hoangnt

Biên Giới Phía Nam Nước Việt Cổ - Hồ Tôn Tinh

134 bài viết trong chủ đề này

Mặt trời - trống đồng và đạo Hiếu

Do qúa cổ xưa về ngôn ngữ và tôn giáo, chúng ta có thể bố cục lại các tôn giáo thời Hùng Vương như sau:

Phương Đông: Phật giáo (trước đó gọi là Thần Đạo);

Phương Tây: Lão giáo (Tiên Đạo);

Phương Nam: Đạo Mẫu (Đạo Chúa);

Phương Bắc: Đạo Nho (Thánh Đạo) và

Trung tâm: Đạo Hiếu (tên chính xác là Thiên Đạo).

Chúng ta cũng chú ý, Đạo Mậu gọi là Đạo Chúa, chữ Chúa này thiên về Âm, nữ, cái đến sau... cho nên có tích truyện Bà Chúa Ba, Chúa Mẫu Thoải. Đặc biệt, "Bậc thầy giác ngộ" Ấn Độ là OSHO cũng cho rằng, "Chúa" thiên về người mẹ, người nữ. Do vậy, Kitô giáo có Chúa Trời, Chúa Jesus... thực ra "tên gọi" đã quá xa thời khởi đầu của Hùng Vương, mà Thiên Đạo đã truyền tới vào 5000 năm trước.

Vấn đề ý nghĩa ngôn từ, chúng ta sẽ có: Đế - Vương (nối Tam Tài) - Chúa. Do vậy, trong Tiên Giáo thì vua Lạc Long Quân còn được gọi là Thánh Chúa (Thiên Tử - con Trời tức vua Kinh Dương Vương) - hợp nhất Âm Dương. Sau này, vua chúa Trung Hoa thường gọi mình là "con Trời" là vậy.

Vấn đề ý nghĩa gốc của các từ trên, chắc phải nhờ Bác LanMien giải mã vậy.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đi Chùa Hương 1993

December 8, 2012 – 20:17 Ði Chùa Hương

Tìm Loài Hoa

Ba Nghìn Năm Mới Xuất Hiện Một Lần

Có những giấc mơ rất khó đoạn diệt, kéo dài từ tuổi thơ ấu tới tuổi trung niên, tỷ dụ như ao ước cái tên Thăng Long được trả lại cho Hà Nội, quốc hiệu Ðại Việt được trả lại cho Việt Nam v..v.. bao vết bụi bám trên đất tổ như một nghiệp dĩ, dù chỉ là những vết bụi danh từ mà nhà Phật đã dạy chẳng nên chấp nhất.

Chấp kiến đã khó cởi bỏ, chấp mộng lại càng vạn nan! Vào đời tưởng mộng xưa đã co rút lại, nào ngờ tiềm thức cứ thổi mãi lên, to dần, tròn đầy thành quả bong bóng, chúng sinh như đàn trẻ con cầm lấy đầu dây, buông thì tiếc, giữ thì mỏi tay !

**

Và tôi đã trở về Thăng Long sau 39 năm. Mới năm nào chớm thu bắt chước người lớn mắt ứa lệ qua cầu Long Biên, hôm nay một ngày tàn thu trở lại, mắt đã khô như sa mạc và lòng bình thản nhìn tuồng ảo hóa như một cơn bụi lốc của mê tâm. Những trang kinh Kim Cương, Pháp Hoa…quả có tác dụng giải thoát của nó…, tôi lần bước bên Hồ Gươm lối đi học năm xưa, lấy tay sờ lên mấy viên gạch cổ miếu chỗ Vua Lê từng ngồi câu cá và là chỗ bán lạc rang của ông già Tàu nổi tiếng thời 1950… bên kia vườn hoa Chí Linh, từng chiếc lá vàng rơi lác đác trong cơn mưa phùn.

Nhưng Thăng Long mới chỉ là cuốn sử ngàn năm tiêu biểu cho phần ý thức lịch sử dân tộc, muốn tìm tới phần tiềm thức lịch sử, nằm sâu thẳm trong huyền linh siêu việt, phải đi vào động Hương Tích. Ở vào thời Thủy Tinh dâng nước lên đánh Sơn Tinh cách đây bốn nghìn năm, châu thổ sông Hồng còn bị sũng nước, dân tộc lúc ấy ở trên vùng đồi núi cao, vì thế cái nôi của Việt sử là khu Tam Ðảo, Hương Tích, Tản Viên, quanh quẩn trong cao độ này, nếu dùng tuệ nhãn tuệ giác, có thể ngửi thấy vết chân tổ tiên và nghe được tiếng đá của Sơn thần ném xuống loài thủy tộc…

Vào một buổi sớm tinh sương, ăn lót lòng bằng một nắm cốm gói lá sen thanh tịnh, tôi đi vào Chùa Hương, đi qua những con đường chất đống rơm rạ và những cánh đồng cày sâu cuốc bẫm. Trời lại lất phất mưa như bụi hoa linh diệu trải dầy không gian, một không gian thân thuộc êm ấm như vòng tay người mẹ ôm lấy đứa con thơ, đứa hư đốn ngỗ nghịch, đứa ngoan ngoãn hiền lành, đứa cười, đứa khóc ấm ức… Chẳng bao lâu đã tới Bến Ðục, nhưng đò nằm ở mạn dưới, chờ mươi lăm phút mới lên được chiếc đò bé nhỏ.

Ngoài cô lái đò, khách đi hành hương chỉ có hai người và một chú tiểu ăn mặc như một học sinh, tay xách máy cassette nghe kinh suốt dọc đường. Thấy giọng giảng kinh là giọng miền Nam, tôi hỏi chú ngoài này không có kinh ghi băng hay sao, chú trả lời không trực tiếp “vì các sư ở trong Nam giảng kinh hay hơn…” mãi sau trở về Thăng Long vào thăm Chùa Quán Sứ, trung tâm Phật Giáo miền Bắc, tôi mới vỡ lẽ là ngoài Bắc rất thiếu kinh sách, thiếu cả thầy tu, chứ đừng nói tới băng nhựa ghi kinh.

Mặc kệ cơn mưa bắt đầu tầm tã, trong luồng gió, tôi thấy chập chờn một bầu trời Bụt : nhấp nhô những ngọn núi xanh lam in hình dưới dòng nước lờ mờ, thỉnh thoảng bắt gặp một chú cá phe phảy đuôi vàng như vạt áo cà sa… vạn vật nơi đây đang nằm trong diễn trình Phật hóa, ngày đêm thấm nhuần từng giọt mưa Bát Nhã, từng nhịp mõ Hoa Nghiêm dưới trăng Lăng Già lồng lộng, cho đến cả cỏ cây, côn trùng, cả chim muông, lươn cá… đều trang nghiêm, cùng khách vãn cảnh, trong một sát na mở hội Diệu Hoa… Trời đất như trầm tư, con đò như rời cõi tục, nếu lời tiên tri của Trạng Trình đúng :

Bốn Bụt xuất thế đã chày

Chưa chọn được ngày tế độ muôn dân

Thì hẳn bốn Bụt sẽ xuất hiện nơi đây, nơi Phật địa này, để rải lên giang sơn gấm vóc những hạt Kim Cương cắt đứt oan cừu nghiệp báo.

Cô lái đò đã thế vừa đẩy con sào vừa đẩy đưa thêm vào thế giới siêu linh: ” ở đây có 99 con voi tất cả đều chầu về chân Phật, chỉ có mỗi một con bướng bỉnh không chịu chầu nên bị Bồ Tát phạt mất một cái mông – vừa nói cô vừa chỉ trái núi bị vạt mất một mảng – và cái mảng mông voi bị phạt đứt ấy văng sang bên kia thành một mỏm núi khác“. Câu chuyện thêm phần kỳ bí vì ở chân núi và ngay trên những eo đất lô nhô giữa làn nước mỏng còn thấy nhiều ngôi mộ cũ và mới như thể táng vào long mạch của quý địa này. Cô lái đò có giọng nói đon đả kể thêm chuyện một bọn Tàu định táng hài cốt vào giữa hang Phật bằng cách để lớp cốt ở dưới đáy đỉnh đồng, trên để hương trầm mang vào biếu nhà Chùa, nhưng sư cụ biết được nên mưu mẹo của mấy chú khách bị đổ vỡ. Truyền thuyết phong thủy có nói tới 99 ngọn núi quý ở Hồng Lĩnh và ở Kinh Bắc, không thấy nhắc tới vùng Hương Sơn, có thể tại vì 99 con voi một con quay đầu nên chỉ còn 98 con chầu về Phật động chăng? Sau cuộc biển dâu, được nghe lại những từ ngữ thân mật như “sư cụ, chú tiểu…” thật cảm khoái, cứ ngỡ thời gian đã tàn ác phá mất truyền thống thời xưa, kể cả những cách xưng hô lễ độ mà gần gũi. Càng ở những vùng xa Hà Nội, càng thấy dân tình giống như cũ, giọng nói vẫn thế, dáng dấp vẫn thế, còn ngay tại Hà Nội, nhiều lắm còn sót lại 20 – 30 phần trăm văn vật năm xưa, lâu lâu gặp lại sắc dân núi Nùng sông Nhị, nghe giọng nói mắt nhận nhau mà ngậm ngùi.

Con đò bập bềnh suôi khe Yến giữa làn nước mênh mông lan tới chân núi, sau gần một tiếng, đò ghé đền Trình để khách vào bái Sơn thần xin lên thăm Ðộng lễ Phật. Ðền Trình còn thờ một dũng tướng của Hùng Vương trấn ngự khu linh địa lịch sử ba bốn nghìn năm này. Lúc lên đò tiếp tục suôi vào Chùa trong, cảnh vật càng thanh tịnh hơn vì chú tiểu đã đi lên chùa nào không còn nghe tiếng băng nhựa tụng kinh nữa.

Từ Chùa trong, tam quan đang xây cất lại, lên tới động Hương Tích phải leo đường lót đá xanh dài tới 2 kilô mét. Mỗi phiến đá to đã mòn vết chân người xưa trẩy hội, đâu đây còn xột xoạt những tấm áo tứ thân xanh đỏ, còn phảng phất trong hơi gió tiếng chào hỏi nhau ngày Hội, vành nón quai thao và lọn tóc đuôi gà…trong một thoáng tôi bỗng thấy mẹ tôi thời thiếu nữ lẫn giữa muôn chiếc bóng chập chờn, lao xao trong lá cây, ánh nắng buổi trưa tràn đầy triền núi.

Rừng núi hang động là nơi tiềm tàng Mẫu tính, là địa phận của Mẫu Thượng ngàn, của Chúa Liễu, quân bình với bên kia vòi vọi Ba Vì, cao và thiêng, Cao Biền bó tay mà phục, là Phụ tính, là Tản Viên sơn thần, là Ðức Thánh Trần sau này… tín ngưỡng dân gian muốn dân tộc có Cha thiêng Mẹ hiền che chở và có Trời Phật độ trì. Tổng hợp tôn nghiêm này thể hiện rõ rệt ở động Hương Tích.

Leo tới cửa động chót vót đỉnh núi chân đã rã rời, không hiểu các cụ khi xưa không đi giầy thể thao làm sao leo được lên đây? Chưa kể từ cửa động còn phải leo xuống hơn trăm bậc nữa mới vào tới động. Hôm ấy buổi trưa nắng đã lên nhưng bụi mưa vẫn còn lất phất, đi vào trong động thì tránh được mưa nhưng hết ánh sáng. Chặn giữa động là một tảng thạch nhũ từ trên nóc động rũ xuống trông giống như một người khoác áo mưa rơm. Ðằng sau tối om phải đánh diêm thắp lên mấy ngọn nến mới thấy leo lét những pho tượng Phật ngồi sắp hàng thành mấy tầng. Du khách có thể hơi rùng mình vì hang rất lớn và tối, trên cao còn đọc được dòng chữ Nho “Nam thiên đệ nhất động” của Lê Thánh Tôn hay Trịnh Sâm cho khắc lên đá. Giá lúc này mà có một tên cướp xuất hiện thì thật giống mẩu truyện trinh thám của Thế Lữ hay Phạm Cao Củng kể chuyện bọn buôn người bắt trẻ con đem dấu trong hang.

Ðứng giữa Chùa Hương không một bóng người, không thấy một thiền sư… sự im lặng trọn vẹn làm thời gian không còn bờ mé… có lẽ hay hơn là đi vào ngày Hội, kéo dài cả tháng, cả vạn người chen chúc… và có thể mấy chiếc quần jeans, khói thuốc lá, máy chụp hình, những tiếng xì xồ… làm tan vỡ mất giấc mơ ấp ủ, một tưởng tượng huyền hoặc đang vời vợi giữa không gian tiềm thức.

Ra tới cửa động có cảm tưởng như rời khỏi cái nôi linh thiêng. Từ cái nôi này, có đường lên Trời, có lối xuống Ðịa Ngục, có vết chân Bồ Tát, và nhất là có dấu chân của muôn kiếp người. Có thể vạn năm xưa tổ tiên Lạc Việt đã trốn lụt hồng thủy ở trong động này, thời đồ đá chắc đã có người vượn ngồi ở trong hang đẽo gọt những chiếc rìu, chiếc búa. Từ cửa động nhìn bao quanh núi non, đây là một địa thế chiến lược có thể làm chỗ dưỡng quân cho cả mấy sư đoàn… Phải chăng vị dũng tướng thờ ở ngoài đền Trình đã lui binh về đây để cố thủ bảo vệ vua Hùng?

Ði xuống núi cũng mệt như lúc leo lên, tới chặng giữa phải ngồi nghỉ chân, tình cờ lại ngồi đúng bên suối Giải Oan, nước cạn nhưng vẫn còn nghe róc rách. Thỉnh thoảng ở bờ núi chung quanh có tiếng nổ lớn, ông quản lý ngôi chùa nhỏ nói với người thợ đang vét đất bên dòng suối: ” Các ông ấy lại cho nổ mìn để mở mấy cái hang động mới “, như thế trong vùng Hương Sơn chắc còn nhiều hang động to nhỏ và còn rất nhiều chùa chiền lẩn khuất sau rừng cây vách đá. Nhiều nhà địa chất gọi Hương Sơn là Vịnh Hạ Long trên cạn, núi hang chập chùng đủ mọi hình thể.

Cổ nhân xây chùa dựng tháp thường chọn những danh lam thắng cảnh và chọn địa thế theo nguyên tắc phong thủy có sông uốn khúc, có núi quây vòng. Leo bực đá hai cây số để lên lễ Phật Bà Hương Tích đã là thực hành đức tinh tấn và thời gian bước tới từng bước nhọc nhằn tự nó đã là những lời kinh giác ngộ.

Ðạo Phật như hạt giống gieo vào đất nào thì thuận theo mùa màng khí hậu của đất ấy mà mọc thành thổ sản, từ bùn lầy sen vẫn vươn lên tinh khiết và vạn trang kinh vẫn chỉ là những cánh hoa trắng vô ngôn, ai có căn tốt cứ việc sáng tạo thêm. Theo đúng tinh thần này thì đạo Phật không nên câu nệ mảnh đất nào, tốt hay xấu, đỏ hay vàng, vẫn cứ gieo trồng vun tưới cho bùng nở đóa diệu hoa. Gọi là đại hùng đại bi là như vậy. Con voi hung dữ mà Bụt còn dạy được huống hồ mảnh đất Giao Chỉ đã có sẵn mầm tốt, đã có sẵn 5000 ngôi chùa và nhất là có sẵn một khối người đang tỉnh dậy tìm về cội gốc thiện căn.

Nghĩ miên man như vậy bên dòng suối Giải Oan, khách vãn cảnh có thể tự hỏi tại sao nhiều nơi có suối Giải Oan, có chùa Giải Oan… phải chăng vì kiếp người Việt Nam chịu oan khiên chồng chất nên cần được giải thoát ? Chữ “OAN” trở thành một tiền đề phổ quát, nàng Thị Kính tiêu biểu cho bao người đàn bà chịu cắn răng nhịn nhục mà hóa thân thành Quan Âm Thị Kính, là một sáng tạo đặc biệt của đạo Phật bình dân. Chuỗi oan khiên dằng dặc đã được mô tả trong “Cung Oán“, trong “Ðoạn Trường“, trong “Chinh Phụ“…nỗi Oan và Oán trùng trùng trên quê mẹ thấm đẫm máu ta và người… máu Tầu, máu Mông Cổ, máu Mãn Châu, máu Pháp, máu Nhật, máu Mỹ, máu Ma Rốc, máu Chàm, máu Phù Nam, máu Khờ Me… triệu triệu vong linh ta và người ấy đã siêu thăng hay hãy còn u uất với nỗi oan yểu vong? Nếu Tạo Hóa chọn mảnh đất uốn éo cong queo này làm lò cừ để thử lòng nhân của con người, thì đây là lúc phải lập Ðại Ðàn Giải Oan vừa siêu độ vừa cởi bỏ oan khiên nghiệp chướng còn tụ đọng trong đáy huyệt quê hương. Biết đâu sức chiêu cảm của lòng thành thấu tới tai Quan Âm để rồi thiên thủ thiên nhãn sẽ tháo tung những nút thắt oan nghiệt trên tấm thân mang hình chữ S ?

Ý nghĩ lập đàn Giải Oan theo tôi ra mãi con đò cắm sào chờ đợi. Ðò có thêm mấy người cùng rời bến ra về. Trên làn nước hoàng hôn vạt sương lam mờ mờ bao phủ sườn núi, loáng thoáng bên tai có người nhắc tới rau xắng Chùa Hương và đặc sản thịt lươn của non nước vùng này… Nhìn lại vòm trời rất hồn bướm mơ tiên đang bốc lên như hơi thở ngân nga lan vào vũ trụ linh diệu, tôi ước ao có một cái túi hồ lô đựng nắng, đựng gió, đựng cả những cánh mưa hoa, cả hơi thở của núi…mang về làm quà cho bằng hữu…

Và một luồng ba động lại khởi lên từ cõi tâm mộng chấp : có Dương thì phải có Âm, cổ nhân nói nước ta chỉ có núi Ba Vì tối linh là mọc được nhân sâm, vậy thì động Hương Tích ắt có hoa Ưu Ðàm ba nghìn năm mới xuất hiện một lần… Năm sau trở lại đi tìm, biết đâu chẳng trúng mùa hoa khai ?

11-1993

Share this post


Link to post
Share on other sites

NHỮNG PHÂN VÂN KHI DẠY "CHIẾU DỜI ĐÔ" CỦA LÝ CÔNG UẨN (Nguyễn Minh Khiêm) Posted Image

Chiếu rời đô

Chiếu dời đô (hay Thiên đô chiếu) của Lý Công Uẩn được đưa vào giảng day trong sách Giáo khoa Ngữ Văn 8, THCS , từ 2004. Mục đích đưa bài Chiếu dời đô vào giảng dạy ở chương trình Ngữ văn 8 đã được gi rõ trong Sách giáo viên Ngữ văn 8 (sách giáo khoa hướng dẫn giảng dạy) như sau: “-Thấy được khát vọng của nhân dân ta về một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường, và khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh được phản ánh qua chiếu dời đô ; - Nắm được đặc điểm cơ bản của thể chiếu. Thấy được sức thuyết phục to lớn của Chiếu dời đô là sự kết hợp giữa lý lẽ và tình cảm. Biết vận dụng bài học để viết văn nghị luận”. Phần ghi nhớ được đóng khung, cũng có nội dung tương tự: “Chiếu dời đô phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Bài chiếu có sức thuyết phục mạnh mẽ vì nói đúng được ý nguyện của nhân dân, có sự kết hợp hài hoà giữa lý và tình’. Về tác giả, sách giáo viên nhấn mạnh: “Nhấn mạnh Lý Công Uẩn là người thông minh, nhân ái, có chí lớn, sáng lập vương triều Lý”. Đó là phần cứng phải đạt được. Nói cách khác, dù bằng bất cứ giá nào, cách nào, phương pháp nào giáo viên cũng phải đạt được những yêu cầu bắt buộc ấy. Trong óc học trò, trong trí nhớ học trò phải có những điều ấy để ghi nhớ. Nhưng trong thực tế, không ít những phân vân, những điều khó lý giải thấu đáo, trong quá trình giảng dạy bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn.

1. Trước hết về tác giả .

-Trong tác phẩm Chiếu dời đô, không có dòng nào thể hiện rõ Lý Công Uẩn là người “thông minh, nhân ái, có chí lớn”. Chỉ có mục dấu sao (*) phần Chú thích, trong SGK Ngữ văn 8 ghi: “Lý Công Uẩn (974-1028) tức Lý Thái Tổ, người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn, và lập được nhiều chiến công. Dưới thời Tiền Lê, ông làm đến chức Tả thần vệ điện tiền chỉ huy sứ”…Như vậy là, SGK cũng như Sách giáo viên (SGV), nhấn mạnh cái không hề có trong tác phẩm Chiếu dời đô; Nhưng người biên soạn sách lại cố tình không đả động đến một chi tiết ghi rõ trong chú thích, một phần đời thực tế trong sự nghiệp của Lý Công Uẩn là: “Dưới thời Tiền Lê, ông làm đến chức Tả thần vệ điện tiền chỉ huy sứ”. Hiểu cho đúng, cho trung thực thì Lý Công Uẩn được Lê Hoàn yêu quý, tin tưởng, bồi dưỡng, cất nhắc làm đến chức “Tả thần vệ điện tiền chỉ huy sứ”. Lý Công Uẩn được hưởng lộc rất lớn nhà Tiền Lê. Tại sao SGK và SGV lại coi như không có chi tiết này? Có thể, đối với một số giáo viên, một số phụ huynh không biết cụ thể chi tiết này, nhưng hầu hết giáo viên và phụ huynh học sinh đều hiểu lịch sử. Và cho dù, bây giờ giáo viên không đả động đến chi tiết này thì khi lớn lên, các em cũng sẽ hiểu về lịch sử. Lỗ hổng này sẽ làm sụt lở niềm tin của các em, làm ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách của một dân tộc.

- Câu kết của bài Chiếu dời đô, tác giả viết: “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?” (NMK tô đậm)? Vấn đề nảy sinh câu hỏi ở đây là, “chỗ ở” của vua khác Kinh đô một nước ở chỗ nào? Nó có khác không? Tại sao Lý Công Uẩn không nói trẫm muốn chọn nơi này làm Kinh đô Đại Việt? Khi giảng, dù giáo viên có cố lái chỗ ở của vua cũng là Kinh đô, đồng nhất với Kinh đô của đất nước thì cái tầm của vua, cái chí của vua không rạng rỡ được, không có sức thuyết phục bởi cái thực tế rất đơn giản, rất tầm thường của con chữ: “định chỗ ở”. Còn câu hỏi: “Các khanh nghĩ thế nào”? Hoàn toàn là hình thức. Nó thể hiện hai ý. Một, tính quyết doán của vua không cao, không dứt khoát, không mạnh mẽ; Hai, nó thể hiện vua chỉ hỏi lấy lệ. Bởi vì, chiếu vua không phải là chỗ tham khảo ý kiến. Chiếu vua là chỉ thị, là mệnh lệnh. Chiếu vua không phải là thứ còn trưng cầu ý kiến. Sự thật, vua cũng không lắng nghe ai cả ở câu hỏi này.

2. Về tác phẩm.

- Mở đầu bài Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn viết: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành vương cũng ba lần dời đô”… Giảng như thế nào về các dẫn chứng Lý Công Uẩn nêu ra trong bài? Mục đích chỉ vì đóng đô ở trung tâm, mưu nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu ? Đây là cách lập luận để dời đô của Lý Công Uẩn. Nhưng khi giảng về sự kiện này có rất nhiều vấn đề nảy sinh. Rất nhiều câu hỏi nghịch được đặt ra. Khoan hãy nói tới tính chính xác các lần dời đô của hai nhà Thương, Chu. Hãy nhìn vào thực tế lịch sử Trung Quốc cổ đại xem dời đô nhiều thế có phải là do muốn cháu con hưng thịnh hay không? Không phải thế. Sở dĩ nhà Thương, nhà Chuphải dời đô nhiều như thế vì giặc dã quấy phá liên miên, chiến tranh huynh đệ tương tàn liên miên. Các nước thi nhau xưng hùng xưng bá. Vua này lên ở kinh đô cũ không ổn, không được lòng dân ở đó, sợ bị tiêu diệt nên phải dời đến nơi đất mới. Và cuối cùng bị tiêu diệt. Đó là sự thật. (Điển hình cho sự thật này là trường hợp Hồ quý Ly ở nước ta sau này). Học trò không biết điều đó nhưng giáo viên biết. Lịch sử biết. Người thày không thể vì sự áp đặt của SGV hướng dẫn mà làm sai lệch sự thật lịch sử. Một khía cạnh khác ẩn trong lập luận là, học sinh dễ hiểu một quy luật tất yếu, muôn đất nước hưng thịnh thì phải dời đô; không dời đô là bảo thủ. Trong thực tế nước ta, thời đại các vua Hùng hàng nghìn năm, sản sinh ra nền văn minh trống đồng rực rỡ, có dời đô lần nào đâu?

- Mở đầu đoạn 2, Lý Công Uẩn viết: “Huống gì thành Đại La, Kinh đô cũ của Cao Vương”…Cao Vương là Cao Biền. Đây là viên tướng của nhà Đường, được vua Đường phong chức Tiết Độ Sứ, cai quản Giao Châu (tức Đại Việt) từ năm 866 - 875. Sau Cao Biền làm phản nhà Đường, bị vua Đường bắt, giết năm 887. Cao Biền đã tàn sát dân tộc ta vô cùng tàn khốc trước khi đặt được ách đô hộ. Trong thời gian cai trị 10 năm, Cao Biền cho đắp thành Đại La, (sau gọi là La Thành). Đại La là lỵ sở của Cao Biền chứ không phải là Kinh đô của Cao Vương như Lý Công Uẩn nói. Vả lại, nói Kinh đô cũ của Cao Vương là không đúng. Vì Cao Biền chỉ được phong tước Vương, là quan, được nhà Đường cử sang cai trị nước ta chứ Cao Biền không phải là Vua. Nơi quan ở làm việc sao gọi là Kinh đô được? Vậy, khi giảng đến các chi tiết này, giáo viên có dám nói thật cho học sinh hay không? Ai bảo học sinh không hỏi về Cao Biền? Ai bảo không có những câu hỏi Đại La là đất muôn đời tại sao Cao Biền chỉ cai trị được 10 năm? Dẫn chứng và lập luận của Lý Công Uẩn chỗ này đầy mâu thuẫn. Nó thể hiện, Lý Công Uẩn không có kiến thức sâu, rộng, uyên bác; tác giả cố nói lấy được. Nếu giảng theo kiểu bưng bít thì học trò phải chịu. Nhưng lương tâm người thày không cho phép thế. Phương pháp giảng dạy văn chương là phải để cho câu chữ tự nói, tác phẩm tự nói. Học sinh tự thấm.

- Sau khi đưa một loạt dẫn chứng dời đô của các triều Thương, Chu (Trung Quốc), Lý Công Uẩn giáng một câu: “Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền!”… Tại sao Lý Công Uẩn lại mỉa mai, chê bai hai nhà Đinh, Lê ghê thế? Lý Công Uẩn có phải được sinh ra từ Tiền Lê hay không? Vậy chỗ này giảng về đạo lý làm người, uống nước nhớ nguồn; giảng về nhân cách làm người, cho học sinh như thế nào? Quả là vô cùng khó. Còn nguyên nhân ai làm cho nhà Tiền Lê không được lâu bền? Có phải Lý Công Uẩn không? Tại sao khi còn là quan Đại Thần trong triều, Lý Công Uẩn không hiến kế cho Lê Hoàn dời đô? Rất nhiều câu hỏi học sinh có thể hỏi.

3. Về gợi ý, hướng dẫn giảng dạy, tìm hiểu tác phẩm trong sách giáo khoa và sách giáo viên.

a. Sách giáo khoa: Có 4 câu hỏi lớn cho học sinh đọc-Hiểu bài văn. Cả bốn câu đều chung một chiều thuận là hướng học sinh trả lời đến cái đích mà yêu cầu đặt ra. Chỗ nào SGV cũng định hướng GV “nhấn mạnh” theo chủ quan người biên soạn chứ không xuất phát từ tác phẩm. Điển hình cho loại dẫn dắt đó là câu 4: “Chứng minh Chiếu dời đô có sức thuyết phục to lớn bởi có sự kết hợp giữa lý và tình”. Có nghĩa là, tất cả cùng một dạng áp đặt, trả lời ý chung chung. Không hề có một câu hỏi nào tìm, cảm nhận cái hay, cái đẹp của từ, ngữ, hình ảnh.

b. Các câu hỏi trong sách giáo viên thường ở dạng thế này : “Theo suy luận của tác giả thì việc dời đô của các vua nhà Thương, nhà Chunhằm mục đích gì ? Kết quả của việc dời đô ấy » ? « Theo tác giả, không dời đô sẽ phạm những sai lầm : Không theo mệnh trời, không biết học theo cái đúng của người xưa và hậu quả là triều đại ngắn ngủi, nhân dân thì khổ sở, vạn vật không thích nghi »…

Nhìn vào toàn bộ hệ thống câu hỏi định hướng cho học sinh, cả SGV và SGK không hề dẫn dắt cho học sinh tự khám phá tác phẩm, tự tìm ra cái hay, cái đẹp của tác phẩm mà định ra một hệ thống câu hỏi, một hệ thống các ý trả lời mang tính sắp đặt. Thực tế “mệnh trời” và “cái đúng của người xưa” lại là những cái rất mơ hồ, không hề có căn cứ. Điều này trái với phương pháp dạy văn và học văn, trái với phương pháp dạy học hiện đại là phát huy trí lực, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học trò. Người thày chỉ làm nhiệm vụ gợi mở, dẫn dắt.

Không có tác phẩm văn chương nào được đưa vào chương trình Ngữ Văn THCS mà tính hai mặt của nó lại rõ, phức tạp, nhiều phân vân trong giảng dạy như Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Theo tôi nghĩ, chưa nên đưa bài Chiếu dời đô vào chương trình Ngữ văn ở bậc học này.

N.M.K

Kẻ sửa Chiếu đời đô trong Đại Việt sử ký toàn thư đâu biết: sóng sau xô sóng trước.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Khảo cứu về dân tộc Kinh ở Trung Quốc

Hồ sơ - Tư liệu Đăng ngày Thứ bảy, 01 Tháng 6 2013 08:24 Vào đời Minh, một nhóm người từ vùng Đồ Sơn, Việt Nam di cư sang đất Quảng Tây. Nhóm người này thuộc tộc Kinh, dân tộc chủ yếu của Việt Nam, trong quá khứ còn gọi là tộc Việt. Người Kinh còn gọi là “người Việt Nam” hoặc “người An Nam”; người Miêu, người Dao thì gọi là “người Giao Chỉ”...

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Lời người dịch: Người Kinh là dân tộc chủ yếu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Một bộ phận dân tộc Kinh hiện đang sinh sống ở Khu Tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc; là một trong 56 dân tộc của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhằm góp một mảng tư liệu về cộng đồng dân tộc Kinh ở hải ngoại này, chúng tôi trích dịch phần viết về “Dân tộc Kinh” [1] trong quyển Trung Quốc Nam phương dân tộc sử [2], công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Sử học Vương Văn Quang, Giáo sư chuyên ngành Lịch sử dân tộc Đại học Vân Nam, Trung Quốc. Tác giả đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử các dân tộc ở Trung Quốc như: Bách Việt đích nguyên lưu dữ phân bố [3], Trung Quốc cổ đại đích dân tộc thức biệt [4] , Trung Hoa dân tộc phát triển giản sử [5] , Vân Nam dân tộc đích do lai dữ phát triển. [6] Chúng ta không hẳn sẽ chấp nhận mọi ý kiến của tác giả, nhất là ở phần viết về nguồn gốc dân tộc Kinh. Tuy nhiên, với thái độ xem đây là đối tượng tìm hiểu và nghiên cứu, chúng tôi khách quan chuyển ngữ để đông đảo bạn đọc cùng tham khảo. Mặt khác, vì nhận thấy phần khảo về dân tộc Kinh ở Quảng Tây là một nguồn tài liệu cần thiết, qua đó chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về đời sống, phong tục, tín ngưỡng… của một bộ phận đồng bào đã định cư và lập nghiệp ở hải ngoại gần 500 năm qua.

Ngoài các chú thích của tác giả kí hiệu –TG, là chú thích của người dịch.

I. Xuất xứ và phân bố

Vào đời Minh, một nhóm người từ vùng Đồ Sơn, Việt Nam di cư sang đất Quảng Tây. Nhóm người này thuộc tộc Kinh, dân tộc chủ yếu của Việt Nam, trong quá khứ còn gọi là tộc Việt. Người Kinh còn gọi là “người Việt Nam” hoặc “người An Nam”; người Miêu [7] , người Dao thì gọi là “người Giao Chỉ”. [8]

Về lịch sử nguồn gốc tộc Kinh, hiện nay đang còn nhiều tranh luận. Có người cho rằng, “trong tiếng Kinh có thành phần tiếng Khmer mà cho rằng tộc Kinh là một bộ phận của tộc Môn-Khmer” [9] Lý Can Phân cho rằng: “Nguồn gốc tộc Kinh không phải trực tiếp xuất phát từ tộc Bách Việt, mà là một dân tộc mới, chủ yếu có quan hệ nhân chủng với chủng Australoid-Negroid. [10] ” Tuy nhiên, đa số các luận điểm thì cho rằng, tộc Kinh có nguồn gốc phát triển trực tiếp từ tộc Bách Việt. [11] Tác giả Trung Nam Bán đảo Dân tộc cho rằng: “Tổ tiên của tộc Kinh ngày nay là tộc Âu Việt, Lạc Việt trong dân tộc Bách Việt cổ đại” [12] Trong Trung Quốc Đại Bách khoa Toàn thư, phần Dân tộc, mục Việt Nam biên rằng: “…còn gọi là người Việt Nam, người Kinh… hậu duệ của người Lạc Việt cổ đại, ban đầu ở Bắc Bộ Việt Nam, sau dần tiến về phương Nam, đến đầu thể kỷ XIX thì ở khắp cõi Nam.” Giáo sư VươngDân Đồng – chuyên gia nghiên cứu lịch sử Đông Nam Á – cho rằng: “Dân tộc chủ thể ở Việt Nam là tộc Việt (tộc Kinh) thuộc Lạc Việt, nguyên là một chi của Bách Việt. Từ thời Đồ Đá Mới đã định cư ở vùng tam giác châu thổ sông Hồng, Bắc Việt; đến thế kỷ II, III tr. CN, người Lạc Việt ở Trung và Hạ du sông Hồng đã trồng lúa nước [13] , gọi là Lạc dân.” Sau đó người Lạc Việt dần biến chuyển thành người Kinh hiện nay. Vào năm 969 [14] , (họ) dựng nền độc lập, xưng là Đại Cồ Việt.” [15]

Thuyết thứ nhất khó mà đứng vững được bởi thấy từ đời Hán đã thiết lập 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Đương nhiên, Lạc Việt và tổ tiên của tộc Môn-Khmer là láng giềng; trong lịch sử lại thường xảy ra các cuộc giao chiến, một bộ phận người Môn-Khmer bị đồng hóa bởi tộc Kinh và tất nhiên về văn hóa có sự ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó có ngôn ngữ. Trong tiếng của tộc Kinh có nhân tố của tiếng Môn-Khmer là lẽ tự nhiên; không như người Khmer bị ảnh hưởng rất lớn của người Kinh.

Hiện tại, rất nhiều người Khmer nói tiếng của người Kinh và ăn mặc theo kiểu của người Kinh. [16]Thuyết của ông Lý Can Phân cũng khó khiến người ta tin được. Bởi nhìn theo góc độ Cổ Nhân loại học, thì từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 tới nay, các nhà Cổ Nhân loại học, dựa vào các nguồn tư liệu mới để nghiên cứu, đều cho rằng: từ Người Vượn Java đến người Soloensis và người Wadjakensis [17]phát triển thành chủng người Australoid-Negroid; còn Người Vượn Bắc Kinh [18] đến người Sơn Đính Động thì phát triển thành chủng người Mongoloid.[19]

Vào thời thượng cổ, chủng người Australoid-Negroid sơ khai, chủ yếu phân bố ở quần đảo Malaysia và Australia; sau đó, có thể họ thông qua “chiếc cầu lục địa” mà đến khu vực quần đảo Đông Nam Á.

Cũng trong lúc ấy, chủng người Mongoloid không ngừng từ phía Bắc đi về Nam; chẳng những ức chế về địa bàn cư trú đối với chủng người Australoid-Negroid mà còn nắm chắc sự đồng hoá và dung hợp. [20] Đối với giới học thuật Việt Nam, trước mắt, họ thường nhìn nhận là: “Vào thời đại Đồ Đá Cũ, đất của tộc Kinh ngày nay là vùng phân bố của người Melanesia; đến thời Đồ Đá Mới, chủng người Mongoloid đến và lại dung hợp với nhau. Vì thế, người Melanesia hoặc người Indonesia không phải là tổ tiên nguyên thủy của người Kinh.” [21]

Còn như nói rằng tộc Kinh từ Lạc Việt phát triển mà thành thì dễ rơi vào phiến diện, đi đến đơn giản hoá, cũng giống như coi Giáp rồi đến Ất, Ất rồi đến Bính, Bính rồi đến Đinh ắt sẽ dẫn đến chỗ quay lại Giáp. Vậy mà những người theo thuyết này cứ vội vàng kết luận, phần lớn họ không đưa ra quá trình luận chứng mà chỉ đưa ra kết quả.

Trong quá trình phát triển, tổ tiên tộc Kinh từng có sự hấp thu các nhân tố từ người Chăm, người Môn-Khmer và người Hán, mà chủ thể là quần thể người Việt. Nếu nói người Kinh hoàn toàn do sự phát triển của người Lạc Việt mà thành thì đó là một kiểu lý luận thiên lệch. Phải nói rằng, người Kinh đã hấp thu từ nhiều thành phần dân tộc, trên nhiều phạm vi khác nhau (trên cơ sở người Lạc Việt là chủ thể), đến thế kỷ X về sau thì tổ hợp ấy mới trở thành một dân tộc.

Người Giao Chỉ cổ đại là chủ thể chủ yếu của người Kinh. Sách Văn hiến thông khảo – tứ duệ[22]có biên: “Giao Chỉ, lúc đầu thời Hán là đất Nam Việt, Hán Võ đế bình Nam Việt, chia đất thành Đam Nhĩ, Châu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, gồm 9 quận, đặt Giao Châu Thứ sử thống lĩnh. Hậu Hán đặt Giao Châu; Tấn, Tống, Tề cũng theo đó. Tùy dẹp Trần, bỏ quận, đặt châu; [Tùy] Dượng đế những năm đầu, bỏ châu, đặt quận. Khoảng niên hiệu Võ đế [nhà Đường] đổi làm Giao châu Tổng quản Phủ; khoảng niêu hiệu Chí Đức [nhà Đường] đổi làm An Nam Đô hộ Phủ. Niêu hiệu Chính Ninh [nhà Lương-Chu], thổ hào Khúc Thừa Mỹ chuyên quyền một cõi” [23] . Đoạn văn trên khái quát rõ sự diên cách trong lịch sử của đất Giao Chỉ, dừng ở đời Lương, và sau đó là sự xuất hiện của một quốc gia có chính quyền độc lập, cũng vừa lúc người Kinh thực hiện vai trò nối trước mở sau, dựa vào điều kiện khách quan ngoại tại mà thiết lập nền chính trị, kinh tế.

Xem thấy cư dân chủ thể trên đất Giao Chỉ từ cổ đại đến thời Tần-Hán vốn theo chế độ của vương triều Trung nguyên [24] ; trồng tỉa lúa nước, dân gọi là Lạc dân; cai quản Lạc dân là Lạc hầu, Lạc vương. Ngụy-Tấn về sau, thành một đặc khu Lạc Việt, gọi là Liêu [25] hoặc gọi Lạc Việt. Năm 679, nhà Đường lập An Nam Đô hộ Phủ tại đất Giao Chỉ, dân thì gọi là người An Nam. Đến lúc ấy, tộc Kinh vẫn chưa hình thành, mà chỉ đang ở trong giai đoạn tích hợp.

Bắt đầu từ cuối thế kỷ IX, nhân lúc thế lực nhà Đường suy yếu, thế lực chính trị ở An Nam bắt đầu khởi động. Năm 906, địa chủ An Nam Khúc Thừa Mỹ nhân lúc nhà Đường hỗn loạn tự lập làm Tiết độ sứ [26] . Năm 939, tướng lĩnh An Nam là Ngô Quyền đánh bại quân đội Nam Hán ở sông Bạch Đằng, tự xưng Vương, lập triều Ngô, đóng ở đô Cổ Loa, thực sự là một nước độc lập. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh bại các thế lực phong kiến, xưng Đế ở Hoa Lư, lập nước Đại Cồ Việt. Năm 979, cha con Đinh Bộ Lĩnh bị giết, Tổng chỉ huy quân đội là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên thay, lập triều Lê (980-1009), sử gọi là nhà Tiền Lê. Triều Ngô, triều Đinh và triều [Tiền] Lê cộng tám đời vua, thống trị được 70 năm, An Nam bước vào thời kỳ thoát ly vương triều Trung nguyên.

Năm 1009, Điện tiền chỉ huy sứ của nhà Tiền Lê là Lý Công Uẩn lên ngôi Đế, mở ra nhà Lý, thống trị hơn 200 năm (1009-1225). Trong giai đoạn này, chính trị nhà Lý ổn định, sức dân tăng trưởng, tộc Kinh bắt đầu hình thành, bộ phận tổ thành gồm có: Lạc Việt-Liêu là bộ phận chủ thể; người Chăm từ nước Champa; bộ phận người Môn-Khmer và một phần nhỏ người Hán.

Trong quá trình hình thành, tộc Kinh hấp thu tộc Chăm chủ yếu thông qua việc tiến hành chiến tranh. Theo lịch sử ghi lại, các cuộc chiến xảy ra rất nhiều lần: năm 982, Lê Hoàn công hãm thủ đô Champa, chiếm lấy 3 châu: Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh (nay là tỉnh Quảng Bình và phía Bắc tỉnh Quảng Trị, Việt Nam). Năm 1312 [27] , Trần Anh Tông lại công hãm Champa, bắt phải làm nước phụ thuộc [28].

Năm 1471, Lê Thánh Tông lại công hãm kinh thành Champa, thu Chiêm Động, Cổ Lũy Động và lập làm Quảng Nam Đạo; sau đó đến năm 1697 thi diệt nước Champa, khiến toàn bộ người Chăm phải ở trong phạm vi quản lý của Việt Nam ngày nay. Trong quá trình lịch sử, đại bộ phận người Chăm nhập vào tộc Kinh. Do vậy, giới sử học Việt Nam nói: “Từ thế kỷ XVIII về sau, dân tộc Việt Nam trong xu thế Nam tiến dần dần hấp thu hết cả một vùng (chỉ Champa – tức Lâm Ấp thời Tần-Hán) thành một chỉnh thể đất đai và cư dân. [29] ” Như người Chăm, thời cổ đại dõng hoạt như thế mà đến nay chỉ còn tám vạn dân bên trong nước Việt Nam [30] ; bao nhiêu người còn lại đi đâu hết vậy? Đương nhiên là tuyệt đại bộ phận đã đồng hóa với tộc Kinh.

Tộc Kinh còn chứa thành phần người Khmer. Người Khmer từng kiến lập các vương quốc hùng mạnh như Phù Nam, Chân Lạp; trong lịch sử từng cùng với Việt Nam tranh đoạt Champa, từ thế kỷ XIV về sau, người Khmer kiến lập quốc gia và không ngớt bị An Nam dung kế tàm thực[31]để lấn chiếm [32].

Năm 1658, Chúa Nguyễn mở rộng biên giới, đưa quân đánh chiếm Mỗi Tuệ [33] (nay là tỉnh Biên Hòa, Việt Nam); năm 1689, lại chiếm Sài Côn (nay là Sài Gòn, Việt Nam) mở đất ngàn dặm. Cuối thế kỷ XVIII, An Nam chiếm lĩnh toàn bộ vùng tam giác châu thổ sông Mekong, sống dung hợp với người Khmer.

Tộc Kinh dung hợp với tộc Hán chủ yếu từ thời Tần-Hán: quan lại và binh lính người Hán sang đóng ở đấy Giao Chỉ, nhiều người không trở về bản quán, đây là điều hiển nhiên, không cần phải kể…

Tóm lại, thành phần chủ thể của tộc Kinh là tộc Lạc Việt-Liêu hậu duệ của Bách Việt; đồng thời thêm vào nhân tố ngữ hệ Malay-Polynesia (Nam Đảo), ngữ tộc Indonesian (người Chăm); ngữ hệ Nam Á, ngữ tộc Môn-Khmer của người Khmer và một phần nhỏ người Hán. Các nhân tố này hợp thành một quần thể dân tộc mới, trong quá trình phát triển của lịch sử, chịu ảnh hưởng và tiếp thu mạnh nhất là văn hóa Hán; kế đến là văn hóa của người Chăm và người Khmer. Vì trong ngôn ngữ, cùng lúc tồn tại nhiều nhân tố nên các nhà ngôn ngữ học gặp nhiều khó khăn trong việc xác định thuộc tính gốc.

Trên đây là nói chung về nguồn gốc tộc Kinh, giờ nói riêng về người Kinh ở Trung Quốc. Người Kinh từ Đồ Sơn, Việt Nam sang Trung Quốc vào khoảng đời Minh. Khoảng những năm triều Thanh, người Kinh ở thôn Hà Vĩ [34] có lập hương ước để làm phép tắc cho dân trong thôn, trong hương ước từng minh xác rằng họ đến đây từ thời Hậu Lê (Đại Việt) niên hiệu Hồng Thuận năm thứ 3 tức triều Minh đời vua Võ Tông niên hiệu Chính Đức năm thứ 6 (1511), tức cách nay hơn 400 năm [35] . Người Kinh ở đây đa số mang họ Lưu, họ Nguyễn, tổ tiên họ nguyên cư trú vùng Cát Bà, sau dời đến dùng duyên hải Đồ Sơn, sống bằng nghề đánh cá. Có một dịp, họ đuổi theo đàn cá ở vùng vịnh Bắc Bộ mà lạc đến đảo Vu Đầu, nay thuộc thành phố Phòng Thành, khu tự trị dân tộc Choang [36] Quảng Tây, thấy làng xóm vắng vẻ không người ở, lại thấy nơi này thuận tiện trong việc đánh bắt cá, họ bèn định cưhẳn mà không về nữa, đến nay đã qua 16, 17 đời, nếu tính mỗi đời là 25 năm thì đến nay đã hơn 400 năm, đối chiếu với bản hương ước nói trên thì thấy rất hợp lý.

Người Kinh hiện phân bố chủ yếu ở 3 khu: Sơn Tâm, Hà Vĩ, Vu Đầu và một số nơi khác như Hoàn Vọng, Đàm Cát, Hồng Khảm, Trúc Sơn… thuộc Phòng Thành, Quảng Tây.

Posted Image

II. Văn hóa tập tục

Tập tục phục sức, hôn nhân và ẩm thực

Đàn bà, con gái người Kinh thường mặc áo ngắn, cổ tay hẹp, áp bó sát thân, cổ không có bâu, trước ngực che tấm vải hình củ ấu, quần rộng và dài, màu đen hoặc màu nâu, khi ra ngoài thì mặt thêm một áo dài màu trắng, tóc bới như hình tấm thớt. Đàn ông mặt áo dài, tay hẹp, thân áo dài ngang đầu gối, thắt dải dây ngang eo.

Việc gả cưới phần lớn do cha mẹ lo liệu, hôn nhân theo chế độ một vợ một chồng, phổ biến là nuôi cháu và nuôi dâu, cá biệt cũng có trường hợp con trai ở rể. Cùng họ thì không lấy nhau, con cô con cậu cũng cấm lấy nhau, nếu vi phạm thì bị phạt [37].

Nam nữ kết thân thường do người làm mai chọn ngày tháng tốt, bên nhà trai thỉnh người có uy vọng nhất ở trên đảo hoặc thân hữu lo giúp sắp đặt mâm lễ. Lễ phẩm gồm có trầu cau, táo đỏ [khô] và táo đen, đường phèn, trà; trên mặt mâm lễ thì xếp các loại bánh in thành đồ án hỷ khánh để trang trí. Một đội nam nữ chèo thuyền biết ca hát sẽ đưa lễ phẩm đi đến nhà gái; bên nhà gái cũng cử một đội nam nữ chèo thuyền biết ca hát ra đón. Trong quá trình đưa và nhận lễ phẩm, hai bên đều lấy lời ca thay lời nói, một bên xướng một bên họa lại, khi hai bên đến hồi hứng thú nhất thì người bên nhà gái sẽ thâu nhận lễ phẩm, việc hôn sự đến lúc này, coi như sắp hoàn tất. Sau đó, nhóm ca hát sẽ đưa chú rể đến nhà gái để ra mắt, nhà gái đãi trầu cau và trà, những vật phẩm tượng trưng cho sự tốt đẹp, hạnh phúc [38].

Người Kinh chủ yếu sinh sống bằng nghề đánh cá, và lại chịu ảnh hưởng lâu đời của truyền thống văn hóa dân tộc, biểu hiện qua tập tục ăn uống lấy gạo [cơm] làm thức ăn chính, khoai núi và khoai nước làm thức ăn giậm; tính thích ăn cá, tôm, cua, nước mắm và cơm rượu; phụ nữ thì khoái nhai trầu cau[39].

Nước mắm là thức điều vị [nêm nếm] truyền thống của người Kinh. Cách làm như sau: trước tiên chọn loại cá nhỏ rửa sạch, cho vào vò sành hoặc thùng gỗ, phân thành lớp rồi rải muối và đậy kín lại. Sau vài tháng, cá từ từ tan rã, rỉ ra chất dung dịch màu hồng, đó là nước mắm. Sau khi lọc kỹ, nước mắm có hương vị nồng nàn, tinh thơm. Qua lần lọc thứ hai thì màu và mùi vị kém đi, qua lần lọc thứ ba thì lẫn nhiều xương và cặn bã của cá, chỉ để cho gia súc ăn hoặc để bón ruộng. Nước mắm vừa là chất để nêm nếm trong việc chế biến thức ăn, vừa để làm nước chấm khi ăn cơm.

Trong các dịp ăn mừng năm mới, tiết mới người Kinh thường làm món bánh cơm rượu và chè gạo nếp, họ rất thích ăn món bánh dầy, loại bánh này dùng bột gạo nếp nấu chín, rồi cho vừng trộn vào, để lên lửa nướng, trước khi ăn thoa một lớp váng sữa mỏng, rồi chấm nước mắm và ăn, đây là món ăn quý để đãi khách.

Tôn giáo

Người Kinh theo tín ngưỡng đa thần, vừa tin theo Phật giáo vừa tin theo Đạo giáo, có một số ít theo Thiên chúa giáo. Linh Quang Thiền Tự là ngôi chùa lớn nhất của người Kinh ở ba đảo [40] . Trong chùa có một chuông đồng đúc năm 1787, chùa thờ Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngoài ra còn có Tam Bà Miếu (trong thờ Quán Thế Âm, phụ nữ thường đến để cầu sinh con), Ưu Bà Miếu (trong thờ Phục Ba Tướng quân Mã Viện đời Hán). Đặc biệt là ở các chùa miếu này không có hòa thượng hay ni cô trụ trì, chỉ có “Tự đầu” [41] do người dân trong thôn chọn cử lo việc đèn nhang. Được cử làm việc này là người có phẩm hạnh đoan chính, chồng vợ đề huề, con gái con trai đầy đủ. Thù lao cho Tự đầu trích từ nguồn thu của chùa hoặc họ được nhận hoa lợi từ một hai mẫu đất công [42].

Tín ngưỡng của người Kinh ở Quảng Tây khác với tín ngưỡng của người Kinh ở Việt Nam. Người Kinh ở Quảng Tây bị ảnh hưởng nhiều bởi văn hóa của người Hán. Các cuộc hành lễ có tính chất tông giáo trong dân gian được điều khiển bởi Pháp sư và Sinh đồng. Pháp sư và Sinh đồng phần nhiều do cha truyền con nối, họ tự xưng thuộc phái Chính nhất của Đạo giáo [43] . Cùng với tín ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát của Phật giáo, họ còn thờ phụng các vị thần của Đạo giáo như Thiên quan, Thổ địa và thờ cả các vị thần dân gian như Trấn hải Đại vương, Hưng Đạo Đại vương, Hậu Thần, Điền Đầu Công… dung hòa Phật, Đạo và tín ngưỡng dân gian thành một thể.

Khác với các dân tộc khác, khi thực hiện lễ cúng họ chỉ niệm chú chớ không dùng vũ điệu.Trong sinh hoạt hàng ngày, có nhiều việc liên hệ với Pháp sư. Pháp sư thực hiện các lễ cúng chủ yếu là: Lễ Rằm tháng Giêng, lễ Rằm tháng Bảy cúng “Thí U” tức cúng thí xả quần áo, thức ăn cho du hồn dã quỷ; lễ “Quá Du Oa” trừ yêu trị bệnh cho người và yểm tà cho gia súc được yên ổn, làm cho sự đi biển đánh bắt được bình an; làm phép chiêu hồn trị bệnh “Ma làm”; làm phép “Thập bảo” để kéo dài tuổi thọ cho người già yếu bệnh hoạn, làm phép “Tẩy uế” cho sản phụ. Trong lúc làm lễ cúng cho cộng đồng hoặc các cá nhân, đồng thời treo hình tượng Phật và Thần (Đạo giáo) biểu thị sự dung hợp Phật, Đạo của người Kinh.

Sinh đồng, còn gọi “Giáng sinh đồng” là Vu sư dân gian, tự bảo là được thần linh dựa vào người nên có khả năng liên lạc với quỷ thần. Thông thường, tại nhà riêng thiết lập bàn thờ thần, cúng bái Tổ sư thần, thổ nhưỡng, Thổ địa thần… phần nhiều là làm phép đuổi tà trị bệnh [44].

Ngư dân người Kinh ngoài việc rước Pháp sư, Sinh đồng để làm phép, họ còn cúng tế tại nhà theo tục lệ dân gian, cầu phước tiêu tai. Vào các dịp đan lưới vừa xong, trước khi hạ lưới đánh cá, cuối mùa đánh cá, các thời điểm mở đầu hoặc kết thúc một số sự việc khác họ đều bày tế phẩm ven bờ biển để cúng Hải Công, Hải Bà [Ông biển, Bà biển]. Mỗi năm từ ngày 20 đến 28 tháng Chạp âm lịch, nghề cá cùng nhau tổ chức lễ bái thần. Võng đầu (chủ lưới, chủ ghe) họp lại dẫn hết các võng đinh (thợ đánh bắt) đi lạy cầu thần ban phúc cuối năm, cầu cho năm sau mặt biển bình yên, nghề cá thu hoạch lớn.

Ngày lễ có tính tông giáo lớn nhất của người Kinh là lễ Cáp Tiết [45] , nội dung chủ yếu là tế thần, tổ chức ăn nhậu vui vẻ, đây là một hình thức đổi khác của lễ Xã tiết (tế Thổ địa, Thành hoàng).

III. Quan hệ dân tộc và chính trị

Người Kinh ở Quảng Tây có mối quan hệ rất tốt với các dân tộc khác cùng sống trên địa bàn. Thuở ban sơ, họ cư trú tại đảo Vu Đầu, thị trấn Giang Bình, nhà Thanh đã từng thiết lập địa khu Giang Bình, đặt Ty Tuần phủ Giang Bình.

Trong lịch sử, về tổ chức xã hội, người Kinh có đặt chức “Ông Thôn” đứng đầu. “Ông Thôn” có vai trò cũng như Hương trưởng hoặc Hương chính, phụ trách và xử lý các sự vụ trong thôn, coi sóc và giám sát việc thực hiện thôn ước, chủ trì nghi thức tế lễ và lo liệu các việc công ích. Dưới “Ông Thôn” thì có “Ông Quản” lo phụ “Ông Thôn” chấp hành việc xử phạt, quản lý núi rừng, ngoài ra còn có “Ông Ký” lo việc văn thư trương mục. Đối với các sự vụ trọng đại thì các bậc cao tuổi trong thôn sẽ họp lại bàn bạc quyết định, rồi giao cho “Ông Thôn” [46] theo đó mà làm.

Người dịch bổ sung:

• Trung Quốc Đại lục phân tỉnh địa đồ[47]ghi: Kinh tộc có 4.000 nhân khẩu, phân bố tại vùng phụ cận trấn Đông Hưng, địa khu Hợp Phố, tỉnh Quảng Đông.

• Encyclopedia Britannica[48]ghi: Kinh tộc là một dân tộc thiểu số của Trung Quốc, trước gọi là Việt tộc, năm 1958 đổi gọi là Kinh tộc… chưa định được hệ ngôn ngữ, phần lớn nói giọng Quàng Đông, viết chữ Hán… thanh niên nam nữ có tục nhuộm răng, làm nghề biển là chính, nghề nông là phụ… Năm 1958 Kinh tộc cùng các dân tộc thiểu số khác liên hợp thành “Đông Hưng các tộc tự trị huyện”, năm 1978 đổi gọi là “Phòng Thành các tộc tự trị huyện”, nhân khẩu 11.900 người (thống kê 1982).

• Từ Hải[49]ghi: Kinh tộc có 19.000 nhân khẩu (thống kê 1990).

• Quảng Đông lịch sử địa đồ tập[50]ghi: Địa bàn phân bố của Kinh tộc từ thời Minh, Thanh, Dân quốc cho đến năm 1958 thuộc tỉnh Quảng Đông, từ năm 1959 tới nay thuộc Quảng Tây Tráng tộc Tự trị Khu.

Chú thích:

[1]Nguyên văn: Kinh tộc.

[2]Vương Văn Quang – Trung Quốc Nam phương dân tộc sử, Dân tộc xuất bản xã (XBX), Bắc Kinh 1999, 370tr.

[3]Bách Việt – nguồn gốc và phân bố.

[4]Minh xác vấn đề dân tộc Trung Quốc thời cổ đại.

[5]Sơ lược sử về tiến trình dân tộc Trung Hoa.

[6]Nguồn gốc và sự phát triển các dân tộc Vân Nam.

[7]Miáo (苗) Tên Trung Quốc của tộc người H’mông. BT

[8]Tần Khâm Trĩ – Trung Nam Bán đảo Dân tộc, Vân Nam nhân dân XBX 1989, tr. 242- TG. Không rõ tác giả Tần Khâm Trĩ căn cứ vào đâu vì có một điều vô lý là tên Giao Chỉ có, muộn nhất, từ thời Hán (đầu Công nguyên) còn các tộc người Dao, H’mông vào Việt Nam sớm nhất là thế kỷ XI (người Dao) hoặc chỉ mới khoảng 300 năm lại đây (người H’mông). BT

[9]Hoắc Nhĩ – Đông Nam Á sử (tài liệu nội bộ), Vân Nam Lịch sử nghiên cứu Sở, 1979, tr.292. Tiếng Kinh vốn ảnh hưởng phần lớn bởi tiếng Hán, số từ trong tiếng Kinh có hơn một nửa là mượn ở từ Hán; ngoài ra, trong tiếng Kinh còn có một số nhân tố của tiếng Khmer, tiếng Indonesia. Bởi vậy, các nhà ngôn ngữ học có nhiều ý kiến khác nhau, đến nay vẫn chưa quy thuộc được. TG

[10]Lý Can Phân – Luận Bách Việt dân tộc dữ Tráng-Đồng ngữ tộc đích quan hệ – Kiêm luận Kinh tộc đích luận nguyên vấn đề – Tây Nam dân tộc nghiên cứu – Vân Nam đại học – Tây Nam biên cương nghiên cứu sở biên, tập VI, tr. 41.TG

[11]Tần Khâm Trĩ, sđd, tr.242. TG

[12]Bách Việt: Tên gọi tộc dân gồm nhiều chi tộc trước thời Tần, Hán phân bố ở phía Nam Trường giang, khu vực Trung và Hạ du; là liên minh gồm nhiều bộ lạc nên gọi là Bách Việt; chuyên nghề đánh cá, săn bắt, trồng lúa và hoa màu; nổi tiếng về nghề đúc đồng và đóng thuyền đi biển. Sau đời Hán, dần dần có sự dung hợp với người Hán; các tộc Tráng, Lê, Thái ngày nay còn giữ nhiều quan hệ với nguồn gốc hơn cả. Các tộc Việt chính là Vu Việt ở Triết Giang, Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Lạc Việt ở Việt Nam… và nhiều tộc Việt khác ở rải rác như: Âu Việt, Can Việt, Việt Chương, Điền Việt, Việt Tủy, Ngoại Việt, Sơn Việt, Việt Thường, Phiên Việt, Giao Chỉ, Đam Nhĩ, Tang Kha, Thả Lan, Lệnh, Quế, Dư… Tên gọi Bách Việt xuất hiện đầu tiên trong sách Sử ký của Tư-mã Thiên, được kê cứu khá nhiều trong sách Lộ Sử của La Tất, đời Tống. (tổng hợp từ: Từ Hải, Từ Nguyên, Encyclopedia Britannica tiếng Hoa)

[13]Nguyên văn viết Lạc Điền và chú thích là Thủy đạo Điền. TG

[14]Theo Lịch sử Việt Nam của Đào Duy Anh và Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì là năm 968.

[15]Vương Dân Đồng – Đông Nam Á dân tộc đính lai nguyên hoà phân bố, Côn Minh sư phạm học viện học báo, 1984, Kỳ II, tr.23-TG.

[16]Trung Quốc Đại Bách khoa Toàn thư – Dân tộc, Trung Quốc Đại Bách khoa Toàn thư XBX, 1986, tr.128. TG

[17]Wadkakensis: một đại biểu của người hóa thạch, do nhà giải phẫu học/ địa chất học Hà Lan Eugène Dubois phát hiện năm 1889. Qua phân tích hai bộ xương sọ ông quy giống người này thuộc người tinh khôn băng kỳ, có nét tương đồng với người bản dịa Autraloid và có quan hệ với người châu Âu hiện đại (theo Nhân Loại học từ điển. Thượng Hải từ thư, Xbx, 1991); Sơn Đính Động: người hóa thạch thuộc cuối kỳ người tinh khôn, tổ tiên người Mông Cổ. Được phát hiện năm 1933 tại Sơn Đính Động thuộc vùng núi Long Cốt, phía tây nam Chu Khẩu Điếm, Bắc Kinh. C14 xác định cách nay 18.000 năm. (Theo Từ Hải, 2003)

[18]Homo erectus pekinensis. BT

[19]Ngô Nhữ Khang – Nhân loại phát triển sử, Khoa học XBX, 1987, tr.253-254. TG

[20]Vương Dân Đồng – Đông Nam Á dân tộc đích lai nguyên hòa phân bố, Côn Minh sư phạm học viện học báo, 1984, Kỳ II, tr.23. TG

[21]Đào Duy Anh – Việt Nam cổ đại sử, Thương vụ ấn thư quán, 1976, tr.14. TG

[22]Sách do Mã Đoan Lâm (1254-1323) người cuối đời Tống biên soạn, hoàn thành năm 1307, nội dung ghi chép về lịch sử, điển chương, chế độ… phân khảo 24 lĩnh vực, 348 quyển.

[23]Văn hiến thông khảo-tứ duệ thất – Trung Hoa thư cục ảnh ấn bản, 1986, tr.2519. TG

[24]Chỉ nước Trung Hoa phong kiến. BT[25]Lão (có chứa bộ Khuyển) là tên phong kiến Trung Hoa gọi một tộc người thuộc Tây nam Di (các dân tộc ít người ở Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam ngày nay). Hoa Lục ngày nay thay bộ Khuyển bằng chữ Nhân, đọc là Liêu. BT

[26]Theo Đào Duy Anh và Trần Trọng Kim thì Khúc Thừa Dụ xưng Tiết độ sứ vào năm 906 còn Khúc Thừa Mỹ được nói đến là cháu nội Khúc Thừa Dụ, làm Tiết độ sứ từ năm 917 -923.

[27]Theo Trần Trọng Kim thì sự kiện này xảy ra vào năm 1311: “Chế Chí hay phản trắc, không giữ những điều giao ước, cho nên năm Tân Hợi (1311) Anh Tông cùng Trần Quốc Chẩn, Trần Khánh Dư phân binh làm 3 đạo sang đánh Chiêm Thành” (Việt Nam Sử lược).

[28]Chu Hoàn – Thế giới cổ đại sử, Cát Lâm văn sử XBX, 1986, tr.360. TG

[29]Đào Duy Anh – Việt Nam cổ đại sử, Thương vụ ấn thư quán, 1976, tr.495. TG

[30]Trung Quốc Đại Bách khoa Toàn thư – Dân tộc, Trung Quốc Đại Bách khoa Toàn thư XBX, 1986,

tr.534. TG. Số liệu của Tổng cục Thống kê Việt nam năm 1999 là 132.873 người. BT

[31]Tằm ăn lá dâu.

[32]Thế giới các dân tộc khái lãm, Thế giới tri thức XBX, 1986, tr.68. TG

[33]còn gọi là Mỗi Xoài (Gia Định thành thông chí, Viện Sử học dịch) hoặc Mỗi Xuy (Lịch sử Việt Nam, Đào Duy Anh).

[34]Hà Vĩ: Theo địa đồ Phòng Thành các tộc tự trị huyện trong tập Quảng Tây Trang tộc tự trị khu địa đồ sách, Quảng Tây nhân dân XBX, 1990 thì địa danh này là Vạn Vĩ. Britannica cũng ghi là Vạn Vĩ (chỉ khác là chữ Vạn có bộ Thủy). Bài viết “Ba làng Việt tộc trong nội địa biên thùy Trung Quốc” (Lê Văn Lân, VietMecury 1/12/2000) cũng viết là Vạn Vĩ. Có lẽ tác giả nhầm nhưng chúng tôi vẫn dịch theo nguyên tác.

[35]Từ 1511 tới nay, lẽ ra câu này phải viết là: gần 500 năm.

[36]Choang (Zhuàng): trước kia gọi là (tộc) Đồng -獞 (Hán-Việt). Sau 1949, Hoa Lục đổi là

(tộc) Đồng -僮 (Hán-Việt). Từ 1965, Hoa Lục lại đổi là Tráng -壯 (Hán-Việt). Ở Việt Nam,

người Tráng có tên là Tày. BT

[37]Trung Quốc Đại Bách khoa Toàn thư – Dân tộc, Trung Quốc Đại Bách khoa Toàn thư XBX, 1986, tr.209. TG

[38]Trung Hoa dân tộc ẩm thực phong tục đại quan – Thế giới tri thức XBX, 1992, tr.336 –TG. Đoạn văn này tác giả chỉ mô tả giai đoạn đầu của nghi lễ hôn nhân. Lễ này gọi là lễ “Nhận thân” tức chú rể chính thức ra mắt nhà gái. Theo tác giả Nguyễn thị Phương Châm trong bài “Sự biến đổi nghi lễ hôn nhân của người Kinh ở Vạn Vĩ (Quảng Tây, Trung Quốc)” trên tạp chí Văn hóa Dân gian số 1/2005 thì, lễ “Nhận thân” được tổ chức vào tối ngày hôm trước lễ cưới.

[39]Trung Hoa dân tộc ẩm thực phong tục đại quan – Thế giới tri thức XBX, 1992, tr.335 –TG.

[40]Ba hòn đảo: Vu Đầu, Vạn Vĩ và Sơn Tâm, nơi có số đông người Kinh sinh sống.

[41]Cách gọi này cũng giống như ở ta gọi “ông Từ”. Tuy nhiên, trong trường hợp này “Tự đầu” còn có vai trò như vị Trưởng ban Hộ tự.

[42]Trung Hoa các dân tộc tông giáo dữ thần thoại đại từ điển – Học Uyển XBX, 1990, tr. 354-347. TG[43]Chính nhất Phái do người đời Hán Trương Lăng (còn gọi là Trương Đạo Lăng) sáng lập; thờ Chính nhất kinh. Phái này còn có tên là Thiên sư đạo và cùng với Toàn chân đạo là 2 phái lớn của Đạo giáo. Năm 1304, Nguyên Thành tông phong hâu duệ đời thứ 38 của Trương Lăng, tên là Trương Dữ Tài làm “Chính nhất giáo chủ”. Chính nhất phái chuyên trị về bùa chú. Đạo sĩ cũng có thể cưới vợ (theo Đạo giáo tiểu từ điển – Thượng Hải Từ thư XBX 2001)

[44]Trung Quốc Đại Bách khoa Toàn thư – Dân tộc, Trung Quốc Đại Bách khoa Toàn thư XBX, 1986, tr.208. TG

[45]Encyclopedia Britannica ghi là “xướng cáp”.

[46]Các từ “Ông Thôn”, “Ông Quản”, “Ông Ký” viết trong nguyên tác như hình thức chữ Nôm.

[47]Trương Kỳ Quân giám biên, Thượng Hải, 1966, mục V – Trung Quốc đại lục thiểu số dân tộc.

[48]Encyclopedia Britannica bản tiếng Hoa, Taipei, 1987, Qu.VII, tr.420.

[49]Thượng Hải Từ thư XBX, 2003

[50]Quảng Đông tỉnh địa đồ XBX, 1995.

Nguồn: Trích dịch từ Trung Quốc Nam phương dân tộc sử, Chương V, Tiết 8, Dân tộc

xuất bản xã (XBX), Bắc Kinh 1999

PHẠM HOÀNG QUÂN (NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ)

Share this post


Link to post
Share on other sites

MỘT CHÚT KIẾN THỨC PHONG THỦY TẠI KHU MỘ ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP. BÀI 5

Thứ bảy, ngày 12 tháng mười năm 2013

1. KIỂM TRA TRÙNG TANG . 2. VỊ TRÍ ĐẶT MỘ. 3. KHẢO SÁT PHONG THỦY KHU MỘ CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP.

Trong phần này , chúng ta dựa trên những kiến thức Phong thủy mà dienbatn đã viết tới bài 38 của loạt bài PHONG THỦY LUẬN để khảo sát. ( Tiếp theo ).

2/ KHẢO SÁT THEO HUYỀN KHÔNG.

Posted Image

Posted Image

Posted Image

HOÀNG TUYỀN:

Khứ lai thủy lộ bát đại hoàng tuyền.

1. Đinh, Canh, Khôn thường thị hoàng tuyền.

2. Ất, Bính tu phòng Tốn thủy tiên.

3. Giáp, Quý hướng lai hưu Kiến, Cấn.

4. Tân, Nhâm thủy lộ phạ dương Kiền.

Giải nghĩa: Nước lại, nước đi tám lại hoàng tuyền sát (tục gọi là Sát nhân Đại Hoàng Tuyền).

Câu thứ nhất:

Đinh, Canh, Khôn thượng thị Hoàng Tuyền.

Có nghĩa là: ở Mộc cuộc long bị hoàng tuyền hướng và thủy sát, nếu ta:

- Thu Canh (Thai) thủy

- Thu Đinh (Mộ) thủy lên minh đường.

- Hoặc lập Khôn (Tuyệt) thủy lên minh đường

- Hoặc lập Đinh (Mộ) hướng Canh (Thai) hươớg.

Là bị Hoàng Tuyền hướng hoặc thủy sát.

Thu thủy như trên là bị hoàng tuyền sát. Hoàng tuyền thủy nên phóng cho chảy đi, không nên cho nhập cuộc lên minh đường. Lại lập những hướng trên vừa kể là hoàng truyền thủy và hướng sát. Tức là thu Hướng và Thủy giết người, phải nên hết sức kiêng kỵ.

Làm địa lý không nắm vững Long Thượng Bát sát và Bát Đại Hoàng Tuyền thì tạo hóa cho người để đất. Vậy phải hết sức kiêng kỵ.

BÁT SÁT .

Nhà hay mộ hướng Ly thì bị sát tại Hợi . Phạm vào đó là phạm vào bát sát – hoàng tuyền rất hung hiểm. Nếu không tuân đúng các điều sát ở trên thì chỉ trong vòng vài tháng sau khi xây cất sẽ gặp đại hung,ứng nghiệm như Thần. Như vậy nhà hướng này Tuyệt đối không được để cưa sổ, cửa ra vào, cổng ngõ hay chọn ngày xây cất, sửa chữa vào ngày hoặc vị Hợi .

THỦY PHÁP TRƯỜNG SINHHướng Ngọ điều kiện để lập Thủy pháp trường sinh là : Nếu thủy khẩu ở Tuất thì được Sinh và Vượng hướng. Thủy khẩu ở Mùi thì được tự sinh hướng.

PHẦN 2.

Vì không biết chính xác kế hoạch táng Đại tướng và việc phân kim điểm hướng như thế nào, mặt khác thời gian qua gấp nên dienbatn chỉ nêu ra các phương án tính toán . Cụ thể như thế nao sau này sẽ tính tiếp. Có một số việc gấp cần bàn nên dienbatn viết vào đây sợ không kịp vì ngày mai đã táng Đại tướng rồi.

1/ Về tấm nắp mộ :

dienbatn thấy hình ảnh về tấm nắp mộ như thế này .

Posted Image

Việc đặt cả một tấm đá như thế này lên trên mộ mà không có lỗ thông Khí, thường gọi là Thông Thiên rất bất lợi. Thiên Khí giáng xuống, Địa Khí bay lên hòa cùng Nhân Khí mọi việc an táng mới tốt đẹp. dienbatn đề nghị gia đình Đại tướng nên cho khoét lỗ thông thiên rộng tối đa . Sau khi lấp Huyệt thì cho đất vào chờ lún một thời gian, sau đó bồi tiếp đất thêm vào cho bằng mặt và trồng hoa mười giờ lên lỗ thông Thiên.

2/ Ngày an táng .

Ngày mai là ngày 13/10/2013 tức là ngày 9/9/Quý Tỵ - Tức là ngày Nhâm Tý - Tháng Nhâm Tuất - Năm Quý Hợi.

Posted Image

Theo sách Đổng công tuyển nhật lãn yếu :

Nguyệt kiến Tuất: Hàn lộ - Sương giáng. (Từ ngày 8-9 tháng 10 DL)

Sau Hàn lộ, Tam sát tại phương Bắc, trên Hợi, Tý, Sửu kị tu tạo, động thổ.

Nhâm Tý là Mộc đả bảo bình, thảo mộc (cây cỏ) điêu linh, rất xấu.

Vài lời tâm sự :

Do thời gian quá cận kề và thiếu thông tin nên dienbatn chưa hoàn thành loạt bài viết này. Hẹn đến khi có đầy đủ dữ liệu sẽ viết tiếp.

Ngày mai đã đưa Bác về chốn vĩnh hằng, cơn bão số 11 đang nhăm nhe đổ vào miền trung , cả trăm người chết và bị thương do nổ nhà máy sản suất pháo ở Phú thọ, khu vực mộ của bác cũng đang mưa sụt sùi - Thiên - Nhân cảm ứng gì chăng ? Tính toán mộ phần của bác thấy không được ưng ý. Lòng buồn quá mà không biết làm sao. Trên mạng thấy đâu đâu cũng ca ngọi khu mộ của Bác , nào Minh đường thủy tụ, nào Long cuộn hổ ngồi, nào ...Dùng những hiểu biết thô kệch của mình lại thấy không phải như vậy. Đâu đó trên mạng cũng có một vài người đã gọi đúng khu vực đó là " Tử Huyệt ".

Thôi thì " Mưu tại nhân - Thành sự tại Thiên " .

" Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng , Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc . Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi , vận Trời ứng cho "

"Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau.

Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc."

Câu thơ gia đình Bác đúc trên Đại Hồng chung Vũng Chùa :

" Cái Tôi hoàn lại đất Trời.

Trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sinh "

Có lẽ câu này đã ứng nghiệm .

Bác là bậc Thánh nhân, nhân dân Việt nam luôn nhớ về Bác Cầu xin Linh hồn Bác sớm được hòa quyện cùng hồn thiêng sông núi, hiển hiện oai phong hộ Quốc - An Dân. Vẫn biết Địa Khí không được tốt nơi Tử Huyệt , nhưng cháu tin rằng nhờ hồn thiêng của sông Núi Việt nam, nhờ oai linh của Bác Thiên Khí và Nhân khí sẽ bù đắp được những thiếu sót của Địa Khí và nơi Vũng Chùa - Đảo Yến sẽ sớm từ nơi Tử địa trở thành nơi Linh thiêng , có thể quy tụ lòng dân của cả dân tộc, hóa giải những điều bất lợi cho nhân dân miền Trung thoát khỏi Thiên tai, bão lụt.

( Sẽ thực hiện tiếp khi có thể - Dienbatn )

Thiên khí và Nhân khí: của nước Việt đang bắt đầu vào chu kỳ hưng vượng (Nhất dương sinh hay Nhất điểm hồng) của một vạn năm (10.000 năm). Chúng ta đã biết nhân loại đã trải qua cung Song Ngư 2.160 năm chiến tranh của chính trị và tôn giáo, riêng Việt Nam bắt đầu vào vòng nô lệ khoảng 157 năm tr.CN hoàn toàn chính xác với tính chất của cung này. Vậy, thì Thiên khí đã áp đặt lên toàn bộ Trái đất, bất kể châu nào, nhân sinh quan nào.

Địa Khí không được tốt nơi Tử Huyệt: Được hoàn toàn bù đắp bởi Thiên khí, do Thiên khí sẽ kích hoạt Nhân khí cho nên, cả hai lại cộng hưởng thêm, do vậy mọi việc đã được an định, hết sức diệu kỳ!. Đảo Yến - báo hiệu mùa xuân mới của đất trời, Vũng Chùa - Đạo Phật (Thần Đạo) của nước Văn Lang thời vua Hùng: chẳng nhẽ, các tên gọi cũng đã được sắp xếp???.

Phá hoại tâm linh và phong thủy: Sau năm 2012, toàn bộ cấu trúc trấn yểm tâm linh và phong thủy tới nước Việt bị phá hủy đồng loạt do Thiên khí thay đổi mà chưa cần con người ra tay, những kẻ trấn yểm bị phản lực cực mạnh trở lại, thật là khủng khiếp, đây chính là Thiên khí, quy tắc của tự nhiên. Do vậy, bất kỳ kẻ nào manh nha trấn yểm nước Việt sau năm 2012 phải dừng tay lại ngay, nếu không hậu quả thực sự hết sức khó lường.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hoa Kỳ: Triển lãm báu vật Hàn Quốc “Tượng Phật Di Lặc" tại New York

(PGVN)

Tượng Phật Geumdong Mireuk Bosal Bangasang Quốc bảo của Hàn Quốc sẽ đến với New York Hoa Kỳ nhằm giới thiệu mỹ thuật của di sản văn hóa Hàn Quốc ra nước ngoài.

Cục Di sản Văn hóa Hàn Quốc đã quyết định giới thiệu tượng Phật Geumdong Mireuk Bosal Bangasang trong một triển lãm đặc biệt mang tên “ Silla, Korea’s Golden Kingdom” tổ chức tại bảo tàng nghệ thuật Metropolitan New York Metropolitan New York, Hoa Kỳ từ ngày 29/10/2013 đến ngày 23/02/2014. Posted Image Bức tượng Phật (Geumdong Mireuk Bosal Bangasang)

sẽ được đưa ra nước ngoài để triển lãm tại Mỹ vào tháng 10 tới.

(Cung cấp ảnh: Bảo tàng Quốc gia Hàn Quốc)

Kho báu Quốc gia Hàn Quốc thuyết minh được mô phỏng theo tư tưởng của Thái tử (Taeja). Trong ghi chép có ghi rằng; đức Phật khi còn là Thái tử (Taeja) Ngài đã sống trong cung điện, thụ hưởng ngọc ngà châu báu giàu sang tột đỉnh. Thế nhưng, với thời gian, do suy tư sâu sắc và lòng thương người bẩm sinh, Thái tử không thể nào cam tâm một mình sống mãi trong nhung lụa, giữa một xã hội bất công, một thế giới đau khổ.

Thái tử sớm giác ngộ về tính tạm thời, tầm thường của hạnh phúc vật chất thế gian và có ý chí xuất gia cầu đạo giải thoát, tìm ra con đường cứu vớt chúng sinh ra khỏi già, đau, chết và mọi nỗi bất hạnh khác của đời người.

Tượng Phật Geumdong Mireuk Bosal Bangasang) được phỏng đoán chế tác trong thời Silla (57 B.C – A.D 935), có độ cao khoảng 93.5 cm, trên đầu 3 mặt gắn 3 hình tròn bán nguyệt, nên còn được gọi là “ Phật 3 ngọn núi”.

Bức tượng với hình dáng ngồi chân phải gác lên đùi trái, tay phải nhẹ nhàng tì vào cằm, một cơ thể cân đối, nếp gấp áo theo một khối lập thể cùng với sự thể hiện trên khuôn mặt của mắt, mũi, miệng trong một nụ cười nhẹ nhàng đã cho thấy kỹ thuật đúc tinh sảo của thời Silla.

Posted Image Bức tượng Phật Geumdong Mireuk Bosal Bangasang mỉm cười hiền hòa và tay phải nhẹ nhàng tì vào cằm. (Cung cấp ảnh: Bảo tàng Quốc gia Hàn Quốc)

Cho đến thời điểm này, tượng Phật Geumdong Mireuk Bosal Bangasang đã đưa ra nước ngoài triển lãm trong một thời gian dài khoảng 3.000 ngày với tổng số 8 lần triển lãm. Từ tháng 10 năm nay, tượng Phật Geumdong Mireuk Bosal Bangasang) sẽ được triển lãm tại bảo tàng nghệ thuật Metropolitan New York, Hoa Kỳ trong một triển lãm đặc biệt mang tên “Silla, Korea’s Golden Kingdom”.

Ngoài bức tượng Phật, triển làm còn giới thiệu khoảng 100 di vật thời Silla thời kỳ tiêu biểu của văn hóa cổ đại Hàn Quốc như khuyên tai vàng, đai lưng vàng, vương miện vàng mà hoàng hậu thời Silla sử dụng.

Thích Vân Phong

Share this post


Link to post
Share on other sites

VĨNH BIỆT NGƯỜI VỀ SÔNG TƯƠNG

ngày 13/05/2013

TRẦN KIÊM ĐOÀN

Posted Image

Nhạc sĩ Văn Giảng Thầy Ngô Văn Giảng vừa tạ thế tại Úc, hưởng thọ 89 tuổi. Tin buồn loan ra, tôi bâng khuâng nhớ về 54 năm trước, năm 1959, thầy là giáo sư âm nhạc của chúng tôi tại trường Hàm Nghi, Huế. Thuở ấy, thầy mới ngoài 30, dáng điệu phương cường, đi chiếc xe gắn máy hiệu Zunndapp của Đức nổ bịch bịch nổi bật cả sân trường.

Tôi còn nhớ ngày đầu tiên khi Thầy bước vào lớp đệ Thất B1 của chúng tôi, trò Trương Phước Ni bắt tay làm loa đứng dậy chào thầy bằng câu: “Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn…”Thầy cười rất tươi cho cả lớp, nhưng cũng lâp nghiêm nhìn chú học trò rắn mắt ở dãy bàn cuối lớp. Đây là câu mở đầu của hùng ca Lục Quân Việt Nam, một trong những bài ca mang tiết điệu hành khúc, hùng tráng nổi tiếng nhất của Thầy – nhạc sĩ Văn Giảng – như Thúc Quân, Đêm Mê Linh, Qua Đèo, Nhảy Lửa…

Thầy đã là một nhạc sĩ thành danh, nổi tiếng trong cả nước, trước khi trở thành giáo sư âm nhạc của trường Hàm Nghi. Nhưng nhiều người chỉ biết Văn Giảng qua những bản hùng ca. Bởi thế, vào mấy năm đầu thập niên 1950, khi bản nhạc để đời của Thầy, Ai Về Sông Tương, trở thành một bản tình ca thời danh với tên tác giả làThông Đạt thì ít ai để ý rằng, trong góc khuất của những tâm hồn nghệ sĩ thì bên cạnh nhịp đời hào hùng vươn tới vẫn có tiếng thở dài chan chứa điệu buồn.

Hai niên khóa học với nhạc sĩ Văn Giảng, tôi thích học nhạc thì ít mà mê Thầy kể chuyện thì nhiều. Cứ mỗi cuối giờ, Thầy có một câu chuyện kể về các giai thoại âm nhạc. Thích nhất là những chuyện thâm cung bí sử của những nghệ sĩ âm nhạc tài hoa. Chẳng hạn như bản nhạc Ngày Về của Hoàng Giác, Thầy xướng âm lên và phân tích cho chúng tôi nghe rằng, tiết điệu của bài ca có một nhịp điệu trãi dài xa vắng và âm hưởng thương nhớ quặn lòng “rất Tây Phương” vì đây là bản nhạc do một người lính Đức trong đội quân viễn chinh của Pháp viết lên giai điệu. Nhạc sĩ Hoàng Giác chỉ soạn ca từ… Hoặc như bản nhạc Trầm Hương Đốt của Bửu Bác, xuất xứ là bài Hải Triều Âm. Đây là một trong những bản nhạc nghi lễ đầu tiên dùng trong sinh hoạt chùa viện đã bứt phá từ giai điệu ngũ âm “Đăng Đàn Cung” để tiến lên bát cung của phương Tây. Bởi vậy mà ảnh hưởng âm điệu “thánh ca nhà thờ” thể hiện rất rõ trong giai điệu của bản nhạc.

Nhưng thú vị hơn cả là lịch sử bản nhạc Ai Về Sông Tương. Thầy kể rằng, thời trai trẻ, Thầy ở Thành Nội và yêu một cô gái ở Kim Long – Kim Long có gái mỹ miều; trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi… mà – nhưng duyên không thành vì gia đình nho phong của cô bé không có cái nhìn thiện cảm với đời nghệ sĩ, nhất là nghệ sĩ trong ngành âm nhạc, xướng ca… Thế là chia tay và cô bé đi lấy chồng!

Rồi một hôm, Thầy vào rạp Xi-nê Tân Tân, gần cầu Trường Tiền bên bờ Bắc sông Hương để coi phim “Bé Nhà Trời” (Les enfants du paradis). Ngay trước mắt Thầy, ờ hàng ghế trước có một cô Bé tóc dài. Tuy nhìn không rõ mặt nhưng từ dáng dấp đến hương tóc thoang thoảng mùi hoa Ngâu của người thiếu nữ đã làm sống lại hình ảnh người tình Kim Long. Thầy bị xúc động đến nỗi không thể còn ngồi lại lâu hơn trong rạp chiếu bóng để xem phim, nên vội vàng ra khỏi rạp. Thầy cỡi chiếc xe đạp Dura Mercier của Thầy và đạp xe dọc theo bờ sông Hương để vô cửa Thượng Tứ vào nhà ở Thành Nội. Thoáng chốc dòng sông Hương hiện ra như là dòng sông Tương chia biệt trong truyện tình cổ thư Trung Quốc. Thầy vừa đến nhà là dựng ngay chiếc xe đạp ngoài hiên, đi nhanh vào nhà và vội vã sáng tác bản nhạc bằng tất cả sự hoài niệm và háo hức nghệ thuật với sự chấn động dị thường như phép lạ hóa thân. Bản nhạc Ai Về Sông Tươngđược viết ra trong vòng mười lăm phút!

Sau đó, Thầy bí mật ký tên là Thông Đạt và chép một bản gởi ra đài phát thanh toàn quốc là đài Pháp Á ở Hà Nội. Ngay sau đó, Mạnh Phát vừa là nhạc sĩ vừa là ca sĩ đã hát bản Ai Về Sông Tươnglần đầu trên đài Pháp Á Hà Nội. Bản nhạc sáng tác năm 1949 đã nhanh chóng nổi tiếng trong toàn cả nước. Đã trải qua hơn 60 năm, những mối tình đã cũ, những hẹn hò thuở răng trắng tóc xanh đã thành “răng long đầu bạc”. Nhưng Ai Về Sông Tương vẫn mới như thời gian là nước chảy qua cầu, vẫn còn là tiếng lòng tình tự của những đôi tình nhân ước hẹn không thành. Bản nhạc với một giai điệu thướt tha lãng mạn, lời lẽ đậm nét hoài niệm trữ tình làm dậy lên nguồn tình cảm sướt mướt, mượt mà mà rất “sang” ấy như một dòng suối tươi tắn, mát dịu trong một hoàn cảnh tạm hồi sinh sau cuộc chiến:

Ai có về bên bến sông Tương

Nhắn người duyên dáng tôi thương

Bao ngày ôm mối tơ vương

Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương

Tâm hồn mơ bóng em luôn

Mong vài lời em ngập hương…

Cũng theo lời Thầy vui vui kể chuyện rằng, Mạnh Phát, là bạn thân của Văn Giảng, đã nhờ Văn Giảng đến nhà ấn hành tân nhạc gần như độc nhất thời bấy giờ là nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế do ông Tăng Duyệt làm giám Đốc để hỏi cho ra Thông Đạt là ai ngay sau khi bản nhạc phát trên đài Pháp Á. Nhưng mãi đến ba tháng sau thì tông tích của Thông Đạt mới được tiết lộ. “Mạnh Phát vô Huế chơi khi biết tui là Thông Đạt, hắn đấm lưng tui thùi thụi như rứa thì thôi!” Thầy Văn Giảng nói.

Một lần trong giờ học nhạc, trò Nguyễn Xuân Huế là tay đọc tiểu thuyết đệ nhất trong lớp hỏi Thầy: “Thưa Thầy, tại sao mình có sông Hương, mình cũng có Hương giang đầu, Hương giang vỹ mà Thầy lại phải vay mượn sông Tương của Tàu như rứa ạ?”. Thầy trả lời, đại khái là tại sông Hương chưa có chuyện tình nào nổi tiếng trong tình sử như sông Tương. Tương Giang là một con sông ởTrung Hoa, bắt nguồn từ núi Duyên Hải, chảy qua Hồ Nam dài hơn hai ngàn dặm. Còn ý “ai về sông Tương” của Thầy trong bản nhạc là bắt nguồn từ cảm hứng của bốn câu thơ tình sử trích từkhúc Trường Tương Tư của nàng Lương Ý, đời Hậu Chu. Nàng và Lý Sinh yêu nhau say đắm nhưng phải chia tay. Nàng làm thơ mong gửi gấm nguồn tâm sự đau khổ khi phải xa cách người yêu:

Quân tại Tương Giang đầu

Thiếp tại Tương Giang vĩ

Tương tư bất tương kiến

Đồng ẩm Tương Giang thủy

**

(Chàng ở đầu sông Tương

Thiếp ở cuối sông Tương

Nhớ nhau không thấy mặt

Cùng uống nước sông Tương)

Trong những ngày phong trào đấu tranh Phật giáo xẩy ra tại Huế năm 1963, có lần tôi gặp Thầy trên con đò Thừa Phủ, Thầy nói là lên chùa Từ Đàm nhưng đường sá trở ngại phải đi đò sang sông rồi đi bộ lên chùa. Khi đò ra giữa sông tôi nghịch ngợm hỏi Thầy: “Thưa Thầy, đã có ai về sông Tương chưa ạ?” Thầy cũng cười đáp lại: “Đối với tôi thì sông Tương là sông Hương. Tôi chỉ mong cuối đời về lại con sông này…” Ngày đó và bây giờ, tôi tự hiểu khái niệm “cuối đời về lại” của Thầy là linh khí của con người luân lưu sống giữa hồn thiêng sông núi. Nếu vậy, thì hôm nay Thầy đã về sông Tương.

Đó là lần cuối tôi gặp Thầy Văn Giảng. Nhưng sau đó không lâu, tôi lại được “gặp” Thầy qua một tác phẩm mang tính chất đạo ca của khách hành hương mà tôi đã gặp trên chuyến đò Thừa Phủ: Nhạc phẩm Từ Đàm Quê Hương Tôi. Lần nầy Thầy để tên tác giả là Nguyên Thông. Bản nhạc tuy được liệt vào thể loại nhạc tôn giáo nhưng cả giai điệu lẫn ca từ đã vượt ra ngoài khuôn khổ giới hạn của văn hóa chùa viện. Cảm quan nghệ thuật sáng tạo của người nhạc sĩ tài hoa đã dung hóa được tính chất tráng liệt của hùng ca như Thúc Quân, Lục Quân Việt Nam, làn điệu mượt mà lãng mạn của tình ca như Ai Về Sông Tương, Ai Đưa Con Sáo Sang Sông và biểu tượng thiêng liêng, siêu thoát của đạo ca như Mừng Đản Sanh, Ca Tỳ La Vệ, Từ Đàm Quê Hương Tôi:

Quê hương tôi miền Trung

Sớm hôm chuông chùa nhẹ rung

Tiếng muôn đời hồn tổ tiên kiêu hùng

Ôi uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm

Nơi yêu thương phát nguồn đạo vàng

Qua bao giông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn…

Những nhạc sĩ tài hoa của nền tân cổ nhạc Việt Nam thuộc thế hệ Chiến Tranh Việt Nam lần lượt ra đi. Nghệ thuật và người nghệ sĩ đến với đời và ra đi không bằng tấm vé một chiều. Tác phẩm để lại cho thế hệ kế thừa sẽ làm cho con đường sáng tạo nghệ thuật rộn ràng và phong quang hơn. Với hơn 50 tác phẩm âm nhạc phong phú giá trị nghệ thuật để lại cho đời, nhạc sĩ Văn Giảng đã cống hiến phần tinh hoa lớn nhất của đời mình vì lợi lạc của tha nhân mà các nhà tu Phật giáo thường gọi là “công hạnh viên thành”. Thế hệ đàn em, học trò như chúng tôi có điểm tựa tinh thần đáng tự hào và trân trọng trong giờ phút tưởng niệm và bái biệt Thầy.

Sacramento, mùa hoa sen tháng Tư, 2013

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trung quốc và Ấn Độ tranh dành nhau một biểu tượng Phật giáo Hoang Phong chuyển ngữ đăng ngày 16/10/2013 Posted ImageTờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18 tháng 9 năm 2013, trong mục Địa Lý và Chính Trị và qua một bài viết của ký giả Frédéric Robin đặc phái viên ở New Delhi, đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni (Lumbini). Dưới đây là phần chuyển ngữ.

Thật là cả một sự tranh dành ảnh hưởng vô cùng khốc liệt hiện đang bùng lên trong dãy núi Hy-mã-lạp-sơn. Hai nước Trung Quốc và Ấn Độ đang đối đầu nhau trước biểu tượng của Đức Phật, tượng trưng cho sự đoàn kết giữa các dân tộc Á Châu. Quả thật đây là một cuộc đọ sức không gây ồn ào, thật kín đáo và vô cùng bí mật, tuy nhiên không phải vì thế mà kém phần quyết liệt. Ngoài các mặt trận đã được dàn ra giữa hai siêu cường Á Châu (như sự tranh chấp biên giới, chạy đua về năng lượng, tranh dành ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương...) thì một mặt trận mới cũng đang được mở ra với những "đòn chính trị" thật quy mô. Nếu dựa vào cách nói đang thịnh hành trong thời buổi ngày nay thì có thể bảo rằng cuộc tranh dành kín đáo chưa được công bố ấy là cả một mặt trận tranh dành "quyền lực mềm" ("soft power"). "Quyền lực mềm" là một cách mà các siêu cường ngày nay thường sử dụng để thăm dò phản ứng của nhau, ngoài các hình thức biểu dương sức mạnh khác. "Quyền lực mềm" Phật Giáo với một tầm ảnh hưởng rộng lớn mang tính cách toàn cầu là cả một tiềm năng mà bất cứ một quốc gia nào tự cho mình là nước lãnh đạo Á Châu đều phải quan tâm đến.

Trong các phòng khách sang trọng và kín đáo dưới tầng hầm của một khách sạn năm sao ở New Delhi (thủ đô Ấn Độ) các buổi họp đầu tiên của International Buddhist Confederation (IBC / Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới) đã diễn ra từ ngày từ 9 đến 12 tháng 9 vừa qua, đánh dấu giai đoạn chín muồi của sự tranh chấp trên đây. Trên phương diện chính thức thì IBC (Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới) chỉ giữ vai trò của một tổ thức "Liên Hiệp Quốc Phật Giáo" (Nations Unies du Bouddhisme), tức là một phương tiện nhằm gom tất cả các học phái - Mahayana (Đại Thừa), Hinayana (Tiểu Thừa), Vajrayana (Kim Cương Thừa) - vào một di sản tâm linh chung cho 400 triệu tín đồ trên toàn thế giới. Sự hiện diện trong các buổi họp mặt ở New Delhi của các đại biểu đến từ khoảng bốn mươi quốc gia trên thế giới đã cho thấy một tiếng vang nào đó. Dầu sao thì cũng còn quá sớm để tiên đoán tương lai của IBC. Hiện nay, người ta chỉ có thể biết một cách chắc chắn là dự án trên đây là do nước Ấn đưa ra - mà người đứng ra tổ chức là Lạt-ma Lobzang, một nhân vật thân cận của triều đại Nehru-Gandhi - không phải chỉ mang mục đích tôn giáo. Chủ đích Địa lý Chính trị (Géopolitique / Geo-policy) hiện ra thật rõ rệt.

Tổ chức Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) do Ấn Độ thành lập là nhằm chống lại các sinh hoạt của một tổ chức khác gọi là World Buddhist Forum (WBF / Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới) dưới sự bảo trợ của Trung Quốc. Diễn Đàn này được thành lập sau các buổi hội họp được tổ chức ở Hàng Châu (Hangzou) trong vùng phía nam Thượng Hải (Shanghai) vào năm 2006. WBF (Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới) là một công cụ mà Bắc Kinh sử dụng để o bế (trong nguyên bản là chữ amadouer / coax / vuốt ve) các tập thể Phật Giáo bằng cách hứa hẹn một sự đỡ đầu thân thiện. Tổ chức này nằm trong chính sách ngoại giao tích cực nhân danh Phật Giáo, được đưa ra liên tiếp từ mười năm nay qua các cuộc triển lãm lưu động về chiếc "răng" và đốt "ngón tay" Phật, được xem là xá lợi của chính Đấng Giác Ngộ mà Trung Quốc đang lưu giữ. Năm 2012 trong lần họp thứ ba của WBE tổ chức tại Hồng Kông, một mảnh xương sọ được xem là của chính Đức Phật - khám phá ra hai năm trước đó ở Nam Kinh (Nankin) - được đưa ra trưng bày một cách trang trọng.

Địa lý Chính Trị trong vùng Hy-mã-lạp-sơn là cả một sự thách đố

Nhìn qua thì các buổi họp của Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF) do Bắc Kinh giật dây cũng không đến nỗi nào thua kém so với các buổi họp của Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) được tổ chức ở New Delhi (do Ấn Độ chủ xướng). Tuy nhiên thật hết sức khó cho tổ chức Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF) vượt xa hơn biên giới của các nước thuộc khối Trung Quốc (gồm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và các cộng đồng Đông Nam Á), trong khi đó thì Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) đã mở ra một chân trời rộng lớn hơn. Sự khác biệt trên đây một phần là do ảnh hưởng của vấn đề Tây Tạng. Posted ImageTrong các buổi họp của Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF / do Trung Quốc tổ chức), Gyancain Norbu tức là vị Panchen-lama [nhân vật đứng hàng thứ hai trong Phật Giáo Tây Tạng - ghi chú trong nguyên bản] do Bắc Kinh chọn lựa (được chỉ định là vị tái sinh của vị tiền nhiệm) và cố tình mang ra dàn cảnh. Những người ủng hộ Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tức là vị lãnh đạo tối cao của Phật Giáo Tây Tạng đang lưu vong ở Dharamsala (Ấn Độ), không hề công nhận sự hợp pháp của vị này. Một trong các chủ đích của Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF / do Trung Quốc tổ chức) là mang Panchen-lama thứ XI ra trưng bày trước cộng đồng thế giới với mục đích hy vọng có thể chính thức hóa vị này, thế nhưng hy vọng đó cho đến nay thật hết sức mong manh. Qua những bài diễn văn yêu nước cho rằng xứ sở Nóc Nhà của thế giới (tức là nước Tây Tạng) thuộc lãnh thổ Trung Quốc do chính Panchen-lama đọc lên cho thấy vị này là người ủng hộ Bắc Kinh. Trong khi đó những người trung thành với Đức Đạt-Lai Lạt-Ma lại hiện diện đông đảo hơn trong tổ chức Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) đặt trụ sở ở New Delhi. Trên thực tế IBC đã dựa vào ánh hào quang tỏa rộng mà vị "Đại Dương Trí Tuệ" (tức là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma XIV) đã tạo được cho toàn thể gia đình Phật Giáo với những biên giới rộng lớn, vượt xa hơn tầm ảnh hưởng của các học phái Phật Giáo Tây Tạng. (Ảnh bên: Panchen-lama (BBC World)

Giữa cảnh tranh dành đó, mỗi quốc gia (tức Trung Quốc và Ấn Độ) đều tìm cách đưa ra đủ mọi bằng chứng nhằm dành chính nghĩa về phần mình. Trung Quốc không ngớt hô hào rằng mình là quốc gia có số tín đồ Phật Giáo đông đảo nhất thế giới. Về phía Ấn Độ, nơi mà Phật Giáo đã bị Ấn Giáo đông đảo hơn lấn lướt qua nhiều thế kỷ, thì cho rằng Đức Phật đã được sinh ra trên đất Ấn. Phái bộ Azoka giữ trọng trách tổ chức IBF ở New Delhi tuyên bố rằng "Ấn độ chính là cội nguồn của Phật Giáo". Sự khẳng định trên đây cần phải được xét lại, bởi vì Lâm-tì-ni nơi Đức Phật đản sinh vào thế kỷ thứ VI trước Tây Lịch, thật ra là thuộc lãnh thổ của nước láng giềng Nepal, và người dân Nepal thì không hề tán đồng sự mạo nhận đó của Ấn Độ. Dầu sao các thánh địa khác của Đức Phật và các đệ tử của Ngài - chẳng hạn như Bồ-đề Đạo Tràng (Bod Gaya), Tiên Uyển (Sarnath), Na-lan-đà (Nalanda)... - rõ ràng là thuộc vào lãnh thổ Ấn, và New Delhi bắt đầu đẩy mạnh các kế hoạch khai thác ngành du lịch tâm linh.

Chính trong lãnh vực này đang diễn ra một trận đấu thật ngoạn mục giữa Trung Quốc và Ấn Độ xoay quanh "quyền lực mềm" Phật Giáo. Nhằm đối đầu với con đê khổng lồ của Ấn Độ, Trung Quốc đã bọc hậu và tràn ngập phía sau các thánh địa. Năm 2011, Tổ Chức Phi Chính Phủ (Organisation Non Gouvernementale, ONG / Non-governmental Organisation, NGO) đặt tại Hồng Kông liên hệ với Bắc Kinh là Asia Pacific Exchange and Corporation Foundation (APECF / Cơ Quan Trao Đổi và Hợp Tác giữa các Quốc Gia Á Châu trong vùng Thái Bình Dương) đề nghị với người Nepal là sẽ đầu tư 3 tỉ đô-la (2,25 tỉ euros) - tương đương với 85% thuế thu nhập của toàn xứ Nepal - để "phát triển" thánh địa Lâm-tì-ni, nơi đản sinh của Đức Phật. Sáng kiến này bất ngờ làm bùng lên một sự hăng say trong toàn vùng Hi-mã-lạp-sơn. APECF (tức Cơ quan trao đổi và hợp tác trên đây) chọn ngay Pushpa Kamal Dahal làm người đại diện cho chương trình trên đây ở Nepal, nhân vật này mang bí danh là "Prachanda", nổi tiếng là một người khuấy động, trước đây từng là thủ lãnh của nhóm cựu-nổi-loạn theo chủ nghĩa Mao (Maoism) đã được hợp thức hóa sau hiệp ước hòa bình ký kết vào năm 2006. Prachanda cũng đã từng làm thủ tướng Nepal vào các năm 2008 và 2009.

Có quá nhiều dự án

Trùng tu Lâm-tì-ni là một câu chuyện cũ mèm, thế nhưng gần đây lại được hâm nóng trở lại. Câu chuyện bắt đầu từ năm 1970 khi một kiến trúc sư người Nhật là Kenzo Tange dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc đã đưa ra một dự án về vấn đề này. Thế nhưng sự nhiệt tâm ban đầu đã bị sa lầy nhanh chóng trong các ngõ ngách quan liêu của xứ Nepal và tình trạng bất ổn nội bộ của một xứ sở bé tí nằm kẹt giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong vùng Hy-mã-lạp-sơn. Năm 2010, bỗng dưng người ta lại quan tâm đến Lâm-tì-ni với sự hình thành của một dự án mới, do một nhóm người Mã Lai gốc Trung Quốc theo Phật Giáo Tây Tạng đưa ra. Dự án này nhằm biến Lâm-tì-ni thành một nơi du lịch đại chúng dành vào việc hành hương, tương tự như thánh địa Mecca (La Mecque / Mecca) của người Hồi Giáo.

Thật rõ ràng đây là một dự án "ăn cắp" của Cơ Quan Trao Đổi và Hợp Tác giữa các Quốc Gia Á Châu trong vùng Thái Bình Dương (APECF) do Trung Quốc giật dây. Bề ngoài chương trình này được điều hành bởi một nhân vật rất bí mật tên là Xiao Wunan dưới sự chỉ đạo của các cấp cao trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc, và được đẩy mạnh trong các cộng đồng người Hoa vùng Đông Nam Á. Sự giao hảo thân thiện với nhóm nổi loạn theo chủ nghĩa Mao của Nepal do Prachanda lãnh đạo cho thấy APCEF phải chịu một áp lực nào đó và đã biến thành một sức mạnh đang lên trong bối cảnh sôi sục của thánh địa Lâm-tì-ni. Mùa xuân năm 2011, lại thấy xuất hiện hai nhân vật mới đưa ra một dự án khác, thế nhưng dự án này lại cũng chỉ là một sự vay mượn cả đường lẫn bột với dự án của người Mã Lai trước đây, chỉ khác là được hậu thuẫn bởi một sức mạnh chính trị quan trọng hơn nhiều. Vài tháng sau đó thì một diễn viên thứ ba lại xuất hiện: đấy là kiến trúc sư Hàn Quốc Kwaak Young Hoon, là một người đã từng quan tâm đến Lâm-từ-ni từ lâu trước đó. Người kiến trúc sư này được sự ủng hộ của Korea International Cooperation Agency (KOICA / Cơ Quan Hợp Tác Quốc Tế Hàn Quốc) là một cơ quan trực thuộc chính quyền Seoul (Nam Hàn).

Tóm lại hiện nay đang có quá nhiều dự án liên quan đến Lâm-tì-ni nơi đản sinh của Đức Phật. Giữa cảnh hỗn độn đó, vào năm 2002 lại bắt đầu xảy ra các cuộc tiếp xúc giữa các nhóm trên đây với mục đích phối hợp các sáng kiến theo các đường hướng khác nhau nhằm tìm cách lôi kéo sự chú ý của Liên Hiệp Quốc. Chẳng phải là di tích Lâm-tì-ni đã được cơ quan UNESCO đưa vào danh sách di sản của nhân loại hay sao? Thế nhưng trong đầu óc mỗi người hình như đều phát sinh một thứ cảm tính nghi ngờ cho rằng chắc hẳn phải có những âm mưu nào đó tàng ẩn phía sau những sự lèo lái trên đây. Thế nhưng ai lèo lái ai? Và ai tìm cách hất chân ai? Chính Kwaak Young Hoon (kiến trúc sư Hàn Quốc trên đây) đã từng tiết lộ một giai thoại cho báo Le Monde với mục đích thăm dò mức độ nghi ngờ đang tàng ẩn kín đáo trong bối cảnh trên đây. Khi vừa mới gia nhập vào cuộc chạy đua này, vị kiến trúc sư Nam Hàn đã nhận được ngay một thông điệp của một vị Bộ Trưởng trong chính quyền Katmandou (Nepal) - tất nhiên là dưới áp lực của nhóm nổi loạn theo chủ nghĩa Mao - phải trưng ra bằng cớ sẽ "không chống lại Trung Quốc". Kiến trúc sư Kwaak đành phải tuyên bố rằng mình "không chống Trung Quốc".

"Đức Phật là người Ấn"

Trước những sự việc xảy ra trên đây, Ấn Độ cũng bắt đầu cảm thấy nao núng trước sự khuấy động của tổ chức APCEF thiên Bắc Kinh. Vị chủ tịch Indian Council for Cultural Relations (ICCR / Hội Đồng Quan Hệ Văn Hóa Ấn Độ) và đồng thời cũng kiêm nhiệm chức chủ tịch văn phòng Ngoại Giao của Đảng Quốc Đại (Parti du Congrès / Congress Parti / một đảng chính trị quan trọng của Ấn Độ) hiện đang cầm quyền, là Karan Singh đã lên tiếng như sau: "Ấn Độ sẽ không thể làm ngơ trước các công trình phát triển Lâm-tì-ni", tất nhiên điều này cho thấy rằng việc phát triển Lâm-tì-ni là một trong những công cụ nhằm củng cố "quyền lực mềm" của Ấn Độ. Thế nhưng vị chủ tịch Singh thì lại xác nhận rằng lý do chính thức là vì "Đức Phật là người Ấn Độ". Dầu sao thì sự kiện này còn là - hay đúng hơn nhất thiết là - một kế hoạch chiến lược.

Dưới con mắt của người Ấn, tham vọng của Trung Quốc về một vùng thánh địa Phật Giáo nổi tiếng là Lâm-tì-ni, chỉ cách biên giới của Ấn vài cây số, là cả một sự thách thức lớn lao trên phương diện địa lý chính trị. Phải chăng một mối bức xúc cũng đang bùng lên trong chính quyền New Delhi hay chăng? Người Ấn rất e ngại là nếu dự án của Cơ Quan Trao Đổi và Hợp Tác giữa các Quốc Gia Á Châu thuộc Thái Bình Dương APCEF (thân Trung Quốc) thành công thì tất nhiên Trung Quốc cũng sẽ gây được ảnh hưởng đối với các nhà sư trong vùng Hy-mã-lạp-sơn, nhằm chờ đợi sau này khi Đức Đạt-Lai Lạt-Ma viên tịch sẽ kiểm soát toàn bộ cộng đồng người Tây Tạng. Một viên chức cao cấp của chính phủ Ấn Độ trước đây là Jayadeva Ranade hiện đang được thu dụng trở lại trong việc phân tích chiến lược, đã tỏ ra rất lo ngại khi tuyên bố rằng: "Trung Quốc có thể sẽ mượn Lâm-tì-ni để thành lập một đạo quân thứ năm dàn ra trước cửa ngõ của nước Ấn".

Dự án của APECF cũng đã cho thấy một vài dấu hiệu đuối sức - thế nhưng chắc là sẽ không bị hủy bỏ - lý do là tình trạng thù địch đang nghiêm trọng. Các người Phật Giáo Nepal hết sức bực tức vì tất cả hai bên đều không hề quan tâm đến họ, do đó họ cũng huy động các lực lượng trong tay mình để chống lại "âm mưu cướp đất" (spoliation foncière / land dispossession) đang hăm dọa tập thể người địa phương (tức sắc tộc Tharu) đang sinh sống chung quanh Lâm-tì-ni trong vùng đồng bằng Teraï. Dù chỉ mang tính cách địa phương, thế nhưng Ấn Độ không hề nhìn phong trào trên đây với con mắt bàng quang. Một thành viên Phật Giáo thuộc phong trào này ở New Delhi thú nhận rằng: "Người Ấn giúp đỡ chúng tôi trên mặt tinh thần". Mọi sự hiện nay cũng đã trở nên sáng tỏ hơn, và một vị lãnh đạo Phật Giáo Nepal cũng đã từng tuyên bố như sau: « Lâm-tì-ni đã trở thành tâm điểm của cả một « cuộc chơi lớn » giữa Ấn Độ và Trung Quốc ». Nơi đang gây ra chấn động và cơn sốt trên đây cũng là điểm gặp nhau giữa những người tu hành, những tay khuấy động thừa cơ nước đục thả câu, các chính trị gia, các nhà tranh đấu bản địa (người dân thiểu số thuộc các sắc tộc địa phương), và cả một bọn trục lợi cá mè một lứa.

Vài lời ghi chú của người dịch

Posted ImageLâm-tì-ni nằm trong vùng đồng bằng Taraï phía nam xứ Nepal và là nơi đản sinh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Năm 249 trước Tây Lịch vua A-dục và nhà sư Ưu-bà-cúc-đa (Upagupta) vừa là thầy vừa là quốc sư của đế quốc của ông, cả hai cùng đến viếng Lâm-tì-ni, lúc đó là một ngôi làng trù phú. Vua A-dục cho xây dựng tại nơi này bốn ngôi chùa và một trụ đá cao sáu thước. Trên trụ đá có khắc một câu như sau: " Vị vua yêu quý của các thiên nhân là Piyadasi (một tên khác của vua A-dục) đã đích thân đến viếng nơi này vào năm thứ 20 sau ngày đăng quan. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã sinh ra tại nơi đây...". Dựa vào các chi tiết khác khắc trên trụ đá thì Đức Phật sinh vào năm 623 trước Tây Lịch.

Ngược về bốn thế kỷ trước đó, tức là trước khi vua A-dục và nhà sư Ưu-bà-cúc-đa đến đây thì ngôi làng Lâm-ti-ni là một khu vườn rộng lớn thuộc xứ Kiều-tát-la (Kosala) của nhà vua Tịnh Phạn (Suddodhana). Kinh sách bằng tiếng Pa-li cũng như bằng tiếng Phạn đều có nói đến khu vườn này và cho biết đây là một khu vườn mênh mông, thật thanh tú và có trồng nhiều cây sala. Sala tên khoa học là Shorea robusta trổ hoa rất đẹp.

Posted Image Hôm ấy là giữa tháng năm và cũng vào giữa mùa xuân, nơi kinh đô Ka-tì-la-vệ (Kapilavastu) hoàng hậu Mai Da (Maya Devi) vợ vua Tịnh Phạn, dù đang có mang thế như vẫn quyết định về thăm cha mẹ sinh ra mình ở thị trấn Devahada. Nào có ai ngờ được là quyết định bất ngờ ấy của một bà hoàng hậu một xứ bé tí thu mình duới chân dãy Hy-mã-lạp-sơn đã đánh dấu một biến cố lớn trong lịch sử nhân loại. Đi được nửa đường, Hoàng hậu và các người tùy tùng dừng lại nghỉ trong khu vườn Lâm-tì-ni xinh đẹp. Trong khu vườn có xây một hồ nước trong để dân chúng trong vùng đến tắm. Hoàng hậu và một vài người hầu cũng xuống tắm. Sau đó hoàng hậu ngồi tựa vào một gốc cây sala nghỉ ngơi. Thế rồi hoàng hậu bỗng nhiên cảm thấy chuyển bụng. Bà bèn đứng lên, một tay nắm chặt một cành cây sala, một tay quàng vai một người hầu và sinh ra thái tử Tất-đạt-đa Cồ Đàm từ "bên cạnh sườn" (xem hình). Đứng để sinh đẻ là một tập tục lâu đời ở Á Châu và gần đây vẫn còn thấy ở một vài sắc tộc.

Posted ImageThái tử Tất-đạt-đa không sinh ra trong chốn cung điện mà sinh ra dưới một gốc cây trong khu vườn Lâm-tì-ni như bất cứ một kẻ vô gia cư nào khác. Ba mươi lăm năm sau vào giữa mùa xuân và cũng vào một đêm giữa tháng năm trăng tròn, dưới một gốc cây trong một khu rừng hoang vắng, thái tử Tất-đạt-đa đạt được Giác Ngộ và trở thành một vị Phật. Đức Phật thuyết giảng lần đầu cũng dưới một gốc cây nơi khu vườn Tiên Uyển (Sarnath). Tám mươi tuổi, kiệt lực, Đức Phật cũng lại nằm xuống đất giữa hai gốc cây trong một khu rừng,

Từ ngày lánh xa thế tục, Đức Phật chỉ có hai manh áo cà sa thay đổi trên người, một chiếc bình bát trên tay, và đi chân đất để khất thực. Ngài luôn dừng lại bên ngoài các khu đô thị hầu tránh xa các cảnh bon chen. Ngoài giáo lý mà Đức Phật đã để lại cho nhân loại, chính cuộc sống của Ngài cũng là một tấm gương cho chúng ta cùng soi. Một người tu tập chân chính có cảm thấy khiếp sợ - nếu không muốn nói là kinh hoàng - khi đọc những gì mà bài báo trên đây đưa ra hay không? Rồi đây, Lâm-tì-ni sẽ trở thành một nơi đô hội, một bãi chiến trường giữa những kẻ âm mưu, một nơi hội tụ của những kẻ thừa cơ nước đục... Ai sẽ thắng, và ai sẽ thua? Hàng nghìn khách sạn sẽ mọc lên, ngành du lịch tâm linh ở Lâm-tì-ni sẽ trở thành một kỹ nghệ béo bở. Thánh địa Lâm-tì-ni sẽ trở thành một "quyền lực mềm" của một quốc gia lãnh đạo nào hay một chủ nghĩa chính trị nào đây?

Một vài tư liệu cho biết rằng vua A-dục bãi bỏ thuế khóa cho ngôi làng Lâm-tì-ni, trong khi đó một vài tư liệu khác thì lại cho rằng nhà vua này chỉ giảm thuế, dầu sao đi nữa thì đấy cũng không hề là một biện pháp trục lợi. Thật vậy chủ đích chính yếu của bốn ngôi chùa và trụ đá của vua A-dục là để biến Lâm-tì-ni thành một trong những nơi hành hương mang lại những xúc cảm tinh khiết cho những người tu hành chân chính hầu giúp họ đến gần với Đức Phật hơn. Vào thế kỷ thứ IV có một nhà sư Trung Quốc khác thường là Pháp Hiền, quyết tâm sang Ấn Độ để tu học. Ông khởi hành bằng đường bộ và rời Trường An năm 399, đi xuyên qua sa mạc Gobi, các vùng Tân Cương, Khotan, và sau đó là Afghanistan và Pakistan ngày nay... Ông đi ngang làng mạc và đô thị, nơi nào cũng theo Phật Giáo, dân chúng tổ chức các lễ hội thật vui và long trọng.

Pháp Hiền đến lãnh thổ Ấn năm 402. Ông lưu lại trong vùng thung lũng sông Hằng để tu học và viếng các nơi thắng tích Phật Giáo. Sau đó ông quay lại các vùng Peshawar, Kaboul thuộc Afghanistan ngày nay để viếng thăm các vùng Phật Giáo này. Trước khi quay về Trung Quốc ông xuống miền nam nước Ấn và đến Tích Lan, nơi đây ông khám phá ra nhiều kinh sách chưa hề có ai ở Trung Quốc biết đến. Năm 413 ông rời Tích Lan bằng đường biển để trở về quê hương. Trên đường ông suýt chết vì ghe bị đắm. Ông ghé được vào đảo Java của Indonesia, và tại nơi này ông gặp nhiều người đồng hương sang đây tu học. Lúc đó đảo Java chưa có ngôi đền Borobudur, vì ngôi đền nổi tiếng này chỉ bắt đầu được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ VIII. Sau đó ông lại tìm ghe khác để trở về Trung Quốc. Trong chuyến trở về quê hương này có thêm bốn nhà sư khác tháp tùng, thế nhưng chỉ có mình ông là sống sót và về đến được Trường An vào năm 414. Ông để ra hai năm để viết quyển hồi ký mang tựa là "Phật Quốc Ký" thuật lại cuộc hành trình mười lăm năm của mình ở Ấn Độ và Tích Lan. Vài năm sau đó thì ông qua đời.

Hành hương và tu học là ý chí và lòng nhiệt tâm của một con người và đôi khi cũng là lý tưởng của cả một đời người. Sự thúc đẩy đó không cần đến sự hậu thuẫn của các diễn đàn, liên đoàn, ngân hàng, hay sự hậu thuẫn chính trị của các đảng phái hoặc một quốc gia nào cả, cũng không cần đến các tổ chức du lịch đan vào nhau như một mạng lưới ở khắp các quốc gia Phật Giáo. Chắc hẳn rồi đây chúng ta sẽ có thể đến viếng Lâm-tì-ni thật dễ dàng theo các tour du lịch rẻ tiền. Trong số những người hành hương tất sẽ có những người thật thà, dành dụm chắt chiu để cúng dường, hầu góp phần mang lại lợi nhuận cho những số vốn đầu tư hàng tỉ đô-la. Thế nhưng cũng có những người giàu có cúng dường để trấn an lương tâm mình. Dầu sao thì chúng ta cũng rất có thể sẽ đến Lâm-tì-ni bằng các tour du lịch với chương trình một hoặc hai tuần có người hướng dẫn chuyên nghiệp có thể nói được nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm giúp chúng ta cầu xin được thêm một ít phước lành. Có mấy ai nhớ được là Đức Phật sinh ra dưới một gốc cây ở một nơi cách biệt với cung điện của vua cha, và sau này chỉ có một bình bát trên tay, thì làm thế nào ban phước lành và sự giàu có cho chúng ta được. Âu châu văn minh ngày nay cũng chẳng khá hơn, chẳng hạn như ở một nước rất sùng đạo, trong các vùng thôn quê, làng này đồn đại và rỉ tai là làng kia có xảy ra phép lạ nhờ đi hành hương và uống nước thánh. Bọn trục lợi quả thật khéo léo và tài tình, xe của các tour du lịch đầy ắp những người nông dân chất phác và những người lớn tuổi thật thà. Các nước có thánh địa tiếp rước hàng triệu du khách mỗi năm, mạng lưới du lịch tâm linh thật nhộn nhịp khắp Âu Châu và thế giới. Hình ảnh những người hành hương thành kính thường xuyên được đưa lên thật khéo léo trên truyền hình. Đấy vừa là "quyền lực mềm" vừa là một nguồn tài chính khổng lồ cho một số quốc gia Ấu Châu. Cái mô hình đó đang được xuất cảng sang Á Châu.

Vào thế kỷ thứ VII, giữa thời kỳ vàng son của nền văn minh Trung Quốc và sự phát triển cao độ của Phật Giáo ở xứ sở này, người ta lại thấy có một nhà sư khác thường khác là Huyền Trang. Ông rời Trường An vào năm 629 sang Ấn hành hương và tu học. Ông đi ngang các vùng Tây Vực theo Phật Giáo mà nhà sư Pháp Hiền đã đi ngang trước đó hơn hai thế kỷ. Vào thời kỳ mà Huyền Trang đi ngang các vùng này thì nhiều nơi đã hoặc đang trở thành Hồi Giáo. Bởi vì tôn giáo này được hình thành ở nước Á Rập Saudi vào thế kỷ thứ VII đang phát triển rất nhanh trong toàn vùng Trung và Cận Đông. Nói chung thì những gì nhà sư Huyền Trang trông thấy đấy là những hiện tượng mà Phật Giáo gọi là vô thường.

Huyền Trang quay về Trung Quốc mười sáu năm sau tức là vào năm 645. Ngoài số kinh sách mang về còn có một quyển nhật ký của ông mang tựa là " Đại Đường Tây Vực Ký" ghi chép những gì do chính ông tai nghe mắt thấy nơi xứ sở của Đức Phật và các nơi thắng tích trong thung lũng sông Hằng. Hai quyển sách "Phật Quốc Ký"" Đại Đường Tây Vực Ký" trên đây là hai tài liệu vô giá về Phật Giáo trên đất Ấn và cả lịch sử của quốc gia này. Quyển "Phật Quốc Ký" của Pháp Hiền được dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh rất sớm từ hậu bán thế kỷ XIX.

Posted ImageMột nhà khảo cổ người Đức là Alois-Anton Führer dựa vào quyển "Phật Quốc Ký" của Pháp Hiền đã tìm được vị trí của Lâm-tì-ni vào năm 1896. Một năm sau người ta tìm thấy trụ đá và sau đó là các lớp nền của bốn ngôi chùa do vua A-dục xây dựng. Khởi đầu Lâm-tì-ni là một khu vườn thanh tú dưới triều đại của vua Tịnh Phạn, sau đó đã trở thành một ngôi làng trù phú và một thắng tích thiêng liêng dưới triều đại của vua A-dục, và sau cùng là một vùng hoang sơ và nghèo nàn khi nhà khảo cổ Alois-Anton Führer đến đây.

Vào thế kỷ XIV nhà vua Ripu Malla của xứ Nepal hành hương nơi này và đã cho ghi khắc thêm trên trụ đá của vua A-dục một câu đánh dấu cuộc viếng thăm của mình, và đấy cũng là dấu tích lịch sử cuối cùng của Lâm-tì-ni. Lý do của sự yên lặng hay quên lãng đó của Lâm-tì-ni cũng không phải là quá khó hiểu. Các đạo quân Hồi Giáo tràn vào đất Ấn vào thế kỷ XII đã sử dụng mọi phương tiện để tận diệt Phật Giáo và cả Ấn Giáo. Thế nhưng đối với Ấn Giáo thì hình như các đạo quân Hồi Giáo có phần nương tay hơn. Có thể là vì Ấn Giáo cũng là một tín ngưỡng tin vào Thánh Kinh và một Đấng Toàn Năng gần tương tự như Hồi Giáo? Một lý do khác là Ấn Giáo là một tín ngưỡng mang tính cách đại chúng, sự sinh hoạt ăn sâu vào gia đình và làng mạc, trong khi đó thì Phật Giáo có những tổ chức tập thể lộ liễu hơn, chẳng hạn như tăng đoàn của đại học Na-lan-đà gồm hơn mười ngàn nhà sư. Sau thế kỷ XIII có thể nói là Phật Giáo đã hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ, trong khi đó thì Ấn Giao hồi phục nhanh hơn. Tóm lại Lâm-tì-ni chìm sâu trong sự quên lãng của lịch sử kể từ thế kỷ XV cho đến khi nhà khảo cổ người Đức tìm đến nơi này vào cuối thế kỷ XIX.

Có một nhân vật trong lịch sử Phật Giáo ít người chú ý đến, thế nhưng lại là một trong những nhân vật có công lớn nhất và không thể nào chối cãi được, ấy là vị quốc sư Ưu-bà-cúc-đa dưới triều đại của vua A-dục. Ông không nổi danh như Long Thụ, Vô Trước, Bồ-đề Đạt-ma, Huệ Năng hay Đạo Nguyên... Thật vậy ông không phải là một luận sư hay triết gia và cũng không hề sáng lập ra một học phái nào cả, thế nhưng chính ông là người đã giúp vua A-dục đến gần với Phật Giáo, đã khuyên vua A-dục xây cất hàng chục ngàn bảo tháp để phân tán xá lợi ra khắp mọi nơi trong đế quốc của mình giúp người dân đến gần với Đạo Pháp và Đức Phật hơn. Thật vậy các phương tiện di chuyển của hơn hai ngàn năm trước có phải như ngày nay đâu. Ưu-bà-cúc-đa cũng là người chủ xướng việc kết tập Đạo Pháp lần thứ ba và cũng đã chủ tọa đại hội này để thanh lọc những gì thêm thắt và dị đoan trong một giai đoạn phát triển hỗn tạp và quá nhanh của Phật Giáo, nhờ vào sự ưu đãi của hoàng triều A-dục. Chinh là nhờ vào lần kết tập này, Luật Tạng và Kinh Tạng được hình thành thật tinh khiết và được truyền bá đi khắp nơi. Nếu Ưu-bà-cúc-đa đã đứng bên cạnh vua A-dục khi nhà vua này ra lệnh xây dựng bốn ngôi chùa và trụ đá ở Lâm-tì-ni, thì ông cũng đã đứng sau lưng vị vua này trong các chương trình hoằng Pháp xa hơn thung lũng sông Hằng và bên ngoài biên giới của đế quốc Maurya. Sự âm thầm và khiêm tốn đó của một nhà sư chân chính thật hết sức tương phản với các âm mưu và những sự khuấy động của các nhân vật như Pushpa Kamal Dahal, Kenzo Tange, Xiao Wunan, Kwaak Young Hoon, Karan Singh, Jayadeva Ranade... và cả đám trục lợi cá mè một lứa, do ký giả Frédéric Robin nêu lên trong bài báo trên. "Vinh dự" duy nhất mà Ưu-bà-cúc-đa có lẽ cũng không mong muốn và cũng không hề chờ đợi, là sau này người ta xếp ông với ít nhiều gượng ép, đứng vào hàng thứ năm trong danh sách các vị tổ của Thiền Tông.

Cách nay ít lâu người dịch có viết một bài ngắn về "Câu chuyện một con đường", thuật lại cuộc hành trình của một người tu tập. Trên con đường đó có những người đi ngược chiều mà người tu tập phải tránh ra để không đâm sầm vào họ. Hai bên vệ đường diễn ra những cảnh cướp giật, đâm chém, bom nổ, nhà cháy, cầu sập, có những sòng bài, nhà hát tấp nập và cả những hố sâu, vực thẳm... Chúng ta không nên dừng lại để tham gia vào những thứ ấy, cũng không nên kéo nhau ra hai bên vệ đường để tả xung hữu đột. Nói thế không có nghĩa Phật Giáo là một tín ngưỡng chủ trương phải bịt tai, bịt mắt và bịt miệng tương tự như hình ảnh của ba con khỉ. Bước vào con đường tức đã là một một sự dấn thân rồi, thế nhưng sự dấn thân ấy không hề bắt buộc chúng ta phải mù quáng, trái lại chúng ta phải nhìn thấy những gì đang xảy ra ở hai bên vệ đường hầu giúp chúng ta ý thức được là mình phải nhanh chân và bước những bước vững chắc hơn. Và đấy cũng chính là mục đích của bài chuyển ngữ bé nhỏ này.

Bures-Sur-Yvette, 26.09.13 Hoang Phong chuyển ngữ

Share this post


Link to post
Share on other sites

GS. CHU HẢO VÀ NHÀ SỬ HỌC DƯƠNG TRUNG QUỐC NÓI VỀ TƯỚNG GIÁP

Posted Image

GS Chu Hảo và Nhà sử học Dương Trung Quốc nói về Tướng Giáp “… tôi cho rằng vấn đề quan trọng nhất kể cả trong những chuyện chúng ta bàn liên quan đến Đại tướng, chúng ta có thể có nhiều câu hỏi: Tại sao những ý kiến Đại tướng đóng góp chưa được tiếp thu đầy đủ? Thậm chí có những ý kiến của Đại tướng còn không được trả lời.” Dương Trung Quốc.

TuanVietnam

Bài 1: Có công thì dân dựng “đền thờ”

Tuần Việt Nam -Tiếng nói của người dân là thước đo quan trọng hàng đầu. Như câu của nhà thơ Nguyễn Duy: “Có công thì dân dựng đền thờ” – đó là đền thờ trong tấm lòng mỗi con người.

LTS: Sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ gieo niềm tiếc nhớ mà còn gieo những <a href="http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/144038/tuong-giap-va-su-thuc-tinh-nguoi-duong-thoi.html">“hạt mầm hy vọng” , về tình đoàn kết ,lòng yêu nước , tinh thần tự tôn dân tộc , khát vọng về những người đứng đầu hội tụ cả đức – tài, nhân cách… Chỉ một người ra đi, mà khiến cả dân tộc thấy mình yêu nước nhiều đến vậy.

Cùng phóng viên Tuần Việt Nam hiểu rõ hơn những giá trị này, trong cuộc trò chuyện với nhà sử học Dương Trung Quốc và GS Chu Hảo.

“Thế hệ vàng” trong sáng

Suốt những ngày trước khi diễn ra Quốc tang, người ta nói rất nhiều về hiện tượng dòng người đứng xếp hàng trước ngôi nhà 30 Hoàng Diệu. Dòng người đó ngày hôm sau lại đông hơn hôm trước… Ông gọi tên hiện tượng mà chúng ta đang thấy là gì?

GS Chu Hảo: Đối với con người “nghĩa tử là nghĩa tận”. Khi một người đã nằm xuống, những người ở lại sẽ nhớ đến những gì tốt đẹp nhất.

Câu chuyện người dân ở 30 Hoàng Diệu trước hết thể hiện tấm lòng của mọi tầng lớp nhân dân với Đại tướng – người đại diện cho thế hệ cách mạng đầu tiên còn sống cho đến bây giờ. Cuộc đời Võ Nguyên Giáp là biểu tượng của lòng yêu đất nước, và trung thành tuyệt đối với quyền lợi của dân tộc. Nhắc về thế hệ những người cách mạng như Võ Nguyên Giáp là nhắc đến một thế hệ vàng: Vô cùng dũng cảm, trong sáng và lãng mạn cách mạng.

Posted Image

Có thể còn có những nhận thức, những quan điểm chính trị khác nhau sẽ dẫn đến những đánh giá khác nhau về những việc mà thế hệ đó đã làm. Nhưng có thể khẳng định chắc chắn một điều: Thế hệ đó là những người đã không ngại hy sinh bản thân mình để phục vụ một lý tưởng mà họ cho là hết sức chân chính và vĩ đại.

Trong thế hệ đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những biểu tượng và đến bây giờ mọi người tôn kính và yêu quý ông với tinh thần như thế. E rằng trong nhiều thập kỷ tới hiếm có thêm một người nào lại còn được nhân dân ngưỡng mộ chân thành đến thế.

Nhà sử học Dương Trung Quốc: Tôi không bất ngờ về hiện tượng này, mặc dù là chưa ai có thể lường được nó lại diễn ra như thế.

Đã từng có những điều tương tự diễn ra trong quá khứ. Vào thời điểm này, sự kiện cụ Giáp mất khiến nhiều người hay liên tưởng đến khi Bác Hồ qua đời. Nhưng ví dụ như đám tang cụ Phan Chu Trinh năm 1926, cụ Lương Văn Can năm 1927 và kể cả những đám tang của những chiến sĩ cộng sản yêu nước như cụ Phan Thanh, cụ Nguyễn Thế Rục hay gần đây là đám tang của Giáo sư Tôn Thất Tùng. Dễ nhận ra một điều là người dân họ rất công bằng. Và tiếng nói của người dân là thước đo quan trọng hàng đầu.

Như câu của nhà thơ Nguyễn Duy: “Có công thì dân dựng đền thờ”– đó là đền thờ trong tấm lòng mỗi con người. Có thể vào giai đoạn nào đó, những điều này tưởng như đã biến mất, đã mai một, nhưng khi có cơ hội, nó lại bộc lộ.

Kiểm nghiệm những gì đang diễn ra dưới góc độ lịch sử, tôi gọi đó là chân lý.

Không “quyền năng” vẫn có khả năng tập hợp

- Thưa ông Dương Trung Quốc, nếu nhân dân là thước đo chính xác nhất, vậy theo ông tại sao những con người như ông vừa kể ra lại tạo được ảnh hưởng và khả năng chinh phục nhân tâm mạnh mẽ đến thế?

Ông Dương Trung Quốc: Bởi vì những con người đó khi còn sống họ đã sống vì mọi người và cao hơn là vì lý tưởng yêu nước, lý tưởng cộng sản – những lý tưởng mà họ đã thực sự nhìn thấy không chỉ là cái bề ngoài, mà còn là cái cốt lõi, cái cốt lõi đó luôn là VÌ MỌI NGƯỜI.

Khi nghiên cứu những nhân vật lịch sử, những vĩ nhân, người ta thường quan tâm đến sự nghiệp, đến những đóng góp to lớn và sự khác biệt ở họ.

Posted Image

Nhưng có lẽ phải có một cái nhìn toàn diện hơn, là phải nhìn vào những cái gì rất đời thường của một con người trọn vẹn với cả cái chung, cái riêng; với cả những lúc thăng, lúc trầm.

Tôi là một người có may mắn gặp gỡ và làm việc với Đại tướng khi ông đã rời khỏi các vị trí quyền lực. Ông dành phần lớn thời gian cho công tác nghiên cứu lịch sử và là Hội trưởng danh dự của Hội Sử học chúng tôi.

Chúng tôi thấy rõ là chính cuộc sống đời thường, cuộc sống của một người mà nếu theo sự phân tích bề ngoài là không còn ở đỉnh cao vinh quang nữa – khi mà ông có thể bộc lộ thoải mái con người mình.

Posted Image

Tôi đã nhìn thấy ở Đại tướng trong chính thời điểm đó một tinh thần hết sức bình thản thường có ở những người có một nhận thức thật sự về tính tất yếu, về những điều mang tính quy luật và đồng thời con người ấy có thể vượt qua mọi thăng trầm nhưng không bao giờ thay đổi mục tiêu của mình.

Tôi thấy đó là một đặc điểm rất nổi bật ở con người Võ Nguyên Giáp. Người ta nói rất nhiều đến Võ Nguyên Giáp ở khía cạnh trí tuệ. Khi gần gũi ông, tôi nhận ra điều quan trọng hơn cả khi nói về nó, ông luôn luôn quan tâm đến việc làm sao tập hợp được trí tuệ của những người xung quanh mình. Hình như trong những quyết định của cuộc đời ông, có những quyết định là của cá nhân ông, nhưng để có những quyết định ấy, ông đã biết cách quy tụ mọi người.

Ngay cả thời kỳ ông không còn nắm trong tay những “quyền năng” về chính trị, thì ông vẫn có khả năng tập hợp rất nhiều trí tuệ khác xung quanh mình và rất nhiều người đã đến với ông. Và mỗi quyết định của ông đều là mỗi quyết định đã được tham khảo kỹ lưỡng từ những người mà ông tham vấn.

- Có độc giả chia sẻ với Tuần Việt Nam, là chỉ một người ra đi mà làm cho cả dân tộc thấy mình yêu nước nhiều đến thế? Ông bình luận gì?

Ông Dương Trung Quốc: Lòng yêu nước là phẩm chất mà ai cũng có. Nói đơn giản như một nhà thơ Nga: Yêu nước là yêu những thứ rất bình thường trong đời sống, yêu quê hương, yêu gia đình.

Nhưng “chủ nghĩa yêu nước” thì khác. Nó có mục tiêu, con đường và phản ánh quan điểm của một số người nào đó.

Posted Image

Lòng yêu nước khi tìm được tiếng nói chung thì có thể chia sẻ với nhau rất dễ dàng. Nhưng nếu phải tranh luận thế nào là yêu nước thì chắc chắn sẽ có sự khác biệt nhau về quan điểm, thậm chí vô cùng gay gắt. Mấy ngày vừa qua chúng ta đã có một cơ hội, một môi trường để cùng bộc lộ lòng yêu nước của mình mà vượt qua tất cả các yếu tố khác.

Có những bạn trẻ không quan tâm về chính trị, nhưng họ vẫn không hề vô cảm trước một người tiêu biểu của thế hệ cha anh. Chắc bạn cũng đồng ý với tôi, giây phút mà nhiều người chờ đợi nhất là giây phút câu hỏi “Chúng ta có thực hiện nghi lễ Quốc tang với Đại tướng hay không?”, bởi chúng ta cũng bị ràng buộc bởi những quy định về tổ chức Quốc tang.

Quyết định cuối cùng, tôi cho đó là một quyết định hợp với lòng dân.

Nghi thức hay lòng dân?

- Ông có nghĩ sự kiện Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời là một sự thức tỉnh đối với chúng ta: Thức tỉnh cả về tình yêu, về lòng tự hào dân tộc, thức tỉnh cả về nhận thức, và cả niềm trông đợi những điểm tựa tinh thần cao đẹp?

Ông Dương Trung Quốc: Đôi khi có những cái chết sẽ mang lại mầm sống mà ở đây là đánh thức những gì đã có trong tâm thức người Việt.

Đây cũng là cơ hội để ta chiêm nghiệm những gì đang diễn ra trong đời sống hàng ngày, trong những chính sách tồn tại quá lâu và quá cứng nhắc so với cuộc sống hiện nay. Vấn đề còn lại là khi đám tang kết thúc, khi mà ta đã phát hiện ra những nhân tố tích cực như thế, chúng ta phải làm thế nào để nuôi dưỡng nó, thúc đẩy nó, đưa nó lên…

Việc người dân dành tình cảm cho Đại tướng nhiều như thế cũng là một lời nhắc nhở, một lời cảnh báo với những người đương thời. Tôi cho rằng tất cả đều phải suy nghĩ. Các vị ở những chức vụ cao nhất của đất nước nếu có mệnh hệ gì sẽ được tổ chức Quốc tang sẽ nghĩ gì về chuyện Quốc tang, nghĩ xem thước đo nào là quan trọng hơn: Nghi thức hay lòng dân?

Sự suy nghĩ sẽ điều chỉnh ý thức, giúp chúng ta phải sống tốt hơn, như thế hệ Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

- Điều chỉnh như thế nào, thưa ông?

Ông Dương Trung Quốc: Một yếu tố rất quan trọng đã trở thành đặc tính ở ta là sự gương mẫu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hay những người như cụ Phan Chu Trinh, là những người tiêu biểu cho một thời đại lịch sử. Nhắc đến họ để thấy rằng người dân luôn nhìn vào những tấm gương. Rất tiếc là hiện trong những người đang sống, chưa có được những tấm gương lớn như vậy, thì làm sao để nhân dân học theo?

Chúng ta đã nói rất nhiều về lòng tin và tôi cho lòng tin là điều rất quan trọng. Trong thời gian vừa rồi, hơn bao giờ hết Chính phủ nói rất nhiều về việc xây dựng lòng tin với bạn bè thế giới. Nhưng còn việc quan trọng hơn nữa chính là xây dựng lòng tin với người dân trong nước.

Ông Chu Hảo: Lịch sử đã ghi rõ, sau khoảnh khắc tưng bừng khi thống nhất đất nước, chúng ta đã rơi vào một giai đoạn hết sức khó khăn, vì sai lầm trong những chính sách lớn về mặt kinh tế – xã hội. Sau đó là thời kỳ đổi mới, phát huy tác dụng rất tốt cho đến khoảng cuối những năm 1990.

Posted ImageNhưng từ đó đến giờ, như mọi người đều thấy rõ, đất nước ta đang trải qua một thời kỳ khó khăn cả về kinh tế, văn hóa, giáo dục, đạo đức xã hội.

Đương nhiên là trong chiến tranh thì niềm tin dễ dàng được tập hợp, được hun đúc, được dấy lên vì một mục tiêu chung của cả dân tộc trước tình thế cấp bách. Nhưng trong hòa bình, hoàn cảnh và nhu cầu của mọi người đã khác đi: Lúc này vai trò của cá nhân nổi lên, đòi hỏi phải khẳng định cá nhân của mình trong mỗi lĩnh vực. Người ta sẽ không dễ dàng tin một cách tuyệt đối và vô tư như xưa.

Việc người dân Việt Nam cùng bày tỏ lòng kính trọng và thương tiếc chân thành với Đại tướng như những ngày qua, phần nào đó biếu lộ lòng khao khát được quay lại thời kỳ mà họ đã thực sự có niềm tin, thực sự có được sự kính trọng với những người đứng đầu – điều mà bây giờ đã bị mai một đi rất nhiều.

Từ tình cảm mà người dân bày tỏ trước sự ra đi của Đại tướng, tôi cảm nhận được sự nuối tiếc. Khi biểu tượng cuối cùng cho một thế hệ đặc biệt của dân tộc đã ra đi mãi mãi.

Lan Hương (thực hiện)

Bài 2:

ĐBQH Dương Trung Quốc: Tại sao ý kiến Đại tướng chưa được “nghe” hết?

Tuần Việt Nam - “Có lẽ, người dân trong tâm thức khi bày tỏ tình cảm với Đại tướng cũng chia sẻ nỗi niềm của mình về xã hội”.

Bày tỏ nỗi niềm với thời đại

- Trong kháng chiến chống Mỹ, bà má miền Nam đào hầm nuôi chiến sĩ, bà mẹ miền Bắc đưa con ra chiến trường. Những bà mẹ đó đã tin Bác Hồ, tin Đảng, tin tưởng vào cách mạng. Vậy thì điều gì đã xảy ra với chúng ta hôm nay khiến niềm tin ấy biến mất khi mà nó đã từng là điều rất đương nhiên với dân tộc này?

Ông Dương Trung Quốc: Đảng Cộng sản đã thực thi được trách nhiệm lịch sử của mình, trước hết không phải là do lý thuyết cộng sản, mà khi đó nó còn là hiện thân của lòng yêu nước và người dân đi theo.

Nếu nói về lịch sử, chúng ta nhớ rằng thời kỳ năm 1945, cụ Hồ tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản, đưa Đảng vào hoạt động bí mật để mà tiếp tục thu hút lòng dân khi người dân chưa hiểu hết về học thuyết, về chủ nghĩa cộng sản. Nhưng người dân vẫn đi theo, vì tấm gương và sự thu hút của những con người rất cụ thể.

Lúc đó về chính danh, Đảng Cộng sản không tham gia Quốc hội. Người đảng viên cộng sản tham gia Quốc hội qua những tổ chức xã hội khác. Lúc đó cụ Hồ đã nói: “Đảng của tôi là Đảng Việt Nam”.

Posted Image

Mong muốn của thế hệ Hồ Chí Minh là kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa cộng sản. Sự kết hợp đó đã thành công trong một giai đoạn nhất định. Nhưng sự kết hợp đó hiện nay đang có vấn đề, và những người đảng viên có trách nhiệm phải xem lại chuyện đó.

Bởi tất cả các vấn nạn xã hội đều phải có nguồn gốc. Đảng đã nhận mình là người lãnh đạo cao nhất thì cũng phải chịu trách nhiệm toàn bộ.

Posted ImageKhi nói về Luật phòng chống tham nhũng ở Quốc hội mấy năm trước, tôi từng nói tham nhũng là một căn bệnh, nhưng có bao nhiêu đảng viên “dính líu” tham nhũng. Vì hầu hết những vị tham nhũng đều là những quan chức, đều phải là đảng viên. Việc chống tham nhũng cũng có nghĩa là tự bảo vệ Đảng.

Không chống được tham nhũng cũng có nghĩa là Đảng không còn đủ năng lực để tự bảo vệ mình. Vì thế tôi cho rằng vấn đề quan trọng nhất kể cả trong những chuyện chúng ta bàn liên quan đến Đại tướng, chúng ta có thể có nhiều câu hỏi: Tại sao những ý kiến Đại tướng đóng góp chưa được tiếp thu đầy đủ? Thậm chí có những ý kiến của Đại tướng còn không được trả lời.

Có lẽ, người dân trong tâm thức khi bày tỏ tình cảm với Đại tướng cũng chia sẻ nỗi niềm của mình về xã hội.

Ông Chu Hảo: Càng ngày, trình độ nhận thức của người dân càng cao và yêu cầu đối với những người đứng đầu ngày càng khắt khe. Khi hiểu biết của đại bộ phận nhân dân còn hạn hẹp, thông tin đa chiều hạn chế việc vận động quần chúng thực hiện mục tiêu chính trị do những người đứng đầu đề ra không mấy khó khăn.

Nhưng nay thì khác …

Do đó, nếu những người đứng đầu vẫn theo lối nói một đằng làm một nẻo, không nhất quán, nhất là đưa ra một số chủ trương, đường lối không đúng đắn khiến đất nước ngày càng tụt hậu với khu vực và thế giới, thì dù có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu chiến công hiển hách của thế hệ trước cũng sẽ không thể bù đắp được.

Chúng ta phát động phong trào “Học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhưng cái đạo đức “Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư” của Hồ Chí Minh chúng ta lại không học được.

Các hiện tượng giả dối, chuộng hình thức và tham nhũng ngày một nặng. Điều mà chúng ta thực sự cần nghiêm túc nhìn nhận lúc này là xem nguyên do của nó bắt nguồn từ đâu. Nếu không dũng cảm thừa nhận và quyết sửa thì không bao giờ có được niềm tin của dân.

Một trong những điều chúng ta phải nghiêm túc nhìn nhận lại là công tác tuyên truyền- hệ thống giáo dục hiện nay. Trong một xã hội, chất lượng của nguồn nhân lực phụ thuộc chủ yếu vào nền giáo dục quốc dân.

Nền giáo dục quốc dân ở các nước thường có ba thành tố chính: Giáo dục học đường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội.

Ở nước ta, cũng như ở tất cả các nước XHCN, có một thành tố khác, là công tác tuyên truyền giáo dục của các hệ thống trường Đảng. Cần nhìn nhận những tồn tại trong hệ thống này để tìm hướng khắc phục.

Posted Image

Thời đại nào cũng cần những “cá nhân”

- Trên Tuần Việt Nam từng có một bài viết ví những cá nhân xuất chúng, những con người có nhân cách vĩ đại giống như “bảo hiểm” của dân tộc trước những thử thách, khó khăn. Đặt giả thiết nếu như những người lãnh tụ thực sự, những cá nhân kiệt xuất không xuất hiện khi đất nước cần, thì điều đó sẽ nguy hiểm thế nào đến vận mệnh dân tộc? Qua sự ảnh hưởng mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tạo ra trong những ngày vừa qua với người dân, với xã hội khi ông ra đi, cũng như qua những dẫn chứng lịch sử khác, ông nghĩ gì về vai trò của cá nhân kiệt xuất đối với lịch sử và ảnh hưởng của họ với nhân dân?

Ông Chu Hảo: Tôi luôn cho rằng vai trò của cá nhân lúc nào cũng tác động rất lớn đến sự thay đổi của lịch sử.

Dĩ nhiên nếu không có cá nhân này, có thể sẽ xuất hiện các cá nhân khác, nhưng trình tự lịch sử, diễn biến lịch sử sẽ không diễn ra đúng như những gì chúng ta đã nhìn thấy nữa. Dù thế nào, xã hội cũng sẽ luôn phải vận động để đi lên. Sẽ rất nguy hiểm nếu xã hội không thể xuất hiện những con người như thế nữa.

Một xã hội có dân chủ, có tự do tư tưởng, thì sẽ xuất hiện nhiều những người có tài kinh bang tế thế. Và ngược lại. Nhưng có một điều đặc biệt là trong những lúc khó khăn mà một nhân vật như vậy xuất hiện thì có khi lại làm nên chuyện.

Phải nói thêm rằng khái niệm “lãnh tụ” chỉ tồn tại ở những cộng đồng xã hội chưa trưởng thành.

Ở các nước dân chủ và văn minh những người đứng đầu quốc gia cũng chỉ thực hiện nhiệm vụ của mình như một hình thức phân công lao động xã hội, không “oai nghiêm ” không “thần thánh” gì đâu.

Ông Dương Trung Quốc: Mỗi thời kỳ lịch sử có những nhân vật khác nhau với những tầm vóc khác nhau. Thế kỷ 20 của chúng ta, những nhân vật kiệt xuất đều gắn với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Từ những chí sĩ Cần Vương đến những nhà dân chủ và những người cộng sản. Những thế hệ đó để lại hình tượng, để lại bài học. Đương nhiên sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – đó không chỉ là khẩu hiệu mà là sự thực.

Hiện tượng chúng ta đang bàn đến cũng mang tính chất cách mạng, cũng là một yếu tố cách mạng: Cách mạng về mặt lối sống, cách mạng về mặt văn hóa, cách mạng về mặt tinh thần và những giá trị xã hội. Nhưng vai trò người lãnh đạo cũng vô cùng quan trọng.

Thời đại nào cũng cần những cá nhân. Những cá nhân ấy cộng với một cơ chế để có thể tập hợp được những cá nhân tiêu biểu nhất. Đó là nhân tố để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Tuy nhiên những nhà lãnh đạo lớn, những nhân vật kiệt xuất chỉ xuất hiện trong một thời điểm, một giai đoạn nào đó. Nhưng có thể thay thế điều đó bằng một cơ chế để tập hợp những người tiêu biểu nhất. Cơ chế đó là sự dân chủ.

Lỗi ở trí thức

- Thời điểm Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời, rất nhiều người đã nói, đây là một trong những người cuối cùng của thế hệ cách mạng tháng Tám đầy lý tướng và trong sáng, đã ra đi. Những bài học để lại sẽ gợi cho người đương thời suy nghĩ gì?

Ông Chu Hảo: Muốn thay đổi không có cách nào khác là phải xây dựng một thể chế chính trị dân chủ lành mạnh, để phát huy được hết sức mạnh của nhân dân trong xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, trong đó xã hội dân sự là một thành tố quan trọng.

Tức là, trong bối cảnh của nước ta hiện nay, phải xây dựng một nền móng cho phong trào dân chủ từ dưới lên. Nhưng để cải cách thể chế thì phải làm từ trên xuống.

Trong khi có phong trào dân chủ làm nền móng như vậy, thì trong đội ngũ người đứng đầu phải có những lực lượng tiến bộ dũng cảm và sáng suốt đặt lợi ích của dân tộc lên trên hêt, dựa vào khối đại đoàn kêt của toàn dân, tiến hành cải cách triệt để từng bước.

ÔngDương Trung Quốc: Chúng ta phải đặt Việt Nam trong một tiến trình phát triển. Cũng có những giai đoạn lịch sử, cũng có những giai đoạn chuyển tiếp.

Hoàn cảnh hiện nay đã thay đổi và chắc chắn sẽ không còn những nhân vật như trong quá khứ nữa – thời điểm mà vai trò của cá nhân rất quan trọng. Chúng ta thường hay nói đến câu chuyện giữa Nhân trị và Pháp trị. Để xã hội phát triển, càng ngày chúng ta càng phải chuyển đổi từ Nhân trị sang Pháp trị.

Nói Pháp trị không có nghĩa là phủ nhận hay không đề cao vai trò cá nhân. Nhưng con người ấy phải nằm trong cơ chế, một cơ chế thật sự dân chủ.

Tại sao cụ Phan Chu Trinh nói nhiều về dân chủ, tại sao Bác Hồ cũng đề cao dân chủ? Là vì họ nhìn thấy cơ chế dân chủ có thể đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội, giúp ta hội nhập với thế giới.

Thời đại đã thay đổi. Thay vì ngồi chờ cá nhân xuất hiện, chúng ta hãy dùng cơ chế dân chủ để bảo vệ và xây dựng đất nước. Có thể người dân vẫn hy vọng, vẫn chờ đợi những người như Hồ Chí Minh, như Võ Nguyên Giáp xuất hiện, nhưng tôi cho rằng chúng ta phải chấp nhận xu thế, phải nhận thức xu thế. Và tôi nhấn mạnh, quan trọng nhất vẫn là cơ chế.

Ngày xưa người ta gắn kết được lợi ích cá nhân với lợi ích của cộng đồng, của quốc gia, dân tộc. Bây giờ sự gắn kết đó khó hơn nhiều. Ngày xưa mẫu số chung là chống giặc ngoại xâm. Ai cũng nghĩ đến điều đó. Bây giờ sự lựa chọn nhiều hơn, sự gắn kết cũng giảm đi.

- Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi còn sống, ông từng dặn thế hệ trẻ:”Thế hệ cha anh đã rửa nỗi nhục mất nước, thế hệ ngày nay phải rửa nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu”. Nhìn lại đất nước, chúng ta đã có những bước phát triển đáng kể so với thời điểm chúng ta giải phóng đất nước vào năm 1975, nhưng vẫn còn có những cái nghèo khác nữa. Nhiều người dường như đang kêu về các bất cập nhưng con người hành động lại không chịu xuất hiện… Vậy ai có lỗi trong tất cả những sự tụt hậu này?

Ông Chu Hảo: Lỗi trước hết là trí thức, là tầng lớp tinh hoa.

Trong thời chiến, các tầng lớp xã hội đều có vai trò nhất định, nhưng lực lượng nòng cốt phải là đông đảo quần chúng.

Còn trong thời bình, lực lượng nòng cốt phải là những người có tri thức Ngoài lỗi của những người đứng đầu đất nước, thì bản thân tầng lớp trí thức chậm giác ngộ, thiếu ý chí là những người phải nhận phần lỗi không nhỏ khi xã hội không phát triển được.

Người đứng đầu phải do dân chọn

Ông Dương Trung Quốc: Xã hội sẽ có những chuyện như thế. Nhưng cũng vì thế mà chúng ta mới cần những người quản lý.

Ở làng xã ngày xưa, họ quản lý bằng truyền thống, bằng tập quán, bằng văn hóa. Xã hội cũng thế. Câu “Thượng bất chính, hạ tắc loạn” rất hay và rất đúng. Nếu ở trên nghiêm thì dưới cũng sẽ nghiêm. Phải có một sự kiên trì làm thay đổi từng bước trong xã hội, đó không phải chỉ là sự đổi mới ở thượng tầng mà nhân dân cũng nhất định phải thay đổi.

Nhưng muốn dân đổi mới thì phải cho dân thấy lợi ích. Nhà nước chưa tạo ra được giá trị đó. Lỗi này không phải là do kỹ năng, mà là do cơ chế. Khi một người làm không tròn nhiệm vụ mà cấp trên của họ không thể xử lý họ, như Thủ tướng Phan Văn Khải nói trước khi nghỉ hưu: “Không thể kỷ luật ai được”, thì những người đó sẽ câu kết nhau thành nhóm lợi ích và tạo ra sự hủy hoại xã hội, hủy hoại lòng tin.

Sự phát triển của xã hội, sự phát triển của dân trí luôn có quan hệ biện chứng với vai trò của những người đứng đầu. Muốn xã hội phát triển, anh phải đi đầu, phải gương mẫu, phải sáng suốt. Và người đi đầu phải do dân chọn. Đó phải là cơ chế dân chủ, như chúng ta nói nãy giờ.

Tôi tham gia Quốc hội, tôi thấy cứ có vấn đề gì đem ra bàn là chúng ta lại lấy lý do “đó là cách làm của ta”. Hay như câu nói cửa miệng của một trí thức đã mất “cái nước mình nó thế”.

Vấn đề rất cụ thể như vấn đề doanh nghiệp Nhà nước mà Quốc hội đang bàn đến rất nhiều. Cả thế giới khác chúng ta mà chúng ta cứ bám vào lý do ”đó là đặc thù của Việt Nam”.

Chẳng nói đâu xa, nếu muốn thay đổi, thứ đầu tiên chúng ta có thể xem lại chính là những di cảo, những kiến nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Một người rất sớm nhận thức được các vấn đề của xã hội.

Chúng ta nói nhiều đến Đại tướng với tư cách là Tổng Tư lệnh quân đội. Chúng ta đừng quên rằng một trong những vai trò cực kỳ quan trọng của ông là Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Vì Võ Nguyên Giáp vốn là một nhà Luật học.

Thời đó rất nhiều nhà trí thức làm Luật được cụ Hồ trọng dụng để tạo ra nền tảng ban đầu. Nhưng sau này chúng ta không kế thừa được nó mà biến nó thành một thứ duy ý chí của những người lãnh đạo. Những chuyện đó là những bài học. Nói về vấn đề biển đảo, ngay trong khi chỉ đạo cuộc chiến tranh giải phóng, Võ Nguyên Giáp đã quan tâm đến lợi ích quốc gia về vấn đề biển đảo.

Ông không những chỉ đạo giải phóng những đảo thuộc chủ quyền của chính quyền Sài Gòn mà còn khẳng định không gian chủ quyền của chúng ta trong vấn đề biển đảo. Năm 1977, hai năm sau chiến tranh, Võ Nguyên Giáp đã có cả một đường lối về kinh tế biển, chiến lược biển. Các nhà lãnh đạo của chúng ta ca ngợi Đại tướng rất nhiều, nhưng đã bao giờ chúng ta thực sự nghiêm túc nhìn nhận và tiếp thu những ý kiến đóng góp của ông trong quá trình xây dựng đất nước chưa? Tôi cho đó là câu chuyện cần phải làm ngay.

Tôi muốn mượn câu của cụ Hồ nói một điều cuối cùng: ”Dân chủ là làm cho dân mở miệng. Cái đáng sợ nhất không chỉ là người dân không dám mở miệng vì anh dùng quyền lực. Cái đáng sợ nhất là người dân không thiết mở miệng!”

Mùa gieo hạt mới

- Trong một cuộc trò chuyện cách đây mấy ngày, nhà thơ Việt Phương có nói với tôi rằng: Sự kiện Đại tướng Võ Nguyên Giáp mất giúp ông cảm nhận được sự thay đổi. Ông đã nhìn thấy tình yêu và lòng tự hào dân tộc trỗi dậy trong những dòng người đến viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Điều đó khiến nhà thơ Việt Phương hy vọng về những hạt mầm mới sẽ được gieo, để cho một mùa gặt mới? Các ông nghĩ sao?

Ông Chu Hảo: Tôi trân trọng và chia sẻ ý tưởng của nhà thơ Việt Phương. Tuy nhiên từ đáy lòng mình tôi vẫn nghĩ rằng dân tộc ta là một dân tộc không được may mắn cho lắm: Quá nhiều đau thương và bỏ lỡ quá nhiều cơ hội.

Sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp hình như đã làm bùng lên khát vọng của nhân dân có những nhà lãnh đạo tài ba sáng suốt thật sự vì nước vì dân. Rồi sống mãi trong lòng dân.

Những điều đang diễn ra đã giúp tôi hiểu thêm được rằng sự phán xét của lịch sử trước hết là sự phán xét của lòng dân.

Lòng kính yêu của những ngưới dân bình thường dành cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng là một thông điệp: Ai thực sự vì dân vì nước dân đều biết cả.

Ông Dương Trung Quốc: Nhưng ai là người tổ chức chăm sóc những hạt mầm tốt đẹp cho mùa gặt mới? Rất khó làm được điều đó, nếu chúng ta không nhận ra và không phát huy được vai trò của các tổ chức dân sự xã hội, vì họ là những người thực hiện nó tốt nhất.

Còn bộ máy của chúng ta, kể cả Đoàn Thanh niên, dù tôi rất quý trọng nhưng vẫn phải thẳng thắn nói rằng nó vẫn còn quá quan liêu và thậm chí nó có thể làm thui chột đi những nhân tố mới vừa thành hình. Không gì tốt bằng sức mạnh của dân.

Trong những ngày qua, ai là người tổ chức mua nước uống, mua bánh mì phát cho bà con nhân dân đến viếng Đại tướng? Ai là người nghĩ ra việc in áo, in phù hiệu có hình Đại tướng để làm quà tặng cho người dân Quảng Bình? Đó hoàn toàn là những ý tưởng, những hành động xuất phát từ cá nhân, không phải do bất cứ tổ chức, cơ quan nhà nước nào cả.

Hiện tượng này quan trọng nhất là làm cho chúng ta có niềm tin hơn rằng vẫn có tiềm năng rất to lớn.

Nhưng vấn đề ai khai thác, ai tổ chức cũng là một câu hỏi lớn. Một mùa gieo hạt mới nhưng không có môi trường, không có điều kiện phát triển thì tất cả những hạt mầm đó cũng bị thui chột.

Tôi rất mong những người có trách nhiệm hiện nay sẽ nhận ra điều đó và coi đây là cơ hội để phát huy. Còn nếu sự kiện này chỉ thoảng qua và mọi thứ lại quay lại như cũ, và câu chuyện mấy ngày vừa qua trở thành ký ức, thì nó có thể làm tăng thêm niềm thất vọng?

- Thưa nhà sử học Dương Trung Quốc, vậy theo ông thì làm thế nào để mùa gieo hạt đó gặt được mùa bội thu? Cần những điều kiện gì để thành công?

Ông Chu Hảo: Một xã hội dân chủ thực sự – đó chính là con đường nhanh nhất.

Nếu không đi được con đường nhanh nhất đó, có thể vẫn sẽ xuất hiện được những con người có nhân cách lớn, thay đổi bộ mặt đất nước, nhưng chúng ta sẽ phải chờ đợi rất lâu và cái giá mà dân tộc này phải trả cho sự chờ đợi đó sẽ là rất đắt.

Ông Dương Trung Quốc: Trong thời điểm này, điều quan trọng nhất là cả dân tộc phải tụ tâm. Hiện có quá nhiều điều khiến chúng ta phải phân tâm.

Dù cuộc sống là phức tạp, cạnh tranh là xu thế, nhưng cuối cùng sự tụ tâm vẫn là quan trọng. Chúng ta hướng tới sự tụ tâm, từ các nhà lãnh đạo đến nhân dân, để tìm ra cái chúng ta thiếu.

Mà theo tôi cái thiếu quan trọng nhất là sự gắn kết nhau vì lợi ích quốc gia, như là thế hệ của Bác Hồ, của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

- Xin cảm ơn hai ông!

Share this post


Link to post
Share on other sites

CỘI NGUỒN CỦA VĂN MINH ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM

Giáo sư Cao Thế Dung

Một số trống đồng vào loại Héger I và II, có di chỉ cách đây từ 2.200 – 2.700 năm do nông dân ở Bình Ðịnh và ở đảo Sơn Rái (Kiên Giang) tình cờ đào được, cho ta thấy, văn minh Lạc Việt qua văn minh Ðông Sơn (Thanh Hóa) bao trùm cả miền Ðông Dương. Cổ thư và cổ sử Trung Hoa cũng như những khám phá của khảo cổ học đã cho ta được biết một cách rõ rệt, đồng bằng sông Cửu Long gần 2.000 năm trước là lãnh thổ của vương quốc Phù Nam với nền văn minh Óc Eo khá rực rỡ, mà nhà khảo cổ Pháp, học giả Louis Malleret đã dầy công khám phá được (xem: Louis Malleret, L’Archéologic du Delta du Mékong - Part I, L’Exploration archéologiques et les fouilles d’Oc.Eo.Paris: écode Francaise L’Extrême Orient - 1950). Miền Nam ngày nay từ khởi thủy hoang địa và từ đây xuất hiện vương quốc Phù Nam (xem: Lê Thương, Sử liệu Phù Nam - Sài Gòn 1974, tr.10).

Về đất Hà Tiên, cực nam Phù Nam, Mạc Thiên Tính (con Mạc Cửu, Tổng trấn Hà Tiên) ghi lại rằng "Trấn Hà Tiên của nước Nam xưa là cõi xa. Từ khi cha tôi mở mang đến nay, đã được hơn 30 năm, dân cư mới được yên cư, tạm biết cấy trồng". Do từ khảo cổ học và những nghiên cứu về địa danh ở Hà Tiên cho thấy, Hà Tiên từ cổ thời đã là nơi người Việt cổ đặt chân tới. Mũi Nay ở Phú Yên (Varella) là biên cương của Việt Thường Thị Nhật Nam xưa thì ở Hà Tiên cũng có mũi Nai, hay mũi Nại. Mạc ThiênTích phiên âm thành Lộc trĩ sơn (Theo nhà địa chất Trần Kim Thạch, “Từ 6000 năm đến nay, biển rút ra khơi, phơi bầy trầm tích mặn... trên đó vật liệu của dòng sông và các dòng lũ hàng năm không ngớt bồi tụ... Hà Tiên có môi trường quần đảo đã nổi thành đất liền" - Trần Kim Thạch, "Tờ trình địa chất khoáng sản huyện Hà Tiên" (15-4-1984) trích dẫn bởi Trương Minh Ðạt, NCLS số 5 - 1993, tr.35). Hà Tiên vốn là Mang Khảm, Mạc Cửu đổi tên thành Phương Thành, sau khi thống thuộc nước Ðại Việt Ðàng Trong mới đổi tên thành Hà Tiên. Qua ngôn ngữ cổ, khảo cổ học đã đi đến kết luận khả tín: dân Việt từ thời viễn cổ hay ít nhất trong thời đại vương quốc Phù Nam đã có mặt ở miền cực nam Ðông Dương như Hà Tiên ngày nay.

Hơn 1000 năm bị Hán đô hộ, hẳn nhiên là văn hóa Việt Nam trong đó có nghệ thuật, đã ảnh hưởng Tầu một cách rõ rệt, nhưng sau những khám phá, khai quật của khảo cổ học gần một thế kỷ qua, nhất là từ văn hóa văn minh Ðông Sơn, ta thấy rõ rệt là từ thời thượng cổ, Việt Nam và Trung Hoa đã là có hai sắc thái văn minh văn hóa khác biệt. Trái lại, Trung Hoa lại chịu ảnh hưởng văn minh Việt Thường Thị trước (qua việc sử gia Việt Thường cống vua Ðường Nghiêu rùa thần). Thời kỳ Ðông Sơn và trước nữa, văn minh Việt Nam qua nghệ thuật nằm trong bối cảnh Ðông Nam Á, tuy không cùng một chủng tộc nhưng Việt Nam và các dân tộc ở Ðông Nam Á như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân đều có chung một nguồn gốc văn minh. Nghệ thuật đúc đồng bằng khuôn đôi và qua các di chỉ đồ đồng Ðông Sơn thì nghệ thuật đồng thau ở Việt Nam và Ðông Nam Á đã xuất hiện trên 3000 năm trước Công nguyên. Nghĩa là trước cả Trung Hoa. Theo một tác giả Tây Phương có thể có trước cả người Cận Ðông (Ai Cập, Do Thái, Ba Tư...). Dựa vào khảo cổ khai quật được ở Việt Nam và nhiều nơi ở Ðông Nam Á, tác giả này cho rằng "đã đủ chứng minh tổ tiên những con người ở Ðông Nam Á đã biết trồng cây, mài đồ đá làm đồ dùng và làm đồ gốm trước cả người Trung Hoa, Ấn Ðộ và Cận Ðông" và rằng nền văn minh Hòa Bình (Việt Nam) qua khắp Ðông Nam Á lan đến Bắc Thái Lan và Bắc Miến Ðiện, vượt lên tới Trung Hoa. (Wilhelm G.Solheim II, New Light on a forgetten past. National Geographic. No 3 - Vol.139 - March 1971). Các di tích khảo cổ và di tích về nền văn hóa Phùng Nguyên cách đây từ khoảng 3 đến 4000 năm đã cho ta thấy nếu so sánh với Trung Hoa và Ấn Ðộ cùng thời, kỹ thuật và nghệ thuật của Phùng Nguyên vượt hơn hẳn Trung Hoa và Ấn Ðộ. Năm 1959, di chỉ Phùng Nguyên ở bên sông Thao được phát hiện và khai quật. Càng ngày ta càng thấy rõ tầm quan trọng của nền văn hóa này trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc (xem: Hà Văn Tấn, ‘Văn hóa Phùng Nguyên, nhận thức mới và vấn đề." Khảo cổ Học số 1 - 1978, tr.5-6). Cuộc khai quật ở huyện Lâm Thao, Vĩnh Phú năm 1961 đã đưa ra khỏi lòng đất một lưỡi rìu đá có hình dáng độc đáo. Từ giai đoạn đồ đá qua giai đoạn Gò Mun trong quá trình phát triển văn hóa thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã tiến qua những bước vượt bực, từ mũi tên đồng Phùng Nguyên đến mũi giáo đồng Ðồng Ðậu, mũi giáo đồng Gò Mun và Ðông Sơn cho đến bàn chải đồng Gò Mun ta có cơ sở để nghĩ rằng giai đoạn văn hóa Gò Mun là một bước chuẩn bị trực tiếp cho sự phát triển rất rực rỡ của Ðông Sơn. Di chỉ Gò Mun, Ðồng Ðậu khoảng 3000 trước Công Nguyên, đem so với sự hình thành và phát triển của văn minh Trung Hoa và Ấn Ðộ, Việt Nam và Ðông Nam Á tiến trước và tiến xa khá nhiều. Sự thực là văn minh Việt Nam - hay Lạc Việt trong dòng Bách Việt (Viêm Việt) phát triển trước văn minh Hoa Hán hay ít nhất cùng một thời. Từ cỗi nguồn, văn minh Lạc Việt - Bách Việt là văn minh bản địa, khác hẳn Tầu, sách Cương Mục Tiền Biên của Kim Lý Tường chép rằng, “năm 2361 trước Công nguyên, tức năm Mậu Thân thứ 5 đời Ðường Nghiêu Sứ thần Việt Thường Thị sang chầu dâng rùa thần". Theo Thống Chí của Trịnh Tiền đời Ðào Ðường, "rùa thần sống đến 2000 năm, trên lưng có ghi văn khoa đẩu, ghi việc từ khi trời đất mới mở mang về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là qui lịch". Ðế Nghiêu nhà Ðường sai Hy Thúc (trong Kinh Thư) giữ việc này suy trác khí hậu ở Nam Giao, điều hòa mọi việc thời tiết sớm muộn về mùa hè... Suy trác cẩn thận để tháng trong Hạ được đúng với thời tiết. Lại phải xem đến việc thay đổi của người và trời đất. (xem: Nguyễn Thường, “Lịch với lịch sử kinh tế chính trị và chiến tranh". Nghiên Cứu Lịch Sử số 3 (262) tháng 5 & 6-1992, tr.51-59). Theo Kim Lý Tường con rùa gọi là Thần Qui vì rùa to hơn 4 thước ta (khoảng 1m20), trên lưng có chữ nòng nọc sử Tầu gọi là khoa đẩu văn, ghi tổng quát lịch sử cấu tạo vũ trụ và nhân loại từ thuở ban đầu cho tới đời vua Ðường Nghiêu (xem: Cương Mục, bản dịch - Bộ VHGD - Sài Gòn 1965, tr.31). Vào thời Ðường Nghiêu, dân Hoa Hán vốn là dân du mục chủ về bạo lực, cang cường, từ phía Bắc Hoàng Hà đã tràn xuống phương Nam, tiêu diệt dân Miêu (Bách Việt) đã lan đến miền Sơn Tây (Trung Quốc) ngày nay. Ðời thái cổ, Trung Hoa dựng nước, khởi đầu là Tam Hoàng, gồm 3 vị vua là Toại Nhân, Phục Hy và Thần Nông. Kế đến là Ngũ Ðế, theo Sử Ký của Tư Mã Thiên gồm có Hoàng Ðế, Chuyên Húc, Ðế Cốc, Ðế Nghiêu và Ðế Thuấn. Tam Hoàng Ngũ Ðế theo Ðào Duy Anh đều là thần thoại (Trung Hoa Sử Cương, tr.XVIII). Ðời Nghiêu Thuấn, Hán Tộc đã chinh phục đến miền Hà Nam. Vào thời Bách Việt - Viêm Việt đã sớm văn minh trước cả thời Ðường Nghiêu. Ðịa bàn cư dân Bách Việt bao gồm Hoa Nam ngày nay (Quảng Ðông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Vân Nam) kéo dài đến miền Bắc Việt Nam, qua đèo Hải Vân đi xuống phía Nam là xứ Việt Thường.

Thời thượng cổ, sử Trung Hoa vốn đầy thần thoại và hoang đường cùng thời Văn Lang và triều đại Hùng Vương ở phương Nam, khởi phát từ văn minh lúa nước và khu vực nhân văn Ðông Nam Á, khác với văn minh du mục phương Bắc. Theo cách phân định thời kỳ lịch sử Trung Hoa của sử gia Tây Phương như René Grousset thì thời kỳ Thượng cổ Tam Hoàng Ngũ Ðế cùng một thời với lịch sử Chaldeé; Ðời Xuân Thu Chiến Quốc đi đôi với thời kỳ Hy Lạp - La Mã bên Tây Phương. Thời kỳ Tần Hán cùng thời với đế quốc La Mã (Grousset, Histoire de l’ Asie - L’ Trade et La Chine - Paris 1922). Ðời Hoàng Ðế, văn minh Trung Hoa đã khá, đã làm nhà, dùng xe cộ (hiên viên) và dệt cửi. (Theo sử ký Tư Mã Thiên thì Tam Hoàng là Thiên Hoàng, Ðịa Hoàng và Tần Hoàng tức Nhân Hoàng). Nghiêu Thuấn được coi là thời đại tốt đẹp nhất, thiên hạ thái bình thịnh trị, vua Nghiêu ở ngôi được 70 năm, vua Nghiêu truyền ngôi cho Tứ Nhạc, ông Nhạc từ chối. Nghiêu ra lệnh tìm người quí thích truyền ngôi. Vào thời này, phương Bắc vẫn còn theo mẫu hệ. Theo truyền thuyết thì vua Ðường Nghiêu (2356 - 2255 trước CN) gả 2 con gái cho vua Thuấn (2255 - 2204 trước CN) rồi truyền ngôi cho ông Thuấn. Theo sách Mạnh Tử Vạn Chương Thượng kể truyện em vua Thuấn là Tượng đã tính trước, sau khi giết anh thì hai vợ của anh tức là vua Thuấn, tức chị dâu Tượng sẽ về hầu ông ta (tức lấy làm vợ). Về chế độ mẫu hệ Việt Nam, học giả Pháp Louis Finot khảo cứu rất tường tận (xem Louis Finot, Lesgrandes époques de l’Indochine - những thời kỳ trị của Ðông Dương). B.S.E.M.T (Bulletin de la Sociéte d’Enseignement Mutuel du Tonkin). T.XV, II , 87-287), cho thấy thời viễn cổ dân Việt theo mẫu hệ nhưng mẫu hệ Việt Nam khác với mẫu hệ thời Ðường Nghiêu, đã sớm chấm dứt từ triều đại Hùng Vương. (xem: Nguyễn Khắc Ngữ, "Mẫu hệ Việt Nam". Văn Hóa tập san, T.X1, Q.9 - 1962, tr 913-1084).

Nghiên cứu tài liệu khảo cổ học, từ Tây Phương và Việt Nam, với tấm bản đồ phân bố các di chỉ, ta thấy rằng, tổ tiên ta đã mất khoảng 10,000 năm để biến từ văn minh Phùng Nguyên qua Ðông Sơn. Ðó là cái mầm tinh túy Việt, không hề ảnh hưởng ngoại nhập từ Bắc phương, và cái mầm ấy nẩy nở trong bối cảnh nhân văn địa lý Ðông Nam Á, cái gốc kỳ diệu của văn minh Việt Nam. Cái gốc ấy qua văn hóa Phùng Nguyên đã phát triển liên tục vào khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước Công Nguyên tức cách đây khoảng từ 3 đến 4000 năm. Những kết quả phân tích bon (carbon, phóng xạ đồng vị C14) đã xác định là những tinh hoa Việt trên 4000 xưa là chính xác (xem: Khảo Cổ Học số 7 & 8 - tháng 12-1970 về văn hóa Hùng Vương và thời đại Hùng Vương tr. 33-44)

Thời đại Hùng Vương là thời đại có thực trong lịch sử - không phải là huyền thoại - truyền kỳ. Thời đại này bao gồm từ văn hóa Phùng Nguyên, có thể trước nữa cho đến nền văn hóa rực rỡ Ðông Sơn. Theo sử gia Nguyễn Phương thì từ thời viễn cổ, từ khi hình thành dân tộc Việt Nam, "Các trẻ già chính thống đều cho rằng dân Việt Nam không giống dân Trung Quốc. Tư tưởng này biểu lộ rõ rệt ở vấn đề quốc thống họ đã nêu lên. Họ nghĩ rằng, nước Việt Nam đã là một nước ngay từ đầu, từ thời gian trước khi chung đụng với người Tầu, nghĩa là từ buổi xa xưa khi vừa mới có dân tộc Việt Nam" (xem: Nguyễn Phương, "Tiến trình hình thành của dân tộc Việt Nam. Tạp chí Ðại Học Huế, số 32 - tháng 4-1983, tr.153-219).

Bước tiến của con người từ khi có con người trên hành tinh này, ta gọi là tiến trình của văn minh văn hóa là những bước tiến kỳ diệu, rất lâu, cả vạn năm... Các sử gia Trung Hoa tự gắn cho dân tộc Hán là tiền tiến "trung tâm của vũ trụ". Các học giả trên thế giới trước đây cũng ngộ nhận cho rằng chỉ có một nơi trên thế giới con người bung ra, thắp sáng ánh sáng văn minh, đó là vùng Tây Á, mà điểm chính là vùng đồi gò trung du bao bọc Lưỡng Hà để từ đó tỏa ra bốn phương. Nay thì với cái công trình khai quật của khảo cổ học đã cho ta thấy không phải như thế. Khoảng một vạn năm trước văn minh của loài người chớm nở, Ðông Nam Á trong đó có Việt Nam lại là một trong mấy điểm chính là nơi con người vươn lên với ánh sáng văn minh mà văn minh Phùng Nguyên, trước nữa là Hòa Bình là những đốm lửa đầu tiên. Nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam nẩy mầm từ thửơ xa xôi mịt mờ đó. Từ bản chất nền văn hóa ấy đã rất dân tộc (Lạc Việt) trong bối cảnh và phong cách Ðông Nam Á, chứ không phải đã ảnh hưởng Trung Hoa vì Trung Hoa phát triển muộn hơn. Cũng nhờ vậy, sau này "Mặc dầu có sự vay mượn ít nhiều của Tầu, Chiêm Thành và Tây Phương, luôn luôn biết dung hóa các mỹ thuật nói trên để tạo thành một nền mỹ thuật có bản sắc dân tộc" (Nền mỹ thuật Việt Nam, ltđd. Ðại học số 30, tháng 5-1958, tr.320).

Khảo cổ học đang có những công trình vượt mức đào xâu nền văn hóa của tổ tiên ta vào thời Hùng Vương và sau đó ta vẫn không thấy có yếu tố Trung Hoa nào trong nền văn hóa tiều tiến của nhân loại mà văn minh Lạc Việt - Bách Việt mới là tiều tiến. Khảo cổ gia lỗi lạc của Tây Phương Olov R.T Janse lại nêu một dấu hỏi về ảnh hưởng của Hy Lạp và Rôma (cổ) ở Việt Nam (xem bản dịch Việt ngữ, Olov R.T. Jane. Ảnh hưởng Hy Lạp và Rôma ở Việt Nam, Việt Nam cũng có bình Asko’s, tiếng Hy Lạp là cái bầu bằng da). Theo Jane, trong khi khai quật ở nghĩa trang Bình Sơn - Thanh Hóa thuộc Trung Việt "Chúng tôi đã tìm thấy một cái bình bằng đất nung nằm trong một ngôi mộ bằng gạch xây vòm lên. Chiếc bình đó không phải kiểu Tầu nhưng có kiểu đặc biệt làm cho ta liên tưởng đến những bình thường thấy trong những xứ chịu ảnh hưởng Hy lạp và Rôma, gọi là Asko’s hay guittus" (Bản Anh ngữ, Olvov R.T.Janse. Archaeological research in Indo-china. T.I & II - Harvard Univ. Press.1947-1952). Ảnh hưởng qua lại giữa các nền văn minh là hiện tượng phổ biến có thể qua ngả Ðông Nam Á, người thời Ðông Sơn, Văn Lang đã tiếp nhận được cái sản phẩm nghệ thuật từ phương Tây nhưng cho đến nay, tuyệt đối chưa thấy ảnh hưởng từ Trung Hoa trong nền văn hóa Văn Lang từ Ðông Sơn trở lên Phùng Nguyên và Hòa Bình. Nền văn hóa ấy có thể nói là vĩ đại vào thời bấy giờ của nhân loại . Nói như thế mà không sợ ngoa ngôn hay đại ngôn. Bởi đó chỉ là sự thực. Nền văn hóa Văn Lang là do từ bản địa và rất sáng tạo. Những hình khắc chạm trên tháp Ðào Thịnh có di chỉ cách đây khoảng 2500 - 3000 năm cho thấy nghệ nhân vào thời bấy giờ đã có quan niệm về nhân tinh và luyến ái khá rõ rệt. Dịch và là Chu Dịch đã là nguồn khởi tác và chi phối toàn diện văn minh văn hóa Trung Hoa (giới trẻ hải ngoại có thể tìm đọc và khảo cứu Dịch qua Anh ngữ với tác phẩm rất hiện đại và khá đầy đủ qua bộ Chu Dịch - I Ching - The Classic Chinese Oracles of Change - trans by Rudolf Ritsema & Stephen Karcher - N.Y: Barnes & Noble books, 1995, pp.816). Dịch lý Trung Hoa mà người Tầu vô cùng hãnh diện lại phát xuất từ Việt Thường Thị - Lạc Việt Văn Lang.

Nhờ sứ giả Việt Thường cống rùa thần, nhà Chu Trung Hoa mới có qui lịch. Thần qui - Long mã là biểu trưng của Dịch Lý Trung Hoa. Thần qui từ phương Nam đem qua, Ðường Nghiêu căn cứ vào hình tượng khoa văn trên mu rùa mà làm thành Lịch và lịch đã chi phối toàn bộ sinh hoạt văn hóa, xã hội mà kể cả quân sự của Trung Hoa từ thời bấy giờ. Xem như vậy thì rõ rệt văn minh Lạc Việt qua sứ Việt Thường đã du nhập vào Trung Hoa trước khi Trung Hoa tràn qua phương Nam (Theo giáo sĩ L.Wiegex, một nhà thông thái dòng Tên "người Tầu đã dựa vào cống phẩm rùa thần mà làm ra Qui Lịch - L.Wieger, Hisfoire des croyances religieuses et des opinions philosophiques en Chine, depnis l’ origine jusqu à nos jonrs. "Lịch sử Tín ngưỡng và quan điểm triết học ở Trung Hoa, từ khởi thủy cho đến thời đại chúng ta”, dẫn bởi tiến sĩ Thái Văn Kiểm).

Theo cổ sử Trung Hoa năm Tân Mão 1100 trước CN, đời vua Thành Vương nhà Chu, nước Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ lại sai sứ đem chim Trĩ sang cống Thành Vương ở Hạo Phủ (Thiển Tây). Ðại Nam Quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Ðình Toái (sông Nhị Hà - 1949 - bản dịch của Hoàng Xuân Hãn), chép về nhà Hồng Bàng và sứ Việt Thường qua thăm nhà Chu Trung Hoa:

Vừa đời ngang với Chu Thành
Bốn phương biển lặng trời xanh một mầu
thăm Trung Quốc thế nào?
đem Bạch Trĩ dâng vào Chu Vương...

Theo Hoàng Việt - Giáp Tý Niên biểu ghi Tân Mão là năm 1110 trước CN. Thư sử ký Tư Mã Thiên, sứ Việt Thường cống Chu Vương 3 con chim trĩ, đây là loại chim Phượng Hoàng ở dọc dẫy Trường Sơn - Trung Bộ Việt Nam, một con đực, 2 con cái, 1 con là Bạch trĩ, một con là Hoàng trĩ, một con Thanh trĩ. Trước đó, Trung Hoa không có loài chim trĩ này. Nhờ có 3 chim trĩ Việt Thường sinh sôi nẩy nở, Tầu mới có trĩ "sào nam", chim gốc từ phương Nam nên khi đậu trên cành, đầu nghoảnh về phương Nam do đó có câu “Chim Bắc đậu cành Nam". Về sứ Việt Thường Cống Chu Thành Vương chim trĩ, Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi chú như sau: "Sứ ta xưng là Việt Thường Thị. Thành Vương là vua thứ tư nhà Chu sau Thái Vương, Văn Vương, Vũ Vương. Truyền thuyết nói Việt Thường Thị ở phương nam hiến chim trĩ trắng được thấy đầu tiên ở sách Thượng Thư đại truyện của Phúc Thắng và truyện Trúc Thư Kỷ niên. Truyện nầy được chép lại ở sách Hậu Hán Thư, Q.116 (Toàn Thư, T.I, tr.62). Về truyện Bạch trĩ, Lĩnh Nam Chính Quái chép như sau: "Về đời Chu Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề đôi tự xưng là họ Việt Thường đem chim bạch trĩ sang hiến cống. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu Công phải sai sứ dịch qua nhiều lần mới hiểu nổi nhau. Chu Công hỏi: “Người Giao Chỉ cắt tóc ngắn, để đầu trần nhuộm răng đen là cớ làm sao?" Ðáp: "Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng rú. Xâm mình để giống hình Long quân bơi lội dưới sông loài giao long không phạm tới. Cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Ðể đầu trần để tránh lửa bụi. Ăn trầu cau để trừ ô uế cho nên răng đen vậy.” (xem :Vũ Quỳnh - Kiều Phú. Lĩnh Nam Chính Quái, ltđd, tr.48)

Nhiều bộ cổ thư Trung Hoa chép về việc sử Việt Thường đến Trung Hoa cống chim trĩ sách Thượng Thư Ðại Truyện. Sách "Kim Bản Kim Chú" chép rằng "Sứ Việt Thường tới cống hiến bạch trĩ một con, hắc trĩ hai con, ngà voi một chiếc. Sứ giả quên mất đường về, Chu Công bèn ban cho bông hoa tấm, biểu xa 5 cỗ điểu chữ bằng tư nam. Khiến sứ giả cỡi xe đi về phương nam. Nối theo miền biển Phù Nam Lâm Ấp đúng một năm mới tới nước đó, sai quan Ðại Phu đưa về. Lại cỡi xe tư nam đi ngược lại hướng do xe chỉ, đầy một năm tới nước Chu. Trục xe và đầu trục xe điều chế bằng sắt, khi về tới nước Chu, sắt đều mòn cả." theo Kim Bản Cổ kim chú - trích dẫn bởi học giả Nguyễn Khắc Kham, "Ðời nhà Chu đã có xe chỉ nam chưa?" Văn Hóa Tập San T.X II, 1963-4, tr.501-511. Ðiều này không thể đúng vì vào thời đó chưa có đường xá cho xe đi, từ Thiểm Tây đến Việt Thường. Vả lại, theo Gs Nguyễn Khắc Kham, qua bài khảo cứu súc tích công phu kể trên thì "theo như suy cứu ở sử sách Tầu, thời đời Chu Tùy đã có danh từ chỉ nam xa nhưng mãi tới đời Ðông Hán sau này mới có xe chỉ nam." Cổ thư Tầu thường hay phóng đại cũng là cách tự tôn vinh "Thiên quốc - Thiên tử" - cái rốn của vũ trụ. Sứ Việt thường chắc lúc về bằng đường biển. Theo cổ thư và khảo cổ, cách đây hơn 3000 năm, người Việt đã đóng được thuyền vượt biển. Dân Việt Thường khởi hành từ đâu? Từ các cửa biển phía trên hay dưới đèo Hải Vân? Tuy còn là một nghi sử nhưng rõ rệt, Việt Thường Thị ở phía Nam vào thời nhà Chu đã đóng được thuyền vượt biển - chắc chắn phải là thuyền lớn và phải nắm được thuật hải hành và thiên văn. Thuyền khắc chạm trên trống đồng Ðông Sơn (loại Hegger I, cổ nhất có di chỉ cách đây khoảng 2500 - 2700 năm) là loại thuyền lớn.

Thân trống đồng Ngọc Lũ - Ðông Sơn khắc chạm hình thuyền. Thuyền dài, 2 đầu cong. Ðầu mũi thuyền trang điểm phức tạp, nhìn chung giống như đầu chim. Ðàng lái trang điểm như đuôi chim. Trên thuyền gần lái có một cái sàn. Sàn nhìn thấy 2 cột cao (trống Ngọc Lũ). Sàn làm bằng một lớp dầy ngoài bờ trang trí bằng vòng tròn có chấm và có tiếp tuyến chèo. Dưới sàn người đặt một chiếc trống và một cái bình. Trên sàn có một chiến sĩ cầm cung quay mặt về phía lái. ở trống Hoàng Hạ, người cầm cung còn để sẵn một mũi tên to trên cung, lưng đeo một chiếc thuẫn ... Cột trụ (thuyền) gồm 2 cọc lớn cao ngang ngực, trên đó có một vật hình lục lăng, vẽ vòng tròn khép kín. Trên vật lục lăng có 2 cái lông lớn và một cái cần chỏng lên trời, cần này đầu mút lại, hình tròn có chấm với một tua lông ... (xem: Nguyễn Phương, "Tiền Sử và Lịch Sử Lạc Việt. "Tạp Chí" Ðại Học (Huế), số 38.) Sử Việt Thường dâng tặng cống phẩm chim trĩ, Viên Thành Vương cho đem dâng Chu Công (tức Chu Công Ðán, anh vua, là bậc tiên Thánh của Nho giáo). Chu Công lúc đầu không nhận, và nói: "Ðức trạch không thấm tới thì người quân tử không hưởng những của đem dâng. Cho nên chính luật không thi hành tới thì người quân tử không bắt người đó làm bầy tôi.". (Theo Thượng Thư Ðại Truyện, trích dẫn bởi Nguyễn Khắc Kham, tlđd. Văn Hóa số T.XII, Q.4 - tháng 4-1963, tr.507). Ðức trạch và chính lệnh có nghĩa là văn minh văn hóa và học thuật Trung Quốc. Như thế cũng có nghĩa rõ ràng rằng, Việt Thường chưa hề chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa. Sứ Việt Thường đến triều cống là cho theo lời sứ: "Tôi vâng mệnh ông già ở nước tôi, đã từ lâu rồi thấy trời không có gió dữ mưa dầm. Có lẽ là Trung Quốc có Thánh nhân chăng? Có thời sao không vào ngay mà triều kiến?" Ðiều này cũng chứng tỏ rằng, người Việt Thường đời bấy giờ đã biết xem thiên văn, hiểu lịch số và mệnh trời, đoán phương Bắc có “thánh nhân”. Gần 1000 năm sau, theo cổ sử Trung Hoa, Việt Thường Thị mới trở thành Tượng Quận và Nhật Nam vào đời Tần Thủy Hoàng và Hán Cao Tổ (Lưu Bang).

Thời gian Tần - Hán thống thuộc Việt Thường không dài lắm. Thời Tần không đáng kể, ngoại trừ triều đại nhà Triệu nước Nam Việt. Quân của Tần Thủy Hoàng xâm lăng Bách Việt đã bị chận đứng ở cõi Lĩnh Nam cho đến khi Triệu Ðà lập ra nước Nam Việt (năm 207 trước CN) thôn tính cả cõi Âu lạc bấy giờ Việt Thường mới thuộc vương quyền của nhà Triệu sau khi nhà Thục nước Âu Lạc (257 - 207 trước CN) mất ngôi, Âu Lạc bị sát nhập vào Nam Việt. Việt Thường trở thành quận Nhật Nam của nhà Ðông Hán sau khi Hán Vũ Ðế sai Lộ Bác Ðức đem quân đánh chiếm nước ta, diệt Nam Việt năm Canh ngọ (111 trước CN). Nhà Hán cũng chỉ cai trị được Nhật Nam không quá 180 năm thì dân Lâm Ấp nổi lên giành quyền tự chủ. Những địa danh Nhật Nam - Lâm Ấp trong cổ sử và cổ thư chính là lãnh thổ Việt Thường Thị, tức Thuận Hóa sau này hay Bình Trị Thiên ngày nay kéo dài đến quá đèo Hải Vân. Sử gia Quốc sử quán triều Nguyễn đày một miền tự hào khi viết về tỉnh Quảng Nam ghi rằng: "Quảng Nam xưa nguyên là đất Việt Thường Thị, đời Tần (246 - 207 trước CN) thuộc về Tượng Quận, đời Hán (206 - 202 trước CN và 1-219 sau CN) thuộc về quận Nhật Nam sau bị Lâm Ấp chiếm cứ." (xem: Ðại Nam Nhất Thống Chí, Q.5 - Tổng tài biên soạn Cao Xuân Dục cùng với Lưu Ðức Xưng - Trần Xán - bộ QGGD, SàiGòn xb - 194, tr.5). Lãnh thổ Việt Thường Thị mà miền Viễn Cương kéo dài đến Ninh Thuận - Bình Thuận ngày nay. Ðại Nam Nhất Thống Chí chép như sau: "Ðất đây nguyên xưa là nước Nhật Nam ở kiếu ngoại ngoài biên, sau là đất Chiêm Thành. Vua Thánh Tôn nhà Lê (1460 - 1497) bình định Chiêm Thành rồi trao cho họ coi giữ khu đất biên giới phía Nam để nạp cống hiến." (xem: ÐNNTC, Q. 12, tỉnh Bình Thuận (phụ: đạo Ninh Thuận - Bộ VHGDXB 1965, tr.7). Ðời chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) ta mở nước đến sông Phan Lang (Phan Rang). Ðời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), ta lấy nốt phần đất còn lại của Chiêm Thành ở phía tây, năm 1692, đặt làm trấn Thuận Thành. Năm 1697 mở phủ Bình Thuận, chia đất Chiêm phía tây Phan Rang lập 2 huyện An Phước và Hòa Ða. Nói cho chính danh từ vua Lê Thánh Tôn rồi các chúa Nguyễn chinh phục Chiêm Thành chỉ là lấy lại đất cũ Việt Thường Thị nơi nền văn minh bản địa Lạc Việt - Bách Việt đã sớm phát triển trước cả văn minh Hoa Hán. Ðó là cỗi nguồn của đất nước và văn minh Việt Nam.


Không đơn giản như vậy.

Vấn đề này cũng như sự kiện các nhà khoa học lại tìm ra một cái sọ người cổ hơn ở châu Phi, vậy nguồn gốc xuất phát loài người từ châu Phi lại sai bét. Cần một nguyên lý tổng quát bao trùm mới biết nó xuất phát từ đâu.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tây Đồ Di

Sunday, October 20, 2013 2:07:11 AM

Nguồn cội

Thủy Kinh chú sớ chép: "Lâm Ấp ký nói: năm Kiến Vũ thứ 19 (năm 43) Mã Viện trồng hai cột đồng ở biên giới phía nam quận Tượng Lâm, ranh giới của nhà Hán với nước Tây Đồ."

Cựu Đường Thư, Địa lý chí tứ viết: “Nhà Hậu Hán sai Mã Viện … mở đường bộ đến quận Nhật Nam, lại đi thêm hơn 400 dặm nữa đến nước Lâm Ấp, lại đi về phía Nam hơn 2000 dặm nữa đến nước Tây Đồ Di, đúc 2 trụ đồng ở biên giới nam Tượng Lâm phân chia biên giới với Tây Đồ Di để ghi lại công tích toàn thịnh của nhà Hán…

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục dẫn: "Theo sách Thông điển của Đỗ Hữu, từ nước Lâm Ấp đi về phía nam, đi thủy, đi bộ hơn hai nghìn dặm đến đấy có nước Tây Đồ Di là chỗ Mã Viện dựng hai cột đồng để nêu địa giới đấy...

Theo sách Thái bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử đời Tống, Mã Viện đi đánh Lâm Ấp, đi từ Nhật Nam hơn 400 dặm đến Lâm Ấp, lại đi hơn 20 dặm nữa có nước Tây Đồ Di. Viện đến nước ấy rồi lập hai cái cột đồng ở nơi phân giới giữa Tượng Lâm và Tây Đồ Di."

Cách sách khác nhau nói về vị trí nước Tây Đồ Di khác nhau nhưng đều thống nhất cho biết Mã Viện đã trồng cột đồng làm mốc phân giới với nước Tây Đồ Di. Nước Tây Đồ Di nơi có cột đồng Mã Viện nằm ở đâu? Đây là câu hỏi được nhiều người quan tâm vì xác định được nước Tây Đồ Di là xác định được nơi có cột đồng Mã Viện và biên giới phía Nam nhà Hán. Tuy nhiên tới nay các nhà sử học vẫn bó tay vì xét khắp khu vực từ Giao Chỉ tới Thiên Trúc chẳng có nước nào khả dĩ là Tây Đồ Di cả.

Trong khi đó Truyện Nam Chiếu, Lĩnh Nam chích quái kể:

Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là Triệu Ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều nể phục, cùng hợp lại với quân Nam Chiếu, được hơn hai vạn người, lại đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ, xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển.

Dựa trên suy luận: Dạ là cây dừa, chỉ bộ lạc Dừa của người Chăm, Bà là từ cũng phổ biến ở khu vực Chăm, một số tác giả nhận định nước Tây Bà Dạ nằm ở miền Trung Việt Nam. Thậm chí có khi là ở Indonesia vì “Bà Dạ” nghe hơi giống Ja-va…

Tuy nhiên khi liên hệ nước Tây Đồ Di thời Đông Hán và Tây Bà Dạ thời Tấn thì định vị của nước này sẽ ở vị trí hoàn toàn khác.

Nước Tây Đồ Di nơi có cột đồng Mã Viện là đất của người Di Lão như trong Truyện Mã Tổng (Cựu Đường Thư) kể:

Mã Tổng tinh thông Nho học, giỏi thuật cai trị, ở Nam Hải nhiều năm mà thanh liêm không nao núng, Di Lão đều được yên ổn. Tại nơi mà nhà Hán dựng trụ đồng ông dùng 1500 cân đồng đúc 2 trụ, khắc chữ ghi công đức nhà Đường…

Nơi Mã Tổng thời Đường cai trị người Di Lão là nơi có trụ đồng Mã Viện. Người Di Lão sống ở vùng Vân Nam – Quí Châu. Đây cũng là vùng được biết với tên nước Dạ Lang. “Dạ” thực ra là chữ phiên thiết của “Di Hạ”, chỉ người Di thời nhà Hạ. Đất Di Hạ hay Dạ Lang là vùng Vân Nam – Quí Châu, nơi phát tích của Tây Bá hầu Cơ Xương nhà Chu.

Chữ Di trong Tây Đồ Di và Dạ trong Tây Bà Dạ như vậy cùng một nghĩa, chỉ định rõ nước này nằm ở vùng giáp ranh Vân Nam - Quí Châu – Quảng Tây ngày nay.

Chữ “Đồ” và “Bà” cũng cận nghĩa với liên hệ:

- Đồ = Đô = Đầu

- Bà = Bá = Bố.

Cả 2 từ đều có nghĩa chỉ thủ lĩnh. Đồ Di hay Bà Dạ nghĩa là Vua của người Di Hạ (Di Lão).

Truyện Nam Chiếu còn cho biết: “Khi ấy, nước Tây Bà Dạ chia đều đất ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Già La, trên từ Cầm Châu xuống tới Hoan Châu gọi là lộ Lâm An giao cho Nam Chiếu và Triệu Ông Lý thống lĩnh. Sau đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá, đất Diễn Châu, đông giáp với biển, tây tới nước Bà Dạ, nam tới Hoành Sơn, tự xưng làm chúa.

Tây Bà Dạ là nước đã dàn xếp, phân chia lãnh địa cho Nam Triệu Ông Lý và Nam Chiếu. Một khi đã biết Nam Triệu là nước của Man Vương Mạnh Hoạch thời Tam Quốc thì nước Tây Bà Dạ không còn nước nào khác chính là nước Tây Thục của Lưu Bị. Việc Nam Triệu đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ, xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển và việc dàn xếp đất đai ở trên là chuyện Gia Cát Khổng Minh nhà Thục thu phục Mạnh Hoạch ở vùng Tây Bắc nước ta.

Tới đây đã cho phép hiểu chữ Tây trong tên nước Tây Bà Dạ và Tây Đồ Di. Tây và Thục là cùng nghĩa, chỉ phương Tây. Nước Thục của Lưu Bị như vậy là nước Tây Đồ Di, nằm ở vùng đất người Di Lão (Vân Nam – Quí Châu – Quảng Tây).

Nhận định về nước Tây Đồ Di – Tây Bà Dạ là nước Thục thời Tam Quốc dẫn đến một phát hiện: trong cuộc chinh nam Mã Viện đã buộc phải dựng cột đồng đánh mốc giới với … nước Thục ở vùng này. Việc Mã Viện dựng cột đồng như vậy không phải xảy ra vào đầu mà là vào cuối thời Đông Hán, khi nước Thục thời Tam Quốc bắt đầu khởi nghiệp.

Xuất phát điểm của nước Thục vậy là từ khởi nghĩa của Trưng Vương cuối thời Đông Hán. Người đã cầm cự và buộc Mã Viện phải cắm cột đồng phân giới sau khi Trưng Vương mất là Đô Dương. Truyền thuyết Việt chép là khởi nghĩa của Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh ở Cửu Chân. Triệu Quốc Đạt nghĩa là Chúa nước phía Tây vì Đạt = Đoạt là quẻ Đoài chỉ phương Tây, Triệu = Chúa. Tên Triệu Quốc Đạt cận nghĩa với tên nước Tây Đồ - Tây Đầu – Tây chúa.

Đô Dương cầm cự với Mã Viện ở Cửu Chân. Khởi nghĩa Triệu Quốc Đạt cũng ở Cửu Chân.

Còn Hậu Hán thư có hai lần nói đến những người “man” Dạ Lang tồn tại ở Cửu Chân. Một lần khi nói đến công trạng của Nhâm Diên khi làm thái thú Cửu Chân (24-29 sau Công nguyên) đã hòa giải được với man Dạ Lang để giảm được quân tuần tra đồn trú. Một lần khác vào năm thứ nhất niên hiệu Vĩnh Sơ đời Hán An đế (năm 107) khi nhắc đến man Dạ Lang bên ngoài Cửu Chân nổi dậy chiếm đất lập lãnh thổ rộng trên 1.000 dặm.

Cửu Chân nơi có người Dạ Lang như vậy hoàn toàn trùng với địa bàn nước Tây Bà Dạ. Triệu Quốc Đạt chính là vị Tây Bá của người Di Lão hay Dạ Lang, đã cản được bước tiến xuống phương Nam của Mã Viện cuối thời Đông Hán, buộc giặc Hán phải lập trụ đồng phân giới giữa Đông Hán và Tây Thục. Cột đồng Mã Viện không phải nằm ở miền Trung Việt mà là ở khu vực người Di Lão quanh vùng giáp ranh Vân Nam – Quí Châu – Quảng Tây.

Nước Thục thời Tam quốc được một số sách cổ gọi là Tây Kinh. Như sách Quảng Châu ký ghi: "Người Lý, người Lão đúc đồng làm trống, lấy cao lớn làm mặt quý, mặt rộng hơn 1 trượng, không biết đúc vào thời nào. Xét việc Mã Viện đánh Giao Chỉ được trống đồng Lạc Việt, đúc ngựa, có người cho rằng trống đồng đúc trước thời Tây Kinh…"

Có thể tiếp theo kỳ tích chặn Hán quân của anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh ở Dạ Lang, là việc Lý Thiên Bảo và Lý Bí hay Lưu Biểu và Lưu Bị đã kết hợp Kinh Châu với nước Tây Bà Dạ để hình thành nên nước Tây - Kinh. Việc này truyền thuyết Việt kể là Lý Thiên Bảo lập nước Dã Năng, xưng Đào Lang Vương. Dã Năng là Dạ Lang, Đào là đọc sai của Đoài, quẻ chỉ hướng Tây. Lý Thiên Bảo là vua nước Tây Bà Dạ nối tiếp anh em Bà Triệu.

Việc kết hợp hai khu vực Tây và Kinh để hình thành nước Thục thời Tam quốc còn thể hiện ở việc Lưu Bị từ Kinh Châu (đất của Lưu Biểu) tiến đánh Ích Châu (đất của Lưu Chương). Ích Châu là quận lập ra thời Hán trên đất Điền hay Vân Nam, tức chính là đất của Tây Bà Dạ. Sau đó Lưu Bị lên ngôi, có danh xưng Chiêu Liệt hoàng đế. Chiêu là hướng Tây, Liệt = Lạc, là hướng Bắc hay Kinh. Chiêu Liệt = Tây Kinh.

Tiếp theo là việc Gia Cát Vũ Hầu chinh Nam được truyền thuyết Việt chép tướng của Lý Bí là Lý Phục Man đã đi đánh dẹp Lâm Ấp. Gia Cát Khổng Minh đã không tiêu diệt “Lâm Ấp” mà đã “phục man”, thu phục thủ lĩnh của họ (Mạnh Hoạch), chia lãnh thổ Lâm Ấp làm 2 lộ Già La và Lâm An, giao cho Nam Triệu và Nam Chiếu cai quản như Lĩnh Nam chích quái kể…

Việc xác định nước Tây Đồ Di thời Đông Hán là nước Tây Bà Dạ thời Tam quốc (thời Tấn) góp phần nào sáng tỏ thêm những vấn đề đầy tranh cãi trong sử Việt của thời kỳ này.

Bản đồ Văn Lang qua chữ Việt hình chiếc rìu mà ông Bàn Cổ dùng nó bổ vào khoảng không vũ trụ ---> Bộ Việt Thường là Chămpa cổ, lý do vị trí địa lý nằm ngay đầu cán Riu, đồng thời trung tâm Văn Lang đã là bộ Phong Châu là cán Rìu (mang ý nghĩa Gió, Khí... trong học thuyết ADNH), do vậy bộ Việt Thường đã được đặt ngay cạnh Phong Châu nhưng ở phương Nam.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tổng Lãnh Thiên Thần Michael và đời sống con người

THỨ SÁU, 30 THÁNG 09 2011 06:36 BBT WTGP HN ~ Số lượt xem: 2165

Posted ImageHằng năm ngày 29.09. Giáo Hội mừng lễ kính Tổng lãnh Thiên Thần Michael cùng với hai vị Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel và Raphael.

Tổng lãnh Thiên Thần Michael là ai và có liên quan gì với đời sống đức tin và con người?

Quis ut Deus?

Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xưng tụng với danh xưng bằng tiếng Latinh: Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa?.

Theo tương truyền:

-Thiên Thần Michael được liệt vào hàng Thiên Thần quân đội chiến đấu đã đánh thắng Thiên Thần quỉ dữ Lucifer.

-Thiên Thần Michael đã vâng lệnh Thiên Chúa cầm gươm đuổi Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà ra khỏi vườn địa đàng, sau khi Ông bà phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa.

- Thiên Thần Michael cũng là vị Thiên Thần thổi kèn Posaune đánh thức gọi những người đã qua đời sống lại ra khỏi mồ.

Hình ảnh cùng tượng Thiên Thần Michael được vẽ phác họa hay khắc chạm là một người mặc quân phục thời cổ Lamã có hai cánh bay sau lưng với bắp thịt gân cốt dũng mãnh, một tay cầm gươm như vũ khí, một tay cầm chiếc lá chắn, và chân đứng đạp trên con khủng long hình ảnh của qủi dữ.

Hình ảnh chiếc gươm trên tay Tổng lãnh Thiên Thần Michael là hình ảnh nói lên sức mạnh của tình yêu trong ý nghĩa cánh tay của Thiên Chúa được dương ra. Tổng lãnh Thiên Thần Michael giúp đỡ chỉ cho chúng ta tìm lại nẻo chính đường ngay, khi tầm nhìn con mắt chúng ta lạc mất hướng về trời cao.

Theo Kinh Thánh cựu ước Michael là vị Thiên Thần có đẳng cấp cao nhất trong các Thiên Thần bên ngai Thiên Chúa ( Sách Tiên tri Danien 10,13; 12, 1) có nhiệm vụ che chở bảo vệ dân Israel trước các quân thù địch, cùng cho khỏi cảnh khó khăn thử thách.

Thiên Thần Michael vào thời cựu ước ngày xưa được trình bày là một vị Thiên Thần trong sáu hay bảy vị Thiên Thần đẳng cấp chỉ huy cai trị, được Thiên Chúa tin tưởng các đặc biệt trao cho nhiệm vụ giữ chìa khóa nuớc trời, cùng là vị Thiên Thần chỉ huy tối cao các Thiên Thần.

Theo Kinh Thánh tân ước , Michael là Tổng lãnh Thiên Thần chống lại ma qủi.

„Cả những người mê sảng kia cũng vậy, họ làm cho thân xác ra ô uế, khinh dể chủ quần của Chúa, nói phạm đến các Bậc uy linh. Khi bàn cãi và tranh luận vói qủy về thi hài ông Môsê, ngay cả tổng lãnh thiên thần Micaen cũng không dám đưa ra một phán quyết nào phạm đến nó, mà chỉ nói: Xin Chúa trừng phạt ngươi! (" ( thư Giuda 8-10)

„Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Micaen và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không có chỗ trên trời nữa." ( KH 12, 7-8)

Trong thời tân ước, Tổng lãnh Thiên Thần Michael được trình bày là sứ gỉa của Thiên Chúa với uy quyền sức mạnh đặc biệt, như người cầu khẩn phù hộ cho con người bên ngai Thiên Chúa, như Thiên Thần của dân Chúa Kitô, như người cùng đồng hành với người đang hấp hối, với linh hồn những người đã qua đời.

Đó đây trong các nghĩa trang, tượng Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xây dựng trên nấm mồ hay tường thành, tay cầm loa thổi kèn gọi người qua đời chỗi dậy ra trình diện Thiên Chúa. Đây là hình ảnh nói lên niềm hy vọng và sự công bằng cùng lòng thương xót trứơc mặt Thiên Chúa, khi con người trong giờ phút lịch sử ra trước thánh nhan Ngài.

Hình ảnh Tổng lãnh Thiên Thần trên tay cầm chiếc cân đo lường nói lên vị Thiên Thần này quan tâm săn sóc về luật pháp, về sự công bằng chính trực. Trong nhiệm vụ này Tổng lãnh Thiên Thần Michael là người phục vụ đi tìm chân lý sự thật, sự công bằng.

Năm 1947 những cuộn giấy sách chép Kinh Thánh được tìm thấy ở bờ Biển Chết bên Israel, trong đó có đoạn ghi lại coi Thiên Thần Michael là „vị thần ánh sáng", chỉ huy đoàn quân của Thiên Chúa chống lại thần dữ. Và Thiên Thần Michael được mang tước hiệu „ Phó vương trên trời".

Danh xưng của Tổng lãnh Thiên Thần Michael „ Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa? –„ có lẽ cần được dịch sang ngôn ngữ con người ngày hôm nay: „ Có điều gì khác hơn thay thế Thiên Chúa được không ?".

Câu trả lời theo lương tâm nghiêm chỉnh sẽ là: Tất cả đều có giới hạn, không có ai, không có sự gì như Thiên Chúa là Đấng hòan hảo toàn năng được!

Tổng lãnh sự thiên thần Michael với biểu tượng chiếc cân công lý - hình ảnh cung Cái Cân trong vòng Hoàng đạo, tương ứng luân xa số 1 - biểu tượng của Hùng Vương VII - hay cũng chính là hình ảnh của sao Thủy ngày nay (tức sao Kim = sao Hôm = sao Mai được chỉnh lại theo thuyết ADNH): Lang Liêu. Đây cũng chính là Thái Bạch Kim Tinh trong thần thoại Đông Phương.

Các tôn giáo đã mai một học thuyết và mục đích nguyên gốc rồi, chỉ còn là những lý thuyết thần học mơ hồ, giáo điều, cho nên không thấy xuất hiện những người đắc đạo, chứng ngộ... lại đi cùng với lịch sử của chiến tranh, bạo lực, phản khoa học...--->>> Nhà thờ và sách vở thần học tích lũy hàng thiên niên kỷ bỗng chốc phát nổ và bốc cháy, quy tắc nhân quả.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hậu Hán thư

Đông Di liệt truyện

Lưu Tống - Phạm Diệp soạn

Đường - Lí Hiền chú

Vương chế chép: "Người phương đông gọi là người Di". Di là rễ, ý nói nhân ái mà hiếu sinh. Muôn vật cắm rẽ vào đất mà sinh sôi, cho nên người Di bản tính ôn hòa, dễ lấy đạo mà dạy, có các nước Quân Tử-Bất Tử. Người Di có chín chủng, gọi là Quyến Di-Vu Di-Phương Di-Hoàng Di-Bạch Di-Xích Di-Huyền Di-Phong Di-Dương Di. Cho nên Khổng Tử muốn ở đất Cửu Di vậy.

[sơn hải kinh chép: "Người nước Quân Tử mặc áo, đội mũ, đeo kiếm, ăn thịt thú, sai hai con hổ văn ở bên". Ngoại quốc đồ chép: "Cách quận Lang Da ba vạn dặm". "Người nước Bất Tử tại phía đông nước Giao Hĩnh, người nước này da đen, sống thọ không chết". Đều tại phương đông vậy.]

[Trúc thư kỉ niên chép: "Vua Hạ là Phân Phát lên ngôi được ba năm, người Cửu Di đến chầu". "Năm thứ hai mươi mốt thời vua Hạ là Tiết, truyền lệnh đến người Khuyển Di-Bạch Di-Xích Di-Huyền Di-Phong Di-Dương Di. Vua Hạ là Tướng lên ngôi được hai năm, đánh người Hoàng Di. Năm thứ bảy, người Vu Di đến thăm. Vua Hạ là Thiếu Khang lên ngôi, người Phương Di đến thăm".]

Ngày xưa vua Nghiêu sai Hi Trọng đến mở đất Ngung Di, gọi là Dương cốc, đại khái là chỗ mà mặt trời mọc. Vua Thái Khang của họ Hạ Hậu thất đức, người Di bắt đầu làm phản. Từ thời vua Thiếu Khang về sau, người thường theo vương hóa, làm khách ở triều đình, dâng khúc hát điệu múa. Vua Kiệt làm việc bạo ngược, người Di vào xâm phạm,. Vua Thang của nhà Ân đổi mệnh, đem binh đánh mà bình người Di. Đến thời vua Trọng Đinh, người Lam Di đánh cướp. Từ đó lúc phục lúc làm phản, được hơn ba trăm năm. Đời vua Vũ Ất suy kém, người Di ở phía đông thêm mạnh, bèn dời đến đất Hoài-Đại, dần dần trú ở Trung Thổ (tức Trung Quốc).

[Khổng An Quốc chú Thượng thư chép: "Đất ở phương đông gọi là Ngung Di. Thang cốc là chỗ mà mặt trời mọc".]

[Trúc thư kỉ niên chép: "Vua Hạ là Phát lên ngôi năm đầu, người Di thăm ở cửa nhà vua, người Di vào múa". "Trọng Đinh lên ngôi, đánh đến chỗ người Lam Di".]

Đến thời Vũ Vương diệt vua Trụ, người Túc Thận đến dâng mũi tên đá, mũi tên cây hộ. Quản-Sái phản nhà Chu, Chu Công đánh Quản-Sái, rồi đánh dẹp người Di ở phía đông. Vào thời Khang Vương, người Túc Thận lại đến. Sau đó người Di ở đất Từ tiếm hiệu, bèn đem lĩnh quân Cửu Di đến đánh nhà Chu, sang phía tây đến đầu nguồn sông Hoàng Hà. Mục Vương sợ sự lớn mạnh của người Di, bèn chia chư hầu ở phương đông, phong Từ Yển Vương trông coi người Di. Yển Vương ở phía đông sông Hoàng, đất đai năm trăm dặm, tỏ rõ nhân nghĩa, có ba mươi sáu nước hướng về mà chầu phục. Sau đó Mục Vương làm được xe ngựa kí lục, bèn sai Tạo Phủ đánh xe đến báo cho vua Sở, sai đánh nước Từ, một ngày thì đến. Do đó Sở Văn Vương phát đại quân mà diệt nước Từ. Yển Vương nhân ái mà không quyền biến, không nỡ đánh quân Sở, cho nên bị thua. Yển Vương bèn chạy đến dưới núi phía đông huyện Vũ Nguyên quận Bành Thành, trăm họ đi theo Yển Vương đến mấy vạn người, nhân đó tên núi gọi là núi Từ. Lệ Vương vô đạo, người Hoài Di (tức người Di ở ven sông Hoài) vào cướp, Lệ Vương sai Quắc Trọng đánh người Di, không thắng, Tuyên Vương lại sai Thiệu Công đánh mà dẹp người Di. Đến đời U Vương dâm loạn, người Di đến xâm phạm. Đến thời Tề Hoàn Công làm bá, liền dẹp trừ được. Đến thời Sở Linh Vương hội chư hầu ở ấp Thân, người Di cũng đến thề ước. Sau đó vua Việt (tức vua Việt là Câu Tiễn) dời đô đến ở ấp Lang Da, hợp với người Di đánh dẹp, bèn lấn hiếp Hoa Hạ, phá diệt các nước nhỏ.

[Thượng thư chép: "Vũ Vương băng, tam giám cùng người Hoài Di phản, Chu Công đánh chúng, soạn đại cáo". "Thành Vương đã đánh Quản Thúc-Sái Thúc, lại diệt người Hoài Di".]

[Thi Tử chép: "Yển Vương có gân mà không có xương, cho nên gọi là 'Yển'".]

[Huyện Vũ Nguyên tại phía bắc huyện Hạ Bì thuộc châu Tứ. Núi Từ ở phía đông huyện này. Bác vật chí chép: "Người trong cung vua Từ mang thai nhưng sinh ra quả trứng, vua cho là không lành, vứt quả trứng ở bờ sông. Một người đàn bà có con chó tên là 'hộc thương', thấy quả trứng bị vứt, ngậm về cho người đàn bà ấy, người đàn bà ấy trùm lấy sưởi ấm quả trứng, cuối cùng nở ra một đứa trẻ con, lúc sinh thì nằm ngửa, cho nên gọi là 'Yển'. Người trong cung nghe tin, bèn đổi lấy lại. Lớn lên nối làm vua Từ". "Vua Từ quái lạ khác thường. Phía đông huyện Vũ Nguyên mười dặm thấy có miếu thờ, hang đá ở núi Từ. Yển Vương làm rãnh thông vào đất Trần-Sái, lấy được cây cung đỏ, mũi tên đỏ, cho là đã có ý trời, tự xưng là Yển Vương. Mục Vương nghe tin, sai sứ ngồi ngựa tứ đi một ngày thì đến nước Sở, sai đánh Yển Vương. Yển Vương nhân từ, không nỡ đánh, bị quân Sở đánh bại, chạy lên phía bắc đến núi Từ".]

Nhà Tần chiếm cả sáu nước, người Di ở vùng Hoài-Tứ đều chia làm dân hộ. Trần Thiệp dấy binh, thiên hạ vỡ lở, người nước Yên là Vệ Mãn tránh đến nước Triều Tiên, nhân đó làm vua ở nước này, được hơn một trăm năm, Hán Vũ Đế diệt nước Triều Tiên, do đó người Di ở phía đông bắt đầu qua lại kinh đô. Vương Mãn soán vị, người Mạch cướp vùng biên giới. Đầu năm Kiến Vũ, người Di lại đến chầu cống. Bấy giờ Thái thú Liêu Đông là Sái Dung uy hiếp phương bắc, oia lừng miền bờ biển, do đó người Uế, Mạch, Oa, Hàn trải vạn dặm đến chầu cống, cho nên thời Chương-Hòa về sau, sứ giả các nước Di đến qua lại. Kịp đến những năm Vĩnh Sơ, đất Trung Quốc có nhiều nạn, người bắt đầu vào cướp bóc; Hoàn-Linh bỏ bê chính sự, người Di càng thêm khinh mạn.

Từ sau thời trung hưng, người Di đến chầu, dẫu có lúc phản nhưng sứ giả đến không dứt, cho nên tục lệ của các nước này được ghi chép qua. Người Đông Di đại khái tụ thành ấp xóm, vui vẻ uống rượu múa hát, đội mũ biện mặc áo gấm, có dùng bát, mâm, cho nên mới nói là nếu Trung Quốc bỏ bê lễ nghi thì tìm đến 'Tứ Di'. Man, Di, Nhung, Địch cộng lại gọi là 'Tứ Di', giống Công, Hầu, Bá, Tử, Nam đều là hiệu của chư hầu vậy.

Nước Phù Dư ở cách phía bắc quận Huyền Thố nghìn dặm, phía nam tiếp với nước Cao Câu Li, phía đông tiếp với nước Ấp Lâu, phía tây tiếp với đất của người Tiên Ti, phía bắc có sông Nhược. Đất rộng hai nghìn dặm, vốn là đất của người Uế.

Trước đây, vua của nước Tố Li ở phía bắc xuất hành, người hầu gái của vua ở nhà mang thai, vua về, muốn giết đi, người hầu gái nói: "Lúc trước thấy trên trời có luồng khí, lớn như quả trứng gà, bay xuống vào người thiếp, cho nên có thai". Vua bắt giam người hầu gái, sau đó người hầu gái sinh con trai. Vua sai đặt ở chuồng heo, heo chũi mõm thở vào đứa bé, không chết. Sau dời đến chuồng ngựa, ngựa cũng như vậy. Vua cho là thần, bèn cho mẹ đưa về nuôi, đặt tên là Đông Minh. Đông Minh lớn lên thì bắn tên giỏi, vua kị sự dũng mãnh của Đông Minh, lại muốn giết đi. Đông Minh chạy trốn, xuống phía nam đến sông Yểm Hổ, lấy cung đập vào nước, do đó cá, rùa đều tụ nổi trên mặt sông, Đông Minh cưỡi mà qua được, nhân đó đến nước Phu Dư mà làm vua ở đấy. Thành ở đất Đông Di, lớn nhất là Bình Xưởng, đất hợp với ngũ cốc. Xuất ngựa tốt, ngọc đỏ, chồn, ngọc trai lớn và táo chua, lấy tre gỗ tròn làm thành, có cung điện, kho tàng, nhà ngục. Người người nước này to lớn hùng dũng mà thật thà, không gây cướp bóc. Lấy cung tên, mâu, đao làm binh khí. Lấy tên sáu loài súc vật đặt tên chức quan, có 'Mã gia', 'Ngưu gia', 'Cẩu gia', các ấp xóm đều thần phục các 'gia'. Ăn uống thì dùng mâm, bát, cùng hội họp vái mời nhau, nhường nhau lên xuống. Đến tháng chạp thì tế trời, hội họp liên ngày, ăn uống múa hát, gọi là 'nghênh cổ'. Lúc ấy bỏ hình ngục, cởi giam trói. Có việc quân cũng tế trời, giết bò, lấy móng chân bò để bói tốt xấu. [Ngụy chí chép: "Móng bò toác là xấu, móng liền là tốt".] Người đi đường không kể ngày đêm đều ưa ca ngâm, âm thanh không dứt. Thói thường dùng hình pháp nghiêm ngặt, kẻ nào bị tội chết thì đều bị tịch thu người nhà làm nô tì. Nếu trộm một thì đền mười. Trai gái gian dâm thì đều bị giết, rất ghét tính đố kị, đã bị giết rồi còn vứt thây ở trên núi. Anh trai chết thì em trái lấy chị dâu. Lúc chết thì dùng quách mà không dùng quan để táng, giết người táng theo, có khi nhiều đến mấy trăm người. Vua của nước này táng dùng rương ngọc, nhà Hán thường sắm sẵn rương ngọc trao cho quận Huyền Thố, lúc vua nước này chết thì đón lấy đặt vào rương ngọc mà táng.

Giữa năm Kiến Vũ, các nước Đông Di đều đến cống nạp. Năm thứ hai mươi lăm, vua Phù Dư sai sứ giả đến cống, vua Quang Vũ báo đáp nồng hậu, do đó sứ giả hằng năm qua lại. Đến năm Vĩnh Sơ thứ năm thời An Đế, vua Phù Dư bắt đầu đem bảy-tám nghìn quân kị bộ cướp bóc quận Lạc Lãng, giết hại quan dân, sau lại thần phục. Năm Vĩnh Ninh thứ nhất, lại sai người nối tự là Úy Cừu Đài đến cửa khuyết cống nạp, thiên tử ban ấn thao vàng cho Úy Cừu Đài. Năm Vĩnh Hòa thứ nhất thời Thuận Đế, vua của nước này đến chầu ở kinh sư, Đế bày nhạc trống, tù và ở cửa Hoàng Môn để đón đãi. Năm Diên Hi thứ tư thời Hoàn Đế, sai sứ giả đến chầu cống. Năm Vĩnh Khang thứ nhất, vua là Phù Đài đem hơn hai vạn quân vào cướp quận Huyền Thố, Thái thú Huyền Thố là Công Tôn Vực đánh phá được, chém hơn nghìn thủ cấp. Đến năm Hi Bình thứ ba thời Linh Đế, lại đến nạp cống. Nước Phù Dư vốn thuộc quận Huyền Thố, thời Hiến Đế, vua của nước này xin thuộc vào quận Liêu Đông.

Nước Ấp Lâu là nước Túc Thận xưa vậy. Ở cách phía đông bắc nước Phù Dư hơn nghìn dặm, phía đông kề biển lớn, phía nam và phía bắc tiếp với nước Ốc Trở, không biết nơi tận cùng phía bắc của nước ấy. Đất đai phần nhiều là núi hiểm, dáng người giống người Phù Dư, nhưng tiếng nói đều khác. Có trồng ngũ cốc, vải gai, xuất ngọc đỏ, chồn tốt. Không có quân trưởng, ở các ấp xóm của họ có 'Đại nhân'. Sống ở giữa rừng núi, khí đất rất lạnh, thường ở trong hang, cho là sâu thì tốt, nhà lớn có đến chín cái bậc. Ưa nuôi heo, ăn thịt heo, lấy da heo làm áo. Mùa đông lấy mỡ heo bôi lên người, dày mấy phân để chống gió lạnh. Mùa hạ thì cởi trần, lấy tấm vải nhỏ che trước sau. Người ở đây bẩn thỉu không sạch sẽ, làm nhà xí ở trong, ở quây xung quanh mà ở. Từ lúc nhà Hán nổi lên về sau, người Ấp Lâu thần phục nước Phù Dư. Dân chúng dẫu ít, nhưng phần nhiều hùng dũng, ở nơi núi non hiểm trở, lại bắn tên giỏi, bắn ra có thể trúng mắt người. Cung dài bốn thước, cứng giống nỏ. Mũi tên dùng từ cây hộ, dài một thước tám tấc, lấy đá xanh làm đầu mũi tên, đầu mũi nhọn đều bôi thuốc độc, người trúng phải liền chết. Giỏi chèo thuyền, hay trộm cướp, người các nước xung quanh lo lắng, nhưng không thể áp phục. Người Phù Dư, Đông Di ăn uống đều dùng mâm, bát, chỉ có người Ấp Lâu thì không, thói tục rất không có phép tắc như vậy.

Nước Cao Câu Li ở phía đông của quận Liêu Đông nghìn dặm, phía nam tiếp các nước Triều Tiên, Uế-Mạch, phía đông tiếp nước Ốc Trở, phía bắc tiếp với nước Phù Dư. Đất rộng hai nghìn dặm, nhiều hang sâu núi lớn, người dân theo đó mà ở. Ruộng trồng ít, làm không đủ để tự cung cấp, cho nên tục người ở đây dè xẻn khi ăn uống, nhưng dựng cung thất giỏi. Người Đông Di bảo nhau rằng người Cao Câu Li là một chủng khác của người Phù Dư, cho nên tiếng nói, hình pháp phần nhiều giống nhau, nhưng quỳ bái chỉ dùng một chân, đi bộ như chạy. Cả thảy có năm bộ, có bộ Tiêu Nô, bộ Tuyệt Nô, bộ Thuận Nô, bộ Quán Nô, bộ Quế Nô. Vốn là bộ Tiêu Nô làm vua, dần dần suy yếu, sau đó bộ Quế Nô nối thay. Nước này đặt quan lại có 'Tướng gia', 'Đối lô', 'Bái giả', 'Cổ trâu đại gia', 'Chủ bạ', 'Ưu đài', 'Sứ giả', 'Bạch y tiên nhân'. Hán Vũ Đế diệt nước Triều Tiên, lấy nước Cao Câu Li đặt làm huyện, thuộc vào quận Huyền Thố, ban cho ca kĩ thổi sáo đánh trống. Tục thường dâm dật, đều sạch sẽ tự vui, buổi chiều tối thì trai gái tụ tập hát xướng, ưa tế quỷ thần, xã tắc, sao Linh, thường vào tháng mười thì mở hội lớn tế trời, gọi là 'Đông minh'. Phía đông nước này có hang lớn, gọi là 'Toại thần', cũng vào tháng mười thì đến tế ở đấy. Người tụ hội đều mặc áo quần gấm thêu, tự trang điểm vàng bạc. Các 'Đại gia', 'Chủ bạ' đều đội khăn, giống khăn mũ, nhưng không có dải phía sau; các 'Tiểu gia' thì đội khăn 'chiết phong', hình giống mũ biện. Không có nhà ngục, nếu có tội thì 'gia' bàn bạc rồi giết kẻ đó, tịch thu vợ con làm nô lệ. Phép cưới hỏi thì đều tới nhà vợ, sinh con lớn lên, sau đó đem về, rồi dần dần sắm sửa đồ táng, vàng bạc tiền của đều táng cả theo, chất đá đắp mộ, cũng trồng tùng bách bên mộ. Tính người nước này hung hăng, có sức khỏe, tập chiến đấu, ưa cướp bóc, các nước Ốc Trở, Đông Uế đều phụ thuộc.

Người Cao Câu Li còn gọi là người Mạch, có chủng khác dựa vào sông nhỏ mà ở, nhân đó có tên là 'Tiểu Thủy Mạch'. Xuất cung tốt, gọi là 'cung Mạch' vậy.

Đầu thời Vương Mãng, phát quân của nước Cao Câu Li đi đánh rợ Hung Nô, người nước này không muốn đi, cưỡng bức sai đi, đều trốn ra biên giới làm giặc. Đại doãn Liêu Tây là Điền Đàm đuổi đánh, chết trong trận. Mãng sai tướng của Đàm là Nghiêm Vưu đi đánh, dụ vua Cao Câu Li là Sô vào cửa ải, chém Sô, đưa đầu về Tràng An. Mãng mừng lắm, đổi tên Cao Câu Li Vương là Hạ Cao Li Hầu, do đó người Mạch cướp biên giới thêm nhiều. Năm Kiến Vũ thứ tám, vua Cao Câu Li sai sứ chầu cống, vua Quang Vũ phong lại tước hiệu cho vua của nước này. Mùa đông năm thứ hai mươi ba, người Cao Câu Li là Tàm Chi Lạc Đại Gia Lạc Đái Thăng đem hơn vạn người đến quận Lạc Lãng xin nội thuộc. Mùa xuân năm thứ hai mươi lăm, người Cao Câu Li cướp các quận Hữu Bắc Bình-Ngư Dương-Thượng Cốc-Thái Nguyên, rồi Thái thú Liêu Đông là Sái Dung lấy ân đức vỗ về, do đó đều quay về biên giới.

Sau đó vua Cao Câu Li là Cung sinh ra mở mắt đã nhìn được, người trong nước hướng về, đến lúc lớn lên, nhiều lần phạm biên cảnh. Mùa xuân năm Nguyên Hưng thứ nhất thời Hòa Đế, Cung lại vào quận Liêu Đông, cướp chiếm sáu huyện, Thái thú là Cảnh Quỳ đánh phá được, chém cừ súy của quân ấy. Năm Vĩnh Sơ thứ năm thời An Đế, Cung sai sứ giả nạp cống, xin thuộc vào quận Huyền Thố. Năm Nguyên Sơ thứ năm, Cung lại cùng người Uế-Mạch cướp quận Huyền Thố, đánh thành Hoa Li. Mùa xuân năm Kiến Quang thứ nhất, bọn Thứ sử châu U là Phùng Hoán, Thái thú Huyền Thố là Diêu Quang, Thái thú Liêu Đông là Sái Phúng đem binh ra biên giới đánh Cung, bắt chém cừ súy của người Uế-Mạch, bắt được binh mã tài vật. Cung bèn sai con của mình là Toại Thành đem hơn hai nghìn quân chặn đánh bọn Quang, sai sứ trá hàng; bọn Quang tin theo, Toại Thành nhân đó chiếm nơi hiểm yếu để giấu đại quân, rồi ngầm sai ba nghìn quân đánh các quận Huyền Thố, Liêu Đông, đốt thành quách, giết hại hơn hai nghìn người. Do đó nhà Hán phát hơn ba nghìn quân kị của các thuộc quốc Quảng Dương, Ngư Dương, Hữu Bắc Bình, Trác Quận cùng đến ứng cứu, nhưng người Mạch đã bỏ đi. Mùa hạ, Cung lại cùng hơn tám nghìn người người Tiên Ti ở quận Liêu Đông đánh thành Liêu Đội, cướp giết quan dân. Bọn Sái Phúng đuổi đánh đến huyện Tân Xương, chết trong trận, Công tào là Cảnh Háo, Binh tào duyện là Long Đoan, Binh mã duyện là Công Tôn lấy thân che cho Phúng, cùng chết ở trận, kẻ chết đến hơn trăm người. Mùa thu, Cung lại đem mấy nghìn quân kị Mã Hàn, Uế-Mạch vây quận Huyền Thố. Vua Phù Dư sai con là Úy Cừu Đài đem hơn hai vạn quân, cùng châu quận ra sức đánh phá Cung, chém hơn năm trăm thủ cấp.

Năm đó, Cung chết, con là Toại Thành lập. Diêu Quang dâng thư lên muốn nhân tang của nước ấy mà phát binh đi nước ấy, người bàn bạc đều cho là được. Thượng thư là Trần Trung nói: "Cung trước kia là người kiệt hiệt, Quang không đánh được, nếu hắn chết mà đến đánh, là không có nghĩa vậy. Nên đến thăm điếu, nhân đó trách tội trước kia, tha mà không đánh để lấy việc tốt sau này". An Đế nghe theo. Năm sau, Toại Thành trả những người Hán bị bắt cho về, tự đến quận Huyền Thố xin hàng phục. Chiếu nói: "Bọn Toại Thành ngỗ ngược vô đạo, đáng bị băm chém để báo cho trăm họ, nhưng được tha cho, thú tội xin hàng. Tiên Ti, Uế-Mạch nhiều năm cướp bóc, đuổi cướp dân yếu, kinh động mấy nghìn người, lại giết chóc mấy chục trăm người, không có lòng hướng về vương hóa. Từ nay về sau, không được đánh nhau với quan huyện, phải gần gũi yêu thương dân chúng để chuộc tội, ban cho mươi người thợ lụa, một nửa là người trẻ".

Toại Thành chết, con là Bá Cố lập, từ đó người Uế-Mạch thần phục, biên thùy phía đông ít việc xảy ra. Năm Dương Gia thứ nhất thời Thuận Đế, đặt sáu bộ đóng đồn làm ruộng ở quận Huyền Thố. Giữa thời Chất-Hoàn, lại vào huyện Tây An Bình quận Liêu Đông, giết quan Lệnh của huyện Đái Phương, cướp được vợ con của Thái thú Lạc Lãng. Năm Kiến Ninh thứ hai, Thái thú Huyền Thố là Cảnh Lâm đi đánh, chém mấy trăm thủ cấp, Bá Cố hàng phục, xin thuộc vào quận Huyền Thố.

Nước Đông Ốc Trở ở phía đông núi lớn Cái Mã của nước Cao Câu Li, phía đông kề biển lớn, phía bắc tiếp với các nước Ấp Lâu-Phù Dư, phía nam tiếp với người Uế-Mạch. Nước này đông tây hẹp, nam bắc dài ước chừng đến nghìn dặm, đất phì nhiêu, đều dựa vào núi hướng ra biển, hợp với ngũ cốc, làm ruộng giỏi, có trưởng súy của ấp xóm. Tính người thẳng thắn cứng cỏi. Giỏi dùng mâu để đánh trận trên bộ. Tiếng nói, ăn uống, nhà ở, quần áo, có giống với người Cao Câu Li. Cách táng là làm quách bằng gỗ lớn, dài hơn mười trượng, mở một đầu làm nắp, người mới chết chôn trước, đợi da thịt tiêu hết, rồi lấy xương đặt trong quách. Người nhà đều cùng một quách, khắc tượng gỗ như dáng người lúc sống, rồi chôn theo người chết.

Hán Vũ Đế diệt nước Triều Tiên, lấy nước Ốc Trở đặt thành quận Huyền Thố. Sau bị người Di-Mạch chiếm, dời quận đến phía tây bắc của nước Cao Câu Li, đổi nước Ốc Trở đặt làm huyện, thuộc Lạc Lãng Đông bộ Đô úy. Đến thời vua Quang Vũ, bỏ quan Đô úy, sau đó đều phong cừ súy của nước này làm Ốc Trở Hầu. Nước này nhỏ hẹp, xen giữa các nước lớn, bèn thần thuộc nước Cao Câu Li. Nước Cao Câu Li lại đặt quan lớn trong nước này làm sứ giả, để cùng trông coi, thu lấy tô thuế, chồn, vải, cá, muối, các đồ hải sản, lấy gái đẹp làm tì thiếp.

Lại có nước Bắc Ốc Trở, còn gọi là Trí Câu Lâu, cách nước Nam Ốc Trở hơn tám trăm dặm. Tục nước này giống với người Nam Ốc Trở. Cảnh giới phía nam giáp nước Ấp Lâu, người Ấp Lâu ưa chèo thuyền cướp bóc, người Bắc Ốc Trở sợ, hễ đến mùa hạ lại náu ở hang đá, đến mùa đông đường thuyền đi không thông, lại xuống sống ở ấp xóm. Người già cả ở nước này bảo rằng từng lấy được một cái áo vải ở giữa biển, hình giống áo của người Trung Quốc, nhưng hai tay áo dài ba trượng. Lại ở bên bờ thấy một người cưỡi một cái thuyền vỡ, giữa đổ lại có mặt, chuyện với nhau không hiểu, không ăn rồi chết. Lại bảo rằng giữa biển có nước của đàn bà, không có đàn ông. Lại bảo truyền rằng nước này có giếng thần, nhìn vào sẽ sinh được con.

Nước Uế, phía bắc tiếp với các nước Cao Câu Li-Ốc Trở, phía nam tiếp với nước Thần Hàn, phía đông kề biển lớn, phía tây đến quận Lạc Lãng. Nước Uế cùng các nước Ốc Trở-Cao Câu Li vốn đều là đất Triều Tiên. Xưa kia Vũ Vương phong Cơ Tử ở đất Triều Tiên, Cơ Tử dạy dân theo lễ nghĩa, cày ruộng nuôi tằm, lại đặt ra tám điều dạy. Người ở đây không trộm của nhau, không cần đóng cửa nhà. Đàn bà trinh tín. Ăn uống dùng mâm bát. Hơn bốn mươi đời sau đó, đến thời vua Triều Tiên là Chuẩn tự xưng vương. Đầu thời Hán loạn lớn, có đến mấy vạn người Yên-Tề-Triệu đến lánh nạn ở đất Triều Tiên, rồi người nước Yên là Vệ Mãn đánh phá Chuẩn mà tự làm vua ở đấy, truyền nước đến cháu là Hữu Cừ. Năm Nguyên Sóc thứ nhất, quân trưởng của nước Uế là bọn Nam Lư phản Hữu Cừ, đem hai mươi tám vạn người đến quận Liêu Đông xin nội thuộc, Hán Vũ Đế lấy nước Uế lập thành quận Thương Hải, được mấy năm lại bỏ. Đến năm Nguyên Phong thứ ba, diệt nước Triều Tiên, chia đặt thành bốn quận Lạc Lãng-Lâm Đồn-Huyền Thố-Chân Phiên. Đến năm Thủy Nguyên thứ năm thời Chiêu Đế, bỏ quận Lâm Đồn-Chân Phiên, gộp vào quận Lạc Lãng-Huyền Thố. Quận Huyền Thố lại chuyển đến nước Cao Câu Li. Từ núi lớn Đan Đan về phía đông, các nước Ốc Trở-Uế-Mạch đều thuộc quận Lạc Lãng. Sau vì đất đai xa rộng, lại chia bảy huyện ở phía đông núi, đặt ra Lạc Lãng Đông bộ Đô úy. Từ lúc nội thuộc về sau, phong tục kém dần, hình pháp cũng thêm phiền, có đến hơn sáu mươi điều. Năm Kiến Vũ thứ sáu, bớt quan Đô úy, rồi bỏ đất phía đông núi, đều phong cừ súy của nước này làm Huyện hầu, đều hằng năm chầu cống.

Không có quân trưởng lớn, quan lại có có 'Hầu', 'Ấp quân', 'Tam lão'. Người già cả tự nói là cùng chủng với người Cao Câu Li, tiếng nói, phép tắc đại khái giống nhau. Tính người ở đây ngu dốt, ít ham muốn, không cầu xin. Trai gái đều mặc áo cổ gấp. Tục thường trọng sông núi, sông núi đều có bộ giới, không được tự tiện đi vào. Người cùng họ không được kết hôn, nhiều kiêng kị, nếu ốm đau chết chóc thì thường bỏ nhà cũ, lại làm nhà mới. Biết trồng cây gai, nuôi tằm, làm thành vải bông. Buổi sớm dậy lúc trời còn nhiều sao, đoán biết được vụ mùa đầy đủ. Thường đến tháng mười thì tế trời, ngày đêm uống rượu múa hát, gọi là "Vũ thiên". Lại tế hổ cho là thần. Ấp xóm có kẻ xâm phạm nhau, thì phạt nhau, bắt đền người, trâu, ngựa, gọi là 'Trách họa'. Kẻ giết người thì đền mạng. Ít cướp bóc. Đánh trận trên bộ, làm gậy dài ba trượng, hoặc mấy người cùng cầm. Cây cung làm bằng gỗ đàn ở quận Lạc Lãng được ra từ nước ấy. Lại có nhiều báo vằn, có ngựa 'quả hạ'.[Ngựa cao ba thước, ngồi lên ngựa này có thể đi dưới cây quả.] Ở biển có cá vằn, sứ giả đến đều dâng lên.

Người Hàn có ba chủng: một là Mã Hàn, hai là Thần Hàn, ba là Biện Hàn. Mã Hàn ở phía tây, có sáu mươi tư nước, phía bắc đất ấy tiếp với quận Lạc Lãng, phía nam tiếp với chỗ của người Oa. Thần Hàn ở phía đông, có mười hai nước, phía bắc nước ấy tiếp với người Uế-Mạch. Biện Hàn ở phía nam của nước Thần Hàn, cũng có mười hai nước, nước này cũng tiếp với chỗ của người Oa. Cả thảy có sáu mươi tám nước, nước Bách Tế là một nước trong số đó. Nước lớn thì hơn vạn hộ, nước nhỏ thì mấy nghìn nhà, đều ở giữa núi biển, đất rộng khoảng hơn bốn nghìn dặm, phía đông tây lấy biển làm giới hạn, đều là nước Thần xưa vậy. Mã Hàn lớn nhất, cùng lập người nước mình làm Thần Vương, đóng đô là thành Mục Chi, trông coi cả ba nước Hàn. Các vị vua của họ trước kia là người Mã Hàn.

Người Mã Hàn biết làm ruộng nuôi tằm, làm vải bông. Xuất cây dẻ giống cây lê. Có gà đuôi dài, đuôi dài năm thước. Sống xen lẫn ở ấp xóm, cũng không có thành quách. Làm nhà đất, hình giống nấm mộ, mở cửa ở trên. Không biết quỳ bái. Không phân biệt già trẻ, trai gái, không quý len bông, vàng ngọc, không biết cưỡi trâu ngựa, chỉ qúy ngọc châu, đeo lên áo đồ trang sức, và đeo tai bên cổ.

Cừ súy đều đầu trần tóc để chỏm, mặc áo choàng dài, đi dày da. Người nước này dũng mãnh, lúc nhỏ đã đắp nhà làm đao, thường lấy dây xuyên qua da thịt, treo trên cây lớn, cho vậy là khỏe. Thường đến tháng năm là lúc làm ruộng xong thì tế quỷ thần, ngày đêm tụ hội uống rượu, quần tụ múa hát, múa thường mấy chục người theo nhau giẫm đất làm điệu. Tháng mười việc làm ruộng xong, cũng lại như vậy. Các nước này chọn một một người làm chủ việc tế trời, tế thần, gọi là "thiên quân". Lại lập 'tô đồ', dựng cây gỗ lớn để treo chuông trống, thờ qủy thần. Phía nam của nước này tiếp với chỗ của người Oa, cũng có người vẽ mình.

Thần Hàn, người già ở nước này tự nói vốn là người bỏ đi từ thời Tần, trốn lao dịch mà lánh nạn đến nước Hàn, người Mã Hàn chia đất ở phía đông mà trao cho. Người nước này nói nước là 'bang', cung là 'hồ', giặc là 'khấu', uống rượu là 'hành thương', gọi nhau là 'đồ', có giống tiếng Tần, cho nên còn gọi là người Tần Hàn. Có rào lũy nhà ở. Các ấp nhỏ khác đều có cừ súy, lớn là 'Thần trí', thứ có 'Kiệm trắc', thứ có 'Phàn kì', thứ có 'Sát hề', thứ có 'Ấp tá'. Đất đai phì nhiêu, hợp với ngũ cốc. Biết trồng dâu nuôi tằm, làm vải bông. Cưỡi đi trâu ngựa. Cưới hỏi theo lễ nghi. Người đi nhường đường. Nước này có sắt, người Uế, Oa, Hàn đều đến mua lấy. Hết thảy vật trao đổi đều lấy sắt làm tiền. Tục thích múa hát, uống rượu, đánh đàn, gõ trống. Sinh con muốn khiến cho đầu nhọn, đều lấy đá để nắn ép.

Người Biện Hàn ở lẫn với người Thần Hàn; thành quách, quần áo đều giống nhau, còn tiếng nói, phong tục có khác. Dáng người đều to cao, tóc đẹp, quần áo đẹp đẽ. Nhưng hình pháp nghiêm ngặt. Nước này gần với chỗ của người Oa, cho nên cũng có người vẽ mình.

Trước đây, vua Triều Tiên là Chuẩn bị Vệ Mãn phá, bèn đem mấy nghìn người còn sót chạy vào biển, đánh nước Mã Hàn, phá được, tự lập làm vua ở nước Hàn. Dòng dõi của Chuẩn diệt dứt, người Mã Hàn lại tự lập làm Thần Vương. Năm Kiến Vũ thứ hai mươi, người Hàn ở thuộc ấp Liêm Tư là bọn Tô Mã Thị đến Lạc Lãng dâng cống. Vua Quang Vũ phong Tô Mã Thị làm chúa ấp Liêm Tư, sai thuộc vào quận Lạc Lãng, bốn mùa chầu cống. Cuối thời Linh Đế, người Hàn-Uế đều mạnh, quận huyện không ngăn được, trăm họ khổ loạn, phần nhiều bỏ chạy vào nước Hàn.

Ở phía tây của nước Mã Hàn, trên đảo biển có nước Châu Hồ. Người nước này nhỏ bé, cắt tóc, áo không ra áo, có trên không có dưới. Nuôi bò, heo giỏi. Cưỡi thuyền qua lại mua bán ở giữa nước Hàn.

Người Oa ở giữa biển lớn phía đông nam của nước Hàn, dựa vào đảo núi mà ở, cả thảy có hơn trăm nước. Từ thời Hán Vũ Đế diệt nước Triều Tiên, sứ giả đến qua lại với Hán có đến hơn ba mươi nước, mỗi nước đều xưng vương, nối nhau truyền nước. Vua Oa trú ở thành Tà Mã Đài. Ngoài quận Lạc Lãng, đi nước này khoảng một vạn hai nghìn dặm, cách phía tây bắc nước ấy là nước Câu Tà Hàn hơn bảy nghìn dặm. Nước đại khái ở phía đông của huyện Đông Dã quận Cối Kê, gần với các quận Chu Nhai-Đam Nhĩ, cho nên hình pháp, phong tục phần nhiều giống nhau. Đất hợp với lúa nước, cây gai, cây dâu tằm, biết buộc sợi làm vải. Xuất ngọc trai trắng, ngọc xanh. Núi ở đây có đất đỏ. Khí hậu ôn hòa, mùa đông mùa hạ rau cỏ sinh sôi. Không có bò, ngựa, hổ, báo, dê, chim khách. Binh khí có mâu, thuẫn, cung gỗ, tên tre, hoặc lấy xương làm đầu của mũi tên. Đàn ông đều xăm mặt vẽ mình, dựa vào hình xăm ở tay trái tay phải lớn hay bé để phân biệt trên dưới. Quần áo của đàn ông ở đây đều buộc khăn ngang liền nhau. Đàn bà trùm tóc trên đầu, áo giống chăn đơn, quấn trên đầu mà đội; đều lấy đất đỏ bôi lên người, giống người Trung Quốc bôi phấn vậy. Có rào lũy, nhà ở, cha mẹ, anh em ở riêng, riêng lúc hội họp thì không phân biệt trai gái. Ăn uống dùng tay, nhưng dùng bát, mâm. Tục đều đi chân trần, ngồi xổm cho là cung kính, tính người thích rượu. Phần nhiều người già sống lâu, rất nhiều người hơn trăm tuổi. Nước này có nhiều con gái, người quyền quý đều có đến bốn đến năm vợ, còn lại hoặc hai hoặc ba vợ. Đàn bà không dâm không ghen. Lại nữa tục không trộm cướp, ít khi tranh cãi. Người phạm pháp thì tịch thu vợ con người đó, nếu tội nặng thì giết cả nhà. Người chết để tang hơn mười ngày, người nhà khóc lóc, không uống rượu, người trong nhà lại múa hát bày nhạc. Đốt xương để bói, dùng để đoán tốt xấu. Nếu có vượt biển, sai một người không tắm gội, không ăn thịt, không ở gần đàn bà, gọi là 'trì suy'. Nếu trên đường thuận lợi, thì ban cho tài vật; còn bệnh tật gặp hại, cho là trừ xấu không tốt, liền giết đi.

Năm Kiến Vũ Trung Nguyên thứ hai, người Oa Nô đến chầu cống chúc mừng, sứ giả tự xưng là 'Đại phu', nước này ở phía nam của nước Oa vậy. Vua Quang Vũ ban cho ấn thao. Năm Vĩnh Sơ thứ nhất thời An Đế, vua Oa là Súy Thăng dâng một trăm sáu mươi người, xin vào gặp.

Giữa thời Hoàn-Linh, nước Oa loạn lớn, rồi đánh đá lẫn nhau, nhiều năm không có chủ. Có một người con gái tên là Ti Di Hô, lớn lên không lấy chồng, thờ đạo quỷ thần, có thể làm dân chúng mê hoặc, do đó cùng lập làm vua. Có nghìn hầu gái, ít có người thấy, chỉ có một người con trai trao đồ ăn uống, truyền lời nói. Trú ở cung điện lầu quán rào thành, đều có quân bảo vệ. Hình pháp nghiêm ngặt.

Từ phía đông của nước Nữ Vương vượt biển hơn nghìn dặm, đến nước Câu Nô, dẫu đều là người Oa, nhưg không thuộc Nữ Vương. Từ phía nam của nước Nữ Vương đi hơn bốn trăm dặm, đến nước Chu Nho, người cao ba bốn thước. Từ phía đông nam của Chu Nho đi thuyền một năm, đến các nước Khỏa-Hắc Xỉ, sứ giả nói rằng ở đó là tận cùng rồi.

Ngoài biển quận Cối Kê có người Đông Đề, chia làm hơn hai mươi nước. Lại có Di Châu và Thiền Châu. Người ta truyền lại là Tần Thủy Hoàng sai phương sĩ là Từ Phúc đem mấy nghìn trai gái trẻ vào biển, tìm thần tiên ở núi Bồng Lai nhưng không được, Từ Phúc sợ bị phạt nên không dám về, bèn dừng ở đấy, nhiều đời nối nhau, có mấy vạn nhà. Người dân hay đến quận Cối Kê mua bán. Người ở huyện Đông Dã quận Cối Kê cũng có nguời đi biển gặp gió, trôi dạt đến Thiền Châu. Chỗ này xa xăm, không thể qua lại.

[Lâm Hải thủy thổ chí của Thẩm Oánh chép: "Di Châu tại phía đông nam của quận Lâm Hải, cách quận hai nghìn dặm. Đất đai không có sương tuyết, cây cỏ không chết. Bốn bề là hang núi. Người dân cắt tóc, xâu tai, đàn bà không xâu tai. Đất đai màu mỡ, có mọc ngũ cốc, lại nhiều thịt cá. Có chó, đuôi ngắn như hình đuôi con quân (một loài thú giống con hươu nhưng nhỏ hơn, không có sừng). Người Di ở đây từ nam nữ cô cậu cùng nằm nghỉ trên một cái giường lớn, đại khái không tránh né lẫn nhau. Đất có đồng, sắt. Nhưng dùng sừng hươu làm mâu để chiến đấu, cọ mài đá xanh để làm đầu mũi tên. Lấy thịt cá sống chứa lẫn vào trong cái vò lớn, cho muối mặn vào. Ngày qua tháng lại mới ăn uống nó, cho là món ngon".]

Luận rằng: Ngày xưa Cơ Tử gặp buổi nhà Ân suy yếu, lánh đến đất Triều Tiên. Lúc đầu nước này chưa có tiếng tăm gì, đến lúc đặt ra tám điều, khiến cho dân phép cấm, do đó ấp xóm không có dâm dật, buổi đêm không cần đóng cửa, sửa tục ngỗ ngược thì dùng hình pháp khoan hòa, làm được mấy trăm năm, cho nên người Đông Di có tính ôn hòa làm tục, khác với người ở ba phương khác. Nếu chính chính sự thông suốt, thì đạo nghĩa còn vậy. Trọng Ni nhớ mong, cho là đất Cửu Di có thể ở. Có người ngờ rằng chỗ ấy thô lậu, ngài bảo rằng: "Người quân tử ở, sao hiềm thô lậu"! Học trò cũng như thế. Sau đó qua lại buôn bán, dần dần giao lưu với nước trên (tức Trung Quốc). Rồi người Yên là Vệ Mãn quấy rối phong tục ở đất này, do đó mà mỏng bạc vậy. Lão Tử chép: "Pháp lệnh thêm nhiều, giặc cướp thêm nhiều". Nếu Cơ Tử giảm bớt văn điều mà dùng tín nghĩa thì có được gốc hình pháp của bậc thánh hiền rồi!

Tán nói: "Đây là Ngung Di, gọi là Dương cốc. Kề núi gần biển, chín chủng ở đấy. Cuối Tần loạn lạc, người Yên tránh nạn (chỉ Vệ Mãn). Thêm ít tục Hoa, rồi có người Hán. Ở chỗ xa xôi, lúc theo lúc phản".

Bác LanMien và Minhxuan nếu dịch bản Tây Di liệt truyện, Nam man liệt truyện? có thể có nhiều thông tin quan trọng. Hiện nay bản dịch Sử ký Tư Mã Thiên không đầy đủ, chưa kể còn nhiều chương sách khác.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thơ tâm linh (trích đoạn):

3 lần phép trời đã trao bằng nguyên lý:

1-Thần Kim Quy trao nỏ thần An Dương Vương

2-Thần Kim Quy trao kiếm thần cho Lê Lợi

3-Trao phép Phật

Sầm ký - Sấm trạng

-Thiên địa tuần hoàn âm phục dương

-Tứ phương cộng khởi tứ phương cường

-Tây phương cảnh giới Tây phương Chủ

-Nam quốc sơn hà - Nam quốc vương

***Vốn ta đây là hoàng thiên tử

Vốn con trời giá ngự trần gian

Làm vua ba cõi lọc sàng

Cõi trời, cõi đất, lại là cõi âm

Thương lắm tình ta mẫu Âu cơ

...Linh châu - hóa phật - cát linh từ

...Địa khởi nhân từ vạn thọ sinh

...Âu sinh tái lập - Vô nguyên cổ Phật

...Chúa-bạch-ngàn, hoa vạn thọ xưa

1-Tản Viên Sơn

2-Chử đồng Tử

3-Thánh Gióng

4-Bà chúa Liễu Hạnh (Tứ tử trình làng)

*Tứ bất tử - Chử Đồng Tử - Ngũ tử cướp cái

Thầy với tướng (âm -dương ) cách biệt

Tìm một nữ chuyên viên thật tuyệt

Trạng A Nam một kỷ mốc sơn

Giữ cột thiên chọn (Nguyễn Thị Điền)

Kỷ 21 toàn dân hiền hướng thiện.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lịch sử Hoa tây - sự lừa gạt siêu đẳng

Dòng Hùng Việt

Lời hào Cửu tam quẻ Ký tế:

Cửu tam, Cao Tông phạt Quỷ Phương, tam niên khắc chi; Tiểu nhân vật dụng.Vua Cao Tông nhà Ân đánh nước Quỷ Phương, liên tục 3 năm mới thắng; kẻ tiểu nhân không thể coi thường tùy tiện sử dụng. Khổng Dĩnh Đạt giảng: “Cao Tông là hiệu của vua Vũ Đinh nhà Ân”, ‘quỷ phương’ là tên nước, là một trong các bộ lạc Hiểm Doãn ở vùng Tây Bắc TQ cổ đại. Đặng Cầu Bá cho biết thêm là Quỷ Phương là tên một bộ tộc thời cổ (cổ tộc danh), vào thời Ân Chu sinh hoạt ở khu vực tây bắc Thiểm Tây ngày nay, là cường địch của cả Ân lẫn Chu.

Hiểm Doãn thời Châu chính là Hung Nô thời Tần .

Theo Trúc Thư Kỷ Niên, Ân Cao Tôn ‘Tam thập nhị niên, phạt Quỷ Phương, thứ vu Kinh’ (Năm 32, đánh Quỷ Phương, đóng quân tại đất Kinh). – Theo Hạ Thương Chu niên biểu, năm Ân Cao Tôn 32 là 1218 ttl.

Posted Image

Địa lý Tây Trung quốc …bị dồn toa lên phía bắc .

Nhà Ân Thương trung tâm ở Hà nam Trung quốc đi đánh Hiểm Doãn (Hung nô) tận Tây Bắc Thiểm tây Trung quốc ngày nay mà lại đi vòng xuống nam đóng quân ở đất Kinh nay là Hồ Nam – Hồ Bắc thì qủa thực không hiểu nổi …???

Cao tông nhà Ân thương trên đường hành quân phạt qủy phương mà đóng quân trên đất Kinh thì nước Qủy phương chỉ có thể ở Tứ xuyên ngày nay.

Trong Dịch học Qủy ở phương Tây đối với Thần ở phương đông .

Qủy cũng là Cửu số 9 phương Tây theo Hà thư (đồ).

Posted Image

Nước Qủy phương cũng là nước Cửu phương nghĩa là nước nằm về phía Tây lãnh thổ nhà Ân Thương .

Việc xác định nước Qủy phương lãnh thổ ở Tứ xuyên được củng cố thêm bởi truyền thuyết :

Hùng Dịch được phong làm vương nước Sở là dòng dõi vua Xuyên Húc , Xuyên Húc là bố Hoan Đâu mà Hoan Đâu là tổ người Tam Miêu như thế rất có thể dân đa số nước Sở là người Hmong- Miêu lai với tộc người Qủy phương . Truyền thuyết viết Trong giòng họ có một người tên Lục Chung. Lục Chung cưới con gái nước Quỷ Phương, vợ Lục Chung có thai mười một (11) tháng rồi giở nách bên tả sinh 3 người con, giở nách bên phải sinh 3 người con! Người thứ 6 tên là Quý Liên họ Mỵ . Quý Liên có một người con tên Dục Hùng. Dục Hùng lấy tên làm họ. Từ đó con cháu đều lấy tên Hùng làm họ. Hùng Dịch vua khai sinh ra nước Sở là cháu chắt Dục Hùng rõ ràng lai 2 dòng máu …

Truyện Lục Chung cưới con gái nước Quỷ Phương làm ta chú ý vì Nước Quỷ Phương được nhắc đến khi Ân Cao Tông “phạt Quỷ Phương tam niên” có đóng quân trên đất Kinh , Kinh Sở có liền với Qủy phương thì Cao tông mới từ đấy mà công kích Qủy phương cũng như Lục Chung cưới người con gái nước Qủy phương láng giềng là điều thật hợp lẽ .

Chỉ có vùng Tứ xuyên với nền văn minh Kim sa rực rỡ giàu có từ 2000 năm trước công nguyên mới có thể khiến Cao tông nhà Ân thương khổ cực suốt 3 năm trời mà chiếm lấy , công đầu trong việc phạt Qủy phương chiếm lấy Kim sa thuộc về anh em Vương Qúy bố của Cơ xương – Văn vương (Kinh Dịch viết 1 ngày vua mời hội kiến đến 3 lần).

Tại sao giới sử học Trung quốc cố ý đẩy nước Qủy phương về hướng bắc và cho người nước Qủy phương thuộc dòng giống Hung nô- Mông cổ ?. Sở dĩ như thế vì Chỉ khi đẩy nước Qủy phương lên vùng tây – bắc Thiểm tây thì cái nôi của vương triều nhà Châu là Thiểm tây ngày nay mới hợp lý và về mặt chủng tộc người cổ Trung hoa mới có thể thuộc về nhánh Mongoloid (bắc) như họ đã Khẳng định .

Cửu phương nước ở phương số 9 tức phương Tây của Hà thư , số 9 – Chín cũng chính là Chin – Tần gốc của tên nước China âm theo La tinh ngày nay .

Nước Tần không thể ở Thiểm tây được vì tư liệu lịch sử còn ghi rành rành , khi chiếm xong Trung hoa của thiên tử Châu Tần lấy 9 cái đỉnh truyền quốc Trung hoa mang về kinh đô Tần nhưng bị chìm mất trên sông Tứ thủy gần Bành thành nên từ đó Đỉnh truyền quốc của đế vương Trung hoa mất tích mất tăm …, Tần thủy hoàng trong cuộc tuần du thiên hạ đã cố công tìm kiếm ,tư liệu lịch sử chép :

…Thời điểm dừng lại tại Bành thành gần 30 ngày , (Tần thủy hoàng) khi đó lần lượt gặp mặt quận thủ 3 quận Tứ thủy quận , Đông hải quận , Lang gia quận .

Cuối tháng 6 từ Tam Xuyên quận rộng lớn trưng tập mười vạn hộ bách tính di cư tới 2 quận Lang gia và Đông hải .

Đầu tháng 7 lại điều động mười vạn người , nói là muốn tìm kiếm Ung đỉnh trước kia bị thất lạc trong qúa trình vận chuyển từ Chu thất tới Lưu quang , Đương nhiên cuối cùng Ung đỉnh cũng không tìm được , còn về phần Thủy hoàng đế vì sao làm chuyện này thì không ai biết .

Trung tuần tháng 7 trong tình huống Thủy hoàng đế tìm kiếm ung đỉnh không có kết qủa , đã quyết định quay lại Hàm dương …

Học gỉa Trung quốc cho : Thanh Thủy tức Tứ Thủy, nay chảy dài từ Hoài Âm – Giang tô về phía tây bắc đổ vào sông Hoài …

Xem lại bản đổ Trung quốc ở trên …

Tần vận chuyển 9 đỉnh từ Hà nam về Thiểm tây sao lại chìm ở Tứ thủy – Giang tô thuộc Đông –Nam trung quốc ?.

Tứ thủy – sông Tứ tức Tây giang hay Châu giang ngày nay còn sờ sờ trên bản đồ Trung hoa sao lại phủ nhận mà cho Tứ thủy là Thanh thủy ở Giang tô ?.

Cũng dẫn từ đọan tư liệu trên …có thể xác định Tứ thuỷ gần Tứ thủy quận , Đông hải quận lang gia quận và cả quận Tam xuyên rộng lớn …

Xét về ý nghĩa tên gọi thì Tứ thủy – sông tứ cũng là Tây giang – Châu giang , Đông hải là Biển đông như vậy các quận này không thể ở đâu khác ngoài Lưu vực Châu giang và biển Đông , Đông hải và Thanh hải là 1 và chính là Thanh hải quân đời Đường , Đông hải quận sau là Thanh hải quân thì Tam xuyên quận đời Đường là Tĩnh hải quân là điều hoàn toàn hợp lý .

Đông đô nhà Châu tức đại ấp Lạc còn gọi là Lạc Dương – Lạc Kinh nằm trên đất Lạc Việt cũng là điều hợp lý khi xét về mặt từ ngữ và chỉ có như thế thì Tần mới dùng thủy lộ Tứ thủy – Châu giang mà vận chuyển Cửu đỉnh về kinh đô ‘Tần – 9 Chín’ ở Tứ xuyên còn việc cửu đỉnh có chìm xuống đáy sông Tây giang hay chịu chung số phận với trống đồng bị nấu chảy lấy đồng đúc ngựa (tức diệt chủng Trung hoa về mặt văn hóa của vua tôi Quang vũ – Mã Viện) còn là 1 dấu hỏi lớn . Hãn quốc cướp nước của người Trung hoa đâu cần gì cửu đỉnh truyền ngôi .

Việc cố ý dịch chuyển địa lý Tây Trung hoa lên phía Bắc không chỉ ở việc di dời lãnh thổ nước Qủy phương và nước Tần từ Tứ Xuyên lên Thiểm tây mà còn nhận thấy ở nhiều sự kiện khác có tính liên hoàn như việc dồn toa tàu hoả vậy , đất Thục ở Qúy châu bị đẩy lên Tứ xuyên , Ích châu còn bằng chứng là quận Ích châu đời Tây Hán (?) ở Vân nam cũng bị dời lên Tứ xuyên , Nhiều Sự kiện liên quan tới thời lập quốc của Tây Thục diễn ra ở Vân nam – Quảng Tây bị đổi thành diễn ra ở Tứ xuyên , việc Khổng minh 7 lần bắt rồi tha Mạnh Hoạch ở Tây bắc Việt nam lại cho là ở Vân nam và đặc biệt Nam Chiếu lập quốc ở phía tây ‘Nhị hà – Nhĩ hà’ tức sông Hồng bị nhà viết sử Trung quốc biến thành phía tây hồ ‘Nhĩ Hải’ ở Vân nam .

Suy cho cùng việc làm này không chỉ là vì tự ái dân tộc chơi chơi mà thực ra là sự sống còn đối với Hãn tộc , Hãn nhân ; Nhà Châu ngàn năm làm vua là triều đại tạo thành nền nếp của văn hóa văn minh Trung hoa , nhà Tần triều đại đã tạo ra diện mạo Trung hoa ngày nay buộc phải ở Thiểm tây Hà nam thì mới có thể ràng buộc vào chủng Mongoloid , tức chủng tộc của Hung nô mà giới khảo cổ đã tìm thấy xương cốt sọ răng ở miền Hoàng hà thời cổ xưa ở thời điểm hình thành Trung hoa theo tư liệu lịch sử thành văn cũng như truyền thuyết dân gian ; Chỉ khi mà hầu hết người Trung hoa tin mình có gốc gác như thế thì ngai vàng của các Hãn mới có thể giữ được .Ở tây nam Trung hoa phải cắt đứt mọi ràng buộc lịch sử với đám dân ngoài biên giới đế quốc Mãn thanh thì người bên trong mới yên tâm phụng thờ đại hãn quốc không chút vương vấn đến 1 cội nguồn khác , 1 lịch sử và tổ quốc khác tức triệt tiêu tư tưởng phản kháng bọn thống trị cướp nước ngay từ bên trong đầu óc người Trung hoa . Thành thực mà nói họ đã rất thành công người Trung hoa Mongoloid phương nam tới nay vẫn thản nhiên …mồ cha không khóc khóc đống mối , người ngoài ranh giới Đại hãn quốc cũng cảm thấy không có sự ràng buộc thiêng liêng với bất cứ miền đất nào đó bên trong đế quốc Mãn thanh để hành động đòi lại đất đã mất .

Giấy không gói được lửa , khi sự thật lịch sử phơi bày …không thể nói trước những gì sẽ xảy ra .

Thời giặc Ân đánh nước ta tức Văn Lang, ranh giới phân chia là dòng Dương Tử. Cuộc chiến đã tới kinh đô - Thăng Long ngày nay cùng với truyền thuyết Thánh Gióng -> vậy thì, ngoài Thánh Gióng ra, trên đất nước ta còn lưu trữ lại dữ liệu của các anh hùng khác trong trận chiến này hay không, nếu có đó phải là sự thật lịch sử.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thông Điệp từ Tổng Lãnh sự Thiên Thần Gabriel (tham khảo)

(Hùng Vương VII - Lang Liêu)

"Mở cửa trái tim của bạn với Năng lượng của tình yêu. Mặc dù điều này nghe có vẻ phản trực giác trong thời gian của sự hỗn loạn, nơi áp dụng một tư thế an toàn phòng thủ có vẻ hợp lý hơn, chúng ta nói với bạn bây giờ mà Trái tim là nơi duy nhất thực sự an toàn để được tập trung vào đó . Ở đây tất cả khả năng có thể mở ra. Ở đây tất cả sức mạnh của bạn tồn tại! Đây là điểm nghỉ ngơi ... và đổi mới nơi người ta có thể chứng kiến ​​người Maya và ảo giác xung quanh mình. Nó sẽ cung cấp cho bạn quan điểm và hòa tan bất kỳ sự áp đảo nào bạn có thể cảm nhận. này không phải là để nói rằng bạn không có hành động. Chúng tôi chỉ đơn giản là đề nghị bạn hãy hành động từ bên trong một ý thức tập trung vào trái tim. Điều này sẽ đảm bảo rằng những suy nghĩ của bạn, lời nói và mọi việc được truyền và hướng dẫn của tình yêu, giúp hòa tan tính nhị nguyên trong chính bạn và trong thế giới của bạn. khi bạn đi qua cuộc sống, luôn luôn nhớ cảm giác hòa bình, an toàn và thống nhất - một sự lựa chọn. "

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đất đai nhà Tần phía nam đến miền "cửa nhà quay mặt về hướng bắc"? Posted by: Dong Yi (113.23.11.---) Date: October 01, 2013 09:10AM Sử kí - Tần Thủy Hoàng bản kí có đoạn chép:

地東至海曁朝鮮,西至臨洮、羌中,南至北嚮戶

(Năm thứ hai mươi mưoi sáu - 221 TCN) Đất đai (của nhà Tần) chạy dài phía đông đến biển và đất Triều Tiên, phía tây đến Lâm Thao, Khương Trung, phía nam đến miền cửa nhà quay mặt quay mặt về hướng bắc. (*)

(*) Theo bản dịch Sử kí của Phan Ngọc kèm chú thích là "Tức là Nhật Nam (miền Quảng Nam). Ý nói miền phía nam mặt trời cố nhiên phải mở cửa về phía bắc mới có mặt trời".

【集解】吳都賦曰:「開北戶以向日。」劉逵曰:「日南之北戶,猶日北之南戶也。」

Bùi Nhân tập giải dẫn từ sách Ngô đô phú chép: "Mở cửa hướng bắc để hướng về mặt trời". Lại dẫn từ lời Lưu Qùy nói: "Ở phía nam mặt trời thì mở cửa quay mặt về hướng bắc, tựa như ở phía bắc mặt trời thì mở cửa quay mặt về hướng nam".

Lại theo Nhan Sư Cổ chú giải quận Nhật Nam trong Hán thư - Địa lí chí rằng:

師古曰:「言其在日之南,所謂開北戶以向日者。」

Sư Cổ nói: "Nói là phía nam của mặt trời, cho nên nói là mởi cửa về hướng bắc để hướng về mặt trời".

Lịch Đạo Nguyên trong Thủy kinh chú có dẫn Lâm Ấp kí chép:

區粟建八尺表,日影度南八寸,自此影以南,在日之南,故以名郡

Theo bài viết "Dùng thiên văn kiến giải các thuật ngữ Nam Giao, Giao Chỉ, Tượng Quận, Cửu Chân, Nhật Nam" của Trương Thái Du cũng dẫn tương tự:

Quận Nhật Nam tiếp nối Cửu Chân, vậy Nhật Nam có phải tương đương với Bán Cầu Nam trong thiên văn?

Nhật Nam nghĩa là phía nam mặt trời. Sử ký viết: … 南至北乡户 (Nam chí bắc hương hộ). Tạm dịch: “(Đất đai nước Tần)… phía nam đến miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc”. (集解吴都赋曰:“开北户以向日”): Sách tập giải Ngô Đô Phú chú: “Khai bắc hộ dĩ hướng nhật – Mở cửa hướng bắc để đón ánh mặt trời." (刘逵曰:“日南之北户,犹日北之南户也”). Lưu Quỳ chú: "Nhật nam chi bắc hộ , do nhật bắc chi nam hộ dã - Phía nam mặt trời thì làm cửa quay mặt về hướng bắc, cũng như phía bắc mặt trời thì cửa nhà quay mặt về hướng nam vậy”.

Tư Mã Thiên viết câu trên chứng tỏ ngành thiên văn biết vậy nhưng sự thực người Trung Quốc chưa bao giờ đặt chân đến vùng Nhật Nam. Nghĩa Nhật Nam với triều Tây Hán là khu vực nằm dưới Nam chí tuyến (vĩ độ 23 độ 27 phút), đi qua thành phố Rockhamton Bang Queensland Australia. Trong khi đó Nam Bán Cầu phải được tính từ vĩ độ 0 độ, từ mép phía nam của eo Malacca trở xuống.

Xin lưu í, phần lớn đất nước Trung Quốc ở trên Bắc Chí Tuyến (vĩ độ 23 độ 27 phút, ngang qua thành phố Quảng Châu), do đó mặt trời với họ luôn ở về phía nam, mọc phương đông nam và lặn phương tây nam. Rõ nhất trong ngày Đông Chí đêm dài ngày ngắn, mặt trời lẩn quẩn hẳn về phía nam. Vì vậy khi tế trời (cúng mặt trời) thiên tử - con trời phải quay mặt về phương nam. Có lẽ muộn nhất là thời Tần, người Trung Quốc đã chế tạo được Hỗn Nghi, một bộ máy đo đạc thiên văn khá đơn giản nhưng thể hiện đầy đủ vòng tròn xích đạo, hoàng đạo (quĩ đạo biểu kiến của mặt trời trên thiên cầu). Về cơ bản đường xích đạo trên Hỗn Nghi và đường xích đạo của con người thế kỉ 21 tương đồng về bản chất.

________________________

Miền "cửa nhà quay mặt về hướng bắc" trong thực tế là quận Nhật Nam thời nhà Hán sau này, tương đương với miền Quảng Nam ở miền trung Việt Nam ngày nay. Nhưng thực tế đất đai nhà Tần đến đấy không? Để trả lời ta hãy xem ngữ cảnh của từ "cửa nhà quay mặt về hướng bắc".

"Cửa nhà quay mặt về hướng bắc" - 北嚮戶 - bắc hướng hộ, câu này Tư Mã Thiên dùng thực ra là từ 北戶 - bắc hộ có từ trước đó. Trong 瑯邪臺刻石 - Lang Da đài khắc thạch.

Lang Da đài khắc thạch là bia đá có khắc chữ tiểu triện. Năm thứ hai mươi tám (năm 219 TCN), Thủy Hoàng nhà Tần đi tuần thú miền đông, đến núi Lang Da (tỉnh Sơn Đông ngày nay), sai Thừa tướng là Lí Tư khắc bia đá này để ca tụng công đức, lời văn có phóng đại. Trong đó đoạn văn như sau:

六合之內,皇帝之土。西涉流沙,南盡北戶。東有東海,北過大夏。人跡所至,無不臣者。

Lục hợp chi nội, hoàng đế chi thổ. Tây thiệp Lưu Sa, nam tận bắc hộ. Đông hữu đông hải, bắc quá Đại Hạ. Nhân tích sở chí, vô bất thần giả.

Ở trong sáu cõi đều là đất của hoàng đế. Phía tây vượt bãi cát Lưu Sa, phía nam đến tận miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc. Phía đông có biển đông, phía bắc qua đất Đại Hạ. Nơi nào có vết chân người đi đến, không nơi nào là không thần phục.

Như vậy rõ ràng "bắc hộ" 北戶 "miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc" là một từ chỉ chung cho vùng đất ở phía nam mặt trời, nơi này nhà Tần chưa chắc đã áp đặt được sự thống trị của mình được. Có thể là bấy giờ danh tiếng nhà Tần đã truyền khắc bốn biển, những nước ở "miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc" nghe tiếng tăm mà đến quan hệ mà thôi, cho nên mới nói "nơi nào có vết chân người đi đến, không nơi nào là không thần phục".

Vả lại năm thứ hai mươi tám (năm 219 TCN), nhà Tấn mới chỉ thống nhất được Trung Nguyên, phía nam tận cùng là nước Sở cũ, lấy dãy núi Ngũ Lĩnh làm ranh giới, nơi này không phải là nơi ở phía nam mặt trời. Sau đó đến năm thứ ba mươi ba (năm 214 TCN) nhà Tấn đánh lấy đất Dương Việt ở phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh đặt ra ba quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng, cũng chỉ đến khoảng bắc chí tuyến 23, nơi này mặt trời vẫn ở phía nam.

KẾT LUẬN:

Đất đai nhà Tần phía nam thực tế chưa đến miền "cửa nhà quay mặt về hướng bắc". Chỉ là "ảo vọng" về sự lớn mạnh của nhà Tần trong bia khắc đá ở núi Lang Da của Lí Tư, đến đời Hán thì Tư Mã Thiên lấy từ ấy mà chép vào Sử kí, đó là "nơi nào có vết chân người đi đến, không nơi nào là không thần phục", trong đó có miền "cửa nhà quay mặt về hướng bắc"!

Đông Dã, ngày 01/10/2013

Sử ký Tư Mã Thiên rất quan trọng, nhưng phải đối chiếu với các nguồn khác, ông cũng bị nhà Hán bắt viết theo ý đồ có lợi cho họ nhưng có nhiều cách viết sử uyển chuyển mà vẫn đúng thực tế, chẳng hạn "truyền thuyết" là sự thực được mã hóa, ẩn dụ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

SỰ THẬT VỀ THÁNH VẬT SÔNG TÔ LỊCH

Nhật Nguyệt Quang Tử

Hồi đó báo chí đăng ầm ĩ về hiện tượng “Sông Tô Lịch”, học trò cũng chụp tài liệu về cho mình xem, nhưng rồi bận quá chưa kịp quan tâm đến. Hôm 21/4/2007 (5/3/ĐH) có mấy học trò từ Thái Bình lên, họ trách mình : Bao nhiêu người chết mà Thầy cứ ngồi im ở nhà chẳng thấy Thầy làm gì.

- Thôi được rồi, tối nay chúng ta sẽ xem nó thế nào.

Buổi tối, vía mấy thầy trò ra hiện trường, mình mời Thái Thượng Lão Quân cụ về ngay, Nguyệt Quang Tử nói:

- Xin TháiThượng xem giúp con đây là trận gì, vừa rồi cái trận này làm chết một số người đấy.

Cụ đi vòng quanh trận rất lâu mà không thấy nói gì. Lúc đó nhìn vào cửa trận thấy nó như một cái giếng sâu hun hút, hình như không có đáy. Trong cả vùng trận ấy có nhiều hình thù kì quái và rất dữ tợn.Chờ lâu mình sốt ruột liền hỏi : “Thái Thượng đã biết trận này là trận gì chưa ?”.

Cụ trả lời : “Ta cũng chưa biết !”

- Đến Thái Thượng cũng chưa biết thì ai có thể biết được ?

Cụ không nói gì dáng vẻ trầm ngâm

Một lúc sau NQT hỏi tiếp :

-TTLQ có biết trận này được đặt ở đây từ bao giờ không ?

- Điều này thì ta biết, trận này được đặt ở đây từ thời nhà Lý.

- Nếu thế thì con sẽ hỏi được : “Xin mời Quốc sư Vạn Hạnh.”

Quốc sư về ngay, NQT kể lại những diễn biến xung quanh trận này trong thời gian qua để cụ nghe, rồi NQT hỏi tiếp :

-TTLQ cho con biết trận này được lập từ thời nhà Lý, như vậy theo Quốc Sư có đúng không ?

Quốc Sư nói :

- Đúng là như vậy, nó do một pháp sư cao cấp của Việt Nam lập.

NQT hỏi : “ Con có được biết tên người ấy không ?” Cụ trả lời :

- Đó là pháp sư Lý Đạo Hành.

- Nếu con muốn mời pháp sư Lý Đạo Hành về thì có được không ? Cụ nói :

- Con cứ mời đi.

NQT nói ngay: “Xin mời pháp sư Lý Đạo Hành”.

Một cụ già đầu tóc bạc phơ chống gậy đi về .

- Con chào cụ, thưa cụ con được biết cụ đã lập trận này, liệu con có được phép biết tên trận không ?

- Tên trận này là : Bát Thiên Y Nhất Trận.

- Thưa cụ : có phải cụ lập trận này là để bảo vệ thành Thăng Long không ?

- Đúng như thế đấy.

- Con chẳng biết nó bảo vệ thế nào, nhưng vừa rồi làm chết mấy người làm bị ốm một số nữa. NQT nói vậy mà cả ba cụ đứng nhìn nhau không ai nói gì.

Quả thật khi nghe tin một số người bị chết, nhiều gia đình bị thiệt hại mình thấy bức xúc nên nói liều :

- Các cụ đặt trận để bảo vệ Kinh thành mà lại làm dân chết !

Cụ Lý Đạo Hành nói :

- Đấy là do người trần tục không biết mà tấn công vào trận, cũng may là mới đụng vào đội bảo vệ vòng ngoài chứ đánh vào trong trận thì thảm họa sẽ xảy ra !...

- Thưa cụ để đi vào thành Thăng Long bây giờ thì có nhiều đường đi lắm, kể cả nó không đi bộ mà bay ở trên không thì trận này có giá trị gì ? Trường hợp không may bom ném trúng, trận vỡ thảm họa xảy ra thì làm sao ?

- Đấy là ta nói thế thôi, mọi việc đã được tính cả rồi, bom có ném trúng cũng không việc gì đâu.

- Thưa cụ thế vì sao vừa qua lại chết người ?

- Người trần tục tấn công vào thì đội bảo vệ vòng ngoài họ phản ứng như vậy thôi, vì họ là lính thì họ chỉ biết làm theo lệnh .

- Thưa cụ! Cụ đã lập trận để bảo vệ dân, thì cũng phải tính đến mọi khả năng chứ, việc chết người đã làm tất cả hoảng loạn lên !

- Trong việc này ta cũng có lỗi nhận thông tin không kịp thời, nhưng đây cũng là bài học để người trần tục lưu ý, khi đụng vào những nơi Địa linh cũng nên thận trọng mà đừng vội vàngTừ lâu nay người trần tục vẫn tự cho rằng họ là những người quyết định tất cả!.

- Theo con như thế vẫn chưa được !

Các cụ nhìn nhau cười rồi nói với mình :

- Ý con là định bỏ cái trận này đi có phải không ?

- Vâng đúng là con muốn như thế .

Các cụ suy nghĩ một lát rồi nói :

- Thôi được chúng ta sẽ đưa nó đi.

Sau khi làm xong việc này, học trò hỏi mình ngay : Thầy ơi, báo chí họ nói nhiều ông thầy đến tận nơi xem, họ bảo đây là trận Bát quái sao bây giờ lại là trận khác ?

- Liệu có ai biết rõ tên trận bằng người đặt trận không ? Họ nhìn thấy 8 cái cọc thì họ bảo nó là bát quái nhưng thực ra ở trong không gian thì có nhiều BÁT lắm. Thí dụ : Trong đạo Phật có “ Bát đại Bồ tát ”, “ Bát đại Kim cương”... Trong đạo Thiên chúa có “ Bát đại Thiên sứ”... Trong đạo Tiên có “ Bát đại Thiên vương”, “ Bát Thiên vương”, “Bát tiên”, “ Bát quái ” ... Ngoài ra còn “Bát lão đạo sĩ” là những người giúp việc cho Bát quái nữa và ngay ở Côn Sơn còn có đền thờ “Bát cổ” . Đến bây giờ thầy trò ta còn được biết thêm “ Bát thiên...” nữa.

- Thầy ơi, Quốc sư Vạn Hạnh là ai ? Làm sao Thầy quen được ?

- Quốc sư Van Hạnh là một ông sư đã có công nuôi dưỡng Vua Lý Công Uẩn và cụ là một trong những người đưa Lý Công Uẩn lên làm vua triều nhà Lý. Thầy biết Cụ vì Cụ là một trong bố người về trực tiếp là quân sư dạy Thầy từ những năm trước.

- Những người khác người ta nói trận này của Cao Biền yểm ở Việt Nam cơ mà ?

- Ngày xưa Tàu nó yểm trên đất mình rất nhiều, thí dụ : chúng phá Ngũ linh ở Côn Sơn, yểm bùa ở Hồ Hoàn kiếm, Hồ Tây, Hồ Thủ lệ, Hồ Công viên Thống nhất...Chùa Một cột, Chùa Quán Sứ... nhưng ở đây thì không phải.

- Ở những nơi khác đã giải được chưa ?

- Cũng mới giải được gần đây thôi.

- Bây giờ các cụ đưa trận này đi đâu hả Thầy ? Nếu bỏ trận này đi thì lấy gì để bảo vệ Thủ đô ?

- Ta tin là các cụ đã có chủ ý rồi, vừa rồi khi mới về thì các cụ làm như không quen biết nhau nhưng khi các cụ đi thì ta thấy các cụ đi cùng một đường. Hơn nữa trong không gian mọi việc đều được cập nhật tức thời, những người tu luyện cao họ đều nhận được những thông tin mà họ quan tâm trong cùng một thời điểm .

- Thầy kể chuyện giải bùa đi !

- Chuyện dài lắm, thầy chỉ kể một chuyện thôi nhé. Bùa yểm của chúng ở Hồ Hoàn Kiếm hết sức tinh vi và quả thực là rất dã man. Chúng dùng một tấm vải căng kín mặt hồ ( tất nhiên tấm vải này không phải ai cũng nhìn thấy), ở mép tấm vải chúng dùng cọc ghim chặt xuống đất, ở trên không là một đạo quân canh giữ.

- Chúng con tưởng bùa là phải chôn hoặc dán chứ, tại sao lại có bùa vải ?

- Linh khí ở hồ Hoàn Kiếm rất mạnh, bùa thường không thể yểm nổi, chỉ có những loại vải rất linh mới bịt được khí Hồ bốc lên thôi.

- Lúc giải phải làm thế nào hả Thầy ?

- Việc đầu tiên là phải đánh thắng được đội quân bảo vệ ở trên không của chúng, việc thứ hai là phải đồng loạt nhổ được tất cả các cọc ghim cùng một lúc. Khi nhổ xong cọc thì linh khí của Hồ đủ sức đẩy tấm vải bay lên, ngay lúc đó phải đốt được tấm vải này đi trong khi nó còn đang bay lơ lửng ở trên không, nếu không nó sẽ lại chụp xuống .

- Như thế là xong hả Thầy ?

- Chưa đâu, do bị yểm như vậy nên 5 mạch khí chảy vào Hồ đã bị bịt mất 3 rồi, phải khai thông được 3 mạch này và làm vệ sinh cho Hồ thì nguồn linh khí này mới trở lại bình thường được.

- Liệu chúng có biết mà yểm lại không ? Chúng có trả thù người phá bùa không ?

-- C ư ơ ì ...

……………………..

Sau khi các cụ nói : “ Chúng ta sẽ đưa trận này đi.”NQT cứ tưởng chuyện thế là xong.

Một hôm NQT đưa học trò lên Đền Hùng ở Phú Thọ khi vào đền thờ Mẫu Âu Cơ, vừa bước chân vào đến cửa chưa kịp thắp hương đã thấy cụ đi ra tươi cười nói : “Con ta đây, giọt máu của ta đây”, nói xong Cụ đưa cho NQT một bó tên.....NQT ngỡ ngàng không hiểu vì sao Mẫu lại nói câu đó ? Nếu chỉ là "con ta đây…" thì là điều bình thường vì đối với Mẫu thì ai chả là con, nhưng còn " giọt máu của ta đây " thì nghĩa là thế nào ?

Dâng hương xong cả đoàn đi xuống, rồi lại cùng leo lên đền Hạ. Phía ngoài Đền Hạ có treo một tấm biển "Nơi đây Mẫu Âu Cơ sinh ra một trăm quả trứng ". Bước chân qua cửa Đền thì NQT lại thấy Mẫu Âu Cơ đang ngồi ở đây, NQT hỏi : “Mẹ sinh con ra ở đây à ?”

- Thì ta chả nói rồi còn gì, con là giọt máu của ta.

NQT mừng lắm, thì ra trong một trăm quả trứng mà Mẫu đã sinh ra, có một quả đã " nở " cái người đang đưa học trò lên đây ngày hôm nay. NQT hỏi tiếp :

- Mẹ cho con bó tên này dùng để làm gì. Mẫu cười rồi nói :

- Đấy không phải là tên đâu, nó là chìa khóa mở trận đấy. Con đi lên đền Thượng, mọi người đang chờ con.

- Thưa Mẹ tại sao tên lại mở được trận ?

- Thôi con lên Đền Thượng đi, mọi người đang chờ con ở đấy. Ta đã nói với con nhiều hơn cả những gì mà Lạc Long Quân đã nói với con đấy.

NQT tiếp tục đi lên, khi qua Đền Trung chưa kịp làm lễ thì đã có người về giục " Phải lên Đền Thượng ngay ". Khi lên đến Đền Thượng thì thấy đã có năm người đang ngồi xung quanh một cái bàn lớn, NQT chưa kịp chào thì đã có người gọi vào ngay. Năm người ngồi ở đây chính là : Quốc Tổ Lạc Long Quân và bốn vị nữa, trong đó có Vua Hùng thứ nhất và ba người mà NQTchưa biết. Quốc Tổ nói: “ Bó tên của con đâu ?” NQT đưa bó tên ra, Cụ cầm lấy...NQT cũng vừa kịp nhận ra ở chính giữa bàn có một mô hình giống như cái lư hương. Cụ cầm bó tên rút từng cái cắm vào những cái lỗ ở xung quanh mô hình, khi mũi tên cuối cùng vừa cắm xong thì mô hình tự quay và cửa trận ( nắp cái mô hình - Lư hương ) cũng từ từ mở ra...NQT nhìn vào thấy nó giống y như những hình ảnh mà mình đã thấy ở...Sông TôLịch. Quốc Tổ dạy NQT cách mở trận và chỉ huy trận...Sau khi giảng xong, Quốc Tổ đóng cửa trận và trả lại cho NQT bó tên rồi Cụ nói :

- Bây giờ con hãy tự làm lấy xem nào.

NQT cũng lần lượt thao tác đúng như những gì vừa được học...Cửa trận lại mở ra một lần nữa, mọi người chất vấn NQT thêm mấy câu... và cuối cùng Quốc Tổ nói:

- Con giỏi lắm, đúng là không phụ công sức chúng ta dạy bảo. Từ ngày lập ra trận này nó chưa được xử dụng lần nào, chúng ta tin con sẽ biết dùng nó để bảo vệ non sông gấm vóc này. Con nên nhớ rằng thế kỷ thứ 21 là thế kỷ của Tâm Linh...”

Một thời gian ngắn sau, cái trận mà đã từng gây tranh cãi ầm ĩ ở trần tục ấy đã được di chuyển tới đúng nơi nó cần phải đến để từ đó nó có thể phát huy đầy đủ nhất sức mạnh bảo vệ Thủ Đô vốn có của nó. Một hôm NQT đi kiểm tra mới phát hiện được, trận này có một điểm yếu, đó chính là cái bát hương đặt ở giữa trận. Nếu kẻ địch đánh đúng vào điểm yếu này thì sẽ có cơ phá được trận .Suy nghĩ khá lâu và NQT đã quyết định để một vía của mình ngồi ngay tại bát hương đó, như vậy nếu kẻ nào cố tình xâm phạm trận này thì phải bước qua xác NQT rồi mới vào được. Sau khi làm xong việc này NQT mời Cụ Lý Đạo Hành và Quỉ Cốc Tử về rồi nói :

- Con phát hiện ra trận này có một điểm yếu, nếu kẻ địch đánh đúng vào đấy thì trận sẽ bị phá ngay.

Các Cụ nói :

- Chúng ta đều biết điều ấy từ khi đặt trận nhưng điểm yếu này không phải ai cũng biết được, còn chúng ta tuy biết mà chưa có cách giải quyết.

- Theo các Cụ thì bây giờ chúng ta nên làm thế nào?

Các Cụ nhìn nhau cười rồi chỉ NQT mà nói :

- Từ trước chúng ta cũng biết phải làm như thế mới yên tâm, nhưng không tìm được người. Bây giờ con giải quyết rồi còn gì.

Mọi người nhìn nhau cười vui vẻ.

............

Có một hôm NQT chợt nhớ ra, trước đây có một người bạn nói : Từ những năm 70 của thế kỷ trước, Tổng bí thư ĐCS Liên Xô Bzêgiơnep đã từng nói : “ Cuộc chiến tranh đáng sợ nhất, không phải là chiến tranh hạt nhân mà là chiến tranh Tâm Linh.”

Chẳng biết thông tin NQT nghe được có đúng hay không !...nhưng nếu nó đúng thì quả thật Cha Ông ta quá siêu việt. Không những các Cụ chỉ để lại cho chúng ta non sông gấm vóc này mà còn tính sẵn cả những phương án để cho non sông đất nước này trường tồn mãi mãi.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Không có ngày tận thế

Thân tặng bạn đọc xa gần! KHÔNG CÓ TẬN THẾ 21/12/2012

KHÔNG nên tin tưởng lịch Maya

CÓ phải việc gì cũng xảy ra

TẬN số địa cầu ai đoán được?

THẾ nên sinh tử khỏi lo xa.

****

Ai cũng sợ đến ngày tận thế

Tháng Mười Hai bốn bể điêu tàn

Năm Nhâm Thìn tin Vịt nổ vang

Khắp thiên hạ lo toan sợ hãi

Việc gì cũng cần nên xét lại

Nên tìm ra lẽ phải cứu mình

Trước vấn đề khoa học tâm linh

Do khối óc siêu hình tưởng tượng

Lịch Maya khua vang cộng hưởng

Khắp năm Châu đang bị lo âu

Làm không ăn, mất ngủ nhà giàu

Làm nghèo khổ buồn rầu than thở

Làm mê tín truyền rao hoảng sợ

Vững đức tin chẳng có nghĩa gì

Năm Hai Ngàn xưa cũng tiên tri

Ngày tận thế biết bao dư luận

Ôi! có, không sao mà lẩn quẩn?

Nhiều nước giàu cẩn thận phòng xa

Đào xuống sâu để cất xây nhà

Nhiều Bác học tính ra vũ trụ

Một áp lực vô hình diễn đủ

Như hằng hà tinh tú xoay vần

Người vô tư vui vẻ tinh thần

Ngày tận thế đến gần kẻ ác

Nhìn Trung Đông dàn quân sát phạt

Nam Bắc Hàn tan nát đệ huynh

Biết bao nhiêu Ma Quỷ rập rình

Hù nhân loại hoảng kinh hồn vía

Ngày tận thế thổi phồng đặt bịa

Nước Việt Nam rút tỉa tinh hoa

Xưa Trạng Trình Sấm ký đưa ra

Sau nước Việt Nam ta vinh hiển

Nhìn thế giới bày ra đủ chuyện

Khi khốn nguy xuất hiện Thánh Nhân

Dòng Âu Cơ đủ Phật Tiên Thần

Trung, hiếu, nghĩa, thiện chân bất diệt

Kỷ Nguyên mới loài người siêu việt

Hiệp Đông Tây huyền triết vô cùng

Giống Lạc Hồng tiếp nối vua Hùng

Nền văn hiến vô chung vô thuỷ

Năm Ngàn Năm thăng hoa thượng trí

Biết bao nhiêu hào khí vang trời

Như Big Bang tiếng nổ sáng ngời

Tạo vũ trụ bầu trời quy luật

Atlantic văn minh cùng cực

Sụp lầu đài xuống vực biển sâu

Hiện giờ này còn lại Năm Châu

Nếu sụp nữa gì đâu lo sợ ?

Ngày tận thế kẻ đi người ở

Đã diễn ra bệnh viện ngày đêm

Luật vô thường càng khốc liệt thêm

Nếu đại chiến thứ ba bùng nổ

Ngày tận thế con người giác ngộ

Phải tu tâm tự độ lấy mình

Phải lắng nghe chim hót bình minh

Phải hiểu luật tử sinh số kiếp

Thân “Chiếc Áo” lột ra thay tiếp

Từ xưa nay lên xuống nhiều thân

Trót sinh ra ai cũng nợ nần

Tròn bổn phận Đạo Nhân trung hiếu

Ngày tận thế diễn ra không thiếu:

- Nạn giao thông cường điệu đua xe

- Nào ăn chơi cờ bạc rượu chè

- Nào “Thánh chiến” kéo bè tận thế

Ta thử hỏi Năm Châu Bốn Bể:

Trái Đất tan, còn để chi tiền ?

Dám đưa ra bố thí gieo duyên ?

Giúp nghèo khổ tật nguyền tuyệt vọng

Nghe tận thế giàu sang tham sống

Giấc Nam Kha mơ mộng trường sinh

Mãi say mê hạnh phúc riêng mình

Chỉ biết nghĩ gia đình nhỏ bé

Hiểu tận thế tâm hồn vui vẻ

Biết thương người chia sẻ đói đau

Vì cộng đồng bảo vệ trước sau

Tâm bình đẳng, bênh nhau đạo lý

Dẹp nguyên tử hạt nhân vũ khí

Chẳng có ngày tận thế ấy đâu

Tình thương yêu hoá giải địa cầu

Sẽ đón nhận NHIỆM MẦU SÁNG THẾ!

Bình Thạnh – Tp.HCM, 13/03/2012 - Võ Thái Sơn(sứ giả Thái Bình)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thời tiết vũ trụ - Một cái gì đó rất lớn đang đến!

(Cosmic Weather Report, Something Big is Coming!)

Posted Image

Tôi Juliano. Đến từ Arcturian , muốn nói với các bạn: thực sự có một cái gì đó rất lớn đang đến tới thế giới của các bạn. Nếu bạn muốn, bạn có thể gọi nó là một sự kiện quan trọng. Ít nhất, Nó sẽ thiết lập thế giới của bạn theo cách ngược lại.

Thế giới bạn đang sống, như bạn đang biết, sẽ sụp đổ. Điều này sẽ tạo điều kiện cho một nền văn minh hoàn toàn mới sinh ra. Nó sẽ làm thay đổi thế giới này trong thời gian không xa. Nhưng sự thay đổi lớn lao này không nhất thiết luôn luôn là một cuộc khủng hoảng. Tôi thích gọi Nó là một Cơ Hội Mới. Nó là điều mà bạn đã chờ đợi suốt cả cuộc sống này của bạn.

Bạn không cần phải chuẩn bị gì cho Nó. Chỉ cần tin tưởng vào hướng dẫn bên trong của bạn, rồi tất cả mọi thứ sẽ làm việc tốt cho bạn. Sự hoảng loạn là tới từ thế giới bên ngoài. Bạn cần tập trung lắng nghe bên trong, đạt được bình tĩnh và thông suốt. Cố gắng, khi cần thiết, để trở thành một ngọn hải đăng của Ánh Sáng cho những người xung quanh.

Các tuần và tháng sắp tới đây sẽ có nhiều cơ hội lớn mở ra cho bạn và cho thế giới của bạn . Hãy theo dõi với sự tỉnh táo và bình tĩnh ! Luôn giữ hòa bình bên trong Nội tâm và cả trong Hành động !

Chúng tôi luôn ở bên cạnh bạn, luôn yêu thương và ủng hộ bạn, như mọi khi.

Bạn bè của bạn,

Juliano ( Arcturians)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hán thư chú - Địa lí chí Posted by: Tích Dã (171.235.0.---) Date: August 04, 2013 04:11AM

(Hán - Ban Cố soạn

Đường - Nhan Sư Cổ chú)

Nhà Chu đặt tước có năm bậc, kẻ được phong đất có ba bậc: tước công, hầu thì nước rộng trăm dặm; tước bá thì đất rộng bảy mươi dặm; tước tử, nam thì nước rộng năm mươi dặm; không đủ rộng như trên thì làm nước phụ dung, cả thảy có một nghìn tám trăm nước. Còn dòng dõi của Thái Hạo, Hoàng Đế là Ngu hầu, Đường bá vẫn còn, đế vương có bản đồ nối nhau mà biết được. Kịp lúc nhà Chu đã yếu, lễ nhạc chinh phạt tự chư hầu đặt ra, thay nhau chiếm diệt; trong mấy trăm năm, các nước giảm cả. Đến thời xuân thu, vẫn còn mấy chục nước, ngũ bá lần lượt nổi lên làm chủ hội thề.Sư Cổ nói: "Ngũ bá đấy là Tề Hoàn công, Tống Tương công, Tấn Văn công, Tần Mục công, Sở Trang công. Bá, đọc là 'bá'". dây dưa đến thời chiến quốc, thiên hạ chia ra còn bảy nước, Sư Cổ nói: "Là các nước Tần, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở". hợp tung liên hoành, trải mấy chục năm. Vua Tần rút cuộc chiếm trọn bốn cõi, cho rằng pháp chế của nhà Chu yếu kém cho nên cuối cùng mới bị diệt, do đó không đặt phép chế phong đất, chia thiên hạ thành quận huyện, trừ diệt dòng dõi của các bậc vua hiền ngày trước, chẳng ai có con cháu được truyền đất nữa.

Nhà Hán lên thay, theo chế độ của nhà Tần, chuộng ân đức, làm điều giản dị để vỗ về trong nước. Đến đời Vũ Đế đánh dẹp rợ Hồ, Việt, mở đất lấn cõi, phía nam đặt châu Giao Chỉ, phía bắc đặt châu Sóc Phương, Sư Cổ nói: "Hồ Quảng kí chép rằng nhà Hán bình đất Nam Việt đặt ra Thứ sử Giao Chỉ, khác với các châu khác, sai cầm cờ lệnh trị ở quận Thương Ngô, lại chia châu Ung đặt ra Thứ sử Sóc Phương". ôm trọn các châu Từ, Lương, U, noi theo chế độ của nhà Hạ-Chu, đổi châu Ung thành châu Lượng, đổi châu Lương thành châu Ích, cả thảy mười ba bộ, đặt quan Thứ sử. Dấu vết của các vị vua đời xưa đã tàn, tên đất lại nhiều lần thay đổi, cho nên gom nhặt lời trước, xét tìm Thi-Thư, suy đoán hình sông núi để nối liền chương sách Vũ cống, Chu quan, Xuân thu về sau đến thời chiến quốc, Tần, Hán vậy. Sư Cổ nói: "Từ thời trung cổ đến nay, những sách chép về địa lí cũng có nhiều, có sách thì giải thích kinh điển, cóp sách lại soạn giảng phương chí, tranh chép ra những điều mới lạ, xằng nữa còn xuyên tạc, thản nhiên gặp nhau, có phần làm mất sự thật. Những người học hành đời sau theo đó mà kể lại, thêm nữa không xét lời sai, chẳng ai tìm được cái gốc rễ nữa. Nay đều không chép ra, chắc cũng chẳng lầm".

Kinh Triệu doãn, là quan Nội sử thời nhà Tần, năm đầu thời Cao Đế thuộc nước Tái; năm thứ hai đổi lại thành quận Vị Nam, năm thứ chín thì bỏ, lập lại Nội sử. Năm đầu đến năm thứ sáu thời Vũ Đế chia làm Hữu nội sử; năm Thái Sơ thứ nhất lại đổi làm Kinh Triệu doãn. năm Nguyên Thủy thứ hai có mười chín vạn năm ngàn bảy trăm lẻ hai hộ, sáu mươi tám vạn hai ngàn bốn trăm sáu mươi tám người. Sư Cổ nói: "Hộ khẩu của nhà Hán vào năm Nguyên Thủy là phồn thịnh nhất, cho nên chương Địa lí chí này lấy số hộ khẩu ở năm này. Phần chép sau đều như vậy". Có mười huyện:

- Tràng An. Cao Đế đặt, năm đầu thời Huệ Đế bắt đầu đắp thành ở đấy, đến năm thứ sáu thì đắp xong. Có tám vạn tám trăm hộ, hai mươi tư vạn sáu ngàn hai trăm khẩu. Vương Mãng gọi là huyện Thường An. Sư Cổ nói: "Vương Mãng cướp ngôi, đổi tên quận huyện của nhà Hán, phần nhiều đã đổi, phần chép dưới đây cũng vậy".

- Tân Phong. Có núi Li ở phía nam, là nước Li Nhung ngày xưa, nhà Tần gọi là ấp Li. Năm thứ bảy thời Cao Tổ đặt ra huyện này. Ứng Thiệu nói: "Thái thượng hoàng nhớ quê muốn về miền đông, do đó Cao Đế đổi đắp nên thành nhà ngõ xóm giống huyện Phong, dời dân ở huyện Phong đến ở đây, cho nên gọi là Tân Phong".

- Thuyền Tư Không. Vương Mãng gọi là huyện Thuyền Lợi. Sư Cổ nói: "Vốn là ở đấy có quan coi thuyền, bèn đặt tên huyện".

- Lam Điền. Núi có ngọc đẹp, có miếu thờ ở núi Hổ Hầu, do Tần Hiếu Công dựng.

- Hoa Âm. Là huyện Âm Tấn cũ, năm thứ năm thời Tần Huệ Văn Vương đổi tên là Ninh Tần, năm thứ tám thời Cao Đế đổi tên là Hoa Âm. Có núi Thái Hoa ở phía nam, có miếu thờ ở núi Dự Châu. Có cung Tập Linh do Vũ Đế dựng. Vương Mãng gọi là huyện Hoa Đàn.

- Trịnh. Là ấp của em Chu Tuyên Vương là Trịnh Hoàn Công. Có chức quan coi sắt. Ứng Thiệu nói: "Là chỗ mà em khác mẹ của Tuyên Vương tên là Hữu được phong. Con họ và Bình Vương dời sang miền đông, đổi gọi là ấp Tân Trịnh". Thần Toản nói: "Nhà Chu từ thời Mục Vương về sau đóng đô ở ấp Tây Trịnh, không phong được cho Trịnh Hoàn Công. Lúc trước Trịnh Hoàn Công làm quan Tư đồ của nhà Chu là lúc nhà Chu sắp loạn, cho nên mưu với Sử Bá là đút tiền của mà đến nương dựa ở các nước Quắc-Cối. U Vương đã bại, năm thứ hai thì Trịnh Hoàn Công diệt nước Cối, năm thứ tư thì diệt nước Quắc, trú ở gò Trịnh Phụ, cho nên không có lời nào chép là Trịnh Hoàn Công được phong ở đất Kinh Triệu". Sư Cổ nói: "Xuân thu ngoại truyện chép là Chu U Vương đã bại thì Trịnh Hoàn Công chết, con của Hoàn Công là Vũ Công cùng Chu Bình Vương dời sang miền đông. Cho nên Tả thị truyện chép là 'nhà Chu ta dời sang miền đông là nhờ vào Tấn-Trịnh giúp'. Lại nữa Trịnh Trang Công nói là 'tiên quân ta lập ấp mới ở đấy'. Có lẽ nói đến ấp Tân Trịnh. Từ thời Chu Mục Vương về sau không có việc đóng đô ở ấp Tân Trịnh. Cho nên Toản nói sai. Cối, đọc là công ngoại phiên."

- Hồ. Có hai miếu thờ thiên tử nhà Chu.

- Hạ Khuê. Ứng Thiệu nói: "Tần Vũ Công đánh người Nhung ở ấp Khuê, có đặt huyện Thượng Khuê, cho nên đặt thêm huyện Hạ Khuê". Sư Cổ nói: "Khuê, đọc là 'khuê', bắt người Nhung ở ấp Khuê dời đến huyện này".

- Nam Lăng. Năm thứ bảy thời Văn Đế đặt ra huyện này. Có sông Nghi chảy ra từ hang Lam Điền, sông Bá cũng chảy ra từ hang Lam Điền, lên phía bắc chảy vào sông Vị. Sông Bá trước tên là sông Tư, Tần Mục Công đổi tên để nêu nghiệp bá, cho con cháu xem. Sư Cổ nói: "Nghi, đọc là tiên lịch phiên".

- Phụng Minh. Tuyên Đế đặt ra huyện này.

- Đỗ Lăng. Là nước của Đỗ Bá ngày xưa. Tuyên Đế đổi tên. Có bốn miếu thờ Hữu tướng quân của nhà Chu là Đỗ Chủ. Vương Mãng gọi là huyện Nhiêu An.

"Trâu đến Lam Điền, Nhật chính Đông": Tiên tri của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Khởi nguyên của dân tộc Việt Nam

Lã Sĩ Bằng

Lời dịch giả: Ðây là bản dịch một chương trong "Ðông Nam Á nghiên cứu chuyên san" số III nhan đề: "Bắc thuộc thời kỳ đích Việt Nam" của tác giả Lã Sĩ Bằng ở Ðại học Trung Văn Hương cảng.

Với tinh thần tôn trọng sự thật của nhà văn hóa, nhất là ngành sử học, giáo sư Lã Sĩ Bằng trong tác phẩm nói trên tỏ ra rất trung thực, cởi mở và xây dựng. Riêng những nhận định về Việt Nam cho thấy có sự chính xác, khách quan của nhà học giả chân chính, cho nên chúng tôi dùng làm tài liệu nghiên cứu sự tương quan giữa văn hóa Trung Hoa và Việt Nam. Nay xin dịch nguyên văn một chương để độc giả thưởng thức và thẩm định sự cố gắng đáng mong đợi của "Viện Nghiên cứu Ðông Nam Á" ở Hương cảng. (Nguyễn Ðăng Thục)

Dân tộc Việt Nam nguyên thuộc về hệ thống dân tộc bản xứ Ðông Nam Trung quốc thời cổ. Từ thượng cổ cho đến thời Tần Hán giải đất hiện tại gọi là Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây cho đến Bắc Việt, Trung Việt đều là đất của người Việt ở cả. Cuối thời Xuân Thu, Việt vương Câu Tiễn xưng Bá ấy là thời kỳ thịnh vượng nhất của người Việt, theo nhà Hán học người Pháp tên là E. Chavannes khảo chứng thì lãnh vực nước Việt thời ấy, phía Bắc suốt cả miền Giang Tô đến tận phía Nam Sơn Đông. Năm 465 tr. CN, sau khi Câu Tiễn mất rồi người sau không thể thừa kế nghiệp bá ấy nữa, nước Việt bèn suy vong. Truyền lại sáu đời đến Vô Cương, nước Sở đem quân đánh nước Việt. Vô Cương bị giết, người Sở chiếm hết đất đai. Bấy giờ vào năm 333 tr. CN, Sử ký của Tư Mã Thiên quyển 41 mục "Việt vương Câu Tiễn thế gia" có nói: "Từ đấy người Việt tản mác, con cháu các họ tranh chấp, người làm vua, người làm chúa ở ven biển Giang Nam hàng phục vào nước Sở".

Nhà Hán học người Pháp là L. Aurousseau căn cứ vào đoạn sử ấy mà suy luận ra cuộc di cư của người Việt như sau: "Căn cứ vào đoạn văn trên đây có thể thấy được việc di dân của người nước Việt xưa vào năm 333 tr. CN. Bắt đầu họ đi xuống phương Nam, tập đoàn chính rời khỏi bình nguyên phì nhiêu phía Bắc Ðại Dũ Lĩnh, phía Ðông vòng quanh các núi theo dọc bờ biển thiên di về phương Nam. Sử ký đã nói: "Con cháu các họ tranh lập hoặc làm vua, hoặc làm chúa", thì có thể thấy rằng họ lập lên một số nước nhỏ mà không có thể thống nhất, nhân thế mà Việt tộc tản cư mới sinh ra nhiều nước nhỏ mà phổ thông gọi là Bách Việt vào thế kỷ thứ 3 tr. CN. Tóm lại mà nói thì sau năm 333 tr. CN dân nước Việt đi xuống miền Nam lập thành một số quốc gia phong kiến, trong số ấy có bốn nước trọng yếu hơn cả là:

1) Nước Việt ở giải Ôn Châu tức Ðông Âu Việt,

2) Nước Việt ở giải Phúc Châu tức Mân Việt,

3) Nước Việt ở giải Quảng Châu tức Nam Việt,

4) Nước Việt ở giải Quảng Tây phía Nam cùng với Bắc Việt tức là Lạc Việt hay Tây Âu Hùng.

Bốn nước ấy vào thời cuối nhà Chu nghĩa là cuối thế kỷ thứ IV đầu thế kỷ thứ III tr. CN đã thành lập rồi vì sách Trang tử quyển 7 trong ấy có nói đến Nam Việt mà ở thời nhà Chu cũng có danh từ Lạc Việt". Ông L. Aurousseau nghiên cứu lần lượt bốn nước trọng yếu trong hàng Bách Việt rồi kết luận mà đoán định rằng nước Việt Nam ngày nay trực tiếp thuộc về di dân của nước Việt đã diệt vong vào năm 333 tr. CN, mà tổ tiên của họ tại 6 thế kỷ tr. CN đã dựng nước ở lưu vực sông Triết ngày nay trong tỉnh Triết Giang.

Thuyết của L. Aurousseau phát biểu 40 năm trước đây, bấy giờ nhân vì Khảo cổ học, Ngữ học, Dân tộc học các phương diện chưa được ấn chứng cho nên trong giới học thuật không được tiếp nhận một cách phổ biến. Và ông L. Aurousseau khảo luận về khởi nguyên của dân tộc Việt Nam chuyên viết về hai chữ Âu và Việt mà Ðông Âu tức người Việt đất Ôn châu, Tây Âu tức người Việt đất Bắc Việt đều thuộc về chi phái Việt tộc gọi là Âu, thuyết ấy luận đoán có chỗ sai lầm. Xét chữ Âu thực trỏ vào dân bản xứ đảo Hải Nam, chữ Tây Âu trỏ vào người Việt ở phương Tây đất Âu tức Quảng Tây phía Nam và Bắc Việt, mà Ðông Âu trỏ vào người Việt ở phương Ðông đất Âu tức là một giải Ôn châu, mà thời kỳ thiên cư cũng không nên xác định sau năm 333 tr. CN. Tuy nhiên ngoài những khuyết điểm của ông Aurousseau suy đoán về nguồn gốc dân tộc Việt Nam do từ Bách Việt mà ra rất có giá trị.

Cận đại các phương diện phát hiện và nghiên cứu về Khảo cổ học, Nhân loại học, Ngôn ngữ học, Dân tộc học đủ để công nhận suy đoán của Aurousseau. Văn hóa Bắc Sơn thời tiền sử Việt Nam mà chủ nhân có bộ phận thuộc về chủng tộc Indonesia. Văn hóa Ðông Sơn về sau thuộc về Văn hóa Ðồng cổ (trống đồng) của Lạc Việt từng tiếp nhận ảnh hưởng bên ngoài phần chủ yếu tự Hoa Trung mà địa khu trung tâm của văn hóa Ðông Sơn lại lấy Bán đảo Nam Trung và Hoa Nam làm chủ yếu. Nói rõ hơn thì dân tộc Việt Nam thuộc về giống người tóc cứng da vàng miền Nam Mông Cổ, hình sọ và mũi về chỉ số cùng bề cao của thân thể thì đại khái giống với người dân Việt và Mân nước Tầu. Về ngôn ngữ thì dân tộc Việt Nam nói tiếng độc vận đơn âm, thanh điệu phức tạp của tiếng Việt Nam thuộc về Hán Thái ngữ. Ðến như đặc trưng văn hóa nguyên thủy của họ đều thuộc về phạm vi văn hóa cổ Ðông Nam Á. Giáo sư Lăng Thuần Thanh hơn 10 năm gần đây hết sức nghiên cứu so sánh dân tộc học của dân tộc Việt Nam do nhóm Bách Việt thời cổ Trung Quốc ra mà bản xứ Nam Dương (Indonesia) cũng cùng một nguồn gốc Bách Việt thời cổ Trung Quốc. Theo thuyết của Lăng Thuần Thanh thì khu vực địa lý phân phát nền văn hóa cổ xưa của Ðông Nam Á ấy không những chỉ bao quát bán đảo và Hải đảo Ðông Nam Á như bán đảo phía Nam Trung Hoa và Nam Dương quần đảo, mà về lục địa còn bao quát từ bán đảo đến phương Nam Trung Hoa ngược lên phía Bắc đến Trường Giang vượt xa tới sông Hoài, Tần Lĩnh phía Nam, chạy từ bờ biển phía Ðông, ngang qua miền Nam Trung Hoa sang phía Tây qua xứ Ðiền (Vân Nam), Miến Điện cho đến Assam ở Ấn Độ. Danh từ Trung Quốc trong cổ sử thường gọi là Bách Việt tức là hệ thống Tây Nam cũng gọi là Cức Liêu cùng với dân bản xứ Indonesia ở Nam Dương hiện tại là dân tộc cùng thuộc về một hệ thống văn hóa, đấy là dòng dõi thiên di về phương Nam về sau của Việt tộc.

Trong Bách Việt, một chi nhánh Lạc Việt đi xuống phương Nam để trở nên một dân tộc trong nhóm Bách Việt còn bảo tồn được dân tộc tính chưa bị Hán tộc đồng hóa và dung hòa nhờ sự thuận lợi của tình thế địa lý cho nên đã có thể phản kháng quân Tầu khoảng 4 năm từ 221 đến 217 tr. CN. Từ Hán Vũ Đế diệt nhà Triệu (111 tr. CN) về sau Việt Nam tuy lệ thuộc vào Trung quốc hơn một ngàn năm thấm nhuần Hán hóa nhưng không bị Hán tộc đồng hóa và thu hút, kết cục vào thế kỷ thứ X Tây lịch đã thoát ly Trung quốc mà độc lập. Còn như người Việt Ðông Âu, Mân Việt, Nam Việt, các chi nhánh Việt tộc ấy từ thời Hán tới nay đã hướng vào trung tâm Hán tộc để bị đồng hóa đến dung hóa thành dân Trung quốc ngày nay ở các tỉnh Triết, Mân, Việt, Quế.

Lã Sĩ Bằng

(Nguyễn Ðăng Thục dịch)

dongtac.net

PHƯƠNG PHÁP LUẬN MỚI NGHIÊN CỨU TIỀN SỬ NGƯỜI VIỆT

Hà Văn Thùy

Cho đến cuối thế kỷ trước, để tìm hiểu tiền sử dân tộc Việt, các nhà nghiên cứu căn cứ vào hai nguồn tư liệu là thư tịch cổ Trung Hoa cùng những phát hiện khảo cổ học, nhân chủng học, ngôn ngữ và xã hội học, chủ yếu của những học giả Pháp thời thuộc địa. Từ những nghiên cứu đó, bức tranh tiền sử của người Việt được trình bày như sau:

1-Người tiền sử gồm nhiều chủng tộc, trong đó có người Việt, từ Trung Đông tới cao nguyên Tây Tạng. Từ phía nam cao nguyên Tây Tạng, người Việt theo ngọn sông Dương Tử đi xuống phía đông nam chiếm lĩnh đồng bằng Hoa Nam rồi ngược theo bờ biển lên khai phá vùng duyên hải. Một bộ phận từ ngọn nguồn Dương Tử lên phía bắc khai thác vùng nam sông Hoàng Hà.

2-Người Hán cũng từ nam cao nguyên Tây Tạng di chuyển về phía đông nhưng do phương thức sống du mục nên dừng lại ở vùng đồng cỏ Thiểm Tây, Cam Túc.

3-Người Hán vượt Hoàng Hà chiếm đất, xua đuổi người Việt xuống phía nam sông Dương Tử.

4-Do người Hán lấn chiếm tiếp, người Việt đã từ nam sông Dương Tử tràn xuống Việt Nam, tiêu diệt và đồng hóa người bản địa lập nên nước Văn Lang.(1)

Sơ đồ như trên trở thành quan điểm chính thức của các nhà sử học khu vực và cũng được ghi trong những cuốn sách sử của nhiều trường đại học danh tiếng thế giới.

Tuy nhiên, quan niệm trên vấp phải những thách thức to lớn khi người ta phát hiện rằng, nhiều di chỉ khảo cổ ở Đông Nam Á có tuổi sớm hơn vùng Tây Bắc Trung Hoa cùng những chứng cứ cho thấy, nền văn hóa Đông Nam Á phát triển sớm hơn vùng Hoa lục.

Cho đến cuối thế kỷ XX, nhờ nhũng công trình của Bing Su và Y. Chu dùng công nghệ gene khảo sát sự đa dạng di truyền của người Hán(2), bức tranh tiền sử người Việt và Đông Á nói chung được vẽ lại. Đường nét chính của bức tranh như sau:

1-Người Homo Sapiens từ Trung Đông băng qua Ấn Độ và Pakistan rồi theo bờ biển phía nam châu Á tới miền Trung và Bắc Việt Nam khoảng 60-70.000 năm trước.

2-Dừng lại đây khoảng 10.000 năm, hai đại chủng Mongoloid và Australoid hòa huyết tạo thành những chủng Indonesien, Melanesien cùng những chủng lai giữa chúng đồng thời lan tỏa ra sống khắp lục địa Đông Nam Á.

3-Khoảng 50.000 năm trước, người từ Đông Nam Á đi tới Úc; 40.000 năm trước đặt chân tới New Guinea.

4-Khoảng 40.000 năm trước, người từ Đông Nam Á lên khai phá lục địa Trung Hoa và từ đây lên tới Siberia rồi vượt qua eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ.

5-Cũng từ Đông Nam Á, một nhóm Mongoloid sống biệt lập, đã độc hành lên phía Tây Bắc Trung Hoa, tạo nên chủng Mongoloid phương Bắc.

6-Tại Hòa Bình, người Đông Nam Á chế tác đồ đá và sáng tạo trung tâm nông nghiệp phát triển sớm nhất trên thế giới.

7-Khoảng đầu thiên niên kỷ thứ III TCN, người Hán vượt Hoàng Hà lấn chiếm đất của người Bách Việt. Do sự tiếp xúc giữa người Hán Mongoloid phương Bắc với người Bách Việt, một chủng mới xuất hiện: chủng Mongoloid phương Nam, thuộc nhóm loại hình Đông Nam Á.

8-Cũng thời gian trên, do thua trận, một nhóm người Việt từ châu thổ Hoàng Hà đi thuyền vượt biển trở lại Việt Nam, cùng với người Việt tại chỗ lập ra nhà nước Văn Lang.

9-Vào giữa thiên niên kỷ II TCN, do người Hán đánh đuổi gấp, một bộ phận lớn người Bách Việt chủng Mongoloid phương Nam từ phía nam sông Dương Tử trở lại lục địa cũng như hải đảo Đông Nam Á. Những người trở về mái nhà xưa này đã làm chuyển hóa đại bộ phận cư dân Đông Nam Á cổ sang loại hình Đông Nam Á hiện đại. Cũng thời gian này, người Bách Việt từ Hoa lục tràn ra ngoài biển, tới Nhật Bản và Triều Tiên làm biến đổi di truyền những người gốc Đông Nam Á tại đó thành người hiện nay.

Với bức tranh được vẽ như trên, ta thấy tiền sử của người Việt đã diễn ra trái ngược với quan niệm từ trước. Không phải là người tiền sử Đông Nam Á từ Tây Bắc nước Tàu đi xuống mà ngược lại, chính người tiền sử đã từ Đông Nam Á, từ Việt Nam đi lên khai phá đất nước Trung Hoa. Hành trình cùa người Bách Việt Đông Nam Á gồm hai giai đoạn: giai đoạn đầu đi lên phương bắc còn giai đoạn sau từ Trung Hoa trở về. Khi phát hiện lịch trình trên của người Đông Nam Á tiền sử, khoa học có thể lý giải thỏa đáng những câu hỏi trước đây về nhân chủng cũng như lịch sử văn hóa vùng Đông Á.

Vấn đề cần đặt ra ở đây là vì sao suốt thế kỷ XX khoa học đã lạc đường khi nghiên cứu tiền sử Đông Á?

Có thể lý giải điều này như sau: Khiếp nhược trước một đất nước có số dân đông đúc cùng nền văn hóa lớn, các nhà khoa học phương Tây nhiễm quan niệm dĩ Hoa vi trung mặc nhiên coi Trung Quốc là trung tâm phát sinh của Đông Á. Từ mặc cảm định trước này, ngay từ năm 1904, E. Aymonier đưa ra thuyết người tiền sử thiên cư từ cao nguyên Tây Tạng xuống. Tiếp đó, các tác giả khác, khi giải mã những hiện vật khảo cổ và nhân chủng học, ngôn ngữ, xã hội học cùng thư tịch cổ Trung Hoa… đều nương theo thuyết Hoa tâm. Tất cả những việc làm mang tính duy ý chí đó đã vẽ nên bức tranh sai lầm về tiền sử Á Đông.

Từ những sai lầm của quá khứ, thiết tưởng việc nghiên cứu tiền sử Đông Á nói chung cũng như người Việt nói riêng hiện nay cần có một phương pháp luận mới.

Theo thiển ý, những cơ sở của phương pháp luận đó là:

1-Lần theo hành trình của người tiền sử từ Đông Nam Á lan tỏa ra khắp Hoa lục sau đó một bộ phận lại trở về Đông Nam Á. Bằng công nghệ genes cùng những vật chứng khảo cổ, nhân chủng học, ngôn ngữ, xã hội học… xác định thời gian, không gian xuất hiện và chuyển dịch của người Việt trên đất Trung Hoa.

2-Giải mã lại những vật chứng khảo cổ, nhân chủng học, những tư liệu ngôn ngữ học, xã hội học đã phát hiện được theo hành trình của người Đông Nam Á. Từ đây xác định những dấu ấn văn hóa mà người Đông Nam Á để lại trên đất Trung Hoa.

3- Trước đây, do chưa xác định được thời gian cũng như con đường thiên di của người tiền sử Đông Nam Á, với người Việt, thư tịch cổ Trung Hoa là nguồn cứ liệu duy nhất để chúng ta nhìn vào tiền sử của mình. Nay ta biết rằng, do Khổng tử đã bỏ đi toàn bộ Tam Phần và một phần Ngũ Điển trong kinh Thư nên về thời gian, thư tịch Trung Hoa không thể đáp ứng thông tin trước thời Đường Ngu, tức khoảng trước 2600 năm TCN. Về không gian, lúc đó nước Trung Hoa còn nhỏ bé quanh lưu vực Hoàng Hà nên sự hiểu biết của sử gia Trung Hoa bị hạn chế. Sau này sử gia Trung Hoa, kể từ Tư Mã Thiên, phần nhiều mang con mắt đại Hán tộc nên viết không chính xác lịch sử những nước xung quanh được gọi là man, di… Vì vậy, trên thực tế, nguồn thư tịch Trung Hoa vừa khiếm khuyết vừa không đáng tin cậy, không thể là khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta lấy làm căn cứ để viết lịch sử của mình.

4-Ngày nay, nhờ có người Việt “thiên di” tới nhiều nơi trên thế giới nên đã thu thập được khá nhiều tư liệu của các nước phương Tây viết về đất nước chúng ta. Một số trong đó đã được đưa lên mạng giúp cho chúng ta có cái nhìn về mình mới mẻ hơn và thoát được sự “cầm tù” của thư tịch Tàu.

5- Hai ngàn năm nay, do không hiểu nguồn gốc sinh học của mình và do mối quan hệ lịch sử đặc biệt với láng giềng phương bắc nên ông bà chúng ta coi Trung Quốc là nước đồng văn đồng chủng, còn các nước Đông Nam Á là di, rợ. Nhờ thành quả mới của khoa học di truyền, ta biết rằng, các dân tộc Đông Nam Á cùng cội nguồn với chúng ta. Điều này đưa tới phát hiện quan trọng: chính các sắc dân Đông Nam Á là người lưu giữ sâu đậm văn hóa cội nguồn của tổ tiên người Việt. Vì vậy, trong hành trình tìm lại văn hóa gốc của người Việt, việc nghiên cứu văn hóa các sắc dân Đông Nam Á có ý nghĩa rất lớn.

Tìm hiểu, nghiên cứu làm sáng tỏ giai đoạn tiền sử của dân tộc là chuyện dài dài, là cuộc chạy tiếp sức của nhiều thế hệ. Chúng tôi cho rằng, sau khi đã tìm được nguồn cội về mặt sinh học, công việc trung tâm lúc này là tìm lại cội nguồn văn hóa của người Việt. Áp dụng phương pháp luận trên, chúng ta sẽ tìm ra những dấu tích văn hóa mà tổ tiên ta đã để lại trên đất Trung Hoa, đặc biệt là hai trung tâm Thái Sơn và Lĩnh Nam từ hạt lúa, ngọn rau, rìu đá, rìu đồng đến tiếng nói, chữ viết, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Dịch… Tìm lại văn hóa cội nguồn không chỉ đem lại cho chúng ta sự hiểu biết về tổ tiên, mà quan thiết hơn là học từ đó những điều khôn ngoan để phục hưng văn hóa Việt.

Sài Gòn, ngày Trùng Cửu năm Ất Dậu

1. Kim Định. Việt lý tố nguyên. Lá Bối Sài Gòn 1970

2 J.Y. Chu: Genetic relationship of population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 N. 95 tr. 11763-11768

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trong bài dịch về dự ngôn trên bia đá của Lưu Bá Ôn

http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?t=12154

có đoạn:

"

44. Hỏi năm thái bình như thế nào.

45. Dựng cầu đón chủ nhân mới.

46. Thượng nguyên Giáp Tí đến. (Thượng nguyên Giáp Tí: Bề trên mới đứng đầu hoa giáp hay người cầm đầu thiên hạ)

47. Người người cười khanh khách.

48. Hỏi sao cười như ma (làm) vậy?

49. Nghênh tiếp chủ đất mới.

50. Trên quản đất ba tất.

51. Tối không nạn trộm cướp.

52. Thôi thì cầu là chủ.

53. Chủ ngồi giữa trung ương.

"

nói về sau đại kiếp nạn ở Trung Hoa, nhân dân dựng cầu nghênh tiếp chủ nhân mới đó là Thượng Nguyên Giáp Tí.

Một cách trùng hợp, có một bài thơ của Hà Lạc dã phu Việt Viên Tử trong quyển Tướng pháp áo bí:

"

Thượng nguyên Giáp Tí huyền thiên cơ.

Nhật nguyệt quang minh như hải huy.

Thiên hạ thánh nhân giai xuất thế.

Chính đương Di Lặc nại sinh thời.

"

Như vậy, dẫn đến dự đoán rằng thánh nhân Việt Nam trong sấm Trạng Trình nói đến chính là hóa thân của Đức Phật Di Lặc và còn gọi là Thượng nguyên Giáp Tí.

Điều này cũng dẫn đến việc hiểu được câu:

"

Phá điền thiên tử xuất.

Bất chiến tự nhiên thành.

"

"Phá điền" chính là chữ Vạn:

khi chữ Điền phá bỏ bốn nửa cạnh xung quanh. Nhà Phật nói rằng khi Phật giáng sinh trước ngực có hiện ra hình chữ người sau mới biết chữ ấy.

Như vậy, thánh nhân Việt chính là Phật Di Lặc giáng sinh.

"Bất chiến tự nhiên thành" là đường lối giải thoát không dùng chiến tranh mà bằng con đường tâm linh của nhà Phật, chính là "Chân - Tâm - Thiện".

Share this post


Link to post
Share on other sites

ĐỘNG ĐÌNH HỒ - CỘI NGUỒN CỦA TỘC VIỆT

Trần Thị Vĩnh Tường



Posted Image

Động Đình hồ

Hồ Động Đình ở đâu?

Ở miền Nam sông Dương Tử, hồ Động Đình họp thành bởi nhiều hồ lớn. Mỗi năm vào mùa lũ nước sông Dương Tử chảy vào hồ, làm tăng diện tích hồ từ 2.800 km² đến 20.000 km². Quân Sơn, một đảo nằm giữa hồ có 72 đỉnh núi, rộng 1 km nổi tiếng với các loại trà thơm, hoa lá quý hiếm tươi tốt quanh năm. Cảnh đẹp thần tiên, nhiều truyện tích rất u linh chích quái, liêu trai chí dị. Từ hàng ngàn năm, nhắc đến Tiêu Tương Hồ Nam, là nhắc đến tiên cảnh Động Đình Hồ, đến “Bát cảnh Tiêu Tương” của vùng Giang Nam.

Từ miền Hoa Bắc sa mạc, người thuộc chủng Hoa Hạ ào ào lưng ngựa triền miên chinh phục hết miền đất này đến miền đất khác. Người Hoa Bắc nổi tiếng với nhiều lý thuyết gia, nhưng văn chương rất khô khan. Trái lại, miền Nam sông Dương Tử, nhất là miệt Động Đình sông nước mây khói mơ màng, nổi tiếng nhất với hai con sông Tiêu và Tương chảy vào lòng hồ, đã là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ văn, hội hoạ, âm nhạc…

Ai có về bên bến sông Tương/ Nhắn người duyên dáng tôi thương/ Bao ngày ôm mối tơ vương…” của nhạc sĩ Thông Đạt, hay Kiều của Nguyễn Du, “Sông Tương một giải nông sờ/ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia” cũng là sông Tương này. Chữ Tương, tiếng Hẹ (Hakka) phát âm là “siong”, tiếng Quảng Đông là “seong”, tiếng quan thoại là “xiāng”. Trong Chinh phụ ngâm, những vần thơ hết sức đẹp, cũng lấy cảnh sông nước Hồ Động Đình:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng…



Hồ Động Đình trong truyền thuyết Hồng Bàng

Posted Image

Bản đồ vị trí Động Đình hồ

Theo Đại Việt sử ký toàn thư:

“Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục.

Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.

Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải….”

Nước Sở có từ bao giờ?

Khi truyền thuyết xuất hiện trong Lĩnh Nam chích quái thế kỷ 14, tất cả những địa danh, nhân danh từ Đế Minh, Lộc Tục, Xích Quỷ… đến Hồ Tôn, Hồ Bắc, Hồ Nam, Động Đình Hồ… là tên thuần Hán. Tất cả nằm tại địa bàn nước Sở, tức khu vực Động Đình Hồ.

Vương đầu tiên của người Việt là Kinh Dương Vương, có thể hiểu đó là “vương của châu Kinh và châu Dương”?


Đất Kinh, mang tên loại cỏ Kinh mọc thành bụi cao, đa số dân thuộc chi Âu, đại diện là Âu Cơ, đọc theo phát âm Mường và Quảng Đông là Ngu Kơ, ưa sống miền núi rừng. Bây giờ, địa bàn của châu Kinh là tỉnh Hồ Bắc.

Đất Dương có dân thuộc chi Lạc, đại diện là Lạc Long Quân, ưa sống miền biển. Địa bàn châu Dương gồm các tỉnh ven biển: Giang Tây, An Huy, Chiết Giang, và Giang Tô.

Cả hai đại chi Âu và Lạc, thuộc chủng Yueh/Việt. Mỗi đại chi lại có hàng trăm tiểu chi. Khoa nhân chủng học ngày nay gọi nhóm này là Austro-Asiatic = người châu Á phương Nam, khác với Mongoloid, người châu Á phương Bắc, chính là chủng Hoa Hạ.

Theo chính sử Trung Hoa, Châu Thành Vương (1042-1021 TCN) phong cho Hùng Dịch tước tử ở nước Sở, còn gọi là nước Kinh, để cai trị và ngăn chặn quấy phá của dân “man di” Yueh/Việt ở địa phương. Đây là lần đầu tiên người Trung Hoa thiết lập chế độ phong kiến (phong đất cho thuộc hạ, họ hàng). Đây cũng là lần đầu tiên người Hoa Bắc chính thức chinh phục miền đất phía Nam sông Dương Tử.

Trong 800 năm, từ đầu thế kỷ 11 TCN đến khi bị Tần Thuỷ Hoàng diệt năm 223 TCN, nhà họ Hùng đưa nước Sở từ một miền phên dậu thành một chư hầu hùng mạnh có lúc lấn cả thiên tử nhà Châu, và suýt trở thành “thủ lãnh đại ca” của Xuân Thu Ngũ Bá.


Năm 740-689 TCN, khoảng đầu thời Xuân Thu, nhà Châu bắt đầu suy, nước Sở cường thịnh dù vẫn bị người Hoa Hạ chế diễu “Vua Sở như con khỉ biết đội mũ”. Lãnh tụ của Sở là Hùng Thông tự ý xưng Vương, tức Sở Vũ Vương. Từ đó trở đi, tiếp theo hàng chục đời, lãnh tụ nước Sở bao giờ cũng có họ Hùng và tước Vương. Hùng Dịch, Hùng Thông, Hùng Sì, Hùng Cừ… chữ Hùng 雄 viết y hệt như trong “Hùng Vương” của Việt Nam.

Sau khi diệt các nước Việt nho nhỏ chung quanh, năm 333 TCN nước Sở thôn tính thêm hai nước Việt rất lớn cũng thuộc chi Lạc ở ven biển: nước Ngô Việt (Câu Tiễn) và U Việt (Phù Sai). Tuy rất văn minh, đã đúc thuyền đồng, trống đồng, luyện thép (như hai nhà luyện kiếm nổi tiếng là Mạc Tà và Can Tương), nhưng chỉ lo đánh đấm và trả thù nhau nên bị Sở diệt.

“Quốc tịch” dân Sở

Đại thần/thuộc hạ của Châu Thành Vương đều là người chủng Hoa Hạ. Hai người Sở nổi tiếng, thi sĩ Khuất Nguyên, tác giả Ly Tao, và Hạng Võ, mà người Việt giới bình dân đều rành nhờ… tuồng cải lương Hồ Quảng Hạng Võ biệt Ngu Cơ – “Tấm thân lấp biển vá trời/ Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang”. Tây Sở Bá Vương Hạng Võ người chủng Hoa Hạ, Ngu Cơ chủng Việt, chi Âu.

Không riêng gì Sở, dân “man di” miệt Nam Dương Tử đa số là Yueh/Việt. Nên khi hai nước Trịnh, nước Vệ có chiến tranh, quân dân hai bên leo lên mặt thành nói chuyện thả dàn, không cần thông dịch viên toà án. Sử không thèm ghi xem bọn dân đen nói chuyện chi. Mời nhau ăn một miếng trầu, rủ rê xuống ruộng dâu [1] , đánh trống đồng hay hát bài “Việt nhân ca” [2] .

Chi tiết trên chứng tỏ đánh nhau là chuyện của lãnh chúa Hoa Hạ, còn dân Việt tỉnh bơ ví dầu nói chuyện trời trăng. Điều này rất quan trọng nhưng độc giả lướt qua vù vù như cưỡi máy bay, yên chí mình đang đọc truyện về dân Tàu. In hệt hồi Tần Thuỷ Hoàng sai Triệu Đà, người Hoa thứ thiệt, đi “bình định” vùng Lĩnh Nam. Khi nhà Tần yếu, Triệu Đà xưng làm vua Nam Việt, nhưng dân vẫn cứ là giống Việt “man di”.

Tiếng nước Sở ngày nay đã bị Hoa hóa nhưng giọng nói của dân Hồ Bắc, Hồ Nam vẫn còn giữ thổ âm của tiếng Sở ngày xưa. Người Hoa gọi đó là giọng Hồ Quảng (nơi phát xuất… cải lương Hồ Quảng). Hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây gọi là tỉnh Việt. Tiếng Quảng Đông còn gọi là Việt ngữ. Kịch nghệ ở Quảng Đông và Hương Cảng gọi là Việt kịch. Thức ăn của Quảng Đông là Việt thái (tsai). Xin để ý: dân tộc Việt Nam là một thành phần trong khối Yueh/Việt. Nhưng không bao iờ là toàn khối chủng Yueh/Việt cả. Vì vậy những thành tích/khám phá có dính líu đến “người Việt” về phương diện nhân chủng/khảo cổ/văn hoá/… đào bới được ở khắp vùng châu Á không luôn luôn có nghĩa thuộc về người Việt Nam ở Việt Nam. Ngay cả nền văn hoá Hoà Bình thuộc thời đồ đá mới tuy tìm thấy ở tỉnh Hoà Bình, nhưng giới khoa học rất thận trọng, họ không coi nền văn hoá này là của người Việt Nam vì thời đó chưa có nước Việt Nam và người Việt Nam. Ai à chủ nhân thực sự của văn hóa Hoà Bình, vẫn là một câu hỏi.

Chiến tranh

Sử Tà không ghi chép đời sống của dân bản địa. Bộ Đông Châu liệt quốc toàn tả lãnh tụ xưng hùng xưng bá. Chỉ biết từ đời Xuân Thu Chiến Quốc 722 TCN đến khi Sở bị Tần diệt năm 223TCN là một thời kỳ hỗn loạn. Dân ở phía Nam sông Dương Tử chịu cảnh binh đao, tàn sát, cướp bóc… hông biết bao nhiêu mà kể. Chính biến, đảo chánh, giành ngôi, phế lập, âm mưu, cướp bóc, lãnh chúa… iên giới các “nước” thay đổi. Có nước bị giải thể. Hàng ngàn nước bị chia cắt, sát nhập lúc vào nước này, lúc vào nước kia.

Khi Tần Thuỷ Hoàng, “gồm thâu lục quốc” (Hàn, Nguỵ, Sở, Triệu, Tề, Yên) một cuộc chiến khủng khiếp kéo dài 9 năm biến giải đất mênh mông từ trung nguyên [3] xuống nam Dương tử thành một lò sát sinh khổng lồ.

Gia đình lãnh chúa bị tận diệt đã đành, dân chúng lớp bị giết hàng khối, lớp chạy tan tác trước sức đồng hoá của chủng Hoa Hạ, của chiến tranh, hạn hán, mất mùa... Miền đất chưa bị vó ngựa chủng Hoa rớ tới, chính là vùng mênh mông phía Nam và Tây nước Sở. Bây giờ là vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Quế Châu, đồng bằng sông Hồng… Lúc đó chưa miền nào có tên như bây giờ. Muốn đi tới miền này phải vượt qua dãy Đại Ngũ Lĩnh hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, hoàn toàn không hợp với người Hoa Hạ chỉ quen chinh chiến và sống vùng sa mạc. Trong Đường về Trùng Khánh, dù đã là năm 1942, tác giả Hàn Tố Âm (Han Suyin) vẫn tả Quế Châu như một vùng rừng núi hoang vu gần như không có ai tới, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, chỉ có một số người miền núi sinh sống. Thật ra trong quá khứ ngàn năm trước, miền này đã đón nhận hoặc là miền chuyển tiếp rất nhiều đợt chạy loạn.

Bộ mặt của lịch sử Trung Hoa, không phải chỉ ngon lành nào Hồng lâu mộng, nào Tây du ký, tứ đại giai nhân, thi thánh thi bá… Bộ Đông Châu liệt quốc ghi lại 400 năm loạn lạc, cho thấy mạng dân đen (Hoa cũng như Việt) như bèo: Tề Hiếu Công chôn sống hơn hai trăm nội thị và cung nhân trong mồ của cha mình. Mồ của Tần Mục Công táng theo 177 người. Ngô vương Hạp Lư đánh bẫy hơn một vạn nam nữ để tuẫn táng cho con gái. Không hiếm những người tỉnh táo, lệnh doãn Tôn Thúc Ngao di chúc “Dân nước Sở ta khổ vì việc chiến tranh đã lâu, chúa công nên nghĩ lại mà khiến cho dân được an nghỉ”. Nếu chúa công nghe lời can gián, nước Sở chắc không bị Tần diệt, và bộ mặt địa lý/chính trị của nước Trung Hoa có thể đã khác.

Chiến tranh/nạn đói thời An Lộc Sơn cũng được ghi lại trong 1.500 bài thơ của Đỗ Phủ, nổi tiếng thi hào mà không cần chạy theo chéo áo giai nhân [4] . An Lộc Sơn đánh vào Trường An, Đường Huyền Tông chạy trốn, Dương Quí Phi thắt cổ. Trong 8 năm, dân số nhà Đường, kiểm kê năm 754 từ 52.8 triệu người chỉ còn 16.9 triệu.

Lăng mộ của Tần Thuỷ Hoàng cần tới 70 ngàn người xây cất, con số chôn sống không rõ. Nhà văn Hàn Tố Âm, dù gia đình khá giả ở Bắc Kinh (cha người Bỉ, mẹ người Hoa) cũng nhắc lại điều khủng khiếp ám ảnh bất cứ đứa trẻ Trung Hoa nào: chiến tranh và thiên tai “ba năm liền không có một giọt mưa”. Dân chết đủ kiểu. Kể cả chết đói. Vỏ cây cũng không còn. Ai còn đi được, đều cố đứng dậy hay lết bằng đầu gối.

Dân Sở thuộc chủng gì?

Dù Kinh Dương Vương là một người thật, hay chỉ là một biểu tượng trong truyền thuyết Hồng Bàng, cũng đều là một pha trộn hai giòng máu Âu và Lạc. [5] Đây là mật mã cốt lõi của truyền thuyết:

· Hai chi Âu-Lạc sống chung ở vùng Động Đình Hồ,

· Cùng dắt díu nhau di tản, và đoạn cuối

· Buồn hơn bất cứ chuyện tình nào: Âu-Lạc phân ly. Thế kỷ 14, tác giả Lĩnh Nam chích quái ghi tất cả biến cố bi tráng trên vào mươi hàng đặt tên “Truyền thuyết Hồng Bàng”. Thời bây giờ, không chắc có cây bút nào có thể viết ngắn/nhiều ý nghĩa đến vậy.

Độc giả có thể kiểm chứng bằng nghiên cứu hay đọc những nghiên cứu ngôn ngữ và lịch sử, thì thấy từng chi tiết của truyền thuyết vẫn còn in dấu trên tình trạng đa sắc tộc và sự hoà huyết, hỗn hợp ngôn ngữ của cư dân có mặt trên mảnh đất Việt Nam. Lịch sử dựng nước của các quốc gia châu Á: Đài Loan, Phi Luật Tân, Nhật, Triều Tiên, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam,… đều có những điểm giông giống nhau: hỗn loạn, chia cắt, đánh chiếm, tận diệt, lấn đất, di cư, hoà huyết…

“Nước” Xích Quỷ biến đi đâu?

Không biến đi đâu hết. Ở đâu còn nguyên đó. Đất cũ người cũ. Thêm người mới khoác áo văn hoá mới. Nhìn trên bản đồ, bờ cõi nước Xích Quỷ hầu như phân nửa bờ phía Nam sông Dương Tử: Bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 cây số vuông. Diện tích Việt Nam bây giờ là 331,688 cây số vuông.

Tại sao thình lình không gian của Lạc Long Quân tức Hùng Vương thứ nhất rộng lớn đến thế, đời Hùng Vương thứ 18 khi bị Thục Phán diệt, chỉ còn lại đồng bằng sông Hồng?

Di cư

Như trên đã nói, một cuộc di tản rất lớn xảy ra, kéo dài hàng mấy trăm năm, trước/sau khi nước Sở bị diệt vong. Đám chi Âu, chi Lạc chạy khỏi địa bàn nước Sở. Khi đi, mang theo tất cả những truyền thuyết tổ tiên đến địa bàn mới. Ngay như tên người Việt bây giờ vẫn tự gọi: người Kinh - để phân biệt với người Thượng - có thể tên châu Kinh đất cũ còn trong ký ức.

Có lẽ nên hiểu truyền thuyết Hồng Bàng là cổ sử của chủng Yueh/Việt, hơn là cổ sử riêng của Việt Nam. Biên cương rộng lớn của Xích Quỷ hé mở đôi điều, nếu hiểu theo quan sát và quan niệm của tác giả truyền thuyết Hồng Bàng về thời lưu cư ở Động Đình Hồ:

1. Chủng Việt, khác với chủng Hoa Hạ

2. Hễ đồng chủng, là cùng một “nước”

3. Có rất nhiều bộ tộc Việt sống xen kẽ trên cùng địa bàn Xích Quỷ

4. Vì xen kẽ, nên mượn qua mượn lại truyền thuyết/cổ tích của nhau

5. Người/tiếng Việt đi tới đâu, biên giới Xích Quỷ đi đến đó

6. Người Trung Hoa bây giờ cũng là một pha trộn = Hoa Hạ + Việt, cả DNA và tiếng nói.

7. Lãnh tụ đầu tiên Lạc Long Quân hoàn toàn thuộc chủng Việt, mang hai giòng máu Âu và Lạc, không lai một chút Hoa Hạ nào hết.

Có “nước” Xích Quỷ không?

Không. Bởi vì:

· Xích Quỷ: chỉ là địa bàn lớn chứa chủng Việt, gồm hàng trăm (hay ngàn) bộ lạc/thị tộc, tình trạng “văn minh” tuỳ vùng.

· Nước Sở: nhỏ hơn, chứa các nhóm Âu-Lạc.

· Đồng bằng sông Hồng: nhỏ hơn nữa, là một trong những nơi dừng chân cuối cùng của của đám Âu/Lạc di tản. Nơi đó cũng đã có người ở từ trước.

Nước Thái Lan, nước Lào, chi Âu, tình cảnh rất giống Việt Nam. Thái chỉ mới thành lập quốc gia từ thế kỷ 13. Lào lập nước trễ hơn Thái chừng nửa thế kỷ. Cả hai chạy ngược chạy xuôi tìm đất và choảng nhau với dân bản địa. Có những bộ tộc rất oai hùng, nhưng lại không thành lập nổi một quốc gia, ví dụ sắc tộc Karen, sắc tộc H’Mong, và hàng ngàn bộ tộc hiện diện trên đất Trung Hoa, bị Hán hoá hoặc có danh nghĩa “khu tự trị”, nhưng mức độ độc lập luôn là câu hỏi.

“Con Rồng cháu Tiên”

Xin thú thật, là một học trò yêu môn lịch sử, nghe “con rồng cháu tiên, dân Việt mình… siêu hơn dân tộc khác” rất êm tai. Nhưng hôm nay ôn lại những trang sử, bàng hoàng nhận ra một bài học khác: nước Việt sinh ra trong ly loạn, những đoàn người đầu tiên đã cố gắng phi thường mới hội được nước Việt như ngày nay. Cảm xúc trước sự huyền bí của lịch sử là một cảm xúc đẹp. Tuy vậy, kiểu hãnh diện mơ màng “con Rồng cháu Tiên” nhưng không biết rằng nước Việt được tạo dựng trong điêu linh, có thể làm biến dạng suy tư của người Việt: làm đứt đoạn, xa rời hẳn với quá khứ. Nếu có đôi điều đặc biệt đáng hãnh diện, đó là trong số hậu duệ của chủng Việt, không có quốc gia nào nắm níu tên “Việt” ngoại trừ dân tộc Việt Nam; và sau gần 3000 năm thăng trầm, sức sống bền bỉ, chấp nhận hoà huyết, sáng tạo tiếng nói, dũng mãnh chống ngoại xâm, mềm dẻo giữ độc lập… mỗi ngày là mỗi cố gắng gượng dậy từ những tang thương dù không hề biết cuối con đường cay đắng hay vinh quang: đó mới là kho báu đích thực và bài học vô cùng quí giá tổ tiên để lại.


Phật Đản 2007, California

© 2007 talawas

[1]Câu 507, Kiều trả lời Kim Trọng khi chàng Kim eo sèo đòi “sex”:

Ra tuồng trên Bộc trong dâu,Thì con người ấy ai cầu làm chi!

Sông Bộc: nơi trai gái chủng Việt chiều chiều rủ nhau xuống bãi dâu tình tự nên có thành ngữ “Trên Bộc trong dâu”, Nguyễn Du tiên sinh viết theo quan niệm nhà Nho hồi đó, tức cấm đoán nhiều thứ lủng củng.

[2]Nhiều thông tin khác nhau về bài “Việt nhân ca”:

- Dân ca của người Choang

- Bài hát của dân Việt thời Ngô Việt giao tranh. Vương tử Sở là Ngạc Quân Tử Tích thích bài hát nên nhờ chuyển thành Sở từ. Cũng là bài hát trong phim Dạ yến/The Banquet với Chương Tử Di.
[3]Miền đất giữa Hoàng Hà và Dương Tử.

[4]Đỗ Phủ: tất cả thơ của ông tả cảnh chiến tranh thời An Lộc sơn. Ví dụ: Bài “Vô gia biệt” (Cuộc ly biệt của kẻ không nhà), ông ước "Có ngôi nhà lớn muôn gian để che chở cho kẻ nghèo khắp thiên hạ. Bao giờ nhà lớn sừng sững hiện ra, riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được". Ông bôn ba khắp nơi dâng kế cứu dân cứu nước. Không ngờ về đến nhà mới hay con trai đã chết đói.
[5]Nguyên Nguyên, “Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương”.


Lãnh thổ nước Văn Lang thời các vua Hùng rất khó khăn cho chúng ta giải quyết qua dữ liệu lịch sử, văn hóa, chính trị... khảo cổ, tôn giáo... ở tầm ức toàn cầu. Tuy nhiên, nên chú ý:


CC: các nhà nghiên cứu sử Việt.
Biên giới Văn Lang bao gồm toàn bộ Đông Nam Á tiếp giáp Ấn Độ và tòan bộ khu vực phía Nam sông Dương Tử, đặc biệt gồm cả Tây Tạng ngày nay.
Đây là mốc tra cứu lịch sử.
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cố đô Ngàn Hống mở đầu thời đại dựng nước

Tháng Tư 6, 2011

Cho đến nay, thời kỳ Hùng Vương được các nhà sử học khẳng định là thời kỳ có thật trong lịch sử. Tuy nhiên, không có một tư liệu thành văn nào ghi chép về thời kỳ này cho nên chúng ta tạm bằng lòng với việc “dựng” lại lịch sử bằng các truyền thuyết dân gian , dân tộc học, ngôn ngữ học, địa phương học, . . kết hợp với kết quả của ngành Khảo cổ học. Vì vậy, nếu đề cập tới thời kỳ Tiền Hùng Vương thì còn khó khăn gấp bội phần. Tuy nhiên, chúng ta cắt nghĩa thế nào về những ghi chép của các sử gia Trung Hoa về một đất nước Việt Thường xuất hiện rất lâu trước thời kỳ Hùng Vương ? Chúng ta cắt nghĩa thế nào về một cố đô Ngàn Hống xuất hiện trước khi có Kinh đô Văn Lang, nhất là khi những ghi chép đó lại xuất hiện trong Ngọc phả Hùng Vương, như một sự truy niệm về kinh đô cũ ? Xin cung cấp cho các nhà nghiên cứu và bạn đọc hai tư liệu trên.

I – SỰ TÍCH CỐ ĐÔ VIỆT THƯỜNG

( Truyền thuyết )

Tục truyền, cha của Long Vương là Dương Vương, khi mới mở nước, đi xem phong cảnh núi sông, tìm nơi xây dựng kinh đô. Khi về phương Nam, đến vùng Ngàn Hống, thấy phong cảnh núi non trùng trùng điệp điệp, 99 ngọn ( Ngọc phả Hùng Vương ghi là 199 ngọn) cao tận trời xanh, chân núi vờn đến gần cửa Đơn Hay (tức cửa Đan Nhai, tức Cửa Hội) có thế rồng vây hổ chầu, Dương Vương rất lấy làm vừa ý. Vương bèn quyết định đắp thành dưới núi, lấy nơi này làm đô ấp, cứ như vị trí ngày nay thì thành ấy là đất Nội- Tả – Hữu Thiên Lộc thuộc Châu Hoan ( nay thuộc phạm vi các xã Thiên Lộc, Phúc Lộc, Tùng Lộc thuộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, xem ảnh, Click vào ảnh để xem ảnh phóng to)Posted Image

Dựng xong đô ấp, Dương Vương lại cưỡi thuyền thẳng về hướng bắc, tiếp tục đi xem phong cảnh đất nước. Thuyền đang đi, bỗng có một người con gái “tóc dài ngài (người) đẹp, da phấn mặt hoa” từ dưới nước nổi lên, tự xưng là Thần Long. Sau khi chào hỏi ân cần, vương mời nàng lên thuyền, đôi bên trò chuyện rất ăn ý. Dương Vương đưa nàng về đô ấp Ngàn Hống và cưới làm vợ.

Vương lại tiếp tục tuần thú phương Bắc. Đến vùng núi như ngày nay là Sơn Tây, vương thấy cảnh núi sông thật là hùng vĩ đặc biệt ngã ba Hạc là nơi thủy bộ thuận lợi, xem ra nhiều chỗ ưu việt hơn đất Hoan Châu. Vương bèn cho xây dựng đô ấp mới ở vùng Nghĩa Lĩnh, từ ngã ba Hạc đến vùng núi Hi Cương , làm nơi hành tại.

Dương Vương lại lên vùng Hưng Hóa- Tuyên Quang bây giờ, lấy thêm một người con gái họ Mã là nàng Ngọc Nương làm vợ và dựng một cung sở cho nàng ở, cung sở đó xưa là vùng Tiên Cát, gần Việt Trì ngày nay.

Vương ở Tiên Cát ít lâu rồi trở về đô ấp Ngàn Hống. Lúc này, nàng Thần Long đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa, sinh con trai đầu lòng. Đó là Long Vương, con trưởng của Dương Vương, tức là Vua Hùng thứ nhất, sau này gọi là Hùng Hiền Vương (tức Lạc Long Quân)

Khi Long Vương lớn lên, Dương Vương giao cho đô ấp Nghĩa Lĩnh để trông coi việc nước ở phương bắc và thay cha chăm sóc bà mẹ thứ là Mã Ngọc Nương. Trong thời gian ở kinh thành Nghĩa Lĩnh, nhân một chuyến đi tuần thú, Long Vương gặp nàng Âu Cơ ở vùng Sơn Tây cũ và lấy làm vợ.

Long Vương đưa nàng Âu Cơ về động Hi Cương , còn mình thì ở luôn Phong Châu (gần ngã ba Hạc) làm việc nước.

Về sau Long Vương bỏ kinh đô cũ Ngàn Hống, lấy Phong Châu làm kinh đô chính, đặt tên nước là Văn Lang, chia làm 15 bộ

Từ đó cố đô Việt Thường ở Ngàn Hống bị thời gian xóa dần dấu vết.

( Theo Địa chí huyện Can Lộc,Huyện ủy, UBND huyện Can Lộc, Sở VHTT Hà Tĩnh, 1999, trang 224-225 )

II – HÙNG ĐỒ THẬP BÁT DIỆP THÁNH VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ TRUYỀN (Ngọc phả 18 đời Hùng Vương)

( Ngọc phả này hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương)Posted Image

Sách chữ Hán, khổ 19×25 gồm 21 tờ, 42 trang, mỗi trang 10 giòng, tổng số gần 10.000 chữ.

Trang 1 (tên Phả) : Hùng đồ thập bát diệp Thánh Vương Ngọc phả cổ truyền)

Trang 2: Hoàng triều, Hoằng Định nguyên niên Canh tý, đông, thập nguyệt, cát nhật, Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính

Góc trái ghi: Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao

Góc phải có đóng ba dấu và ghi: Bản sao lưu tại quan lang phụ đạo Hùng Vương tôn điệt, phụ truyền tử kế, giữ Nghĩa Cương tạo lệ, hộ nhi Trung Nghĩa hương giám tự ( Hoàng triều Hoằng Định năm đầu, Canh Tý (1600), mùa đông tháng 10, ngày tốt, Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng sửa và đính chính, Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao. Bản sao lưu tại nhà quan lang phụ đạo, con cháu Hùng Vương cha truyền con nối, là dân tạo lệ xã Nghĩa Cương, và là Giám thôn Trung Nghĩa )

Tờ 21 trang 42, giữa trang ghi: Hồng Đức nguyên niên, Nhâm Thìn xuân, tam nguyệt , cốc đán, Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Cố phụng soạn. Góc phải ghi: Dĩ thượng nhị thập nhất tờ. (Nhâm Thìn, Hồng Đức năm đầu, mùa xuân , tháng ba, là ngày lành, Hàn lâm viện Trực học sĩ là Nguyễn Cố phụng soạn. Tổng số là 21 tờ ).

Đặc biệt Ngọc phả này có ghi về đô thành Ngàn Hống như là một kinh đô của người Việt cổ trước khi có kinh đô Văn Lang. Đó là nội dung ghi ở các trang 2a , 2b, 3a và 3b. Nguyên văn như sau :

Dương Vương vâng chỉ, nghiêm túc theo uy trời, đến núi Nam Miên, đi xem phong thủy, chọn được thế đất tốt để lập đô ấp. Bèn qua Hoan Châu. . .xem khắp hình thế, thấy một vùng phong cảnh lâu đài vạn lớp, gọi là núi Hùng Bảo Thiếu Lĩnh, gồm 199 ngọn, gọi là Cựu Đô, nay gọi là Ngàn Hống, giáp với cửa Hội Thống ngoài biển. Núi đi gấp khúc, nước chảy vòng theo, rồng cuộn hổ nằm. Xem khắp bốn phía, bèn dựng đô thành để định bốn phương triều cống. Bấy giờ khí xuân ôn hòa, vạn vật đua sắc. Vua bình sinh vốn yêu phong thủy, bèn cử giá tuần du ngoài biển, xem khắp địa đồ, bất giác thuyền rồng đến thẳng hồ Động Đình. . . ( tờ 2a và 2b )

Về việc chuyển kinh đô từ Ngàn Hống ra núi Nghĩa Lĩnh Ngọc phả ghi như sau :

Về sau vua lại đi tuần thú, trải khắp núi sông, xa giá đến xứ Sơn Tây, thấy địa hình trùng điệp , núi đẹp sông hay. Vua bèn tìm địa mạch , nhận thấy từ núi Côn Luân giáng xuống qua cửa ải, tựa như cầu vồng thoát mạch, rồng vút đi xa. . . Lấy sông Bạch Hạc làm nội Minh Đường, ngã ba Lãnh của sông lớn làm trung Minh Đường, núi Tượng Sơn của Nam Hải làm ngoại Minh Đường. Nghìn núi quay lại, vạn sông chầu về, tất cả đều hướng về núi Tổ Nghĩa Lĩnh, thu hết hình thế. Vua nhận thấy thế đất này quý hơn hẳn đô thành cũ ở Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh thường ngự giá lưu lại ở đây. Bên ngoài dựng đô thành Phong Châu (nay đô thành cũ còn thấy ở thôn Việt Trì , xã Bạch Hạc của huyện Bạch Hạc) . Vua xa giá trở về đô thành cũ Hoan Châu, dựng lập đô thành, trước ở núi Thiếu Lĩnh, sau ở núi Nghĩa Lĩnh. Nay lấy núi Thiếu Lĩnh làm đô ấp sở tại của họ Việt Thường. Khi ấy vua đi tuần thú trở về cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh, thấy bà cung phi Thần Long Quân nữ mang thai , có điềm lành ứng rồng, ánh hào quang đỏ đầy ắp nhà, trong trướng sinh hương, mùi hương ngào ngạt mấy tuần. . .( tờ 3a và 3b)

Trên đây là một số tín hiệu cho thấy đã từng xuất hiện kinh đô Ngàn Hống của nước Việt Thường trước khi có kinh đô Phong Châu của các vua Hùng. Ngàn Hống hay Hồng Lĩnh là một ngọn núi lớn ở phía bắc Hà Tĩnh. Núi nằm giữa các huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Can Lộc va thị xã Hồng Lĩnh ngày nay. Kinh đô Ngàn Hống được định vị ở phía nam núi Hồng Lĩnh, trên phần đất các xã Thiên Lộc, Phúc Lộc, Tùng Lộc (huyện Can Lộc) ngày nay.

Đây là một vấn đề hết sức lớn của lịch sử. Bạn muốn tìm hiểu sâu hơn, xin tìm đọc cuốn Nhìn về thời đại Hùng Vương ( Phan Duy Kha, Nxb Lao Động, , 2009) trong đó có một số bài đáng chú ý về đề tài này :

Share this post


Link to post
Share on other sites