĩnh thảo nguyên, mối quan hệ giữa Thoát Oát Lân Lặc và Thiết Mộc Chân vốn thân thiết như cha con nay bắt đầu trở nên căng thẳng. Khi những mâu thuẫn không thể điều hòa được nữa, chiến tranh đã nổ ra. Trong cuộc chiến đầu tiên ở Ha Lan Chân Sa Đà, Thiết Mộc Chân bị đánh bại, cuối cùng chỉ còn mười mấy tướng lĩnh chạy theo. Tuy nhiên, Thoát Oát Lân Lặc đã bị chiến thắng làm cho mê muội, phát động chiến tranh với quân Kim. Thiết Mộc Chân đã nhân cơ hội đó, tập hợp lực lượng tấn công và tiêu diệt Thoát Oát Lân Lặc. Sau khi tiêu diệt Thoát Oát Lân Lặc, đối thủ duy nhất còn lại của Thiết Mộc Chân là Nãi Man. Năm 1204, Thiết Mộc Chân tấn công bộ tộc Nãi Man. Trong cuộc chiến Nạp Hốt Nhai, Thiết Mộc Chân đã tự mình dẫn quân tiên phong tấn công, quân Nãi Man từng bước bị đánh lui rồi tiêu diệt hoàn toàn. Từ đó, Thiết Mộc Chân trở thành bá chủ của thảo nguyên. Mùa xuân năm 1206, Thiết Mộc Chân tổ chức đại hội Mông Cổ ngay dưới chân ngọn núi thánh Bất Nhi Hãn Sơn. Trong đại hội đó, Thiết Mộc Chân được tôn làm Đại Hãn của người Mông Cổ, hiệu là Thành Cát Tư Hãn. Có thể nói, Bất Nhi Hãn Sơn đã chứng kiến từng bước thăng trầm của gia tộc Thiết Mộc Chân và âm thầm bảo hộ cho Thiết Mộc Chân, chờ tới lúc con rồng Thiết Mộc Chân cất cánh, trở thành bá chủ của Đế chế Mông Cổ lừng danh. nguồn Phong thủy Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 1, 2014 Bí ẩn lời nguyền phong thủy trong dinh thự vua Mèo Giữa một vùng núi đá xám xịt, quanh năm khô hạn và mây mù lại xuất hiện một công trình kiến trúc nguy nga theo lối cung điện, lâu đài, thành quách của vương triều phong kiến, đó chính là dinh thự của gia tộc họ Vương - vua Mèo ở vùng cao nguyên đá. Dinh thự hùng vĩ dưới thung lũng Sà Phìn Được ví như một hòn ngọc xanh giữa lòng công viên địa chất cao nguyên đá Đồng Văn,trải bao tháng năm lịch sử, dinh thự nhà Vương vẫn kiêu hãnh khoe vẻ đẹp mỹ lệ giữa núi rừng Tây Bắc. Trong đó, có lẽ kiến trúc độc đáo chính là điều tạo nên sức hấp dẫn đến mê hoặc của tòa dinh thự đầy bí ẩn này. Cổng chính dinh thự vua Mèo Những người cao tuổi dân tộc Mông ở xã Sà Phìn (huyện Đồng Văn) cho biết: Cách đây một thế kỷ trước, dòng họ Vương đã thống lĩnh toàn bộ vùng cao nguyên rộng lớn này và tự xưng Vương. Sau khi trở thành vị vua Mèo quyền uy ở Đồng Văn, Vương Chính Đức đã chứng kiến một giai đoạn dài những thăng trầm trong lịch sử của người Mông Đồng Văn. Trong giai đoạn đó, Vương Chính Đức và người con trai ông, Vương Chí Sình, đã trở thành huyền thoại của vùng đất này. Để khẳng định vai trò và uy quyền của mình, "vua Mèo" Vương Chính Đức đã mất nhiều tháng trời đi khắp đó đây tìm thầy, tìm thợ về xây nhà. Cuối cùng, một thầy địa lý nổi tiếng tài giỏi đất Trung Hoa đã nhận lời, vượt núi cao, vực sâu sang Hà Giang chọn đất cho nhà Vương. Dinh thự nhà Vương được xây dựng không kể ngày đêm và thi công trong vòng 8 năm mới xong, dinh “vua Mèo” được xây dựng trên một khu đất đẹp, với diện tích 1.120 m2. Toàn bộ dinh thự có hình mai rùa vững chắc, bao gồm hàng trăm toà ngang, dãy dọc quy mô, bề thế với nhiều công trình phụ trợ khác, cùng với những hàng cây sa mộc vươn cao làm nổi bật lên nét vương giả giữa vùng cao nguyên. Dinh thự thi công trong vòng 8 năm mới xong Vật liệu để xây dựng nhà gồm đá xẻ, gỗ lim, gỗ nghiến, nền nhà bằng đất, lợp ngói âm dương,… kết cấu kiến trúc gồm hai tầng, sàn nhà được lát bằng gỗ. Phía ngoài gian chính giữa có treo một bức hoành phi bằng chữ Hán do vua triều Nguyễn phong tặng vua Mèo “Biên chinh khả phong”. Hằng ngày, tại khu nhà Vương mọi người tập trung đông đúc, vui vẻ, náo nhiệt suốt ngày đêm. Một quá khứ vàng son không thể quên của họ Vương vùng núi đá. Tường thành được xây cao vút xung quanh, có quân lính bảo vệ khó có thể đột nhập từ bên ngoài, cách mỗi đoạn tường lại được bố trí các lỗ châu mai và chòi canh để bảo đảm an ninh cho cả khu nhà. Phía sau nhà có một bể chứa nước rất lớn được xây dựng toàn bộ bằng đá, thiết kế hứng nước mưa từ trên các dãy nhà xuống. Do nằm trong vùng thường xuyên khô hạn nên ngày nay chiếc bể nước này là nguồn cung cấp nước chính cho nhân dân ở Sà Pìn. Bí ẩn lời nguyền phong thủy Theo những giai thoại để lại, vua Mèo Vương Chính Đức nhờ nghe được lời của thầy phong thủy, xây nhà trên khu đất phát nên gia đình mới vinh hiển, trở thành Vương một cõi. Nhưng cũng theo những giai thoại kể lại trên cao nguyên đá Đồng Văn, thì đến thời vua Mèo Vương Chí Sình, gia tộc họ Vương lại bị thầy phong thủy làm hại, yểm bùa đến mức suýt nữa thành tuyệt tự. Có lẽ kiến trúc độc đáo chính là điều tạo nên sức hấp dẫn đến mê hoặc của tòa dinh thự đầy bí ẩn này Vua Mèo Vương Chính Đức có 4 người con trai. Nhưng vua Mèo Vương Chí Sình chỉ có một người con trai duy nhất là Vương Duy Thọ, được sinh khi ông đã tuổi cao sức yếu. Chuyện kể lại rằng khi còn sống, vua Mèo mắc chứng bệnh đau lưng, chữa mãi không khỏi. Vua Mèo đã cho gọi một thầy tướng rất giỏi người Hán đến xem bệnh. Sau khi xem xong, thầy tướng người Hán phán rằng: “Mộ của bố ông chôn đúng lưng rồng, phải chuyển mộ”. Vương Chí Sình tin lời làm theo, cho di rời mộ cha mình là vua Mèo Vương Chính Đức đi. Vương Chí Sình không ngờ mình đã bị thầy tướng người Hán do ghen ghét mà chơi xỏ. Vì lẽ đó mà Vương lấy mấy người vợ đều không sinh được con, chỉ khi lấy người vợ thứ 4, người vợ này mới đẻ cho Vương một người con trai là Vương Duy Thọ. Sau khi Vương Chí Sình mất, Vương Duy Thọ sau này đã lấy vợ, sang Mỹ rồi qua đời ở Mỹ khi còn khá trẻ. Dòng dõi của vua Mèo Vương Chí Sình ở Mỹ có lẽ đã quên đi phần nào gốc gác và những câu chuyện huyền thoại về gia tộc mình. Vật liệu để xây dựng nhà gồm đá xẻ, gỗ lim, gỗ nghiến,… Ngày nay, khu tư dinh của vua Mèo xưa đã được Nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia nên không có ai ở đó mà chủ yếu để phục vụ khách du lịch đến tham quan, tìm hiểu. Các hậu duệ của họ Vương đều sinh sống quanh khu vực lân cận. Phía trước khu nhà Vương là chợ Sà Phìn, chợ họp mỗi tuần một phiên. Vào phiên chợ trong mỗi gia đình thường thì cả nhà cùng đi. Các bà mẹ, người vợ đi chợ để mua sắm; các ông chồng đi chợ để giao lưu uống rượu, ăn thắng cố, thổi khèn; trẻ em theo bố mẹ đi chơi chợ; thanh niên nam nữ đến chợ để giao lưu tìm bạn tình. Sau vài phiên chợ nhiều đôi trai gái đã nên vợ nên chồng. Theo Đất Việt Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 2, 2014 Chuyện Hàn Tín chôn sống mẹ ruột để được phong thủy Trong nhiều truyền thuyết dân gian, Hàn Tín cũng có những chuyện chẳng lấy gì làm quang minh chính đại. Người ta nói rằng, để “được phong thủy” phục vụ cho sự thăng tiến của bản thân, Hàn Tín đã chôn sống mẹ ruột của mình Hàn Tín là cái tên không xa lạ với nhiều người dân thuộc nền văn hóa Đông Á. Họ Hàn là khai quốc công thần nhà Tây Hán, là một tướng quân anh dũng thiện chiến, một nhà quân sự túc trí đa mưu. Nhờ chiến thuật linh hoạt, biến đổi khôn lường của mình, Hàn Tín đã góp một công sức không nhỏ trong việc giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang giành được thiên hạ trong cuộc tranh chấp với Sở Bá Vương Hạng Vũ, được người đời xưng tụng là “quốc sĩ vô song”, “công cao vô nhị”. Tuy nhiên, dù công cao cái thế, song trong nhiều truyền thuyết dân gian, Hàn Tín cũng có những chuyện chẳng lấy gì làm quang minh chính đại. Người ta nói rằng, để “được phong thủy” phục vụ cho sự thăng tiến của bản thân, Hàn Tín đã chôn sống mẹ ruột của mình… Hàn Tín sinh năm 229 trước Công nguyên trong một gia đình nghèo khó. Từ khi sinh ra, Hàn Tín đã không có cơ hội nhìn mặt cha ruột của mình, theo mẹ trải qua những ngày cực kỳ gian khổ, sống nhờ sự cứu tế của người khác vì thế hai mẹ con họ Hàn thường xuyên bị người xung quanh coi rẻ. Khi Hàn Tín lớn lên một chút, cũng chẳng có vẻ gì là một người có chí hướng, tính tình phóng túng, không hiểu lễ độ, chẳng lo gì tới việc làm ăn, cả ngày đeo bên mình thanh kiếm do ông cha truyền lại lang thang khắp đây đó khiến từ đầu phố tới cuối hẻm không ai không chê cười. Một hôm, Đình trưởng Nam Xương Đình thấy Hàn Tín tuy phóng đãng, ngỗ ngược song tướng mạo đường hoàng, cốt cách hơn hẳn hạng phàm phu tục tử nên đã mời họ Hàn tới làm môn khách trong nhà mình. Tuy nhiên, Hàn Tín là kẻ chẳng quan tâm tới lễ tiết, chẳng quan tâm tới chuyện vụn vặt, vì thế chẳng biết làm thế nào mà đắc tội với phu nhân của đình trưởng. Đình trưởng phu nhân cứ mỗi lần nhìn thấy Hàn Tín là lập tức nổi điên lên, nhất định không chịu nhìn mặt. Vì thế, mỗi khi Hàn Tín tới ăn cơm thì cơm đã hết từ lâu. Thời gian trôi qua, Hàn Tín cũng nhận ra rằng đình trưởng phu nhân không ưa gì mình, đành phải bỏ đi. Hàn Tín sinh năm 229 trước Công nguyên trong một gia đình nghèo khó. Hàn Tín rời khỏi nhà đình trưởng Nam Xương, chợt nhớ ra một việc. Một hôm, nhà đình trưởng mời tới một lão tiên sinh. Người này râu dài bạc như cước nhưng mặt mũi thì lại hồng hào, giống như một cao nhân đắc đạo. Sau khi đình trưởng và ông lão uống trà xong, hai người cùng nhau đi ra ngoài lên núi. Hàn Tín nổi cơn tò mò, cũng lần theo sau. Mỗi khi hai người quay lại nhìn, Hàn Tín lại vội vàng nấp vào bụi cây. Đình trưởng và ông lão đi vòng qua mấy ngọn núi, nơi này thì nhìn ngó tìm kiếm, nơi khác lại xem xét, thi thoảng lại dừng lại, đo đo đạc đạc, sau một hồi lại đi. Đột nhiên, hai người dừng lại ở một nơi, chỉ thấy mặt ông lão lộ ra vẻ vui mừng. Hàn Tín rất muốn biết họ đang làm chuyện gì, vì thế, tiến sát tới gần trốn ở một bụi rậm cách rất gần 2 người. Câu chuyện giữa đình trưởng và lão tiên sinh, Hàn Tín nghe rõ từng câu một. Lúc bấy giờ, chỉ nghe ông lão nói: “Nơi đây không tồi, để tôi đo đạc kỹ hơn xem sao”. Vị đình trưởng nghe vậy, cung kính nói: “Mong lão tiên sinh giúp cho, chuyện tiền công, chỉ cần tiên sinh muốn bao nhiêu sẽ có bấy nhiêu”. Ông lão dường như không nghe thấy lời của vị đình trưởng, chuyên tâm quan sát khu vực quanh đó. Đột nhiên, ông lão nói: “Đây thực là một nơi bảo địa phong thủy hiếm gặp! Ta đã xem phong thủy rất nhiều năm, đi khắp nam bắc nhưng chưa bao giờ gặp một nơi phong thủy đẹp như nơi đây”. Viên đình trưởng vui mừng như muốn nhảy cẫng lên, vội vàng bước tới hỏi: “Có thật không? Mong tiên sinh chỉ bảo rõ hơn”. Ông lão dùng tay vuốt chòm râu bạc như cước của mình, cười nói: “Trên đầu của nơi này chính là hồ Hồng Trạch, phía dưới chân thì có rất nhiều ao hồ nhỏ, bên tay trái chính là Ác Kim Hồ, bên tay phải là Nữ Sơn Hồ. Theo phong thủy mà nói thì, nơi sông hồ uốn khúc quay vòng trở lại, đó chính là nơi tích tụ long mạch”. Đình trưởng nghe xong vui mừng lắm, nói: “Vậy thì quyết định chọn nơi đây!” Tới lúc này, Hàn Tín mới biết rằng, hóa ra hai người này đang xem phong thủy để tìm nơi chôn cất người. Đúng lúc Hàn Tín định bỏ đi thì ông lão lại nói với vị đình trưởng: “Vì ông đã tin ta nên ta cũng tiết lộ cho ông biết. Ông xem, Hồng Trạch Hồ ở phía trên đầu trông giống như một chiếc mũ của nguyên soái, hai bên Ác Kim Hồ và Nữ Sơn Hồ giống hai chiếc đai bay của mũ. Ngoài ra còn có Bạch Mã Hồ đứng ở bên cạnh hầu hạ. Đây chính là mảnh đất phong thủy có thể giúp người ta phong hầu bái tướng hơn nữa chính là một võ tướng rong ruổi chiến trường”. Đình trưởng nghe thấy vậy, càng vui hơn nói: “Nếu như điều đó là thật thì tại hạ và tiên sinh sẽ cùng nhau hưởng vinh hoa phú quý, truyền đến ngàn vạn đời sau!” Thầy phong thủy cười một cách mãn ý nói: “Ta đây đang chờ được nghe một câu nói như vậy của đình trưởng. Nếu đến ngày ta trăm tuổi mà được cùng chôn ở nơi đây để được cùng hưởng phong thủy thì ta sẽ chọn chính huyệt cho đình trưởng”. Viên Đình trưởng nói: “Không sai, đại trượng phu đã nói một lời, bốn ngựa cũng không đuổi kịp! Lão tiên sinh ngài cứ yên tâm”. Thầy phong thủy nói: “Mang cho ta một cái cọc tới đây, ta cũng muốn đánh cược một ván. Cả đời khó có thể gặp được nơi phong thủy đẹp như thế này, cần phải điểm vào chính huyệt của nó”. Chỉ thấy, ông lão đi về hướng Đông 10 bước rồi chăm chú nhìn, một lúc sau, ông lão dùng chiếc cọc tre cầm trên tay đóng xuống đất và nói: “Nói thực với ngài, nếu như không có câu nói cùng hưởng vinh hoa phú quý của ngài, thì theo thói thường, tôi sẽ không bao giờ điểm vào chính huyệt cả. Bởi lẽ, nếu như điểm vào chính huyệt sẽ làm tổn hại đến dương thọ của chúng ta. Nhưng nếu như điểm lệch đi một chút thì sức mạnh của phong thủy sẽ giảm đi nhiều. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, gặp một nơi có phong thủy đẹp thế này, ta cũng không nỡ bỏ qua, huống hồ ông đã đồng ý sẽ mang thi thể ta chôn tại đây, giúp con cháu ta có thể hưởng vinh hoa phú quý”. Hai người nói chuyện tới đây thì Hàn Tín lẳng lặng bỏ đi, coi chuyện này chẳng phải là chuyện gì ghê gớm. Tuy nhiên, sau khi bị đình trưởng phu nhân đuổi ra khỏi cửa, Hàn Tín trở thành kẻ vô gia cư, ăn bữa sáng lo bữa tối, vì thế đột nhiên, Hàn Tín cảm thấy căm ghét nhà đình trưởng. Vì sao nhà các ngươi lại được ăn sung mặc sướng, được người người tôn trọng trong khi Hàn Tín ta cũng là người lại phải cơm hẩm canh thiu, lại còn phải chịu sự khinh rẻ của người đời. Đột nhiên, Hàn Tín nhớ lại chuyện đình trưởng chọn mộ. Tên đình trưởng đã giàu có, tương lai lại còn muốn được bái tướng phong hầu, vừa giàu vừa sang, tất cả mọi điều tốt lành đều thuộc về ngươi cả. Không được, ta nhất định rút cây cọc đánh dấu để xem ngươi còn bái tướng phong hầu nữa hay không. Nghĩ vậy, Hàn Tín đi theo đường nhỏ chạy lên núi. Cây cọc tre mà thầy phong thủy đánh dấu vẫn còn đó. Hàn Tín xông đến định nhổ cây cọc lên. Tuy nhiên, đương lúc cầm vào cây cọc, Hàn Tín chợt nghĩ, dù ta có nhổ cây cọc này đi, đình trưởng vẫn có thể dẫn thầy phong thủy tới xem lại, chi bằng ta đổi cây cọc đi chỗ khác, phong thủy cũng sẽ thay đổi theo. Đáng tiếc đây là nơi có phong thủy đắc địa. Chi bằng ta mang phần mộ của nhà ta tới đây, nếu đúng như ông lão phong thủy nói thì gia đình ta rồi cũng có lúc phong hầu bái tướng. Nghĩ thế, Hàn Tín nhổ cây cọc tre rồi dùng một ký hiệu riêng đánh dấu vào chỗ cây cọc vừa bị rút. Tiếp đó, Hàn Tín đi ngang theo sườn núi mấy chục bước, nhìn thấy xung quanh khung cảnh không khác nhiều so với nơi thầy phong thủy đã chọn liền lấy cây cọc đóng xuống đó. Tuy nhiên, lúc này Hàn Tín lại gặp phải khó khăn lớn. Từ nhỏ, Hàn Tín đã không biết mặt cha mình là ai, cũng chẳng biết cha mình chôn ở đâu làm sao để mang phần mộ cha tới chôn ở nơi phong thủy bảo địa này đây. Nghĩ thế, Hàn Tín chạy về nhà hỏi mẹ, không ngờ, mẹ Hàn Tín đáp: “Con không có cha, nhà ta cũng chẳng có phần mộ đâu”. Hàn Tín nói: “Con làm sao lại không có cha được? Không có cha thì con từ đâu ra? Lẽ nào là mẹ nhặt về hay sao?” Tuy nhiên, bất kể Hàn Tín hỏi thế nào, bà mẹ cũng không chịu nói nửa lời. Hàn Tín không còn cách nào khác, đành phải đem chuyện viên đình trưởng chọn mộ và dự định của mình nói với mẹ. Lúc này, mẹ của Hàn Tín mới mở hòm lấy ra một thứ, Hàn Tín nhìn theo, hóa ra đó là một bộ da động vật. Hàn Tín kinh ngạc lùi lại sau hai bước, nhìn trừng trừng vào bộ da hỏi: “Đây là thứ gì vậy?” Mẹ Hàn Tín nước mắt lưng tròng nói: “Con chẳng hỏi ta cha con là ai hay sao? Đây là cha con…” Hàn Tín cầm bộ da thú dữ dằn ném xuống đất rồi nói: “Không! Đây làm sao là cha con được?” Bà mẹ vừa khóc vừa nói: “Con à, con hãy từ từ nghe mẹ nói đã. Nhà ta cách nơi đây rất xa, lúc đó, gia đình chúng ta vẫn có thể coi là một nhà có của ăn của để. Khi ta trưởng thành, một đêm, trong phong ta bỗng nhiên xuất hiện một chàng công tử vô cùng tuấn tú, có thể nói là trên đời khó tìm. Sau đó, cứ cách vài ba hôm chàng ta lại tới một lần nhưng lúc tới và lúc đi đều không để lại tông tích gì, cũng chẳng ai hay biết. Chúng ta qua lại với nhau suốt hơn một năm, vì thế mới có con ra đời”. Hàn Tín cướp lời mẹ nói: “Vậy thì chàng công tử tuấn tú kia là cha của con?” Mẹ Hàn Tín lại nói: “Đêm hôm đó, chàng ta lại tới, chàng nói với ta sự thật. Chàng ta nói chàng ta là một con khỉ đã tu luyện hơn nghìn năm, đã đắc đạo thành tiên. Tuy nhiên, nay chàng ta đã phạm vào luật trời, tiên giới muốn trừng phạt chàng ta, chàng ta không sống được nữa nên mới nghĩ tới chuyện lấy da của mình để tặng cho ta. Chàng ta nói xong thì biến mất, trong phòng từ đâu bỗng xuất hiện một bộ da khỉ. Chuyện chàng trai là khỉ thành tinh thì có thể giấu được chứ cái bụng của ta thì làm sao mà giấu được. Cha mẹ ta căn vặn ta xem ai là cha đứa trẻ nhưng ta không thể trả lời được. Cha mẹ mắng chửi ta là làm nhục gia đình, đuổi ta ra khỏi nhà. Ta mang cái bụng to đi khắp phố phường tìm miếng ăn, cuối cùng sinh ra con ở một bãi cỏ hoang. Người chưa tới số chết thì chắc chắn sẽ được cứu. Khi mẹ hai mẹ con ta đang sắp chết vì đói thì chúng ta được một ông lão cứu sống. Ông lão đó họ Hàn, không con không cái, chỉ có 2 ông bà già chung sống với nhau. Ta đã nhận hai ông bà ấy làm cha mẹ nuôi. Vì thế, con mới mang họ Hàn. Hai ân nhân của chúng ta lần lượt qua đời, chính vì thế, hai gian nhà này mới trở thành nơi nương tựa của mẹ con ta”. Hàn Tín nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, cầm bộ da khỉ lên, tới sân sau tìm một cái xẻng rồi lên núi. Sau khi tìm được chỗ, chẳng mất bao nhiêu công sức, Hàn Tín đã đào được một cái hố lớn, to bằng huyệt mộ. Đào xong, Hàn Tín ném bộ da khỉ xuống dưới đáy huyệt. Tuy nhiên, khi bộ da khỉ còn chưa rơi xuống tới đáy huyệt thì một cơn gió từ đâu thổi tới, đẩy ngược bộ da lên. Hàn Tín ném lại, lại bị gió thổi lên. Hàn Tín lấy làm lạ, nhìn xung quanh không hề thấy có gió. Hàn Tín lại cầm bộ da ném lại một lần nữa, lại bị gió thổi ngược lên. Dường như gió sinh ra từ dưới đấy huyệt. Hàn Tín lúc này mới nghĩ thầm: Ta không tin là không chôn được! Nghĩ xong, Hàn Tín tìm một viên đá to đặt lên trên miếng da khỉ rồi ném xuống dưới huyệt. Tuy nhiên, kết quả viên đá rơi xuống còn bộ da khỉ vẫn bị thổi ngược lên trên. Hàn Tín thấy không có cách nào khác, đành phải quay về nhà gọi mẹ. Khi gọi mẹ tới, Hàn Tín nói mẹ mình xuống huyệt để đón bộ da khỉ cho mình, đợi khi mình dùng xẻng xúc đất đổ đè lên bộ da xong thì sẽ kéo mẹ lên. Mẹ Hàn Tín nghe theo lời của con trai trèo xuống hố, hai tay nhận bộ da khỉ. Không ngờ khi Hàn Tín chỉ mới xúc được một xẻng đất thì một cơn cuồng phong không biết từ đâu thổi tới, cuốn toàn bộ đất cát mà Hàn Tín đào lên lúc trước lấp xuống huyệt mộ. Mẹ Hàn Tín cũng bị đất đá chôn luôn dưới huyệt. Hàn Tín sợ quá, chẳng biết làm thế nào, đứng ngây ra một lúc rồi mới vội vã dùng xẻng đào đất lên để cứu mẹ. Thế nhưng, đất bị đào lên tới đâu thì như có phép lạ lại bị hút trở lại tới đó. Hàn Tín biết rằng, mình không thể cứu được mẹ, khóc một trận lớn, khấu đầu lạy ba cái rồi ngầm ngùi trở về nhà. Khi Hàn Tín từ mộ mẹ mình trở về, đi ngang qua khu chợ thì có mọt người mổ lợn tuổi tác tương đương với Hàn Tín bước ra chặn lại. Anh chàng mổ lợn này cơ thể cao lớn, khỏe mạnh, tay lúc nào cũng lăm lăm con dao mổ, đi lại nghênh ngang, khiến cả thành Hoài Âm không ai không sợ. Tên mổ lợn chặn Hàn Tín lại nói: “Nhìn ngươi cao to, ngựa tốt, lại đeo bên mình một thanh kiếm giống như ai cũng phải sợ ngươi! Nếu như ngươi có gan thì rút kiếm ra tỉ thí với ta, xem kiếm của ngươi mạnh hơn dao mổ lợn của ta bao nhiêu. Nếu như ngươi sợ chết không dám thì hãy quỳ xuống bò quá háng của ta mà đi tiếp”. Lúc này, những kẻ ăn theo tên mổ lợn cũng không ngớt đứng bên ngoài hò reo thách thức Hàn Tín. Hàn Tín nhìn bộ dạng cao lớn của tên mổ lợn, cảm thấy không ổn. Lúc đó, đến cơm Hàn Tín cũng chưa ăn, lấy đâu ra sức mà đánh lại một tên mổ lợn to lớn thế này. Nếu như mình bị đánh chết, mọi người đều sợ tên đồ tể, không ai ra làm chứng thì chẳng khác gì mình chết oan. Thôi được rồi, chẳng phải ta muốn sau này được phong hầu bái tướng hay sao? Tới lúc đó ta trả mối thù bị xỉ nhục này cũng chưa muộn. Nghĩ vậy, Hàn Tín chầm chậm cúi đầu, quỳ xuống và bò qua háng của tên đồ tể mà đi. Những người đứng xem xung quanh ai nấy được một trận cười vỡ bụng. Hàn Tín ôm ấp chí lớn ngang dọc chiến trường, mang thanh kiếm gia truyền tới đầu quân dưới trướng của Hạng Lương. Sau khi Hạng Lương bại trận bị chết, Hàn Tín theo về với Hạng Vũ, làm chức chấp kích lang trung, thực tế là chức canh cửa. Hàn Tín nhiều lần hiến kế cho Hạng Vũ nhưng Hạng Vũ vốn tự phụ, không thích nghe ý kiến của người khác. Hàn Tín cảm thấy mình ở dưới trướng của Hạng Vũ sẽ không thể thi triển được tài năng vì thế quay sang đầu quân cho Lưu Bang, làm một chức quan nhỏ trông coi kho lương. Quân sư của Lưu Bang là Tiêu Hà sau nhiều lần nói chuyện với Hàn Tín, phát hiện Hàn Tín là một nhân tài, nhiều lần tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang. Tuy nhiên, Lưu Bang cũng như Hạng Vũ không mấy để ý tới Hàn Tín. Trong một lần đại quân của Lưu Bang hành quân, mười mấy vị tướng lĩnh đã tìm cách bỏ trốn. Hàn Tín cũng cảm thấy mình không được Lưu Bang trọng dụng nên cũng bỏ trốn theo. Tiêu Hà sau khi biết chuyện, vội vàng đuổi theo Hàn Tín. Đây chính là nguồn gốc của giai thoại nổi tiếng: “Dưới trăng Tiêu Hà đuổi theo Hàn Tín”. Sau khi Tiêu Hàn tìm được Hàn Tín trở về, đã hết lời tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang. Nể tình của quân sư họ Tiêu, Lưu Bang mới chấp nhận phong cho Hàn Tín làm tướng quân. Sau khi có được sự trọng dụng, Hàn Tín có cơ hội thi triển tài năng. Những chiến thắng vang dội của quân Hán trước quân Sở đều do Hàn Tín thực hiện. Do công lao ngày càng lớn, tước vị của Hàn Tín cũng ngày một cao hơn. Trước sau, Hàn Tín đảm nhiệm các chức tướng quân kiêm tả thừa tướng, đại tướng quân kiêm tướng quốc, Tề vương, Sở vương. Tuy nhiên, cuối cùng Hàn Tín bị giáng làm Hoài Âm hầu. Vì thế, sau này, người ta đều gọi Hàn Tín là Hoài Âm hầu. Do công cao át chủ, Hàn Tín trở thành mối đe dọa đối với triều đình nhà Hán. Vì thế, sau khi Lưu Bang chết, Lã Hoàng hậu vu cáo Hàn Tín mưu phản rồi ra lệnh giết chết. Năm bị giết, Hàn Tín mới chỉ 32 tuổi. Người ta đều nói, do Hàn Tín chôn sống mẹ mình để được phong thủy làm tổn thương tới dương thọ vì thế mới chết trẻ như vậy. Hải Phong phunutoday Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 2, 2014 Những câu chuyện bí ẩn về dinh thự Vương ở Sà Phìn (Dân trí) - Đã có nhiều bài viết về Dinh thự của họ Vương ở Sà Phìn, Đồng Văn, Hà Giang, song rất nhiều bài có chi tiết liên quan chưa xác thực, khiến cho dinh thự họ Vương trở thành câu chuyện đầy huyền bí. Sau hiệp ước Pháp-Mông tháng 10/1913 vùng Bắc Hà Giang mới được yên bình. Có một thuộc hạ của Vương Chính Đức tên là Cư Trồng Lù giữ chức Bách trưởng (đứng đầu chỉ huy 100 lính do Vương đặt ra, phiên chế trong lực lượng vũ trang Mông) hiểu biết về phong thuỷ gợi ý thủ lĩnh nên thay đổi nơi ở. Theo ông Lù nơi đang ở chân núi cao, cạnh hẻm núi không hợp tuổi ''vua'' Mèo, không lợi cho hậu thế lâu dài. Nghe ra, họ Vương đã đi tìm thầy giỏi thiên văn, địa lý và thuật phong thuỷ từ bên tầu về xem đất. Cuối cuộc khảo sát, thầy đã tìm được nơi đắc địa-đó là một thung lũng nhỏ, ở giữa có hình mai rùa-một trong tứ linh theo phong thủy. Ảnh: Internet. Hiện trạng lúc đó, nơi này chỉ để chăn nuôi, nhốt súc vật lấy phân, toàn khu mai rùa trồng chè nên có tên Mông là TSùa Phình-nghĩa là bãi trồng chè. Theo thầy phán, nơi đây có vượng khí của bậc đế vương. Xây dinh lũy ở đây đảm bảo trọn vẹn 2 chức năng công, thủ. Những cung núi dựng đứng xung quanh chỉ có con đường nhỏ độc đạo sẽ ngăn quân thù giáp công 4 mặt. Khi tấn công quân thù khó thoát bởi nghĩa binh Mèo thông thạo các đường ngang ngõ tắt trên các triền núi, di chuyển cơ động chặn và tiêu diệt kẻ thù dễ như trong lòng bàn tay. Dinh thự trên lưng thần Kim quy là biểu tượng của sự vĩnh cửu. Hai ngọn núi phía Bắc nhô lên như 2 mâm xôi là sự đầy đặn, no đủ. Thế núi bao quanh là sự vững chãi, sâu rễ, bền gốc mãi về sau... Nhân đây, cũng kể thêm một chút về chuyện này, có lần tôi cùng cụ Vương Quỳnh Sơn công tác ghé qua dinh thự, rồi đi xuôi xuống xã Lũng Táo 13km nữa để thăm bà thím của cụ đang sống ở đó. Khi xe chạy vòng lưng núi chuẩn bị đổ dốc xuống dinh thự, cụ bảo tài xế dừng nơi đối diện với 2 ngọn núi phía Bắc. Vừa đứng hút thuốc, cụ vừa nói: ''Hai quả núi kia ngoài chuyện như thầy Tàu phán, nó còn che chắn mặt Bắc cho dinh thự. Hồi chiến tranh biên giới nó câu không biết bao nhiêu là pháo 105 ly sang đất ta. Thế mà không có quả nào rơi vào thung lũng. Tất thảy đều vượt qua thung sang nổ ở mãi chân núi đằng kia''. Nhân tiện tôi hỏi cụ: ''Có người nói chắc như đinh đóng cột rằng Dinh xây vào năm 1914, rằng kéo dài tới 8 năm?''. Ảnh: Internet. Cụ cười hóm hỉnh với câu nói muôn thuở: ''Kệ cho chúng nó sai. Ngay cả thằng cháu tao cử nhân làm ở viện xã hội gì đó còn viết sai. Tao cũng không nói cho nó biết. Nhớ có đôi lần tao đã nói cho mày nghe về cuộc chiến Pháp-Mông 1909-1913 dẫn đến ký hiệp ước đình chiến vào tháng 10-1913. Bấy nhiêu năm lúc ở rừng sâu, lúc ra trực diện công, thủ liên miên, lo cái ăn, súng ống đạn dược lấy đâu ra tiền mà xây dựng khi cuộc chiến vừa mới ngưng. Mà xây gì mà những 8 năm? Dinh thự thực ra có to tát gì lắm đâu''. Theo cụ kể, khi thầy xem xong đất, đâu đã bắt tay xây ngay. Ban đầu chỉ làm một ngôi nhà trình tường, mái ngói chắc chắn và đủ chỗ ở cho gia quyến và người giúp việc cho các cụ. Đó chính là nhà cấp thứ 2 ở giữa (mà bọn nó gọi là trung dinh). Sau nhà cấp 1 phía trước, và trước nhà cấp 3 cao nhất là nơi cụ Đức ở. Nguyên bản của cấp nhà giữa này tường trình đúng như hiện nay. Từ khi chuyển về ở, nương chè bị phá dần đi. Thay vào đó cụ Vương cho trồng ngô và rau màu phục vụ cho sinh hoạt đời sống của gia đình và những người phục vụ. Vì địa thế Sà Phìn độc lập cách xa nơi dân cư, phòng khi có sự trắc trở, cơ nhỡ. Sau cuộc chiến Pháp-Mèo nổ ra trên toàn cõi Đông Dương từ 1918-1921, Pháp-Tưởng liên kết tấn công vùng Mèo bắt được Vương Chính Đức. Tuy nhiên chúng không dám làm hại ông, vì quân dân Mông dưới sự chỉ huy của Vương Chí Sình vẫn kiên cường chiến đấu, đốt phá đồn bốt của Pháp,vừa đòi Pháp phải thả thủ lĩnh. Trước tổn thất và nguy cơ bị đẩy khỏi vùng núi đá, Pháp buộc phải thả vua Mèo, đồng thời đưa Vương Chính Đức làm đại diện của người Mèo trong công ty Á phiện Việt Điền chia nguồn lợi lớn trong buôn bán thuốc phiện. Ảnh: Internet. Nhờ nguồn thu từ thuốc phiện không còn bị ép giá, ăn chia tỷ lệ công bằng mà họ Vương được hưởng lợi lớn đến nỗi phải xây hầm chứa thuốc phiện dự trữ. Ngoài ra, để ủng hộ vua Mèo xây dinh thự, một số thuộc hạ và dân Mèo tự nguyện cung tiến thêm nguồn lực cho họ Vương. Từ cơ sở dãy nhà 2 tầng có sẵn ở giữa, cụ Vương cho phát triển ra phía trước và phía sau tạo thành 3 cấp nhà khép kín. Xây thành bằng đá bao quanh và các phòng chức năng khác nhau trong dinh thự. Dinh thự được xây và hoàn thiện trong 4 năm, từ 1923-1926. Giai đoạn này cũng là thời kỳ Vương Chính Đức phất lên giàu có nhất. Thuốc phiện giúp xây dinh, giúp có nguồn lực nuôi lính, mua sắm vũ khí, đạn dược chuẩn bị cho mưu kế lâu dài trong cuộc chiến đấu với quân Pháp, Tưởng, Nhật sau này. Dinh thự Vương - cầu kỳ và tốn kém Việc xây dinh thự, theo cụ Vương Quỳnh Sơn là do Tống Bạch Giao người Hán-là tướng biên cương dưới trướng tư lệnh Long Vân của Tưởng Giới Thạch ở Vân Nam giúp đỡ. Là chỗ quen biết nhau, vì Bạch Giao cùng có chân trong công ty Á phiện Việt Điền với ông Vương. Tống giới thiệu với ông Vương hiệp thợ người hồi giáo vốn nổi tiếng về xây đền đài, cung vua, phủ chúa của đạo Hồi. Nhân đây cắt ngang mạch viết, cung cấp cho bạn đọc một thông tin thú vị về vị tướng Hán này, sau năm 1932 khi đã làm chủ tình hình. Tưởng đánh cho quân của Hồng binh thua liểng xiểng. Để chấn chỉnh quân ngũ, Tưởng ra lệnh cấm trồng cây thuốc phiện và tệ hút thuốc phiện. Vì thế công ty Á phiện Việt điền lại tan vỡ. Số thuốc phiện phía Trung Quốc (trong đó có cả của người Mèo vùng cao giáp biên)-mà Tống làm đại diện-bị Pháp không chuyển tiền trả. Chính Tống đã lừa Vương Chí Thành (người được cha giao cho việc giao dịch,buôn bán) và Ngô Chính Tường sang Vân Nam bắt giữ lại và đòi phải trả thay cho Pháp. Lúc này giá thuốc phiện đã tới 5 đồng bạc trắng/lạng. Họ Ngô và họ Vương phải vét thuốc phiện của gia đình và huy động trong dân cho đủ 18 thồ (tính theo đơn vị ngựa thồ=74kg) nộp cho Tống mới được thả về. Trở lại chuyện xây dinh. Theo cụ Vương Quỳnh Sơn, thời gian này các dòng họ vùng cao giàu lên nhờ thuốc phiện nên thi nhau xây nhà to, dinh đẹp. Ngoài họ Vương còn có họ Ngô(Mèo)ở Lùng Chá Tổng, họ Ngô nữa ở Cẩu Phì Lũng đều ở Sà Phìn. Họ Cổng người Pu péo ở xã Phố Là. Họ Dương ở Mèo Vạc xây dinh dưới chân núi Đen xã Sản Pả... Dinh thự họ Vương ở Sà Phìn chưa phải là to đẹp nhất. Nổi tiếng nhất trong chuỗi dinh thự phải kể đến lâu đài của thủ lĩnh Dương Tụ Nghĩa ở Sủng Chà, Mèo Vạc do hiệp thợ từ châu Vân Sơn, Vân Nam xây. Quanh lâu đài có hồ nước treo trồng sen, thả cá (vậy mà tới 70-80 năm sau các nhà khoa học Việt Nam mới làm nổi hồ nước treo phục vụ cho đồng bào Mông ở 4 huyện núi đá Hà Giang). Lâu đài họ Dương sau Cách mạng đã bị đập phá san phẳng. Nhưng nền lâu đài vẫn còn và một số hậu duệ của Dương Tụ Nghĩa vẫn sống quanh khu vực đó. Dinh thự họ Vương được xây dựng theo tiêu chí và yêu cầu của Vương Chính Đức. Trước hết phải đảm bảo được chức năng phòng thủ. Vì vậy tường thành bao quanh được xây bằng các phiến đá to, gắn xi măng chặt, khít, cao, chống được đạn bắn vào. Tường dày từ 60-80 cm, cao từ 2,5-3m. Hai chòi gác bằng đá xanh ngự trên hai góc tường thành sau của hậu dinh có lỗ châu mai, tầm quan sát rộng dễ phát hiện kẻ đột nhập từ 2 bên và phía sau. Khu dinh thự trình tường dày truyền thống của người Mèo cũng là một biện pháp phòng thủ, đạn súng trường bắn không xuyên qua được. Toàn bộ khu dinh thự gồm 3 cấp nhà khép kín dài 46m, rộng 22m, ngoài cổng dinh có lính túc trực 24/24 giờ canh gác nghiêm ngặt. Tiêu chí thứ 2 là phải tiện ích. Các cấp nhà, các phòng phải phù hợp với đối tượng sử dụng, sinh hoạt. Có kho lương thực dự trữ, hầm chứa thuốc phiện, hầm chứa súng ống, đạn dược, bể lớn có dung lượng 300 mét khối hứng nước mưa đủ dùng quanh năm... Các phòng trong cấp nhà đầu tiên dành để tiếp các dòng họ, quân dân các địa phương đến tụ họp, ăn uống, nghỉ ngơi. Cấp nhà thứ 2 cao dần lên là nơi ở của các bà vợ, con cái, người hầu hạ gia đình vua Mèo. Tầng trên tiếp quan tây, quan ta (sau này là nơi làm việc của UBND xã Sà Phìn). Cấp nhà thứ 3 đã dần cao lên đến 10m so với mặt bằng trước cổng dinh, là nơi ở và để Vương Chính Đức ngồi xử tội phạm, bàn chuyện cơ mật trong bộ tham mưu. Tiêu chí thứ 3 là tính mỹ thuật. Sự pha trộn đó được thể hiện trong vật liệu (đất, đá, gỗ, sắt thép, ngói lợp); trong trạm khắc đá, gỗ trên viên tảng kê cột nhà, phù điêu đá gắn tường, các đầu đao, cánh cửa, chấn song, lan can, tủ, bàn, vách gỗ ngăn các phòng... đều được chạm trổ tinh xảo, cầu kỳ hình long ly quy phượng, hoa lá thể hiện sự phồn thịnh, quyền quý của bậc đế vương. Tiêu chí thứ 4 là bền vững, lâu dài. Đá xanh vĩnh cửu, gỗ Samu (tức thông núi đá) có độ cứng, nhiều nhựa không bị nứt nẻ, mối mọt. Ngói máng âm dương nung cứng như sành lên nước ghi xanh có thể chống được mưa đá to bằng ngón chân cái (thường xảy ra ở vùng cao núi đá) đều được mua, vận chuyển từ Vân Nam sang. Thực tế việc mua và chuyển, chế tác vật liệu là khâu tốn kém nhất. Hơn 300 thợ hồi giáo và hàng trăm thợ Mông khéo tay được tuyển dụng đã ròng rã nhiều năm mới hoàn thành được công việc này. Cuối cùng là hơn 100 cây Samu đang trưởng thành được bứng từ Trung Quốc chuyển về trồng ngoài tường thành, tạo nên một cảnh quan xanh mát, đẹp mắt - nay đã có tuổi trăm năm, thân cỡ hơn một người ôm, cao vút chọc lên trời xanh... Những gì đang hiện hữu của dinh thự, nhiều ngưòi đã biết, đã được mô tả chi tiết trong hàng trăm bài viết tôi không có ý muốn nhắc lại. Tôi chỉ đề cập đến những điều bạn đọc chưa biết, và chỉnh lại một vài điều chưa đúng. Theo cụ Vương Quỳnh Sơn, toàn bộ dinh thự xây tốn hết non 15.000 đồng bạc trắng (nhiều bài viết lại nói 15.000 đồng bạc Đông Dương-tiền Đông Dương). Riêng bể chứa nước mưa tốn 800 đồng, tường đá vây quanh dinh thự tốn gần 1.000 đồng, 2 lô cốt phía sau mất 700 đồng... Điều xin nói thêm ở đây là, có tài liệu, có người kể rằng việc xây dinh thự bố con vua Mèo bắt phu mèo phục dịch, bóc lột sức lao động và đối xử tàn tệ là không đúng. Để cho khách quan, người viết không dẫn lời cụ Sơn, mà lời kể của ông Vừ Mí Kẻ-là người làm công cho gia đình họ Vương từ năm 15 tuổi. Sau này ông Kẻ giữ chức Chủ tịch Đồng Văn, khi ông nghỉ hưu là Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang. Ông Kẻ đã chứng kiến cách cư xử nhân tình của họ Vương với mọi người, cơm nước tử tế, công sá sòng phẳng, tính cách ôn hoà gần gũi với người làm công, người phục vụ cho gia đình ông được mọi người nể phục, kính trọng... Theo Dân trí Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 2, 2014 Ly kỳ chuyện Gia Cát Lượng xem phong thủy định kinh đô Xin chớ xem thường câu nói của Gia Cát Lượng là quá ư đơn giản, bởi lẽ chỉ một câu nói ấy đã giúp thành phố Nam Kinh trở thành một trong 3 kinh đô phồn hoa và lâu đời bậc nhất trong thời phong kiến của Trung Quốc… (Phunutoday) - Tháng 4/1949, sau khi Quân giải phóng của Đảng Cộng sản Trung Quốc tấn công, chiếm lĩnh Nam Kinh, trung tâm đầu não của Quốc dân đảng, Mao Trạch Đông đã làm bài thơ ăn mừng, trong đó có câu: “Hổ cứ long bàn kim thắng tích” (Nghĩa là: Cái thế rồng cuộn hổ chầu nay đã khác xưa). “Rồng cuộn hổ chầu” thực ra là để chỉ địa thế phong thủy của thành Nam Kinh. Tuy nhiên, nó không phải do Mao Trạch Đông nghĩ ra mà là câu nói của của vị mưu sỹ lừng danh thời Tam Quốc: Gia Cát Lượng. Theo ghi chép của sử sách, nguyên văn câu nói của Gia Cát Lượng là: “Chung Sơn long bàn, Thạch Thành hổ cứ” (Nghĩa là: Núi Chung Sơn có địa thế rồng cuộn, Thạch Thành có địa thế hổ chầu). Xin chớ xem thường câu nói của Gia Cát Lượng là quá ư đơn giản, bởi lẽ chỉ một câu nói ấy đã giúp thành phố Nam Kinh trở thành một trong 3 kinh đô phồn hoa và lâu đời bậc nhất trong thời phong kiến của Trung Quốc… Xem tướng đất, định đế đô Gia Cát Lượng là quân sư số 1 của Hoàng đế nhà Thục Hán- Lưu Bị thời Tam Quốc, một nhân vật truyền kỳ thời cổ đại. Đến thời Minh, cuốn tiểu thuyết “Tam Quốc diễn nghĩa” càng khiến cho Gia Cát Lượng trở nên nổi tiếng, tới mức nhắc tới cái tên Gia Cát Khổng Minh không ai là người không biết. Theo “Truyện Gia Cát Lượng” của bộ sử “Tam Quốc chí” thì Gia Cát Lượng tên tự là Khổng Minh, người Lương Nha Dương, nay thuộc Sơn Đông. Từ khi còn nhỏ, Gia Cát Lượng đã mồ côi cha vì vậy, vị thừa tướng nước Thục tương lai lớn lên nhờ sự nuôi dưỡng của người chú là Gia Cát Huyền. Cuối thời nhà Hán, quần hùng nổi lên như ong, tranh giành chém giết lẫn nhau, Gia Cát Huyền khi đó cũng là một nhân vật vào loại “có máu mặt”. Khi Viên Thuật xưng đế, Gia Cát Huyền được y phong làm chức Thái thú Dự Chương, nay là Nam Xương, Giang Tây. Gia Cát Huyền mang theo Lượng cùng em trai của Lượng là Gia Cát Quân tới Dự Chương nhậm chức. Tuy nhiên, còn chưa tới nơi thì sự tình đã thay đổi, triều đình nhà Hán đã chọn một người khác gọi là Chu Hạo thay thế cho Gia Cát Huyền. Không còn cách nào khác, Gia Cát Huyền đành phải mang hai đứa cháu quay trở lại đến nhờ vả Kinh Châu mục Lưu Biểu, một tông thất nhà Hán, đồng thời cũng là người quen cũ của mình. Bản đồ Nam Kinh Sau khi Gia Cát Huyền qua đời, Lượng quay trở về quê, trồng rau nuôi tằm, sống một cuộc sống của người nông dân. Những lúc nông nhàn rảnh rỗi, Gia Cát Lượng thường ngâm vịnh bài “Lương phụ ngâm”, tự ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị, những mưu thần nổi danh thời Chiến Quốc rồi than tiếc vì có tài mà không gặp thời. Những người dân trong vùng không tin một kẻ trồng rau cuốc đất như Gia Cát Lượng lại có tài kinh bang tế thế, cho rằng Lượng là một kẻ ba hoa. Chỉ có Thôi Châu Bình, Từ Thứ và một số bạn bè thân cận biết rằng, Lượng là một “ngọa long”, tài trí không hề tầm thường. “Quý nhân” trong cuộc đời của Gia Cát Lượng không ai khác chính là Từ Thứ, người từng được Lưu Bị vô cùng coi trọng. Nhờ sự tiến cử của Từ Thứ trước khi lên đường sang Ngụy, Gia Cát Lượng mới được Lưu Bị ngưỡng mộ và quyết tâm mời bằng được. Sau “ba lần tới lều tranh” của Lưu Bị, Gia Cát Lượng mới quyết định “xuống núi” tham gia vào “đời sống chính trị” đầy phức tạp lúc bấy giờ. Sử chép, năm đó, Gia Cát Lượng mới 27 tuổi. Gia Cát Lượng không chỉ nổi tiếng như một nhà quân sự, một nhà chính trị mà còn biết đến như một chuyên gia về phong thủy thời cổ đại. Lúc bấy giờ, phong thủy học vẫn chưa được xác lập một cách chính thức, tuy nhiên, việc tìm hiểu và vận dụng phong thủy thì đã tồn tại. Thời Gia Cát Lượng, việc xem phong thủy được gọi là “tướng địa” (xem hình thế đất). Từ “phong thủy” chỉ bắt đầu xuất hiện từ thời Đông Tấn khi một thầy phong thủy là Quách Phác đặt ra để gọi tên thuật “tướng địa”. Những nơi được Gia Cát Lượng xem địa thế và coi là nơi “bảo địa” về phong thủy ắt hẳn là rất nhiều nhưng nơi nổi tiếng nhất và có lẽ là thành công nhất chính là vùng đất khi đó có tên gọi Mạt Lăng, tức cố đô Nam Kinh, kinh đô của 10 triều đại sau này. 60 năm trước đây, Nam Kinh vẫn là thủ đô của Trung Quốc, là trung tâm về chính trị và kinh tế của chính quyền Quốc dân đảng. Vì sao Gia Cát Lượng lại nghĩ tới chuyện xem phong thủy cho Nam Kinh? Điều này chính sử không có ghi chép hầu hết chỉ xuất hiện trong các truyền thuyết dân gian. Tuy nhiên, cũng vì vậy mà việc Gia Cát Lượng xem phong thủy cho đất Nam Kinh trở thành một câu chuyện đậm chất truyền kỳ. Truyền thuyết kể rằng, vào thời Hán Hiến đế trị vì, thiên hạ đại loạn. Sau nhiều năm tranh giành, cuối cùng cũng hình thành 3 thế lực lớn mạnh nhất lúc bấy giờ gồm Tào Tháo ở phía Bắc, Tôn Quyền ở phía Nam và Lưu Bị ở phía Tây. Trong số đó, thế lực của Tào Tháo được coi là có lợi thế hơn cả vì có trong tay Hán Hiến đế và theo danh nghĩa, Tào Tháo vẫn là thừa tướng triều Hán. Đây là lý do khiến người đời gọi Tào Tháo là kẻ “ép thiên tử, hiệu lệnh cho các chư hầu”. Trước khi Tào đem quân xuống phía Nam, do thế lực còn yếu, quân Thục của Lưu Bị quyết định sẽ liên minh với Ngô chống lại Tào Tháo. Với tư cách là quân sư của quân Thục, Gia Cát Lượng được Lưu Bị phái sang Đông Ngô để thuyết phục Tôn Quyền liên minh với quân Thục. Gia Cát Lượng theo đường thủy tới Nam Kinh, sau khi lên bờ thì đi đường bộ qua núi Thanh Lương nằm ở phía Tây thành Nam Kinh cảm thấy ngỡ ngàng với cảnh tượng trước mắt. Dừng ngựa quan sát, Gia Cát Lượng phát hiện ra rằng khí thế của thành Nam Kinh hoàn toàn không tầm thường, hiện rõ khí thế đế vương. Tức cảnh sinh tình, ngồi trên lưng ngựa, Gia Cát Lượng cảm khái nói rằng: “Chung sơn long bàn, Thạch Thành hổ cứ, chân đế vương chi trạch” (Nghĩa là: Núi Chung Sơn có địa thế rồng cuộn, Thạch Thành có địa thế hổ chầu, thực là nơi ở của bậc đế vương). Câu nói này của Gia Cát Lượng dù không thấy được ghi chép trong cuốn sử “Tam Quốc chí” của tác giả Trần Thọ, song lại được rất nhiều sử sách khác ghi chép. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là, câu nói của Gia Cát Lượng đã tạo nên một ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của thành Nam Kinh sau này. Gia Cát Lượng trên phim Nói cách khác, Nam Kinh sở dĩ trở thành đất đế đô của 10 triều đại phong kiến thời cổ đại rồi trở thành thủ đô đầu tiên của Trung Quốc thời hiện đại tất cả là nhờ công của Gia Cát Lượng. Bởi lẽ nếu như không có câu nói này của Gia Cát Lượng thì kinh đô của Đông Ngô, vương triều đầu tiên định đô ở Nam Kinh có lẽ sẽ được đặt ở Vũ Xương và cảnh tượng “đế đô” phồn hoa đô hội của Nam Kinh có lẽ sẽ phải chậm trễ tới vài thế kỷ. Tại sao Gia Cát Lượng lại rút ra kết luận Nam Kinh “nơi ở của bậc đế vương”? Theo các chuyên gia về phong thủy thì phần phong thủy mà Gia Cát Lượng nhìn thấy ở Nam Kinh nằm ở 4 chữ đầu tiên: “Chung Sơn long bàn, Thành Thành hổ cứ”. Nếu chiếu theo địa thế của Nam Kinh thời bấy giờ thì phía Đông của Nam Kinh là dãy Chung Sơn uốn lượn, hình dáng giống như một con rồng đang bay lượn còn ở phía Tây là thành Thạch Đầu (tức là núi Thanh Lương, nơi Gia Cát Lượng đi qua) được xây dựng ngay cạnh sông, hình dáng giống như một con mãnh hổ. Từ việc xem địa thế này mà Gia Cát Lượng rút ra kết luận: “Đây thực sự mảnh đất tốt để các bậc đế vương xây dựng sự nghiệp của mình”. Sau này, Tôn Quyền tin theo lời của Gia Cát Lượng, lại thêm sự kích động của Lưu Bị, Tôn Quyền đã quyết định dời kinh đô của Đông Ngô từ Vũ Xương tới Mạt Lăng, đổi tên nơi này thành Kiến Nghiệp, với ý là chọn nơi này làm nơi xây dựng bá nghiệp của mình. Mạt Lăng hay Kiến Nghiệp sau này chính là thành Nam Kinh ngày nay. Vì sao Lưu Bị cũng nói về chuyện phong thủy của Nam Kinh? Có phải là Lưu Bị nói theo Gia Cát Lượng? Tìm kiếm trong sử sách, người ta lại phát hiện ra rằng, hóa ra Lưu Bị cũng từng xem phong thủy cho Nam Kinh. Theo sách “Kiến Khang thực lục” thì vào những năm Kiến An, có lần Lưu Bị đi thuyền tới Kinh Khẩu, nay là Trấn Giang trên đường đi qua Nam Kinh đã lên bờ, đồng thời nghỉ đêm tại đây. Lưu Bị cảm thấy Nam Kinh là nơi đất tốt, là nơi có thể xây dựng sự nghiệp vì vậy sau này mới khuyên Tôn Quyền dời đô tới nơi đây. Theo các chuyên gia phong thủy, địa thế phong thủy của Nam Kinh tốt hơn hẳn so với các cố đô của Trung Quốc như Tây An, Lạc Dương. Duy nhất chỉ có Bắc Kinh có thể đem ra so sánh với Nam Kinh về phong thủy. Sách “Nhật hạ cự văn khảo” được biên soạn theo chỉ dụ của Càn Long dẫn lời sách “Dương Văn Mẫn tập” thời Minh viết: “Hình thế núi sông trong thiên hạ hùng tráng đẹp đẽ có thể trở thành đất kinh đô thì không nơi nào có thể bằng được Kim Lăng”. Đây có lẽ cũng là lý do mà Chu Nguyên Chương sau khi khởi nghĩa đánh bại nhà Nguyên đã quyết định chọn Nam Kinh làm kinh đô. Sử sách chép, năm Hồng Vũ thứ 2, tức năm 1369, Chu Nguyên Chương và quần thần họp bàn về việc lựa chọn nơi đặt kinh đô. Mặc dù từ đầu, Chu Nguyên Chương đã có ý dời đô, lựa chọn Bắc Kinh hoặc Quan Trung. Tuy nhiên, sau khi thảo luận, cuối cùng, Chu Nguyên Chương vẫn cho rằng phong thủy của Nam Kinh là tốt nhất. Theo sách “Minh Thái Tổ thực lục”, Chu Nguyên Chương đã nói: “Nay đất Kiến Nghiệp có sông Trường Giang hiểm trở, địa thế rồng cuộn hổ chầu, là nơi đất tốt của Giang Nam, đủ để là nơi lập nước…”. Hay “quỷ kế” phong thủy của Gia Cát Khổng Minh? Mặc dù là “nơi ở của bậc đế vương”, tuy nhiên, phong thủy của Nam Kinh cũng không thể đảm bảo rằng, vận mệnh của một vương triều có thể kéo dài mãi mãi. Ngược lại, có rất nhiều vương triều chọn Nam Kinh làm kinh đô đều rơi vào kết cục “đoản mệnh”. Sau khi Tôn Quyền chọn Nam Kinh làm kinh đô của Đông Ngô chỉ tồn tại được 59 năm, từ năm 229 tới năm 280 thì bị nhà Tây Tấn tiêu diệt. Điều kỳ lạ chính là, sau Đông Ngô, các triều đại tiếp theo lựa chọn Nam Kinh làm kinh đô cũng đều rơi vào cảnh “đoản mệnh” như vậy. Ngoại trừ nhà Minh nhờ vào việc dời đô tới Bắc Kinh nên tồn tại được 277 năm, còn lại 8 vương triều khác, nhiều nhất như Đông Tấn chỉ tồn tại 104 năm, có vương triều như Thái Bình Thiên Quốc chỉ tồn tại vỏn vẹn 12 năm. 10 vương triều chọn Nam Kinh làm kinh đô thì có tới 9 vương triều “đoản mệnh”, một vương triều phải dời đô mới có thể kéo dài thời gian thống trị của mình. Điều này khiến người ta cảm thấy nghi ngờ về địa thế phong thủy được gọi là “nơi ở của bậc đế vương” của Nam Kinh. Chính vì thế, sau này tới thời Trung Hoa dân quốc khi quyết định chọn Nam Kinh làm thủ đô cũng đã gây ra nhiều tranh cãi trong bộ phận lãnh đạo chính quyền lúc bấy giờ. Vì vậy, ngày 14/12/1912, Tham nghị viện lâm thời của Trung Hoa dân quốc đã tổ chức một buổi họp để quyết định việc chọn lựa thủ đô. Sau rất nhiều tranh cãi mà vẫn không ai chịu ai, cuối cùng, người ta quyết định dùng hình thức bỏ phiếu để quyết định lựa chọn nơi nào làm thủ đô. Kết quả bỏ phiếu khiến Tôn Trung Sơn, người đã nhắm đất Nam Kinh từ trước vô cùng bất ngờ: Có tới 20 phiếu bỏ cho Bắc Kinh, trong khi đó Nam Kinh chỉ được 5 trên tổng cộng 28 phiếu bầu. Tường thành Nam Kinh Vì đã có ý định chọn Nam Kinh làm thủ đô nên kết quả này khiến Tôn Trung Sơn tức giận. Với tư cách là Tổng thống lâm thời của chính phủ Trung Hoa dân quốc, Tôn Trung Sơn quyết định ngày hôm sau sẽ tiến hành bỏ phiếu lại, nhất định muốn lựa chọn Nam Kinh. Hoàng Hưng phối hợp với Tôn Trung Sơn uy hiếp các thành viên của Tham nghị viện nói: “Nếu như ngày mai không thực hiện theo ý của tiên sinh (Tôn Trung Sơn), tôi lập tức phái quân bắt các nghị viên nhốt lại”. Dưới sự uy hiếp, 27 người tham gia cuộc họp ngày hôm sau đã thay đổi hoàn toàn thái độ. Kết quả bỏ phiếu ngày hôm sau khác hẳn, Nam Kinh được 19/27 phiếu, trong khi đó, Bắc Kinh chỉ còn lại 6 phiếu. Từ kết quả này, việc Nam Kinh được lựa chọn làm thủ đô của Trung Hoa dân quốc chính thức được thông qua. Vì sao việc “định đô” của Trung Hoa dân quốc lại gặp nhiều trở ngại như vậy. Có người cho rằng, việc cho rằng Nam Kinh là đất “đế đô”, trước nay chỉ dựa vào một câu nói của Gia Cát Lượng mà không có ai kiểm chứng. Vì vậy, người đời sau kể từ Tôn Quyền cho tới chính phủ Trung Hoa dân quốc đều trúng “quỷ kế” phong thủy của Gia Cát Lượng. Nhiều người cho rằng, Nam Kinh quả thực là đất có “vương khí”. Từ thời Tần Thủy Hoàng, “vương khí” này đã xuất hiện. Tuy nhiên, do địa thế phong thủy của Nam Kinh thiếu “Huyền Vũ ở phía sau”, lại thêm nằm quá gần dòng Trường Giang, hình thành thế “phía trước có gương”- đại kỵ trong phong thủy. Nước sông chảy quá nhanh khiến phong thủy liên tục xoay vòng, vương khí lộ ra quá nhanh khiến cho việc thay đổi các vương triều cũng diễn ra nhanh. Đây chính là lý do khiến các vương triều chọn Nam Kinh làm kinh đô đều gặp phải kết cục “đoản mệnh” chứ không thể xây dựng được một sự nghiệp lâu dài. Đây là khuyết điểm lớn nhất trong địa thế phong thủy của Nam Kinh, đồng thời cũng là một khuyết điểm “chết người”. Gia Cát Lượng vì muốn chuẩn bị cho sự thống nhất thiên hạ, khôi phục nhà Hán của Lưu Bị nên đã soạn ra âm mưu phong thủy thâm độc này để hãm hại Tôn Quyền. Đầu tiên hãy cứ lừa cho Tôn Quyền dời đô về Nam Kinh, vì dù nơi đây quả thực có vương khí song lại không bền lại từng bị Tần Thủy Hoàng “trấn khí” nên một khi Đông Ngô dời đô về Nam Kinh thì quân Thục sẽ chỉ còn một đối thủ duy nhất phải đối đầu chính là Tào Tháo mà thôi. Cách lý giải nói trên nghe có vẻ rất hợp lý. Tuy nhiên, thực tế, nó chỉ là cách gán ghép của những người giàu trí tưởng tượng mà thôi. Các dãy núi tượng trưng cho rồng, nên thường gọi là “long mạch”, nơi long mạch cao lên người ta gọi là “long não”, nơi dãy núi bắt đầu gọi là “khởi long”, nơi mạch núi kết thúc gọi là “chú long” hoặc “long vĩ”,… Một nơi được gọi là “bảo địa” trong phong thủy thì phía sau lưng phải có long mạch đang tới, tức là phía sau lưng của nó phải có một dãy núi lớn hướng về, gần thì gọi là “tông sơn”, xa thì gọi là “tổ sơn” hay còn gọi là “tổ long”. Theo cách lý giải này thì việc cho rằng địa thế của Nam Kinh là “phía trước có gương”, phía sau không có núi là hoàn toàn không đúng. Bởi lẽ ở bờ phía Nam của Trường Giang có rất nhiều núi, vì vậy không thể nói là không có núi được. Chỉ có điều, các dãy núi này phần lớn đều là núi nhỏ. Nếu như nói địa thế phong thủy của Nam Kinh có khuyết điểm thì hình thế của các ngọn núi này mới chính là khuyết điểm. Ngoài ra, ngay cả khi Nam Kinh không có “tổ long” thì vẫn có “thủy long” lớn bậc nhất Trung Quốc chính là dòng Trường Giang. Con “thủy long” này xuất phát từ phía Tây, chảy cuồn cuộn về phía Đông khí thế vô cùng hùng vĩ, có thể 10 ngọn núi lớn cũng không thể bằng, người cổ đại gọi nó là “lạch trời”. Vì vậy, không thể nói Trường Giang chính là khuyết điểm trong địa thế phong thủy của Nam Kinh được, ngược lại nó chính là lợi thế khiến Nam Kinh trở thành mảnh đất đế đô khác hẳn với những kinh đô khác ở Trung Quốc thời cổ đại. Cũng có nhiều người lại cho rằng, việc các vương triều chọn Nam Kinh làm kinh đô đều “đoản mệnh” là vì ở Nam Kinh, khí âm quá mạnh, mà dương khí thì quá yếu. Thực tế, đây cũng là cách lý giải không đáng tin cậy. Từ góc độ phong thủy thì mộ phần và nước tượng trưng cho khí âm còn nhà ở và núi thì thuộc về dương. Các phía Bắc, Đông, Nam của Nam Kinh đều bị các mộ phần bao quanh, mới nhìn, tuy có vẻ như là âm khí quá mạnh. Tuy nhiên, “long đầu” là ngọn Chung Sơn, tòa vương phủ cũng như các tòa nhà tráng lệ trong thành Nam Kinh cũng khiến khí dương mạnh không hề kém. Vì vậy, không thể nói là địa thế phong thủy của Nam Kinh bị mất cân bằng giữa phần khí âm và khí dương được. Hơn nữa, ngay cả Bắc Kinh, Tây An nơi nào cũng bị các phần mộ bao vây xung quanh. Do vậy, không thể lấy điểm này để lý giải cho khuyết điểm phong thủy của Nam Kinh. Người ta thường nói, nhà ở thì gần nước, phần mộ thì gần núi, Nam Kinh gần sát sông Trường Giang, chính là nơi thích hợp nhất để con người sinh sống. Tổng kết lại, hầu hết các thành phố lớn trên thế giới đều nằm cạnh sông. Vì vậy, việc Gia Cát Lượng cho rằng Nam Kinh là “nơi ở của bậc đế vương” là chính xác. Còn như việc sự tồn vong của một vương triều là do kết quả tất yếu của sự vận động của các điều kiện lịch sử chứ không liên quan gì tới địa thế phong thủy. Điều này có thể lấy ra rất nhiều ví dụ để minh chứng. Theo sách “Tư trị thông giám”, Lương Nguyên Đế Tiêu Trạch xưng đế ở Giang Lăng, nay là Hồ Bắc, sau khi bình định Vũ Lăng Vương Tiêu Kỷ quyết định dời đô về Kiến Nghiệp, tức Nam Kinh vào năm 553. Tuy nhiên, các đại thần phản đối, nói rằng, Nam Kinh “vương khí” đã tận, không thể chọn làm nơi định đô được. Tiêu Trạch đã nghe theo ý kiến này. Tuy nhiên, ngai vàng của Tiêu Trạch cuối cùng cũng không ngồi được lâu. Chỉ chưa đầy một năm sau đó, Tây Ngụy phát binh tấn công nhà Lương, tháng 11 năm đó chiếm thành Giang Lăng. Tiêu Trạch buộc phải đầu hàng, ít lâu sau đó thì tự sát. Một ví dụ khác chính là “vương triều” gần chúng ta nhất đã chọn Nam Kinh làm kinh đô: Chính quyền Trung Hoa dân quốc của Quốc dân đảng. Gia Cát Lượng trên phim Tưởng Giới Thạch cho rằng phong thủy của Nam Kinh rất tốt, có “lạch trời” là Trường Giang nên quyết định “dời đô” về Nam Kinh những mong sử dụng uy thế của “lạch trời” để ngăn cản bước tiến của quân Cộng sản Trung Quốc. Lúc bấy giờ, bất luận là từ phương diện nào, quân của Quốc dân đảng cũng mạnh hơn quân của đảng Cộng sản. Thế nhưng, sau đó, quân Cộng sản Trung Quốc vẫn dễ dàng vượt Trường Giang tấn công rồi hạ thành Nam Kinh. Số phận của chính phủ Quốc dân đảng “đoản mệnh” như vậy là do địa thế phong thủy của Nam Kinh không tốt? Có thể khẳng định chắc chắn là không. Nguyên nhân chính trong sự thất bại của quân Quốc dân đảng ở Trung Quốc đại lục chính là sỹ khí và lòng người. Trên thực tế, những gì đã diễn ra trong lịch sử cho thấy, quyết định vận mệnh của một vương triều chính là bản thân vương triều ấy. Giống như câu nói của Lương Tiêu Đế Tiêu Trạch đã sớm nhận ra trước khi thất bại và buộc phải tự sát rằng: “Lành dữ là do mình, vận số là do trời, trốn tránh cũng đâu có ích gì?”. Hải Phong Share this post Link to post Share on other sites
Posted 19 Tháng 2, 2014 Kỳ bí chuyện về cầu trấn yểm thủy quái ở Hội An Hình ảnh nước lũ vượt Chùa Cầu sau trận lũ hồi giữa tháng 11 đã khiến nhiều người nhớ lại câu chuyện trấn yểm thủy quái kỳ bí hàng trăm năm nay ở Hội An, và nghịch lý thay “chiếc bùa” ấy lại thường xuyên bị thiên tai… quấy nhiễu. Trên chùa dưới cầu Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, một nhà sư Trung Hoa, viết nhân dịp ông đến Thuận Hóa năm 1695 có nhắc tới cây cầu nổi tiếng này với tên gọi “Nhật Bản kiều”. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu tuần du phương nam khi xa giá đến Hội An thấy phía tây phố có cầu, thuyền buôn tụ họp bèn ban cho tên mới “Lai Viễn kiều”, sau đó khắc biển vàng, đến nay bức hoành phi vẫn còn. Người dân địa phương thì quen gọi “Chùa Cầu”, vì bên trên cầu có dựng ngôi chùa thờ đức Huyền Thiên đại đế (hay Bắc Đế trấn võ). Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Chí Trung - Giám đốc Trung tâm Quản lý bảo tồn di sản văn hóa Hội An, thực ra đó là ngôi miếu thờ thần Bắc Đế, không phải chùa. Hiện chưa biết chính xác niên đại mà chỉ phỏng đoán cầu xây dựng khoảng cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, tương truyền do khách buôn Nhật Bản dựng nên, dưới xây đá, trên lát ván, gác mái. Có giả thuyết còn cho rằng chùa (phần trên) xây sau cầu (phần dưới) ngót 100 năm… Chùa Cầu ở Hội An. Ảnh: H.X.H Dị bản trấn yểm Theo khảo tả của tác giả Nguyễn Quốc Hùng trong cuốn Phố cổ Hội An và việc giao lưu văn hóa ở Việt Nam (NXB Đà Nẵng 2004), Chùa Cầu làm theo kiểu thượng chùa - hạ cầu, rộng 3m, dài 18m. Mái lợp ngói âm dương, trụ xây bằng đá, mặt cầu lát ván, hai đầu cầu nối với 7 gian giữa theo hình chữ I. Phía tây cầu đặt 2 tượng khỉ đá, phía đông đặt 2 tượng chó đá, theo một phỏng đoán đó là ngụ ý về thời gian xây dựng công trình kéo dài 3 năm (từ năm Thân - con khỉ đến năm Tuất - con chó). Cầu bắc qua lạch nhỏ nối liền 2 phố Trần Phú và Nguyễn Thị Minh Khai. Xưa, lạch này có tên Ồ Ồ (tức nước chảy ào ào, theo phát âm của phương ngữ). Cầu đã qua ít nhất 4 lần trùng tu, trong đó 3 lần diễn ra vào các triều vua nhà Nguyễn: Gia Long (năm 1817), Tự Đức (năm 1865), Khải Định (năm 1917); gần đây nhất là năm 1986. Nhưng cũng có tài liệu ghi lần trùng tu sớm nhất vào năm 1763. Nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng có đề cập ngắn gọn chi tiết trấn yểm của Chùa Cầu (cuốn Quảng Nam trong hành trình mở cõi và giữ nước): Tục truyền xưa kia người Nhật qua đây buôn bán cho rằng chỗ này là cái sống lưng con cù, một quái vật giống như con rồng, đầu ở Ấn Độ và đuôi ở tận đất Phù Tang (Nhật Bản). Mỗi lần nó quẫy đuôi, nước Nhật bị động đất dữ dội. Vì thế, người Nhật cùng với người Việt, người Minh Hương ở Hội An dựng lên cầu này, coi như yểm thanh kiếm xuống huyệt lưng con cù, mong trừ tai họa cho nhân dân Nhật Bản và dân chúng bản địa.[/color] Chưa rõ thực hư và sự linh nghiệm của “bùa trấn yểm” đến đâu, nhưng bản thân “bùa trấn yểm” Chùa Cầu từng bị lũ lụt… đe dọa. Ông Nguyễn Chí Trung kể, trận lụt lịch sử năm 1964 đã cuốn phăng bức tượng gỗ Huyền Thiên đại đế thờ trong chùa, cùng với 1 tượng khỉ đá. Bức tượng gỗ lưu lạc trong dân, mãi đến những năm 1982 - 1984 mới tìm thấy và đang được Trung tâm Quản lý bảo tồn di sản văn hóa Hội An bảo quản. Riêng tượng khỉ đá thì mất dạng, phải đúc mới… Mùa mưa, nước vẫn chạy rất mạnh qua lạch Ồ Ồ, “túi lũ” Hội An ở hạ lưu Thu Bồn lại bị nhấn chìm trong lũ, và xứ Phù Tang mấy trăm năm qua vẫn hứng chịu động đất… Còn tác giả Nguyễn Quốc Hùng (sách đã dẫn) kể đến 3 dị bản. Thần tích cũng như huyền thoại trong dân Minh Hương cho rằng quãng sông gần Chùa Cầu vốn được coi như hang ổ loài thủy quái tên Cù. Thủy quái ẩn dưới nước, mỗi lần quẫy mình làm nước sông dâng ngập cả khu phố. Để yểm trừ, người dân lập đền tô tượng rồi cầu đảo rước Huyền Thiên đại đế ngăn chặn tai họa. Dị bản thứ hai kể, xưa phía bắc lục địa châu Á có quái vật tên Cù, đầu ở tận phương bắc, mình ở bên Nhật Bản, đuôi kéo dài sang Việt Nam. Mỗi lần cù trở mình, cả lục địa rung chuyển, Nhật Bản nằm giữa thân cù là điểm chịu nhiều tai họa nhất, động đất triền miên. Những người giỏi thuật phong thủy bèn xem thế đất, cắm điểm dựng đền thờ Huyền Thiên đại đế ở Hội An. Lại có dị bản cho rằng Chùa Cầu là nơi xây dựng để thờ Linh Phù Thủy Khấu. “Linh Phù” có thể bắt nguồn từ chữ linga (sinh thực khí nam giới) mang dấu hiệu tín ngưỡng Chăm, “Thủy Khấu” dùng chỉ bọn cướp biển. Linh Phù Thủy Khấu, vì thế, ám chỉ thủy thần phù hộ người đi biển, về sau kết hợp với tín ngưỡng Chăm và bảo lưu đến ngày nay… Do sức mạnh “trấn yểm” đã phai nhòa theo thời gian, hay đó chỉ đơn thuần là niềm tin dân gian gửi gắm trước thiên tai? Câu trả lời thật khó thỏa mãn sự hiếu kỳ, trong khi thiên tai ngày một khắc nghiệt và Chùa Cầu - biểu tượng của di sản văn hóa thế giới Hội An, cũng không tránh khỏi. Chỉ biết rằng, câu chuyện trấn yểm đã trở thành một phần huyền tích ở vùng đất hội nhân, hội thủy Hội An và trở thành một phần lịch sử ở khu di sản văn hóa của nhân loại… Bia trấn yểm Cách Chùa Cầu khoảng 100m theo đường chim bay có tấm bia cổ dựng trong am nhỏ rộng 1m, sâu 0,6m, tường xung quanh cao 1,1m, ẩn trong gốc đa cổ thụ thuộc trên đường Phan Châu Trinh. Dân gian bảo đấy là tấm bia yểm chiếc đuôi của con cù và kết quả khảo sát gần đây cho thấy giả thuyết này có thể chấp nhận được, chứ không phải là bản đồ vẽ kho báu như dư luận từng đồn đoán. Bia gồm 3 phần, tầng trên cùng khắc 3 vòng tròn, là “tam điểm tinh tượng” theo Đạo giáo. Tầng giữa có hàng chữ “Bắc Đế sắc lệnh lập cực ngự phong yểm thủy đạo” và khắc hình, tên các vì sao; có hàng chữ “Án ma ni bát mê hồng”. Tầng dưới khắc hình 3 đạo bùa. Theo Báo Quảng Nam Share this post Link to post Share on other sites
Posted 20 Tháng 2, 2014 Cuộc đấu phong thủy của “lũ bốn tên” tại Trung Nam Hải Thế “Khốn hổ phọc long” của Trung Nam Hải thực chất là do chính “lũ bốn tên” tạo ra, lý do là để bảo vệ các lãnh đạo cao cấp của TQ. “Lũ bốn tên” bao gồm Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn. Tội ác của “lũ bốn tên” được cho là đã kéo lùi Trung Quốc... dù đứng ở lập trường nào đi nữa, tội ác của chúng là không thể dung thứ.Sau khi Giang Thanh ép Đặng Tiểu Bình rời đi, tự mình vào Trung Nam Hải sống đã thường xuyên hẹn 3 người còn lại tới Điếu Ngư Đài để bàn chuyện thoán đoạt quyền lực. Đáng tiếc, bên cạnh “lũ bốn tên” lúc nào cũng đầy rẫy các mưu sĩ và các thầy tướng số song lúc bấy giờ ai nấy đều chìm đắm trong thắng lợi tới mức mê muội đầu óc, chẳng ai để ý tới chuyện đi xem xét Trung Nam Hải và Điếu Ngư Đài. Vì thế, thân đã ở vào chốn tuyệt địa, mưu việc đại sự ở chỗ đất nhỏ, không thất bại mới là chuyện kỳ lạ…Vào năm 1976, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ra một quyết định quan trọng, mang tính lịch sử, đó thi hành lệnh bắt giữ đối với “lũ bốn tên” bao gồm Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn.Tội ác của “lũ bốn tên” được cho là đã kéo lùi lịch sử và văn hóa Trung Quốc tụt lùi tới vài chục năm, vì thế, dù đứng ở lập trường nào đi nữa, tội ác của “lũ bốn tên” là không thể dung thứ.Tuy nhiên, nếu như phân tích từ góc độ phong thủy thì tội trạng của bốn người này cũng là một sự sắp đặt của vận mệnh. Do sự ảnh hưởng của Trung Nam Hải và Điếu Ngư Đài, cả bốn người họ đã không thể có được những lựa chọn khách quan và đúng đắn.Trước đây, đã từng có người đề cập ảnh hưởng của Trung Nam Hải tới vận mệnh đầy thăng trầm của Đặng Tiểu Bình. Mặc dù Đặng Tiểu Bình có quý tướng ngũ đoản, đồng thời lại có được “long khí” của Di Hòa Viên hun đúc, tuy nhiên vẫn không thể chống lại được thế “Khốn hổ phọc long” (Nhốt hổ trói rồng) của Trung Nam Hải, vì thế trước sau họ Đặng không thể yên vị được. Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn trước vành móng ngựa. Cho tới hiện tại, nhờ địa thế phong thủy của Trung Nam Hải vô hình trung cải biến thành thế “phục hổ” mới giúp Đặng Tiểu Bình thoát khỏi cái thế vây hãm đen đủi trước kia. Tới lượt “lũ bốn tên” cũng y như vậy.Mặc dù cả bốn đều có quý tướng, song cả bốn đều bị phong thủy khắc chế, khiến bản thân họ không thể nào thay đổi được số mệnh, trở thành những tội nhân hại nước hại dân. Thế “Khốn hổ phọc long” của Trung Nam Hải thực chất là do chính “lũ bốn tên” tạo ra, lý do là để bảo vệ các lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc.Tuy nhiên, sau khi đánh đổ được Đặng Tiểu Bình, chúng lại lần lượt dọn vào ở Trung Nam Hải, biến thành “gậy ông đập lưng ông”. Lại thêm, tướng mạo cả 4 người đều có những khuyết điểm riêng, mặc dù các khuyết điểm này không xuất hiện ở cùng một độ tuổi nhưng lại tập hợp lại vào cùng một thời điểm.Có thể nói rằng, người tính dù có ngàn vạn cũng không thể bằng trời tính. Đây chẳng phải là định mệnh hay sao?Theo tiết lộ của Thiên Sơn Cư sĩ, một thầy tướng số ở Hồng Kông đã từng phục vụ cho lũ bốn tên thì khi còn đi học nghề, ông ta từng nghe thầy của mình kể về rằng, sông núi ở phương Bắc có khí lạ, chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều vĩ nhân.Chẳng hạn như Bắc Kinh, có rất nhiều nơi đáng để quan sát kỹ lưỡng. Qua lời của sư phụ, ông ta cũng biết được rằng, Lại Bố Y, một thầy phong thủy lừng danh thời nhà Tống đã từng làm một bài thơ, đại ý rằng, ở phía Bắc của Trường Giang có một nơi có thể giúp người ta có quyền lực ngút trời, đứng trên vạn người.Tuy nhiên, sống ở nơi này nhất định phải hợp, nếu không nó sẽ hại cho tới khi tan cửa nát nhà, thậm chí bản thân cũng mất mạng mới thôi. Tới năm ba mươi tuổi, Thiên Sơn Cư sĩ quyết định đi tìm mảnh đất này.Tuy nhiên, năm này qua năm khác, Thiên Sơn Cư sĩ đã đi khắp đây khắp đó nhưng vẫn chưa tìm thấy. Cho tới năm Thiên Sơn 52 tuổi, ông ta trở thành thầy tướng số bên cạnh Vương Hồng Văn, theo Vương tới sống tại Bắc Kinh.Năm đó, khi Vương Hồng Văn lên làm phó chủ tịch, Thiên Sơn đã tới Điếu Ngư Đài để chúc mừng. Tới Điếu Ngư Đài, Thiên Sơn cảm thấy nơi đây rất quen thuộc, giống như đã từng nhìn thấy ở đâu đó.Sau khi trở về nhà nghĩ lại mới ngộ ra rằng, địa thế của Điếu Ngư Đài giống hệt với những gì Lại Bố Y đã miêu tả trong bài thơ còn truyền lại. Sau đó, trong một bữa tiệc Vương Hồng Văn tổ chức ở Điếu Ngư Đài vào buổi tối, Thiên Sơn phát hiện mặt nước trong vắt như gương, in rõ hình 7 ngôi sao của chòm sao Bắc Đẩu.Thiên Sơn biết rằng, nơi đây chính là địa thế “thất tinh bạn nguyệt”, là nơi có long huyệt, thực sự là một có địa thế cực kỳ đẹp. Tuy nhiên, Thiên Sơn cũng phát hiện ra rằng, nơi đây khắp nơi đều có vệ binh canh giữ, sát khí rất nặng.Ở phía đông dựng một tấm bia đề 4 chữ “Điếu Ngư Đài”. Sau khi xem xét địa thế nơi đây, Thiên Sơn vui mừng báo lại cho Vương Hồng Văn biết. Cả 4 người của lũ 4 tên đều là những người rất tin vào phong thủy, nghe Thiên Sơn nói vậy thì mừng lắm.Khi đó, Thiên Sơn còn được thưởng một món tiền lớn vì có công phát hiện ra địa thế đắc địa của Điếu Ngư Đài. Từ đó về sau, Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều,… đã chọn nơi này làm “đại bản doanh” để bàn các chiến lược soán đoạt quyền lực.Giang Thanh là một người sống rất hà khắc và hay đa nghi, lúc nào cũng lo người khác hại mình nên chỉ cần một sự việc rất nhỏ cũng khiến Giang Thanh vô cùng vội vã và căng thẳng.Kể từ sau Cách mạng Văn hóa, sức khỏe của Mao Trạch Đông không được tốt, lại thêm Chu Ân Lai qua đời và Đặng Tiểu Bình bị đánh đổ, Giang Thanh và vây cánh của mình gần như độc chiếm quyền bính.Sau khi biết địa thế phong thủy của Điếu Ngư Đài là nơi “thất tinh bạn nguyệt”, Giang Thanh muốn dựa vào địa thế phong thủy đắc địa của nơi này để khống chế cả nước, trở thành một “nữ hoàng đế” thời hiện đại.Vì thế, Giang Thanh mới quyết định chọn lựa Điếu Ngư Đài làm đại bản doanh của lũ bốn tên. Tuy nhiên, Giang Thanh đã quên mất một câu nói của Mao Trạch Đông rằng: “Điếu Ngư Đài làm sao câu được cá lớn, các ngươi đừng nên tới Điếu Ngư Đài làm gì”.Câu nói này của Mao Trạch Đông vô tình đã trùng với cái lý của phong thủy. Bởi lẽ, nơi đây có địa thế “thất tinh bạn nguyệt”, là địa thế có thể trở thành tể tướng, tuy nhiên, tên của nó lại là Điếu Ngư Đài (Đài câu cá), vì thế, nếu như làm một tể tướng thái bình thì được chứ nếu như muốn đoạt quyền cả nước thì sẽ bị khắc chết. Sẽ câu được một con cá mập lớn? Không thể nào. Đây chính là lời than của Thiên Sơn Cư sĩ.Điếu Ngư Đài là một thắng cảnh nổi tiếng ở Bắc Kinh, đã có lịch sử tới hơn 800 năm. Theo ghi chép của sử sách, Kim Chương Tông từng tới đây câu cá vì thế người đời sau từng gọi nơi đây là “Kim Chương Gia Điếu Ngư Đài” (Nơi Kim Chương Tông từng câu cá).Tới thời nhà Nguyên, tể tướng là Ân Hy Hiến cũng từng xây một căn biệt thự tại đây, đặt tên là Phương Liễu Đường, trở thành một nơi tham quan thu hút rất đông người. Sau đó, trải qua nhiều triều đại khác nhau, tới nay, kiến trúc cũng như thiết kế lâm viên vẫn bảo tồn nguyên vẹn từ thời Càn Long.Càn Long từng cho xây dựng một tòa hành cung tại đây, đồng thời khơi một ao nước trở thành hồ và cho đặt các đài bằng gỗ ở xung quanh hồ. Nhờ vậy, long khí của nơi đây mới được bảo tồn không bị thay đổi. Tuy nhiên, lúc này long khí chỉ còn thích hợp với việc những việc lợi nhỏ.Vì thế, ẩn ý trong lời nói của Mao Trạch Đông chính là, bốn người của “lũ bốn tên” không nên lập đại bản doanh tại đây, bởi lẽ, nơi đây chỉ thích hợp với những việc nhỏ chứ không phù hợp với việc thoán đoạt quyền lực của cả thiên hạ, nếu cứ cố tình thì rất có thể chính họ sẽ bị nước nhấn chìm.Chính vì quên mất câu nói này của Mao Trạch Đông, sau khi Giang Thanh ép Đặng Tiểu Bình rời đi, tự mình vào Trung Nam Hải sống đã thường xuyên hẹn 3 người còn lại tới Điếu Ngư Đài để bàn chuyện thoán đoạt quyền lực.Đáng tiếc, bên cạnh “lũ bốn tên” lúc nào cũng đầy rẫy các mưu sĩ và các thầy tướng số song lúc bấy giờ ai nấy đều chìm đắm trong thắng lợi tới mức mê muội đầu óc, chẳng ai để ý tới chuyện đi xem xét Trung Nam Hải và Điếu Ngư Đài. Vì thế, thân đã ở vào chốn tuyệt địa, mưu việc đại sự ở chỗ đất nhỏ, không thất bại mới là chuyện kỳ lạ.Sau đó, do 4 người muốn ở gần để có thể phối hợp với nhau nên đã tìm cách thiết kế lại các kiến trúc của Điếu Ngư Đài. Họ đã cho xây một hòn núi nhỏ ở giữa hồ của Điếu Ngư Đài. Thế của ngọn núi này hình dạng khá kỳ lạ, bốn phía ngoài của đỉnh núi thì cao hơn so với ở giữa.Thiên Sơn biết rằng đây chính là thế “hải diện phi kình” (cá voi nhảy trên mặt biển). Phong thủy có câu rằng, cá voi trắng rời khỏi nước, đó là nơi được cả về con trai lẫn tiền tài.Tuy nhiên, nơi trung tâm của vị trí kết huyệt như Điếu Ngư Đài không thể xây thêm vật gì mà chỉ có thể mở rộng ao hồ mà thôi, nếu không phú quý tiền tài vào tới đâu sẽ ra tới đó.Giang Thanh làm mọi chuyện đều tuân theo phong thủy, song vận mệnh đã bắt bà ta phải thất bại, do vậy, bà ta đương nhiên đã có một quyết định sai lầm, xây dựng một loạt các ngôi nhà mái bằng ở trên đỉnh của hòn núi giữa hồ, tạo thành một hình thoi.Bè lũ 4 tên cho rằng nơi đây có thể tránh được sự dòm ngó của người ngoài, lại có thể đứng trên cao mà nhìn xuống dưới, lại thêm dạng hình thoi thích hợp với việc mỗi người độc lập với nhau.Thiên Sơn biết rõ sự tính toán của Giang Thanh, không những không khuyên Vương Hồng Văn phá bỏ ngôi nhà mà ngược lại còn quyết định giúp Vương Hồng Văn lợi dụng phong thủy tiêu diệt Diêu Văn Nguyên và Trương Xuân Kiều.Sau khi điều tra, Thiên Sơn Cư sĩ đã hiến kế hoạch cho Vương Hồng Văn. Thiên Sơn cho rằng muốn Vương Hồng Văn được Giang Thanh sủng ái hơn Diêu Văn Nguyên và Trương Xuân Kiều thì cần phải tìm được một lý do tuyệt đối nếu không sẽ dễ khiến người khác phát hiện ra.Đầu tiên, Thiên Sơn cho rằng, tướng mạo của Vương Hồng Văn có phần hơn so với Trương và Diêu. Bởi vì, tướng mạo của Vương Hồng Văn ngũ quan đoan chính, mặc dù nốt ruồi ở Sơn Căn sẽ cản trở sự nghiệp tương lai, tuy nhiên, có khả năng nhờ may mắn mà tránh được.Vì thế, phải dùng một chiêu thật độc, tấn công thẳng vào nhược điểm chí mạng của đối phương, đây gọi là chiêu “gậy chọc tim”. Thiên Sơn nói với Vương Hồng Văn rằng: “Âm phúc của Diêu Văn Nguyên không phải là kém, vì thế nhất định phải khiến đối phương mất hết tự tin, có thể tìm cách để đặt một cây cột điện ở con đường trước nhà của Diêu là coi như thành công”.Vương Hồng Văn nghĩ rất lâu mới tìm ra cách. Lần đó, sau một cuộc hội nghị, Vương cố ý đưa ra một số vấn đề về môi trường nói với Diêu Văn Nguyên: “Phòng của anh ở quay về hướng tây, ở chân núi phía tây có một bãi cỏ, không biết anh đã dùng tới bãi cỏ này chưa?”Diêu Văn Nguyên không biết Vương Hồng Văn đang sắp sẵn âm mưu hại mình, bèn nói, bãi cỏ đó không cần dùng. Vương Hồng Văn ngay lập tức đưa ra đề nghị: Ở Điếu Ngư Đài, vì trước nay luôn yêu cầu bảo vệ khí thế và văn vật của thiên triều nên mới không chịu thay đổi. Ngay cả tòa nhà ở của bốn người cũng giống như loại nhà ở tạm.Điện sinh hoạt hàng ngày rất yếu. Vương Hồng Văn cho rằng, nơi này tuy được bảo vệ, song mỗi khi đêm đến thì rất tối. Cảnh vệ cũng phải có điện mới có thể tuần tra. Cứ như thế này sẽ không tốt với sự an toàn của mọi người vì vậy, Vương Hồng Văn kiến nghị xây dựng một cây cột điện ở trên bãi cỏ phía tây của nhà Diêu Văn Nguyên để dẫn tới một dòng điện mạnh hơn.Như vậy không chỉ tăng cường ánh sáng mà việc tuần tra cũng được an toàn hơn. Ba người còn lại nghe kiến nghị của Vương Hồng Văn thì lập tức tán thành ngay. Trong cách nhìn của ba người còn lại, việc xây một cây cột điện ở trên bãi cỏ chỉ giúp ích cho mọi người chứ không có hại gì. Vì thế, cây cột điện lập tức được xây dựng ngay.Tuy nhiên, cây cột điện này có một điểm khác biệt so với những cây cột điện thông thường. Trên đỉnh của nó có một mạng lưới sắt trông giống như một chiếc ô, bên trên còn có cả đèn điện. Sau khi cây cột điện được xây xong, Thiên Sơn ngấm ngầm quan sát sắc mặt của Diêu Văn Nguyên.Quả nhiên, chưa tới 10 ngày sau, ánh mắt của họ Diêu đã lộ rõ vẻ mệt mỏi. Hoá ra, chiếc cột điện này là chiêu "gậy chống tim" của Thiên Sơn. Trong phong thuỷ có câu:"Nhà sợ chống tim, người sợ chống họng, nhà hỏng người chết, thảm thêm thảm". Diêu Văn Nguyên bị gậy chống tim chống lên họng, khí huyết không điều hoà được, người lộ rõ vẻ mệt mỏi. Song ông ta vẫn khen nhờ có đèn đường thấy thuận lợi hơn, ngủ yên tâm hơn.Cũng vì sức khỏe ngày càng kém, Diêu Văn Nguyên mất dần sự tin tưởng của Giang Thanh, Vương Hồng Văn được dịp tìm cách lấy lòng nên Giang Thanh rất tin tưởng. Vui mừng vì kết quả với Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn nhờ Thiên Sơn tiếp tục ra tay với Trương Xuân Kiều.Thiên Sơn cho rằng, Trương Xuân Kiều nhờ ngòi bút mà tiến thân, ắt âm phúc tổ tiên để lại rất lớn. Đối phó với hạng người này thì không thể vội vàng được, nếu không hậu quả lại phản lại chính mình.Mười ngày sau, Vương Hồng Văn cho treo thêm hai bóng đèn trước cửa nhà mình. Hai bóng đèn này vừa đối diện với phòng của Trương Xuân Kiều. Giang, Diêu, Trương thấy lạ hỏi Vương Hồng Văn vì sao lại treo bóng đèn ngoài cửa, bởi vì sau khi có cây cột điện thì ở bên ngoài đã rất sáng rồi.Vương Hồng Văn đã tiên liệu từ trước nên đã có sẵn phương án đối phó. Khi ba người tới hỏi, Vương Hồng Văn nói rằng, hai chiếc bóng đèn này là của một người bạn nước ngoài tặng, để thể hiện sự trân trọng nên mới đem treo ngoài cửa. Ba người nghe thấy vậy thì không hỏi thêm gì nữa.Không lâu sau đó, Trương Xuân Kiều bắt đầu lộ vẻ mệt mỏi. Hóa ra, chiêu này của Cư sĩ Thiên Sơn gọi là "nấm hầm chay", ông ta đã đề nghị Vương Hồng Văn lắp 2 chiếc đèn ở cửa đối diện cửa của Trương Xuân Kiều, chiếu rọi suốt ngày đêm, hình dáng của cái đèn như cái nấm, mỗi khi Trương Xuân Kiều về nhà coi như bị hầm một lần. Có câu rằng: "nấm hầm chay, hầm đến khi dầu cạn", vì thế mà âm phúc tổ tiên của ông ta bị hầm đến cạn kiệt.Chẳng bao lâu sau, Giang Thanh chỉ còn tin tưởng một mình Vương Hồng Văn, Vương Hồng Văn vốn đã có thể thỏa mãn rồi. Tuy nhiên, do dùng phong thủy trấn áp cả bốn người Giang, Diêu, Trương và Vương, Đặng Tiểu Bình đột nhiên được Mao Trạch Đông điều về Bắc Kinh.Giang Thanh tức giận, cho rằng, đây là sai lầm của Vương Hồng Văn, lúc đó đang là phó chủ tịch, vì thế tìm tới mắng cho Vương Hồng Văn một trận. Vương Hồng Văn bị mắng oan, tức giận trở về, càng nghĩ càng bực nên quyết định nhờ Thiên Sơn tìm cách hãm hại Giang Thanh.Giang Thanh thấy thần thái của Diêu Văn Nguyên và Trương Xuân Kiều ngày một kém đi cũng nhanh chóng nhận ra rằng có thể là do phong thủy. Vì thế, theo kinh nghiệm tổ truyền, Giang Thanh cho trồng một cây đa trước cửa để chặn tà khí.Sau khi Giang Thanh trồng cây, cho rằng có thể kê cao gối mà ngủ. Tuy nhiên, Thiên Sơn thì không vì thế mà bỏ cuộc. Thiên Sơn kiến nghị Vương Hồng Văn không ra tay từ bên ngoài mà ra tay từ trong nhà của Giang Thanh để tránh sự cản trở của cây đa.Vương Hồng Văn quyết định nghe theo lời của Thiên Sơn, mượn cớ sửa nhà, Vương Hồng Văn đã lén đặt vào trong chiếc xà chính trên nóc nhà một chiếc quan tài nhỏ, khiến chiếc cột hình thành thế đầu nặng, chân nhẹ. Giang Thanh ở trong một căn nhà như vậy, bị chiếc quan tài trấn áp, làm sao có thể trở mình được.Như vậy, cả ba người cùng phe với Vương Hồng Văn đều bị phong thủy vây khốn. Vậy còn Vương Hồng Văn thì sao? Người ta thường nói, hại người cũng chính là hại mình, Vương Hồng Văn chỉ lo đối phó nội bộ mà quên mất việc ứng phó với những thế lực bên ngoài.Họ Vương vốn không có phe cánh hay nền tảng gì, nhờ có người cất nhắc mà vào được trung ương Đảng. Vì thế, khi Hoa Quốc Phong và Diệp Kiếm Anh cùng Uông Đông Hưng bàn tính cách bắt cả bốn người bọn chúng thì Vương Hồng Văn vẫn không hay biết gì.Bọn Trương, Diêu và Giang đều gian xảo hơn Vương gấp chục lần, tuy nhiên, do bị phong thủy của Thiên Sơn làm cho mê muội, lại thêm sống ở nơi tuyệt địa nên tất thảy đều bị bắt mà không động cựa được gì. Theo Phunutoday Share this post Link to post Share on other sites
Posted 21 Tháng 2, 2014 LY KỲ CHUYỆN CAO BIỀN TRẤN YỂM LONG MẠCH ĐẾ VƯƠNG Ở VIỆT NAM Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả. Phép phong thủy phân biệt hình thế của đất làm năm loại: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Tùy theo thế đất và hình dáng của cuộc đất (giống con vật gì) để theo đó đặt tên, tiên đoán lành dữ cho những ai sử dụng cuộc đất ấy, như: lục long tranh châu, phượng hoàng ẩm thủy, hổ trục quần dương, hoặc quần tiên hội ẩm (được xem là những cuộc đất quý). Thực hư Cao Biền trấn yểm thành Đại La Theo tư liệu lịch sử và phong thủy, Cao Biền khi sang xâm lấn nước ta đã tiến chiếm thành Đại La và cho đắp lớn thành này cao đến 2 trượng 6 thước, chu vi hơn 1982 trượng, trên thành xây 55 vọng gác, với nhiều điểm phòng vệ quân sự. Để làm rào chắn cho thành Đại La, Cao Biền đã tập trung các hộ ở vây quanh với bốn vạn căn nhà. Là người giỏi về thuật phong thủy, xem địa lý, đoán cát hung, nên Cao Biền đã dò xét rất kỹ vị trí để xây thành Đại La (mà sau này vua Lý Thái Tổ khi dời đô về Thăng Long đã cho xây mới lại) và dò tìm đầu mối long mạch nước ta. Nhắc đến vua Lý Thái Tổ (tức Lý Công Uẩn), nhắc đến thành Đại La và kinh đô Thăng Long, vì đều liên quan đến việc Cao Biền sử dụng những thuật lạ của phong thủy để trấn yểm và tiêu hủy khí tượng đế vương ở nước ta thời ấy theo lệnh của vua Đường Ý tông (860 – 873). Tài liệu ghi, khi Đường Ý tông quyết định cử Cao Biền sang nước ta, đã ngầm bảo: “Trẫm nghe An Nam có nhiều ngôi đất thiên tử, ngươi tinh thâm về địa lý, nên hết sức yểm đi và vẽ hình thế đất ấy đem về cho trẫm xem”. Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả. Riêng núi Tản Viên là Cao Biền không dám đụng tới vì cho rằng đó là chỗ thiêng liêng của chư thần thường ngự, không thể yểm được. Trong những nơi mà Biền nhắm đến có một điểm khá quan trọng, đó là làng Cổ Pháp – nơi sẽ sinh ra bậc đế vương của trời Nam. Vì thế, sau nhiều ngày chú tâm xem xét về cuộc đất toàn vùng, Cao Biền cùng các thầy pháp và thầy địa lý của Trung Quốc đã ra tay “cắt đứt long mạch” bằng cách đục đứt sông Điềm và 19 điểm ở Phù Chấn để yểm. La Quý nối chỗ đứt long mạch Nhưng mưu thâm độc của vua Đường và Cao Biền trong việc phá hủy thế phong thủy và làm tan khí tượng đế vương ở nước ta đã bị một thiền sư thời ấy là ngài La Quý phá tan. Ngài La Quý là trưởng lão tu ở chùa Song Lâm, thuở nhỏ du phương tham vấn khắp nơi, sau đến gặp pháp hội của thiền sư Thông Thiện liền khai ngộ. Khi đắc pháp, ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai. Trước khi mất, vào năm 85 tuổi (năm 936), ngài gọi đệ tử truyền pháp là Thiền Ông đến căn dặn: “Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn. Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa". "Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo. Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật”. Vị hoàng đế mà ngài La Quý báo trước là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn mồ côi từ nhỏ, được sư Khánh Vân đem về chùa nuôi, lớn lên Lý Công Uẩn được thiền sư Vạn Hạnh nuôi dạy và sau này lên ngôi tức vua Lý Thái Tổ, mở ra thời đại hộ pháp hưng thịnh trong lịch sử Việt Nam... Như vậy, thuật phong thủy với khí tượng đế vương của các vùng đất đã liên quan nhiều đến lịch sử Việt Nam từ xa xưa. Đến đời Lê, có ngài Nguyễn Đức Huyên sinh tại làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, là người lặn lội học khoa địa lý phong thủy tận nơi khai sáng của khoa này trên đất Trung Hoa và cũng là người Việt Nam đầu tiên viết sách địa lý lưu truyền đến nay. Ngài là danh nhân có tên gọi quen thuộc không những trong dân gian mà cả giới nghiên cứu nữa: Tả Ao. Tả Ao đã phân tích, nêu rõ hình các cuộc đất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cũng như việc tìm long mạch ra sao. Xin nêu ra đây đoạn nhỏ trong sách “Tả Ao địa lý toàn thư” do Cao Trung biên dịch, đại ý nêu hai mạch: Mạch dương cơ và Mạch âm phần. Mạch dương cơ nếu nhỏ thì dùng làm nhà, nếu lớn hơn làm doanh trại, hoặc rộng và tốt có thể dùng làm thị trấn, xây kinh đô. Còn Mạch âm phần dùng chôn cất. Đại cương là vậy, về chi tiết còn có nhiều loại mạch khác, như Mạch mã tích tức mạch chạy như vết chân ngựa, lúc cạn lúc sâu; Mạch hạc tất tức mạch ở giữa nhỏ, hai đầu to ra dần, như gối của con hạc; Mạch phong yếu tức mạch nhỏ nhắn, phình ra to dần như lưng con ong; Mạch qua đằng tức mạch không chạy thẳng mà ngoằn ngoèo như các thân cây bí cây bầu, có khả năng kết được bên trái hoặc bên phải đường đi của mạch nên được xem là loại mạch quý. Đất kết có hai loại: một loại dùng chôn xương người chết và một loại để người sống ở đều tốt. Riêng đất để người sống ở, sách Tả Ao địa lý toàn thư đã đề cập đến đất dương cơ liên quan tới lịch sử nước ta: Trừ nhà Hùng Vương được đất quá lớn ra, thì sau đó, nhà Đinh và tiền Lê trở về trước, những triều đại thịnh trị thật ngắn ngủi, không được tới ba đời, nên quốc sư Vạn Hạnh phải tìm một đại địa khác làm kinh đô. Đó là Thăng Long hay Hà Nội. Lý Công Uẩn nghe theo, dời kinh đô về Thăng Long nên nhà Lý làm vua được tám đời; và sau đó nhà Trần và hậu Lê (Lê Lợi) cũng nhờ có đại địa đó làm kinh đô, nên bền vững lâu dài hơn”. Theo Hôn nhân và Pháp luật Share this post Link to post Share on other sites
Posted 21 Tháng 2, 2014 ĐINH TIÊN HOÀNG. ĐINH TÊN HOÀNG là người động Hoa lư. Tương truyền , trước kia trong động có một cái đầm sâu. Thân mẫu Ông là vợ thiếp của Quan Thứ sử ĐINH CÔNG TRỨ , thường ngày hay vào đầm để tắm giặt. Một hôm , bà bị một con dái cá lớn hãm hiếp nên thụ thai , rồi khi đủ tháng , sinh ra một đứa con trai. Đinh Công rất yêu quý vì không biết rõ nguyên nhân , chỉ có một mình bà biết đó là con của dái cá . Thế rồi , cách mấy năm sau , Đinh Công qua đời , con dái cá cũng bị dân trong động bắt về ăn thịt , còn xương thì quăng một xó. Bà mẹ được tin , vội vàng chạy đến nơi , đợi cho mọi người đi khỏi , nhặt lấy xương , đem về gói ghém cẩn thận rồi để trên gác bếp , và bảo cho Ông biết đây là hàì cốt của cha. Còn về phần Ông đến khi khôn lớn , người rất lanh lẹ và có biệt tài bơi lặn ở dưới nước , nên đước tặng danh hiệu là ĐINH BỘ LĨNH . Trong thời gian ấy , có một Thày Địa lý bên Tàu sang nước ta xem đất , dõi theo Long mạch đến động Hoa lư. Buổi tối Thày Địa lý lần vào chỗ đó xem xét hồi lâu , đoán rằng dưới tầm đất có Thần vật , nên muốn thuê người bơi lặn giỏi xuống chỗ đó xem sao. Nguyên trong cái đầm đó , người ta đồn rằng , bên dưới có chỗ rất thiêng , xưa nay chẳng ai dám bén bảng tới. Vì thế Thày Địa lý treo giải thưởng rất lớn cho người nào có gan lặn xuống đó để dò xem.Họ Đinh nghe nói liền nhận lời ngay. Rồi Ông lặn xuống chỗ đó , lấy tay sờ quanh , thấy có một con vật như hình con ngựa đứng ở dưới đáy hầm. Ông bèn trở lên báo cho Thày Địa lý biết. Thày bảo Ông lặn xuống một lần nữa và đem theo một nắm cỏ non , nhử vào mồm ngựa xem nó thế nào. Ông lại cầm nắm cỏ xuống , đứng trước đầu ngựa để nhử , thấy nó há miệng ngoạm lấy nắm cỏ. Ông liền bơi lên báo cho Thày Địa lý biết , Thày gật đầu bảo : - Dưới đầm quả nhiên có ngôi Huyệt quý. Rồi Thầy đưa ra một số vàng bạc bảo với Ông rằng: - Nay hãy tạm thù lao cho một ít , sau này xin tặng thêm. Tôi cần trở về bản Quốc mấy tháng , rồi lại sang ngay , bấy giờ ta sẽ nói chuyện sau. Lúc đó tuy còn ít tuổi , nhưng Ông rất thông minh. Nghe bọn Khách nói chuyện với nhau , Ông hiểu ngay Huyệt ở mồm ngựa, không còn hồ nghi gì nữa.Đợi cho họ đi rồi , Ông đem gói xương ở gác bếp xuống , lấy cỏ bọc xung quanh , rồi lặn xuống để vào mồm ngựa , ngựa bèn ăn hết ngay. Tứ đó , nhiều người tòng phục Ông và tôn Ông làm Trại trưởng. Khi Ông ở sách Đào úc , một hôm đánh nhau với chú , Ông chạy qua đầm , cầu gãy , Ông ngã xuống đầm. Chú Ông chạy tới lấy dáo đâm Ông , tự nhiên có hai con Rồng vàng bay xuống che chở cho Ông. Chú sợ hãi lùi lại. Vì thế Nhân dân các nơi quy phục Ông càng nhiều hơn. Cách mấy năm sau , Thày Địa lý đem xương bố ở Trung Quốc sang , tìm tới chỗ đầm ấy để mai táng , Nghe nói Đinh Bộ Lĩnh đã trở thành bậc anh tài cái thế , thủ hạ có hơn 1.000 người , Thày Địa lý biết ngay là họ Đinh đã táng Huyệt đó rồi. Thầy uổng phí bao nhiêu công sức , Thày căm tức lắm . Bèn đến bảo với Ông rằng : - Nghe nói Ông đã được đất quý. Cái Huyệt ấy tuy đẹp , nhưng ngựa không có gươm thì không được tốt. Nay tôi tặng cho một thanh gươm , Ông đem xuống treo vào cổ ngựa , như vậy thì Ông sẽ dọc ngang Trời Đất , đánh đâu thắng đó. Đinh Bộ Lĩnh tin lời Thày Địa lý bèn lặn xuống chỗ ngựa Thần , lấy tay sờ cổ ngựa và để gươm vào đó rồi bơi lên. Từ đó Ông đánh đâu được đó , gọi là Vạn Thắng Vương.Ông dẹp được 12 Xứ quân , thống nhất dư đồ , lên làm Vua , hiệu là ĐINH TIÊN HOÀNG. Ông ở ngôi 12 năm thì bị tên hầu cận là Đỗ Thích ám sát , con cả là Đinh Liễn cũng bị giết. Vì Thày Địa lý dùng kế đánh lừa để gươm vào đầu ngựa , nên hai bố con Ông mới như thế. yeuphunu suu tầm Share this post Link to post Share on other sites
Posted 21 Tháng 2, 2014 Hoành Sơn một đại địa Hoành Sơn còn gọi là núi Ngang nằm trong dãy Tây Sơn thuộc địa phận xã Bình Tường quận Bình Khê tỉnh Bình Định. Hoành Sơn không cao (364m) nhưng dài và rộng, ở xa trông rất tuấn tú, khôi hùng. Theo các nhà phong thủy Tàu và địa phương cho biết thì Hoành Sơn là đại địa và hiện tại Hoành sơn là một trong “Nhị thập bác cảnh” của Bình Định. Vì chung quanh Hoành sơn có nhiều ngọn núi bao bọc, mỗi ngọn mang một dáng dấp cổ vật như Núi Bút (Trưng sơn), Núi Nghiên (Nghiên sơn), Núi Ấn (Ấn sơn), Núi Kiếm (Kiếm sơn), Núi Trống (Cổ sơn), Núi Chiếng (Chung sơn), trước mặt là ba dãy gò cao đá mọc giăng hàng rông như quân chầu, hổ phục, phía dưới là hai phụ lưu sông CÔN từ phía Tây và phía Bắc chay ra họp nhau ở địa đầu thôn Phú Phong như hai cánh tay người mẹ ôm chặt lấy Hoành sơn. Địa thế thật cũng đáng gọi là long bàn hổ cứ. Tam kiệt TÂY SƠN Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ sinh trưởng trong một gia đình nông thôn tại làng Phú Lạc (Bình khê) hướng vọng về dãy Hoành Sơn này. Nhưng rồi thời thế tao anh hùng, địa linh sinh nhân kiệt hay long mạch do mồ mả tổ tiên mà ba anh em Tây sơn trở thành những trang anh hùng cái thế, lật đổ Nguyễn, diệt tan Trịnh, đánh bại Mãn thanh, thống nhất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 18? Điều đó xin nhường lại cho lịch sử phân định. Nhưng theo các vị thức giả ở Bình khê kể lại thì nhà Tây Sơn phát Đế nghiệp là nhờ cuộc đất chôn thân sinh của ba Ngài trên dãy Hoành sơn. Huyền thoại về Long Huyệt: Các cụ kể rằng: Trước ngày ba anh em Tây sơn khởi nghĩa, trong khoảng thời Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) trị vì, có một Ông Thầy địa lý Tàu thường ngày xách địa bàn đi đi lại lại trong vùng Tây Sơn để tìm phúc địa. Nguyễn Nhạc thấy vậy theo rình. Một hôm thầy địa lý dường như đã tìm ra long mạch nhưng còn phân vân không biết huyệt khí nằm ở đâu, Thầy mới đem hai cành trúc xanh tốt và đều nhau đến cắm ở triền phía đông dãy Hoành sơn hướng Phú Lạc (nơi sinh trưởng của ba anh em Tây Sơn) phía Bắc một cây và phía Nam một rồi bỏ đi. Nguyễn Nhạc ngày ngày để ý theo dõi hai cành trúc ấy. Hai tháng sau, cành trúc phía Bắc vẫn sống xanh tốt như khi mới trồng còn cành phía Nam thì héo khô. Nguyễn Nhạc cả mừng vì biết rằng long mạch đã ứng hiện nơi cành phía Bắc, bèn nhổ cây khô phía Nam đem cắm ở phía Bắc và nhổ cây tươi ở phía Bắc đem cắm vào phía Nam. Đúng 100 ngày kể từ ngày trồng trúc, thầy địa lý Tàu trở lại thấy hai cành trúc đều chết cả, Thầy nhún vai, trề môi lắc đầu chê là “giả cuộc” rồi bỏ đi thẳng. Nguyễn Nhạc mừng rỡ về bàn với hai anh em rồi hốt hài cốt của Cha đem chôn nơi cành phía Bắc. Lại có cụ kể rằng: Có một thầy địa lý Tàu lúc đến tìm địa cuộc ở vùng đất Tây Sơn thường tá túc nơi nhà Nguyễn Nhạc và nhờ Nguyễn Nhạc dẫn đường cho thầy đi tìm long mạch khắp vùng Tây Sơn. Sau nhiều lần xem xét, ngắm nghía, đo đặt địa bàn, Thầy chú ý đến dãy Hoành sơn và tỏ vẻ đắc ý cuộc đất này lắm. Đoạn Thầy bỏ đi. Một thời gian sau Thầy trở lại cũng ghé nơi nhà Nguyễn Nhạc mà tá túc. Nhưng đặc biệt, lần này, ngoài chiếc địa bàn Thầy lại còn mang theo một chiếc trắp nhỏ ngoài bọc tấm khăn điều. Nguyễn Nhạc đoán biết là Thầy Tàu đã tìm ra được long huyệt và… chiếc tráp kia là hài cốt của Cha ông mang sang chôn. Nguyễn Nhạc bèn đóng một cái trắp giống hệt như cái trắp của thầy Tàu và hốt hài cốt của thân sinh mình đựng vào rồi tìm cách đánh đổi. Nhưng thật khó mà đánh đổi được vì cái trắp ấy Thầy Tàu luôn luôn mang theo bên người không lúc nào rời. Nguyễn Nhạc hội hai em lại và nghĩ ra một kế. Đến ngày lành đã chọn, Thầy Tàu lẻn mang trắp cùng địa bàn đi lên dãy Hoành sơn. Vừa đến chân núi thì một con cọp to bằng người trong bụi rậm gầm lên một tiếng dữ tợn rồi nhày xổ ra vồ. Thầy Tàu thất kinh hồn vía văng trắp và địa bàn mà thoát thân. Hồi lâu hoàn hồn, không thấy cọp rượt theo Thầy mon men quay lại chỗ cũ, Thầy mừng quýnh vì chiếc trắp và địa bàn vẫn còn nằm lăng lóc ở đó, Thầy vội vã trèo lên nơi long huyệt đã tìm trước mà đào bới chôn cất. Xong, Thầy hớn hở trở về với hy vọng chờ ngày “long huyệt vương phát”. Không ngờ chiếc trắp Thầy chôn là hài cốt của Hồ Phi Phúc còn con cọp kia chỉ là người giả mà thôi. Hai thuyết kể trên tuy có khác về tiểu thuyết nhưng vẫn giống nhau là hài cốt của Hồ Phi Phúc được chôn nơi long mạch trong dãy Hoành sơn. Các cụ còn kể tiếp rằng: Sau khi chôn mộ cha trên Hoành sơn thì ba anh em Nguyễn Nhạc vùng phát tướng. Mặt mày sáng rỡ, học hành thông thái. Thầy giáo Hiến dạy ba anh em Nhạc vốn là người có biệt nhãn lại thông thạo về khoa tướng số, xem biết anh em Nguyễn Nhạc đã vượng thời nên mới đem câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” ra mà khuyên Nguyễn Nhạc. Từ đó ba anh em Nguyễn Nhạc mới rắp tâm mưu đồ đại sự, chiêu tập hào kiệt, lấy dãy Hoành son làm căn cứ. Mãi cho đến khi Nguyễn Huệ đại thắng 20 vạn quân Thanh tại gò Đống Đa, đuổi Tôn sĩ Nghị chạy về Tàu mình không kịp mặc giáp, nhựa chưa thắng yên cương, mà còn nuôi mộng lớn lấy lại đất Lưỡng Quảng, cầu hôn công chúa Vua Càn Long, tiếng tăm vang dội cả Trung Quốc. Ông Thầy địa lý năm xưa nhớ lại chuyện cũ, bèn bôn ba sang lại Hoành sơn xem thử thì quả nhiên cuộc đất tìm ra năm trước đang phát. Hỏi thăm thì đó là mộ của Hồ phi Phúc thân sinh ba vua Tây sơn. Thầy địa cả giận vì sự cướp đoạt long huyệt của mình đã tìm ra và để tránh hậu họa chiến tranh Việt-Trung, Thầy địa bèn lập mưu phá long mạch bằng cách bảo Nguyễn Nhạc hãy lấp mấy ngọn phụ lưu Sông Côn ở phía Nam và đào thêm mấy nhánh khác ở phía Bắc để dẫn thủy vào ruộng cho nhân dân cày cấy làm, ăn, Nguyễn Nhạc tưởng thật nghe lời. Những nhánh sông vừa đào sông thì một cái ở Phú Xuân Nguyễn Huệ băng hà ngày 29-7-1792 (có tài liệu lại ghi 6-9-1792). Ở trong Nam thì Nguyễn Ánh chiếm hết đất miền Nam rồi kéo quân ra đánh Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc chống không nổi phải cầu cứu cháu là Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Toản thừa thế cướp thành Quy Nhơn rồi lại sáp nhập lãnh thổ của Bác vào lãnh thổ của mình. Nguyễn Nhạc tức giận thổ huyết mà chết ngày 13-12-1793. Nguyễn Huệ mất lúc 40 tuổi, làm vua được 5 năm. Con, Nguyễn Quang Toản 10 tuổi lên ngôi Thái sư Bùi Khắc Tuyên chuyên quyền làm bậy, triều thần chia rẽ, tướng tá giết hại lẫn nhau. Nguyễn Nhạc làm vua được 16 năm, sau khi chết con là Nguyễn Bảo cũng bị Nguyễn Quang Toản giết. Từ đó, nhà Tây Sơn suy dần và đến năm 1802 thì bị Nguyễn Ánh dứt hẳn. yeuphunu sưu tầm Share this post Link to post Share on other sites
Posted 22 Tháng 2, 2014 Trấn yểm núi Mặt Quỷ và hòn Đá Dao Sau màn độc diễn bầu cử ngày 6/3/1971, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố tái đắc cử ghế Tổng thống Sài Gòn với tỉ lệ 94,36% số phiếu và được Tối cao Pháp viện Sài Gòn công nhận kết quả. Để tạ ơn, Thiệu đã đưa gia đình về quê hương Ninh Hải thắp hương mộ tổ. Ông cho gom mồ mả của dòng họ cải táng về một nghĩa trang lập riêng sau Trường tiểu học Dư Khánh và lệnh cho tỉnh trưởng Ninh Thuận phải thường xuyên cắt hai lính bảo an ôm súng đứng gác. Núi Mặt Quỷ ở Ninh Hải, Ninh Thuận Mặt khác, vợ chồng ông Thiệu cho sửa sang Trùng Sơn tự trên đỉnh núi và Văn Thánh miếu ở lưng chừng núi Đá Chồng nằm giữa hai xã Khánh Hải và Văn Hải. Trùng Sơn tự là nơi mẹ của Tổng thống chọn làm nơi quy y cửa Phật lúc xế chiều. Còn Văn Thánh miếu, đó là nơi thờ tự, lễ lạt của những thành viên Hội Khổng học Ninh Thuận. Ông ta muốn chứng tỏ, dù đã cải sang đạo Thiên Chúa, mang tên Thánh Martino Nguyễn Văn Thiệu nhưng vẫn chưa hề quên truyền thống Nho học và đạo Phật của gia đình. Ở vùng quê Ninh Hải, có ngọn núi tên Đá Chồng. Trên núi có ba tảng đá lớn chồng lên nhau có hình thù rất dữ tợn đặt tên là núi Mặt Qủy. Cách núi Mặt Qủy khoảng 1 cây số, ở chóp Bắc núi Đá Chồng, có một tảng đá lớn hình tam giác nhọn, màu đất sét, chiều ngang cỡ 6 m, cao 3m nhìn giông giống như cái dao, nên được gọi tên là hòn Đá Dao, các thầy phán là “yểm mệnh” của Thiệu. Dân xứ này có câu nói “Mặt Qủy kỵ Đá Dao”, sở dĩ Nguyễn Văn Thiệu thăng quan, tiến chức, phát quang lộ mặc dù nhà gần chân núi Mặt Qủy vẫn không sao là nhờ hòn Đá Dao. Tin lời các quân sư “chiêm tinh gia” nên nhân chuyến hồi hương vinh quy bái tổ, vợ chồng Thiệu mang theo các sự phụ cao nhân về để trấn, yểm giữ long mạch núi Đá Chồng để bảo vệ linh khí cho Thiệu về sau. Để "yếm" long mạch ngay phía trước mặt hai tảng Đá Dao và Mặt Quỷ, ông Thiệu lệnh cho tỉnh trưởng tỉnh Ninh Thuận điều một trung đội công binh gấp rút xây lại Văn Thánh miếu thành 3 ngôi nhà lớn tạo hình chữ Công, án chóp phía bắc núi Đá Chồng, sau đó làm gấp một con đường trải nhựa chạy thành hình vòng cung từ dưới tỉnh lộ lên đến Văn Thánh miếu. Công trình hoàn tất, một trung đội biệt động quân đã được điều về để ngày đêm bảo vệ. Âm dương bài bố đầy đủ, Nguyễn Văn Thiệu và vợ là bà Nguyễn Thị Mai Anh yên tâm, ngủ ngon và tin tưởng đến mức gửi trọn tiền đồ quốc gia cho những lời phán truyền sấp ngửa. Vì vậy mà đầu xuân 1972, Thiệu lệnh cho ba thầy Huỳnh Liên, Minh Nguyệt và Khánh Sơn nhảy lên Đài Tuyền hình Sài Gòn rêu rao cái gọi là “vận mạng quốc gia” và khéo léo đề cập đến đương kim Tổng thống đang mang mệnh trời “tam tý vi vương”. Nhưng người tính không bằng trời tính, nhân mệnh rất khó thắng thiên. Sâu nở ồ ạt, đá trấn yểm tự nhiên bị vỡ Vào một buổi chiều năm 1974, lúc đó khoảng 4 giờ, đùng một phát, từ lưng chừng núi, ngọn Đá Dao - linh vật trấn yểm giữ vận mạng đời Nguyễn Văn Thiệu như lời thầy phán bị vỡ đôi lăn lông lốc xuống, đánh vỡ ba hòn đá Mặt Quỷ và lăn xuống chân núi giữa một chiều không mưa, trời quang mây tạnh...khiến mọi người vô cùng kinh hãi. Vào dịp Tiết Kinh trập (sâu nở) mùa xuân năm 1975, toàn vùng Văn Sơn, Bình Sơn, Khánh Hải, Ninh Chữ đột nhiên xảy ra một trận thiên địch lớn chưa từng thấy. Hàng đàn sâu bọ, côn trùng các loại, nhất là sâu róm, sâu gai xuất hiện dày đặc, quét hết đợt này, đợt khác lại xuất hiện tràn qua đường lộ và cầu Lăng Ông. Chúng tàn phá sạch sẽ các loại hoa màu, ruộng lúa. Đây là vùng đất chuyên trồng hành lá, sâu bò lổn nhổn đầy đường, đầy đất nên nhiều gia đình phải chạy di tản. Sau đó là hàng dàn bươm bướm hàng ti tỉ con bay rợp trời. Tại núi Đá Chồng, trong các hốc đá của hòn Đá Dao bị vỡ, sâu và bọ hung cũng xuất hiện lũ lượt. Chúng túa ra, bò hàng đàn qua lộ và nối nhau mất hút ra phía biển. Dân chúng đồn đãi kháo nhau: vận ông Thiệu đã hết. Đá Mặt Qủy, hòn Đá Dao ngã đổ đồng nghĩa với “mệnh trời” của Nguyễn Văn Thiệu cũng ngã theo. Đầu năm 1975, Quân Giải phóng đã đánh chiếm tỉnh Phước Long, vận đúng như lời thầy tử vi đã phá. yeuphunu sưu tầm Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 2, 2014 Giải mã những bí ẩn phong thủy của Nhà Trắng Có thể nói Nhà Trắng hay còn gọi là Tòa Bạch Ốc là tòa nhà quan trọng nhất của nước Mỹ. Đó là nơi ở và làm việc chính thức của Tổng thống Mỹ và các quan chức cao cấp của quốc gia, nơi người ta sẽ quyết định những vấn đề liên quan đến kế sách và vận mệnh của cả Hoa Kỳ. Chính vì thế, người ta đã tìm thấy những mối liên hệ mật thiết giữa kết cấu Tòa Bạch Cung với những thảm họa xảy ra trên nước Mỹ trong vài thập niên trở lại đây….Nhà Trắng được đặt tại bờ phía đông của sông Rock Creek, một nhánh nhỏ của dòng Potomac, phía nam là một quảng trường rộng còn phía bắc chính là khu Washington phồn hoa của thủ đô nước Mỹ. Vào năm 1972, nước Mỹ quyết định xây dựng Dinh Tổng thống tại Đặc khu Columbia sau khi chọn nơi này làm thủ đô Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 7 năm 1790. Người lựa chọn địa điểm này chính là tổng thống vĩ đại của nước Mỹ George Washington. Tuy nhiên, cho tới khi tòa nhà này được xây dựng xong vào năm 1800, thì người đến sinh sống đầu tiên tại Dinh Tổng thống không phải là George Washington mà là Tổng thống John Adams. Tuy nhiên, kể từ đó, thủ đô Washington và Dinh Tổng thống hoa lệ không phải lúc nào cũng yên lành hưởng thái bình. Vào năm 1812, trong cuộc chiến tranh với Anh, thủ đô Washington mới được xây dựng đã bị phá hủy một cách nghiêm trọng. Dinh Tổng thống cũng bị binh lính Anh dùng lửa đốt rụi, chỉ còn lại những bức tường chỏng chơ. Cho đến năm 1814, khi chiến tranh kết thúc, trong lúc tái thiết, người ta đã sơn màu trắng cho tất cả những phần của Dinh Tổng thống bị khói hun đen bằng màu trắng. Và cũng từ đó, Dinh Tổng thống Mỹ được gọi bằng cái tên Nhà Trắng. Kết cấu của Nhà Trắng giống như một cây thánh giá mà chiều đông – tây thì dài còn chiều nam – bắc lại ngắn, trong đó, đầu phía bắc lại dài hơn phần phía nam, loại kết cấu này trong phong thủy gọi là “nhà thiếu góc”, tức là về mặt tổng thể, kiến trúc của tòa nhà đó thiếu đi cung Càn phía tây bắc và cung Cấn ở phía đông bắc. Hướng đông nam và tây nam cũng thiếu góc nhưng thiếu không nhiều. Cung Khảm ở hướng chính bắc mặc dù không “thiếu góc”, nhưng hướng này lại có một con đường dẫn tới, thiết kế này khiến cho hướng này cũng không hẳn tốt. Hướng đẹp nhất của tòa Bạch Cung chính là hướng nam, cung Ly. Hướng này có tầm nhìn rộng rãi, sáng sủa với một bãi cỏ rất rộng, phía xa còn có thể nhìn thấy sông. Đây chính là cung đại cát. Đáng tiếc, tại nơi đây, sau đó người ta lại cho xây dựng Đài tưởng niệm Washington. Công trình cao 169 mét được xây dựng bằng cẩm thạch, granit này khiến hàng Bính (Bính vị) của tòa bạch ốc xuất hiện “Chu Tước ngẩng đầu”. Đây chính là điểm kìm hãm lớn nhất đối với kết cấu phong thủy của Nhà Trắng. Nhìn xa về phía tây nam có một chiếc ao và một đền thờ thần Dớt. Đền thờ nằm ở phía tây nam vốn là tốt, tuy nhiên, cung khôn và cấn ở đây lại hợp thành một đường mà phong thủy gọi là “đường quỷ thần”, thêm nữa, tòa miếu lại bị bao quanh bởi chiếc ao lớn, thành ra cũng không thể nói là tốt được. Theo như phân tích này thì kết cấu phong thủy của Nhà Trắng không phải là tốt lành gì. Vậy lý do vì sao, từ khi được thành lập đến nay, nước Mỹ ngày càng trở nên giàu mạnh? Các chuyên gia phong thủy cho rằng, nguyên nhân là vì, trong kết cấu của Nhà Trắng, có hai nơi tạo nên thế đại cát. Thứ nhất, ở phía tây của Nhà Trắng có một dòng sông lớn, hướng dòng chảy theo chiều từ tây bắc xuống đông nam, lượng nước rất lớn. Nước ở phía tây là dấu hiệu của tiền tài, còn hàng Canh xuất hiện nước chạy, lượng lớn là dấu hiệu của tiềm lực quân sự hùng mạnh. Điều này vừa đúng với 2 đặc điểm quan trọng nhất của nước Mỹ: Dẫn đầu thế giới về kinh tế và quân sự. Điểm “đại cát” thứ hai của tòa Bạch Cung chính là lượng nước lớn nằm ở phía nam. Nếu tính từ trung tâm Nhà Trắng, thì hướng chính nam của tòa nhà này sẽ nhìn thẳng ra một ngã ba sông. Nếu như không tính tới thế “Chu tước ngẩng đầu” ở hàng Bính do Đài tưởng niệm Washing ton gây ra thì hàng ngọ và hàng đinh ở hướng nam vẫn có thể coi là phát về đường tài lộc. Giống như một người con gái chỉ có một nét duyên ngầm nhưng che khuất được tất cả những nét chưa hoàn hảo khác, chính vì sức mạnh của hai đặc điểm “đại cát” này đã che đi rất nhiều điểm bất lợi trong kết cấu phong thủy của Nhà Trắng. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà những đặc điểm xấu này không đem lại những tai họa cho nước Mỹ. Phải nhắc đến đầu tiên chính là Đài tưởng niệm Washington. Đài tưởng niệm này xuất hiện ở hướng chính nam của bãi cỏ rộng lớn phía nam của Nhà Trắng. Nếu như dùng la bàn đo từ cửa của Nhà Trắng hoặc trung tâm của tòa nhà thì đài tưởng niệm này nằm trên hàng Bính. Nếu chiếu theo năm tháng thì tương ứng với nửa cuối của năm 2001. Ai cũng biết về cuộc tấn công khủng bố diễn ra vào ngày 9 tháng 11 của năm này, khiến tòa tháp đôi của Trung tâm thương mại thế giới đặt tại thành phố New York sụp đổ hoàn toàn và gần 3 nghìn người thiệt mạng. Đến nay, sự kiện này vẫn còn là một nỗi ám ảnh đối với nhiều người dân Mỹ. Tuy nhiên, ít người biết rằng, nó không hoàn toàn ngẫu nhiên. Chưa hết, ở hướng chính đông của Đài tưởng niệm chính là tòa nhà quốc hội Mỹ. Theo phong thủy, chính đài tưởng niệm này sẽ trở thành “Bạch Hổ sát” của tòa nhà quốc hội. Thời gian phát tác của Bạch Hổ sát là vào năm Dậu, năm con gà. Nếu xét lại những sự kiện lớn xảy ra tại nước Mỹ trong 10 năm trở lại đây, có thể thấy, vào năm 2005, năm Ất Dậu, quốc hội Mỹ đã thông qua kế hoạch tấn công Iraq dẫn đến một cuộc chiến hao người tốn của và cho tới nay vẫn chưa có hồi kết. Đến năm 2006, khi Thái Tuế vận hành đến hướng tây bắc. Như đã nói, hướng tây bắc của Nhà Trắng thiếu một góc lớn, chiếu theo phong thủy thì kết cấu Nhà Trắng thiếu đi cung Càn, đây là một điềm dữ, rất bất lợi. Chính vì thế, trong năm 2006, nguy cơ hàng kém chất lượng bắt đầu xuất hiện ở nước Mỹ. Đồng thời giống như một hiệu ứng domino, nó kéo dài trong suốt hơn một năm sau đó. Suy thoái kinh tế cũng bắt đầu manh nha. Đến năm 2008, phong thủy vận hành đến hướng chính bắc, hàng Tý. Hàng Tý hợp với núi chứ không hợp với nước. Đáng tiếng Nhà Trắng không hề dựa vào núi, chỉ là cao hơn so với nền đất một chút. Điều xấu nhất chính là có một con đường lớn dài hàng trăm kilomet chạy theo hướng chính bắc thẳng đến trung tâm của Nhà Trắng. Trong phong thủy có câu, “Đường thẳng 3 dặm ắt có ma quỷ”, huống chi con đường chạy thẳng đến trung tâm Nhà Trắng này lại dài tới hàng trăm kilomet. Điểm bất lợi mà nó gây ra cho Nhà Trắng theo đó, sẽ vô cùng khủng khiếp. Chắc nhiều người vẫn chưa quên cuộc “Đại suy thoái” của nền kinh tế thế giới bắt nguồn từ nước Mỹ vào năm 2008. Trong năm này, tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ đã tăng từ mức 4,9% vào tháng 12 năm 2007 lên 9,5% vào tháng 6 năm 2009. Nhiều ngành kinh tế của Hoa Kỳ thu hẹp sản xuất. Ngành chế tạo ô tô bị khủng hoảng nghiêm trọng đến mức Big Three phải bán đi một số thương hiệu và chi nhánh của mình. Nhiều công ty, tập đoàn kinh tế đã phải chịu phá sản và chấp nhận tái cơ cấu dưới sự giám sát của Chính phủ. Đó là một năm thực sự kinh hoàng đối với nền kinh tế và người dân nước Mỹ. Và vào cuối năm đó, Tổng thống George Bush sau hai nhiệm kỳ giữ chức tổng thống, đã buộc phải trao trả tòa Bạch Cung cùng với một cục diện rối ren cho “người hùng” mới của nước Mỹ, vị tổng thống da màu đầu tiên của nước Mỹ, B. Obama. bước sang năm 2009, vị trí của vận hành phong thủy Nhà Trắng đến hướng chính đông, hàng Sửu. Sự thiếu góc ở hàng Sửu của Nhà Trắng là điều rất dễ nhận thấy. Thiếu góc, trong phong thủy gọi là “Cán dao”, ý chỉ sự đen đủi. Đây cũng chính là lý d vì sao, dù rất nỗ lực trong suốt 2 năm, 2009 và 2010 nhưng vị tổng thống mới của nước Mỹ vẫn không thể khôi phục lại được nền kinh tế đang trên đà suy thoái của nước Mỹ. Chính điều này đã biến cuộc suy thoái kinh tế trở thành một cuộc “đại suy thoái” trên toàn thế giới. Vào năm 2011, khi phong thủy vận hành đến hướng chính đông, thì nguồn nước ở hướng tây Nhà Trắng sẽ có điều kiện phát huy tác dụng. Thêm vào đó, phía đông lại không thiếu góc như những hướng khác. Chính vì vậy, trong năm này, nền kinh tế nước Mỹ chắc chắn sẽ bước vào thời kỳ phục hồi. Kết quả của sự phục hồi ra sao vẫn chưa thể khẳng định, nhưng chắc chắn nó sẽ là một liều thuốc trợ tim mạnh đối với nền kinh tế Mỹ. Vào cuối tháng ba này, khi Tổng thống Obama xuất hiện trên truyền hình, ắt người ta sẽ không còn thấy khuôn mặt trầm tư rầu rĩ trong suốt hai năm qua nữa, thay vào đó chắc chắn là một nụ cười rạng rỡ. \ Tuy nhiên, những tai họa mà tòa Bạch Cung này đem đến cho nước Mỹ do kết cấu phong thủy của nó gây ra vẫn không phải đã hết. Chính quyền Mỹ chắc chắn nên lưu ý đến năm 2014, năm kỷ niệm 12 năm sự kiện ngày 9 tháng 11. Đây là thời điểm sao Thái Tuế chuyển đủ một vòng và lại ứng với hướng chính nam, nơi có Đài tưởng niệm Washington. Nhiều người cũng đã cảnh báo một tai họa sẽ đổ xuống nước Mỹ vào năm con ngựa này. Muốn tranh được đại họa, trừ khi là người ta phá bỏ hoặc di chuyển Đài tưởng niệm Washington. Tuy nhiên, ai cũng biết, điều này là không thể xảy ra. Nguồn: phunutoday.vn Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 2, 2014 Huyền thoại về đất phát công hầu đế vương của nước Việt Đất Việt quả thật là nhiều quý địa. Chỉ tính từ Ninh Bình trở ra mà đã có tới 27 ngôi đất kết Đế vương, hơn 2000 ngôi kết công hầu khanh tướng. Ngày nay lãnh thổ nước ta đã vượt qua Ninh Bình rất xa vào phía Nam với một đại cán long nữa là dãy Trường Sơn thì hẳn là phải thêm hàng ngàn ngôi đất quý nữa. Mặc dù bị Cao Biền trấn yểm, khắp nước Việt Nam vẫn còn hàng ngàn ngôi đất kết phát có thể sản sinh ra nhân tài anh kiệt xuất chúng. Đất kết là khái niệm để chỉ nơi có sinh khí tụ lại trong khoa phong thủy. Người xưa quan niệm ở những nơi có đất kết, nếu đặt tro cốt của ông bà, tổ tiên xuống đó thì do tú khí của đất đai, tro cốt sẽ lâu mục nát, do đó sẽ phát phúc cho con cháu. Mức độ kết phát của đất tới đâu lại tùy thuộc vào các yếu tố tổng thể của cả cuộc đất. Có đất phát giàu có tiền tài, có đất phát quan tước công hầu khanh tướng và cao nhất là đất phát vương giả. Trong phần địa đạo diễn ca, cụ Tả Ao – người được xem là thánh địa lý của Việt Nam mô tả về huyệt đất phát quan: "Muốn cho con cháu nên quan Thì tìm Thiên mã phương Nam ứng chầu Muốn cho kế thế công hầu Thì tìm chiêng trống dàn chầu hai bên" Còn đất phát đến vương giả thì cụ nói: “Ngũ tinh cách tú chiều nguyên Kim Mộc Thủy Hỏa bốn bên loan hoàn Thổ tinh kết huyệt trung ương Ấy đất sinh Thánh sinh Vương đời đời” Là mảnh đất phát tích của khoa Địa lý Phong thủy, các vua chúa Trung Quốc rất trọng vọng khoa này. Lý luận phong thủy được họ đem áp dụng cả vào trong việc ngoại trị. Một trong những ví dụ điển hình là việc vua Đường sai Cao Biền sang trấn yểm các long mạch của nước ta. Ngược dòng lịch sử, nước Việt ta từ đầu công nguyên cho đến đầu thế kỷ 10 nằm dưới ách đô hộ của người Hán. Thời bấy giờ Trung Quốc chia nước ta thành quận huyện và phái quan lại người Hán sang cai trị. Tuy nhiên, người Việt ta không chịu khuất phục mà luôn luôn tìm cách nổi dậy giành độc lập. Vua chúa Trung Quốc tin rằng sở dĩ người Việt không chịu khuất phục mà liên tiếp nổi dậy là vì đất nước ta có nhiều huyệt đất kết nên sinh ra nhiều anh hùng. Để triệt tận gốc mầm mống chống đối, các triều đình Trung Quốc đã nghĩ đến chuyện triệt âm phần bằng khoa Địa lý Phong thủy. Đó chính là sứ mệnh mà Đường Trung Tông giao phó cho Cao Biền khi phái ông này sang làm quan cai trị ở bên nước ta. Nội dung sự việc được tập Phong thủy địa lý Tả Ao – Địa lý vi sư pháp của Vương Thị Nhị Mười nói chi tiết: “Thời vua Đường Trung Tông đổi tên nước ta là An Nam đô hộ phủ và phong Cao Biền làm An Nam đô hộ sứ sang cai trị. Trước khi Cao Biền sang nhậm chức, nhà vua cho triệu vào ngự điện và nói: Khanh học địa lý tối vi tinh diệu, trẫm nghe An Nam có nhiều quý địa, kết phát tới Thiên tử, sản xuất ra nhiều nhân tài, anh kiệt nên luôn luôn nổi lên chống đối. Qua đó khanh nên tường suy phong thủy, kiến lãm sơn xuyên và làm tờ biểu tấu kèm theo lời diễn ca các kiểu đất bên An Nam gửi ngay về cho trấm xem trước rồi ở bên đó khanh đem tài kinh luân, đoạt thần công, cải thiên mệnh, trấn áp các kiểu đất lớn đi, đó là cách nhổ cỏ thì nhổ cả gốc, để tránh hậu hoạn sau này”. Cao Biền nhận lệnh sang nước ta liền tập trung đi xem xét các cuộc đất lớn nhỏ. Dân gian nói rằng Cao Biền ngày ngày cưỡi chim thần đi xem xét phong thủy, tài liệu nói trên của Vương Thị Nhị Mười thì nói Cao Biền dùng gỗ chế một cái diều rồi ngồi lên. Nhìn chung đó chỉ là những chi tiết làm tăng thêm sự thần bí cho nhân vật Cao Biền. Tuy nhiên việc Cao Biền nhận lệnh trấn yểm phong thủy nước ta là có thật. Nó thể hiện qua một tập sách mang tên “Cao Biền địa lý tấu thư kiểu tự”. Tập sách này, theo như tài liệu của Vương Thị Nhị Mười đã nói ở trên thì năm 1427 Lê Lợi công phá thành Đông Quan bắt được Hoàng Phúc – Thượng thư bộ Công của nhà Minh nên thu được. Sở dĩ Hoàng Phúc có nó là do vua Minh trao cho Y với nhiệm vụ xét duyệt lại xem còn huyệt lớn nào mà Cao Biền chưa yểm thì yểm nốt. Âm mưu của nhà Minh là hòng làm cho Đại Việt không thể nào sản sinh ra được những thế hệ như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo – những anh hùng đã gây khó khăn cho họ thời trước, để Đại Việt lại quay về thời là quận huyện của Tàu như mấy trăm năm trước. Tập Cao Biền địa lý tấu thư kiểu tự này nói đến 632 huyệt chính cùng 1517 huyệt bàng từ Ninh Bình trở ra (thời Đường, lãnh thổ nước ta chỉ mới vào đến khu vực này). Những kiểu đất này đều là đất phát nhân tài anh kiệt, văn thì đến Tam khôi Trạng Nguyên, võ thì đến Quận công danh tướng… Tổng cộng là hơn 2000 ngôi đất quý. Ngoài tập Cao Biền địa lý tấu thư kiểu tự, Cao Biền còn một bản tấu nữa về phong thủy là Cao Biền tấu thư cửu long kinh. Bản tấu này đề cập đến 27 ngôi đại địa có thể phát đến đế vương ở nước ta. Trong 27 ngôi đất này có những ngôi đã kết phát rực rỡ như ngôi đất ở Tức Mặc – Nam Định đã tạo nên một Trần triều hiển hách võ công hay ngôi đất ở Cổ Pháp kết phát ra triều Lý. Về nhiệm vụ trấn yểm các mạch, dân gian còn lưu truyền nhiều câu chuyện. Trong đó có chuyện Cao Biền yểm thành Đại La và yểm thánh Tản Viên. Cả hai lần Cao Biền đều thất bại. Đối với các huyệt nhỏ chỉ phát công hầu khanh tướng không thấy tài liệu nào hay truyền thuyết nào nói Cao Biền có trấn yểm. Tuy nhiên, theo thiển ý của tác giả với số lượng quá lớn mà thời gian trị nhậm của Cao Biền chỉ trong quãng chục năm lại còn bận bịu việc quan lại chính trị thì sao có thể yểm hết được. Qua đó ta thấy đất Việt quả thật là nhiều quý địa. Chỉ tính từ Ninh Bình trở ra mà đã có tới 27 ngôi đất kết Đế vương, hơn 2000 ngôi kết công hầu khanh tướng. Ngày nay lãnh thổ nước ta đã vượt qua Ninh Bình rất xa vào phía Nam với một đại cán long nữa là dãy Trường Sơn thì hẳn là phải thêm hàng ngàn ngôi đất quý nữa. Các nhà địa lý có quyền nói rằng nhờ vào những quý địa đó mà sản sinh ra các anh hùng hào kiệt để dựng nước và giữ nước suốt chiều dài mấy ngàn năm lịch sử. Theo KIẾN THỨC Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 3, 2014 Tại sao có tên là Hồ Con Rùa ????? Hồ Con Rùa, tên chínhthức là Công trường Quốc tế, là tên gọi dân gian của một vòng xoay giao thôngcó đài phun nước, nối ba đường: Võ Văn Tần, Phạm Ngọc Thạch và Trần Cao Vân, nằmquận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Khu vực Hồ Con Rùa hiện nay là một trong nhữngkhu vực hoạt động ẩm thực gần như từ sáng đến đêm, với rất nhiều nhà hàng vàcác quán bar xung quanh Lịch sử Nguyênthủy ban đầu, tại vị trí Hồ Con Rùa hiện nay, vào năm 1790 là vị trí cổng thànhKhảm Khuyết của thành Bát Quái (còn gọi là thành Quy). Về sau Minh Mạng đổi tên Hồ ConRùa Nay thành cửa Vọng Khuyết. Tuy nhiên, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi(1833-1835) thì vào năm 1837, Minh Mạng đã cho phá thành Bát Quái và xây dựng mộtngôi thành nhỏ hơn mang tên là thành Phụng. Vị trị cửa Khảm Khuyết trở thành mộtđiểm ở ngoài thành và nối thẳng con đường ngoài mặt tây thành xuống bến sông. VịTrí Hồ Con Rùa xưa là Tháp Nước Sau khi người Pháp chiếm được thành Gia Định(là tên chính thức của thành Phụng), họ đã cho san phẳng ngôi thành này vàongày 8 tháng 3 năm 1859. Sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, người Phápbắt đầu xây dựng thành phố vào năm 1862. Dựa trên những còn đường có sẵn dọcngang trong thành Quy cũ, người Pháp đã quy họach khu hành chính của mình. Vịtrí Hồ Con Rùa hiện nay nằm ngay vị trí cuối con đường dẫn ra bến sông đượcđánh số 16. Trên con đường này, dinh Thống đốc đầu tiên được xây dựng vào năm1863. Năm 1864, Nha Giám đốc Nội vụ (Direction de I’ Intérieur - người dânđương thời gọi là “Dinh Thượng thơ”), được xây dựng ở phía đối diện dinh Thốngđốc. Vào ngày 1 tháng 2 năm 1865, Thống đốc Nam Kỳ, Phó đô đốc Hải quân PhápPierre-Paul de la Grandière (1807-1876) đã đặt tên con đường số 16 là đườngCatinat. Vàonăm 1878, một tháp nước được xây tại vị trí Hồ Con Rùa ngay nay để phục vụ nhucầu cung cấp nước uống cho cư dân trong vùng. Từ ngày 24 tháng 2 năm 1897, đoạnđường từ phía sau nhà thờ Đức Bà đến tháp nước đổi tên thành đường Blancsubé. Đếnnăm 1921 thì tháp nước bị phá bỏ do không còn đủ sức đáp ứng nhu cầu cung cấpnước nữa và con đường được mở rộng nối dài đến đường Mayer (nay là đường Võ ThịSáu) và khúc cuối này có tên là đường Garcerie. Từ đó vị trí này trở thành giaolộ như ngày nay, với tên gọi là Công trường Maréchal Joffre (cắt giao lộ là đườngTestard - nay là đường Võ Văn Tần - và đường Larclauze - nay là đường Trần CaoVân). Chân Tháp đài Chiến sĩ đệ nhất thế chiến Tại vị trí này, người Pháp đãcho xây dựng một tượng đài ba binh sĩ Pháp bằng đồng với hồ nước nhỏ, để đánh dấucuộc xâm chiếm và biểu tượng của việc người Pháp làm chủ Đông Dương. Do đó, ngườiđịa phương ở đây thường gọi nó là công trường ba hình. Các tượng đài này tồn tạiđến năm 1956 thì bị người Việt phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước nhỏ. Giao lộ cũng đượcđổi tên thành Công trường Chiến sĩ. Thời điểm xây dựng Hồ Con Rùa chưa được xácđịnh chính xác. Một số tài liệu cho là nó được xây dựng vào năm 1965, vài tài liệukhác thì cho là 1967. Từ1970 đến 1974, Hồ Con Rùa thực sự được trùng tu và chỉnh trang trong đó gồm việcdựng thêm và điều chỉnh 5 cột bê tông cao có dạng năm bàn tay xòe ra đón đỡ giốngnhư các cánh hoa đón đỡ một nhụy hoa. Công trình mới này còn bao gồm một vòngxoay giao thông với đường kính khoảng gần 100 mét, được trang trí bởi cây xanhvà hồ phun nước hình bát giác lớn với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khuvực trung tâm là đài tưởng niệm và hình tượng con rùa bằng hợp kim có đỡ trênlưng bia đá lớn với các dòng chữ ghi công những người đã hy sinh cho chế độ ViệtNam Cộng Hoà. Do đó mới có tên gọi dân gian là Hồ Con Rùa. Saukhi xây dựng xong thì ban đầu khu giao lộ này được đặt tên là Công trường Chiếnsĩ Tự do, đến năm 1972 thì đổi tên thành Công trường Quốc tế. Tuy nhiên, vào đầunăm 1976, tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ, nhưng người dân vẫnquen gọi là Hồ Con Rùa, thay cho tên gọi chính thức. Huyền thoại Hồ Con Rùa Theocác giai thoại truyền miệng, thì vào năm 1967, khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lênlàm tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, đã mời một thầy phong thủy người Hoa nổi tiếngđến coi thế đất tại dinh Độc Lập. Người thầy phong thủy này khen vị trí củadinh là vị trí của long mạch, trấn yểm vị trí của đầu rồng[1]. Con rồng này đầutại dinh Độc Lập và đuôi nằm tại vị trí Công trường Chiến sĩ, tuy phát hưng vượng,nhưng do đuôi rồng hay vùng vẫy nên sự nghiệp không bền. Vì vậy cần phải cúng yểmbùa bằng cách đúc một con rùa lớn để trấn đuôi rồng không vùng vẫy nữa thì mớigiữ được ngôi vị tổng thống lâu dài. Theo một số người thì kiến trúc tháp caogiống như hình một thanh gươm (hoặc cây đinh/kim), đóng xuống hồ nước để giữ chặtđuôi rồng. Một số người khác thì lại cho rằng kiến trúc tháp lại giống hìnhđuôi rồng vươn cao, nhưng có con rùa đè chặt ở phần đầu ngọn. Số khác thì lạicho là nhìn từ trên cao xuống thì toàn thể kiến trúc trông giống như một conrùa. Do đódinh Độc lập còn có tên gọi là Phủ Đầu Rồng Vụ án Hồ Con Rùa Cũngxuất phát từ quan niệm phong thủy trên, vào năm 1978, một nhóm người phản đốichính quyền Việt Nam thống nhất, cũng mê tín dị đoan, đặt bom phá hủy với mụcđích giải thoát cho đuôi rồng để nó phá chính quyền mới. Tuy nhiên, đã bị lựclượng an ninh Việt Nam bắt giữ và ngăn chặn trong vụ án mang tên "Vụ án Hồcon Rùa". st Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 3, 2014 Tấm bia trấn yểm ở vùng Thất Sơn huyền bí Hiện tại, nơi hậu liêu chùa Bồng Lai nằm sát mép kênh Vĩnh Tế, xã Vĩnh Tế thuộc thị xã Châu Đốc, An Giang có một ngôi miếu nhỏ, bên trong là một tấm bia đá cổ. Giữa mặt bia không có chữ nhưng nơi viền mép phải có chạm dòng chữ Hán "Hoàng Thanh, Càn Long ngũ thất niên, trọng thu, cốc đán", có nghĩa là "Đời nhà Thanh, Vua Càn Long năm thứ 57, vào tháng 8, mùa thu". Tương truyền tấm bia đó là một đạo "bùa Cao Biền" trấn yểm long mạch vùng Cửu Long của người Tàu để người Việt đời đời phụ thuộc. Chùa Bồng Lai nằm sát mép kênh Vĩnh Tế, xã Vĩnh Tế thuộc thị xã Châu Đốc, An Giang còn có tên gọi khác là chùa Bài Bài, Bà Bài hoặc chùa Ông Đạo Lập. Ngôi chùa cổ ven biên giới này được ghi nhận là di tích lịch sử cách mạng thời kỳ chống Mỹ của tỉnh An Giang. Đây là một trong những địa chỉ giao liên đầu mối quan trọng của Thị ủy Châu Đốc và là nơi ẩn quân của các đơn vị bộ đội chủ lực trước năm 1975. Không chỉ là di tích lịch sử cách mạng mà chùa Bồng Lai còn ẩn chứa nhiều di tích tâm linh kỳ thú. Hiện tại, nơi hậu liêu chùa có một ngôi miếu nhỏ, bên trong là một tấm bia đá cổ. Giữa mặt bia không có chữ nhưng nơi viền mép phải có chạm dòng chữ Hán "Hoàng Thanh, Càn Long ngũ thất niên, trọng thu, cốc đán", có nghĩa là "Đời nhà Thanh, Vua Càn Long năm thứ 57, vào tháng 8, mùa thu". Tương truyền tấm bia đó là một đạo "bùa Cao Biền" trấn yểm long mạch vùng Cửu Long của người Tàu để người Việt đời đời phụ thuộc. Huyền tích giải ếm phù bia Tấm bia bằng đá sa thạch, cao khoảng 90 cm, ngang khoảng 40 cm. Giữa mặt bia có vẻ như đã từng có chữ nhưng bị đục xóa trắng. Cô Út Diệu An - người giúp việc công quả thờ phụng trong chùa Bồng Lai từ nhiều năm nay khẳng định: "Cái bia ếm này có từ khi chùa mới lập cách nay hàng thế kỷ. Hàng ngày chúng tôi vẫn phải cắm nhang cúng bái để giữ trấn. Nguyên thủy tấm bia trấn phù này có chữ bùa nhưng đã bị sư Cố đục bỏ để giải ếm". Sư Cố mà cô Út nhắc đến là sư Lập - người tạo dựng ngôi chùa. Cô Út còn cho biết thêm, tấm bia trấn phù này là một đạo bùa "Cao Biền". Rất nhiều tài liệu khảo cứu của các nhà nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng như Nguyễn Văn Hầu, Trần Văn Quế, Huỳnh Minh đều ghi nhận: Vào khoảng năm 1850, trong một lần cùng các vị đệ tử đi viếng Thủy Đài sơn (Núi nước), Phật Thầy Tây An phát hiện dưới gốc cổ thụ có ẩn một tấm bia đá được chôn giấu từ thuở nào, đất bồi lấp gần chìm hết. Qua những nét chữ trên bia, Phật Thầy Tây An cho rằng đó là loại "Cao Biền trấn phù bia" dùng để trấn yểm linh khí. Chùa Bồng Lai bên dòng kênh Vĩnh Tế. Theo lịch sử, Cao Biền là một nhân vật có thật, tên chữ là Thiên Lý, sinh vào năm 821, mất năm 887. Ông ta là một viên tướng của nhà Đường được giao chức Tiết Độ Sứ (Thái Thú) có nhiệm vụ cai quản Giao Châu (tên nước Việt cổ) từ năm 866 đến năm 875. Cao Biền rất mê kinh dịch, lý số, phong thủy. Truyền thuyết kể rằng, trong 9 năm đô hộ, Cao Biền đã 3 lần dùng pháp thuật lập bia trấn yểm để "nhốt" linh khí, yểm tài nước ta. Với phù bia, Cao Biền có tham vọng hùng cứ phương Nam làm vua một cõi. Nghe tin Cao Biền có ý làm phản xưng vương, vua Đường chiêu dụ triệu hồi về nước rồi giết chết vào năm 887. Theo các pháp sư, "Cao Biền trấn phù bia" là một loại bùa trấn yểm linh mạch. Nơi bị trấn yểm sẽ không xuất hiện người tài, cư dân sẽ thần phục người đứng ra trấn yểm. Căn cứ vào dòng chữ còn sót lại cho thấy bức trấn phù bia này được lập vào năm Càn Long thứ 57 tức là năm 1792. Thời điểm này, Cao Biền đã qua đời gần… 1.000 năm. Căn cứ vào lịch sử, đây là thời điểm Lê Chiêu Thống - vị vua cuối cùng của triều đại nhà Lê - bị Vua Quang Trung đánh đuổi, đang lưu vong ở Trung Hoa để xin vua nhà Thanh cho "rước voi giày mả tổ". Thời kỳ này, ở phía Nam thuộc về chúa Nguyễn, dư âm phong trào Thiên địa hội phản Thanh phục Minh của thế hệ hậu sinh của Mạc Cửu vẫn còn hoạt động. Phong trào Thiên địa hội có sử dụng nhiều yếu tố tâm linh để quy tựu thành viên. Có lẽ, bức “Cao Biền trấn phù bia” này được Thiên địa hội lập nên với ý đồ hùng cứ vùng đất núi non hiểm trở Thất Sơn. Trong tài liệu khảo cứu của giáo sư Nguyễn Văn Quế về Bửu Sơn Kỳ Hương và trong các di tự của tín đồ cho biết, sau khi phát hiện ra bức “Cao Biền trấn phù bia”, Phật Thầy Tây An đã sai ông Đạo Lập khai quật lên đục bỏ những chữ bùa rồi đem về chùa Bồng Lai dùng phù chú "giam" trong cái miếu. Ông Đạo Lập dùng xích sắt có yểm phù "trói" chân đế, phần chìm dưới đất của tấm bia để đảo ngược tác dụng. Có nghĩa là vùng đất bị trấn yểm sẽ nảy sinh nhiều nhân tài. Đó là lý do, dù là bia trấn yểm nhưng các tín đồ vẫn phải hương khói hàng ngày. Ngoài ra, Phật Thầy Tây An còn sai Quản cơ Trần Văn Thành dùng cây rừng đẽo 5 trụ trấn phù đi cắm ở 5 điểm theo dịch đồ Ngũ long trấn phục bao bọc vùng đất Thất Sơn để làm ranh giới quy tụ dân lập làng kháng chiến chống Pháp. Những mẩu chuyện về “Cao Biền trấn phù bia” mang đầy màu sắc huyền bí hư ảo nhưng qua đó cũng thể hiện lòng yêu nước, mong muốn bảo vệ bờ cõi chống các thế lực xâm lược của tiền nhân. Bảng di tích lịch sử chùa Bồng Lai. Truyền thuyết về ông Đạo Lập Theo quyển "Khảo cứu lịch sử giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương" của ông Trần Văn Quế - nguyên giảng sư lịch sử Trường đại học Vạn Hạnh và Đại học Văn khoa Sài Gòn (trước năm 1975) thì ông Đạo Lập là 1 trong 12 vị đại đệ tử của Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên. 12 vị đại đệ tử này được tín đồ gọi là "Thập nhị hiền thủ". Ông Đạo Lập có tên khai sinh là Phạm Thái Chung, nguyên quán ở Cồn Tiên, làng Đa Phước, huyện An Phú, tỉnh An Giang (ngày nay là xã Đa Phước). Là người lập nên chùa Bồng Lai nên dân địa phương gọi ông là Đạo Lập. Lúc sinh thời, Phật Thầy Tây An đặt pháp danh cho ông là Sùng Đức Võ Tiên Sinh và thường gọi ông là Đức tiên sinh. Hiện nay, trong bài vị thờ ông tại chùa Bồng Lai lại ghi là "Bồng Lai La Hồng Tiên Sinh". Không có tài liệu nói ông được xếp hàng thứ mấy trong "thập nhị hiền thủ" nhưng chắc chắn ông là người được Phật Thầy Tây An cắt cử lập làng Bài Bài từ khi khai sáng đạo. Sau khi chiêu mộ dân tứ xứ về lập làng, ông cất ngôi chùa Bồng Lai để tu hành và mở phòng thuốc nam trị bệnh cho dân làng. Khi Cố quản Trần Văn Thành lập chiến khu Bãi Thưa - Láng Linh, chùa Bài Bài được chọn làm nơi chôn 1 trong số 5 cây thẻ trấn biên phù của Phật Thầy Tây An. Cho đến tận bây giờ, những tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo vẫn tin rằng thuở sinh tiền, ông Đạo Lập được Phật Thầy Tây An truyền mật pháp thần thông, biết đi mây về gió, dùng phù chú trị bệnh. Ông Huỳnh Văn Thiện (đã qua đời) là người từng theo ông Đạo Lập sang núi Tà Lơn tu luyện đã từng kể cho con cháu nghe rất nhiều chuyện về tài hô phong hoán vũ của ông Đạo Lập. Ông Hai - cháu nội ông Thiện, cư ngụ tại thị xã Châu Đốc cho biết: "Có lần ông nội tôi chứng kiến sư Cố (tức ông Đạo Lập) dùng thần chú điều khiển chiếc tàu không người lái chạy lòng vòng trên sông. Có năm ông nội tôi và một người tên Ngạc theo sư Cố sang núi Tà Lơn tu luyện. Một hôm, sư Cố có việc phải rời khỏi cốc. Đêm đó, ông Ngạc bị trúng gió lăn ra chết bất đắc kỳ tử. Ông nội tôi ôm xác bạn lo lắng suốt đêm. Giữa rừng hoang vu lấy đâu ra chiếu để tẩn liệm. Sáng sớm hôm sau, ông nội tôi ra bìa rừng ngóng trông thì thấy từ xa sư Cố xách gói đồ và chiếc chiếu. Ông nội chưa kịp nói gì thì sư Cố bảo mấy thứ này dùng để tẩn liệm ông Ngạc". Nữ sĩ Mộng Tuyết nhóm "Hà Tiên tứ tuyệt" (gồm: Mộng Tuyết và chồng là thi sĩ Đông Hồ, Lư Khê, Trúc Hà) đã từng đưa ông Đạo Lập vào bút ký “Ông Đạo Lập quá hải”: Từ trang 356 đến trang 358, bà kể về một chuyến dùng thuyền buồm vượt biển đi buôn của cha bà. Trước khi ra khơi, ông có xin ông Đạo Lập 3 lá bùa hộ mạng. Khi ra đến cửa biển, chiếc thuyền buồm bất ngờ gặp một con kình ngư khổng lồ tấn công. Nhờ ông Đạo Lập dùng phép, chiếc thuyền vượt qua kình ngư về đến đất liền an toàn. Người dân địa phương cho rằng, khi muốn qua sông, ông Đạo Lập chỉ cần đạp nón lá lướt sóng. Do nuôi ý đồ lập làng kháng chiến nên ông Đạo Lập trở thành nhân vật bị truy nã của thực dân Pháp. Để ẩn giấu tông tích của ông, các tín đồ không được phép sử dụng tài liệu ghi chép. Vì vậy, không ai nhớ ông sinh năm nào và mất năm nào. Các tín đồ chỉ nhớ ngày giỗ của ông hàng năm vào ngày 29/9 (âm lịch). Theo di ngôn, khi ông qua đời, ngôi mộ được lập ở Vĩnh Ngươn, Châu Đốc nhưng không được đắp nấm. Ngày nay, không ai còn biết chính xác vị trí ngôi mộ ở đâu. Bàn thờ ông Đạo Lập trong chùa Bồng Lai. Giải mã những hiện tượng kỳ bí xảy ra trước năm 1975 Vào những năm 1965 - 1972, chùa Bồng Lai được chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đặt trong vùng biệt khu số 44 (gồm Kiến Phong, Châu Đốc và một phần Kiên Giang). Thời điểm này ngôi chùa trở nên linh thiêng, nhiều chuyện huyền bí xảy ra khiến ít người dám bén mảng đến nhất là lực lượng thám báo của lính Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Lúc đó chưa có cầu treo, con kênh Vĩnh Tế cắt ngang khiến Bài Bài trở thành một ốc đảo tiếp giáp đất bạn Campuchia. Có lần viên Thiếu tá Chi khu Châu Đốc biệt phái một thám báo viên gan dạ nửa đêm giả làm dân câu vượt sông mò lên chùa Bồng Lai để tìm thông tin về lực lượng cách mạng. Không hiểu người thám báo này đã gặp chuyện gì mà sáng hôm sau người ta thấy ông ta đi lơ ngơ trong trạng thái tâm thần bất ổn, miệng cứ lảm nhảm mỗi một câu: "Ông già râu dài tha cho con". Sau đó, người này được đưa đi bệnh viện tâm thần điều trị. Lần khác, viên thiếu tá đích thân chỉ huy một trung đội biệt động được tăng viện về Châu Đốc dùng tàu tuần duyên bất ngờ vượt kênh Vĩnh Tế xông lên chùa để "bắt gọn ổ Việt Cộng". Khi xộc vào chùa, toán lính không thấy một bóng người. Một người lính đứng tiểu ngay góc chánh điện. Bất ngờ người lính này ngã lăn ra, co giật liên hồi. Mọi người xúm lại cấp cứu, bất ngờ anh ta ngồi bật dậy rượt đuổi mọi người cắn đến đổ máu. Cuộc hành quân trở nên hỗn loạn, viên thiếu tá cho trói gô người lính điên rồi lui quân. Khi về đến Châu Đốc, viên thiếu tá phải nhờ một tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương có giữ một mẩu "ông thẻ" mài ra bột hòa nước cho người lính uống mới hóa giải được. Trong thời gian Nguyễn Văn Thiệu ứng cử tổng thống VNCH lần thứ 2 vào năm 1971, nhiều người dân sống phía bờ bên đây kênh Vĩnh Tế chứng kiến một hiện tượng lạ. Cứ hễ đêm về là người ta thấy một cục lửa màu xanh không phát tia cứ bay qua lại từ nóc chùa Bồng Lai đến một ngọn cây cổ thụ tới sáng. Thấy hiện tượng lạ, mặc dù đó là vùng chính quyền VNCH cấm lai vãng nhưng hàng đêm người ta vẫn lén lút đi xem. Nhiều người dân địa phương sinh sống lâu năm ở vùng đất này có thể kể suốt năm không hết kho chuyện kỳ bí xảy ra quanh ngôi chùa cổ Bồng Lai. Họ tin tuyệt đối vào những chuyện huyền bí đó. Tuy nhiên, ông Ba Cư - một cựu chiến binh, 79 tuổi, hiện cư ngụ tại Lấp Vò, Đồng Tháp đã từng là bộ đội chủ lực ém quân tại chùa Bồng Lai khẳng định: "Tất cả những điều kỳ bí đó đều là sản phẩm của chúng tôi. Phải dùng xảo thuật như vậy để tụi lính ngụy, tụi Phượng hoàng (gián điệp) không dám bén mảng tới nơi chúng tôi ém quân". Dù những chuyện hiển linh không có thật nhưng di tích Ông Thẻ, “Cao Biền trấn phù bia” và những câu chuyện truyền khẩu cũng là một di sản lịch sử chứng minh tinh thần yêu nước bất khuất của tiền nhân Nông Huyền Sơn Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 3, 2014 Vua Gia Long và phong thủy kinh thành Huế Sau ngày lên ngôi, vua Gia Long đích thân nghiên cứu tìm hướng tốt và cuộc đất thuận tiện xây dựng kinh thành Huế. Đáp ứng lòng người trước khi định đô Dân cư của 8 làng phải di dời đi nơi khác gồm: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hòa, An Mỹ, Thế Lại, An Bửu, trong đó đất làng Phú Xuân hầu hết đều nằm gọn trong phạm vi kinh thành sẽ xây. Vì thế, vua Gia Long đã cấp 30 mẫu ruộng, 3 khoảng đất để dựng nhà và 1000 quan để giúp dân Phú Xuân – 7 làng còn lại theo tài liệu của Tả tham tri Bộ binh Võ Liêm mỗi nhà “được cấp 3 lạng và mỗi ngôi mộ dời đi được cấp 2 lạng”. Nhà vua nghĩ rằng việc đền bù nhà cửa, ruộng vườn cần phải chu đáo, giữ yên lòng dân để bắt tay xây dựng trên tổng diện tích 520ha và chu vi 9.889m. Huỳnh Đình Kết nhận định đây là đợt giải tỏa lớn, triệt để và khẩn trương, tiến hành trong vòng 2 năm, riêng phần mộ vắng chủ quy tập về nghĩa trang Ba Đòn có đến 10.000 ngôi. Ngọ môn Huế. Di dời xong, Gia Long chọn ngày tốt vào tháng tư âm lịch, nhầm 9.5.1804 dương lịch để bắt tay xây dựng vòng trong thành (vòng trong của Đại Nội) với tổng chu vi 4 cạnh là 307 trượng, 3 thước 4 tấc (1.229m), thành bằng gạch cao 9 thước 2 tấc (3m68) và dày 1 thước 8 tấc (0m72) – theo Võ Liêm. Sau đó, công việc tiếp tục qua nhiều giai đoạn, song nhìn toàn cục kinh thành Huế quay mặt về hướng Đông nam (Tốn) thay vì hướng chính Nam như các vua chúa thường chọn theo thuật phong thủy để xây cung điện của mình. Vì sao vua Gia Long lại quyết định chọn hướng như thế? Nguyễn Đăng Khoa đề cập đến trong Kỷ yếu Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam, số 7 1991 rằng, những công trình kiến trúc của kinh thành Huế được tiến hành theo một hệ thống các quy tắc hết sức nghiêm ngặt của các hình thế núi sông, long mạch “mặt bằng và độ cao thấp của địa hình được người xưa quan niệm đó là văn của đất, có cao, thấp, là có sông, suối, đầm, núi, tạo ra những nhịp điệu riêng của từng vùng – những nhịp điệu lớn chung của nhiều vùng nhỏ tạo ra những đại cuộc đất”. Cụ thể hơn, Trần Đức Anh Sơn qua tài liệu về tư tưởng quy hoạch kinh thành Huế thời Gia Long giới thiệu trên tập Cố đô Huế xưa và nay do Hội Khoa học lịc sử Thừa Thiên – Huế và NXB Thuận Hóa ấn hành 2005, đã cho biết nội dung cuộc trao đổi với một người trong hoàng tộc uyên thâm về dịch học, lý số, phong thủy là học giả Vĩnh Cao theo 4 ý chính, nguyên văn: 1. Kinh đô, theo quan niệm phong thủy ngày xưa đều hướng về Nam nhưng ngay tại vùng Thừa Thiên, mạch núi Trường Sơn, đặc biệt là quần sơn kề cận kinh đô cho đến dãy Bạch Mã đều chạy theo hướng Tây bắc – Đông nam. Dựa vào thế đất ấy, kinh thành nhìn về hướng Đông Nam là tốt nhất. 2. Theo thuật phong thủy thì bất cứ một ngôi nhà hay cung điện gì thì ở phía trước gọi là chu tước (chim sẻ đỏ) thuộc hướng Nam, hành hỏa. Phía trái (từ ngoài nhìn vào) gọi là bạch hổ (hổ trắng) thuộc hướng Tây, hành kim. Phía phải gọi là thanh long (rồng xanh) thuộc hướng Đông, hành mộc. Phía sau gọi là huyền vũ (rùa đen) thuộc hướng Bắc, hành thủy. Đặt kinh thành dựa theo hướng thiên nhiên, dùng ngũ hành mà sinh khắc chế hóa để sửa đổi, tạo thế quân bình, rồi dùng ngũ hành mà tạo lục thân để đoán vị và quy hoạch, bố tri cung điện. 3. Phong thủy cũng quan niệm rằng: phía Tây thuộc về chủ; phía Đông thuộc về thê thiếp, bạn bè ti bộc, vật giá, châu báu, kho đụn, vật loại… tức là những thứ mà chủ sai khiến, sử dụng; phía sau thuộc về tử tôn, môn sinh, trung thần, lương tướng. Từ đó, việc bố trí các cung điện, dinh thự… trong Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành cũng dựa vào nguyên tắc này mà phân bổ chức năng. 4. Kinh thành Huế xây dựng ở vùng đất có nước phủ bốn bề, theo phong thủy là nơi tụ thủy, đất phát tài. Nhưng phía Tây kinh thành lại có khí núi xung sát, sông Hương uốn khúc vì thế hành kim rất vượng. Điều này sẽ có hại cho phía Đông, chủ hành mộc (kim khắc mộc). Mộc yếu sẽ dẫn đến sự hạn chế về của cải, dân chúng, thương mại…, kim động sẽ gây hại cho dương trạch nên dễ sinh tật bệnh, tổn hại gia đạo. Vì thế phải xây chúa miếu ở phía Tây để trấn. Đó là lý do ra đời Văn Miếu, chùa Thiên Mụ ở phía Tây kinh thành Huế. Sơ đồ kinh thành Huế. Vận dụng dịch lý và thuật phong thủy bên bờ sông Hương Bốn điều do học giả Vĩnh Cao lưu ý trên đây, theo nhận định của Trần Đức Anh Sơn đều xuất phát từ sự vận dụng dịch lý và thuật phong thủy vào địa hình cụ thể của Huế. Trước hết, hướng của kinh thành Huế quay mặt về Đông nam là do địa hình chi phối, vì nếu quay về hướng chính Nam như thường thấy Huế sẽ “lập với con sông Hương chảy theo hướng Tây nam – Đông bắc, ngang qua kinh thành một góc ước khoảng 45 độ, các yếu tố phong thủy như Minh đường, Thanh long, Bạch hổ… sẽ không còn giá trị. Trong khi đó, quay mặt về hướng Đông nam, kinh thành Huế sẽ có con sông Hương làm yếu tố Minh đường và hưởng được tính chất tốt của hai hòn đảo nhỏ tức Cồn Hến và Dã Viên. Thật vậy, theo GS. Nguyễn Thiệu Lâu, đảo Thanh Long và đảo Bạch Hổ cùng quay đầu về kinh thành để các luồng âm và dương thổi qua bảo vệ”.Nói rõ hơn, Nguyễn Đăng Khoa qua tài liệu đã dẫn, nhận xét: “Sông Hương theo cách nhìn địa lý cổ, là một dòng sông chảy ngược từ phía Nam lên phía Bắc. Theo quan niệm trong Kinh dịch thì gốc của thủy phải ở phía Bắc và chảy về Nam (khởi từ Khảm và tụ về Ly). Tất nhiên, ở Huế, dòng chảy của sông Hương do địa hình quy định, phía Nam sông Hương là vùng đồi núi cao, hợp lưu của hai nhánh sông Tả và Hữu trạch. Hai dòng nước này hợp lại ở thượng nguồn sông Hương, giữa 3 khu núi cao là Kim Phụng, Thiên Thọ và núi Vưng. Nhìn rộng ra thì cả khu vực đồi núi này bắt nguồn từ Trường Sơn, tạt ngang ra biển, tạo nên một đại cuộc đất là Hoành Long. Dòng sông Hương trong lặng tỏa rộng về phía Bắc ra cảng Thuận An. Dòng nước uốn lượn nhiều lần qua đồi Vọng Cảnh, chảy về phía Nguyệt Biều, rồi lật trở lại chảy qua mặt thành. Theo sách Địa đạo diễn ca của Tả Ao thì long mạch uốn lượn gấp khúc càng nhiều thì càng chứng tỏ đất có nhiểu sinh khí. Mặt đất nhược dần về phía kinh thành tạo ra một vài thế đất kết tụ gọi là Thủy Hử (phần đất được sông đổi hướng chảy ôm lấy tạo thành). Những loại mạch sơn cước như vậy khi xuống thấp thấy hiền hòa hơn, chính là nơi tạo ra những huyệt địa kết phát. Vua Gia Long đã chọn được khu vực tốt cho việc xây thành, lập kinh đô. Thành có án, có tả thanh long, hữa bạch hổ triều củng, có “thủy đáo điện tiền” và đoạn sông trước thành đồng thời đóng vai trò minh đường cho thành”. Bờ thành kinh thành Huế. Dãy súng đại bác trước Ngọ môn. Đến đây, thiết tưởng chúng ta cần tham khảo thêm tài liệu của một học giả uy tín người Pháp qua cuốn Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan học giả L.Cadiere, bản dịch của Đỗ Trinh Huệ, tài liệu này đưa ra giả thuyết vua Gia Long “khi bắt đầu xây dựng Hoàng thành và Tử cấm thành ngày 9.5.1804, ngày “Kỷ Vị” thì vào ngày 1.5.1803, ngày “Ất Vị”, ông ta đã phân định La thành, ngày “Quý Vị” 28.5.1805, nhà vua cho dựng lên thành lũy, ban đầu bằng đất rồi dần dần bằng gạch. Bằng những việc làm trên, có lẽ Gia Long đã hết sức củng cố thêm những phòng thủ ma thuật thiên nhiên mà tiên chúa Ngãi Vương đã dùng tới…Các cung điện của kinh thành đều có ghi rõ ràn các can chi, ngày khởi công xây dựng. Các bảng ghi ngày tháng xây dựng đều có ghi ngày tốt giờ tốt. Hẳn rằng, Gia Long khi cho xây dựng đều cho tuân thủ các tập tục này: họ chọn ngày tốt và ngày hôm đó họ cũng thực hiện một thao tác quan trọng bậc nhất, đó là việc thượng lương. Trước hôm đó, họ cho chuẩn bị kỹ lưỡng: ban đất, chuẩn bị nền móng, trụ cột, bào đẽo các cột kèo…. Cũng như ở Tây phương, người ta tổ chức long trọng lễ đặt viên đá đầu tiên, nhưng ngày hôm đó không chính xác là ngày khởi công. Vì thế nên hiểu ý nghĩa của ngày tháng được nêu trong văn bản về các việc xây dựng kinh thành Huế”. Công trình kiến trúc kinh thành được tiếp tục vào thời vua Minh Mạng ra sao? Theo Tạp chí Duyên dáng Việt Nam Share this post Link to post Share on other sites
Posted 2 Tháng 4, 2014 Bí mật kiến trúc của kinh đô Bắc Kinh Phật Hương các trên Vạn Thọ Sơn, phía dưới là hồ Côn Minh. Bắc Kinh là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Căn cứ các số liệu mới được công bố gần đây thì diện tích tự nhiên của Bắc Kinh là 16.808 km2 được mở rộng trong đó khu nội đô là 2.738 km2. Số dân của Bắc Kinh là 10.819.000 người gồm đủ 56 dân tộc, trong đó dân tộc Hán chiếm 96%. Nằm trên đỉnh phía bắc của bình nguyên Hoa Bắc, lưng dựa vào dãy núi Yên Sơn và cao nguyên Nội Mông hùng vĩ, phía tây là dãy Thái Hoàng Sơn, phía đông là vịnh Bột Hải, phía nam là vùng đồng bằng rộng lớn, Bắc Kinh là 1 trong 6 kinh đô của các triều đại Trung Quốc (TQ) với bề dày hơn 3.000 năm lịch sử. UNESCO đã đánh giá Bắc Kinh là một trong những kinh đô còn giữ được những kiến trúc cổ từ hàng mấy ngàn năm trước và rất nhiều trong số đó được bảo tồn hầu như nguyên vẹn cho tới ngày nay. Bắc Kinh cũng được đánh giá là một trong những thủ đô có phong cách kiến trúc hiện đại, nhưng cũng là thủ đô mang đậm “tính phương Đông điển hình”. Theo các nhà địa lý và phong thủy học thì một trong những nguyên nhân để Bắc Kinh có được những đặc điểm đó vì Bắc Kinh ở vào vị trí đặc biệt, là nơi “hội tụ Trung Hoa linh khí chi địa” (nơi hội tụ của khí thiêng Trung Hoa). Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến nhiều thế hệ các nhà khoa học TQ và thế giới bỏ ra nhiều công sức để nghiên cứu Bắc Kinh. Bằng nhiều con đường nghiên cứu khác nhau, trong đó có việc tiếp cận vấn đề theo phương pháp truyền thống dân gian (mà người TQ gọi là phong thủy học) kết hợp với việc sử dụng những phương tiện nghiên cứu hiện đại (như sử dụng ảnh vệ tinh đa chiều, chụp ảnh bằng hồng ngoại, viễn thám, địa chất, địa đồ, kiến trúc...) các nhà khoa học TQ và thế giới đã phát hiện ra những đặc điểm “rất lạ lùng” trong kiến trúc xây dựng thành cổ Bắc Kinh của người xưa. Một trong những “đặc điểm lạ lùng” đó là bố cục hình tượng “song long” (hai con rồng) trong bố cục toàn cảnh kiến trúc của Bắc Kinh. Con rồng thứ nhất được gọi là “thủy long” (rồng nước), còn con thứ hai là “lục long” (rồng cạn) vô cùng kỳ thú. Quả thực nếu quan sát từ trên máy bay hoặc căn cứ vào bản đồ thực địa, người ta dễ dàng nhận ra ngay hình tượng của hai con rồng đó. Toàn bộ hệ thống các hồ đầm của Bắc Kinh đã tạo ra một "thủy long" hướng theo hướng tây bắc cực kỳ sinh động. Thủy long có đầu là Nam Hải, mắt là đảo Hồ Tâm, thân được tạo bởi Trung Nam Hải và Bắc Hải, còn Thập Sa hải chính là phần đuôi. Lục long thì lại được tạo nên bởi hệ thống trục đường giao thông chính của Bắc Kinh. Thiên An Môn chính là cái mõm, Kim Thủy kiều là cái sừng, hai đường đông và tây Tràng An chính là hai cái râu, cả một dải từ Thiên An môn đến Ngọ môn chính là cái mũi. Thái Miếu và di chỉ của đền Xã Tắc chính là hai cái mắt, Cố Cung là phần thân và phần xương đuôi, 4 ngôi lầu ở 4 góc hợp thành 4 cái móng. Đường Cảnh Sơn, đường Địa An môn và Chung Cổ lầu tạo thành dải đuôi. Còn Chính Dương môn như một hạt bảo ngọc mà rồng đang vươn tới, tạo thành một lục long với thế rất phi phàm khiến người ta phải kinh ngạc. Có thể bố cục “song long” của Bắc Kinh được hoạch định ngay từ khi được khởi công xây dựng vào triều Minh (1368-1644), bởi hình tượng “rồng” phản ánh tư tưởng “quân, thần” (vua, tôi) rất được đề cao trong giai đoạn lịch sử này. Nhìn từ một góc độ nào đó thì người xưa đã quan niệm Bắc Kinh là “hưng long chi địa” (mảnh đất của rồng), còn các bậc đế vương là “thiên hạ long chủng” (vua là rồng từ trên trời xuống). Đây được đánh giá là nét đặc sắc nhất trong việc áp dụng những tri thức về mặt phong thủy học phương Đông vào trong quy hoạch tổng thể cũng như trong từng khu riêng biệt của những kiến trúc sư khi tạo dựng nên kinh đô Bắc Kinh. Và đây cũng có thể là một đặc điểm hiếm thấy ở bất kỳ một thành phố nào khác trên thế giới. Không chỉ có sự kỳ lạ trong bố cục toàn cảnh, mà khi đi sâu tìm hiểu kiến trúc của các khu vực riêng biệt, thì hình như mỗi khu của Bắc Kinh cũng có những đặc điểm kỳ lạ. Thí dụ như việc phát hiện ra “tọa nhân tượng” (tượng người ngồi) tại khu công viên Cảnh Sơn. Cảnh Sơn là khu công viên nằm đối diện với cửa Thần Vũ thuộc cửa Bắc của Tử Cấm Thành. Thời Nguyên thì đây là một gò đất nằm trong khu nội đô có tên là Thanh Sơn. Đến năm Vĩnh Lạc thứ 10 (1416) thuộc triều Minh, khi tiến hành xây dựng các cung điện, người ta đã mang các phế thải khi phá bỏ các thành lũy cũ của triều Nguyên cũng như các đất cát từ việc nạo vét các con sông bảo vệ Tử Cấm Thành, đổ vào đây, tạo thành một trái núi được gọi là Vạn Tuế sơn. Với hàm ý dùng để trấn áp “vương khí” của triều Nguyên, nên núi này còn được gọi là Trấn Sơn. Theo truyền thuyết về hoàng cung, thì tại đây có tích chứa rất nhiều than, nên còn được gọi là Môi Sơn (núi than). Đến năm Thuận Trị thứ 12 triều Thanh (1655) Môi Sơn được đổi tên thành Cảnh Sơn. Tại cuộc triển lãm trưng bày các thành tựu nghiên cứu diện mạo Bắc Kinh bằng viễn thám vào tháng 3/1987, Quỳ Trung Vũ, một chuyên gia về ảnh hồng ngoại viễn thám có gửi tới một tấm ảnh làm chấn động dư luận lúc bấy giờ: trên bức ảnh chụp từ vệ tinh bằng kỹ thuật tia hồng ngoại mặt bằng của khu công viên Cảnh Sơn (bao gồm quần thể kiến trúc đoạn từ phía bắc của Tử Cấm Thành trên trục đường Bắc Kinh và công viên Cảnh Sơn), hiện lên rõ ràng bức tượng một người đang ngồi xếp bằng tròn với đôi mắt khép hờ. Bức tượng đặc biệt này được gọi là “Cảnh Sơn tọa tượng” hay còn gọi ngắn gọn là “nhân tượng”. Phần đầu của “nhân tượng” được tạo bởi quần thể kiến trúc Thọ Hoàng điện của công viên Cảnh Sơn, trong đó Đại Điện và Cung Môn tạo thành mắt, mũi và miệng. Khuôn mặt “nhân tượng” đang phảng phất mỉm cười. Phần lông mi được tạo bởi tổ hợp các hàng cây. Riêng bộ râu được tạo bởi rừng cây có hình tam giác cực kỳ đối xứng, mặc dù nó đã bị tường bao phía ngoài của Thọ Hoàng điện làm gián đoạn. Qua việc phân tích rất cẩn thận và công phu, người ta còn nhận thấy những bức tường vây quanh 4 phía của Công viên Cảnh Sơn tạo thành khung của bức tượng tuân theo đúng “tỉ lệ vàng” 0.32 trong xây dựng. Nếu quả thật đây đúng là bức tượng người được tạo ra theo ý định trước, thì nó là bức tượng người được tạo ra lớn nhất thế giới. Sau này đã có rất nhiều tấm ảnh chụp từ vệ tinh bằng những phương pháp khác nhau về diện mạo của khu vực. Và trên tất cả các tấm ảnh đó người ta đều thấy “nhân tượng” hiện ra rất rõ ràng. Vậy thì bức tượng người ngồi Cảnh Sơn là tượng của ai? Qua quá trình nghiên cứu, Quỳ Trung Vũ phát hiện ra một điều bí mật. Ở đầu cực bắc trên tuyến đường trục của Cố Cung có ngôi điện Khâm An được xây dựng vào thời Vĩnh Lạc (triều Minh). Trong điện có thờ một bức tượng được gọi là tượng thủy thần Huyền Vũ đế. "Huyền" có nghĩa là "màu đen", “Vũ” được người xưa giải thích là “ô quy xác” (vỏ của con rùa đen). Theo phong thủy thì “huyền vũ tại ngũ phương” là biểu thị của "bắc phương" (phương bắc), “tại ngũ hành trung” biểu thị cho “thủy” (nước). Vì ngôi điện này hầu như không bao giờ được mở cửa nên bức tượng và những đồ vật có từ thời Minh hầu như vẫn còn được bảo quản nguyên vẹn. Khi đối chiếu bức tượng Huyền Vũ đế trong Khâm An điện với “nhân tượng” thì rõ ràng hai bức tượng là rất giống nhau, chúng chỉ khác nhau về kích cỡ mà thôi. Vậy liệu tượng Huyền Vũ đế và tượng Cảnh Sơn có mối liên quan gì không? Phải chăng tượng Huyền Vũ đế là “bản mẫu thu nhỏ” để người ta tạo ra “nhân tượng khổng lồ”? Và tại sao “nhân tượng” lại xuất hiện tại Công viên Cảnh Sơn, nằm trên trục đường chính của Bắc Kinh? Để giải đáp mối thắc mắc đó, Quỳ Trung Vũ đã tự mình bỏ công nghiên cứu và nhờ rất nhiều học giả có uy tín trong đó có Phổ Kiệt tiên sinh, một chuyên gia về thư tịch cổ, xin tư vấn để làm rõ về sự liên quan đó cũng như cho câu hỏi liệu rằng bức “nhân tượng” được tạo ra một cách có ý đồ kiến trúc hay là được hình thành do ngẫu nhiên? Nếu như “nhân tượng” được tạo ra là có ý đồ, thì chắc phải có tài liệu (bản vẽ, tranh vẽ hoặc văn bản...) nói về điều này. Nhưng đáng tiếc là cho tới nay người ta vẫn chưa tìm được bất kỳ tài liệu nào minh chứng cho điều này. Một địa điểm xây dựng nữa của Bắc Kinh cũng mang tính kỳ bí không kém, đó là Di Hòa viên. Di Hòa viên là một công viên nằm ở phía tây Bắc Kinh, diện tích khoảng 290 hécta, trong đó 3/4 là diện tích mặt nước. Đây là khu vui chơi giải trí nổi tiếng dành riêng cho hoàng gia của các triều đại Trung Hoa. Lịch sử đã ghi nhận, khu công viên này được hình thành từ triều Kim (1115 - 1234). Tại đây các vị hoàng đế nhà Kim đã dựng lên vô số những hành cung nguy nga và những khu giải trí cực kỳ xa xỉ. Từ đó các triều đại tiếp nối nhau xây thêm nhiều công trình hoành tráng khác. Đến đời Vua Càn Long (1736-1796) nhà Thanh, quy mô khu công viên không những đã mở rộng một cách đáng kể, mà còn được xây thêm nhiều công trình mới, và đổi tên là Thanh Ý viên. Năm 1860 liên quân Anh - Pháp tấn công Bắc Kinh đã tràn vào đây cướp bóc, đốt phá khiến Thanh Ý viên tan hoang. Năm 1888, Từ Hy Thái Hậu đã lấy 500 vạn lạng bạc vốn dĩ dùng để xây dựng hải quân, trùng tu lại Thanh Ý viên thành một công viên tráng lệ, và đổi tên thành Di Hòa viên (khu vườn di dưỡng tinh thần). Di Hòa viên mà ta thấy ngày nay chính là những gì được tạo ra từ lần trùng tu này. Nổi bật ở chính khu trung tâm là Phật Hương các, một ngôi chùa nhiều tầng nguy nga lộng lẫy nằm trong khu Vạn Thọ sơn, nơi để Từ Hy niệm Phật. Dưới chân Vạn Thọ sơn là hồ Côn Minh bao la gợn sóng. Một bến thuyền có hình dáng là một chiếc thuyền làm bằng đá nhô ra mặt hồ, ngay dưới Phật Hương các là nơi đón du khách lên thuyền dạo trên hồ. Men theo bờ hồ là một dãy hành lang dài 728 mét gồm nhiều gian, mỗi gian được kiến trúc khác nhau với những hình vẽ vô cùng tinh xảo mang đậm tính nghệ thuật Trung Hoa... Giữa hồ Côn Minh là hòn đảo nhỏ được nối với bờ bằng một chiếc cầu vồng làm bằng đá gồm 77 nhịp có tên là Thập Thất Khổng kiều. Cho tới ngày nay, Di Hòa viên vẫn được coi là một trong những công viên đẹp nhất thế giới. Di Hòa viên không những chỉ là một công viên đẹp, được coi là một kiệt tác về kiến trúc, mà người ta còn đồn rằng toàn bộ khuôn viên của Di Hòa viên đã được xây dựng theo bố cục rất chặt chẽ về mặt phong thủy thể hiện ý tưởng Phúc Lộc Thọ, theo một mật chỉ của Từ Hy Thái Hậu. Đã có nhiều người bỏ công nghiên cứu để tìm hiểu bí mật ẩn chứa trong Di Hòa viên, nhất là tìm hiểu xem có thật Di Hòa viên có bố cục thể hiện ý tưởng Phúc Lộc Thọ hay không, và nếu có thì nó đã được thể hiện như thế nào. Bước đột phá có tính chất quyết định để trả lời cho câu hỏi này là từ khi các nhà nghiên cứu có trong tay những bức ảnh chụp toàn cảnh Di Hòa viên từ vệ tinh bằng kỹ thuật có độ phân giải siêu cao và kỹ thuật chụp hồng ngoại. Khi những tấm ảnh này được công bố, các nhà nghiên cứu đã vô cùng kinh ngạc về bố cục kỳ lạ của Di Hòa viên. Nhìn vào những tấm ảnh ta thấy ngay hồ Côn Minh có hình dáng là một quả đào lớn mà cuống của nó là con sông dẫn nước vào hồ qua cửa Tây Môn quan nằm ở góc phía bắc của Di Hòa viên. Con đê hẹp mà dài ở phía chếch mặt hồ tạo ra vết rãnh trên quả đào rất hoàn chỉnh. Dãy hành lang dùng làm đường đi lại men theo hồ Côn Minh ngay sát chân Vạn Thọ sơn thì giống như đôi xương cánh của một con dơi đang dang ra. Đường hành lang ở bờ bắc hồ Côn Minh thì rõ ràng là hình một cánh cung mà phần thâm nhập vào lòng hồ hình thành phần đầu của con dơi, phần nhô ra một cách đơn độc được dùng làm bến thuyền cho khách du ngoạn hồ Côn Minh chính là mõm của con dơi đó. Đường hành lang vươn dài sang hai phía tả hữu chính là đôi cánh dơi đang vươn ra. Đoạn hành lang ở phía đông và mái hiên nhà Ngư Tảo thâm nhập vào mặt nước và bởi đoạn hành lang ở phía tây tạo thành đôi móng chân trước của con dơi, còn núi Vạn Thọ sơn và cái hồ phía sau núi tạo thành thân của con dơi. Thập Thất Khổng kiều ở phía đối diện Vạn Thọ sơn thì đúng là chiếc cổ của một con rùa đang vươn dài, mà đầu của nó chính là hòn đảo nhỏ giữa hồ Côn Minh. Vì trước đây không có được bức ảnh chụp toàn cảnh Di Hòa viên nên kiến trúc độc đáo của nó ít người nhận ra. Ngay cả Từ Hy Thái Hậu mặc dù đã lên tầng cao nhất của Phật Hương các trên đỉnh Vạn Thọ sơn thì cũng chỉ nhìn thấy một cách đại khái hình trái đào, cái đầu và cái cổ con rùa cũng như cái đầu và đôi móng con dơi. Những phần còn lại thì không thể nhìn thấy, nhất là phần thân con dơi do bị những kiến trúc khác che lấp. Theo thuật phong thủy truyền thống Trung Hoa thì quả đào tượng trưng cho Lộc, con dơi tượng trưng cho Phúc, còn rùa tượng trưng cho Thọ. Như vậy cấu trúc tổng thể của Di Hòa viên ẩn trong nó cả 3 điều mà Từ Hy mong muốn là Phúc Lộc Thọ đã được thể hiện bằng những hình tượng tuyệt vời. Phải chăng chính cấu trúc này là điểm khác biệt cực kỳ đặc sắc mà không có ở bất cứ một công viên nào khác tại TQ cũng như trên thế giới. Share this post Link to post Share on other sites