daretolead

Mạn Đàm Về "định Mệnh Có Thật Hay Không?"

357 bài viết trong chủ đề này

Việc nhìn nhận kết quả là các hạt mới sẽ được tìm ra sau khi cỗ máy gia tốc thực hiện vai trò băn phá của mình, tối thiểu là 3 loại hạt nhằm đạt nào đấy tương ứng sự cân bằng trong vũ trụ là âm dương và trung tính. Tuy nhiên, việc nhìn nhận môi trường thì nghiệm sẽ phải thay đổi do quan niệm về hạt cơ bản.

Môi trường đường ống được xem là chân không nhằm cho các hạt va chạm theo yêu cầu cũng như đáp ứng thiết bị đo lường, vậy thì theo Lý học môi trường này có phải là chân không hay không?. Rõ ràng, không thể là chân không nếu quan niệm hạt cơ bản là không thể phân chia, vì vậy những hạt này, tự thân nó đã tồn tại trong vũ trụ và có khả năng thẩm thấu qua vật chất "đặc" hơn nó, tia phóng xạ chẳng hạn. Cho nên, nếu kết quả của thí nghiệm ra sao đi nữa, thì chúng ta đã bỏ quên kết quả tương tác giữa hạt cơ bản và vật chất trong môi trường thì nghiệm của đường ống.

Nếu hạt cơ bản chính là nhỏ nhất hay đồng dạng với hạt "Khí" đang tồn tại trong vũ trụ thì việc nhận định các hạt mới ít nhất là 3 loại sẽ được tạo ra là chắc chắn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Với nhận định vũ trụ là vô hạn, điều này hoàn toàn chính xác.

Để thấy được một hành tinh trong vùng tối của vũ trụ thì phải cần sự phản xạ của ánh ánh từ hành tinh đó, hiện tại kính thiên văn trên các phi thuyền chỉ đạt tầm nhìn 20 tỷ năm ánh sáng và biên vũ trụ, ngoài tần nhìn trên chỉ là bóng tối dày đặc.

Nếu chấp nhận vũ trụ nhìn nhận được như một hành tinh trong tổ hợp ADNH thì rõ ràng, để nhìn thấy một vũ trụ khác như vũ trụ ta đang sống thì kính hubble phải nhìn thấy ở tầm 950 tỷ năm ánh sáng - Đây là điều khoa học chưa thực hiện được hoặc ánh sáng phát ra từ hình tinh này chưa tới được kính huBble của chúng ta.

Bằng khác niệm vũ trụ nguyên thủy như biển nước vô hạn sau đó vận động, như vận tại các biên vô cùng của vũ trụ cũng đang phản ứng theo quy luật, rõ ràng tại vị trí này chúng cũng sẽ phải "hao hụt" như vậy Vô Hạn sẽ trở thành Hữu Hạn.

Mặt khác, vũ trụ khởi nguyên là tồn tại cho nên chính nó là giới hạn của trạng Nhỏ Nhất của vật chất hay vật chất sẽ không thể phân chia nhỏ mãi mãi được, cho nên bằng việc quán xét quy luật phổ biến của các trạng thái vũ trụ, con người có thể dự đoán số cấp phân chia của HẠT mà máy gia tốc đang bắn phá.

Share this post


Link to post
Share on other sites
  On 3/13/2012 at 00:53, 'hoangnt' said:

Với nhận định vũ trụ là vô hạn, điều này hoàn toàn chính xác.

Để thấy được một hành tinh trong vùng tối của vũ trụ thì phải cần sự phản xạ của ánh ánh từ hành tinh đó, hiện tại kính thiên văn trên các phi thuyền chỉ đạt tầm nhìn 20 tỷ năm ánh sáng và biên vũ trụ, ngoài tần nhìn trên chỉ là bóng tối dày đặc.

Nếu chấp nhận vũ trụ nhìn nhận được như một hành tinh trong tổ hợp ADNH thì rõ ràng, để nhìn thấy một vũ trụ khác như vũ trụ ta đang sống thì kính hubble phải nhìn thấy ở tầm 950 tỷ năm ánh sáng - Đây là điều khoa học chưa thực hiện được hoặc ánh sáng phát ra từ hình tinh này chưa tới được kính huBble của chúng ta.

Bằng khác niệm vũ trụ nguyên thủy như biển nước vô hạn sau đó vận động, như vận tại các biên vô cùng của vũ trụ cũng đang phản ứng theo quy luật, rõ ràng tại vị trí này chúng cũng sẽ phải "hao hụt" như vậy Vô Hạn sẽ trở thành Hữu Hạn.

Mặt khác, vũ trụ khởi nguyên là tồn tại cho nên chính nó là giới hạn của trạng Nhỏ Nhất của vật chất hay vật chất sẽ không thể phân chia nhỏ mãi mãi được, cho nên bằng việc quán xét quy luật phổ biến của các trạng thái vũ trụ, con người có thể dự đoán số cấp phân chia của HẠT mà máy gia tốc đang bắn phá.

A hoangnt nói chỉ vài dòng ngắn gọn mà đã bao trùm biết bao nhiêu vấn đề đang nhức nhối :)

Tán dóc chơi, a hoangnt còn nhớ lời hứa viết 1 bài về thuyết ADNH và tận cùng của nó tiếp cận (hoặc liên hệ, nếu có) với Phật giáo như thế nào không ? Rất mong bài đấy của a đấy

Thân,

NA

Share this post


Link to post
Share on other sites

A hoangnt nói chỉ vài dòng ngắn gọn mà đã bao trùm biết bao nhiêu vấn đề đang nhức nhối :)

Tán dóc chơi, a hoangnt còn nhớ lời hứa viết 1 bài về thuyết ADNH và tận cùng của nó tiếp cận (hoặc liên hệ, nếu có) với Phật giáo như thế nào không ? Rất mong bài đấy của a đấy

A, nhớ rồi, sẽ phân tích sớm nhưng rất phức tạp ,tạm quay lại chủ đề hiện nay.

Chúng ta có câu hỏi tiếp theo, vậy thời gian bắt đầu vận động sau sự khởi nguyên của vũ trụ là khi nào?.

Giả sử, nếu chấp nhận như trên thì sau 950 - 20 = 930 tỷ năm nữa ánh sáng từ một vũ trụ kề bên mới tới chúng ta, và vì vậy các nhà khoa học phải nâng cấp kính hubble hoặc có một thiết bị đặc biệt khác, ánh sáng mang thông tin - điều này khoa học đã chứng minh.

Mặt khác, sự hoàn hảo vũ trụ là như thế nào? chúng ta xét 47 triệu năm trước, loài sinh vật khủng long ra đời và sau đó bị tuyệt diệt, tới nay loài người xuất hiện, tinh túy của vũ trụ - phải chăng con người là sản phẩm hoàn hảo nhất của vũ trụ - chắc chắn như vậy.

Trong một vũ trụ của 20 tỷ năm ánh sáng, với vòng vận động có thể được xem 47 triệu năm sau cùng xuất hiện loài người thì điều này cho thấy sự Không cần thiết của một vũ trụ vận động ở vô cùng để sinh ra loài người. Vậy thì, vũ trụ 20 tỷ năm chính là phải được chấp nhận là thời gian bắt đầu của sự vận động, dĩ nhiên phải chính xác lại là 16 tỷ hay 17 tỷ năm chẳng hạn.

Chủ đề Định mệnh có thật hay không liên quan đến Thượng Đế - Ngài là ai?

Nếu Định mệnh là có thật, thì rõ ràng không có Thượng Đế do sự điều khiển của ngài, do vậy không có gì bàn thêm.

Một trường hợp khác là có Thượng Đế và Ngài can thiệp tùy lúc do sức mạnh và sự nhận biết được định mệnh hay nhân quả, như vậy Ngài không thể can thiệp toàn vũ trụ vì Ngài thuộc vũ trụ. Vậy thì sức mạnh của Ngài chính là tiế3y rap cận được nguồn năng lượng vũ trụ và trí tuệ vũ trụ, cùng với tổ chức Thiên đình để điều hành. Lúc này Ngài chấp nhận sự can thiệp nhưng hướng theo quy luật nhân quả đã được nhận biết, giống như làm Phong Thủy vậy. Vậy thì, hoàn toàn có thể.

Nhưng tại sao lịch sử nhân loại nhiều giai đoạn hết sức bi bát như vậy? sao Ngài không can thiệp, điều này chỉ ra Ngài cũng phải chọn lựa dòng năng lượng của vũ trụ đang vận động như thế nào, nhân quả nhân loại ra sao?. Như vậy, Ngài là nhân thần, vì là nhân thần ngài sẽ có thể hỗ trợ mành đất quê hương của ngài, chắc chắn.

Thực tế chứng minh được không? nếu chúng ta cô lập nhân loại, thì Thượng đế chỉ cần can thiệp nhân loại (trên hòn bi trái đất) thôi chứ không phải vũ trụ, xem lại công thức Einstein E=mv2, ta thấy hoàn toàn có thể xảy ra.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phật pháp chia vật chất làm bẩy dạng gọi là "vi trần". Dạng nhỏ nhất là "Lân vi trần" và sau "lân vi trần" thì vật chất không tồn tại ở dang có trọng lượng - nói theo ngôn ngữ khoa học. Nguyên văn bản dịch tiếng Việt là "biến thành hư không". Đây chính là một dạng tồn tại của vật chất mà Lý học gọi là "Khí".

Nhưng trong tạng kinh "Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm" - mà tôi đã trích dẫn rất nhiều trong cuốn sách đã xuất bản : "Đức Phật khai ngộ về tính thấy" (Sau này khi viết lại tôi bỏ đoạn này vì đã định nghĩa lại về vật chất) - thì Phật pháp không coi hư không là hoàn toàn "không". Vì - theo lý luận của Đức Phật - khi người ta nhận thức được hư không thì thì hư không đã chứa đựng "Tính thấy" - chứ không đơn giản là so sánh giữa cái có và cái không. Bởi vậy, cho rằng Phật Pháp không nhận thức được bản chất của vật chất là một sai lầm rất căn bản của ông Lý Hồng Chí.

Có thể nói rằng: Nếu thiếu kiến thức về Phật Pháp thì tôi không dám xác định : Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang mơ ước. Và có lẽ tôi còn chần chừ khi xác định rằng: "Không có Hạt của Chúa". À! Mà hết tháng Ba dương lịch rồi, sao chưa thấy công bố kết quả thí nghiệm của CERN nhỉ?

Nhân đây xin muôn vạn lần cảm tạ anh linh tổ tiên đã để lại một biểu tượng rất độc đáo để con cháu đời sau tìm về nguồn cội của một tri thức siêu việt với danh xưng văn hiến. Đó chính là chuyện "Sự tích cây nêu". Chiếc áo cà sa của Đức Phật phủ bóng lên cây nêu - một trong những ý nghĩa của hình tượng này là hãy đi tìm bản chất của Thái cực - khởi nguyên của vũ trụ - trong minh triết Phật giáo. Đó chính là "Tính thấy" và sự giải thoát.

Hư không là khái niệm chưa được gắn kết cho một sự vật, hiện tượng cụ thể nhưng có thể xem là so sánh tới "mọi thứ" mà ta muốn so sánh, như vậy khi một người tư duy về Hư không thì chủ thể rõ ràng đã có liên kết tới Tính thấy và đối tượng Hư không trong mối quan hệ nhân quả chính là bất cử cái gì đang tồn tại mà ta có thể biết hoặc định hình tới.

Điều này chỉ ra rằng Hư không cũng có Tính thấy thông qua đối tượng định hình như trên, hay lúc này tương tác đã tới khắp vũ trụ, chúng ta có thể hình dung giống như ta đang suy nghĩ câu: Tôi đang suy nghĩ vậy.

Tính thấy không phải là Khí, phải chăng Tính thấy chính là thuộc tính cơ bản của vật chất, kể cả từ Thái cực cho tới Hậu Thiên, nhằm đảm bảo cho sự liên kết mọi sự vật, hiện tượng vận động theo quy luật vũ trụ. Từ đây, có thể hình dung Tính thấy là mọi "Lực" tương tác giữa các trạng thái vật chất, là tổng hợp mọi thứ tương tác - khoa hiện nay chỉ mới biết 5% mà thôi, ví dụ lực hấp dẫn, lực điện từ...

Tính thấy rõ ràng khác biệt với Khí nếu Khí là dạng vật chất nhỏ nhất không phân chia, bởi vì tự thân giữa các hạt vật chất này khi tồn tại trong môi trường khởi nguyên - Thái cực cũng phải có tương tác. Dù là vô cùng nhỏ nhưng không thể là 0, đây chính là lý giải tồn tại sự tương tác giữa chúng và tồn tại "một khoảng không gian" giữa các hạt vật chất cơ bản này, giả sử với kích thước tối ưu là hình cầu. Lúc này, các lực tương tác giữa chúng sẽ trực tiếp với nhau và xuyên qua khoảng không gian đó.

Hậu thiên vận động với Khí tụ thành hình cũng chỉ ra đến một lúc nào đấy cũng sẽ cạn kiệt Khí nhưng Hình sẽ nhiều lên, tương tác giữa chúng trong một lúc nào đấy sẽ bị phá vỡ và kéo theo tan rã toàn vũ trụ, dĩ nhiên sẽ phải là phản ứng hạt nhân nguyên tử?

Từ đây, ta thấy đối với bệnh nhân oxy nguyên chất cho người bệnh phải có thêm không khí bình thường tức thêm Khí nữa?.

Vấn đề Khí được xem là Lân vi trần là dạng vật chất nhỏ nhất - làm sao có thể chứng minh và phân loại các hạt như trên?

Vì chúng ta nhận thức được chuyện này so với vạn vật thì nhận thức có phải là biểu hiện Tính thấy hay không? - trong nhận thức tự đã có Tính thấy.

Kính.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào mọi người quan tâm chủ đề này, hôm nay rảnh nên TG vào topic chơi vui, hiPosted Image!

TG cho rằng: Định mệnh hoàn toàn có thật đối với Chúng sinh (con người, động vật, ....), sự việc, sự vật trong vũ trụ này thể hiện qua chu kỳ của nó.

- Chúng sinh: Sinh - Lão - Bệnh - Tử

- Sự việc: Thành - Trụ - Dĩ - Diệt

- Sự Vật: Thành - Trụ - Hoại - Không.

Kính.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vấn đề Khí được xem là Lân vi trần là dạng vật chất nhỏ nhất - làm sao có thể chứng minh và phân loại các hạt như trên?

Nếu chấp nhận Hạt cơ bản là nhỏ nhất thì giai đoạn khởi nguyên vũ trụ thì toàn bộ không gian chỉ bao gồm các hạt cơ bản liên kết với nhau, đồng chất - vậy thì rõ ràng giữa chúng phải tồn tại các lực tương tác ban đầu, điều này chỉ ra sự mâu thuẫn rằng: nếu chỉ có hạt cơ bản thì tương tác giữa chúng cũng là vật chất thì phải là hạt gì hay tự thân Hạt cơ bản liên kết?.

Như vậy, logic thì liên kết ban đầu này là lớp vỏ của Hạt cơ bản và là một dạng vật chấp cấp thấp hơn tức hạt lớn hơn nhằm tiềm ẩn hay tàng trữ các trạng thái Âm dương Ngũ hành của vạn vật. Lúc này giữa Hạt cơ bản và lớp vỏ sẽ là các lực liên kết tạo thành: Nhân - Vỏ - Lực ban đầu của vũ trụ.

Sau khi vũ trụ vận động, vạn vật hình thành thì KHÍ được hình thành hay ngay trong giai đoạn khởi nguyên đã có KHÍ?

Chúng ta cũng có thể dùng lý luận này chứng minh Linh hồn tồn tại được.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vô Trước:

[Như vậy, do thống nhất và đấu tranh với nhau giữa các lực lượng âm, dương, trong vạn tượng hình thành ba lực lượng là Chung, Âm, Dương với bản chất được mô tả ở trên, được gọi là Tam tài. Tam tài thể hiện sự tương tác thống nhất và đấu tranh với nhau của các lực lượng âm, dương trong vạn tượng. Quan hệ tương tác giữa ba lực lượng này làm cho Vạn tượng cân bằng và phát triển.

Posted Image

Với sự phân tích trên thì Hạt cơ bản luôn phải có 3 yếu tố và vì vậy môi trường khởi nguyên của vũ trụ sẽ tồn tại một trạng thái liên kết nào đó sao cho vũ trụ tĩnh lặng, đồng nhất mọi hướng. Vì vậy môi trường giữa các Hạt cơ bản là "lực" với một trạng thái vật chất, rõ ràng là phải thô hơn Hạt cơ bản. Hạt cơ bản như mô tả chính là Lân vi trần còn các lực ban đầu như một lớp vỏ bọc.

Bằng một đột biến nào đấy, vũ trụ vận động và thế giới Hậu Thiên ra đời. Các sự vật, hiện tượng mà chúng ta thấy hoặc chưa nhận biết đều phải xảy ra trong "lòng vũ trụ" hay trong một môi trường của trạng thái khởi nguyên, điều này chỉ ra ngay tại bây giờ chúng ta đang được "nhúng" trong trạng thái đó.

Thế giới Hậu Thiên xuất hiện, lúc này các tương tác giữa các Hạt cơ bản sẽ bị điều chỉnh tương ứng (Tán) do việc hình thành các trạng thái vật chất khác nhau (Tụ) và tới cực hạn, "lực" không còn đủ sức "giữ" các trạng thái vật chất và vũ trụ tan rã.

Để giải thích Linh hồn chúng ta dựa vào:

Thuyết âm dương ngũ hành.

Thuyết tiến hóa Đác Uyn.

Thiên văn hiện đại.

Chính bản thân con người và sinh vật.

Share this post


Link to post
Share on other sites

@hoangnt

Anh xem thế nào không thì tảo hỏa nhập ma.

Share this post


Link to post
Share on other sites

@hoangnt

Anh xem thế nào không thì tảo hỏa nhập ma.

Đang rất rõ ràng, không tẩu hỏa nhập ma đâu vì về lý thuyết Nhân Quả thì não của chúng ta có thể chứa dữ liệu ở mức độ vô cùng.

Share this post


Link to post
Share on other sites

DUY-THỨC-HỌC

NGỌC-HUỆ-CHƠN



Có một nhà tâm-lý-học đã làm một cuộc thí nghiệm bằng cách nuôi hai con voi con vừa mới đẻ được mang về từ trong một khu rừng:

- Con voi A được cột vào chân một sợi dây nhỏ dài cở 30 m, đầu giây buộc chặt vào một thân cây lớn.

- Con voi B được thả đi tự do trong vườn

Mấy năm sau cả hai con đều lớn. Ông bắt cả hai, cùng cột mỗi con bằng một sợi giây nhỏ dài cở 30m vào một thân cây. Nhưng con voi A, vì đã quen với sợi giây từ trước nên không có phản ứng gì lại. Trái lại con voi B thì vì quá quen tự do đi lại khắp nơi nên bèn bứt giây để tiếp tục tự do trong khu rừng rộng lớn.

Với con voi A, vì đã bị cột giây từ nhỏ nên khi lớn lên dù đã có đủ sức mạnh để bức phá sợi giây, nó vẫn không làm. Là vì sao? Tại vì voi A tin rằng giây chính là một phần của cuộc đời nó. Nó tin rằng cuộc đời nó chỉ hoạt động trong một vòng tròn bán kính 30m đó mà thôi.

Nó không nghĩ rằng nó có thể đi ra ngoài ranh giới đó. Nó không nghĩ và không cần biết là bên ngoài ranh giới đó, có những rừng cây rộng lớn, có suối nước trong tươi mát, nào là đồng cỏ xanh tươi. Nó cũng không suy nghĩ để tìm hiểu rằng bên ngoài thế giới của nó còn có đồi núi bao la, và đồng hoang chim hót. Nó chỉ bằng lòng với cuộc đời đã có với những bó cỏ khô được người mang tới cho nó.

Nhiều khi có lủ trẻ nhỏ bắt nó phải làm trò, phải qùi lạy mới chịu cho nó những khúc mía ngọt ngon.

Như vậy nó sống ở trong tình trạng gò bó mà nào nó có biết chăng? Cái gì đã khiến cho nó phải chấp nhận hoàn cảnh của nó đã có? Chính vì tư tưởng hạn hẹp của nó. Trong tư tưởng hạn hẹp của nó đã ăn sâu trong tiềm-thức nó từ bao giờ mà nó không biết.

Nói theo danh từ nhà Phật thì: “Trong Mạt-Na-Thức của nó có những chủng-tử trói buộc ý-thức của nó khiến nó không thể hoạt động ra ngoài phạm vi đã quyết định.”

Đối với loài người, có hàng ngàn sợi giây vô hình đã trói buộc ta từ bao đời số kiếp mà ta không hay biết! Ta chỉ hoạt động, được suy nghĩ trong một thế giới vô cùng hạn hẹp, và trở thành nô lệ. Ta tưởng rằng cuộc đời chỉ bắt đầu bằng một tuổi thơ trong trắng, nhưng cũng không tránh khỏi những lo âu sợ hãi do sức ép gây nên bởi khó khăn vật chất hoặc tinh thần. Rồi một ngày một lớn lên, ra đời tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nếu tâm thức không có một sự thăng hoa đáng kể thì ta sẽ thấy cuộc đời vô vị với đủ tuồng hỉ nộ ái ố cho đến ngày cùng khi nằm xuống. Chúng ta cũng như những con voi A trong cuộc thí nghiệm trên mà ta nào có biết!.

Nhưng trái lại, loài người có một trí nhớ cao hơn muôn loài. Do đó mà một số người hay triết gia bắt đầu tìm hiểu và mơ ước về những thế giới mới và nhận thức được tâm-thức chúng ta đã trói buộc mà ta không hay biết. Các nhà tâm lý đã khám phá ra những ý thức, tiềm thức và siêu-thức, nhưng những điều họ khám phá và tìm ra được thì trên 25 thế kỷ nay đã có đức Phật Thích-Ca đã khám phá ra rồi mà còn đi xa hơn nữa.

Vậy chúng ta thử tìm hiểu Duy-Thức là gì?

Duy-Thức-Học (Logic of Knowledge) là một khoa-học nghiên cứu sự nhận-thức của con người về tất cả các sự vật và hiện tượng trong vũ-trụ, những nhận thức đó. Những tiến triển của tâm-thức lên tới một mức độ càng cao, đa số do sự suy tưởng hoặc tu tập, như là tham thiền nhập định.

Những sự vật và hiện tượng trong vũ-trụ rất đa dạng và không thể nào đem ra mà nói hết được nên nhà Phật mới miễn cưỡng đặt ra cho chúng một cái tên chung là “Pháp”. Bất kỳ việc chi, dầu nhỏ hay lớn, hữu-hình hay vô-hình, tốt hay xấu, hữu-vi hay vô-vi, chơn-thật hay hư-vọng đều có thể gọi là “Pháp”. Và từ những nguyên-tắc, những lẽ thường, lý nhỏ cho đến tôn-giáo, lại cái Luật chung bao gồm Vũ-trụ, làm một với Hư-Không, cũng gọi là “Pháp”. Nếu đem sự hiểu biết mà nghiên cứu các “Pháp” thì quá phức-tạp nên Phật mới chia nó ra là 100 Pháp, gồm có:

1 - Tâm-Pháp: có 08 nhóm.

2 - Tâm-Sở-Pháp: có 51 nhóm.

3 - Sắc-Pháp: có 11 nhóm.

4 - Tâm Bất tương ứng Hành-Pháp: có 24 nhóm.

5 - Vô-Vi-Pháp có 06 nhóm.

Mặc dù đã phân chia như vậy, nhưng sự nghiên cứu cũng còn nhiều việc khó khăn. Người viết chỉ xin nói sơ lược về sự nhận thức đối với các “Pháp” đó ra sao mà thôi chớ chưa dám đi sâu vào khía cạnh nầy.

Một cậu sinh viên trung-học được thầy giải cho biết 5 giác quan để nhận thức. Đó là:

Mắt (để trông) - Tai (để nghe) - Mũi (để ngửi) - Lưỡi: (để nếm) - và Da (để tiếp xúc).

Trong cuốn “Bài học thực tiển về cảm-quang-tuyến thuật” do nhà xuất bản Gabriel ấn hành, Lesourd quan niệm “điện giác” là một trong “không phải Ngũ-Quan” mà là “Lục-Quan” của ta. Theo ông thì có 6 Giác-Quan, chung quy chỉ là một “Giác Quan” ở trong óc mà chia ra nhiều chức vụ phân tán ra nhiều nơi, như:

- “Mắt” dùng những làn điện để “Thấy” gọi là “Thị-Giác”.

- “Tai” dùng những làn điện để “Nghe” gọi là “Thính-Giác”

- “Mũi” dùng những làn điện để “Ngửi” gọi là “Khứu-Giác”

- “Lưỡi dùng những làn điện để “Nếm” gọi là “Vị -Giác”

- “Da” dùng những làn điện để “Cảm” gọi là “Xúc-Giác”

- Còn “Thần-Kinh-Hệ” và “Tiềm-Thức” dùng những làn điện để “Biết” gọi là “Điện-Giác”

Cũng theo Lesourd thì mỗi người có “Điện-Giác” khác nhau từ trình độ đến cách sử dụng và hiệu quả.

Mới đây, năm 1968, trong cuốn “Ngũ-Quan và một vài giác-quan khác”, do Nouveaux Horizons xuất bản, Robert Froman dựa vào những phát minh mới nhứt về khoa-học, nhứt là khoa Cơ-Thể-Học, Thần-Kinh-Học để giải quyết rằng con người không phải “Cảm-Giác” chỉ bằng “Ngũ-Quan” mà thôi. Các dây thần-kinh chìm ngấm trong sâu thẳm của con người còn nhiều khả-năng để con người tri-giác vũ-trụ và kẻ khác một cách tinh-vi hơn, nếu biết khai thác hết các cảm-quan của mình.

Đức Phật nhờ đoạt được “Chánh-Đẳng Chánh-Giác” mà Ngài đã soi thấu được những phần sâu thẩm nhứt của Tâm-Linh con người và Ngài đã dạy chúng ta, không những có “Giác-Quan thứ 6” mà còn có “Giác-Quan thứ 7 và 8 nữa”

Khi bắt đầu giảng về “Duy-Thức-Học” thì chỉ có một số ít cao-đệ (như Đức Di-Lạc Bồ-Tát) hiểu nổi mà thôi. Ngài biết rằng môn này rất khó, nên mỗi khi có người nào hỏi về một vấn đề gì có liên quan đến Duy-Thức-Học thì Ngài lại giảng thêm một chút nửa. Do đó sự giảng-huấn của Ngài bàng bạc ở nhiều bộ kinh, nên không thành một hệ-thống rõ rệt vì đó mà lại càng khó khăn cho những người tu học sau nầy.

Mùa Thu năm 1783, trên vòm trời xứ Anh và Pháp, có xảy ra một hiện-tượng người bay luyện trên cao, làm cho mọi người thán phục. Còn những người không thấy mà chỉ nghe nói lại nên không tin, cho là chuyện thần-thoại. Đến ngày nay, hiện-tượng ấy không còn bị coi là chuyện hoang đường nữa, mặc dầu nó không thường xảy ra. Những làn điện quang-tuyến, là những hiện-tượng điện-từ giống như là điện sáng. Tai nào thâu bắt được nó ít ra phải là tai thu quan-tuyến có khả-năng chuyển thành âm thanh. Người có điện-giác là người thích nghi để bắt những làn điện quang-tuyến.

Năm 1960, ông Clyde E. Ingalls, giáo sư khoa điện-cơ-học tại học đường Cornell, quả quyết rằng chính ông đã “nghe” được Radar. Ông cũng bảo rằng, có nhiều người khác cũng nghe được như ông. Theo ông, cái nghe nầy không phải dùng bằng lỗ tai thông thường, mà người có điện-giác chỉ dùng bằng một thứ lỗ tai riêng và cơ quan ấy đến ngày nay vẫn còn trong vòng bí mật.

Mùa Hè năm 1962, bên Nga có loan tin rằng, có một người đàn bà có thể dùng mấy đầu ngón tay “đọc” chữ in, trong lúc bị bịt mắt.

Cuối năm 1963, ông Youtj, giáo sư tâm-lý-học tại đại-học-đường Columbia, quả quyết rằng bà Patricia Stanley có thể dùng mấy ngón tay búp măng của bà mà phân biệt được màu sắc. Suốt mùa Hè năm 1963, trong 50 giờ thí nghiệm, bà Stanley dùng bàn tay đã phân biệt được các màu sắc. Cách phân biệt màu sắc trong trường hợp trên, người ta gán cho đó là “Giác-Quan thứ 6” (6ième sens) tức là “Điện-Giác”. Các nhà Tâm-Lý gọi lối hiểu biết đó bằng một danh từ lạ “Tri-Giác Ngoại Cảm” (TGC) mà người Pháp gọi là “Perceptio extra sensorielle” và viết tắt là:”PES”

Có ba thứ TGC quan trọng nhứt:

a/- Viễn-Cảm (Télépathie): Là khả-năng dùng một giác-quan nào ngoài các giác-quan thông thường để truyền-đạt hay thu nhận tư-tưởng, tình-cảm cho người hay từ người ở xa.

b/- Hiển-Thị (Clairvoyance): Là khả-năng dùng một giác-quan nào ngoài các giác-quan thông thường để ý-thức, những đối-tượng hay hiện-tượng khách-quan.

c/- Tiên-Tri (Prémonition): là khả-năng biết trước những việc chưa xảy ra.

Phân tích ba hình thức TGC nói trên, ta có thấy một giác-quan nào ở trong bóng tối hành-động đó. Chứng minh nó như hiện-tượng lý-hóa không được mà chối bỏ nó thì không ổn.

Ngày nay ta hiểu được phần nào về môn học nầy là nhờ ở công ơn của hai vị Bồ-Tát “Thế-Thần” (Vasubandhu) và “Vô-Trước” (Asanga). Hai vị nầy sống khoảng 900 năm sau đức Phật nhập Niết-Bàn, vốn tu theo đạo Bà-La-Môn và đã đoạt được một số thần-thông đáng kể. Sau vì nhận thấy cứ tiếp tục con đường cũ thì không thể tiến sâu thêm được và nhứt là khó có thể giải-thoát khỏi luân-hồi sanh-tử cũng như khó có thể đáp ứng được hạnh nguyện cứu đời nên cả hai vị (hai anh em ruột) đều nghiên cứu Phật-Pháp và sau cùng, quy-y theo Phật. Nhờ có thần-thông cao thâm, hai vị đã xuất hồn lên cõi trời Đâu-Suất và được đức Di-Lạc Bồ-Tát trực tiếp truyền dạy về Duy-Thức-Học. Điều nầy nghe có vẻ huyền-bí; nhưng tác phẩm về Duy-Thức của hai vị để lại ngày nay có hệ-thống và hết sức rành mạch là một bằng chứng.

Sau nầy, các nhà tâm-lý-học Đông-Tây dựa vào một phần các sự hiểu biết được truyền lại rồi ra công nghiên cứu thêm về một số những giác-quan mới mà họ gọi là “Tiềm-Thức - Siêu-Thức”. Hai thức nầy có một vài điểm giống như “Mạt-Na-Thức” (giác-quan thứ bảy) và “A-Lại-Da-Thức”(giác-quan thứ tám).

Thử nghiên cứu sơ lược từng giác-quan một, thí dụ trái cam:

1/- “Mắt” hay “Thị-Giác” cho ta những hình ảnh của mọi sự vật. Ví như: Trái cam màu vàng là đối tượng hiểu biết của mắt nên gọi là “Nhãn-Trần”. Sự hiểu biết do mắt mang lại gọi là “Nhãn-Thức”.

2/- “Nhĩ-Thức” là sự hiểu biết do tai mang lại. Đối tượng của Nhĩ-Thức là Nhĩ-Trần. Trong thí dụ trái cam thì trái cam không phát ra âm thanh, nhưng “Nhĩ-Thức” vẫn hoạt động. Ta vẫn nghe “cái không tiếng” của trái cam.

3/- Về mũi, ta có “Tỉ-Thức” và “Tỉ-Trần”. Là (trái cam có mùi cam).

4/- Về lưỡi, ta có “Vị-Thức” và “Vị-Trần”. (trái cam ngọt ngào).

5/- Về thân, ta có “Thân-Thức” và “Thân-Trần” (trái cam có vỏ sần-sùi nếu ta tiếp xúc với nó).

Vậy thì, dùng cả năm giác-quan kể trên ta cho rằng ta có một hiểu biết khá đầy đủ về trái cam.

Sự thật thì không phải vậy. Tại sao?

Vì mỗi giác-quan của ta đều phải có một trung khu thần kinh trong đầu điều khiển. Nếu các trung-khu đó hoạt động tốt thì giác-quan mới hoạt động được:

- Trung khu thần kinh “thị-giác” điều-khiển “mắt” quan sát (nhân-trần) - cho nhãn-thức.

- Trung khu thần kinh “thính-giác” điều-khiển “tai“ quan sát (nhĩ-trần) - nhĩ-thức.

- Trung khu thần kinh “tỉ-giác” điều-khiển (tỉ-trần) - cho tỉ-thức.

- Trung khu thần kinh “vị-giác” điều-khiển (vị-trần) cho vị-thức.

- Trung khu thần kinh “xúc-giác” điều-khiển (thân-trần) cho thân-thức.

Các trung khu thần kinh đó gọi là các “Căn”. Nhờ đó ta có “Nhãn-căn, Nhĩ-căn, Tỉ-căn, Thiệt-căn, Thân-căn”. Các căn nầy gọi là các căn vật-lý vì nó nằm ở hệ thần-kinh của mọi người. Các nhà chuyên môn giải-phẩu y-học có thể tìm hiểu chúng một cách dễ dàng. Riêng “Thân-Căn” gồm cả hệ thần kinh cảm-giác rất dễ tìm thấy. Trong chiến tranh, có nhiều trường hợp một binh sĩ bị đạn bắn trúng “Nhãn-Căn”. Mặc dầu anh ta không chết và mắt vẫn còn nguyên vẹn nhưng anh ta vẫn bị mù. Vì “Nhãn-Căn” đã hỏng, mặc dù mắt vẫn tiếp xúc với “Nhãn-Trần” nhưng không còn có “Nhãn-Thức” nữa. Vậy thì, “Nhãn-Thức” phải có “Nhãn-Căn’’ mới hoạt động được. Cũng vậy, đối với “Nhĩ-Căn, Tỉ-Căn, Thiệt-Căn, Thân-Căn”.

6/- Bây giờ ta hãy thử có một trái cam đặt ở phòng bên cạnh.

- Mắt ta không nhìn thấy trái cam.

- Mũi ta không ngửi thấy trái cam.

- Tai ta không nghe thấy trái cam.

- Lưỡi ta không nếm thấy trái cam.

- Thân ta không tiếp-xúc với trái cam.

Thế nhưng nếu ai nói có một trái cam ở phòng bên cạnh thì ta hiểu ngay.

Vậy thì giác-quan nào đã cho ta sự hiểu biết nầy? Thưa rằng đó là do “Ý-Thức” (thức thứ sáu).

Ý-Thức là một thức rất quan trọng trong mỗi con người, vì “Ý-Thức” có thể cảm thọ được những hiện tượng vô-thể-chất trong khi năm thức trước hoàn toàn bất lực.

Ý-Thức có thể tổng hợp những hiểu biết mang lại bởi năm thức trước. Do đó cho một hiểu biết đầy đủ hơn. Sự hiểu biết bởi năm thức trước thuần là do cảm thọ, thiếu suy luận, diễn dịch, không có phán đoán, ước lượng, do đó sẽ bị mờ đi, không hồi tưởng lại được nếu không có ý-thức góp phần suy luận, tổng hợp, diễn dịch. Ví như, người đọc sách: nếu mắt vẫn nhìn chữ mà không có ý-thức để ý vào, thì với “Nhãn-Thức không thể hiểu được nghĩa và giá trị quyển sách, đừng nói chi tới chuyện tường thuật lại những gì đã nói.

Trường hợp không có năm thức trước hổ trợ, ý-thức vẫn hoạt động được một cách độc lập.

Thí dụ 1: “Tôi tưởng tượng những cảnh thiên đàng, địa ngục, chỉ bằng ý-thức mà không cần qua năm thức trước (vì những thức trước chưa tiếp xúc với những cảnh giới đó bao giờ). Chỉ khi nào đưa ra sự sáng tạo vô thể-chất vào thực tại cụ thể thì ý-thức mới cần tới năm thức”

Thí dụ 2: Họa-sĩ Walt Disney muốn thiết lập một khu giải trí. Ông phải nhờ ý-thức phác họa mô hình tưởng tượng rồi mới dùng mắt, tay, thiết lập đồ án và xây dựng theo sự chỉ đạo của ý-thức.

Con người và xã-hội loài người, tiến-hóa hay thối-hóa là hoàn toàn do quyết định của “ý-thức” sáng tạo. Đúng vậy, “ý-thức” giúp con người biết suy nghĩ phán đoán làm việc thiện, tu hành, xây dựng đưa con người lên hàng thánh-nhân. Nhưng nó cũng hay chấp-pháp, mê thanh, mê sắc trần, đưa con người theo các chiều hướng dục-vọng, mở cho họ những cửa địa ngục sa đọa. Nhà duy-thức-học gọi ý-thức là ”Công vi thủ, tội vi khôi” (nói về công thì thức nầy hơn hết, còn luận về tội thì nó cũng đứng đầu). Cho nên, tất cả nền văn minh của nhơn loại đều là sản phẩm của ý-thức sáng tạo.

7/- Cũng như năm thức trước, ý-thức cũng cần phải có một ý-căn thì mới hoạt động được. Vậy ý-căn nằm đâu? Các nhà y-học với con dao giải phẩu đã không tìm được ý-căn nơi hệ thần-kinh của con người.

Nói cách khác, ý-thức đã không có một căn vật-lý có thể trông thấy được mà căn của ý-thức lại là một căn tâm-lý. Căn tâm-lý nầy được đặt tên là “MẠT-NA-THỨC” (hay thức thứ 7). Vậy “Mạt-Na-Thức” chính là căn của thức thứ 6 (Ý-Thức). Dựa vào đâu để tìm ra thức nầy? Dựa vào những quan-sát tâm lý:

a/- Một người đang ngủ, sáu thức trước của họ không còn hoạt động nhận thức nữa nhưng các cơ quan nội tạng vẫn hoạt động nhịp nhàng không rối loạn. Vậy phải có một thức nào điều khiển những hoạt động nầy. Người nằm ngủ đó vẫn sống, không phải là một cây thịt vô trí. Mạt-Na-Thức vẫn chỉ huy các hoạt động. Nếu ta lấy tay chọt vào hông người nằm ngủ thì vẫn có cử động lăn qua một bên để tránh né. Nếu ta gãi vào chân, họ lấy chân đá để tự vệ. Nếu ta lấy lông gà dụi nhẹ vào mặt họ vẫn đưa tay lên phủi chổ bị khích động. Những hành động đó hoàn toàn vô thức, cho do Mạt-Na-Thức điều khiển mà thôi.

b/- Giả dụ như ta hồi tưởng lại thành phố Saigon mà ta đã lìa xa từ nhiều năm nay, hình ảnh thành phố đáng yêu ấy hiện ra thật rõ nét và là đối tượng nhận thức của ý-thức. Vậy thì cái gì đã cất dấu hình ảnh thành phố nầy trong suốt bao năm qua để hôm nay lại cung cấp ảnh tượng cho ý-thức phân biệt nhận thức?

Thưa chính là “Mạt-Na-Thức”. Có nhiều khi ta muốn hồi tưởng lại hình ảnh mà nghĩ mãi không ra, bởi vì Mạt-Na-Thức không cung cấp ảnh tượng. Nhưng có khi ta không muốn nhớ mà Mạt-Na-Thức cứ cung cấp. Trường hợp nầy ảnh tượng có thể hiện ra trong giấc mơ. Những hình ảnh đã cất dấu tự bao giờ (có khi từ kiếp trước) vẫn hiện ra trong giấc mơ mà ta không dùng ý-thức để kiểm-soát nổi.

c/- Trường hợp những người bị tình nhân phụ bạc,không sao quên được hình ảnh của người yêu.

Ý-Thức thì muốn chối bỏ, nhưng Mạt-Na-Thức vẫn giữ mãi hình ảnh người yêu cũ, cả trong lúc thức cũng như trong giấc mơ. Vậy Ý-Thức muốn nhận thức những ảnh tượng thực-chất bên ngoài thường phải nhờ tới năm thức trước cung ứng; còn đối với những ảnh tượng bên trong nó cần phải được sự cung-ứng của Mạt-Na-Thức. Không có Mạt-Na-Thức thì nó hoàn toàn bất lực trước những hiện-tượng nội-giới.

Mạt-Na-Thức có công quản thủ những ảnh tượng thế giới bên trong để làm hình thành cho thế giới kiếp sau, nên còn gọi là “Truyền-Thống-Thức”. Điều này có thể giúp ta giải thích được một vài hiện tượng về số mạng con người.

d/- Ví như: Cô A xinh đẹp đang độ thanh xuân, có 5 anh B,C,D,E,F đến xem mắt. Cô dùng ý-thức để quan sát so sánh, phân tách mọi vấn đề của năm anh đó một cách chính xác, nhưng cô không thương anh nào cả. Ý-Thức thường không có sự chấp-ngã và hay dùng lý-trí. Đến khi có anh G tới thì cô bị tiếng sét ái-tình và quyết định sẽ chọn anh G, mặc dầu sự phán đoán bằng lý-trí cho thấy anh G không có điểm nào nổi bật hơn năm anh kia cả. Trường hợp này Mạt-Na-Thức của cô có thể đã mang hình ảnh của anh G từ một kiếp nào xa xôi hoặc một lời thề hẹn biển nào đó đã nằm sẵn trong Mạt-Na-Thức của cô (cất dấu ở A-Lại-Da-Thức) và nó đã điều khiển cô một cách mãnh liệt đến đỗi cô không có thể quyết định theo lý-trí được.

Nhà thiền-học thường khuyên các đệ tử phải luyện khổ hạnh để tránh những vấn đề tình-dục và luyến-ái. Vì vấn đề này thường khắc sâu vào Mạt-Na-Thức để chấp ngã rồi mãnh liệt kéo con người vào vòng luân-hồi sinh-tử với bao hệ lụy đau đớn.

Nhà bác-học Sigmund Freud nhận xét có 80% những hành động của con người là do tình-dục điều khiển một cách khéo léo từ trong Tiềm-Thức (Mạt-Na-Thức) mà ta không biết.

Mạt-Na-Thức mang tánh-chất chấp ngã tạo ra biết bao ý tưởng ích kỷ tham lam tự ái, ngã-mạn che lấp đi phần Nhân -Tính và Phật-Tính có sẵn trong mỗi con người. Nó cũng làm trung-gian giữa thức thứ sáu (Ý-Thức) và thức thứ tám (A-Lại-Da-Thức) trong lãnh vực sinh hoạt giữa nội-giới và ngoại-giới. Không có đấng Thượng-Đế hay một vị thần, tiên nào có thể làm cho Mạt-Na-Thức của ta được trong sạch, nếu không phải chính ta.

8/- Như trên đã nói, mọi hình ảnh do Ý-Thức đưa vào, được Ý-Căn (Mạt-Na-Thức) cất dấu rồi sau đó lại cung cấp để Ý-Thức có thể hồi tưởng lại. Mà cất ở đâu? Xin thưa rằng để ở trong một kho tàng, đó là A-Lại-Da-Thức (thức thứ tám, tiếng Phạn gọi là “chứa đựng”). Cũng như thức thứ bảy, ta không tìm thấy nó dưới hình thức vật-lý, mà nó có thể chứng nghiệm thấy bằng tâm-lý:

a/- Một người bịnh bị chụp thuốc mê rất say đến nổi bác-sĩ cầm dao mổ bụng cũng không hay biết. Trong trường-hợp này, cả bảy thức (trong đó có Mạt-Na-Thức) đều không hoạt-động. Nhưng người đó vẫn không chết; vậy thì thức nào đã điều khiển cơ thể của người đó trong lúc đang nằm trên bàn mổ? Đó là A-Lại-Da-Thức.

b/- Khi con người mới được tạo hình trong bào thai, phải trải qua 4 tháng mới tạo thành được các căn vật-lý. Trong thời gian đó, các thức trước vẫn còn nằm trong trạng-thái nguyên-thể, chưa tác dụng hiện khởi. Phải có một năng-lực huyền-bí nào đóng vai trò kết hợp tổ chức hoàn thành hệ thống bộ máy con người.?

Năng-lực huyền-bí đó chính là A-Lại-Da-Thức.

A-Lại-Da-Thức hoạt-động hoàn toàn trong phạm vi nội giới, rất khó phân loại và nhận thức.

Ta có thể ví nó như bình điện mà các thức khác dùng điện lực để tạo ra các hiện tượng: ánh sáng, hơi nóng, âm thanh, v.v...Chỉ khác là bình điện nầy ta không nhìn thấy được bằng mắt thường.

Vì là một kho tàng nên A-Lại-Da-Thức còn được gọi là “Tàng-Thức”

Nó chứa đựng tất cả mọi nghiệp quả của con người và tồn tại vĩnh-viễn đối với thời-gian và không-gian. Ngay cả lúc người đã chết, bảy thức đều tan biến nhưng hình ảnh, suy luận, chấp ngã hoặc các hành vi hướng thượng hoặc ái-dục của các thức trước được cô động lại thành những chủng-tử và được cất dấu trong A-Lại-Da-Thức. Tất cả những chủng-tử đó giống như mọi nghiệp quả của cá nhân để điều hành cho sự tạo thành một kiếp luân-hồi mới phù hợp với những nghiệp quả mà nó đang mang sẵn.

Trường hợp như những thần đồng (ví như nhạc-sĩ Mozart) cũng là do những biểu-thức đã thâu nhập từ kiếp trước được cất giữ ở A-Lại-Da-Thức. Để dễ hiểu về hoạt động của A-Lại-Da-Thức, xin tóm tắt qua lược đồ ở trang sau.

Khi còn bé, các cụ thường dạy rằng: Đừng làm điều gì ác, vì có hai vị thần ở hai bên vai sẽ ghi chép tất cả mọi hành động của ta để đến khi ta chết sẽ trình lên Diêm Vương phán xét.

Hai vị thần đó thật ra chỉ là biểu-tượng của A-lại-da-thức có thể ví như một tờ giấy trắng. Mỗi khi ta làm một điều ác (hoặc nghĩ một điều ác) tờ giấy đó được ghi bằng một chấm đen (một chủng-tử xấu). Khi ta nghĩ hoặc làm một hành động thiện tờ giấy đó được ghi một chấm son (một chủng-tử tốt). Đến khi ta chết đi, thể xác và mọi giác-quan ngưng hoạt động. A-lại-da-thức xuất ra sau cùng và vẫn tồn tại dưới hình thức trung-ấm-thân. Dù ta không nhìn thấy nó nhưng nó vẫn hoạt động trong cõi hư-vô với những ba-động tuần hoàn mà tần số của các chủng-tử mà nó mang theo.

Trái đất chúng ta đang sống cũng luôn luôn bao phủ bởi những ba động dưới dạng thức những sóng điện-tử (électromagnétic waves). Những làn sóng nầy ta không nhìn thấy nhưng ta có thể chứng nghiệm được vì tác dụng của nó trên kim nam-châm của các la bàn.

Nếu các ba-động của A-lại-da-thức của người chết có một tần số nằm trong giới hạn tần số của các sóng điện-tữ của trái đất thì trái đất này vẫn còn phù hợp với nghiệp-lực của người chết và chắc chắn người này sẽ lại tái sanh trong thế giới này.

Nhĩ Thức

Tĩ Thức

Thiệt Thức

1.------ Thân Thức

Hoạt-động độc-lập của Ý-Thức

Nhãn Thức

Mọi nghiệp-quả của Ý-Thức

2. Ý-thức

3.Tạo nghiệp

4. Mạt-na-thức

5. Cất giấu

6. A-lại-da-thức (kho tàng chứa đựng tất cả mọi chủng tử)

7. Trả nghiệp hoặc tạo nghiệp mới

8. Trả nghiệp

Thế nhưng, trở lại trong kiếp sau, người chết chưa chắc sẽ lại mang thân xác của con người. Vì sao?

Vì trong giới hạn tần số ba động của trái đất lại chia ra làm nhiều khu vực nhỏ có liên quan tới các cõi trên ở trong trái đất. Vùng có tần số cao thanh nhẹ có tương-quan tới cõi thiên (hoặc Thiên-Đàng). Các vùng có tần số thấp hơn (nhưng vẫn trong giới hạn) tương-quan tới các cõi: Nhân (người) - Atula - Súc-sinh - Ngạ-quỷ - Địa-ngục.

Giả dụ, một người mà A-lại-da-thức mang những chủng-tử tuy không tốt lắm nhưng cũng không xấu lắm. Tần số ba-động của nó hợp với trái đất và người này sẽ luân-hồi làm người.

Nhưng cũng một người trung-bình nhưng lại có một điểm nổi bật là hết sức dâm đảng chẳng hạn.

Ba-động của A-lại-da-thức của người này tuy cùng phù hợp với trái đất nhưng tánh dâm đảng ăn sâu làm tần số ba-động hơi xuống thấp một chút; và người đó sẽ trở lại dưới hình thức một súc sanh (con heo chẳng hạn)

Cũng vậy, một người quá tham lam và bủn-xĩn sẽ trở thành ngạ quỷ, một người hiếu sát sẽ sa địa ngục.

Trong kinh Lăng-Nghiêm, Phật đã dùng Phật-nhãn soi chiếu rất nhiều trường-hợp và đã chỉ rõ những nghiệp quả của mỗi loại người cùng những thế giới mà họ sẽ được chào đón sau khi hết hạn làm người. Đó là cõi trời Đâu-Xuất, cõi Đạo-Lợi, cõi Tịnh-Độ v.v...

Những người ở cõi này có tâm địa tốt hơn chúng ta nên luôn luôn thương xót và mong muốn chúng ta được thoát khỏi thế giới hiện nay để tới những thế-giới tốt hơn với những tần số ba-động phù hợp. Người đó sẽ ở cõi thiên đàng với những thú vui vô cùng thanh-tao để rồi tiếp tục tu hành với những bước đường thăng-hoa cao hơn của tâm-thức.

Giả dụ, có một người tu hành cũng đã đến mức khá cao nhưng chưa tiêu diệt hết hoàn toàn dục vọng. Nhờ ở A-Lại-Da-Thức khá thanh nhẹ, “linh hồn” (quan niệm linh hồn của dân gian không được đúng như điều Phật dạy, nhưng được cái dể hiểu. Do đó ta vẫn có thể tạm dùng danh từ này) anh ta “bay” lên gần tới một cõi thiên đường nào đó. Nhưng ba động linh hồn của anh còn mang tính chất của dục-vọng mà ở cõi này chỉ toàn là những thú vui thanh cao mà thôi, không có một mùi vị nào của luyến-ái hạ đẳng dục giới. Do đó khi tới gần thế giới này anh ta sẽ cảm thấy khó chịu không thoải mái và linh hồn anh ta sẽ tự động “bay” đi chỗ khác, hoặc bị hấp-lực của thế giới phù hợp hơn. Không có một con quỷ nào gác cửa thiên đàng không cho anh vào cả, nói cách khác, con quỷ của dục-vọng còn nằm ngay trong lòng anh ta và nó luôn luôn kéo anh ta tới chỗ phù hợp với nó.

Tóm lại, ngày nào ta còn mê đắm sắc trần chính là ngày đó ta còn chối bỏ thiên đàng, chớ các vị chúa, các vị trời hay bất cứ vị nào tu cao hơn chúng ta cũng luôn luôn mong cho chúng ta tới được “bờ bên kia” và xả bỏ được những khổ đau của nghiệp lực.

Điều cần nhớ là, tất cả các sinh vật đều có A-Lại-Da-Thức cả.

Chỉ trừ đất đá, sông biển hay vật vô tri là không có mà thôi. Còn thì tất cả các loại thực vật và động vật đều có, kể cả những sinh vật hết sức sơ đẳng như một con vi khuẩn chẳng hạn.

Nghiên cứu về thành phần của mỗi nhận thức là một điều cần thiết cho Duy-Thức-Học. Lược qua về các thành phần của thức, ta có thể kể mỗi nhận-thức đều gồm có bốn phần:

- Kiến Phần: phần chủ thể của nhận thức.

- Tướng Phần: phần đối tượng của nhận thức.

- Tự Chứng Phần: kiểm chứng sự khảo sát của kiến phần xem đúng hay sai.

- Chứng Tự Chứng Phần: kiểm soát lại sự kiểm nghiệm kể trên.

Ví dụ: Một bức tranh của Picasso là “Tướng Phần”.

Người xem tranh là “Kiến Phần”

Khảo sát xem bức tranh hay đẹp chỗ nào là “Tự Chứng Phần”

Đánh giá trị lại sự khảo sát đó xem đúng hay sai là “Chứng Tự Chứng Phần”.

Ta có thể dùng bất cứ thức nào để khảo soát các pháp trong vũ-trụ, nhưng sự nhận-thức thường cũng phải trải qua các thành phần kể trên. Thế nhưng mặc dầu vậy, sự nhận thức của con người vẫn luôn luôn sai lạc. Vì sao? Thưa rằng cũng chỉ tại những chủng-tử nằm trong A-Lại-Da-Thức nó làm cho trí ta kém sáng suốt nên mới sai lầm mà thôi. Một khi đã sai lầm trong nhận xét (tức vô minh) tất nhiên sẽ đưa tới những hành động sai lầm và do đó khởi đầu một loạt những chuỗi lầm lạc đưa ta từ vô-minh đến lão-tử.

Chúng ta hãy cùng nhìn một con sông:

- Một người mang chủng tử mê thích tắm và bơi lội chẳng hạn sẽ nhìn thấy con sông như một giòng nước mát có thể mang lại cho ta những cảm-giác sảng khoái.

- Một người thích đánh cá sẽ coi con sông như một mối lợi cho anh ta.

- Con cá lại coi con sông là một môi trường sinh sống dễ chịu và sảng khoái.

- Người thích đi du lịch sẽ coi con sông là một phương tiện để cho anh ta chèo thuyền một cách thích thú, ngắm cảnh vật thanh-tú ở hai bên bờ sông.

- Loài rồng lại coi con sông là một nơi có thể xây lâu đài, lầu các.

Con sông vẫn là con sông. Nó không phải là những cái kể trên. Ta không thể nhìn được thật tướng của nó nếu ta cứ “chấp ngã” mà nhìn nó theo chủ quan của ta. Mà khi đã chấp ngã tất nhiên ta sẽ hành động sao cho thỏa mãn cái ngã của ta đã. Thế là trong rất nhiều trường hợp, hành động sẽ sai lầm, sẽ tạo nghiệp xấu.

Chính vì cái nhìn thấy những nhận thức sai lầm của con người mà Phật đã dạy thuyết “Tam Tánh” mà sự nghiên cứu sâu rộng sẽ đưa chúng ta đến những nhận xét hết sức sâu sắc về tự tánh của vạn-pháp.

Thuyết “Tam Tánh” gồm có:

1/- Biến Kế Sở Chấp Tánh

2/- Ý Tha Khởi Chấp Tánh.

3/- Viên Thành Thật Tánh.

“Sở Chấp” là do chấp trước mà có.

Thí dụ về con sông trong phần trước, mỗi người nhận xét theo sự chấp trước của mình, cho nên hình ảnh con sông đã bị sai lạc đi nhiều do suy luận xét nghiệm của ý-thức vọng tưởng.

Suy rộng ra mỗi sự vật trong thế giới nầy chỉ là hình ảnh méo mó mà ta đã nhận thức được do sự chấp trước vọng tưởng mà có.. Nó không phải là hình ảnh thật mà đã phải mang một tánh chất khác đi gọi là “biến-kế-sở-chấp-tánh”.

Một thí dụ dễ hiểu hơn: Một người nhát hay sợ ma, trong A-Lại-Da-Thức đã có những chủng tử của sự sợ hải. Một đêm kia, khi trở về nhà, mở cửa phòng tối om, thấy một vật màu đen lù-lu đứng ở góc phòng. Thế là vì quá sợ hãi, anh ta vừa chạy vừa la: “ma! ma! Cứu tôi với”. Cũng vì quá sợ nên mất sáng suốt mà anh ta quên luôn không còn nhớ hồi chiều, trước khi đi ra khỏi nhà, chính anh đã đem treo chiếc áo dài màu đen ở chỗ đó.

Trường hợp này, chiếc áo dài màu đen đã bị anh ta “biến-kế-sở-chấp” nên tưởng là con ma đứng đó.

Rồi nay nhờ có “ý-tha-khởi-chấp”nên anh nhìn thấy được sự vật một cách đúng hơn.

- Ý-Tha là: dựa vào, ỷ-lại vào. “Tha” là người khác hoặc vật khác. Ỷ lại vào người khác nên anh ta mới nhận ra cái áo hồi chiều. Những người lân cận, nghe tiếng la bèn cầm đèn chạy vào soi sáng căn phòng. Lúc đó, con ma ở đâu không thấy mà đó chỉ là một chiếc áo dài đen mà thôi. Nhờ vào người khác có đèn mà anh đã nhận ra chiếc áo là chiếc áo, không còn tưởng đó là con ma. Và anh cũng như đa số chúng ta đều cho nhận xét của anh là đúng, không còn nghi ngờ gì nữa.

Nhưng đức Phật lại dạy rằng:”nhận xét thế cũng chưa phải là đúng hẳn” Chỉ khi nào ta nhìn thấy chiếc áo đen đó với “Viên-Thành-Thật-Tánh” của nó thì mới là đúng đắn. “Viên” là viên mãn, “Thành” là thành tựu, “Thật” là chơn thật. Cái áo là một “Pháp”. Muốn nhìn “Pháp” này cho đúng thì phải nhìn được thể tánh chân thật bất biến của nó. Đó là thể-tánh chân như ở trạng-thái nguyên thể của nó.

Thể tánh này thường trụ bất diệt, hoàn toàn không bị chi phối bởi nhân duyên sanh diệt. Tất cả các pháp trong thế gian đều phải được nhìn như vậy mới đúng hoàn toàn. Và khi nhận xét đúng , ta sẽ hành động đúng. Có điều là muốn nhìn được một cách toàn vẹn như vậy ta phải có một trí-tuệ khá cao. Tất cả những “thức” của chúng ta đều được tinh luyện một cách sáng chói, không còn bị che lấp bởi những màn vô minh, những vọng tưởng chấp ngã nữa thì mới sáng suốt được. Ta phải nhìn được tự tánh Chân-Tâm của chính ta trước đã. Ngày này tâm ta còn dong ruổi chạy theo những ảo-ảnh phù-du, những lạc thú nhứt thời thì Chân-Tâm vẫn còn bị che lấp, ta không sao có thể nhìn thấy cái “Bản-Lai Diện-Mục” của chính ta, nói chi tới sự hiểu biết cái “Viên-Thành Thật-Tánh” của Vạn-Pháp.

Chỉ những bậc Chân Tu tới mức độ thật cao thì tất cả các thức của họ mới thăng hoa được tới đỉnh tuyệt-vời để họ có được cái nhìn thấu suốt được vạn-pháp. Lúc đó, thức không còn được gọi là thức nữa mà chúng đã biến thành những trí.

1.- Năm thức trước biến thành: “Thành Sở Tác Trí”

2.- Ý-Thức biến thành: “Diệu Quan Sát Trí”

3.- Mạt-Na-Thức biến thành: “Bình Đẳng Tánh Trí

4.- A-Lại-Da-Thức biến thành: “Đại Viên Cảnh Trí

Đi sâu vào định-nghĩa và hành-dụng của những trí-tuệ kể trên là một việc làm không thể nào hoàn hảo được. Vì trong nhơn-loại hiện nay ít có người đã đạt được toàn thể bốn trí đó. Một người đã có đủ những trí nói trên kể như đã tiến bộ đến một độ cao của một vị Phật, hay ít ra một vị Bồ-Tát “nhứt sanh bổ xứ”.

Tuy nhiên, trên con đường khởi hành từ một phàm phu cho tới quả vị Phật, trí của chúng ta một ngày một sáng tỏ và từng chặng một, chúng ta vẫn đạt được những sự trong sáng đáng khích lệ. Nó giúp chúng ta mỗi ngày một sáng suốt để có thể tự thắp lên những bó đuốc soi đường cho chúng ta đi.

Xin trở lại chiếc áo đen kể trên; Những người phàm phu bình thường và không sợ ma sẽ nhận xét về chiếc áo đó như thế nào? Thường họ bảo rằng:

- Chiếc áo này khá đẹp nếu mặc đi dự dạ hội chắc sẽ làm ta nổi bật.

- Hoặc chiếc áo này đi đôi với đôi giày bóng loáng chắc sẽ làm tăng thêm vẻ đẹp.

- Hoặc áo đắt tiền mặc nó ta sẽ được nhiều người nể trọng vì nó chứng tỏ ta giàu và sang trọng.

- Hoặc chiếc áo còn mới tinh, không còn chiếc nào tốt hơn để đi chơi với người bạn mới quen.

Đại khái nó toàn là những nhận xét mang tánh chất “ngã chấp” (nghĩ đến ta)

Và nếu ta suy nghĩ xa một chút ta có thể thấy có bóng dáng của dục-tình quỷ sứ đứng ở đằng sau. Lẽ dĩ nhiên nếu họ có đạt được một đêm vui tạm bợ thì rồi sau cũng khó tránh những hệ lụy phiền toái. Cuộc sống của phàm phu thường thường là như vậy cả. Và họ sẽ xoay vần mãi trong sáu nẻo luân-hồi khiến đức Phật Thích-Ca đã phải bao thương xót, mà đã phải vất-vả suốt bao nhiêu năm chỉ cho họ con đường siêu-việt, con đường của hạnh-phúc tuyệt-đối, con đường của giải thoát.

Đối với những người bình thường, tự cho rằng: “ăn hiền ở lành” nhưng không nghĩ đến chuyện tu hành gì cả, thì sự nhận xét về chiếc áo kể trên có lẽ cũng không khác bao nhiêu qua sự nhận xét của phàm phu. Thế nhưng, đối với người đã phát tâm đi vào con đường đi tìm chơn lý, dù chỉ mới tu chưa có gì cao thâm cả, nhưng A-Lại-Da-Thức đã có được những chủng tử đầu tiên dẫn dắt họ trên con đường hướng thiện thì dù quan sát cái áo hay bất cứ một đối tượng nào cũng đưa họ tới những nhận xét khác hơn. Ví dụ: Cái áo nó có thể là đối tượng của “Bồ-Đề-Tâm”.

Cái áo này được tạo nên do biết bao công lao của người thợ dệt vải và người thợ may, đó là chưa nói đến người canh tác vun trồng và cả chính cây bông vải nữa, rồi chúng cũng đã phải trải qua biết bao dãi nắng dầm mưa. Tất cả chúng sanh, dù là người hay là cây cỏ đều thật đáng thương trong vòng luân-hồi sanh tử. Vì thương các chúng sinh đó nên ta phải phát nguyện tu hành tinh tấn để sau này có thể trở lại lập hạnh bồ tát góp công giúp nước cứu đời.

Cái áo đó cũng có thể chứa hình ảnh “Tam Thiên Đại Thiên” thế giới.

Cái áo đó được thành hình nhờ cây bông.

Cây bông đã hút bao nhiêu chất lượng của nước, của gió, lửa để tạo nên sự sống.

Nó mang hình ảnh mặt trời, của người săn sóc nó.

Ban đêm nó hòa nhập cùng mặt trăng, ánh sao biểu tượng những thế giới xa xôi.

Cây bông và Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-giới chỉ là một.

Đứng về phương diện tuyệt-đối thì một hột bụi cũng có thể chứa mội cõi bao-la. Do đó vấn đề lớn hay nhỏ không còn là vấn đề nữa. Điều đó cho chúng ta thấy tánh-chất bình đẳng của Vạn-Pháp. Vượt khỏi mọi chấp trước, người tu hành sẽ không còn thấy Nhị-Nguyên đối đãi nữa. Tâm trong sáng hội nhập làm một cùng bản-thể của vũ-trụ bao-la.

Dĩ nhiên càng tu lên cao thì “Thức” và “Trí” càng trong sáng. Những thần thông diệu dụng sẽ nẫy nở. Những hiểu biết sẽ không còn bị những giới hạn ngăn cách nữa cho đến ngày đạt được “Chánh-Đẳng Chánh-Giác”. Những quang-năng của các vị chơn tu là điều chúng ta khó có thể nghĩ bàn, vì chúng ta chưa có những chứng nghiệm tâm-linh như những vị đó. Do đó nếu có nói thì cũng chỉ là nói theo sách vỡ được truyền lại mà thôi. Muốn hiểu biết thêm về những vấn đề “Duy-Thức” cao thâm khác không cách gì khác hơn là chính chúng ta được hoàn toàn trong sáng, đứng trên tất cả mọi thiện ác đối đãi để phần Phật-Tánh trong mỗi người chúng ta được phát huy một cách tối đa. Lúc đó mới có hy vọng đạt được “Đại-Viên Cảnh-Trí”.

Duy-Thức-Học khó mà tóm tắt trên vài trang giấy mà còn rất nhiều vấn đề đầy hứng thú khác nữa. Thế nhưng, người nào ưa thích môn học này sẽ bỏ thêm nhiều thì giờ để học hỏi thêm.

Nơi đây, chỉ xin phép đưa ra một vấn đề cuối cùng là chúng ta làm thế nào để xóa sạch các “vết đen” và ngay cả các “vết son” của A-Lại-Da-Thức. Có người cho rằng, ta làm một “hành động thiện” (như bố thí chẳng hạn) A-Lại-Da-Thức ghi một nét son. Nhưng chúng ta lại phải sống thêm một kiếp nữa để thụ hưởng thành quả của hành động này. Do đó làm sao thoát khỏi luân-hồi sinh tử?

Và họ kết luận là không nên làm ác là dĩ nhiên nhưng cũng không nên làm cả việc thiện nữa ! Vậy có đúng hay không? Người viết xin trả lời ngay; không nên làm ác là đúng. Nhưng nếu không làm gì cả (tức là cả thiện lẫn ác) tức là đã chấp vào “Hư-Vô”. Chính cái Hư-Vô sẽ trói buộc chúng ta. Và nếu ta đã bị trói buộc vì bất cứ cái gì, kể cả cái “Hư-Vô” thì chúng ta không thể nào thực hiện được sự “tự do, trong sáng tuyệt đối”. Vậy ta phải làm thế nào để có thể vẫn bố thí mà không “bị” hưởng thành quả của hành động vậy?

Điều này Phật đã dạy rõ ràng:”Phải thực hiện “Bố Thí Ba-La-Mật” (Là bố thí mà tâm hoàn toàn vắng lặng, hoặc không nổi lên một vọng niệm mong cầu phước báo nào). Ta bố thí mà hoàn toàn không thấy có người được bố thí, có của bố thí, có hành động bố thí, ngay cả chính ta, cũng không thấy liên quan đến sự bố thí nữa. Theo Phật như vậy mới là đúng cách.

Tu tập theo hạnh “Lục Ba-La-Mật” gồm :” bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.”

Ta phải thực hiện tất cả bằng “một cách Ba-La-Mật” như trên thì mới là đúng cách.

Nếu gặp phải một oan-ức sẽ không để động tâm (tức là không khiếu nại)

Nếu ta bị kẻ khác làm nhục và nếu tu “Ba-La-Mật” thì ta sẽ thấy; không có kẻ làm nhục, không có người bị nhục, cả mối nhục cũng không có... Thế mới là “Nhẫn Nhục Ba-La-Mật”

Còn những “vết đen trong A-Lại-Da-Thức” thì sao? Có thể xóa bỏ được không? Thưa rằng cách xóa bỏ thường tình nhứt là trả cho xong nghiệp báo. Vì định luật nghiệp-báo tác dụng rất mạnh mẻ hầu như không ai có thể tránh khỏi. Thế nhưng, đối với người tu, có thể sẽ được trả một cách nhanh chóng hơn hoặc nhẹ nhàng hơn. Sự thành tâm sấm hối cũng sẽ làm giảm nhẹ khá nhiều nghiệp báo nặng nề.

Ví như: Một người can tội trộm cắp chẳng hạn, ngoài sự sấm-hối sẽ mang đồ trộm trả lại cho chủ nó. Người can tội sát nhân sau khi thành tâm sấm hối sẽ để cả quảng đời còn lại làm ngược lại sát sanh. Người đó có thể vẫn phải trả nghiệp nhưng chắc chắn sẽ nhẹ hơn. Rồi một đêm nào đó, anh ta có thể nằm mơ thấy có người đâm anh bằng một lát dao chẳng hạn, thế là trả xong mối nợ.

Vậy ta cần nhớ, A-Lại-Da-Thức là một thức quan trọng bực nào. Ví dầu ta có chết nó vẫn không mất mà sẽ theo ta mãi mãi cho đến ngày nó biến thành “Đại-Viên Cảnh-Trí”.

Tóm lại, xin vắn tắt về vấn đề “A-Lại-Da-Thức” sẽ dẫn dắt con người ra sao, sau khi chết:

Chết là gì? Đối với đa số nhơn loại, chết là một bản án mà tất cả mọi người sẽ phải lãnh.

Không ai có thể chứng nghiệm tâm-linh về cái chết. Và nếu ta không tìm hiểu hoặc không sửa soạn trước thì cái chết quả là đáng sợ thật. Chính vì thế mà nhiều người đã gia công tìm hiểu nó. Khi tắt thở, là tim ngừng đập, các quan-năng ngừng hoạt động từ từ. Sau tám tiếng đồng hồ, A-Lại-Da-Thức mới thật sự xuất ra khỏi thân thể. Từ đó, nó lại hoạt động như một giác-quan và mới đầu, người chết không biết là mình đã chết. Dưới hình thức tâm-linh, họ vẫn hoạt động như một người bình thường. Chỉ đến khi giao tiếp với những người thân thuộc không còn thực hiện được nữa là lúc đó người chết mới biết là mình đã chết,

Đối với một người bình thường, không có đức tin sâu đậm hoặc không sửa soạn từ trước thì lúc đó cái tình cảm nổi lên mạnh mẽ, nhứt là sự sợ hãi kinh khủng. Trong khi đó, A-Lại-Da-Thức vẫn hoạt động, nhưng nó bị sự trì kéo của “nghiệp lực” một cách mạnh mẽ. Lúc đó linh-hồn đứng trước một cơn phong ba bão táp để rồi bị cuốn hút đi đầu thai một cách nhanh chóng. Trong trường hợp này, ý nghĩ cuối cùng của người chết giữ một địa vị hết sức quan trọng. Một người suốt đời chỉ nghĩ đến sự tham-lam và ích-kỷ, tất nhiên sự tham-lam đã nằm sâu trong tiềm-thức và đến lúc lâm chung ý nghĩ cuối cùng cũng là sự tham lam.

Nó làm vẩn-đục A-Lại-Da-Thức và do đó sự cuốn hút sẽ đi về các cõi u-tối.

Một người dâm đảng cũng vậy, ý nghĩ cuối cùng mang theo dục-vọng thấp hèn, tất sẽ đưa A-Lại-Da-Thức bị cuốn hút vào các vùng súc sanh. Có người cho rằng thường người ta bị bịnh hoạn lâu ngày hoặc già yếu rồi mới chết. Ở tuổi già khả năng tình dục đâu còn gì đáng kể nên đâu có sợ bị cuốn hút bởi giới cấm thứ ba. Nhưng các nhà y-học đã chứng minh rằng dù khả năng sinh-lý của con người đã mất hẳn nhưng cảm nghĩ tình-dục vẫn còn rất mạnh trong một số người. Do đó ý nghĩ cuối cùng trong trường hợp này cũng là một điều rất nguy hại nếu họ không biết và không tìm cách thanh lọc từ trước.

Những người phạm các giới cấm khác như: sát sanh, đạo tặc, tà dâm, dối trá, rượu chè, nếu không có nhiều thiện nghiệp kéo lại tất cũng sẽ trôi theo giòng nghiệp-lực của họ để tới những cõi thấp hơn.

Thường thì các trường hợp luân-hồi xảy ra hầu như tức khắc sau khi chết, chậm nhứt là sau 49 ngày, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt. Thí dụ như: Người quá luyến-ái cõi trần, quá luyến-ái vợ con hoặc các thân nhân cũng quá luyến ái họ thì sự luyến-ái quá độ tạo thành một sợi giây ràng buộc rất mạnh khiến linh hồn không bị cuốn hút đi ngay. Nó cứ vất vưởng ở nơi chốn cũ dưới hình thức những hồn ma bóng quế. Nó cũng vẫn còn đủ cả hỉ, nộ, ái, lạc và nhứt là sầu bi. Trong trường hợp này vùng hào quang quanh “thân xác” họ (thân xác tâm-linh) nhiều khi cô động lại trông như những cục lửa mà đôi khi cá thể thấy được nơi các căn nhà nổi tiếng là có ma. Nhưng không có căn nhà nào có ma một cách vĩnh-viễn cả. Vì trước sau gì thì những tình cảm cũng phải phai lợt và những linh hồn đó cũng vẫn phải trôi theo giòng nghiệp lực, chỉ mau hay lâu mà thôi. Mau thì vài tháng hoặc vài năm, lâu thì có thể tới vài chục năm, ít khi tới hàng thế kỷ.

Các nhà y-học và tâm-lý-học hiện nay cũng đã xác nhận. Nếu ta nghĩ nhiều về một vấn đề gì trung khu thần kinh chỉ huy về vấn đề đó sẽ được mở rộng, các trung khu khác sẽ bị thu hẹp lại hoặc bị dập tắt. Một người niệm Phật nhiều, trung khu “niệm Phật” sẽ gia tăng, các trung khu khác sẽ yếu đi. Một cậu học trò siêng học, trung khu học hành và trí nhớ sẽ gia tăng, các trung khu khác sẽ kém đi.

Riêng đối với những người đã sửa soạn tâm-thức từ trước thì cái chết không những chẳng có gì đáng sợ cả mà trái lại, là một cơ hội quan trọng để họ tiến những bước dài.

Những người có một cuộc sống cao cả, có nghĩa là họ đã sửa soạn đầy đủ cho một chuyến đi thật vinh quang, như nhà tu tịnh-nghiệp là một ví dụ. Ngay từ khi cuộc sống đang xuân nở họ đã phát nguyện vãng-sinh tịnh-độ, quyết không tạo thêm nghiệp mới dù vẫn nhập thế một cách hùng tráng và quả cảm.

Niệm hồng danh đức Phật A-Di-Đà là một phương pháp hay. Nhiều người biết trước được ngày sẽ ra đi. Nhiều người thoát xác ngay khi đang ngồi thiền-định với chánh-niệm thay cho ý nghĩ cuối cùng. Không còn nghi ngờ gì, hạnh nguyện vãng sanh của họ chắc chắn sẽ được đáp ứng. Năng-lực tiếp dẫn của đức Phật A-Di-Đà có một sức mạnh lớn gấp nhiều lần những trì kéo của các cõi ô-trược. Theo các nhà thiền-học đã mở được “Huệ” thì năng-lực này thường hiện ra dưới hình thức một luồng ánh sáng vàng hoặc trắng hoặc rất trong sáng. Còn có thể thấy được hóa thân của đức Phật A-Di-Đà, đức Quan-Thế-Âm cùng những bông sen nở trên ao thất bảo và khi nào tới cõi tịnh-độ, họ sẽ bước ra từ những bông sen đó. Sở dĩ có nhiều người không được tiếp dẫn là vì họ không có hạnh nguyện vãng sanh Tây-Phương hoặc không có đức tin kiên cố. Sự thiếu đức tin và hạnh nguyện làm cho ba động của A-Lại-Da-Thức của họ không cùng một tần số với tần số ba động của các luồng sóng tiếp dẫn.

Có những người đã trót phạm nhiều giới cấm với một A-Lại-Da-Thức hết sức nặng nề thì phải thành khẩn sấm hối trong lúc lâm chung cùng với hạnh-nguyện không thối chuyển vẫn có năng-lực đưa họ vào đường cứu rỗi dù ở phẩm trật kém hơn. Những kẻ đắm chìm trong vòng danh lợi, tham-sân-si và dục-vọng thì lại nhiều vô số kể. Do đó ta không lấy làm lạ khi đức Phật dạy rằng được sống ở một kiếp người là một điều đáng quý, nhưng tiếc thay, hầu hết nhơn loại sau khi lìa bỏ kiếp người, chỉ muốn trở lại làm người bình thường thôi cũng là điều rất khó, nên kinh Lăng-Nghiêm đã dạy: “Bỏ mất thân xác người, muôn kiếp khó tìm lại được”. Những người căn cơ chưa được cao lắm thường nhờ một số nhà tu hay một vài thân nhơn giúp đở trong lúc lâm chung, gọi là “người hộ niệm” Vậy thì dù có người hộ niệm hay không, vấn đề quan trọng là phải luôn cẩn trọng với ý nghĩ cuối cùng. Điều này không chỉ đúng với Phật-Giáo mà cũng đúng với hầu hết các tôn-giáo, như bên Ấn-Độ-Giáo, thánh Gandhi là một trường hợp điển hình. Ai cũng biết thánh Gandhi là một nhà giải phóng vĩ đại của dân-tộc Ấn, cha đẻ của thuyết “bất bạo động”. Suốt bao năm trời tranh đấu với thực dân Anh, Ngài chỉ có một thứ khí giới, đó là lòng “Nhân-Ái”. Nhưng không hiểu vì nghiệp quả nào khiến cuối cùng ngài đã bị một kẻ cuồng-tín bắn chết. Trước khi chết ngài giơ tay lên và nói: “Xin tha tội cho kẻ bắn mình” Tất nhiên cả thế giới phải thán phục sự cao cả của ngài.

Sự tha tội bằng lòng cao cả là một điều đúng không sai, nhưng đứng trên phương diện “Duy-Thức” thì sự tha tội ngay lúc đó chính là một sự cứu rỗi cho chính ngài Gandhi trước đã. Vì sao? Vì trong lúc đó, người bị bắn hết sức đau đớn, mà lại phải chấm dứt con đường cách mạng đang theo đuổi và đang cần thiết sự có mặt của mình. Nếu trong lúc đó, tâm-thức của ngài Gandhi nẩy lên một sự khó chịu hoặc một tức giận hận thù kẻ đã chấm dứt thì ý nghĩ cuối cùng của ngài chắc chắn sẽ kém trong sáng. Nghiệp-lực chắc chắn sẽ tác dụng tức khắc ngay trên A-Lại-Da-Thức của ngài và nó sẽ lôi kéo ngài vào con đường thù hận. Xuyên qua việc làm của ngài cho ta được biết, chắc chắn ngài đã nắm vững những vấn đề kể trên một cách rất sâu sắc.

Ở thế kỷ 20 đã qua, đánh dấu những bước tiến vĩ-đại của khoa-học. Việc xử dụng năng lượng hạt nhân, khoa-học không gian, tia sáng laser là những nét đậm đáng kể. Trong y-học và thiên-văn-học cũng có nhiều phát-kiến quan trọng. Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ, sự phát minh ra máy điện tử góp một phần không nhỏ vào đời sống của nhơn loại. Nhưng điều đáng ngạc nhiên hơn cả là: Sự tiến bộ của khoa-học đã đẩy lui một số đức-tin có tánh cách thần-bí, đồng thời lại đi gần tới những điều Phật dạy đã trên 25 thế kỷ.

Ai cũng từng biết Phật dùng “Huệ Nhãn” chỉ dạy về đời sống của những con vi trùng trong một ly nước. Lúc đó, có ít người chịu tin, cho đến ngày khoa-học phát minh ra kính hiển-vi. Ta cũng đã biết rằng tất cả các sinh-vật trên thế gian này đều có giác-quan, do đó có một A-Lại-Da-Thức. Từ những loài thực-vật thô sơ đến các loài động vật và sau cùng là loài người, A-Lại-Da-Thức vẫn theo sát từng cá nhân một qua hàng triệu triệu kiếp luân-hồi cho đến khi thành Phật thì nó mới biến mất để trở thành “Đại-Viên Cảnh-Trí”

Một con vi-khuẩn là một vật trung-gian giữa thế-giới vô-sinh và thế-giới hữu-sinh. Dù ai cho nó thuộc loại vô-sinh cũng được hay cho nó là hữu-sinh cũng đúng.

Từ trước cho đến thế kỷ 20, chúng ta hầu như không biết gì đến cấu-trúc của những sinh-vật này cho tới khi hai nhà bác-học James Watson và Francis H.Crick tìm ra sự liên hệ của chúng với hai chất RNA (Ribonucleic Acid) và DNA (Desoxyribonucleic acid). Ngày nay, người ta đã có những hiểu biết tiến bộ hơn về các loại vi khuẩn, và đối với những vi khuẩn thô sơ, cấu trúc của chúng chẳng khác gì cấu trúc của các phân tử hữu cơ RNA hoặc DNA.

Nhìn lại sự cấu-trúc của con vi-khuẩn HIV (vi khuẩn gây nên bịnh AIDS, một bịnh thời sự) được các khoa-học-gia thuộc Trung-Tâm Nghiên-cứu CHIRON trình bày. Nhìn trên biểu đồ của vi-khuẩn này khi chúng đang sanh sản trong một tế bào bị nhiễm trùng, ta thấy nó được tạo bời hai nhánh DNA với chi-chít những chữ ATCG nối liền nhau:

“A: Adenine

“T: Thymine

“C: Cytosine

“G: Guanine

ATCG được gọi là những bases: A bao giờ cũng được nối liền với T, tạo thành cặp A-T

C bao giờ cũng được nối liền với G, tạo thành cặp C-G

Tất cả có 9737 cặp bases này trên thân xác của con AIDS virus. Mỗi cặp A-T hoặc C-G được gọi là một chủng-tử được sắp xếp trên nhánh DNA.

Nghiên cứu về sự sắp xếp những chủng tử này trên nhánh DNA được gọi là sequencing (xếp thứ tự) Chính thứ tự của những chủng tử này đã tạo nên tánh-chất của những con vật, dù nhỏ bé thô sơ nhưng cũng có đủ cả cảm-giác, trí khôn hoặc ngu độn (vô-minh). Khi chúng tấn công những tế bào của cơ thể con người thì con người sanh ra những kháng-thể (antibodies) để chống lại chúng. Nhờ sự tinh khôn, chúng biết biến đổi cấu-trúc (Mutation) để tránh né được sự chống trả của các kháng-thể và bảo toàn sự sống. (Điều này gặp khó khăn cho sự chế tạo các thuốc chủng). Những con vật nào nghiệp xấu hoặc vô-minh không biến đổi kịp thì bị tiêu diệt.

Đối với sanh vật đơn bào, chúng mang theo những Nhiễm-Sắc-Thể (Chromosomes).

Trên những nhiễm sắc thể này, người ta tìm thấy những căn mang tánh cách di truyền của con vật gọi là những gènes (di-truyền-căn). Thường những nhiễm sắc thể này cũng được cấu tạo bởi DNA. Chính những DNA này, nói rõ hơn, sự sắp xếp những chủng tử trên những DNA này đã chỉ huy số mạng của con vật.

Hiện nay, khoa học đã phát minh được những phương pháp hóa-học có thể cắt xén hoặc sắp xếp lại thứ tự bằng cách ghép (splicing) những chủng-tử A-T hoặc C-G trên DNA của các tế bào để bắt con vật đơn-bào hay các tế-bào sống phải theo ý muốn của con người. Ở đây, người viết xin miễn đi sâu vào vấn đề quá chuyên môn và phức-tạp. Chỉ biết rằng ngành nghiên cứu tuy gọi là recombinant DNA hiện mở ra những phạm vi nghiên cứu vô cùng rộng lớn.

Bước lên đến loài người là loài thượng đẳng hơn cả trong cõi Ta-Bà này thì sự nghiên cứu mang tánh chất phức-tạp hơn nhiều. Loài người cũng có những nhiễm-sắc-thể. Trên những nhiễm-sắc-thể cũng có những căn nguyên di truyền gọi là gènes và những nhiễm-sắc-thể này cũng được tạo bởi DNA.

Thế nhưng DNA của loài người rất phức tạp. Thay vì chỉ có khoảng trên 9000 chủng tử như AIDS virus, người ta ước lượng có tới 3 tỉ chủng-tử A-T hoặc C-G trên DNA của người. Người ta đang làm sequencing (nghiên cứu thứ tự) những chủng-tử đó. Nhưng nếu làm xong và vẽ được cái biểu đồ DNA của loài người thì phải mất rất nhiều giấy mực. Do đó người ta chủ trương thu gọn từng đoạn một rồi dùng máy computer để ghi lại những dử-kiện về DNA của người. Đến khi cần nghiên cứu, nhà bác-học chỉ bấm máy lên là có ngay đoạn nghiên cứu. Nghiên cứu về các đoạn DNA của loài người, lại mở ra một phạm vi vô cùng rộng lớn và thích thú. Hiện nay người ta đã tìm được những chủng tử nào đặt ở đoạn nào thì sẽ chỉ huy số mạng của con người như thế nào. Một số các bịnh di truyền chẳng hạn đã tìm thấy nguyên do bằng những chủng-tử trên một đoạn nhứt định của DNA.

Ngay đến giới cảnh sát hiện cũng đã tìm ra được một số những chủng-tử trên DNA chỉ huy tâm-thức của những kẻ tội phạm. Như vậy thì có sự liên hệ nào giữa A-Lại-Da-Thức của con người với DNA mà họ mang theo hay không? Mặc dầu A-Lại-Da-Thức là cái mà ta không thể nhìn thấy, nhưng phát-kiến mỗi ngày một sâu rộng về các gènes, các DNA có thể cho ta một hình ảnh tượng trưng của A-Lại-Da-Thức. Vì sao?

1/- Vì DNA mang theo các chủng-tử tượng trưng cho nghiệp-thức của con người qua các nẻo luân-hồi. Các chủng-tử đó khi gặp đúng “duyên sanh” sẽ chỉ-huy hành-động của con người đó. Người đó sẽ bị chỉ-huy từ trong siêu-thức, khó bề cưỡng lại được, chỉ trừ khi họ luôn luôn cảnh giác, luôn luôn tìm cách thăng hoa tâm-thức.

Thí dụ: Một kẻ chết đi, mang theo một mối hận thù mà anh ta quyết sẽ trả. Chủng-tử hận thù nằm trọn trong A-Lại-Da-Thức nhiều năm nhiều kiếp. Cho tới một kiếp nào đó DNA của anh ta có những chủng-tử A-T và C-G nằm ở vùng hận thù. Tới khi nghiệp-thức đưa đẩy anh ta tới những cơ-hội đã trả hận, dù lương-tâm le-lói có cố gắng cản ngăn, nhưng anh ta vẫn bị điều khiển mạnh mẽ từ trong tâm-thức, với tiếng kêu gào của thù hận và anh ta khó có thể cưỡng lại được hành động của ngón tay khi bấm vào cò súng.

Nhưng giả dụ như anh ta là một người tu hành và đã học được sự tha thứ. Những chủng-tử trên vùng thù hận sẽ mất dần cùng lúc với sự trong sáng của tâm-thức thì những cơ hội trả hận thù sẽ không còn đủ sức đưa anh ta vào tội ác nữa.

2/- Các chủng-tử A-T và C-G vì hết sức nhẹ nên dễ bị thu hút bởi các sức mạnh tinh-thần (dầu tinh-thần của một con người bình thường). Sự sắp xếp của chúng mới là điều khá quan trọng. Chúng sẽ được sắp xếp theo nghiệp-lực của chủ-thể. Cũng có những vùng gọi là vùng vô-ký. Mặc dù cũng vẫn có những chủng-tử A-T và C-G nhưng người ta không biết nó chỉ huy vấn đề gì trong cuộc sống con người. Ta có thể coi những vùng đó tượng-trưng cho sự cao cả của con người đứng trên mọi thiện ác.

Sự sắp xếp những chủng-tử không phải là cố định. Một nhà tu với tâm-thức một ngày một trong sáng có thể cải đổi sự sắp xếp này. Nếu không thì biểu đồ DNA chính là một lá số tử-vi hết sức chính xác mà người ta có thể “xem” được ở mỗi cá nhân từ khi được lọt lòng mẹ. Tuy nhiên, lúc nào cũng nên nhớ rằng: “Đức năng thắng số”

Kết luận bài viết đúc kết hôm nay:

Những điều đã trình bày trên đây hiện đang được hàng trăm các phòng thí nghiệm trên khắp thế giới gia công nghiên cứu và chứng nghiệm.

Chúng ta chỉ cần “ngồi chờ” khoa-học tiến bộ trong một thời gian nữa trước khi đi đến những kết luận vững chắc. Nhưng xin nhớ rằng, ngồi chờ, nhưng cố nâng cao tâm-thức cho thật trong sáng, đứng trên mọi “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” để nhìn thấy sự đời không có gì vô cớ mà xảy ra.

Vì mắt phàm không thấy được những gì đã tích trử trong A-Lại-Da-Thức. Chờ đến lúc nào đó sự việc phát hiện ra rồi, chừng đó mới hối tiếc.

Kính mong người đọc bình tâm suy nghĩ và cố rán thực hiện những lời dạy của các đấng Vô Hình khuyến dạy. Mong thay!




NGỌC-HUỆ-CHƠN


Tài liệu tham khảo:

- Kim-Định - Triết lý Giáo Dục - NXB. Ra Khơi

- Nguyễn-Đăng-Thục - Triết-Lý đối chiếu - NXB. Nhị-Khê

- Hoàng-Xuân-Việt - Thuật Luyện Tâm - NXB Đồng Tháp

- Nguyễn-duy-Dung - Tâm hồn của Bạn

- Hoàng-Xuân-Việt - Giác Quan thứ 6 là gì?

- Nguyễn-thanh-Giảng - Duy-Thức-Học & Khoa-học hiện đại - Trung-Tâm nghiên-cứu Chiron

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vật chất tự thân hiện hữu bởi không thể từ cái Không dẫn đến cái Có. Như vậy sự hình thành của Vũ trụ là tự nhiên như vậy.

Bởi vì tự có cho nên Vũ trụ trụ bất sinh bất diệt hay vạn vật vận động là chỉ chuyển đổi trạng thái (thuộc tính biểu hiện) nhưng chúng vẫn bất sinh bất diệt. Như vậy, một cách bình thường nếu có Tính Thấy thì rõ ràng nó cũng phải bất sinh bất diệt.

Sự vận động của Vũ trụ sẽ phải có khởi thủy và kết chung nhưng vì bất sinh bất diệt nên khởi thủy và kết chung là một trạng thái của một giai đoạn vận động của Vũ trụ/ Vạn vật do chúng ta quy ước.

Vì vạn vật bất sinh bất diệt nên sẽ phải có một trạng thái Vật chất được xem là nhỏ nhất.

Vì Vũ trụ/ Vạn vật tồn tại vận động nên tối thiểu giữa chúng sẽ các mối quan hệ - vì sự vô cùng các trạng thái của vạn vật cho nên có vô số các trạng thái của quan hệ. Như vậy giữa các quan hệ (vật chất) cùng lại trùng trùng các quan hệ khác. Như vậy, nảy sinh là giữa chúng hay có "Cái gì đó chung" cho Vũ trụ/ Vạn vật để liên kết chúng và biểu hiện quan thuộc tính vạn vật hay Thấy nhau "Tính thấy".

Nếu Tính thấy có trong vạn vật thì trong Tính thấy phải có Tính Thấy bởi nó cũng thuộc Vũ trụ và vì vậy nó phải biểu hiện thuộc tính riêng của nó nhưng là chung cho tất cả vạn vật.

Vì vạn vật quy ước được về Âm dương Ngũ hành (tổ hợp) do vậy Tính thấy cũng phải có thuộc tính này nhưng vì sự vô cùng của vạn vật hay tổ hợp ADNH cho nên Tính thấy sẽ không thể có thuộc tính ADNH riêng biệt. Điều này chỉ ra Tính thấy vừa là ADNH và vừa không phải là ADNH??? Phải chăng mâu thuẫn?

Như vậy Tính thấy là một trạng thái vật chất có trong mọi sự vật, hiện tượng và nó không thể hiện thuộc tính qua ADNH. Rõ ràng một kết luận nó phải là Hạt vật chất nhỏ nhất tạo nên Vạn vật và thuộc tính nó là gì mà không thể hiện như là biểu hiện của ADNH?

Vì các quan hệ của Vạn vật như đã trình bày, cho nên thuộc tính của Tính thấy "kết nối Vạn vật" hay chứa thông tin vạn vật và là động lực vận động của chúng. Như vậy, mọi biểu hiện và vận động của Vạn vật đều có thể được chuyển đổi về Tính thấy hay Vạn vật tự "Thấy" lẫn nhau qua sự vận động của chúng.

Nhưng vì Tính thấy là vật chất hiện hữu nên trong chúng cũng có Tính thấy hay tính tự nhận biết chính nó, điều này chỉ ra mỗi sự vật, hiện tượng có thuộc tính tự nhận biết chính nó.Đối với chúng ta thì ta tự nhận biết chính ta là một thuộc tính của Tính thấy.

Vì chứa thông tin vạn vật nên Tính thấy có thuộc tính chứa thông tin toàn thể. Nhưng vì vạn vật vô cùng nên thông tin cần chứa là vô cùng cho nên Tính thấy có thuộc tính nào đó mà sẽ chứa thông tin ở mức độ vô cùng.

Vì có trong vạn vật nhưng không phải là ADNH cho nên Tính thấy có thuộc tính "Vô định tính" nên Hạt cơ bản vô định tính nhưng vì cũng là thành phần cúa sự vật, hiện tượng nên Tính thấy có quan hệ với ADNH cho nên chỉ còn cách Tính thấy là Tâm của sự vật hay vỏ sự vật là liên kết giữa vạt vận để tạo thuộc tính ADNH.

Cho nên khi làm thí nghiệm thì bất kể cái gì liên quan đều chứa Hạt cơ bản nên hay tự thân nó sẽ không tìm ra Hạt cơ bản dù dùng bất cứ phương pháp nào.

Rõ ràng, khởi nguyên vũ trụ không thể chỉ có Tính thấy hay Hạt cơ bản mà là Hạt cơ bản và các liên kết của nó tạm gọi Hạ sơ cấp 1, lúc này Vũ trụ khởi nguyên là vô số Hạt sơ cấp 1 trong vũ trụ bao la vô cùng nhưng chưa vận động.Nhưng vì trong Hạt sơ cấp 1 có ANDH cho nên liên kết giữa chúng là một trạng thái ban đầu có thuộc tính chung nhất ban đầu của Vũ trụ tạm gọi là Thổ khởi nguyên.

Như vậy: Hạt cơ bản sẽ không phải là một Hạt nào nó mà là Một Hạt thể hiện thuộc tính chung của ADNH và có Hạt cơ bản vô tính làm trung tâm và chúng liên kết nhau tạo thành vũ trụ khởi nguyên.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xét sự tiến hóa của vạn vật thì chúng ta thấy con người có khả năng tư duy, ý thức và sáng tạo mà thành quả các phát minh khoa học là một chứng cứ không thể phản biện, đặc biệt sản phẩm của nó, nếu chúng ta cô lập Vũ trụ thì Vũ trụ không thể tạo ra mặc dù chúng ta là con đẻ của Vũ trụ. Điều này hàm nghĩa con người có ý thức không đồng nghĩa Vũ trụ có ý thức.

Nhưng không phải con người có ý thức đồng nghĩa con người điều chỉnh được quy luật vận động từ vi mô tới vĩ mô của Vũ trụ. Điều này chỉ ra sự sáng tạo của con người là một thuộc tính thể hiện của sự vật, hiện tượng thông qua con người mà hiển lô ra quy luật bắt buộc phải như vậy trong một không thời gian nhất định.

Sự thay đổi tư duy, nhận thức, tình cảm chính là dòng chảy biến thiên của Vũ trụ tác động tới chúng ta trong từng phút giây mà được biểu hiện ra. Cái gọi là Tâm của chúng ta không phải là Tính thấy của Vạn vật.

Tâm là trái tim, cực Hỏa, nhiệt lượng, có tính bốc lên. Là nơi biểu hiện hệ quả ngay lập tức trong Thân từ các tương tác tổng hợp từ Vũ trụ/ Con người/ Xã hội... trong từng giây qua trái tim, vậy điều thân tâm qua ý thức là quan trọng nhất và ... một lúc nào đó Tính thấy sẽ xuất hiện trong ta qua các thuộc tính ban đầu của nó nhưng được chuyển đổi bằng các cảm xúc con người: An lạc, một cảm xúc hạnh phúc tổng hợp khác với hạnh phúc của tình yêu, nhiều tiền sướng chẳng hạn...bởi vì chúng ta từ đứa bé lớn lên thì cảm xúc ban đầu của đứa bé chính là một thuộc tính biểu hiện của Tính thấy, mà đứa bé chưa biết yêu.

Tuy nhiên, An lạc cũng đồng nghĩa là bắt đầu sự tìm hiểu vũ trụ và sáng tạo mới hơn nữa. Nhưng vì con người khó sống qua 100 năm vậy thì có ý nghĩa gì khi Chết?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhằm giải thích Linh hồn có thật hay không, cần phải sử dụng các học thuyết sau:

- Học thuyết Âm dương Ngũ hành: Thái cực, Lưỡng nghi...

- Đạo Đức Kinh của Lão Tử: Đạo, Tự nhiên...

- Thuyết tiến hóa của Đác Uyn: Vạn vật cùng chung nguồn gốc.

- Y học về quá trình sinh sản.

- Kinh sách của Phật giáo và Bà La Môn giáo làm chủ yếu với quy luật Nhân Quả, Tính Thấy...

- Hiện thực khách quan: Ngoại cảm, gọi hồn, lục thông, ngủ sâu, mộng du, tưởng tượng...

- Khoa học hiện đại về cái nhỏ nhất và thí nghiệm mát gia tốc tìm Hạt của Chúa.

- Sinh sản vô tính như chú cừu Dolly.

Ngũ Phúc Lâm Môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

SÁU THÂN TRUNG ẤM


Chagdud Khadro


Sự hiện hữu của chúng sinh đã bị điều kiện hóa bởi sự sinh, sự chết, và sự chuyển tiếp từ cái chết sang sự tái sinh. Sức khởi động không ngưng nghỉ của nghiệp lực đã làm cho đời sống vô thường. Chúng ta liên tục luân hồi xuyên qua những trạng thái khác nhau của hữu thể, và trong pháp môn p’howa thì cách hữu dụng nhất để hiểu chúng là trong cách phân loại của sáu thân trung ấm, tức là các trạng thái trung gian.

Thân trung ấm nơi sinh (birthplace bardo) bắt đầu từ khoảnh khắc chào đời, và kết thúc khi từ trần. Nó chỉ cho kiếp sống của chúng sinh, và với kiếp người thì đây là cơ hội tối thắng để tu tập - có khả năng để làm thanh tịnh các nghiệp xấu và thu thập công đức và sự giác ngộ nhằm giải thoát khỏi luân hồi và hướng dẫn các chúng sinh khác tới giải thoát.

Thân trung ấm nơi sinh trong cõi người thường xen lẫn bởi hai thân trung ấm khác, thân trung ấm chiêm bao (dream bardo) và thân trung ấm của thiền định (bardo of meditative concentration). Cả hai thân này dung chứa tiềm năng cho các trạng thái thâm sâu của tâm thức, mặc dù với hầu hết mọi người chúng chỉ giữ trong khoảng thời gian ngắn. Hệt như thân trung ấm nơi sinh, chúng có thể được vận dụng cho sự tiến bộ tinh thần.

Tiến trình chết xảy ra trong thân trung ấm của khoảnh khắc lìa đời (bardo of the moment of death), nó tiếp cận với hơi thở cuối cùng và sự hợp nhất vào luân xa quả tim của các năng lực nam và năng lực nữ nguyên thủy của chúng sinh đó. Thân trung ấm này có thể rất ngắn ngủi; nếu người này gặp cái chết chưa đúng thời bởi vì tai nạn hay vì bạo lực, hay là nó có thể được kéo dài, nếu người này chết vì căn bệnh dằng dai. Thân trung ấm của khoảnh khắc lìa đời là chặng chuyển tiếp chủ yếu trong chu kỳ luân hồi, bởi vì đó là lúc pháp môn p’howa có thể thành tựu được và sự giải thoát vào cõi tịnh độ có thể đạt được dễ dàng. Tuy nhiên, để thành tựu p’howa, học nhân nên tu tập kỹ lưỡng khi còn trong thân trung ấm nơi sinh, bởi vì tâm thức hỗn loạn thường gây mê mờ vào thời điểm chết.

Đối với hầu hết mọi người, thân trung ấm của chân tánh của vạn pháp (Anh ngữ: bardo of the true nature of phenomena; Tây Tạng ngữ: chos nyid; Phạn ngữ: dharmata) khởi đầu khi họ rơi vào màn tối đen, sau khi các năng lực nam và nữ hợp nhất trong quả tim. Các thiền sư vĩ đại nào có thể duy trì tỉnh thức trong suốt thời chuyển tiếp của cái chết sẽ không rơi vào màn tối đen này. Trong thời khoảng này, các phẩm chất của tâm được buộc vào trong tự tánh bất khả hủy diệt, vào trong tận nguồn vi tế nhất của tâm thức và sự hồn nhiên. Các phẩm chất của tâm về tánh biết - tám phương diện của ý thức - thì hiện hữu như là quả cầu cốt yếu của ý thức. Đặc tính di động của tâm thì hiện hữu như là các năng lực nghiệp thức cực kỳ vi tế (tức là “các gió”; Tạng Ngữ là lung), các lực này quấy động các phần tử của ý thức. Sự quấy động nhẹ này làm mê mờ ý thức, và ánh sáng trong suốt của thật tánh của vạn pháp khởi lên như một trạng thái bất nhị, bất khả diễn tả của Tánh Biết.

Tất cả chúng sinh, từ bất kỳ cảnh giới nào của đời sống, có một kinh nghiệm chớp nhoáng về tia sáng trong suốt khi họ chết, nhưng đối với hầu hết, nó qua đi trong khoảnh khắc mà không được ghi nhận. Chỉ có các đại thiền giả - những người đã chứng nhập cái nhìn cao nhất qua các pháp thiền của Đại Toàn Thiện, Đại Thủ An, Trung Quán - có khả năng để tìm giải thoát vào pháp thân, để thành đạt giác ngộ, xuyên qua việc chứng nhập ánh sáng trong suốt.

Đối với những người khác, sự giải thoát bị ngăn trở bởi một sự thúc giục về hướng “đầu thai” và một nỗi sợ bị hư vô hóa. Các phương diện vi tế của ý thức, bị quấy động thêm nữa bởi các năng lực tế vi, dẫn khởi lên các hiện tướng thanh tịnh của Tánh Biết, sự xuất hiện các vị Thánh hiền hòa và hung dữ. Ánh sáng khởi lên, cùng với các âm thanh cuồng nộ. Và rồi các hình tướng xuất hiện từ ánh sáng đó, trước tiên hiện ra như các vị Thánh đầy giận dữ cùng với tiếng cười gây kinh hãi. Mỗi vị mặc trang phục riêng đặc biệt và được đi kèm bởi một đoàn hội chúng dầy đặc tới đầy khắp không gian. Rồi các vị Thánh hiền hòa xuất hiện - trong đó có các vị bổn tôn của pháp môn p’howa là Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, và Phật Vô Lượng Thọ (1) - sáng rực và đầy kính ngưỡng.

Bất kỳ ai đã tu tập pháp quán tưởng, những ai đã thấy vị bổn tôn chỉ là hóa hiện tự tâm mình, có thể giải thoát được vào cảnh giới Báo thân. Đối với những người khác, sự hóa hiện của các vị Thánh hiền hòa và hung dữ sẽ chớp qua đi. Những người khác sẽ lùi xa khỏi khối sáng rực đó, và những hình ảnh và âm thanh của các vị bổn tôn sẽ biến dạng.

Bây giờ xuất hiện một chuỗi bốn chùm ánh sáng màu, mỗi chùm là hai độ rực rỡ, tập trung trên đầu như một chiếc dù - trước tiên là màu trắng, rồi xanh-đen, vàng, và đỏ. Sau khi chuỗi ánh sáng này hiển lộ, ánh sáng mang nhiều hình dạng khác nhau. Rồi một hình ảnh khởi lên như một sơ đồ thế giới, với các mạn đà la của tam thân (Pháp thân, Báo thân, Sắc thân - ND) và dưới các mạn đà la, là sáu cõi chúng sinh. Sơ đồ này rất trong sáng và chi tiết, và nếu có ai thấy được bản tánh của tam thân, thì người đó giải thoát. Nếu chúng sinh nào tránh né khỏi các tia sáng chói lọi và bị thu hút về các tia mờ, nếu chúng sinh nào không thấy bản tánh của mạn đà la tam thân và bị thu hút về sáu cõi, thì các hình ảnh nhạt dần, và thân trung ấm của thực tánh của vạn pháp chấm dứt.

Thân trung ấm của sự trở thành (Anh ngữ: bardo of becoming; Tạng ngữ: sidpa bardo) thì như một giấc mơ. Nếu có ai đã tập thiền trong kiếp trước của mình đủ vững vàng để nhớ tới vị thầy của mình hay vị bổn tôn đã chọn, thì sự giải thoát vào sắc thân [Phật] vẫn có thể thành tựu. Nếu chúng sinh này đã quên đi niềm tin trước đó của mình, và không có thể tái thiết lập thiền định, thì đau đớn lớn xảy ra. Thân trung ấm của sự trở thành là một nơi hoang vắng, nơi bầu trời mang mầu xám, không có mặt trời hay mặt trăng, không có nước hay lương thực, và chúng sinh trải qua đủ loại kinh nghiệm hãi hùng, như bị rượt đuổi bởi các nhóm thù nghịch hay là thú rừng, hay là rơi từ các đỉnh núi khi chúng biến thành các trận tuyết lở. Chúng sinh trải qua những kinh nghiệm này dường như chúng sinh này đã mang thân người và không có ký ức gì về sự hấp hối, không có ký ức gì về thân trung ấm của giây phút lìa trần, cũng như về thân trung ấm của bản tánh thật của vạn pháp.

Chúng sinh vào thân trung ấm của sự trở thành trong một thân thần-thức (mental body). Năng lực của 5 phần tử (ngũ uẩn-ND) hòa lẫn với các phương diện vi tế của ý thức và các năng lực vi tế của thân thần-thức, làm cho nó dày đặc hơn. Năm uẩn phát triển tới điểm mà các thân trung ấm có thể nhìn thấy, và được nhìn thấy bởi các thân trung ấm khác và bởi các vị trong các cảnh giới khác có khả năng thần thông. Các bộ phận cảm quan (của thân trung ấm-ND) hình thành, và cần có dưỡng chất, điều này được tiếp nhận trong hình thức mùi hương. Các thân trung ấm không bao giờ ở lâu một nơi, bởi vì, trong trạng thái không cân nặng này, các thân trung ấm tức khắc được mang tới bất cứ nơi nào mà họ mong muốn. Thoạt tiên, họ có thể cảm thấy một cảm giác có sự khoan khoái và quyền lực lớn trong trạng thái này, nhưng khi mong muốn của họ đi nơi này và nơi kia và họ bị buộc phải theo, và khi những mong muốn này bị ngăn trở, các thân trung ấm càng lúc càng dao động và bực bội. Họ tụ họp ở các cây xưa, nhà cũ, và các nơi hoang vắng, và loài người cảm nhận các thân trung ấm đó là ma.

Khi các uẩn dày đặc hơn, thì sự mong muốn, sự ghen tị và sự giận dữ của các thân trung ấm càng tăng. Họ nhìn thấy chúng sinh nơi 6 cõi, và muốn những gì mà các chúng sinh đó có. Khát vọng tìm một hình tướng trở thành khẩn cấp, và điều này lôi cuốn họ gần thêm tới cõi phù hợp với nghiệp lực của họ. Nếu ý thức của họ mang sự căm thù và giận dữ giết chóc, thì những cảm xúc này, được triển nở đầy đủ, dẫn tới tái sinh trong cảnh giới địa ngục. Nếu nhiều khát vọng và tham lam, khuynh hướng này khi phát triển đầy đủ sẽ dẫn tới tái sinh trong cõi quỷ thần. Sự ngu dốt và trực giác mù quáng dẫn tới tái sinh trong cảnh giới thú vật. Tính ghen tị và tính cạnh tranh, kết hợp với vài đức hạnh, dẫn tới tái sinh trong cõi bán thiên (demigod realm), trong khi sự hãnh diện hay mê luyến niềm vui thiền định, cùng với đức hạnh, dẫn tới các tầng chư thiên cõi dục giới. Thiền định bị mê luyến vào sự trong sáng - viễn kiến, tiên tri và tương tự - dẫn tới tái sinh trong cảnh giới sắc tướng của chư thiên. Thiền định bị mê luyến bởi sự ổn định dẫn tới tái sinh trong cõi trời vô sắc.

Tái sinh trong cõi người là do kết quả tổng hợp của công đức, kết tập từ các việc làm từ bi, và các điều xấu, khởi lên từ ngũ độc. Hoàn cảnh tái sinh vào cõi người - hoặc là người này sẽ giàu hay nghèo, khỏe hay yếu, thông minh hay khờ khạo, tất cả các cực này và khoảng giữa chúng - tùy thuộc chính xác vào tổng hợp nghiệp thiện và nghiệp ác của người đó. Các biến đổi cũng vô tận, bởi vì ảnh hưởng nghiệp thức thì không ngưng nghỉ.

Mệt mỏi vì sự xáo động của thân trung ấm của sự trở thành, thèm khát sự ổn định của một thân xác, một thân trung ấm có nghiệp tái sinh vào cõi người sẽ bị lôi kéo về cảnh giao hợp của bố mẹ tương lai. Nếu trung ấm này sẽ tái sinh làm người nam, thì sẽ bị lôi kéo về phía người mẹ, và ghen với người cha; nếu sẽ tái sinh làm nữ, thì bị lôi kéo ngược lại. Vào khoảnh khắc thụ thai, thì cái tâm thức vô tướng đó, bị thúc đẩy bởi các năng lực vi tế không ngưng nghỉ, kết hợp với tinh trùng và trứng của bố mẹ. Thân trung ấm của sự trở thành giữ tiếp trong khoảng hơn 9 tháng, cho tới khi ra đời, điều cho thấy rằng bánh xe luân hồi đã xoay đủ một vòng tròn. Một kiếp người lại bắt đầu. CHÚ THÍCH

(1) Bản Anh văn ghi tên ba vị là Amitabha, Avalokiteshvara và Amitayus. Hai vị đầu dịch ra Việt ngữ là A Di Đà Phật, và Quan Thế Âm Bồ tát. Nhưng chữ “Amitayus” lại có nghĩa là “Vô Lượng Thọ,” một danh hiệu khác của Phật A Di Đà. Trong khi theo kinh điển Tịnh độ thì vị thứ ba phải là Đại Thế Chí, tức Anh ngữ phải là Mahasthamaprapta. Tuy nhiên, bản Việt dịch sẽ giữ hoàn toàn trung thực với nguyên tác Anh ngữ, và sẽ ghi các chỗ nghi vấn.

Cần phải ghi nhận thêm rằng cuốn Tử thư Tây Tạng, The Tibetan Book of the Dead - bản Anh dịch và chú giải của Francesca Fremantle và Chogyam Trungpa, ấn bản 2000 của NXB Shambhala, trang 46 - ghi rằng lúc đó “Phật A Di Đà sẽ xuất hiện trước người chết từ hướng Tây phương Cực lạc, toàn thân màu đỏ, tay cầm hoa sen và ngồi trên ngai trên lưng chim công, ôm người bạn đạo là Pandaravasini. Ngài được đi kèm theo bởi hai nam Bồ tát là Quan Thế Âm và Văn Thù và hai nữ Bồ tát là Gita và Aloka, để 6 hình tướng Phật xuất hiện từ không gian của ánh sáng cầu vồng.” Có lẽ, chỉ nên xem các mâu thuẫn nơi đây như là các ngón tay dị biệt đang cùng chỉ về một mặt trăng, và có khi chỉ là mang tính ẩn dụ, chứ không có gì sai lạc cả.

Nguyên Giác dịch

(Trích từ P'howa Commentary: Ỉnstruction for the Practice of conscousness transference as Revealed by Rigdzinb Longsal Nyingpo)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thuyết tiến hóa của Đác Uyn: Vạn vật cùng chung nguồn gốc.

Từ học thuyết này, chúng ta thấy nhân loại là cùng chung nguồn gốc, dẫn tới cùng chung cội nguồn với loài linh trưởng, và cứ như vậy... một vũ trụ có sự liên kết với nhau từ vật chất vô cơ tới hữu cơ... con người. Hay chúng ta thấy vũ trụ là thống nhất.

Đạo Đức Kinh của Lão Tử: Đạo, Tự nhiên...

Đạo Đức kinh xác quyết về sự tồn tại tự nhiên, như nhiên của vũ trụ và không phải do môt Thượng đế tự ngã nào quyết định. Đạo Đức kinh cũng chỉ ra tồn tại các quy luật vận động chung của vũ trụ nhằm tạo thể thống nhất cho nó.

Đạo Đức kinh cũng nhận định con người có thể hòa nhập vào vũ trụ tức mọi sự vật, hiện tượng của vũ trụ có đặc tính chung.

Sự tồn tại của vũ trụ là vô thủy vô chung, vô hạn theo quan niệm không thời gian, tuy nhiên vũ trụ có cái khởi đầu và cái kết thúc.

Kính Hubbe và 1 vũ trụ vô hạn:

Một vũ trụ vô hạn chưa được xác nhận nhưng ranh giới thấy được bằng công cụ trong tầm 20 tỷ năm ánh sáng.

Quan niệm vũ trụ hình thành từ vụ nổ Big Bang là chưa hợp lý bởi chưa xác nhận vũ trụ là vô hạn.

Khoa học hiện đại về cái nhỏ nhất và thí nghiệm mát gia tốc tìm Hạt của Chúa.

Quan niệm Hạt vật chất nhỏ nhất là phù hợp bởi không có gì sinh ra từ cái Không, tuy nhiên Hạt cơ bản là nền tảng của vũ trụ, nó có trong mọi thứ và nó biểu tượng cho sự Vô hạn về một trạng thái vật chất vì vậy chúng ta không thể tìm cái Vô hạn từ hữu hạn là thí nghiệm bất kỳ nào đó.

Sinh sản vô tính như chú cừu Dolly.

Cho phép chúng ta thấy được mỗi sưự ật, hiện tượng đều là Nghiệp Quả của nhau nhưng có đặc thù cỏ chúng, ví dụ con người sẽ sinh con người hay ế bào con người sẽ tạo ra con người chứ không thể tạo ra con cừu hay có thể hiểu là chúng tại diện một số lượng xác định tổ hợp âm dương ngũa ành làm đặc trưng cho chúng.

Y học về quá trình sinh sản.

BIểu diễn ý trên nhưng cho biết mỗi con người là hệ quả của một tổ hợp Nghiêp hay Nhân có từ vô thủy để nhận cái Quả hiện tại và sẽ tích lũy Nhân hiện tại nhằm tạo ra Quả của tương lai. Điều này chỉ ra trong mõi sinh vật hữu tình có một "trung tâm" lưu trữ Nghiệp vô thủy tới nay và tùy điều kiện chúng sẽ xuất hiện tạo thành Quả của mỗi các nhân, cho nên Giàu sang là có số nhưng hoàn toàn hữu hạn và chỉ là một Tính của con người. Cũng vậy, Trung tâm trên phải tồn tại vĩnh cửu để Nghiệp Quả vận động tới vô chung cùng vũ trụ.

Kinh sách của Phật giáo và Bà La Môn giáo làm chủ yếu với quy luật Nhân Quả, Tính Thấy...

Xác nhận trong cơ thể người có một bộ vận tồn tại vĩnh cửu gọi là Tâm (Hồn), tuy nhiên có thêm quan niệm Tái sinh và Luân hồi. Điều này chỉ ra chúng ta tồn tại ngay sau khi Chết hay chúng ta vẫn còn Ý thức sau khi chết.

Ngã hay Bản ngã: là thuộc tính tạo ra cho Ta do Nghiệp từ vô thủy tạo ra Quả tương ứng hiện tại cùng với sự tổng hợp các trạng thái tự nhiên... tạo ra cho chúng ta các hệ thống quan niệm như là một trạng trái vật chất đặc thù, ví dụ yêu ghét... Nhưng Ta là một hiện thực khách quan và tồn tại mãi mãi, toàn bộ các trạng thái đặc thù của mỗi cá nhân sẽ tạo ra mỗi cái Ta tương ứng, dĩ nhiên là một thành phần của vũ trụ và có liên kết không tách rời tới vạn vật.

Như vậy, để giải tỏa sự khổ đau, buồn chán... đeo bám Ta cho tới vô hạn định của thời gian, thì phải có phương pháp tẩy trừ nó tức chuyển đổi các trạng thái Nghiệp thành Ý thức tự chủ mà nó đã được xây dựng thành thuộc tính của Ta chỉ mới mong cùng ngao du trên cõi vũ trụ này, còn không toàn bộ nhân loại chỉ sống trong cơn mê vĩnh cửu mà thôi.

Hiện thực khách quan: Ngoại cảm, gọi hồn, lục thông, ngủ sâu, mộng du, tưởng tượng...

Nếu có Hồn thì giữa hai người sẽ khác nhau, điều này chỉ ra mỗi Hồn/ Thân sẽ chịu nhận những Nghiệp Quả khác nhau tứ không thay thế nhau, cho nên không có Luân hồi hay Tái sinh. Tái sinh chỉ là một trạng thái đặc biệt cần xem xét.

Học thuyết Âm dương Ngũ hành: Thái cực, Lưỡng nghi...

Cho phép chúng ta xây dựng nên phương pháp lý giải và tu luyện Tính của con người hay làm sao đó Âm Dương hòa hợp thông qua Ý thức tức chuyển biến Nghiệp lực thành trí tuệ và hành động có kiểm soát trong thế gian hiện hữu hay sau khi chết (linh hồn còn tồn tại và tương tác tới thế giới này).

Thống nhất Tâm linh và Khoa học.

Linh hồn là tồn tại vĩnh cửu hay tổ hợp âm dương ngũ hành (vô cùng) của mỗi chúng ta là vĩnh cửu ngoài thân xác.

Hiện thực này phản ánh qua Xá lợi Phật, Thánh tăng...

Những cái mà chúng ta hiểu... được gọi là Sự thấy, sự hiểu, trí tuệ - sáng tạo... là một thuộc tính của con người được hình thành sau một khoảng thời gian vô xác định vận động, tương tác của vũ trụ hay tất cả vạn vật của vũ trụ đã hiện hữu cho tới khi loài người xuất hiện, hệ quả sau khi loài người xuất hiện từ sự vận động tiếp diễn của vũ trụ sẽ không thể tạo ra cái gì mới hơn nữa trong chính bản thân vũ trụ, điều này mới đảm bảo được Linh hồn chứa toàn bộ Nhân quả của vũ trụ và đảm bảo chính sự tồn tại vĩnh cửu của nó. Chúng ta co4ung có thể hiệu là Vạn vận là vô hạn đối với nhận biết của chúng ta hiện nay nhưng chúng vẫn là hữu hạn của các trạng thái.

Tổng hợp lại: Định mệnh là có thật

Ngũ Phúc Lâm Môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Học thuyết Âm dương Ngũ hành: Thái cực, Lưỡng nghi...

Những cái mà chúng ta hiểu... được gọi là Sự thấy, sự hiểu, trí tuệ - sáng tạo... là một thuộc tính của con người được hình thành sau một khoảng thời gian vô xác định vận động, tương tác của vũ trụ hay tất cả vạn vật của vũ trụ đã hiện hữu cho tới khi loài người xuất hiện, hệ quả sau khi loài người xuất hiện từ sự vận động tiếp diễn của vũ trụ sẽ không thể tạo ra cái gì mới hơn nữa trong chính bản thân vũ trụ, điều này mới đảm bảo được Linh hồn chứa toàn bộ Nhân quả của vũ trụ và đảm bảo chính sự tồn tại vĩnh cửu của nó. Chúng ta cũng có thể hiệu là Vạn vận là vô hạn đối với nhận biết của chúng ta hiện nay nhưng chúng vẫn là hữu hạn của các trạng thái.

Xin chỉnh lại.

Linh hồn cũng chứa Nghiệp quả từ vô thủy tới Hiện tại, trong Tương lai Linh hồn vẫn tiếp tục lưu trữ dữ liệu và xuất Quả từ Quá khứ... cứ như vậy, chỉ ra sự cân bằng dữ liệu trong Linh hồn hay cân bằng vật chất trong toàn vũ trụ.

Ngũ Phúc Lâm Môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nếu Định mệnh là có thật thì chúng ta lại có câu hỏi như sau:

Vì có định mệnh nên Ai là Phật thì sẽ là Phật vậy các con người khác tại sao cố gắng thành Phật?

Linh hồn vĩnh cửu có giao tiếp với chúng ta không, dĩ nhiên nó là vật chất.

Sau khi loài người xuất hiện, vũ trụ không thể sản sinh ra một sản phẩm nào hoàn hảo hơn con người được nữa và bằng cách nào đó trong vô lượng thời gian (hết 1 chu kỳ vận động của vũ trụ), trí não con người hình thành và là nơi tích chứa nghiệp từ vô thủy (khởi thủy vũ trụ) cho tới hiện tại trong mối liên quan tới vạn vật để tạo nên một định mệnh cho mỗi cá nhân.

Ngũ Phúc Lâm Môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sau khi loài người xuất hiện, vũ trụ không thể sản sinh ra một sản phẩm nào hoàn hảo hơn con người được nữa và bằng cách nào đó trong vô lượng thời gian (hết 1 chu kỳ vận động của vũ trụ), trí não con người hình thành và là nơi tích chứa nghiệp từ vô thủy (khởi thủy vũ trụ) cho tới hiện tại trong mối liên quan tới vạn vật để tạo nên một định mệnh cho mỗi cá nhân.

Vấn đề này đã được Phật giáo nghiên cứu tới tận cùng của ngọn ngành rồi.

Trong quá trình sống, việc Nghiệp được xuất ra thành Quả tại mỗi không thời gian tùy theo điều kiện tự nhiên, xã hội, gia đình, cá nhân... xung quanh cá nhân có thể hiểu là định mệnh thời điểm, đồng thời ngay trước thời điểm này hay "0 giây" trước đó, Nhân mới được tích lũy tương ứng qua 6 thức của con người như nhìn, nghe, ngửi, cảm, nếm và suy nghĩ để trở thành tổ hợp Nghiệp... và cứ như vậy thành Định mệnh cuộc đời.

Quá trình tương tác này tạo nên Tâm (tồn tại vĩnh cửu là nguồn xuất nhận Nghiệp Quả) cần thiết phải có công cụ của nó hay Linh hồn sau khi chết vẫn phải tồn tại Ý thức, mặc dù khi trong cơ thể sống vẫn có Ý thức và một ví dụ. khi ngủ chúng ta không thể nghĩ được. Cho nên, Linh hồn vẫn là "Ta" nhưng tồn tại cơ thể ở một dạng vật chất "nhẹ hơn".

Từ phân tích này, thì tư duy của ta vẫn là của ta, mọi cái khổ đau, sung sướng, thuộc tính tốt xấu... vẫn mãi đeo bám ngay cả khi ở một thế giới "mới". Dĩ nhiên Linh hồn vẫn giao tiếp được bình thường với chúng ta nhưng vì giới hạn của cơ thể sống nên chúng ta không thể thực hiện được ngoại trừ rèn luyện để tạo một số thần thông. Hầu hết, chúng ta không thể tự điều chỉnh mình được vì phụ thuộc vô vàn vấn đế, điều này dẫn đến chúng ta không thể kiểm soát cái Ngã hay Ta được, đó chính là luân hồi tư tưởng chứ không phải luân hồi mang tính thể xác.

Trong cơ thể mới, các lớp vật chất phân bố theo luật âm dương ngũ hành vẫn liên kết nhau chặt chẽ qua dòng luân chuyền "Khí".

Như vậy, với phân tích trên thì tu luyện theo Phật giáo là triệt để nhất, xây dựng một cái Ta vững mạnh, giúp cho chúng ta khi sống và sau khi chết nhưng "không chết" có những thuộc tính để tồn tại trong bất kỳ môi trường nào mà cũng thấy an lạc, không chỉ vậy các linh hồn có có thần thông, nếu cần vẫn tương tác lại thế giới con người để giúp đỡ, đặc biệt các vị Phật, Bồ tát còn có khả năng "Thấy" được nghiệp quả của mỗi cá nhân như hiện ra trong gương vậy, vì họ đã hòa nhập được vào toàn vũ trụ trong lúc đại định, lúc này thông tin của mọi "đích" cần biết tự động hiện ra trước "mắt" hay có thể hiệu đó là "Tính thấy"?.

Nên trí tuệ - sự sáng tạo của con người mới là kỳ diệu nhất.

Do vậy, nói cứu người là phải có cầu, có bến chứ niềm tin chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ.

Ngũ Phúc Lâm Môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Định mệnh có thật hay không đã cần phải giải thích được: Ta nhận thức được chính Ta hay Ý thức nhận thức được chính nó. Bằng việc phân tích thì Tính thấy là phi nhận thức nhận biết được Ý thức và có từ vô thủy tới vô chung, có trong vạn vật và ngoài vạn vật. Nó cũng không phải là vật chất, trong khi đó Ý thức là vật chất.

Tính thấy là khởi nguyên vũ trụ, Thái Cực, Đạo, Chân như... như vậy Tính thấy được tích hợp vào thuyết Âm Dương Ngũ hành là Thái Cực mang tính tuyệt đối.

Chúng ta chú ý, khởi nguyên vũ trụ cũng cần phải có không gian, vì không thể tồn tại cái Không ngay cả Thái Cực, Thái cực vẫn có tự tính riêng của nó, thời gian không tồn tại với ý nghĩa Thái cực tĩnh hoàn toàn.

Vậy, lý giải Tính thấy như thế nào trong thuyết ADNH một cách thuận lợi? khi nó là phi vật chất nhưng phi vật chất hàm nghĩa Không?. Như vậy, Tính thấy vẫn phải là vật chất nhưng nó có những tự tính đặc biệt, khi thế giới vận động sau Thái cực thì các thuộc tính của Tính thấy được phản ánh như thế nào qua sự vật hiện tượng cũng như mối liên quan giữa một Ý thức vật chất và Tính thấy bằng cách nào đó nó nhận diện Ý thức và tạo ra chuỗi phân tích của Ý thức?

Điểm mắt xích giữa Tính thấy - Tuyệt đối và Vật chất - tương đối? Tuy nhiên, vật chất vận động chưa hẳn là tương đối?

Nếu lấy chuỗi Chủ thể nhận thức với khả năng Ý thức - công cụ nhận thức - đối tượng nhận thức với Tính thấy có trong tất cả?.

Vấn đề cực khó là ngay điểm giao giữa cái Tuyệt đối chuyển qua cái Tương đối hay từ cái Phi Ý thức qua cái có Ý thức được lý giải như thế nào?. Tôi hiểu là Tính thấy là một thuộc tính của cái Vật chất ban đầu thì có vẻ hợp lý hơn nếu xét nó trong mối tương quan giữa cái Không - Có, Tuyệt đối - Tương đối, Tiên thiên - Hậu Thiên, Tính thấy - Ý thức.

Nếu logic lại thì:

Tính thấy là thuộc tính biểu hiện của một dạng vật chất đặc biệt hay gọi là Siêu vật chất.

Tính thấy là tính nhận biết được chính nó và bất kỳ cái gì trong giai đoạn Hậu thiên liên quan, tất nhiên cả vũ trụ hay Tính thấy nhận biết được mọi trạng thái của vạn vật nhưng không hàm nghĩa Tính thấy phải hiểu như chúng ta hiểu, tức là nó không có quy ước "quả mít" và chỉ nhận định một tổ hợp các trạng thái thống nhất tạo ra một loại vật chất mà chỉ do con người đặt tên là "quả mít".

"Quả mít" chỉ xuất hiện trong giai đoạn Hậu Thiên mà thôi hay chỉ khi xuất hiện con người, điều này lại cho ra một câu hỏi: tại sao lại như thế khi chỉ có con người đặt ra quy ước "Quả mít" (động vật cũng tạo được cho riêng nó) trong khi Tính thấy có ngay trong suy nghĩ của chúng ta? Phải chăng là tính đối xứng gương của Tính thấy?

Ngũ Phúc Lâm Môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Theo phân tích, Tính thấy là một thuộc tính của một loại Siêu vật chất nào đó và là khởi nguyên của vũ trụ, tuy nhiên nếu chúng ta đưa ra quy ước Siêu vật chất đồng nghĩa hoặc khác hoặc nằm trong ngũ hành. Nhưng nếu Siêu vật chất thuộc ngũ hành thì ó không còn là Siêu vật chất và sẽ phải phân chia nhỏ hơn, do vậy nó phải khác ngũ hành và nếu nó khác ngũ hành đồng nghĩa nó không tuân thủ quy luật âm dương ngũ hành?.

Cho nên, Siêu vật chất phải thỏa mã các điều kiện sau:

- Vật chất khởi nguyên vũ trụ với các thuộc tính tuyệt đối, ví dụ dây dẫn có điện trở nhưng khi đạt -273độ C thì không còn điện trở.

- Phi ngũ hành nhưng thể hiện thuộc tính như trên.

- Là loại vật chất nhỏ nhất.

Để thỏa mãn các điều kiện trên thì Siêu vật chất phải:

- Có hạt Tâm là một hạt vật chất không thể phân biệt âm dương ngũ hành.

- Xung quanh là lớp vỏ tương tác với hạt Tâm, lớp vỏ thể hiện âm dương ngũ hành. Tâm và vỏ tạo thành hạt Siêu vật chất. Các tương tương giữa Tâm và vỏ tạo nên thuộc tính tuyệt đối, điều này hàm nghĩa bất kỳ thuộc tính nào của sự vật, hiện tượng trong giai đoạn Hậu thiên đều phản ánh vào trong Hạt siêu vật chất.

- Sự liên kết của vô số Hạt siêu vật chất trong không gian vũ trụ tạo thành Vũ trụ khởi nguyên và chúng ta có thể hình dung một vùng nước bao la vô hạn, hoàn toàn tĩnh lặng tuyệt đối mặc dù giữa chúng có liên kết ban đầu và nhửng thuộc tính tuyệt đối ban đầu. Hậu thiên là sự tương tác giữa chúng và tạo ra vạn vật sau khi bằng một lý do nào đó vũ trụ vận động.

Nhận định trên không có mâu thuẫn với khoa học nhưng rõ ràng chỉ ra Big bang phi logic và thuộc tính tuyệt đối được xác định như thế nào?.

Tuy nhiên, câu hỏi của phần viết trên vẫn bỏ ngỏ với giả sử là ngay cả Tính thấy phản ánh nhận thức được chính nó trong giai đoạn Hậu thiên thì rõ ràng Hạt các cũng phải thấy chúng ta và nhận thức được vũ trụ?

Ngũ Phúc Lâm Môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tuy nhiên, câu hỏi của phần viết trên vẫn bỏ ngỏ với giả sử là ngay cả Tính thấy phản ánh nhận thức được chính nó trong giai đoạn Hậu thiên thì rõ ràng Hạt các cũng phải thấy chúng ta và nhận thức được vũ trụ?

Phân tích tiếp theo, thì lớp vỏ của Hạt nhân không thể thể hiện âm dương ngũ hành cụ thể trong giai đoạn khời nguyên được mà nó phải là ở trạng thái tiềm ẩn thì đúng hơn. Lúc này, các hạt sơ cấp của vỏ phải là bao nhiêu hạt và chúng không vận động mà cấu trúc xung quanh hạt nhân, đồng thời liên kết với các lớp vỏ của các hạt nhân khác.

Nếu chúng ta chấp nhận Tính thấy tồn tại trong giai đoạn khởi nguyên và là nguồn gốc của sự tự nhận thức hay nhận thức phản ánh trong nó và chúng ta hiểu mình đang làm/ nghĩ gì trong giai đoạn Hậu thiên thì rõ ràng, khời nguyên là một Nhận thức to lớn mà Bà La Môn gọi là Brahman? hay Thượng đế có tự ngã tức có ý thức tuyệt đối?.

Sự vận động nội sinh của Thái cực đã tạo ra sự vận động của toàn vũ trụ cũng được xem là ý muốn của Thượng đế có tự ngã?. Nếu không chấp nhận tính logic này thì chúng ta phải giải thích: trong giai đoạn Hậu Thiên, con người xuất hiện sau một chuỗi vô hạn... tương tác, phát triển... có tư duy và tự ý thức chính mình, đồng thời chấp nhận Tính thấy có trong vạn vật và là một trong những nguyên nhân tạo ra sự tụ nhận biết, vậy thì còn nguyên nhân nào khác về sự tuyệt đối Thái cực và tuyệt đối/ tương đối Hậu thiên?

Ngũ Phúc Lâm Môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tuy nhiên, câu hỏi của phần viết trên vẫn bỏ ngỏ với giả sử là ngay cả Tính thấy phản ánh nhận thức được chính

Nếu chúng ta chấp nhận Tính thấy tồn tại trong giai đoạn khởi nguyên và là nguồn gốc của sự tự nhận thức hay nhận thức phản ánh trong nó và chúng ta hiểu mình đang làm/ nghĩ gì trong giai đoạn Hậu thiên thì rõ ràng, khời nguyên là một Nhận thức to lớn mà Bà La Môn gọi là Brahman? hay Thượng đế có tự ngã tức có ý thức tuyệt đối?.

Nếu Tính thấy có từ khởi nguyên, nên rõ ràng phải xuất hiện sự tự ý thức hay đã có sự vận động, điều này là không thể, cho nên Tính thấy chỉ là thuộc tính của trạng thái khởi nguyên Siêu vật chất.

Hệ quả tiếp theo là không thể có Thượng đế tự ngã tạo ra vũ trụ và ngay cả trong giai đoạn khởi nguyên không tồn tại ý thức tự ngã, do vậy Thượng đế là thành phần của vũ trụ trong giai đoạn Hậu thiên hay Thượng đế cũng là Nhân thần tức con người cụ thể hóa thần mà thôi.

Vấn đề khó khăn nhất là lý luận như thế nào giữa Tính thấy (tuyệt đối so với thuộc tính của mọi sự vật, hiện tượng) và ý thức con người trong giai đoạn Hậu thiên? tạo ta sự tự nhận thức, có vẻ như mọi trạng thái vận động được phản chiếu trong Tính thấy như là một tấm gương soi?

Nếu giải thích được vấn đề này thì mới suy luận về nguồn gốc của Chu Dịch và Độn Toán.

Ngũ Phúc Lâm Môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vấn đề khó khăn nhất là lý luận như thế nào giữa Tính thấy (tuyệt đối so với thuộc tính của mọi sự vật, hiện tượng) và ý thức con người trong giai đoạn Hậu thiên? tạo ta sự tự nhận thức, có vẻ như mọi trạng thái vận động được phản chiếu trong Tính thấy như là một tấm gương soi?

Nếu giải thích được vấn đề này thì mới suy luận về nguồn gốc của Chu Dịch và Độn Toán.

Kể từ khởi nguyên vũ trụ cho tới khi con người hình thành, trải qua quá trình lâu dài từ đơn giản đến phức tạp nhưng hoàn toàn theo quy luật vận động, rõ ràng vật chất hình thành là do sự tương tác của vật chất ban đầu thông qua sự sắp xếp cấu trúc không gian của chúng, một điểm đặc biệt là phải luôn tồn tại trung tâm là vật chất cơ bản, tuyệt đối lý tính và lúc này cơ thể là vô số lớp vật chất tờ vô hình tới hữu hình, chúng ta có thể tóm tắt như sau:

Siêu hạt nằm giữa của Tâm - Tâm (chứa và truy xuất tác nhân đồng thời nhận quả xuất hiện) = Ý (phân tích - chọn lựa) - Thức (tưởng tượng là một trạng thái của cơ thể) và các giác quan.

Siêu hạt (nhân + vỏ) cứng vô cùng, nhỏ vô cùng, tuyệt đối lý tính như đã phân tích, chẳng hạn trong suốt tuyệt đối, truyền thông tin nhanh tuyệt đối...

Chúng ta thấy rằng: Siêu hạt như là tấm gương (Tính thấy) phản ánh quy luật chứa và xuất tác nhân tích lũy từ vô thủy tới hiện tại để tạo ra nhân và ngay lúc đó các tương tác tổng hợp lại tích lũy trong Tâm ngay lập tức để thành nhân hiện tại - Tính thấy đã phản ảnh quy luật chứa, xuất, lưu một cách liên tục nhân quả của mỗi con người liên quan đến quan hệ với toàn bộ vũ trụ từ vô thủy tới hiện tại mà không ngừng nghỉ (quy luật vận động chung)

Trong chuỗi vận động này, khi xuất và nhập thông tin từ Thức tới Ý - Tâm tức tương ứng quy luật chuyển đổi các trạng âm dương ngũ hành tới mỗi con người hay còn gọi là nhân quả phản ánh qua Siêu hạt tuyệt đối chính là Sự tự nhận thức.

Vậy, cấu trúc Siêu hạt là hình cầu hay hình đa diện đều???

Ngũ Phúc Lâm Môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cấu trúc Siêu hạt là hình cầu.

Trích: Thiên Sứ

Phật pháp chia vật chất làm bẩy dạng gọi là "vi trần". Dạng nhỏ nhất là "Lân vi trần" và sau "lân vi trần" thì vật chất không tồn tại ở dang có trọng lượng - nói theo ngôn ngữ khoa học. Nguyên văn bản dịch tiếng Việt là "biến thành hư không". Đây chính là một dạng tồn tại của vật chất mà Lý học gọi là "Khí".

Nhưng trong tạng kinh "Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm" - mà tôi đã trích dẫn rất nhiều trong cuốn sách đã xuất bản : "Đức Phật khai ngộ về tính thấy" (Sau này khi viết lại tôi bỏ đoạn này vì đã định nghĩa lại về vật chất) - thì Phật pháp không coi hư không là hoàn toàn "không". Vì - theo lý luận của Đức Phật - khi người ta nhận thức được hư không thì thì hư không đã chứa đựng "Tính thấy" - chứ không đơn giản là so sánh giữa cái có và cái không.

Phật pháp không nói rõ nguyên nhân tại sao chia vật chất làm 7 dạng.

Ngũ Phúc Lâm Môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites