hoangnt

Thành Cổ Loa được Xây Dựng Thời Gian Nào?

194 bài viết trong chủ đề này

Nguyễn Thiếu Dũng , nguồn : http://www.anviettoancau.net Xét về mặt phổ hệ Tần Thủy Hoàng, Triệu Đà và Gia Long là đồng tông nhưng không đồng tộc. Cả ba đều là người Việt. Họ đều có gốc từ Cao Dao, một trong tứ thánh thời Thượng cổ. Cao Dao (皋陶) là hiền thần thời vua Vũ nhà Hạ, truyền thuyết nói Cao Dao sanh vào thời vua Nghiêu, thời vua Vũ nhà Hạ được cử giữ chức quan hình pháp, lấy chính trực trị người nên được xem là tỵ tổ tư pháp Trung Quốc. Khổng Tử liệt Cao Dao vào hàng Thượng Cổ tứ Thánh: Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Vũ, Cao Dao. Sách “Minh nhất thống chí”, “Thanh nhất thống chí” đều ghi Cao Dao người Hồng Động. Sách “Hồng Động huyện chí” ghi Cao Dao người huyện Hồng Động, thôn Sĩ Sư, khi chết chôn tại phía đông thôn, miếu thờ lập ở phía đông bắc thôn. Lại có thuyết khác, sách “Lã thị Xuân Thu thông thuyên” nói Cao Dao là quan Tư pháp thời Ngu Thuấn, người Cao thành (nay là Lục An tỉnh An Huy) Cao Dao là hậu duệ của Thiếu Hạo thủ lĩnh Đông Di, họ Yển. Hiện nay phía đông thành phố Lục An có mộ Cao Dao Tương truyền Cao Dao có ba người con trai. Con trưởng là Bá Ế (tức Bá Ích) giỏi thuần hóa chim thú, làm quan nước Ngu, ăn lộc ở Doanh nên mang họ Doanh, hậu duệ Bá Ích được phong ấp Tần hợp xưng Doanh Tần, Tần Thủy Hoàng chính là dòng dõi Bá Ích, con cháu Bá Ích sau dời về trấn Triệu Thành, huyện Hồng Động, tỉnh Sơn Tây là thủy tổ của họ Triệu. Con thứ Trọng Chấn, làm quan nhà Hạ, được phong đất Lục (Lục An, tỉnh An Huy). sau phong đất Yển ( Khúc Phụ Tây, tỉnh Sơn Đông) nên mang họ Yển. Họ Yển về sau lập nước Nguyễn, hậu duệ mang họ Nguyễn. Các họ Thư, Từ, Nguyễn, Giang, Hoàng, Diệp đều là hậu duệ của Cao Dao. Như vậy Tần Thủy hoàng họ Doanh, Triệu Đà họ Triệu cùng gốc Cao Dao, dòng Bá Ích. Gia Long họ Nguyễn, họ Nguyễn có nguồn gốc từ Cao Dao nhưng thuộc dòng thứ Trọng Chấn. Tần Thủy Hoàng, họ Doanh tên là Chính, sử gọi là Tần Vương Chính. Tần Thủy Hoàng là con trai của Tang Tương Vương nước Tần tên Tử Sở và mẹ là Triệu Cơ (người đẹp nước Triệu) nguyên là thiếp của thương gia Lã Bất Vi. Tử Sở vốn là con tin của nước Triệu vì vậy sinh Tần Thủy Hoàng tại Kinh Đô Hàm Đan nước Triệu, do đó Tần Thủy Hoàng còn có tên là Triệu Chính, ông sinh năm 259 TCN, lên ngôi năm 247 TCN, năm 221TCN tiêu diệt sáu nước Triệu, Ngụy, Hàn, Sở, Yên, Tề thống nhất Trung Quốc. Tần Thủy Hoàng mất năm 210 TCN Để tránh vết xe đổ của nhà Chu do chế độ phân phong cát cứ khiến chư hầu lộng hành, Tần thủy Hoàng thành lập chế độ quận huyện. Đứng đầu quận là quận thú có quận úy phụ tá coi về quân sự. Triệu Đà người huyện Chân Định (真定), quận Hằng Sơn (恒山), thời Tần (nay là huyện Chính Định (正定), tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc; cùng quê với Triệu Tử Long (Triệu Vân) danh tướng thời Tam Quốc ) Năm 218 trước Công Nguyên, Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư (屠睢, còn đọc Đồ Tuy) làm chủ tướng, chỉ huy 50 vạn quân đi bình định miền Lĩnh Nam. Đồ Thư chiếm được nhiều đất đai nhưng cuối cùng bị tử trận. Tần Thuỷ Hoàng sai Nhâm Ngao ([5]) cùng Triệu Đà đến cai trị vùng Lĩnh Nam. Khi Đồ Thư chiếm được vùng đất Lĩnh Nam, Tần Thuỷ Hoàng lập nên 3 quận là Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (đông bắc Quảng Tây) và Tượng Quận (nam Quảng Tây), bổ nhiệm Nhâm Ngao làm Quận úy quận Nam Hải. Nam Hải gồm 4 huyện Bác La, Long Xuyên, Phiên Ngung và Yết Dương; Triệu Đà làm Huyện Lệnh Long Xuyên. Đó là đất của dân Bách Việt. Tần Thuỷ Hoàng chết (210 TCN), Tần Nhị Thế nối ngôi, hào kiệt nổi lên khắp nơi, mạnh nhất Lưu Bang và Hạng Vũ (từ năm 206 TCN), Trung nguyên lâm vào cảnh rối ren loạn lạc. Năm 208 trước Công nguyên, quận uý Nam Hải là Nhâm Ngao bị bệnh nặng, trước khi chết cho gọi Triệu Đà đến, dặn dò đại ý rằng: “ Đất Phiên Ngung thế núi hiểm trở, đất Nam Hải có núi chắn, có biển kề, rất thuận lợi cho việc dựng nước”. Khi nhà Tần diệt vong, Triệu Đà liền đánh chiếm Quế lâm, Nam Hải, Tượng quận lập nước Nam Việt xưng là Nam Việt Vũ Vương, chủ trương “hòa tập Bách Việt” ăn ở theo tập tục người Việt. Thời Cao Hậu, Triệu Đà xưng Đế, đem quân đánh quận Trường Sa, “đi xe mui lụa màu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là “chế”, chẳng kém gì Trung Quốc. Triệu Đà sáp nhập Âu Lạc của An Dương Vương vào Nam Việt biến Nam Việt thành một quốc gia rộng lớn nằm về phía nam núi Ngũ lĩnh, gồm tỉnh Quảng Đông, một phần Quảng Tây, một phần Phúc Kiến (nay thuộc Trung Quốc), phía nam đến tận Hà Tĩnh (Việt Nam ngày nay). Sau khi nhà Hán tiêu diệt Nam Việt sáp nhập phần đất thuộc Trung Quốc ngày nay thì sử thư Trung Hoa xem Triệu Đà là người Trung Quốc và cho là ông có công Hán hóa người Việt, mặc dầu Sử Ký của Tư Mã Thiên xác định Triệu Đà chống lại nhà Hán để bảo vệ căn tính Việt. Sử gia Việt Nam thì chia làm hai phái, một công nhận Triệu Đà và Nam Việt Quốc thuộc Kỷ nhà Triệu Việt Nam, một ngược lại phản bác cho là xâm lược. Ngô Thì Sĩ (1726 – 1780), tác giả Việt sử tiêu án đã viết: “Đến như việc tán tụng công lao của Triệu Đà đã xướng ra cơ nghiệp đế vương trước tiên, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ Liên cứ theo cách chép ấy không biết thay đổi, rồi đến bài Tổng luận của Lê Tung, thơ Vịnh sử của Đặng Minh Khiêm thay nhau mà tán tụng, cho Triệu Đà là bậc đế của nước ta. Qua hàng ngàn năm mà không ai cải chính, vì thế tôi phải biện bạch kĩ càng” (4). “Xét sử cũ: An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ: "Triệu Kỷ Vũ Đế". Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta. Nếu coi là đã làm vua nước Việt, mà đến ở cai trị nước ta, thì sau đó có Lâm Sĩ Hoằng khởi ở đất Bàn Dương, Hưu Nghiễm khởi ở Quảng Châu, đều xưng là Nam Việt Vương, cũng cho theo Quốc kỷ được ư? Triệu Đà kiêm tính Giao Châu, cũng như Ngụy kiêm tính nướcThục, nếu sử nước Thục có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện, thì quốc sử ta cũng có thể đưa Triệu tiếp theo An Dương. Không thế, thì xin theo lệ ngoại thuộc để phân biệt với nội thuộc vậy”. Nói như Ngô Thì Sĩ thì đúng ý của sử gia Trung Quốc, họ cho đất Bách Việt là đất của họ, Triệu Đà là người của họ. Mao Trạch Đông còn phong cho Triệu Đà là “Nam hạ cán bộ đệ nhất nhân” có công khai phá miền nam Ngũ Lĩnh. Các sử gia chính thống của ta thì thừa nhận Triệu Đà “có công mở đầu sự nghiệp đế vương cho nước Việt ta” Lê Văn Hưu nói: “Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đội mũ [như Trung Hoa], đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được” Đến thời Nguyễn Trãi (1380-1442). Mở đầu Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi cũng đề cao vai trò “gây nền độc lập” của Triệu Đà: “ …Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương… Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có!”… Nguyễn Trãi đã xác định hai điều cốt tử : Triệu, Hán mỗi bên hùng cứ một phương, núi sông bờ cõi đã phân định. Phong tục Bắc Nam cũng khác. Người Trung Quốc định nghĩa Hoa là quần áo đẹp, Hạ là to lớn có nghĩa với họ dân tộc Hoa Hạ không kết nối với nhau bằng huyết thống mà chính là do văn hóa phong tục tập quán, bị Hán hóa là chấp nhận y quan, tập quán của người Hoa. Triệu Đà luôn chống lại điều này, hơn ai hết nhà vua là người Việt, người Việt từ trong máu, gọi ông là người Hán là cưỡng bức lịch sử. Đâu phải Triệu Đà quê ở Chân Định, Hà Bắc mà vội kết luận ông là người Hán, hoàn toàn sai lầm. Triệu Đà họ Triệu, mà họ Triệu là hậu duệ của Cao Dao người Đông Di (Bách Việt) vì vậy ông có gen Việt. Đất đai của Trung Quốc hiện nay nguyên thủy là đất của người Việt, người Việt vào đấy trước người Hoa hằng mấy nghìn năm, hiện còn lưu lại nhiều di chỉ ở khắp nơi từ nam đến bắc. Khi người phương Bắc tràn xuống chiếm cứ Trung Nguyên người Việt đã thiên di trở về phương Nam nơi khởi thủy của họ ở Đông Nam Á khi từ Đông Phi đến, nhưng họ không thể chạy hết, chỉ một số ít chạy được còn thì phải ở lại rồi dần dần bị Hán hóa. Triệu Đà đến Lĩnh Nam là trở về với đồng bào của mình nên dễ hòa nhập với người Bách Việt phương Nam, sống thỏa mái trong theo tư thế người Việt. Đừng quên Lĩnh Nam là giang sơn của Văn Lang, là vùng đất mà Hai Bà Trưng đã đứng lên đạp đổ 65 thành để giành độc lập tự chủ trước quân nhà Hán xâm lược. Triệu Đà hãnh diện tự xưng “ Man Di đại trưởng lão phu” và thường lên án Cao Hậu hay kỳ thị phân biệt Hoa Di, Hán Việt. Man= Di= Hoa là tên tự gọi của chủng tộc không có phân biệt đẳng cấp như sau này. Năm 179 TCN Triệu Đà gởi thư cho Hán Văn Đế nói mình ở đất Việt đã 49 năm, đã có cháu bồng, ông sống theo lối Việt, ăn cơm Việt, lấy vợ Việt, con cháu ông cũng vậy, thì rõ là Triệu Đà đã Việt hóa từ lâu rồi, mà thần dân ông toàn là người Việt thì ông là người Hán chỗ nào. Cứ xem những người có gốc Bách Việt chạy sang Việt Nam họ hòa nhập rất nhanh, chỉ mới nửa đời thôi đã là người Việt rồi đến thế hệ thứ hai thứ ba họ hoàn toàn là người Việt sẳn sàng chết để bảo vệ đất nước mình đang sinh sống, lịch sử không thiếu những dẫn chứng. Ta cũng không thể quên tinh thần chống Hán để bảo vệ giang sơn Việt của Lữ Gia. Khi biết Cù Thái hậu muốn dâng Nam Việt cho nhà Hán, Lữ Gia đã truyền hịch khắp nước: “Vua còn nhỏ tuổi, thái hậu vốn là người Hán, lại cùng với sứ giả nhà Hán dâm loạn, chuyên ý muốn nội phụ với nhà Hán, đem hết đồ châu báu của Tiên Vương dâng cho nhà Hán để nịnh bợ, đem theo nhiều người đến Trường An rồi bắt bán cho người ta làm đầy tớ, chỉ nghĩ mối lợi một thời, không đoái gì đến xã tắc họ Triệu và lo kế muôn đời". Bèn cùng với em đem quân đánh, giết vua và thái hậu, cùng tất cả bọn sứ giả nhà Hán, rồi sai người đi báo cho Tần Vương ở Thương Ngô và các quận ấp, lập con trưởng của Minh Vương là Thuật Dương Hầu Kiến Đức làm vua”. Những người tự cho mình yêu nước Việt hơn ai hết để rồi phỉ báng Triệu Đà, Lữ Gia có thể nào làm hơn Triệu Đà, Lữ Gia không? Các sử gia Trung Quốc bây giờ chỉ nhấn mạnh ở chỗ Triệu Đà người Hà Bắc lập quốc rồi chịu thần phục nhà Hán, Nam Việt quốc tồn tại như một địa phương cát cứ “赵佗归汉, 岭南正式列人中统一的版图”(Triệu Đà quy Hán, Lĩnh nam chính thức sáp nhập vào bản đồ Trung Quốc thống nhất), mà lờ đi chuyện nhà Hán xua quân xâm lăng Nam Việt, lờ chuyện Nam Việt đã chiến đấu đến cùng cho nền độc lập vô vọng của mình nhằm muốn chính thống hóa đất Lĩnh Nam, văn minh Nam Việt là của Trung Quốc mà thôi. Thái Bá người nhà Chu (người Hoa) vượt Trường Giang đến ở với người Việt, cắt tóc ngắn xăm mình, lập nước Câu Ngô, không ai không nói Câu Ngô là nước của người Việt. Nhà Nguyên, nhà Thanh xâm lược Trung Quốc nhưng sử Trung Quốc có liệt vào kỷ Bắc thuộc ? Không như Ngô Thì Sĩ lớn giọng phủ nhận “ Than ôi! Đất Nam Hải , Quế Lâm không phải là đất Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam” các vị vua Việt Nam vẫn đau đáu miền đất Quảng Đông, Quảng Tây. Vua Quang Trung từng có ý định lấy lại Lưỡng Quảng. Vua Gia Long tên thực là Nguyễn Phúc Ánh theo phổ học cùng gốc với Tần Thủy Hoàng họ Doanh, Triệu Đà họ Triệu. Theo truyền thuyết họ Doanh, họ Triệu, họ Nguyễn đều là hậu duệ của Cao Dao người Đông Di , Tần Thủy Hoàng Hoa hóa, còn Triệu Đà, Gia Long là người Việt. Vua Gia Long sau khi thống nhất sơn hà, năm 1804 sai Thượng Thư Lê Quang Định đi sứ Trung Hoa xin phong và xin đổi quốc hiệu, trong thư gởi Gia Khánh nhà Thanh có nói: “ Các đời trước mở mang cõi Viêm Bang, mỗi ngày một rộng, bao gồm cả các nước Việt Thường, Chân Lạp dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã quét sạch miền Nam, vỗ yên được toàn cõi Việt, nên khôi phục hiệu cũ để chính danh tốt” Nhà Thanh không đồng ý tên Nam Việt, Gia long nói thẳng không cho thì không chịu phong, Gia Khánh bèn đổi là Việt Nam với ý “tên xưng chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với tên cũ của Lưỡng Việt ở nội địa [Trung Quốc] lại phân biệt hẳn.( Đại Nam thực lục, Đệ nhất kỷ, quyển XXIII, tr. 580.Nxb Giáo Dục, 2002) Thư của Gia Long dường như muốn dấu một sự thực dưới lớp ngôn từ thủ thuật ngoại giao. Xứ Đàng Trong không có tên Nam Việt, Trung Quốc thường gọi là An Nam, Nhật Bản gọi là Giao Chỉ, cũng có khi hai nước gọi xứ của chúa Nguyễn là Quảng Nam Quốc. Nhà Lê xưng nước là Đại Việt vậy sao Gia Long lại chọn tên Nam Việt nói là khôi phục hiệu cũ trùng tên nước Nam Việt của Triệu Đà, còn nói quốc hiệu là Nam Việt chỉ mới truyền nối hơn 200 năm mà lại gồm cả Việt Thường. Rõ là hư hư thực thực khó lường. Theo Đào Duy Anh: "Sách Điền Hệ của Súy Phạm viết về các dân tộc thiểu số ở miền Vân Nam cho biết rằng một dân tộc thiểu số tên là Sản Lý hay Xa Ly, có truyền thuyết nói rằng đời Chu Thành vương họ sai sứ giả đến triều cống, khi về được Chu công cho xe chỉ nam, vì thế họ lấy tên là Xa Lý. Lại có một dân tộc khác là Lão Qua (Lào) có truyền thuyết rằng ở thời nhà Chu, tổ tiên của họ là nước Việt Thường. Sách Điền nam tạp chí thì nói Diến Điện (Mianma) là nước Việt Thường xưa. Những dân tộc kể trên nhận Việt Thường là tổ tiên xa của mình đều có thể là di duệ của người Di Việt, tức của người Việt tộc xưa cả. Do đó chúng ta có thể đoán rằng nước Việt Thường xưa, một nước của Việt tộc ở miền nam Dương Tử, có thể tồn tại thực, cho nên một số dân tộc di duệ của Việt tộc ngày nay, trong ấy có Việt Nam, vẫn còn ghi nhớ mà xem như nước tổ của mình" ( Đào Duy Anh, Lịch sử cổ đại Việt Nam, NXB VHTT 2005, trang 218, 219). Như thế, ta có thể thấy được ẩn ý của Gia Long muốn khôi phục lại quốc hiệu Nam Việt của Triệu Đà để nhớ rằng lãnh thổ rộng lớn của nước ta đã từng gồm cả phía nam Ngũ Lĩnh. Hàm ý của Gia Long cũng là niềm tiếc nuối của Tự Đức: “ Xét chung từ trước đến sau, đất đai của nước Việt ta bị mất về Trung Quốc đã đến quá một nửa, tiếc rằng vua sáng tôi hiền các triều đại cũng nhiều người lỗi lạc hiếm có ở trên đời, mà vẫn không thể nào lấy lại được một tấc, đó là việc đáng ân hận lắm! Thế mới biết việc thu hồi đất đai đã mất, từ đời trước đã là việc khó, chứ không những ngày nay mà thôi. Thật đáng thương tiếc!”. (Khâm Định Việt Sử thông Giám Cương Mục, tập 1, tr. 108 (Tb. II, 3 – 4). Châu phê của Tự Đức (dẫn theo Trần Xuân An). Với Nam Việt, Gia Long và Quang Trung đã gặp nhau, những người anh hùng đã có công thống nhất giang sơn không thể không để giấc mộng của mình bay cao hơn. Ý kiến của Văn Nhân về 2 chữ ...nay là . Ông Cao Dao là nhân vật của huyền sử chính vì vậy ông mới có thể sống xuyên thời gian qua 3 triều đại , sinh thời đế nghiêu , làm quan tư pháp thời đế Thuấn và là hiền thần trông coi về hình pháp thời Đại Vũ , chắc là so với Đại Vũ ông cũng không hơn kém bao nhiêu tuổi nên vua Vũ mới có ý định truyền ngôi cho ông . Đã gọi là nhân vật của huyền sử nên không - thời gian bao trùm dĩ nhiên là huyền ảo , người đọc đừng dùng mắt thường mà đong đếm rồi phán xét vô lý - có lý ... Huyền sử họ Hùng viết trên cái nền Dịch học nên nhân danh thường là ‘chức hiệu’ , địa danh thường là những ‘Dịch tượng’ dựa theo ngũ hành - Bát quái ... Địa danh Giao chỉ trong cổ sử chỉ nghĩa là chỗ giữa – chốn giữa thiên hạ , Cổ sử viết ‘thiên hạ’ khởi đầu chỉ có đất Đào – Đường là ý chỉ cái nhân ‘Giao chỉ’ có 2 phần ; Giao bắc ở hướng Xích đạo còn gọi là đất Đào - đỏ , Giao nam giáp với đất Nam Giao – kinh Thư nên còn gọi là Thường hay Đường , thường ở đây nghĩa là bình thường , thường đối nghịch với cao . Cặp đối đẳng trong ngôn ngữ Dịch học : thường và cao nói trên được người xưa dùng kết tạo ra 2 nhân vật huyền sử : Cao Dao (Giao ?) và Giao Thường , Giao Thường là tên của đế Nghiêu , trước khi lên ngôi báu đế Nghiêu mang tước Đường vương nghĩa là vương vùng Giao nam , suy ra ông Cao Giao là nhân vật đồng đẳng nên rất có thể ông là thủ lãnh dân vùng Giao bắc – xích đạo , chính vì điều này nên dù không là ‘đế’ ông Cao Giao vẫn được Khổng Tử liệt vào hàng Thượng Cổ tứ Thánh. Ông Cao Dao sinh ở Hồng động , sách khác viết là Cao thành ... Hồng – đào –đỏ - xích – minh tất cả cùng 1 nghĩa với từ Cao trong Cao thành xét theo chuẩn của Dịch học ; quẻ Ly - màu đỏ - số 9 cửu- cao ( Lạc đồ) hết thảy đều là Dịch tượng chỉ hướng Xích đạo – vùng nhiệt đới tức phần Giao bắc xưa (ngược với nay), dựa trên thông tin khí hậu chứa trong địa danh sử thuyết Hùng Việt cho phần Giao bắc này là đồng bằng Thanh nghệ tĩnh ngày nay. Đã là 1 không thời gian huyền ảo thì dựa vào đâu mà giới nghiên cứu sử địa Trung quốc phán ...nay là ...nay là ???. Không căn cứ mà phán bừa thì ai chả làm được ...thí dụ như sách “Lã thị Xuân Thu thông thuyên” nói Cao Dao là người Cao thành (nay là Lục An tỉnh An Huy) xin hỏi dựa vào đâu để nói : Cao thành nay là Lục An tỉnh An Huy ?, tương tự Sách “Hồng Động huyện chí” ghi Cao Dao người huyện Hồng Động, thôn Sĩ Sư cũng vậy , dựa vào đâu ???. xin nói thật với các vị học gỉa không học thật hay học thật nhưng không nói thật... nói ông Cao Giao sống ở Hà tĩnh xem ra có vẻ hợp lý hơn ....vì Hà Tĩnh có dãy Hồng Lĩnh ...., Hồng động nằm trong núi Hồng lĩnh có lý qúa đi chứ ?, xét khía cạnh khác ... danh từ ‘động’ nếu không nghĩa là cái hang thì là tên đơn vị hành chánh cơ sở đặc thù của nước Việt , Hồng động đồng nghĩa với Bắc động , vua Lê thái Tổ từng xưng là Lam sơn động chủ - Ngọc hoa động chủ ,người Tầu không hề dùng từ này vậy Hồng động ở đất Việt hay đất Tầu ? Nếu chỉ căn cứ vào chữ Cao và chữ Hồng thì cũng có thể nói ...ông Cao Giao là người ...tỉnh Đồng tháp , nơi sinh có thể là huyện Cao lãnh mà cũng có thể là huyện Hồng ngự ...và đế Thuấn do có tên là Diêu trọng Hoá nên xưa vốn gốc ở ga xe lửa Diêu trì Quảng Ngãi ...., Diêu là tên ông còn có thêm chữ trì vì ở ga ‘Diêu’ thời bao cấp cán bộ nhân viên ở đây đào ao nuôi cá cải thiện bữa ăn nên mọc ra chữ trì là cái ao mà thành ra ga Diêu Trì ...., tào lao như thế ...nhưng ai có thể chứng minh ... là sai ? , điều này cũng y như những chữ ...nay là ...nay là vô bằng của các học giả Trung quốc vậy , có gì bấu víu đâu ? .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Việt và China

Dòng Hùng Việt

Bản thân người viết bài thuộc hàng abc chữ Nho nhưng thấy được tầm quan trọng của tương quan : tên nước và lịch sử của 1 quốc gia hay 1 dòng tộc nên mạo muội liều lĩnh đưa ra ý kiến như 1 sự gợi ý để các bậc túc Nho quan tâm đến vấn đề .

Cổ sử Trung hoa và truyền thuyết Việt viết trên cái nền Dịch học nên chỉ với ngôn ngữ Dịch học người ta mới có thể biết đích xác thông tin chứa trong những sách cổ đó ; nghĩa là biết được lịch sử thực của Việt nam và Trung hoa .

Tên gọi 1 quốc gia 1 dân tộc nếu viết bằng ngôn ngữ mẹ đẻ thì đương nhiên phải mang 1 nghĩa nào đó , ngược lại nếu quốc danh hay tộc danh mà không có nghĩa thì đấy chắc chắn là tên do ký âm ngôn ngữ khác mà có ví dụ như chữ Hán chẳng hạn , Trong Hán văn ...Hán nghĩa là gì ? đố ai biết ...vì từ Hán chỉ là ký âm của ‘Hãn’ nghĩa là ‘chúa’ trong tiếng Mông cổ ...

Giới nghiên cứu khoa học Việt đã tốn không biết bao nhiêu công sức giấy mực cho chữ Việt nhưng ý nghĩa vẫn chưa thực sáng tỏ ; đạt sự đồng thuận để có thể coi là nghĩa chính thức .

Khi đặt trên cái nền Dịch học thì nghĩa của chữ Việt sẽ hiện ra .

1 / Chữ Việt thứ I là chữ Việt = nhiệt : thường gọi chữ Việt bộ Mễ, riêng nhà nghiên cứu Lãn Miên cho là bộ Thái .

Chữ Việt này dùng phép chiết tự suy ra :

- Posted Imagelà ‘tượng hình’ của hình vẽ Posted Image ý chỉ vùng đất trung tâm thiên hạ thường gọi là Trung thổ hay Trung nguyên .

- Posted Imagephần mượn âm để đọc : việt = cái rìu tức cái búa dẹp hay dẹt , Phủ – việt là búa –rìu , thực ra cả 2 đều là từ Việt biến âm .

Búa là cái dùng để bổ (động từ) : Bổ ↔ búa ↔ bủ – Phủ .

Búa dẹp là cái dùng để chặt , dẹp ↔ dẹt ↔ diệt - Việt .

thực ra chữ Việt bộ Mễ chỉ là chữ mượn âm để tạo danh từ riêng chỉ dân sống ở vùng nóng hướng Xích đạo do biến âm : Việt ↔ diệt ↔ nhiệt mà ra .

Trong văn minh Á đông cổ có Cửu thiên nghĩa là 9 phương trời :

Posted Image

Viêm thiên chỉ vùng viêm nhiệt tức hướng xích đạo nóng bức màu đỏ , Đỏ - Xích - Hồng - Đào cùng 1 nghĩa . Phương trời ngược lại là Huyền thiên , huyền ở đây là màu đen đồng nghĩa với Mun – ô .

Vì đặt trên cái nền Dịch học tiêu biểu là Cửu thiên nên người Trung hoa xưa coi vùng lưu vực Hoàng hà là Trung thổ – trung nguyên , gọi dân sống ở nam Trường giang là Bách Việt , Việt còn phát âm là Diệc – Diệt mà Diệt cũng nghĩa là Nhiệt là nóng bức như thế ‘Bách Việt’ là danh từ riêng chỉ tộc người ở miền nóng tức Viêm thiên đối đẳng với tộc người sống ở Huyền thiên được gọi là Mun tộc , Mun = màu đen biến âm ra Man , Mãn , Mông , Minh .v.v.

Xét như vậy thì chữ Việt bộ Mễ là tộc danh của tộc người sống ở hướng nóng bức ; đó chính là cộng đồng người họ Hùng mà sử sách gọi là Bách Việt vì thế phải dùng trong tên các chi tộc của Bách Việt như : Lạc Việt , Di Việt , Dương Việt , Ngô Việt , Mân Việt ,Điền Việt , Đông Việt .v.v. .

2 / chữ Việt thứ II - chữ Việt = Vượt : 越 là chữ Việt bộ Tẩu .

Cấu thành từ chữ Posted Image tẩu là chạy và chữ qua Posted Image là 1 loại binh khí .

Qua là từ mượn âm , mượn âm của cái ‘qua’ là binh khí nhưng hiểu là quá , vượt qua .

Ghép 2 phần thành cho ra ý ...chạy qúa tức là vượt , vượt ↔ việt.

Chữ Việt bộ Tẩu 越có gốc ở từ Vượt của Việt ngữ ; nghĩa hàng ngang là qúa 1 chỉ giới hay qua 1 đối tượng tức ‘vượt qua – vượt qúa’ còn nghĩa hàng dọc thì vượt là trên mức bình quân thường thường tức ‘vượt lên – vượt trên’ , vượt còn dùng chỉ phẩm chất như ‘ưu việt – siêu việt’

Phối hợp 2 chữ mượn chỉ tính chất và chỉ thanh âm cho ta 1 danh từ riêng với ý nghĩa : Việt là tên gọi 1 đất nước , đây đích thị là quốc danh của quốc gia tiền nhân người Việt lập nên khởi đầu ở thời Hùng Việt vương Tuấn lang tức ông Đại Vũ tổ của vương quốc Trung hoả (theo Sử thuyết Hùng Việt ), thời Tản viên sơn thánh tức Việt vương Tuấn lang là thời vượt lũ “....nước cao thêm thì núi cũng vượt cao thêm ..” .đấy chính là nghĩa của chữ Việt ‘quốc danh’ .

Vậy : Chữ Việt bộ Tẩu 越 là Quốc danh của người họ Hùng , được dùng trong tên các nước do người họ Hùng lập ra như : nước Việt thời Hùng Việt vương , nước Việt của Việt vương Câu tiễn , nước Nam Việt của Triệu Đà , nước Đại Việt thời Lý công Uẩn và sau cùng là Việt nam ngày nay .

Ngày nay do quên mất gốc không thấu suốt cách tạo chữ nên sách vở - văn bản vẫn còn tùm lum , lẫn lộn không phân biệt đâu là ‘quốc danh ’ đâu là ‘tộc danh ’ còn phán bừa ...Việt nào cũng là Việt dùng chữ nào cũng được cả .

3 - CHINA .

Tại sao ký âm Latinh lại viết Trung hoa là China ?.

Âm China không dính dáng gì đến âm Trung – hoa hay Hán – hãn mà cũng chẳng thấy hơi hám của Mông – Thát hay Khiết đan gì gì trong đó ...vậy China mọc ở đâu ra vậy ?.

Có người cho là : China là ký âm Latinh của từ Tần ,Tần là tên quốc gia nằm ở phía tây ‘thiên hạ’ đã có công thống nhất Trung quốc cả về lãnh thổ và những nét chính của nền văn hóa như Văn tự và Đo lường .v.v.

Điều này xem ra cũng có lý và rất lý thú ...

Tần còn gọi là Tây Tần đã chỉ ra vị trí nước này ở phía tây trên bản đồ ‘thiên hạ’ thời Xuân thu - chiến quốc , thực ra quốc danh Tần cũng chỉ là từ chỉ phía tây mà thôi ,thực vô cùng lý thú khi khám phá ...nó là từ Việt ngữ .

“Tần, phát âm theo Hán ngữ là “Chín” (Qín), người Ấn Độ phiên cái âm “Chín” ấy thành China, sau người phương Tây theo đó gọi Trung Quốc là China.” (Trích bài Chữ Khoa Đẩu của tác gỉa Lãn Miên trên mạng internet )

Posted Image

Trong đồ hình Hà thư (đồ) 2 số 4 và 9 là số của phương Tây , ngay từ Tây trong phương Tây cũng chỉ là biến âm của Tư số 4 tiếng Việt mà ra .

- 4 Tư ↔ Tây .

- 9 Chín (tiếng Việt) ↔ Tần (Hán Việt) , như đã viết ở trên chính người Hoa phát âm là ‘Chín’ hoàn toàn đúng với cái gốc số 9 chín Việt ngữ chỉ phương Tây của Hà thư .

Dưới ánh sáng Dịch học ...đến cái quốc danh CHINA ký âm La tinh chỉ Trung Hoả cũng lộ rõ gốc là 1 từ Việt thuần ...hỏi còn gì phải bàn nữa ...???

Theo hình vẽ của tác giả, tôi có ý kiến sau:

Posted Image đây là hình người nên có lẽ chỉ người Việt.

-Posted Imagelà ‘tượng hình’ của hình vẽ Posted Image ý chỉ vùng đất trung tâm thiên hạ thường gọi là Trung thổ hay Trung nguyên: ta cũng thấy đây là trung cung của bàn cờ tướng. Chữ Việt này mang hình vuông cửu cung có lẽ chỉ quốc gia, Trung nguyên là hợp lý.

Mang hình nội____? ngoại quốc? Không rõ chữ trong hình vuông là chữ gì, đồng thời hình vuông có râu là chữ gì?

Share this post


Link to post
Share on other sites

A/ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ :

* " Vua họ Lý, tên húy là Bí, người Thái Bình [phủ] Long Hưng. Tổ tiên là người Bắc, cuối thời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam. Vua có tài văn võ, trước làm quan với nhà Lương, gặp loạn, trở về Thái Bình. Bấy giờ bọn thú lệnh tàn bạo hà khắc, Lâm Ấp cướp phá ngoài biên, vua dấy binh đánh đuổi được, xưng là Nam Đế, đặt quốc [15a] hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên3. - Tân Dậu, năm thứ 1 [541],"

* " Giáp Tý, [Thiên Đức] năm thứ 1 [544], (Lương Đại Đồng năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. "

* " Khi [quân của Bá Tiên] đến Giao Châu, vua đem 3 vạn quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch, vua chạy về thành Gia

Ninh. Quân Lương đuổi theo vây đánh. "

* " [22a] Nhâm Tuất, năm thứ 32 [602], (Tùy Văn Đế Dương Kiên, Nhân Thọ năm thứ 1). Vua sai con của anh là [Lý] Đại Quyền giữ thành Long Biên, Biệt súy là Lý Phổ Đỉnh giữ thành Ô Diên (bấy giờ vua đóng đô ở Phong Châu). "

* " Đinh Mùi [767], (Đường Đại Tông Dự, Đại Lích thứ 2). [Người] Côn Lôn, Chà Bà đến cướp, đánh lấy châu thành. Kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu với Đô úy châu Vũ Định là Cao Chính Bình.

Đại Việt sử ký san định bởi Ngô Sĩ Liên rất lạ:

Cứ điểm mắt xích nào quan trọng là gắn cho Trung Quốc - như Lý Nam Đế.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi một mình đến Quảng Châu với mục đích duy nhất là thăm lăng mộ Triệu Văn Vương. Từ sân bay Bạch Vân tôi về thẳng nhà nghỉ trường đại học Kí Nam. Sáng hôm sau, lên xuống mấy lượt xe buýt và tàu điện ngầm, tôi đến cổng công viên Việt tú. Đi bộ một thôi dọc phố Giải Phóng Bắc, băng qua đường bằng hầm, tôi đứng trước bức tường mặt tiền cao ngất của viện bảo tàng.

Thật mỹ mãn. Người Việt Đông chăm sóc di tích lịch sử rất khoa học.

Đêm. Ngồi ghế đá trong khuôn viên rợp cây xanh trước nhà nghỉ, khoan khoái tận hưởng không khí trong lành, tôi tự hỏi “Hơn hai ngàn năm trước, đây cũng là lãnh thổ nước Việt ư?” Một ông lão râu tóc bạc phơ đi ngang, vừa cười vừa hỏi:

“Mai mi về nam, sao không tiện thể ghé ta chơi?”

“Thưa… Ông là…”

“Ta là ông nội của Văn Vương.”

“Nhà ngài… À không, lăng mộ của ngài gần đây ư?”

“Trường đại học này xây dựng bên triền địa danh Ngung sơn trong sách xưa.”

Thôi thúc có ma lực, hơn cả sự tò mò khiến tôi líu ríu theo bước Triệu Đà.

***

Lối vào mộ dốc và khá hẹp, dài tầm vài chục bước chân, vách đất dựng đứng. Theo lễ nhà Chu, chỉ thiên tử mới được làm đường khiêng quan tài vào mộ. Thời ấy ở Hoa Bắc, người ta đào mộ đạo rất rộng và sâu. Sau khi an táng, hai phần ba chiều cao mộ đạo được lấp cát và chèn đá hộc, một phần ba phía trên là đất nện. Nếu trộm viếng mộ, đào càng sâu thì chúng càng có nguy cơ tự chôn sống vì cát sụt lôi đá xuống. Thấy tôi quan sát khá kĩ, Triệu Đà quay lại bảo:

“Ở đây cao và xa sông suối, không tìm được cát. Ta cho đào ngang, hút sâu vào lòng núi. An toàn không kém. Hai thiên niên kỉ có hề hấn gì đâu. Cửa nhà ta suốt bốn mùa và suốt ngày đều có thể nhìn thấy mặt trời”

“Ngài năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”

“Ta dọn về đây năm 137 trước công nguyên. Ta sinh năm 234 tại Chân Định, nước Triệu. Nay là huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.”

“Sao Đại Việt sử kí toàn thư ghi nhận ngài thọ hơn trăm tuổi.”

“Mấy chú thư lại hậu sinh ấy nhầm khá nhiều. Sách sử sao đi sao lại, có người vì mục đích này nọ lại bịa thêm. Chỉ Sử kí chuẩn nhất, nhưng quá khúc chiết.”

“Ngài là phó tướng của Đồ Thư?”

“Bậy nào. Ta xuống Lĩnh Nam đợt hai, sau khi dân Tây Âu đã giết Đồ Thư. Tần Thủy Hoàng rất ghét nước Triệu, vì tuổi thơ ông khó nhọc tại Hàm Đan. Nhiều người Triệu bị bức ép đi xây Trường Thành và xung lính thú Lục Lương. Thuở bé ta con nhà tử tế, được học ít nhiều. Sẵn chí tiến thủ, sau vài năm chinh chiến ta thành huyện lệnh Long Xuyên…”

Bước qua hai cánh cửa đá to và nặng, Triệu Đà chỉ tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh một thạp đồng có hoa văn người chèo thuyền đặc trưng của đồ đồng Đông sơn.

“Chịu khó nhé. Nhà cửa chật hẹp vì mái lợp đá nguyên tảng, không thể dùng các tấm lớn hơn.”

Sau khi đưa cho tôi chén trà có ánh bạc, Triệu Đà yên vị vào chiếc yên ngựa bằng da nạm vàng, kê trên bó ngà voi rất to. Ông giới thiệu “nhà” mình:

“Đây là phòng khách. Phòng ngủ sát kề. Sau phòng ngủ là kho. Có 2 buồng chái tây và hai buồng chái đông. Ta đem theo hơn chục người tuẫn táng gồm lính gác, phục vụ, nấu bếp, nhạc công và mấy bà phi trẻ tuổi. Hơi dã man” Triệu Đà lắc đầu “Truyền thống nó thế…”

Gió nam mát rượi. Bộ quần áo ngọc may bằng chỉ tơ, treo trên móc áo gỗ chân đồng chạm khắc tinh xảo, hơi lao xao. Dàn chuông thở những tiếng âm u.

“Ban sáng, thăm mộ cháu ngài, tôi thấy chiếc ấn vàng “Văn Đế hành tỉ”, lại có ấn “Triệu Muội” và ấn “Thái tử”. Tư Mã Thiên ghi nhận Văn đế tên Hồ mà?”

“À, thằng này mẹ Việt, bà nội cũng người Việt. Ta đặt tên Hồ, nhưng trong hoàng gia hắn chỉ thích mọi người gọi hắn theo tiếng bản địa. Chữ Muội dùng để kí âm. Đấy là tên một vị anh hùng trong huyền thoại cổ xưa của người Việt.”

“Ông ta là con Trọng Thủy?”

“Ừ, nhưng không phải con Mỵ Châu đâu nhé. Thủy chết sớm. Hồ đĩnh ngộ, ta đúc cho ấn thái tử. Vì ấn thái tử cũ của Thủy là Kim li hổ ấn (ấn vàng núm hình con lân), nên đành cho Hồ dùng Kim qui ấn (ấn vàng núm hình con rùa) theo đúng trật tự long – lân – qui – phượng.”

“Vậy còn chuyện An Dương Vương và nỏ thần?”

“Hình tượng An Dương Vương trong hiến sử Việt Nam là một tổ hợp phức tạp những ghi chú có chủ ý của sách vở Hoa Hạ và lời truyền miệng dân gian.”

“Thế Tây Âu Lạc ở đâu?”

“Âu Lạc là kí âm Đất nước, Xứ sở của người Việt bằng Hán tự. Người Việt ở Phiên Ngung, người Việt dưới mé sông Hồng, hay người Việt tại đất Mân đều gọi nơi mình sống là Âu Lạc. Cũng có thể xem Âu Lạc là tên bằng tiếng Việt của nước Nam Việt. Khi Tư Mã Thiên viết Tây Âu Lạc, ông ta hàm ý phía tây Phiên Ngung, tức vùng Nam Ninh Quảng Tây gần cửa biển Hợp Phố.”

“Vậy ông chưa từng đặt chân đến sông Hồng?”

Triệu Đà đứng lên lấy chiếc hộp bạc tròn đựng thuốc của người Ả Rập cổ đưa cho tôi xem:

“Những thương nhân từ Ba Tư đi thuyền đến đây có kể ít nhiều về mảnh đất hoang vu bên con sông đỏ quạnh phù sa. Nơi ấy nhiều đầm lầy, ẩm thấp, dân thưa thớt, mùa mưa ngập lụt triền miên. Ta từ nước Triệu, chỉ quen cưỡi ngựa nên không có kinh nghiệm xây dựng đội thuyền viễn chinh.”

“Còn thành Cổ Loa nữa chứ.”

“Dịch Hu Tống chết, nhân dân Tây Âu Lạc không chịu làm nô lệ đã quật khởi kháng chiến và giết được Đồ Thư. Dạo Lữ Hậu chuyên quyền, ta bắt đầu dòm ngó sang hướng ấy nhằm mở rộng Nam Việt, sẵn sàng chống giặc. Trước nguy cơ bị thôn tính, quân trưởng An Dương Vương đã liên kết các bộ lạc Tây Âu Lạc, xưng vương và thành lập nhà nước sơ khai theo chế độ mẫu hệ. Lợi dụng địa thế núi non, An Dương Vương đắp thành đất, dựng lũy gỗ nhiều vòng men theo vách núi, nhìn xa như một con ốc biển khổng lồ. Đó phải chăng thành Cổ Loa? Quân ta nhiều lần điêu đứng với những mũi tên đồng này.” Triệu Đà chỉ vào bó tên màu vàng, cạnh chiếc nỏ dựng góc phòng. “Ta thu phục mãi không được. Hết nước, phải dùng kế li gián. Tay chân ông ta nhận của cải đút lót, đuổi đánh chủ. Vị thủ lĩnh kiêu hùng thất thế lên thuyền chạy ra biển, đem theo nhóm quí tộc thân cận.”

“Ý ông là, họ đến Đông Anh, Hà Nội ngày nay, đắp đê ngăn nước và sinh sống?”

“Có lẽ thế. Họ đem theo câu chuyện về Cổ Loa và những cuộc đụng độ với ta. Thời gian xóa nhòa tất cả. Sau này con cháu họ lầm tưởng vết tích Kiển Thành mà Mã Viện xây trên thân đê là Cổ Loa bên Quảng Tây.”

“Ông sáng tác kịch bản này nhằm biện minh hành động xâm lược?”

“Ngươi xem, trong nhà ta có chiếc trống đồng chiến lợi phẩm nào đâu. Vị vương mới ở Tây Âu Lạc cũng ít chịu nghe lệnh ta. Năm 111 Phiên Ngung thất thủ, ông ta định chống nhà Hán. Hoàng Đồng là người Phiên Ngung cử qua giám sát Tây Âu Lạc. Sử kí viết “Tả tướng cũ của Âu Lạc chém Tây Vu Vương.” Tây Vu nghĩa là vùng phía tây (Phiên Ngung), chứ không phải địa danh. Tây Vu và Tây Âu Lạc là một. Chữ Tây này vẫn tồn tại đến hôm nay trong tên gọi Quảng Tây, một tỉnh giáp ranh phía bắc Việt Nam.”

***

Một thiếu phụ mặc áo lụa, tay diện vòng bạc, khắp người lấp lánh ngọc trai, ngọc bội, trâm vàng, bước ra từ buồng ngang phòng khách phía đông. Không nhìn tôi, bà cúi xuống nói gì đó với Triệu Đà. Tôi đọc được dòng chữ “Hữu phu nhân tỉ” trên chiếc ấn vàng bà đeo giữa ngực.

Người nhà đã chuẩn bị xong mọi thứ, đến giờ Triệu Đà ăn tối và xem vũ – nhạc, ông ngỏ ý mời tôi cùng thưởng thức. Cẩn thận bước đi giữa rất nhiều đồ tùy táng, tôi theo ông vào phòng lớn phía Tây.

Nhóm nhạc công nhỏ bé gần như bị lèn chặt bằng rất nhiều loại nhạc cụ: Khánh đá, chuông đồng đủ kiểu, tù và ngọc thạch, đàn tranh cổ nước Tần…

Cung tơ dìu dặt, bước chân ngựa thong thả trên bình nguyên hoàng thổ. Bất ngờ tiếng tù và xung trận rúc lên. Chuyển động khẩn trương, dồn dập. Binh khí chạm nhau. Ngựa hí… Thanh âm chuông móc câu loang trên mặt cỏ. Mùi máu tanh… Tiết tấu rệu rã, sinh lực dũng sĩ đã hết. Nhạc nhỏ dần, nhỏ dần để chuyển điệu.

Róc rách nước chảy khe suối. Dàn khánh đá lung linh dưới ánh sáng của khay đèn mỡ cá bằng đồng. Chim hót, vượn hú, rừng rậm thâm u. Chiếc lẫy nỏ bật đánh tách một cái. Mũi tên cảnh báo xé không khí mà đi. Thấp thoáng sau lùm cây dại là những chiến binh mặc khố, đầu cắm lông trĩ ngũ sắc… Ngựa sụp hố chông rống thảm thiết.

Âm thanh dạt ra như đồng cỏ lau ngút ngàn có người rón rén băng ngang. Việt điệu rộn rã ngày càng đến gần tai người nghe. Lớp lớp chân trần dậm đất thậm thình quanh đống lửa. Nhiều phụ nữ mặc khố hoa, ngực căng cong vút tựa sừng trâu, chẳng thèm che đậy màu da nhuộm nắng. Ánh mắt trai gái đều hiền hòa bao dung, pha chút say đắm thật thà, thiết tha mời gọi. Chinh nhân ném bỏ gươm sắt, cởi giáp hòa vào đám đông.

Một gia nhân ôm vò rượu gạo có viết bốn chữ “Trường Lạc cung khí” đến rót vào chén ngọc cho tôi.

Hương từ đỉnh trầm len qua những khe trang trí hình kỉ hà quyện vào tà lụa hai vũ công. Nhân ảnh nhòe nhoẹt, chỉ còn lại đôi chim quấn quít với nhau trên bãi phù sa lúc thủy triều xuống.

Thỉnh thoảng để thay đổi góc nhìn, tôi lại hướng mắt vào hàng chục chiếc gương đồng bóng loáng treo trên vách đá. Một chiếc gương khá lớn nằm che gần hết lưỡi qua đồng bén ngọt. Thấp thoáng dòng chữ “Trương Nghi”. Chiếc qua này chắc hẳn đúc ở công xưởng binh khí nước Tần, thế kỉ thứ 4 trước công nguyên.

Con rùa to lật ngửa đã chín trên vỉ nướng. Triệu Đà dùng que xiên tách mai rùa, giơ ra trước đèn. Vết nứt trên mai rùa phảng phất thể hiện một dòng giáp cốt văn “Nam Việt độc lập”.

***

“Ngài tự nhận mình là người Triệu, người Tần, người Hán hay người Việt?”

“Ta với Lưu Bang, chí chẳng khác nhau, địa lợi khập khiễng mới thành kẻ bắc người nam, kẻ mạnh người yếu. Ta xưng vương ngoại giao cho qua chuyện binh đao, sao gọi là người Hán được. Tần cường bạo dùng lửa để dập lửa, giết người cầu hiếu sinh, đốt thi thư nhằm ngu dân an bang, hạ sách lắm. Phần lớn đời ta uống nước Việt, ăn gạo Việt, nói tiếng Việt nhưng vẫn nhớ nơi chôn nhau cắt rốn. Tim, óc ai chẻ ra cân đong đo đếm bao giờ.”

“Còn văn hóa Việt thì sao?”

“Ta chưa bao giờ phủ nhận người Việt, văn hóa Việt. Phải khẳng định văn minh “chính phủ”, tổ chức chính quyền, công thức xã hội phương Bắc nảy nở trên nền tảng phụ quyền có lí do tồn tại và cắm rễ nơi này, xúc tác tăng tốc chu trình tiến hóa. Thực sự có những thứ ta đem đến đây rất hữu dụng, và ít nhiều vẫn chưa biến hình hoàn toàn cho đến thế kỉ 21 sau công nguyên.”

“Như ngài nói, ngài đâu đã đặt chân đến đồng bằng sông Hồng.”

“Hán Vũ Đế xâm lăng Nam Việt, bọn Việt gian Tô Hoằng cùng quan lang Đô Kê phản phúc chặn bắt Kiến Đức, Lữ Gia. Còn bao nhiêu quí tộc, thân vương theo thuyền buôn, thuyền cá dong buồn về biển Nam ngươi không tính ư. Làn sóng tị nạn ấy đã đem tinh hoa nước Nam Việt đến bến bờ tự do bên dòng sông Hồng.”

“Biên giới Nam Việt, tức nước Âu Lạc của người Việt bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc Việt Nam?”

“Phía nam Ngũ Lĩnh, văn hóa tương giao, chủng tộc gần gũi, các bộ lạc rải rác, quân trưởng độc lập, chế độ mẫu hệ chủ đạo nên không có biên giới. Đừng đem một khái niệm mới đè lên thời trước. Những chuẩn mực chính trị ta xây dựng ở Nam Việt cắm rễ vững chắc vào nền chính trị Việt Nam. Lý Bí xưng Nam Việt Đế. Triệu Quang Phục giương cờ Việt Vương. Sau đó nào là Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Nam, Việt Nam… Quanh đi quẩn lại cũng từ hai chữ Nam và Việt mà ra. Cách ta hành xử với Bắc phương được thực hành tới lui hàng ngàn năm mà có lỗi thời đâu. Nên lưu ý, nhà Hán hai lần phải qua tận nơi khuyên dụ, phong vương cho ta. Nhóm hậu sinh thì luôn vội vã tuyển sứ, tải đồ quốc bảo cống nộp cầu cạnh. Họ học hành chẳng đến nơi đến chốn.”

“Miếu thờ, tên đường phố dính dáng đến ngài ở Việt Nam giờ này người ta xóa sổ hết rồi. Thậm chí Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi viết cũng bị biên tập, bỏ nhà Triệu, hoặc giải thích đó là quan điểm thiếu tiến bộ của văn hào, cần xét lại.”

“Khoa học lịch sử là gương mặt, là tư duy, là trình độ phát triển, là thước đo vận động (tiến hoặc lùi) của chính thời đại dung dưỡng nó. Ta mặc nhiên là quá khứ. Văn minh loài người chỉ mới mấy ngàn năm, tuổi ta bằng nửa số ấy. Ngành khảo cổ Trung Quốc gọi mộ Triệu Hồ là Tây Hán Nam Việt vương mộ Bác vật quán. Họ muốn đánh đồng triều đại độc lập ta dựng lên nằm trong kỉ Tây Hán, thời Tây Hán, kiểu Tây Hán và thuộc về nhà Tây Hán. Những chiếc đế tỉ biết nói đấy. Bản thân mi cũng có công nhận thế đâu. Chúng ta chỉ nên quan trọng thực chất mà thôi.”

***

Nắng phương nam chói chang. Cô tiếp viên hàng không mở màn che cửa sổ và nhắc nhở mọi người kiểm tra dây an toàn trước khi máy bay hạ cánh. Giấc chiêm bao thật ý vị. Tất cả những đồ vật tôi đã tận mắt chiêm ngắm nơi lăng mộ Văn Vương đều được tái hiện trong mơ, xung quanh Triệu Đà và những người tuẫn táng. Có thể đây là cách làm việc vô thức của một kẻ tìm hiểu lịch sử nghiệp dư, nhằm điểm duyệt và ghi nhớ phút giây xúc động khi đi thực tế.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lênh đênh qua cửa Thần Phù Bách Việt Tr2u2ng Cửu

Có một vùng đất nặng phù sa cổ tích là vùng cửa Thần Phù, nằm giáp giữa Ninh Bình, Thanh Hóa và Nam Định.

Chuyện về thần Áp Lãng Chân Nhân ở Thần Phù được Hồ Nguyên Trừng ghi lại trong sách Nam ông mộng lục, tóm tắt như sau:

Đời Tống Nhân Tông, nhà Lý nước An Nam đem binh thuyền đi đánh Chiêm Thành. Tới cửa Thần Đầu thì bỗng có sóng gió nổi lên liên tục mấy ngày liền, không sao qua được. Hoàng Đế phải nhờ một Đạo Sĩ ở trong núi gần đó giúp yên sóng. Ngày trở về Hoàng Đế liền phong cho đạo sĩ hiệu là Áp Lãng Chân Nhân.

Chân Nhân người họ La, còn tên thì chưa rõ, chỉ gọi theo đạo hiệu là Áp Lãng Chân Nhân. Trong số các con cháu của Chân Nhân, có La Tu đỗ Tiến Sĩ, làm quan thời Trần Nghệ Vương, được phong tới chức Thẩm Hình Viện Sứ.

Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng là tài liệu sớm nhất ghi về Áp Lãng Chân Nhân, xác định vị đạo sĩ này xuất hiện vào thời Tống Nhân Tông, nhà Lý nước ta. Tống Nhân Tông trị vì từ năm 1022 đến năm 1063. So với sử Việt thì trong thời gian này chỉ có một lần vua Lý đi đánh Chiêm Thành là năm 1044 Lý Thái Tông ngự giá thân chinh, chiếm được quốc đô Phật Thệ của Chiêm Thành, chém Sạ Đẩu. Còn trận Lý Thánh Tông bắt vua Chiêm Thành là Chế Củ xảy ra năm 1069, không còn là thời Tống Nhân Tông nữa.

Posted Image

Ban thờ Áp Lãng Chân Nhân ở đền Nhân Phẩm, Yên Mô, Ninh Bình

Câu đối ở chính điện Thần Phủ hải môn từ ở thôn Nhân Phẩm – Yên Mô – Ninh Bình:

Diên lĩnh quan binh, tiên Đinh Hoàng chính thống

Càn môn tức lãng, đang Hồng Đức tam niên.

Dịch:

Núi Diều xem quân, trước thời Đinh Hoàng chính thống

Cửa Càn yên sóng, vào năm Hồng Đức thứ ba.

Càn môn hay cửa Càn Phù là cửa sông Càn đổ ra biển, cũng là cửa Thần Phù.

Diên lĩnh là núi Cánh Diều, nay ở thành phố Ninh Bình. Thần Áp Lãng như vậy đã xem quân của vua Đinh "duyệt binh" ở Hoa Lư, trước khi vua Đinh lên ngôi chính thống (?).

Thật là không biết vị Áp Lãng Chân Nhân này cuối cùng xuất hiện ban đầu vào thời nào: Lý, Tiền Lê hay thời Đinh? Thần tích đền Nhân Phẩm thôi thì cho hết thành thời “Hùng Vương”. Hùng Vương là lúc nào mà vua Hùng có thể cưỡi thuyền đánh phương Nam được?

Những câu chuyện thời Đinh – Tiền Lê – Hậu Lý ở vùng Hoa Lư – Ninh Bình cứ lẫn lộn vào nhau, cùng một chuyện mà lúc chép vào người này, lúc chép vào người kia. Quanh khu vực Thần Phù có rất nhiều đền thờ vua Lê Đại Hành phối thờ cùng Lý Thái Tông vì … công nghiệp 2 vị này như nhau. Lê Đại Hành - Lý Thái Tông là người đã cho xây dựng hệ thống phòng thủ ở khu vực cửa Thần Phù. Thành Thiên Phúc của Lê Đại Hành được cho là ở vùng núi Yên Thắng - Ninh Bình này. Có thể vì thế mà Lê Đại Hành đã tôn thờ một vị thủy thần ở đây làm Áp Lãng Chân Nhân để phù hộ cho công trình phòng thủ biển của kinh đô.

Lý Thái Tông chắc cũng còn đang đóng đô ở Hoa Lư. Nếu triều Lý đã về Thăng Long từ đời Lý Công Uẩn thì Lý Thái Tông đã không quan tâm đến công trình phòng thủ cho Hoa Lư này nhiều như vậy.

"Tiền Đinh Hoàng chính thống" trong câu đối trên như vậy phải hiểu là vào thời trước khi Đinh Hoàng (hay Đinh Triệu, Đinh Lý) tuyên bố triều đại chính thức trên đất Tĩnh Hải, tức là thời kỳ 2 vị vua Lý đầu tiên ẩn họ Lê. Như vậy mọi thông tin về Áp Lãng Chân Nhân sẽ khớp hoàn toàn với nhau. Đây là vị đạo sĩ ở triều Lê Đại Hành - Lý Thái Tông đã cầu đảo giúp yên sóng cho đoàn thuyền đi bình Chiêm của vị vua Lê - Lý này qua cửa Thần Phù.

Cửa Thần Phù là vị trí chiến lược quan trọng vì là cửa sông đổ ra biển, thuyền bè miền Bắc có thể để tiến xuống phía Nam, là ranh giới tự nhiên giữa Nam và Bắc do dãy núi đá vôi chạy từ Hòa Bình xuống Ninh Bình rồi đâm ra biển. Trên đường bộ thì quan ải là đèo Ba Dội (Tam Điệp), còn đường thủy thì chính là Cửa Thần Phù. Cũng vì thế mà thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly để chống quân Minh đã sai lấy đá lấp ngã thông từ sông Hổ (hạ lưu của sông Vân Sàng – TP Ninh Bình ngày nay) sang đến cửa biển Thần Phù. Nhà Hồ đóng đô ở Tây Đô (Thành nhà Hồ ở Thanh Hóa) nên cửa Thần Phù là hải khẩu trọng yếu chặn thuyền giặc tiến xuống kinh thành.

Posted Image

Cửa sông Đáy ngày nay ở Nghĩa Hưng, Nam Định

Danh thần Nguyễn Trãi khi đi qua đây đã có bài Quá Thần Phủ hải khẩu, nói tới việc này:

Giang sơn như tạc anh hùng thệ

Thiên địa vô tình sự biến đa

Hồ Việt nhất gia kim hạnh đổ

Tứ minh tòng thử tức kình ba.

Dịch:

Giang sơn còn đó, đâu anh kiệt

Trời đất vô tình, biến đổi qua

Hồ - Việt một nhà nay lại thấy

Từ đây bốn bể lặng kình ba.

Anh hùng thệ” rõ ràng là chỉ chuyện Hồ Quí Ly lấy đá ngăn sông. Bài thơ nói, lịch sử từ nhà Hồ tới thời Hậu Lê đã thay đổi. Nước nhà đã thống nhất, Hồ Việt một nhà. Hồ Việt một nhà tức là Nam Bắc một nhà, Tây Đô – Đông Đô thống nhất. Người Hồ hay người Hời (người Chăm) lại cùng một nhà với người Việt ở miền Bắc. Bởi vì Lê Thái Tổ là người Chăm (người Hồ) nên cuộc kháng chiến của Lê Lợi từ vùng Lam Sơn – Thanh Hóa, giải phóng Thanh Nghệ rồi Đông Đô, đúng là đã thống nhất Hồ Việt một nhà như Nguyễn Trãi viết.

Lê Hồng Đức (Lê Thánh Tông) đi đánh Chiêm Thành qua cửa Thần Phù cũng đã viết thơ, có câu:

Hồ Vương uổng tải điền hà thạch,

La Viện khinh thừa áp lãng chu.

Dịch:

Hồ Quí Ly hoài đá chắn sông

Tiên La Viện lướt thuyền yên sóng.

Posted Image

Đình Phù Sa, Yên Mô, Ninh Bình

Núi Thần Phù, nơi còn chữ Thần của Lê Thánh Tông khắc trên vách đá, ngày nay nằm cách biển khoảng 10km. Ngược dòng thời gian xa nữa thì từ thời Tiền Lý có chuyện Triệu Việt Vương bại trận, cùng đường tới cửa Đại Nha (Đại Ác). Đại Nha nay là nơi có chùa Độc Bộ, thuộc Ý Yên – Nam Định, trên sông Đáy. Khu vực tổng Thần Phù xưa cũng có nhiều nơi thờ Triệu Việt Vương. Như đình làng Phù Sa (Yên Mô – Ninh Bình) có câu đối:

Phi lai độc mộc Lương vô địa

Tập khứ đâu mâu Lý hữu thiên.

Dịch:

Thuyền độc mộc tới lui, quân Lương sạch đất

Mũ đâu mâu đánh tráo, họ Lý lên ngôi.

Triệu Việt Vương ở đầm Dạ Trạch dùng thuyền độc mộc nhỏ mà đuổi quân Lương. Rồi Lý Phật Tử đánh Triệu Việt Vương không thắng, giảng hòa, phân đất Đông Tây. Sau đó Lý Phật Tử cho con trai là Nhã Lang cầu hôn với con gái của Triệu Việt Vương là Cảo Nương, nhân cơ hội đánh cắp mũ đâu mâu thần của vua. Triệu Việt Vương mất mũ thần, bại trận, chạy đến cửa Đại Nha thì được thần rồng xuất hiện, đã chém con gái, rồi rẽ sóng xuống biển theo thần mà đi mất.

Xem chuyện trên và chuyện Triệu Đà đánh Thục An Dương Vương không thắng, lấy núi Trâu Sơn – Vũ Ninh làm ranh giới phân đất, Trọng Thủy lừa Mỵ Châu lấy móng rùa thần, An Dương Vương thua chạy ra biển… Rõ ràng 2 chuyện này chỉ là một truyền thuyết.

Triệu Việt Vương tương ứng với An Dương Vương. An Dương Vương cũng được gọi là Việt Vương. An Dương Vương có họ Triệu, hay nước Âu Lạc của An Dương Vương có thể là nước Triệu, nơi Doanh Tử Sở nhà Tần đã ở rể. Tử Sở là Trọng Thủy.

Triệu Đà trong chuyện trên tương ứng với Lý Phật Tử, hay Hậu Lý Nam Đế. Triệu Đà có thể có họ Lý, là dòng dõi của Lý Nam Đế, tức là con cháu của Lý Bôn - Lưu Bang.

Truyền thuyết Việt chép “đủ thứ” vào trong 1, rối như bòng bong, gỡ rối thật là gian nan. Cùng một họ Triệu có thể là chuyện của Triệu-Chúa Chu-Thục An Dương Vương, của Triệu Chính (Tần Thủy Hoàng), của Triệu Đà rồi đến của Triệu Việt Vương. Cùng một họ Lý nhưng lúc là chuyện của Hưng Vương Lý Bôn (Lưu Bang), lúc là của Triệu Ông Lý (Triệu Đà), lúc là của Lý Phật Tử…

Posted Image

Đền thờ Lữ Gia ở Vân Côi, Vụ Bản, Nam Định

Cuối cùng khu vực cửa biển Đại Ác – Thần Phù này còn một dấu tích nữa thời cổ sử là di tích của tể tướng Lữ Gia. Tương truyền tể tướng ba đời nhà Triệu là Lữ Gia khi thất thủ ở Sài Sơn, bị quân Hán đuổi đã chạy về đến núi Côi ở đất Thiên Bản Nam Định và chết ở đó. Chuyện Lữ Gia là một trong 6 chuyện lạ đất Thiên Bản (Thiên bản lục kỳ). Đền thờ Lữ Gia ở làng Vân Côi (Vụ Bản – Nam Định) có câu đối:

Huy thiên sự nghiệp phiên châu đỉnh

Chấn địa linh thanh hải khẩu từ.

Dịch:

Sự nghiệp rạng trời, giúp nước xa

Linh thiêng phủ đất, đền cửa biển.

Câu đối cho thấy vùng núi Côi này trước đây là cửa biển. Khu vực Vụ Bản trước đây thuộc phủ Nghĩa Hưng. Nay xã Nghĩa Hưng nằm ở vùng đất lấn ra biển ở cửa sông Đáy, cách núi Côi, cách cửa Đại Nha xưa hàng chục km. Bãi bể đã thành ruộng lúa, nhưng sự linh thiêng, lạ kỳ của vùng núi và biển gặp nhau này vẫn còn mãi, với từng cái tên anh hùng, từng vị thần bất tử. Trời đất vô tình, vạn vật biến đổi. Vùng đất này đã chứng kiến bao thăng trầm, chìm nổi của lịch sử.

Lênh đênh qua cửa Thần Phù

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

LỮ GIA LÀ MỘ T VỊ HỘ PHÁP QUAN TRỌNG CỦA VIỆT NAM.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lịch sử Đức thánh ... Chiêm

Bách Việt Trùng Cửu

Posted Image

Cổng đình Chèm thờ Lý Ông Trọng

Hương, Bổng, Đổng, Đằng là bốn vị tối linh của nước ta” (Văn bia đình Chèm năm 1715). “Hương” ở đây chỉ Lý Ông Trọng, người Thụy Hương, Từ Liêm. Đức Thánh Chèm như vậy được xếp ngang hàng với đức Phù Đổng thiên vương.

Lĩnh Nam chích quái chép Truyện Lý Ông Trọng:

Cuối đời Hùng Vương có người ở xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, đất Giao Chỉ họ Lý tên Thân. Khi đẻ ra rất to lớn, cao đến 2 trượng 3 thước... Đời An Dương Vương, Tần Thủy Hoàng muốn cất binh đánh ta, An Dương Vương bèn đem Lý Thân tiến nhà Tần. Thủy Hoàng mừng lắm, phong cho làm chức Tư lệ hiệu úy. Khi Thủy Hoàng đã lấy được cả thiên hạ, sai Lý đem quân giữ đất Lâm Thao, uy danh vang dội đến Hung Nô, Hung Nô không dám xâm phạm cửa ải, Thủy Hoàng phong Lý làm Phụ tín hầu, lại gả công chúa cho Lý.

Truyện kể Lý Ông Trọng này nghe ra ... kỳ kỳ. Tần Thủy Hoàng đánh đông dẹp bắc thu phục cả thiên hạ, tới nước Việt thì thay vì chống lại, An Dương Vương lại còn cho “mượn” người làm tướng để giúp Tần chống giữ Hung Nô...

Nhưng truyện Lý Ông Trọng rõ ràng là truyện có thật, là một chuyện cổ xảy ra vào đời Tần vì được cả sách Trung Quốc chép. Sách Từ Nguyên viết:

Nguyễn Ông Trọng đời Tần, người Nam Hải, thân dài một trượng ba thước, khí chất đoan dũng, khác với người thường. Vua Thủy Hoàng sai cầm quân giữ đất Lâm Thao, thanh thế chấn động Hung Nô. Ông Trọng chết. Vua sai đúc tượng đồng để ở của Tư Mã, coi giữ cung Hàm Dương.

Lý Ông Trọng người Việt mà làm tới chức Tư lệ hiệu úy nhà Tần, được phong là Phụ Tín hầu, rồi còn làm phò mã nước Tần. Một người Việt chính gốc được đại đế lang sói như Tần Thủy Hoàng hậu đãi tới vậy. Lại còn từ Văn Lang sang tới tận Thiểm Tây để trấn giữ Hung Nô... Trong chuyện này có gì đó không bình thường...

Thần tích đình Chèm ghi: Lý Ông Trọng được Hùng Vương phong chức Chỉ huy sứ. Ngài giúp vua dẹp yên các loại giặc hay quấy nhiễu biên giới phía Tây và phía Nam khiến chúng sợ không dám xâm phạm bờ cõi nước Văn Lang.

Có sách còn mạnh dạn hơn viết luôn Lý Ông Trọng đánh giặc “Ai Lao và Chiêm Thành”, tưởng là vô lý nhưng lại rất chính xác. Phía Tây và Nam Văn Lang thì chẳng là đất Ai Lao và Chiêm Thành (sau này) là gì?

Vận dụng phép phiên thiết Hán văn cho ta một số thông tin bất ngờ:

- Hung Nô thiết Hồ. Lý Ông Trọng trấn Hung Nô tức là trấn giữ người Hồ hay người Hời.

- Từ Liêm thiết Tiêm, hay Chiêm. Đức thánh Chèm nghĩa là ... Đức thánh Chiêm. Tên làng Chèm chỉ rõ công đức trấn giữ đất Chiêm của Lý Ông Trọng.

Tới đây không còn nghi ngờ gì nữa, thực ra Lý Ông Trọng làm tướng Tần để giữ vùng đất Tây và Nam nước ta chống lại người Hồ hay người Chiêm.

Đại Nam quốc sử diễn ca:

Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân

Lam quan hiệu úy đem quân ngữ Hồ

Uy danh đã khiếp Hung Nô

Người về Nam quốc hình đồ Bắc phương.

Hung Nô = Hồ, rất rõ trong đoạn thơ trên.

Bài thơ trong Lĩnh Nam chích quái, Truyện Lý Ông Trọng:

Văn võ toàn tài đại trượng phu

Hàm Dương khiển tượng nhiếp quần Hồ

Vĩnh Khang nhất nhật đàm kinh mộng

Huyết thực Nam thiên tráng đế đồ.

Dịch:

Võ giỏi văn tài đấng trượng phu

Hàm Dương đồng tượng khiếp quần Hồ

Vĩnh Khang ứng mộng bàn kinh truyện

Hương lửa trời Nam vững đế đồ.

“Quần Hồ” là người Hời hay Chiêm. Trong các câu đối ở đình Chèm gọi là Hoa di hay Di Hạ. Hồ = Hời = Hoa = Hạ. Hoành phi ở đền Chèm ghi “Uy chấn Hoa Di”.

Câu đối ở cổng đình:

Hoa Di vọng biểu cao, đế khuyết do nghi đồng hữu ảnh

Miếu mạo nguy sơn trĩ, phật tân tự tín thủy vô ba

Dịch:

Người Hời trông cột lớn, cửa vua còn ngờ tượng đồng vẫn có bóng hình

Đền miếu lồng núi cao, bến phật tự tin sông nước không còn sóng dữ.

Posted Image

Phương đình ở đình Chèm

Câu ở tòa đại bái đình Chèm:

Thiên linh nguyên tinh, Di Hạ lẫm hùng uy, đồng tượng thanh cao Tần Bắc trấn

Địa lưu cố trạch, âm dương đồng hiển tướng, kim chương trù điệp Việt Nam phong.

Dịch:

Trời linh khí nguyên, Di Hạ sợ hùng oai, tượng đồng thanh cao trấn Tần Bắc

Đất lưu nền cũ, âm dương cùng hiện tướng, sách vàng dày chất cõi Việt Nam.

Hoa Di hay Di Hạ có thể là con cháu dòng Đế Nghi phương Nam từ thời cổ, tức là nhóm người Môn - Khmer ở phía Tây và Nam nước ta. Phía Nam nước Văn Lang được biết có nước Hồ Tôn. Nước Hồ Tôn thì không phải người Hồ thì là người gì?

Lý Ông Trọng được Tần Thủy Hoàng gả công chúa Bạch Tĩnh Cung. Phân tích tên đức bà này:

- Bạch là màu chỉ phương Tây trong ngũ hành.

- Tĩnh là tính chất tĩnh khang của phương Tây theo Dịch lý.

Công chúa Bạch Tĩnh Cung nghĩa là Tây cung công chúa, một lần nữa xác nhận Lý Ông Trọng trấn giữ đất phía Tây của nhà Tần.

Truyền thuyết kể rằng tới thời Đường Kinh lược sứ Triệu Xương đi qua Từ Liêm, bến Vĩnh Khang nằm mộng gặp Lý Ông Trọng cùng giảng sách Xuân Thu, Tả truyện. “Vĩnh Khang ứng mộng bàn kinh truyện”.

Thiên Nam ngữ lục chép chuyện ứng mộng này như sau:

Thuyền qua đến quận Từ Liêm

Vĩnh Khang bến ấy nửa đêm đỗ nhờ

Canh khuya phảng phất mờ mờ

Chiêm bao thấy tướng tên là Trọng Ông.

Triệu Xương là người đã chiêu an Phùng An – Đỗ Anh Hàn (khởi nghĩa Phùng Hưng). Có phải chuyện hiển mộng ở bến Vĩnh Khang có ý nói nhờ Lý Ông Trọng đã bàn chuyện kinh sách, khuyên Triệu Xương lấy đức mà cai trị nên mới thu dẹp được họ Phùng?

Câu đối ở đình Chèm:

Bắc khuyết ngưỡng chân dung, vân ủng kim tinh vô tượng ngoại

Khang giang truyền hiển tích, ba hàm thiết khí hữu thanh trung.

Dịch:

Cửa Bắc ngưỡng chân dung, tinh vàng mây phủ ngoài không tượng

Sông Khang truyền hiện tích, võng sắt sóng bao trong có thanh.

Sông Khang, sông Khương liệu có phải ám chỉ sông ... Mễ Khương không? Vùng đất Lý Ông Trọng trấn giữ kéo từ Lâm Thao (Phú Thọ) tới tận sông Mê Kông cũng đúng là đất Ai Lao – Chiêm Thành xưa.

Duệ hiệu thờ của Lý Ông Trọng tại đình Chèm là Hy Khang Thiên Vương.

- Hy = Hai = Hời, phía Nam

- Khang tức là Tây.

Hy Khang Thiên Vương là thần vương trấn vùng Tây và Nam.

Theo thần tích và Lĩnh Nam chích quái Lý Ông Trọng còn giúp Cao Biền đánh giặc Nam Chiếu. Lý do Lý Ông Trọng hiển linh giúp Triệu Xương và Cao Biền cũng chỉ ra rằng nơi mà uy linh của Ông Trọng trấn Hồ chính là vùng đất Nam Chiếu – Phùng Hưng, tức là vùng đất Tây và Nam nước ta ngày nay.

Tộc phả họ Phạm chép:

Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân - Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) - tức là Nam Trung bộ ngày nay...

Thông tin Lý Thành, con Lý Thân trấn thủ đất Nam Hà – Lâm Ấp đã khẳng định một lần nữa vùng đất trấn giữ của Lý Ông Trọng. Nam Hà gồm 2 xứ. Xứ Nam do Lý Thành trấn giữ là vùng Tây Bắc và Thượng Lào ngày nay. Xứ Hà hay Hồ là đất người Hời, người Chiêm ở Trung bộ và Hạ Lào. Con Lý Ông Trọng ở Nam Hà - Lâm Ấp thì trước đó chính nơi đây đã là do Lý Ông Trọng trấn giữ.

Theo sử sách thì Lý Ông Trọng làm tướng Tần trấn giữ Hung Nô ở đất Lâm Thao. Lâm Thao không phải ở tận Cam Túc – Thiểm Tây. Lâm Thao là phần đất Lâm hay đất Nam trong Nam Hà, nơi có sông Thao chảy qua, hay nói cách khác Lâm Thao là vùng Tây Bắc ngày nay.

Posted Image

Tứ linh trên mái đình Chèm

Lý Thân, Tư lệ hiệu úy nhà Tần, phò mã của Tần Thủy Hoàng, trấn giữ người Hồ ở phía Tây và Nam Việt trên đất Chiêm. Vậy nhà Tần phải ở đâu mà cần giữ vùng "Ai Lao, Chiêm Thành" này? Hai vùng đất Tây và Nam này quan trọng thế nào mà phải có một đại tướng, phò mã trấn giữ?

Chuyện này chỉ có thể giải thích được theo sử thuyết họ Hùng. Tần đã diệt nhà Chu – Thục ở Văn Lang – Âu Lạc, sau đó dời đô về vùng giữa hai nhà Chu (Ung Thành - Quảng Tây?). Tuy nhiên, khi Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc lại thiếu mất một số nước lớn là Lỗ, Yên và Tề. Lỗ là Lào, là vùng Tây Văn Lang. Yên là đất Chiêm, là vùng Nam Văn Lang. Nhà Tần đã cử đại tướng là Lý Thân trấn giữ hai vùng đất giáp với nước Lỗ và nước Yên (đất Nam Hà hay Ai Lao và Chiêm Thành sau này).

Câu đối đình Chèm:

Tần bình? lỵ? chỉ Trung Hoa tướng

Việt điện nguy nhiên thương đẳng thần

Dịch:

Ải Tần chốn đó tướng Trung Hoa

Điện Việt còn đây thần thượng đẳng.

Lý Thân là tướng Tần, cũng là người Việt. “Trung Hoa tướng” lại là “Việt Điện thượng đẳng thần”. Nhà Tần của Trung Hoa cũng là một giai đoạn lịch sử của người Việt mà thôi.

CÒN 2 NGÔI ĐÌNH ĐẶC BIỆT NỮA" ĐÌNH ĐỘC LÔI NGHỆ AN VÀ ĐỀN VŨ DI

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ngô Viết Trọng:

Nhà Triệu – Một Vấn Đề Lịch Sử Chưa Được Xác Định Ổn Thỏa

10.03.2012 Để lại phản hồi

Posted ImageNước Việt Nam được quốc tổ Hùng Vương sáng lập với quốc hiệu đầu tiên là Văn Lang. Các vị vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu là Hùng Vương cả, chỉ phân biệt các đời theo số thứ tự. Đến đời Hùng Vương thứ 18 thì một phiên thuộc là Thục Phán nổi lên đánh bại nhà vua và chiếm mất ngôi (257 trước Tây Lịch). Thục Phán xưng hiệu là An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Loa Thành (Phong Khê, Phúc Yên).

Dưới sự cai trị của An Dương Vương, đất nước Âu Lạc đã trải qua một thời gian khá dài yên ổn, thịnh vượng. Nhưng đến năm 207 (tr. TL) An Dương Vương lại bị Triệu Đà đánh bại, mất nước vào tay Triệu Đà. Triệu Đà người huyện Chân Định, quận Hằng Sơn nay thuộc tỉnh Hà Bắc nước Tàu. Ông vốn giữ chức huyện lệnh Long Xuyên thuộc quân Nam Hải. Nhân lúc nhà Tần suy yếu, nước Tàu bị đại loạn, Triệu Đà đã thừa cơ chiếm cứ quân Nam Hải (Quảng Đông) và quận Quế Lâm (Quảng Tây) rồi chiếm luôn nước Âu Lạc (VN) để lập nên nước Nam Việt, tự xưng là Triệu Vũ Vương (207 tr.TL). Trong khi đó ở phương Bắc, Lưu Bang đã thành công trong việc tru Tần diệt Sở thống nhất nước Tàu rồi xưng Đế, lập nên cơ nghiệp nhà Hán. Năm 196 (tr. TL), nhà Hán sai Lục Giả sang thuyết phục Triệu Đà thần phục. Xét mình thế lực yếu kém khó chống nổi Lưu Bang, Triệu Đà đành chấp nhận xưng thần, chịu tước Vương của nhà Hán. Đến khi Lưu Bang mất, nội bộ chính quyền nhà Hán sinh ra lục đục. Lã Hậu (vợ Lưu Bang) chuyên quyền nghe lời gièm pha cấm người Hán buôn bán đồ vàng, đồ sắt và những đồ điền khí với người Nam Việt. Triệu Đà thấy vậy vô cùng tức giận, lại nghi Trường Sa Vương xúi Lữ Hậu làm việc ấy, ông bèn tự xưng là Nam Việt Hoàng Đế (183 tr.TL) còn gọi là Triệu Vũ Đế rồi cử binh sang đánh quận Trường Sa (tỉnh Hồ Nam ngày nay). Tới năm 181 (tr.TL), nhà Hán sai Lâm Lư hầu Chu Táo kéo quân sang đánh Nam Việt nhưng vì không hợp thủy thổ, quân Hán đau ốm nhiều, bị thất bại nặng nề. Thắng lợi này đã làm danh tiếng của Triệu Vũ Đế lại càng thêm lừng lẫy. Đến năm 180 (tr.TL) Lã Hậu mất, Hán Văn Đế lên ngôi liền ra lệnh bãi binh. Tiếp đó Hán Văn Đế lại sai Lục Giả sang thuyết phục Triệu Đà bỏ Đế hiệu. Lúc bấy giờ Triệu Đà đã 77 tuổi, nhiệt khí tranh giành đã hạ bớt, lại thấy chiếu dụ của Hán Văn Đế lời lẽ ôn tồn, hòa dịu, bèn chịu bỏ Đế hiệu, trở về với tước Vương. Như vậy là Triệu Đà đã có một thời gian xưng Đế ngót 4 năm (183-180 tr.TL). Có một điểm khác thường là khi lập nước Nam Việt xong, Triệu Đà và các vị vua kế tiếp không hề tỏ ra kỳ thị dân Âu Lạc cũ. Guồng máy cai trị chỉ có thay đổi về dòng họ cầm quyền và quốc hiệu chứ nếp sống hạ tầng toàn dân vẫn không có gì thay đổi. Vì vậy, trong dân chúng Âu Lạc cũ không hề có hiện tượng bất bình nào chống lại nhà Triệu. Không những thế, các vua Triệu còn tỏ ra biết trọng dụng những nhân tài gốc Âu Lạc cũ Những dân Âu Lạc cũ như Nguyễn Danh Lang, Lữ Gia đều được ra làm quan qua nhiều triều. Lữ Gia người gốc huyện Lôi Dương quận Cửu Chân (huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa ngày nay) đã làm quan được thăng đến chức Thái phó Quốc công. Đến năm 111 (tr.TL), Lữ Gia với cương vị Tể tướng nhà Triệu, đã chỉ huy quân đội Nam Việt chống giặc Hán đến hơi thở cuối cùng và tử tiết một cách oanh liệt. Nhà Triệu làm vua được 5 đời cộng 96 năm thì mất (207-111 tr.TL), nước Nam Việt bị sát nhập vào lãnh thổ nhà Hán. Lữ Gia được coi như một tấm gương trung dũng, yêu nước của người Việt. Hiện nay cả Sài Gòn lẫn Hà Nội đều có đường Lữ Gia, ngoài ra ở Sài Gòn còn có cả một cư xá Lữ Gia nữa. Chính vì điểm khác thường này mà các sử gia Việt Nam, khi nhận định về nhà Triệu (207-111 tr. CN), vẫn chia làm hai khuynh hướng khác nhau: -Khuynh hương thứ 1: Coi nhà Triệu như một triều đại chính thống của VN. -Khuynh hướng thứ 2: Không công nhận nhà Triệu và coi nước ta dưới thời kỳ nhà Triệu trị vì là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất (đề nghị của sử gia Phạm Văn Sơn). Gần đây trên nhiều Website và nhiều tờ báo ở hải ngoại đã liên tiếp đăng mấy bài viết “Những Điều Lý Thú Về Các Vị Vua Việt Nam” (N.Đ.L.T.V.C.V.V.V.N) của tác giả Lê Thái Dũng. Đây là một công trình sưu tầm lịch sử rất công phu. Tác giả đã ghi kỹ từng sự việc, tính kỹ từng năm, từng tuổi của nhiều vị vua có những trường hợp cá biệt lý thú đã xảy ra. Đó là những việc như vua Trần Anh Tôn đã từng bị du đãng ném đá vỡ đầu khi đi chơi đêm, vua Tự Đức thi luận văn bị chấm hạng bét, vua Minh Mạng từng bị người Tây phương mưu ám sát v.v… Chắc hẳn một người không đọc suốt chiều dài lịch sử Việt Nam qua nhiều bộ sử kim cổ thì không thể làm công việc này. Lối viết của tác giả Lê Thái Dũng tuy đơn giản nhưng gợi lên được sự thích thú, gợi tính tò mò của quảng đại độc giả. Lôi kéo, thúc đẩy nhiều độc giả nhập cuộc tìm hiểu lịch sử thêm. Tuy thế, khi gặp phải trường hợp Triệu Đà, tác giả Lê Thái Dũng đã lúng túng đến nỗi không hóa giải được điểm mâu thuẫn có thể làm một số người thích đọc lịch sử đâm ra bối rối, hoang mang… Ai cũng có thể thấy được sự lúng túng của tác giả khi đọc đoạn: “Trường thọ nhất: Bảo Đại 85 tuổi (1913-1997), vua Trần Nghệ Tông 74 tuổi (1321 – 1394). Nếu tính Triệu Đà thì Triệu Đà là vua thọ nhất: 120 tuổi (257-137 TCN) (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư). Ngoài ra, nếu tính cả các chúa thì chúa Nguyễn Hoàng thọ hơn Bảo Đại: 89 tuổi (1525 – 1613).” Lúng túng ở chỗ tác giả không đưa thẳng Triệu Đà vào số những vị vua trường thọ vì ông ta vừa cao tuổi nhất, vừa là bậc tiền bối của cả vua Trần Nghệ Tông lẫn vua Bảo Đại mà lại dè dặt nói “Nếu tính Triệu Đà thì Triệu Đà là vua thọ nhất…” Theo tác giả Lê Thái Dũng: “Hoàng đế đầu tiên: Lý Nam Đế (544 – 548) với niên hiệu đầu tiên là Thiên Đức”; Mâu thuẫn của tác giả chính ở điểm này! Trong bài viết “N.Đ.L.T.V.C.V.V.V.N”, tác giả có nói đến Triệu Đà là vị vua VN ở ngôi lâu nhất (207-137 tr. TL: 70 năm): “Ở ngôi lâu nhất: Triệu Vũ Vương Triệu Đà: 70 năm (207-137 TCN), Lý Nhân Tông Càn Đức: 56 năm (1072 – 1127), Lê Hiển Tông Duy Diêu: 47 năm (1740 – 1786), Lê Thánh Tông Tư Thành: 37 năm (1460 – 1496)”; và cũng là vị vua lên ngôi ở tuổi cao nhất, khi đã 50 tuối. “Lên ngôi già nhất: Trần Nghệ Tông Phủ, khi 50 tuổi (1370); Triệu Đà khi 50 tuổi (207 TCN)”. Như vậy tức tác giả đã nhận định lịch sử theo khuynh hướng thứ nhất: công nhận Triệu Đà là một vị vua của VN. Mà đã công nhận Triệu Đà là vị vua chính thức của Việt Nam thì phải kể đến thời gian Triệu Đà xưng Đế kéo dài ngót 4 năm (183-180 tr.TL) chứ sao lại bảo là Lý Nam Đế! Có phải như vậy không thưa quí độc giả và tác giả Lê Thái Dũng? Vấn đề Triệu Đà và nước Nam Việt trước đây cũng đã từng được vị đệ nhất công thần của nhà Lê là Nguyễn Trãi coi như là một triều đại dựng nước của nước ta, trong Bình Ngô Đại Cáo ông đã viết: “… Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngả quốc, Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương…”. (… Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập’ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương…) Sau này cả vua Quang Trung lẫn vua Gia Long vẫn không quên đề cập tới vùng đất cũ Nam Việt này. Nhiều tài liệu sử có chép khi vua Quang Trung thấy mình đã đủ sức đương cự với nhà Thanh, ngài sai Vũ Văn Dũng cầm đầu một đoàn sứ giả sang Thanh xin cưới một công chúa và đồng thời cũng xin nhà Thanh cho hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây tức là nước Nam Việt cũ để làm của hồi môn. Nhưng mới đi nửa chừng thì sứ thần nhận được hung tin vua Quang Trung băng hà nên khi sang đến Thanh triều không nhắc đến việc đó. Sử cũng chép sau khi diệt xong nhà Tây Sơn, vua Gia Long sai sứ sang Thanh xin phong vương và xin đặt quốc hiệu là Nam Việt. Nhà Thanh không thuận vì lý do đã nói Nam Việt thì phải có cả đất Quảng Đông, Quảng Tây, vua Thanh đâu có chịu. Cuối cùng nhà Thanh chỉ chịu cho nước ta lấy quốc hiệu là Việt Nam.

Tôi chỉ là một người thích đọc lịch sử. Khi nêu lên sự kiện Triệu Đà, tôi không nhằm chỉ trích tác giả Lê Thái Dũng mà chỉ mượn trường hợp rắc rối trên để thỉnh ý qui sử gia, quí học giả cùng những ai quan tâm đến lịch sử đất nước nên đặt lại vấn đề chưa được xác định ổn thỏa này: Nhà Triệu có phải là một triều đại của Việt Nam hay không? Biết đâu nay mai đây chúng ta sẽ phải đối diện với nó? Ngô Viết Trọng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nam Triệu và Nam Chiếu

Tác giả: Minh Xuân

Trong Lĩnh Nam chích quái có một câu chuyện rất thật, không có chút huyền thoại hay “chích quái” nào nhưng lại khó hiểu nhất vì chẳng hề ăn khớp tí gì với chính sử. Đó là Truyện Nam Chiếu. Nay xin “đọc lại” câu chuyện này, không cần phải “giải mã” gì, chỉ cần đối chiếu với những gì đã và đang biết về lịch sử bị lãng quên của miền Tây và Nam nước ta.

Câu đầu tiên của Truyện Nam Chiếu khẳng định: “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”. Câu khẳng định này đúng là đánh đố người đọc ngày nay. Nam Chiếu được coi là quốc gia của người Di Bạch vùng Vân Nam, sao lại là con cháu Triệu Đà được? Nhưng đích thực, câu mở đầu này đã xác định nước “Nam Chiếu” thực chất là ở đâu.

Triệu Vũ Đế dựng nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung – Quảng Đông. Thành phần dân tộc chính vùng này là nhóm người Tày Thái. Nam Chiếu là con cháu Triệu Đà, tức là một quốc gia người Thái. Lịch sử Nam Chiếu cho biết quốc gia người Thái này đã từng trải rộng trên đất Tây Bắc Việt Nam, Lào và Bắc Thái Lan.

Nước Nam Chiếu ở trong truyện không phải mới bắt đầu vào thời Đường như nước Nam Chiếu theo chính sử ở Vân Nam, mà có gốc gác từ thời Tây Hán. Khi Lộ Bác Đức tấn công Nam Việt thì “Con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn, là những xứ vắng vẻ không người. Khi bộ hạ đông đúc họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bổ đột nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu”.

Đất Hoành Sơn mà ở gần cửa Thần Phù thì là đèo Ngang giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, chứ không phải Hoành Sơn ở Quảng Bình. Con cháu họ Triệu như vậy trở về vùng Ái Châu tụ tập.

Đoạn ghi chép trên rất giống với chuyện… Man vương Mạnh Hoạch chống lại các vị quan họ Chu của nhà Đông Hán trong thần tích làng Hương Ngải - Sơn Tây. Mạnh Hoạch hoạt động cả một dải từ Hưng Hóa tới Ái Châu, làm quan cai trị ở Giao Châu lúc đó phải lao đao… Nam Triệu như vậy là tên gọi nước của Mạnh Hoạch từ thời Đông Hán, là vùng đất phía Tây Giao Chỉ.

Tiếp theo, “Đến đời Ngô, Tôn Quyền sai Đái Lương, Lữ Đại làm thú mục để đánh dẹp. Quân Nam Chiếu ở cả một vùng từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở, không có một vết chân người. Quân Nam Chiếu ở đấy thường lấy việc cướp bóc để sinh sống, đánh giết thú mục, không thể ngăn cản nổi.

Đây cũng là thành tích của Mạnh Hoạch khi phần đất phía Đông Giao Chỉ được Sĩ Nhiếp Ngạn Uy dâng cho Ngô Tôn Quyền. Đoạn trên cho biết một loạt các địa danh “từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi”. Các địa danh này hẳn nằm ở Tây Bắc và Tây Thanh Nghệ ngày nay, là đất Nam Triệu của Mạnh Hoạch.

Mạnh Hoạch hay Mãnh Hoàng, có thể chỉ là cách gọi vị vua của người Mường Mán. Mãnh Hoàng là con cháu họ Triệu, sau khi kinh đô Phiên Ngung của Nam Việt thất thủ đã rời về Tây Giao Chỉ và hùng cứ một vùng, liên tục chống lại các quan lại nhà Hán rồi tới nhà Ngô. Tiếp theo thì như đã biết, Vũ Hầu Gia Cát, thừa tướng của nhà Thục đã vượt Lô Giang, tiến vào Tây Bắc bình định, thu phục Mãnh Hoàng. Mãnh Hoàng tiếp tục cai quản khu vực Nam Triệu này dưới hình thức tự trị, độc lập.

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là Triệu Ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều nể phục, cùng hợp lại với quân Nam Chiếu, được hơn hai vạn người, lại đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ, xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển.

Nếu đối chiếu với tộc phả họ Phạm:

"Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân - Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) - tức là Nam Trung bộ ngày nay.

Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trước CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm Ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).”

Có thể thấy Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà, là họ Lý, bắt đầu từ Lý Thân (Lý Ông Trọng). Vùng đất Tây Giao Chỉ là vùng Lâm Thao, nơi Lý Ông Trọng trấn giữ người Hồ dưới thời Tần.

Đặc biệt truyền phả họ Nguyễn còn chép rằng Triệu Đà chính là Lý Ông Trọng. Chuyện này tuy còn nhiều nghi vấn, nhưng có thể có phần nào là sự thật khi con cháu Triệu Đà cũng là con cháu của Lý Thân, chiếm vùng đất Tây Giao Chỉ dưới thời Hán.

Vùng Tây Giao Chỉ là đất của Mãnh Hoàng (Mạnh Hoạch), còn gọi là Nam Triệu, thời Tam quốc đã hàng phục nước Thục nhờ công của Vũ Hầu Gia Cát. Khi nhà Tấn diệt Thục, Tấn chỉ chiếm được vùng Xuyên Thục phía Bắc của nước này. Phần phía Nam vẫn do Mãnh Hoàng tự trị kiểm soát. Theo Truyện Nam Chiếu thì lúc này Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà – Lý Thân, đã lên nắm quyền cai quản ở đây. Triệu Ông Lý chống lại nhà Tấn, “cùng hợp với quân Nam Chiếu”, tức là hợp với quân của họ Phạm ở phía Nam vùng ven biển Trung Bộ theo như tộc phả họ Phạm chép.

Truyên Nam Chiếu chép: “Khi ấy, nước Tây Bà Dạ chia đều đất ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Già La, trên từ Cầm Châu xuống tới Hoan Châu gọi là lộ Lâm An giao cho Nam Chiếu và Triệu Ông Lý thống lĩnh. Sau đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá, đất Diễn Châu, đông giáp với biển, tây tới nước Bà Dạ, nam tới Hoành Sơn, tự xưng làm chúa.”

Có thể thấy nước Nam Chiếu trong truyện ở thời kỳ nhà Tấn chính là xứ Lâm Ấp hay Nam Hà trong tộc phả họ Phạm. Xứ này bao gồm 2 phần:

- Phần lộ trên từ Quý Châu tới Diễn Châu do Triệu Ông Lý cai quản. Lộ này có tên Như Hoàn, hay Già La, sách khác gọi là Như La, Gia Viễn. Đây là phần đất liền không giáp biển, là Tây Giao Chỉ, gồm cả đất Lào ngày nay. Tên gọi Già La hay Như La cho thấy vùng này chính là nước Lỗ (La) của thời Chiến Quốc. Đây cũng là đất Lâm Thao thời Tần, trước do Lý Ông Trọng cai quản, sau đó giao cho con cháu Lý Thân.

- Lộ dưới từ Cầm Châu tới Hoan Châu gọi là Lâm An, do con cháu họ Phạm quản lý. Đây là phần giáp biển, ven biển miền Trung ngày nay. Tên lộ Lâm An cho thấy đây là đất Yên (An) thời Chiến Quốc, đã được nhà Tần giao cho Phạm Duy Hinh, con của tướng Phạm Duy Minh ở Đằng Châu cai quản.

Posted Image

Bản đồ trên ước vẽ 2 phần đất Già La và Lâm An từ thời Tấn. Đây là phạm vi nước Lâm Ấp vẫn được mô tả trong sử sách, có phía Đông giáp biển, Tây đến Vân Nam …

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Nhà Đông Tấn sai tướng là Tào Khả đem quân sang đánh, Ông Lý mai phục ở rừng núi hiểm trở nơi đầu nguồn sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở núi Liên Vị, địch tới thì mình đi, địch đi thì mình tới, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5 năm trời, không hề đối đầu. Quân Tấn không chịu nổi lam chướng, chết hơn quá nửa, bèn rút quân về.

Nhà Tấn sau khi diệt Thục và Ngô, tấn công xuống phương Nam. Nhưng gặp sự kháng cự của Mãnh Hoàng, rồi Triệu Ông Lý ở vùng Nam Triệu này, không tiến nổi. Vùng đất này như vậy vẫn giữ độc lập từ thời Tấn.

Lý Ông Nam Triệu tương đương với … Lý Nam Đế (Triệu = Chúa), trong sử Việt được gọi là triều Hậu Lý Nam Đế. Tới thời Tùy Cao Tổ năm 602 tướng Lưu Phương đã dụ hàng con cháu của Nam Triệu, đưa vùng đất La – Lỗ nhập vào đất Tùy. Năm 605 Lưu Phương cũng tấn công xuống phía Nam thắng lợi, đuổi họ Phạm chạy ra ngoài hải đảo, sát nhập nốt đất An – Yên vào nhà Tùy. Nước “Nam Triệu” của Triệu Ông Lý chấm dứt ở đây sau 600 năm tồn tại. Nhưng sau đó, một nước Nam Chiếu mới lại nổi lên…

Tộc phả họ Phạm viết: "Đến đời vua họ Phạm thứ 19 là Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa, vơ vét của cải , châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua họ Phạm, khiến Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh về cùng Mai Thúc Loan và cha con Phùng Hưng, Phùng An , diệt được quan quân nhà Đường và lập Mai Thúc Loan làm Bố Cái Đại vương, tức Mai Hắc đế (766)."

Còn Truyện Nam Chiếu chép: “Quân Nam Chiếu tới cướp các xứ Nam thành, Đông thành, Trường An, quan lệnh không thể dẹp nổi. Tới khi nhà Đường thịnh lên, vua Ý Tông sai Cao Biền đem quân sang dẹp, không đánh nổi phải bỏ về.

Đoạn này nói tới cuộc khởi nghĩa thời Mai Thúc Loan - Phùng Hưng, tấn công chiếm thành Tống Bình (Trường An?). Phải tới Cao Vương Biền mới đuổi được quân Nam Chiếu của họ Phùng ra khỏi Đông Giao Chỉ, và đặt vùng này làm Tĩnh Hải quân. Nhưng phía Tây Giao Chỉ vẫn do Nam Chiếu chiếm giữ. Thậm chí còn mở rộng ra thành 6-7 “chiếu” theo như truyền thuyết về Khun Borom ở Lào.

Posted Image

Đoạn cuối cùng của Truyện Nam Chiếu: “Tới đời Ngũ Đại vua Tấn là Thạch Kính Đường sai tướng tư mã là Lý Tiến đem 30 vạn quân đánh Đồ Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về biên giới Ai Lao, gọi là nước Đầu Mô, nay là đất Bồn Man”.

Thời Thạch Kính Đường thì Hoa Nam đã chia năm xẻ bảy, còn hơi sức đâu mà nhà Hậu Tấn đánh dẹp Nam Chiếu. Lúc này trên đất Tĩnh Hải là triều đại của Nam Hán Lưu Cung. Đoạn sử trên có thể nói tới sự kiện Cao Biền đánh Nam Chiếu từ thời Đường Ý Tông, hoặc chuyện Đoàn Tư Bình diệt Nam Chiếu, lập nước Đại Lý. Có điều sử Tàu đã biến chuyện Nam Chiếu bị diệt thành chuyện Nam Hán Lưu Cung cử Lý Tiến đánh Khúc Thừa Mỹ. Có thể Lý Tiến là tướng của Lưu Cung quãng năm 936 – 940 (thời Hậu Tấn) đã tấn công Nam Chiếu ở Tây Giao Chỉ, chứ không phải đánh Khúc Thừa Mỹ.

Phải nói Truyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái là một ghi chép rất đầy đủ và chân xác về lịch sử vùng Tây Giao Chỉ trong suốt một thời kỳ dài từ Đông Hán tới tận thời Ngũ Đại. 1000 năm lịch sử của miền Tây đã bị lãng quên, may mắn còn được lưu lại trong truyện. 600 năm Nam Triệu và 400 năm Nam Chiếu, kiên cường chống lại phương Bắc, huy hoàng mở các quốc gia người Thái khắp Đông Nam Á.

Thực ra, chúng ta có thể nghi ngờ: Hồ Tôn phải chăng là Chămpa???

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bốn nhà Triệu trong sử Việt

Bách Việt Trùng Cửu

Có lẽ đoạn sử rối rắm, gây nhiều tranh cãi nhất trong sử Việt là giai đoạn từ Thục An Dương Vương tới Triệu Đà. Không sách nào khớp với sách nào, từ sử ta tới sử Tàu, từ cổ thư tới truyền thuyết. Sử sách gì mà chép những chuyện không thể hiểu nổi, kiểu như An Dương Vương 80 tuổi mới sinh con Mỵ Châu, Triệu Đà thọ 121 tuổi…

Lịch sử không dễ mất đi mà không để lại dấu vết gì. Sự thật ở ngay trước mắt nhưng lại rất xa.

Với “tuổi thọ” 121 năm của Triệu Đà thì có thể thấy… trong hình tượng Triệu Đà này có ít nhất là 2, thậm chí là 3 nhân vật lịch sử thật sự. Xin lần lượt bàn từng “vị” Triệu Đà theo dòng thời gian.

Triệu Đà – Trọng Thủy

Nhà Triệu thứ nhất là họ Triệu của vua Tần. Tần Thủy Hoàng có tên Triệu Chính, theo họ mẹ ở nước Triệu. Triệu Chính là con của Trọng Thủy và nàng Mỵ Châu trong truyền thuyết Việt.

Năm 256 trước Công nguyên Tần Chiêu Tương vương diệt nhà Chu, thu chín cái đỉnh về Tần. Thiên tử đã mất thì thiên hạ cũng thay đổi. Đế quốc Tần bắt đầu từ đây chứ không phải đợi đến lúc Tần Thủy Hoàng thống nhất sáu nước.

Sử Việt chép cũng thời gian năm 257 Thục An Dương Vương đánh Hùng Vương lập nước Âu Lạc. Sự kiện này thực ra chính là việc Tần diệt Chu trong Hoa sử.

Truyền thuyết Việt thì chép thành họ Triệu (Triệu Đà) cho con là Trọng Thủy ở rể, lừa lấy mất nỏ thần, đuổi An Dương Vương chạy ra biển. Mối tình Mỵ Châu – Trọng Thủy chính là cuộc hôn nhân Tần – Việt với kết cục bi thảm, ai oán, kết thúc sự tồn tại của vương triều Chu gần 1000 năm.

Long Hưng Triệu Vũ Đế

Khoảng năm 218 Tần Thủy Hoàng sai Úy Đồ Thư phát 50 vạn binh, chia làm 5 đạo quân tấn công Bách Việt. “Trong 3 năm, [quân Tần] không cởi giáp dãn nỏ. Giám Lộc không có đường chở lương, lại lấy binh sĩ đào cừ cho thông đường lương để đánh nhau với người Việt. Giết được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống. Nhưng người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người Tuấn kiệt lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư“ (Hoài Nam tử).

Các sử gia ngày nay cho rằng “người Tuấn kiệt” ở đây là Thục Phán. Nhưng như vậy quá rối rắm và vô lý. Thục Phán đã là vua Âu Lạc từ năm 257, sao tới năm 218 lại được các tướng suy tôn làm thủ lãnh? Âu Lạc đã bị Tần diệt, có còn vua đâu nữa?

Khởi nghĩa kháng Tần của người tuấn kiệt tại Giao Chỉ không phải là Thục Phán. Xét về thời gian và hành trạng thì người Tuấn kiệt lãnh đạo dân Âu Lạc lúc này phải là … Lưu Bang. Do chế độ hà khắc của Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang là một quan nhỏ dưới thời Tần, khi dẫn dân phu đi Lịch Sơn vì phu dịch bỏ trốn nhiều quá, biết khó tránh tội chết, nên đã tự mình dựng cờ “khởi nghĩa”, được mọi người hưởng ứng. Khởi nghĩa của Lưu Bang thắng lợi cũng đúng vào sau lúc Tần Thủy Hoàng mất (năm 208). Hình thức và thời gian khởi nghĩa này thật khớp với ghi chép của Hoài Nam tử ở trên.

Theo Sử ký Tư Mã Thiên thì Lưu Bang là người đất Phong, làm đình trưởng ở huyện Bái, khởi nghĩa ở núi Mường Đăng. Lưu Bang cũng là Lý Bôn trong sử Việt. Lý Bôn được thờ rất nhiều ở vùng xứ Đoài, là đất Phong Châu phía Tây Giao Chỉ xưa. Đất Bái là Thái Bình (Thái Bình đọc lái là Bái Đình), được chép là quê của Lý Bôn. Mường Đăng, nơi Lý Bôn trảm xà khởi nghĩa, hẳn là vùng Thái Nguyên – Bắc Giang, nay có tục thờ Lý Bôn. Lưu Bang – Lý Bôn, người khởi đầu triều Tiền Lý của sử Việt.

Lý Bôn được sử Việt gọi là Lý Nam Đế, người phủ Long Hưng đất Thái Bình. Long Hưng hay Hưng Lang là danh xưng của Lý Bôn – Lưu Bang, đã bị biến thành Hán Vương.

Bất ngờ hơn khi truyền thuyết Việt có chuyện Triệu Vũ Đế lập điện Long Hưng ở Xuân Quan (Gia Lâm – Hà Nội). Và theo Thiên Nam ngữ lục thì chính Triệu Vũ Đế mới là người đã nhân thấy rồng bay lên trên sông Nhị Hà mà đặt tên cho thành Thăng Long, chứ không phải Lý Công Uẩn. Triệu Vũ Đế họ Lý, danh xưng Long Hưng thì hẳn chính là Lưu Bang – Lý Bôn. Như vậy trong truyền thuyết Việt Lưu Bang được gọi là Triệu Vũ Đế.

Câu đối ở điện Long Hưng:

Bạt địa nguy thôi phương tích bất tùy Tần Hán khứ

Xung thiên vũ trụ anh tiêu trường yết Lạc Hùng lai.

Dịch:

Bạt đất mênh mông, danh tiếng thơm bất khuất thời Tần Hán

Động trời khắp chốn, chí anh hùng giữ mãi buổi Lạc Hùng.

Cũng vị Triệu Vũ Đế này còn lấy vợ là Trình Thị ở đất Đồng Xâm – Kiến Xương - Thái Bình. Sử ký chép Triệu Đà quê ở Chân Định… Chân Định là tên cũ của đất Kiến Xương, là nơi Lưu Bang lấy … Lữ Hậu, ở vùng đất Bái (Thái Bình).

Posted ImageĐền thờ Hoàng hậu Trình Thị ở Đồng Xâm, Kiến Xương, Thái Bình

Lưu Bang và Lữ Hậu còn được thờ đúng họ tên tới nay ở ngay đình Bát Tràng – Hà Nội, cạnh điện Long Hưng ở Xuân Quan. Ngoài ra, ở làng Trâu Lỗ (Hiệp Hòa – Bắc Ninh) có thờ Vua ông Vua bà, không rõ lai lịch, có thể cũng chính là Lưu Bang và Lữ Hậu vì suốt lịch sử Hoa và Việt chỉ có 2 vị này là có thể đều cùng gọi là vua được.

Tư liệu dân gian cho phép đoán định Triệu Vũ Đế hay Triệu Đà trong sử Việt là Lưu Bang – Lý Bôn phần nào cũng sáng tỏ hơn những thông tin khác về Triệu Đà. Triệu Đà là huyện lệnh huyện Long Xuyên, có thể hiểu là chuyện Lưu Bang ban đầu là đình trưởng đất Bái (phần Đông Giao Chỉ) dưới thời Tần. Hoặc nói tới chiến công của Lưu Bang giết thái thú quận Tam Xuyên ở Ung Châu là Lý Do, con thừa tướng Lý Tư nhà Tần.

Chuyện Nhâm Ngao trao quyền quận Nam Hải cho Triệu Đà, Triệu Đà nhân đó đánh chiếm Quế Lâm, Tượng Quận có thể cũng là hành trạng của Lưu Bang khi khởi nghĩa kháng Tần, thắng lợi ở 3 vùng đất mà Tần chiếm của Việt trước đây.

Triệu Vũ Đế - Lý Bôn lập ra nước Nam Việt, nên có tên Lý Nam Đế. Có thể triều đại mà Lưu Bang lập nên gọi đúng là nhà Triệu, nước Nam Việt, chứ không phải Hán. Hiếu Cao Tổ Lưu Bang không dính dáng gì tới Hán cả. Lưu Bang là người khai mở kỷ nhà Triệu (thứ hai) năm 208 TCN trong sử Việt.

Nhà Triệu - Lữ Gia

Nếu Triệu Vũ Đế là Lưu Bang, vậy nhà Triệu với 5 đời vua được ghi trong sử sách là như thế nào?

Ở Quảng Tây đã tìm thấy mộ của Triệu Mạt với ấn “Văn đế hành tỷ”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông cho gợi ý: Triệu Mạt là Triệu Một, tức là vị vua đầu của nhà Triệu. Như vậy nhà Triệu Nam Việt bắt đầu từ Triệu Văn Vương chứ không phải Triệu Vũ Đế.

Nhà Triệu này xuất hiện sau khi Lữ Hậu mất năm 180 TCN như Sử ký Tư Mã Thiên chép. Nhà Triệu thứ ba này mới là nhà Triệu đã chiếm Mân Việt và Tây Âu Lạc. Sự có mặt của tể tướng 4 đời vua Triệu là Lữ Gia cho thấy có thể nhà họ Lữ (của Lữ Hậu) sau khi thất bại nắm quyền ở phương Bắc đã tôn một người con hay cháu của Lưu Bang lên làm vua Nam Việt. Vị vua này gọi là vua đầu Triệu Mạt. Vì nhà Triệu này được chuyển tiếp một cách không chính thức nên không có vua Vũ Đế, mà bắt đầu bằng Triệu Văn Vương. Triệu Vũ Đế đã là Lưu Bang, cũng là ông tổ của nhà Triệu Nam Việt.

Nhà Triệu thứ ba ở Phiên Ngung kết thúc khi Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức của nhà Hiếu tấn công Nam Việt. Lữ Gia và Triệu Thuật Dương Vương lên thuyền nhẹ chạy từ Phiên Ngung về cửa biển ở đất Bái (đất của họ Lữ). Huyền sử Việt chép thành chuyện Triệu Việt Vương bị Lý Phật Tử đuổi, chết ở cửa Đại Nha (Nam Định).

Lữ Gia lui về Phong Châu lập phòng tuyến chống nhà Hiếu (Tây Hán) dọc sông Lô. Phong Châu là đất gốc của Triệu Vũ Đế Lưu Bang - Lý Bôn. Tàn quân nhà Triệu lui về đây cũng hợp lý.

Đền thờ Lữ Gia nay có ở Nam Định và vùng Vĩnh Phúc, Sơn Tây là dấu vết của cuộc chiến này.

Posted ImageNơi thờ Lữ Gia ở thôn Tràng Đông, xã Trưng Vương, Việt Trì

Nam Triệu - Tây Lý Vương

Việc Lữ Gia và Triệu Thuật Dương Vương rút về Phong Châu cho thấy đã có một cuộc di cư lớn của nhóm người Tày Thái từ Quảng Đông về Tây Giao Chỉ khi Lộ Bác Đức tấn công Phiên Ngung (năm 111).

Tư liệu của nhà nghiên cứu Lương Nghị về đền thờ Lữ Gia ở thôn Tràng Đông, xã Trưng Vương, Việt Trì cho biết:

Sau khi Lữ Gia mất, đang lúc giao thời một người chắt của Triệu Đà là Nguyễn Vụ với danh nghĩa con cháu nhà Hùng, tự lên ngôi vua ở cố đô Văn Lang, đổi tên Loa Thành thành Tây Vu Thành, lấy hiệu là tây Lý Vương. Nhà vua hiệu triệu nhân dân nổi dậy chống Hán, lấy Tây Vu Thành làm căn cứ chống giặc. Đồng thời cử con là Lang Tề sang nhà Tây Hán điều đình để chấp nhận vương triều của mình. Nhà Hán ép Lang Tề lấy vợ Hán nhưng Lang Tề không chịu, bèn về nước liên kết với các hào kiệt chống Hán. Các quân sĩ của Lữ Gia còn lại tiếp tục chiến đấu dưới lá cờ của Tây Lý Vương. Cuộc chiến đấu kéo dài 14 năm sau, làm cho quân Hán vô cùng khốn đốn, sau đó mới vị tiêu diệt.

Tư liệu này hoàn toàn trùng hợp với chuyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái cho biết “người Nam Chiếu là con cháu Triệu Vũ Đế”. Khi Lộ Bác Đức tấn công Nam Việt thì “Con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn, là những xứ vắng vẻ không người. Khi bộ hạ đông đúc họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bổ đột nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu”.

Cái tên Nguyễn Vụ của người chắt Triệu Đà cũng tương tự trường hợp sách Tàu đổi họ của Lý Thân (Lý Ông Trọng) thành Nguyễn Thân. Nguyễn Vụ hay Lý Vụ, Lý Vũ, tức là vua Lý. Vùng Tây Vu trong Lĩnh Nam chích quái gọi là đất Nam Triệu, do họ Lý lãnh đạo, giao hảo với nhà Tây Hán (cử Lang Tề đi sứ), chống Đông Hán, rồi hàng phục nhà Hậu Lý của Lý Bí – Lưu Bị thời Gia Cát Vũ Hầu (chuyện Mạnh Hoạch).

Tây Vu Thành không phải là Loa Thành ở Cổ Loa, mà là vùng đất phía Tây Giao Chỉ (đất Phong), nơi có cố đô Việt Trì từ thời Lang Xương Chu Văn Vương (Văn Lang). Danh xưng Tây Lý Vương cho thấy rõ con cháu Triệu Vũ Đế mang họ Lý của Lý Bôn. Tây Lý Vương là triều Lý Nam Triệu ở phía Tây, phân biệt với triều Lý Nam Việt ở phía Đông (Phiên Ngung) trước đó. Nam Triệu được sử Việt còn gọi là triều Hậu Lý Nam Đế, về sau hàng phục nhà Tùy năm 602.

Biểu đối chiếu 4 nhà Triệu trong sử ViệtPosted Image

Họ Lý của nhà Triệu bắt đầu từ Lý Bôn – Lưu Bang. Năm Quý Tỵ 208 TCN Lý Bôn khởi nghĩa chống Tần thắng lợi trên đất Âu Lạc. Lý Bôn, người Việt Giao Chỉ đầu tiên xưng Đế, mở nước Vạn Xuân. Xác định họ Lý truyền từ Lưu Bang Triệu Vũ Đế, sang Nam Việt Triệu Văn Vương rồi Nam Triệu Tây Lý Vương đã làm thông suốt một mảng thời gian quan trọng trong sử Việt, kết nối lịch sử phần Đông với Tây, Nam với Bắc. Posted Image 1 comment

Nam Triệu và Nam Chiếu

Wednesday, January 23, 2013 11:38:15 PM

Nguồn cội

Trong Lĩnh Nam chích quái có một câu chuyện rất thật, không có chút huyền thoại hay “chích quái” nào nhưng lại khó hiểu nhất vì chẳng hề ăn khớp tí gì với chính sử. Đó là Truyện Nam Chiếu. Nay xin “đọc lại” câu chuyện này, không cần phải “giải mã” gì, chỉ cần đối chiếu với những gì đã và đang biết về lịch sử bị lãng quên của miền Tây và Nam nước ta.

Câu đầu tiên của Truyện Nam Chiếu khẳng định: “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”. Câu khẳng định này đúng là đánh đố người đọc ngày nay. Nam Chiếu được coi là quốc gia của người Di Bạch vùng Vân Nam, sao lại là con cháu Triệu Đà được? Nhưng đích thực, câu mở đầu này đã xác định nước “Nam Chiếu” thực chất là ở đâu.

Triệu Vũ Đế dựng nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung – Quảng Đông. Thành phần dân tộc chính vùng này là nhóm người Tày Thái. Nam Chiếu là con cháu Triệu Đà, tức là một quốc gia người Thái. Lịch sử Nam Chiếu cho biết quốc gia người Thái này đã từng trải rộng trên đất Tây Bắc Việt Nam, Lào và Bắc Thái Lan.

Nước Nam Chiếu ở trong truyện không phải mới bắt đầu vào thời Đường như nước Nam Chiếu theo chính sử ở Vân Nam, mà có gốc gác từ thời Tây Hán. Khi Lộ Bác Đức tấn công Nam Việt thì “Con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn, là những xứ vắng vẻ không người. Khi bộ hạ đông đúc họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bổ đột nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu”.

Đất Hoành Sơn mà ở gần cửa Thần Phù thì là đèo Ngang giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, chứ không phải Hoành Sơn ở Quảng Bình. Con cháu họ Triệu như vậy trở về vùng Ái Châu tụ tập.

Đoạn ghi chép trên rất giống với chuyện… Man vương Mạnh Hoạch chống lại các vị quan họ Chu của nhà Đông Hán trong thần tích làng Hương Ngải - Sơn Tây. Mạnh Hoạch hoạt động cả một dải từ Hưng Hóa tới Ái Châu, làm quan cai trị ở Giao Châu lúc đó phải lao đao… Nam Triệu như vậy là tên gọi nước của Mạnh Hoạch từ thời Đông Hán, là vùng đất phía Tây Giao Chỉ.

Tiếp theo, “Đến đời Ngô, Tôn Quyền sai Đái Lương, Lữ Đại làm thú mục để đánh dẹp. Quân Nam Chiếu ở cả một vùng từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở, không có một vết chân người. Quân Nam Chiếu ở đấy thường lấy việc cướp bóc để sinh sống, đánh giết thú mục, không thể ngăn cản nổi.

Đây cũng là thành tích của Mạnh Hoạch khi phần đất phía Đông Giao Chỉ được Sĩ Nhiếp Ngạn Uy dâng cho Ngô Tôn Quyền. Đoạn trên cho biết một loạt các địa danh “từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi”. Các địa danh này hẳn nằm ở Tây Bắc và Tây Thanh Nghệ ngày nay, là đất Nam Triệu của Mạnh Hoạch.

Mạnh Hoạch hay Mãnh Hoàng, có thể chỉ là cách gọi vị vua của người Mường Mán. Mãnh Hoàng là con cháu họ Triệu, sau khi kinh đô Phiên Ngung của Nam Việt thất thủ đã rời về Tây Giao Chỉ và hùng cứ một vùng, liên tục chống lại các quan lại nhà Hán rồi tới nhà Ngô. Tiếp theo thì như đã biết, Vũ Hầu Gia Cát, thừa tướng của nhà Thục đã vượt Lô Giang, tiến vào Tây Bắc bình định, thu phục Mãnh Hoàng. Mãnh Hoàng tiếp tục cai quản khu vực Nam Triệu này dưới hình thức tự trị, độc lập.

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là Triệu Ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều nể phục, cùng hợp lại với quân Nam Chiếu, được hơn hai vạn người, lại đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ, xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển.

Nếu đối chiếu với tộc phả họ Phạm:

"Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân - Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) - tức là Nam Trung bộ ngày nay.

Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trước CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm Ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).”

Có thể thấy Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà, là họ Lý, bắt đầu từ Lý Thân (Lý Ông Trọng). Vùng đất Tây Giao Chỉ là vùng Lâm Thao, nơi Lý Ông Trọng trấn giữ người Hồ dưới thời Tần.

Đặc biệt truyền phả họ Nguyễn còn chép rằng Triệu Đà chính là Lý Ông Trọng. Chuyện này tuy còn nhiều nghi vấn, nhưng có thể có phần nào là sự thật khi con cháu Triệu Đà cũng là con cháu của Lý Thân, chiếm vùng đất Tây Giao Chỉ dưới thời Hán.

Vùng Tây Giao Chỉ là đất của Mãnh Hoàng (Mạnh Hoạch), còn gọi là Nam Triệu, thời Tam quốc đã hàng phục nước Thục nhờ công của Vũ Hầu Gia Cát. Khi nhà Tấn diệt Thục, Tấn chỉ chiếm được vùng Xuyên Thục phía Bắc của nước này. Phần phía Nam vẫn do Mãnh Hoàng tự trị kiểm soát. Theo Truyện Nam Chiếu thì lúc này Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà – Lý Thân, đã lên nắm quyền cai quản ở đây. Triệu Ông Lý chống lại nhà Tấn, “cùng hợp với quân Nam Chiếu”, tức là hợp với quân của họ Phạm ở phía Nam vùng ven biển Trung Bộ theo như tộc phả họ Phạm chép.

Truyên Nam Chiếu chép: “Khi ấy, nước Tây Bà Dạ chia đều đất ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Già La, trên từ Cầm Châu xuống tới Hoan Châu gọi là lộ Lâm An giao cho Nam Chiếu và Triệu Ông Lý thống lĩnh. Sau đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá, đất Diễn Châu, đông giáp với biển, tây tới nước Bà Dạ, nam tới Hoành Sơn, tự xưng làm chúa.”

Có thể thấy nước Nam Chiếu trong truyện ở thời kỳ nhà Tấn chính là xứ Lâm Ấp hay Nam Hà trong tộc phả họ Phạm. Xứ này bao gồm 2 phần:

- Phần lộ trên từ Quý Châu tới Diễn Châu do Triệu Ông Lý cai quản. Lộ này có tên Như Hoàn, hay Già La, sách khác gọi là Như La, Gia Viễn. Đây là phần đất liền không giáp biển, là Tây Giao Chỉ, gồm cả đất Lào ngày nay. Tên gọi Già La hay Như La cho thấy vùng này chính là nước Lỗ (La) của thời Chiến Quốc. Đây cũng là đất Lâm Thao thời Tần, trước do Lý Ông Trọng cai quản, sau đó giao cho con cháu Lý Thân.

- Lộ dưới từ Cầm Châu tới Hoan Châu gọi là Lâm An, do con cháu họ Phạm quản lý. Đây là phần giáp biển, ven biển miền Trung ngày nay. Tên lộ Lâm An cho thấy đây là đất Yên (An) thời Chiến Quốc, đã được nhà Tần giao cho Phạm Duy Hinh, con của tướng Phạm Duy Minh ở Đằng Châu cai quản.

Posted ImageBản đồ trên ước vẽ 2 phần đất Già La và Lâm An từ thời Tấn. Đây là phạm vi nước Lâm Ấp vẫn được mô tả trong sử sách, có phía Đông giáp biển, Tây đến Vân Nam …

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Nhà Đông Tấn sai tướng là Tào Khả đem quân sang đánh, Ông Lý mai phục ở rừng núi hiểm trở nơi đầu nguồn sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở núi Liên Vị, địch tới thì mình đi, địch đi thì mình tới, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5 năm trời, không hề đối đầu. Quân Tấn không chịu nổi lam chướng, chết hơn quá nửa, bèn rút quân về.

Nhà Tấn sau khi diệt Thục và Ngô, tấn công xuống phương Nam. Nhưng gặp sự kháng cự của Mãnh Hoàng, rồi Triệu Ông Lý ở vùng Nam Triệu này, không tiến nổi. Vùng đất này như vậy vẫn giữ độc lập từ thời Tấn.

Lý Ông Nam Triệu tương đương với … Lý Nam Đế (Triệu = Chúa), trong sử Việt được gọi là triều Hậu Lý Nam Đế. Tới thời Tùy Cao Tổ năm 602 tướng Lưu Phương đã dụ hàng con cháu của Nam Triệu, đưa vùng đất La – Lỗ nhập vào đất Tùy. Năm 605 Lưu Phương cũng tấn công xuống phía Nam thắng lợi, đuổi họ Phạm chạy ra ngoài hải đảo, sát nhập nốt đất An – Yên vào nhà Tùy. Nước “Nam Triệu” của Triệu Ông Lý chấm dứt ở đây sau 600 năm tồn tại. Nhưng sau đó, một nước Nam Chiếu mới lại nổi lên…

Tộc phả họ Phạm viết: "Đến đời vua họ Phạm thứ 19 là Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa, vơ vét của cải , châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua họ Phạm, khiến Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh về cùng Mai Thúc Loan và cha con Phùng Hưng, Phùng An , diệt được quan quân nhà Đường và lập Mai Thúc Loan làm Bố Cái Đại vương, tức Mai Hắc đế (766)."

Còn Truyện Nam Chiếu chép: “Quân Nam Chiếu tới cướp các xứ Nam thành, Đông thành, Trường An, quan lệnh không thể dẹp nổi. Tới khi nhà Đường thịnh lên, vua Ý Tông sai Cao Biền đem quân sang dẹp, không đánh nổi phải bỏ về.

Đoạn này nói tới cuộc khởi nghĩa thời Mai Thúc Loan - Phùng Hưng, tấn công chiếm thành Tống Bình (Trường An?). Phải tới Cao Vương Biền mới đuổi được quân Nam Chiếu của họ Phùng ra khỏi Đông Giao Chỉ, và đặt vùng này làm Tĩnh Hải quân. Nhưng phía Tây Giao Chỉ vẫn do Nam Chiếu chiếm giữ. Thậm chí còn mở rộng ra thành 6-7 “chiếu” theo như truyền thuyết về Khun Borom ở Lào.

Posted Image

Đoạn cuối cùng của Truyện Nam Chiếu: “Tới đời Ngũ Đại vua Tấn là Thạch Kính Đường sai tướng tư mã là Lý Tiến đem 30 vạn quân đánh Đồ Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về biên giới Ai Lao, gọi là nước Đầu Mô, nay là đất Bồn Man”.

Thời Thạch Kính Đường thì Hoa Nam đã chia năm xẻ bảy, còn hơi sức đâu mà nhà Hậu Tấn đánh dẹp Nam Chiếu. Lúc này trên đất Tĩnh Hải là triều đại của Nam Hán Lưu Cung. Đoạn sử trên có thể nói tới sự kiện Cao Biền đánh Nam Chiếu từ thời Đường Ý Tông, hoặc chuyện Đoàn Tư Bình diệt Nam Chiếu, lập nước Đại Lý. Có điều sử Tàu đã biến chuyện Nam Chiếu bị diệt thành chuyện Nam Hán Lưu Cung cử Lý Tiến đánh Khúc Thừa Mỹ. Có thể Lý Tiến là tướng của Lưu Cung quãng năm 936 – 940 (thời Hậu Tấn) đã tấn công Nam Chiếu ở Tây Giao Chỉ, chứ không phải đánh Khúc Thừa Mỹ.

Phải nói Truyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái là một ghi chép rất đầy đủ và chân xác về lịch sử vùng Tây Giao Chỉ trong suốt một thời kỳ dài từ Đông Hán tới tận thời Ngũ Đại. 1000 năm lịch sử của miền Tây đã bị lãng quên, may mắn còn được lưu lại trong truyện. 600 năm Nam Triệu và 400 năm Nam Chiếu, kiên cường chống lại phương Bắc, huy hoàng mở các quốc gia người Thái khắp Đông Nam Á.

HỒ TÔN LÀ CHĂMPA? TRONG LỊCH SỬ CHƯA THẤY AI CHỨNG MINH VẤN ĐỀ NÀY.

Khu Liên: lập ra Chămpa?, vậy giả sử trước đó - sử ghi nhn chưa rõ ràng.

Chú ý: Đình làng - Chămpa không thấy xuất hiện.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Còn theo Cổ Việt Hùng thị Thập bát Diệp Thánh Tông Ngọc Phả cổ truyền do Hàn Lâm viện Trực học sĩ soạn năm Nhâm Thìn 1472, niên hiệu Hồng Ðức thứ 3 thì vua Lê Thánh Tôn giao cho Bảng Nhãn Nguyễn Như Ðỗ nghiên cứu về cương giới nước Việt xưa. Bản Hùng Vương thập bát cảnh do Nguyễn Như Ðỗ sưu tập thì lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm:

- Miền Gò Ngựa (Mã Kỳ) rộng khoảng 2.000 dặm, xưa tên là Châu Ðiền nay thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.

- Miền Cỏ Trâu (Ngưu Lang) rộng khoảng 1.500 dặm tức Việt Tây nay là tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

- Miền Ao Cá (Ngư Trì) rộng 1700 dặm xưa có tên là Việt Ðông nay là tỉnh Quảng Ðông, Trung Quốc.

- Miền Rừng Quạ (Ô Lâm) xưa là châu Kiềm nay thuộc tỉnh Phúc Kiến, Quý châu giáp hồ Ðộng Ðình, Trung Quốc.

- Miền Động Hoa tức tức nước Phù Nam cổ rộng khoảng 1.000 dặm thời Lê Thánh Tôn là nước Chân Lạp. Vương quốc Phù Nam cổ ở Hạ Lưu sông Mekong, vương quốc này tồn tại mãi đến thế kỷ thứ VI. Cương giới Phù Nam trải rộng hầu như khắp lục địa Ðông Nam Á cổ bao gồm cả miền Nam Trung Việt, Nam Việt Nam sang phía Tây gồm cả thung lũng sông Mê Nam Thái Lan. Phía Bắc tới vùng trung lưu sông Mêkong tức lãnh thổ Lào ngày nay, trải dài xuống phương Nam tới bán đảo Mã Lai, tức nước Malaysia bây giờ.

- Miền Núi Quả (Quả Sơn) rộng khoảng 1.000 dặm tức nước Hồ Tôn (Lâm Ấp cổ còn gọi là Chămpa) sau là Chiêm Thành.

- Miền Bầy Voi (Tượng Tào) rộng khoảng 1.000 dặm tức nước Ai Lao hay Lào.

- Miền Lũ Hươu (Lộc Hữu) rộng khoảng 1.000 dặm ở phía Nam Ai Lao tức Cao Miên (Cambodia) bây giờ.

- Còn về trước nữa thì biên giới nước ta lên tới Hồ Bắc và Nam Hà Nam lấy phân dã 2 sao Ngưu Nữ làm giới cận.

Qua đấy, vấn đề cương vực nước Văn Lang theo Hùng Vương thập bát cảnh còn mở rộng về phía Nam hơn nữa. Sử cũ đều chép nước Văn Lang giáp nước Hồ Tôn, tác giả các sách Lĩnh Nam chích quái, Đại Việt sử ký toàn thư, Dư địa chí đều cho Hồ Tôn là Chiêm Thành, riêng Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí thì viết “gọi Hồ Tôn là nước Chiêm Thành thì không có bằng chứng gì cả”. Nước Chiêm Thành là nước Hoàn Vương đời Đường, nước Lâm Ấp thời Tần đều được sử cũ ghi lại là ở phía Nam nước ta. Trong quá trình lịch sử, biên giới phía Bắc của nước Chiêm Thành lùi dần vào Nam. Cho đến đầu thời Lý, Hoành Sơn vẫn là ranh giới nước ta và nước Chiêm Thành, dải đất từ Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế còn là châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính của Chiêm Thành. Vậy biên giới phía Nam nước ta thời Hùng Vương ít có khả năng vượt quá dãy Hoành Sơn. Tuy nhiên, chúng cũng cần phải được nghiên cứu kỹ càng và cẩn thận thêm nữa.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mở đầu Đại Việt sử ký toàn thư Ngô sĩ Liên viết :

Xét: Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt. Vua Nghiêu sai Hy thị đến ở Nam Giao để định đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu thì Bách Việt thuộc phần đất châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Từ đời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị , tên Việt bắt đầu có từ đấy. ..

Ngay từ dòng mở đầu đã có nhiều điểm phải xem xét lại :

Xét Thời Hoàng Đế dựng muôn nước …không có tư liệu nào nói Hoàng đế hay đế Hoàng vua thủy tổ của Trung hoa dựng muôn nước , sử liệu chỉ ghi Hoàng đế là vua Hữu Hùng quốc , cả ông và Viêm đế cùng là con của Hùng quốc quân , quân là trưởng như người chồng trong nhà gọi là phu quân tức chủ gia đình , xét ra đời Thiếu Điển cha của Hoàng đế thì cộng đồng Hùng chưa phải là 1 nước nên người đứng đầu chỉ gọi là ‘quân’ , từ quốc ở đây có thể nói đến 1 cộng đồng người thời tiền lập quốc tức chỉ là 1 liên minh thị tộc mà thôi , phải đến đời Hoàng đế thì từ ‘đế’ mới xuất hiện xác định sự kiện cộng đồng ‘Hùng’ chuyển mình từ liên minh thị tộc thành 1 quốc gia do ‘đế’ cai trị . Như thế Hoàng đế chỉ lập 1 nước gọi là Hữu Hùng quốc không hề lập …muôn nước như Đại Việt sử ký toàn thư viết .

Trong quốc hiệu ‘Hữu Hùng quốc’ thì từ Hữu được cho là 1 trợ từ vô nghĩa , nhưng đặc biệt từ này xuất hiện rất nhiều trong cổ sử Trung Hoa như …hữu Hùng , hữu Ngu , hữu Hổ , hữu Cùng , hữu Nhưng .v.v. .Nếu dựa vào cụm từ dân giã ‘họ hàng hang hốc’ thì nghiệm ra ‘hữu’ không phải là trợ từ vô nghĩa mà là biến âm của từ ‘họ’ Việt ngữ , từ nguồn cơn lịch sử tận thời lấy ‘hang hốc’ làm nơi cư trú tức ý nói đến những người có quan hệ thân thiết thường là máu mủ xa gần cùng nhau sống chung trong 1 cái hang , mỗi hốc là 1 gia đình nhỏ về sau …hang hốc biến thành họ hàng rồi hàng ↔hương ; họ ↔ hữu ,. Xét như thế thì hữu Hùng chính là họ Hùng , hữu Ngu là họ Ngu .v.v. , hữu Hùng quốc là nước của người họ Hùng , có nước họ Hùng tất phải có Hùng vương , đế Hoàng hay đế màu vàng cũng chỉ là 1 đời Hùng vương trong chiều dài lịch sử của Hùng quốc mà thôi .

Dòng đầu đã sai dòng kế tiếp thì hết sức tối nghĩa và cũng sai nốt …

….lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt…

Đoạn này xác định vị trí đất Giao chỉ nằm ở góc tây nam lãnh thổ của ‘muôn nước’ tức Thiên hạ và cách xa đất của cộng đồng Bách Việt . Thời Hoàng đế chỉ có 1 nước duy nhất thì làm gì có nước Giao chỉ hay đất Giao chỉ ở phía Tây – nam ?.

Nền địa lý cổ Trung hoa quan niệm lãnh thổ là 1mảnh đất hình vuông chính giữa là giao điểm của 2 đường kẻ Nam – Bắc và Tây – Đông …và vùng trung tâm ấy gọi là đất Giao chỉ ; xét như thế đất Giao chỉ không ở chính giữa thiên hạ tức Trung nguyên Trung thổ thì còn đất nào khác ?.

Dưới ánh sáng Dịch học thì đế Hoàng có nghĩa là vua vùng ‘chính giữa’; vàng là sắc trung tâm của Ngũ sắc và chính bản thân tên gọi ‘Giao chỉ’ cũng chỉ ra … đấy là vùng chính giữa Thiên hạ…vậy đế Hoàng vua nước họ Hùng và lãnh thổ nước họ Hùng chính là đất Giao chỉ …về lý lẽ có sự nhất qúan không thể nào nói khác được .

…đoạn … lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam … là đoạn thông tin sai hoàn toàn vì khi đã là Giao chỉ hay chỗ giữa rồi thì không thể nào lại còn là đất tây nam được… ; tới những chữ kế tiếp … xa ngoài đất Bách Việt…còn sai hơn nữa , thời Hoàng đế lập quốc thì làm gì có đất Bách Việt để mà xa ngoài cõi ?. Bách Việt là từ mà người Hán dùng để gọi chung các tộc phi Hán sống ở miền nam Trung Quốc từ thời Xuân thu – Chiến quốc (Từ Bách Việt lần đầu tiên thấy chép trong Sử Ký , Ngô Khởi Truyện của Tư Mã Thiên) sau đế Hoàng vài ba ngàn năm …, Tệ hơn nữa đoạn trên thì như thế đoạn dưới thì … “Vua Vũ chia 9 châu thì Bách Việt thuộc phần đất châu Dương , Giao Chỉ thuộc về đấy”… ý nghĩa hoàn toàn rõ ràng nói Giao chỉ nằm trong đất Bách Việt …như thế là làm sao ?, mới dòng trên thì Giao chỉ xa cõi Bách Việt …xuống đoạn dưới thì ….Giao chỉ thuộc về đấy … thực đành bó tay không hiểu nổi ; châu Dương theo sử học là vùng Đông nam Trung Hoa vậy …Giao chỉ nằm ở tây nam như dòng trên hay đông nam thiên hạ như chép ở dòng dưới …?.

… Vua Nghiêu sai Hy thị đến ở Nam Giao để định đất Giao Chỉ ở phương Nam…; hiểu Nam Giao là đất Giao chỉ ở phương Nam chỉ là sự cố tình cưỡng hiếp ngôn ngữ để sau cùng đẻ ra cái quái thai … nước của Hán tộc là Trung tâm thiên hạ tức Trung quốc ; từ thời Tây Hán (?) Khổng An Quốc chú giải Kinh Thư thì cho Nam Giao chỉ nghĩa là phương Nam chung chung mà thôi , và ngầm hiểu phương nam tức ở phía nam so với Trung quốc của Hán tộc , đến thời Đường Tư Mã Trinh sợ có sự hiểu chung chung chưa đủ rõ mới gán cho ‘Nam Giao’ nghĩa dứt khoát là … Giao Chỉ ở phương Nam (Trung quốc) ,như thế là … thông tin trong văn bản lịch sử cổ nhất đã xác định chắc như đinh đóng cột… Trung quốc ở bờ Hoàng hà và đất Nam Giao của Kinh Thư … mãi tận xa về phía Nam . Nói thực vào thời Đường Nghiêu với khoảng cách địa lý xa xôi như vậy mà người ‘Trung quốc mơ hồ chung chung’ đã biết rõ về vùng đất có danh xưng ‘Giao chỉ chữ nghĩa rõ ràng’ xa về phía Nam …chỉ là chuyện tưởng tượng …tự thân họ cũng thấy …không thể như thế được nên cả đống ‘học gỉa học thật’ Trung quốc hiện đang gân cổ lên lý giải …. ‘Giao chỉ’ là khái niệm văn hóa chứ không phải khái niệm địa lý nhưng …vô lý vẫn hoàn vô lý vì suy cho cùng văn hóa cũng chỉ là thành tựu của con người , mà đã là con người thì buộc phải sống ở 1 mảnh đất nào đấy …văn hoá Giao chỉ phải sinh ra và đứng chân trên đất Giao chỉ không thể hoá ra chim mà bay lên trời …nên cho dù có là khái niệm văn hóa thì cũng không thể hoá giải vấn đề khoảng cách vạn dặm giữa Trung quốc và Giao chỉ …vô lý vẫn hoàn vô lý .

Xưa đến nay người ta vẫn cố tình nhập nhèm Giao chỉ và Nam Giao là một , thực ra đấy là 2 vùng đất khác nhau , Giao chỉ là đất chính giữa hay trung tâm còn Nam Giao hay ‘Nam Giao …chỉ’ là miền đất ở phía nam đất Trung tâm , chỉ khi rạch ròi như thế mới có thể nhận ra ý nghĩa thực của những dòng đầu sách Đại Việt sử ký toàn thư ; đế Nghiêu đang ở đất Giao chỉ tức đất trung tâm sai Hy Thúc đi về hướng Nam để định đất Nam Giao tức vùng đất ở về phía Nam Giao …chỉ và dĩ nhiên đấy là 2 miền đất liền kề .

Chính từ thông tin … lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây – Nam …đã cho ra đời quốc hiệu đầu tiên của người Việt: nước Xích – Qủy .

Đại Việt sử ký toàn thư...những dòng đầu . - dòng HÙNG - VIỆT

Posted Image

Xích màu đỏ chỉ hướng Xích đạo , Dịch học gọi là phương Bắc – Bức nay lộn ngược thành phương Nam – Nước .

Qủy là biến âm của Cửu số 9 chỉ phương Tây theo Dịch học .

Kinh Dịch có câu :

Cao tông phạt Qủy phương , tam niên nãi khắc chi , qủy phương nghĩa là nước ở về phía tây lãnh thổ nhà Thương Ân .

Xét như thế thì chỉ có quốc hiệu : Xích – Cửu nghĩa là nước ở về phía Tây – Nam thiên hạ như đã chép trong Đại Việt sử ký toàn thư , không hề có nước Xích qủy hay Qủy đỏ nghe đến rợn người , trò cố ý sai này đã thể hiện bản chất đểu cáng của đám sử ‘gia hỏi giả’ chuyên viết sử bằng bút lông đuôi ngựa …, chính cái nước ‘qủy đỏ’ này …khiến người ta phải cảnh giác trước mọi thông tin lịch sử …made in China .

Tư liệu lịch sử hiện có đã chỉ ra 1 cách rõ ràng đích xác không cần bàn cãi nữa : Giao chỉ là đất Bắc Trung và Bắc Việt ngày nay , vậy… không lẽ Nam Giao là đất Chiêm thành ?, sự việc chỉ có thể lý giải theo như Sử thuyết Hùng Việt là trục Bắc – Nam nay đã bị lộn ngược ; Nam Giao chính là vùng Quảng Tây và đông Vân nam ngày nay , vùng đất này trước đây gọi là đất ‘Lâm’ biến âm của Lam – Nam .

Đoạn … Từ đời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị , tên Việt bắt đầu có từ đấy. ..Mốc thời gian này hoàn toàn khác với sử thuyết Hùng Việt ; đời Hùng vương thứ 8 là Hùng Việt vương – Tuấn lang tức thánh Tản viên cũng là Đại Vũ tổ nhà Hạ như thế từ Việt nghĩa là vượt lên đã có từ hơn 2000 năm trước công nguyên lúc vượt nước lũ do Thủy tinh làm ra chứ không phải đến khoảng 1000 năm trước năm số o như chép trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô sĩ Liên .

Độ dày thời gian rất quan trọng đối với 1 dân tộc trong khía cạnh văn hóa – văn minh khi so sánh với những nền văn minh khác trên qủa đất , nhân loại dù muốn hay không cũng sẽ tiến đến nền văn minh toàn cầu , dựa trên nền gía trị phổ quát bộ máy chọn lọc tự nhiên sẽ tuyển chọn và giữ lại những gì ưu việt , mà tiêu chí quan trọng hàng đầu lượng giá tính ưu việt là sự trường tồn trong dòng thời gian …, với hơn 4000 năm thử thách rất có thể nền văn minh Việt dựa trên nền tảng Dịch học sẽ là cốt lõi của nền văn minh toàn cầu sau này .

Đọc những dòng chữ đầu trong Đại Việt sử ký toàn thư không thể hiểu khác là cụ Ngô sĩ Liên quan niệm phần đất Giao chỉ và dân tộc sống trên đất Giao chỉ đã khai mở lịch sử từ thời Hoàng đế hay đế Hoàng , nói khác đi tiền nhân người Việt Nam cũng nằm chung trong dòng chảy lịch sử …dựng muôn nước của Hoàng đế thủy tổ Trung hoa , với truyền thuyết …đế Minh cháu 3 đời của Thần nông Viêm đế thì không thể nghĩ khác được ….người Việt cũng là ‘Viêm – Hoàng tử tôn’ y như người Trung hoa .

Xét bề ngoài thì ‘sử quan’ của Sử thuyết Hùng Việt cũng y như thế nhưng trong bề sâu thì khác hoàn toàn ….

Giao chỉ là vùng Chính giữa thiên hạ chứ không phải ở về phía Tây – Nam tức Giao chỉ chính là đất khởi nguyên của dòng giống Trung hoa mà ngày sửa ngày xưa gọi là người họ Hùng sau này có thời gọi là Bách Việt .

Hoàng đế nghĩa là vua vùng trung tâm màu vàng chính là đế Minh cháu 3 đời của tổ phụ Viêm đế Thần nông trong truyền thuyết lịch sử Việt . Trung hoa là đất nước của tiền nhân cả người Hoa và người Việt ngày nay , Hán ký âm của Hãn là danh xưng của tộc người đã chiếm đóng và soán đoạt lịch sử cũng như văn minh Trung hoa , có thể khẳng định Trung hoa của Hoàng đế không phải là quốc gia tiền thân của Trung quốc ngày nay , Trung quốc là đất nước của tộc người gốc gác ở phía bắc Hoàng hà như chính lịch sử Hán quốc hiện nay viết không liên quan gì đến đất Giao chỉ và việc Hoàng đế dựng muôn nước trong cổ sử ….

CHÍNH XÁC - GIAO CHỈ LÀ TRUNG TÂM CHÍNH LÀ BẮC BỘ VIỆT NAM, ĐIỂM GIAO CHÍNH LÀ THĂNG LONG THÀNH.

GIAO CHỈ TƯƠNG ỨNG XÍCH QUỶ = CON MẮT

DO NHẦM TÂY NAM - PHƯƠNG TỐN THỰC RA LÀ PHƯƠNG KHÔN - CHÍNH LÀ GIAO CHỈ VẬY. NÊN HIỂU CHÍNH XÁC LÀ GIAO TRỤC CÀN KHÔN VÀ NAM BẮC.

NAM GIAO: CẦN XÉT TỔNG THỂ Ý NGHĨA VIỆC VUA NGHIÊU GIAO "HY HÒA" TỚI NAM GIAO LÀM GÌ? ĐO BÓNG MẶT TRỜI TƯƠNG ỨNG ĐI TỚI ĐÔNG, TÂY, BẮC - SUY RA TỚI VÙNG ĐẤT PHÍA NAM XA NHẤT CỦA QUỐC GIA NHẰM QUAN TRẮC THIÊN VĂN ĐỂ THẤY SỰ THAY ĐỔI LỚN NHẤT TỪ KINH ĐÔ TỚI CÁC VÙNG ĐẤT BIÊN GIỚI - VẬY THÌ NAM GIAO CHÍNH LÀ VÙNG KINH CHÂU VÀ KINH DƯƠNG PHÍA NAM SÔNG DƯƠNG TỬ CHỨ KHÔNG PHẢI VĂN LANG.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tư liệu lịch sử hiện có đã chỉ ra 1 cách rõ ràng đích xác không cần bàn cãi nữa : Giao chỉ là đất Bắc Trung và Bắc Việt ngày nay , vậy… không lẽ Nam Giao là đất Chiêm thành ?, sự việc chỉ có thể lý giải theo như Sử thuyết Hùng Việt là trục Bắc – Nam nay đã bị lộn ngược ; Nam Giao chính là vùng Quảng Tây và đông Vân nam ngày nay , vùng đất này trước đây gọi là đất ‘Lâm’ biến âm của Lam – Nam .

Đoạn … Từ đời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị , tên Việt bắt đầu có từ đấy. ..Mốc thời gian này hoàn toàn khác với sử thuyết Hùng Việt ; đời Hùng vương thứ 8 là Hùng Việt vương – Tuấn lang tức thánh Tản viên cũng là Đại Vũ tổ nhà Hạ như thế từ Việt nghĩa là vượt lên đã có từ hơn 2000 năm trước công nguyên lúc vượt nước lũ do Thủy tinh làm ra chứ không phải đến khoảng 1000 năm trước năm số o như chép trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô sĩ Liên .


Ý nghĩa "Việt Thượng Thị" nhằm định vị trung tâm phát ra văn minh trống đồng, tuy nhiên trống đồng Đông Sơn chưa chắc đã có thời Chu Thành Vương? cần kiểm tra C14. Điều này hàm nghĩa điểm xác định bán kính ảnh hưởng của văn hóa Việt --->>> nhằm làm rõ chHỒ TÔN. Văn Lang phía Nam giáp Hồ Tôn - không phải là Chiêm Thành mà chính là Tây Trúc - Ấn Đ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

âu lạc – nam việt - giao chỉ Posted Image Posted Image Posted Image Theo sự nghiên cứu tỉ mỉ của giáo sư Trần Kinh Hòa (đăng trong tạp chí Đại học Huế trong 2 số 15, 16 năm 1960) thì Tây Âu là quốc danh, còn Tây Âu Lạc chỉ dân Lạc ở nước Tây Âu.

Vậy vị trí nước Âu Lạc ở đâu? Hai ông Maspéro và Aurousseau thì cho là Tonkin Annam. Trái lại ông Camille Sainson dịch giả An Nam Chí lược của Lê Tắc thì cho là thuộc địa phận tỉnh Giang Tây. Lại có người cho là Chiết Giang. Giáo sư người Nhật Nobuhiro bác đi và cho là phải ở trên Bắc nữa, nhưng không nói ở đâu. Giáo sư Trần Kinh Hòa dẫn lời Quách Phác trong Sơn Hải Kinh cho rằng “Mân Việt tức Tây Âu nay thuộc huyện Kiến An” (Hòa184). Ngần ấy ý kiến nên theo ý nào? Các học giả đều bác bỏ nhau để nhận một. Theo tôi thì tất cả các học giả đã bỏ xót một yếu tố quan trọng là sự kiện người Việt Nam liên miên phải di cư từ Bắc xuống Nam trứơc sức xâm lăng của Bắc phương. Đây là một sự kiện lớn lao nhất kéo dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Vậy mà lại không được các học giả chú ý cân xứng. Sở dĩ như vậy vì nó đã xảy ra lâu đời trước vào thời khuyết sử, nên không ghi lại nhiều sử kiện. Tuy nhiên nó vẫn còn tái diễn phần nào trong thời có sử, vì thế chúng ta có thể coi là các ý kiến trên kia đều chấp nhận được cả miễn là biết đặt vào giai đoạn khác nhau. Ý kiến đặt Âu Lạc ở Trung Bắc Việt đúng vào lúc cuối cùng tức chung quanh đời Tần Hán dăm ba thế kỷ. Ý kiến cho là ở Chiết Giang hay Giang Tây cũng đúng nhưng phải đặt lùi về trước ít ngàn năm. Và sau cùng đến ý kiến của sách Sơn Hải Kinh cho là ở miền Kiến An cũng lại đúng miễn phải ngược lên nữa để tìm ra gốc tích cái tên Lạc có lẽ không phải Kiến An ở tỉnh Phúc Kiến bên dưới Chiết Giang, mà có lẻ là tên xưa đã thất lạc để chỉ một miền có liên hệ đến sông Lạc mà tiên tổ xưa đã ở. Vì sông Lạc cũng dài lắm theo Địa Hán chí là 1970 dặm (Legge III.140) nên rất có thể một số cha ông ta đã có mặt ở một miền nào đó trên bờ sông Lạc và vì thế ta phải lên đến bờ sông này mới tìm ra nơi cư trú đầu tiên và lúc ấy ta có đủ lý do để suy đoán ra rằng mỗi khi tiên tổ Việt tộc phải di cư thì quảy luôn cả tên cũ đi để đặt cho những miền đất mới định cư, y như các trại Bùi Chu Phát Diệm di cư cả tên vào Nam vậy. Khắp nước ta thiếu gì những tên trùng hợp với tên cũ bên Tàu như Hà Nội, Hà Nam, Sơn Tây, Kiến An, Gia Định là do tâm lý đó cho nên danh hiệu có một mà địa vực lại nhiều nơi. Bởi đó với triết lý việc định vị trí khu vực Lạc Việt, Âu Lạc không quan trọng cho bằng quy định nội dung của chính cái tên. Thế mà xét về nội dung thì hai chữ Âu Lạc đều đầy ý nghĩa. Sách “Toàn Thư ngoại kỷ” quyển I chép rằng: vua Lạc Long Quân cưới con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ sinh ra trăm con, ấy là thuỷ tổ giống Bách Việt. Giáo sư Hòa (tr.142) cho hai âm Âu trong Âu Cơ và Âu trong Âu Lạc, cũng như Lạc trong Lạc Long Quân và Lạc trong Âu Lạc, hoàn toàn giống nhau và đối ứng nhau. Hơn thế nữa theo sách “Sử ký tập giải Hán thư văn nghĩa” rằng “Lạc tức là Việt, chữ hán” (Hòa 183). Sách “Thuỷ kinh chú” (quyển 37) dẫn Giao châu ngoại vực ký rằng “ngày xưa lúc Giao Chỉ chưa có huyện thì trên đất có Lạc điền, theo nước triều lên xuống dân khẩn cày ruộng ấy làm ăn, nhân đó gọi là Lạc dân. Lạc hầu làm chủ toàn bộ các quận huyện. Mỗi quận huyện thì phần nhiều đặt Lạc tướng (Hòa 190). Đọc đến đây ta nhận thêm ra một mối liên hệ của tiên tổ ta với nước, nên sau này hay nói đến nước như “sơn tinh thuỷ tinh” và “thần kim quy” được gọi là “Thanh Giang sứ giả” và dùng con vật sống dưới nước Giao long làm vật biểu cũng như khi phải bay lên trời còn cố dùng loại chim nước, như chim Hồng hộc trong Hồng Bàng cũng như chữ Hồng phạm viết với bộ thuỷ (xem đồ bản vẽ hìn 3 loại qua một thứ giao của giáo sư Hòa tr.153 chỉ rõ điểm này). Sở dĩ có mối liên hệ chặt chẽ vì nước đem lại ánh sáng văn minh là Lạc Thư, làm sao không dan díu với nước. Vì thế mà trong thế giới duy có Việt Nam dùng một chữ nước để chỉ cả nước sông và nước quốc, cho nên chữ Lạc ban đầu viết với bộ thuỷ như sông Y sông Lạc trong kinh Thư (thiên Vũ Cống câu 14). Về sau nhà Hán thuộc hỏa kị thuỷ mới đổ ra bộ nhai rồi sau đổi ra bộ chuy mà viết là Lạc và có lẽ vì đ1o mà sau này chữ Lạ viết khác nhau: Sử ký viết bộ mã, Lĩnh nam trích quái bộ trãi, An Nam chí lược bộ chuy. Vì thế ý kiến giáo sư Hòa cho tiếng Lạc là có ý dịch chữ Alauk cũa tiếng Chàm cũng có nghĩa là ruộng thì tôi cho là rất yếu vì nó không hợp cho đồng văn tức là thói tục thông thường của Việt Nam đã từ đầu toàn dùng chữ Nho để đặt tên sông, núi, miền và nhất là người. Cho nên nếu người xưa khi dùng chữ Lạc có nghĩ tới chữ Alauk thì cũng là một sự ngẫu nhiên không mấy quan trọng, điều được các ngài chú trọng hơn cả khi đặt tên nước là Âu Lạc là cốt để kỷ niệm chốn chôn nhau cắt rốn của Lạc Long Quân một ông vua nếu không cai trị Lạc Aáp, Lạc Dương, Lạc Nam… thì cũng có liên hệ nào đó đối với con sông Lạc là sông gắn liền với Lạc Thư tức một nền minh triết có nền tảng mẹ như đã nói trên về Âu Cơ.

NAM VIỆT

Bây giờ chúng ta bàn đến danh hiệu Nam Việt có từ đời Triệu Đà. Hai chữ này có thể chỉ những người có lý tưởng siêu việt nhất ở phương Nam, muốn đại diện cho đoàn người Bách Việt đông đảo ở khắp nơi trên nước Tàu. Chữ Nam cũng còn cần đựơc hiểu theo cung ngũ hành, chỉ phương Nam đối với phương Bắc, nên là miền sáng láng, chỉ văn minh. Như vậy tuy danh hiệu khác, nhưng vẫn nói lên một điểm y như chữ Xích Quỷ là chủ phương nam thuộc hỏa màu đỏ, thì Nam Việt cũng là cái gì siêu Việt nhất ở vùng Nam, con cháu của những người có liên hệ tới lửa: Viêm Đế, Đế Minh, Trùng Lê… Thực ra nếu xét kỹ thì Việt Nam chỉ là miền đất ở phía Nam Việt Giang, nhưng phải xét lên cao hơn nữa lúc tổ tiên đặt tên sông là Việt, thì tiền nhân không thể không gói thêm vào đó ý nghĩa siêu lên kiểu chữ Nam đi với chữ Hạ (chư hạ) cũng như những tên Kinh Dương Vương, Hoa Hạ, vì Dương với mùa Hạ và miền Nam là một, tất cả đều chỉ lửa đỏ, sáng. Bởi thế nói được rằng chữ Việt Nam cũng chỉ là một cách canh tân lại ý chí làm tròn sứ mệnh là bảo toàn và phát huy nền văn hóa nông nghiệp gắn liền với lửa (Viêm Đế, Thái Hạo, Đế Minh…)

(1) Chữ Việt xưa viết với bộ Mễ, nay quen viết với bộ Tẩu. Có ý kiến cho là do ngườiTàu viết đổi đi để ngụ ý chửi Việt Nam như con chó chạy. Đó là một ý kiến không có bằng chứng nào khác ngoài việc tán tự, tức là loại lý chứng rất bấp bênh. Tôi không tin là các cụ xưa lại khờ đến nối chấp nhận sự thóa mạ đó.

GIAO CHỈ

Bây giờ bàn đến tiếng Giao Chỉ, có phải giao là miền của Giao long (cá sấu) còn chỉ là miền đất những người có hai ngón chân cái xoè ngang, hay chỉ là miền ở chân núi. Con Giao có nghĩa như Nam giao trong đầu kinh Thư? Chúng ta có thể thưa rằng giải nghĩa chữ “Giao chỉ” theo nghĩa ngón chân giao nhau là lối giải quá duy vật nên không đúng. Trước hết khoa giải phẫu chứng minh là không có giống người hai ngón chân đâm ngang (tên khoa học là Hallux varux). Tuy nhiên ở những vùng chưa văn minh quen đi chân không cũng có một số ngón chân cái hơi giẽ ra nhưng đó là tật chung ở khắp nơi trên thế giới kể cả Âu Châu. Vậy không thể căn cứ theo đó, nhất là nó không hợp đồng văn của nền văn hóa tâm linh Việt Nho rất coi trọng việc đặt tên, không thể lấy cái tật ở một số người mà đặt tên cho cả một nước. Vì thế thuyết này không còn thể đứng vững như giáo sư Hòa đã bác đi sau những nghiên cứu tỉ mỉ về hết mọi phương diện, nên tôi xin miễn nói tới và chỉ xin trưng lại lẽ chính của giáo sư là các sách cổ nhất khi nói đến tên Giao Chỉ như sách Phong Tục Thông, sách Thượng Thư, sách Sơn Hải Kinh, Bác Vật Chí, Hậu Hán Thư… đều không có nói đến ngón chân xoè ra, chỉ mãi 6, 7 trăm năm sau mới có những học giả nhân vì chữ Giao chỉ mới cho tên là do đó… Sở dĩ tôi trưng lại lẽ này của Giáo sư Hòa vì cho đây là lẽ mạnh nhất, mạnh đến nỗi có dư sức chống luôn cả ý kiến của chính giáo sư muốn cắt nghĩa Giao Chỉ là miền có những “cá sấu” gọi là Giao long, và vì thế giáo sư phải thêm vào chữ Giao bộ trùng và chữ chỉ bộ túc để việt là (chữ hán) thay vì (chữ hán). Tôi cho sự thêm thắt này là do quan niệm duy vật hay là vẽ rắn thêm chân nảy sinh về sau không ăn nhằm chi tới quan niệm tâm linh sử quan bên ta, nơi mà ý niệm đó được biểu dương cách cực kỳ long trọng bằng lễ Nam Giao, một lễ đầu não nhất, nên cũng biểu lộ óc tâm linh hơn bất cứ lễnào, và vì thế mọi người suy tư phải lấy nó làm sợi dây ghi đường trong việc quy định nội dung hai chữ Nam Giao và Giao Chỉ, nếu không thì có đưa ra bao suy luận dựa trên thổ tục học, lịch sử học, ngôn ngữ học… cũng không giúp cho khỏi lạc lối vào vòng nguỵ biện để chạy theo những cái chân của rắn thêm vào sau. Vì thế chúng ta cần phải trở lại nguồn đi về thực xa, và ở đấy chúng ta nhận ra rằng những bản khắc xưa nhất lại chỉ viết có (chữ hán) không có chân hay sâu chi cả. Nguyễn Nguyên nói trong sách xưa đều chép Giao Chỉ (chữ hán) cũng có chỗ chép (chữ hán)… Riêng tôi cho rằng bộ phu này báo hiệu một sự sa đọa to lớn được ghi dấu bằng cả một chữ như thổ, châu, bộ, di… vì từ đời Hán về sau người ta bỏ chữ chỉ và thay vào bằng những chữ khác như Giao Châu, Giao Thổ, Giao Bộ, Giao Binh, Giao Di… (Hòa 216). Còn gì tỏ lộ sự đi sâu vào sa đọa rõ bằng đầu hết là chữ… có nghĩa triết lý là ở như chữ cư trong kinh Thi trưng lại ở Đại học “chỉ ư chí thiện” hoặc cái cùng cực cái chí thiện như câu “khâm quyết chỉ” kinh Thự. Thái giáp thượng, câu 7 = hãy kính cẩn định lấy cái cứu cánh cùng tột. Sau đó thì trụt xuống nghĩa địa dư như giao châu, giao thổ; sau cùng trụt xuống một bậc nữa đến nghĩa chính trị và hành chánh để trở nên giao bộ, giao binh, giao di. Đợt sa đọa thứ ba này thì rõ rệt thuộc chính trị, có óc xâm lăng, nhiều khi điểm chút kỳ thị như biểu lộ trong chữ di (Giao Di) và tự đấy học giả chỉ căn cứ vào những chữ viết sau này mà suy luận thêm ra: tự… đến… rồi sau vẽ rắn thêm chân, viết với bộ túc là… và lúc ấy phải thêm bộ trùng vào chữ giao cho ra… để chỉ miền của Giao Long (dấu… là chữ hán). Ta có thể nói hầu hết trên thế giới đâu cũng có cá sấu nhưng chỉ có ở Việt Nam mới có thuyết lấy tên cá sâu làm địa danh chỉ vì nó có tên là giao. Sự việc xảy ra y hệt với chữ chỉ để trỏ ngón chân tréo ngang vậy. Tại sao giáo sư Hòa đã bác được thuyết ngón chân giao nhau mà lại rơi vào thuyết giao long? Vì sự thực cả hai thuyết đều thuộc “duy vật sử quan”. Là vì đã không chú ý đến toàn thể là bầu khí tâm linh sử quan.

Vậy để theo được tâm linh chúng ta phải ngược dòng về tận ngọn nguồn, và lúc ấy sẽ gặp những ý nghĩa cao hơn như sau.

Theo sách “Thuyết văn” thì chữ chỉ là nên dưới vì tượng cây cỏ mọc có nền, cho nên lấy làm chân. Chính ý nghĩa này đem đến cho chữ chỉ bộ túc và ý nghĩa lớn nhất của túc làmiền chân núi, và đó là ý nghĩa được nhiều học giả quy cho Giao Chỉ như Tư Mã Thiê (S.M.T I.38). Ta có thể chấp nhận ý này nhưng cần được bổ sung như sau. Khi người Tàu xem xuống mạn Nam thì bên tay mặt phía Tây Bắc là rặng núi Côn Lôn, rồi đổ xuống Nam là dãy Tần Lĩnh, có thể được coi như Côn Lôn hay Hy Mã Lạp Sơn nối dài, mà vì thế có thuyết gọi là Nam Lĩnh. Nhưng chính ra Nam Lĩnh nằm về phía Đông khởi đầu ở những tỉnh An Huy, Chiết Giang và Giang Tây và mang tên là Tiên Hà Sơn Mạch… Khi đến quãng hai tỉnh Giang Tây và Phúc Kiến thì gọi là Vũ Di Sơn, và ở vào khoảng Hồ Nam Quảng Đông và Quảng Tây thì gọi là Ngũ Lĩnh Sơn Mạch, vào đến tỉnh Quý Châu thì gọi là Miêu Lĩnh… Nhưng tên gọi chung tất cả dãy núi là Nam Lĩnh để có thể coi như đối với Tây Lĩnh khởi đầu từ núi Côn Lôn với Tần Lĩnh rồi bắt đầu xoải đầu xuống theo triền sông Cửu Long phía Nam và Dương Tử Giang phía Đông, để dừng lại gặp dãy Lĩnh Nam ở vùng Quảng Tây và Bắc Việt… Rặng núi phía Tây này có Ngũ Khê, mà ta chỉ nên hiểu cách co giãn vì có khi cũng kêu là Tam Hạp (Văn Hiến .18) để đối với Ngũ Lĩnh phía Đông. Sự đối đáp nay được thấy trong Sơn Hải Kinh với 12 ngọn núi chia ra Bắc 3, Nam 3, Đông 4, Tây 4, và nó cũng chỉ là sự quảng diễn theo khung ngũ hành “ngũ nhạc” đã nói ở trên. Những lối đặt tên tiên thiên kiểu này nhiều khi phải gọt thực tế cho ăn vớinhau, chứ không hẳn cần có 5 khê, 5 lĩnh, nhưng có thể hơn hay kém, cũng y như Cửu Long thì Cửu không cần là 9 vậy. Đó là đại để ý thứ hai của chỉ là chân, nhưng ý này chỉ hiểu đúng được khi biết quy chiếu vào ý thứ nhất là nền tảng. Và đấy mới là then chốt. Vậy ý then chốt này sẽ được ghi lại trong cuốn sách có lâu đời nhất đến nỗi gọi là Thượng Thư hiểu là Thượng Cổ, đó là kinh Thư ngay phần mở đầu gọi là Nam giao đối với Bắc phương gọi là Sóc phương, đó là một sự đối đáp tiên thiên và cao trọng nhất trong nền văn hóa Việt Nho không nên tách ra khỏi cơ cấu đó để đi tìm ý nghĩa bên ngoài. Giáo sư Hòa đã đặt được phương trình Giao Chỉ là Nam Giao mà không chú ý đủ lại đi tìm nghĩa giao ở cá sấu. Ta cần thìm nghĩa giao ngay nơi nó. Nếu đem ánh sáng Kinh Dịch dọi vào mà nhìn thì ta sẽ thấy ý đó nổi bật lên. Ai cũng biết ngày sóc là mồng một, nên sóc cũng có nghĩa là khởi đầu, là phương Bắc, còn giao là giao hợp, giao hòa… là trọn vẹn thì ở phương nam. Sự xếp đặt này được nói rõ lên trong câu “số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch” (thuyết quái “số đã đi qua thì theo chiều thuận, còn để biết việc tương lai thì theo chiều nghịch”. Chiều nghịch cũng như chữ Văn đi theo tay trái, nơi có trái tim, để chỉ tâm linh và cũng chỉ đàn bà vì giàu tình cảm và có tài trực thị là thấy thẳng, một đức tính cần cho được biết tương lai mà kinh Dịch cũng gọi là tượng “tại thiên thành tượng” và chỉ thị tượng bằng các số sinh 1, 2, 3, 4. Ngược lại là chiều thuận cũng như chữ Vạn đi theo kim đồng hồ tức theo tay mặt và chỉ đất “tại địa thành hình” và quy cho đàn ông chạy vòng ngoài, được kinh Dịch chỉ thị bằng các số thành (tức đã thành hình) là 5, 6, 7, 8. Bây giờ ta sắp đặt hai rẫy số trên theo câu kinh Dịch là “số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch” thì ta sẽ thấy 2 số là 1-5 khởi đầu ở phương Bắc, còn 2 số 4, 8 giao nhau ở phương Nam.

Sự giao nhau này được tượng ý bằng chữ nghệ hình 2 và từ chữ nghệ vươn lên chữ Vănhình số 3. Từ chữ Văn lên chữ Giao hình số 4. Tất cả được minh họa bằng hình Phục Hy Nữ Oa hình 5. Ta lại biết rằng tiên thiên bát quái Phục Hy xếp theo thứ tự Kiền 1, Đoài 2, Li 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8, và theo thứ tự ta xếp lại như hình trên thì cũng sẽ có hai quẻ khởi đầu kiền tốn ở phương Bắc hai quẻ chấn khôn giao hội ở phương Nam… Còn nếu xếp theo hậu thiên bát quái thì hai quẻ giao nhau lại là Cấn Khảm = sơn thuỷ là hai biểu tượng quen đi đôi. Và rất có thể vì đó mà có tên giao chỉ, vì quẻ cấn có nghĩa là chỉ “Cấn chỉ dã, chữ hán” (Thuyết quái VII).

Bây giờ đến đàn ông và đàn bà xếp vào vòng đó. Xếp cho ông bên nào? Nếu bảo “nam tả nữ hữu” là theo Hán Nho chứ Việt Nho thì sẽ nói “nữ chiêu nam mục” vì chiêu cao hơn mục hay đúng hơn tế vi hơn nam vì “tại thiên mới thành có tượng” còn nam vì “tại địa thành hình” và như vậy thì phải xếp Nữ Oa bên chiêu với cái quy tròn. Phục Hy bên mục với cái củ vuông và ta sẽ có hình haiông bà đầu quay hướng Bắc còn “đuôi” hai vị giao hội ở phương Nam. Sau ba chứng liệu trên bây giờ chúng ta sẽ nhận ra thế nào là Giao Chỉ. Giao Chỉ là sự giao hội của hai cực cũng gọi là “thiên địa chi đức, âm dương chi tú khí, quỷ thần chi hội” quỷ thần ẩn ẩn hiện hiện: không thể gọi tên. Có thể vì đó mà kinh Thư chỉ nói đơn sơ là Nam Giao mà không nói “viết Giao Chỉ”, vì đây cũng là chỗ cùng cực của yêu thương, của “tình thâm nhi văn minh” theo nghĩa cao cả của văn là trời đất giao hội sinh ra nền văn minh tâm linh cũng gọi là Đạo, vì “Đạo là chỗ chí cực của vật” (đạo = vật chí cực) nên cũng bất khả ngôn, vì “hễ đã ngôn thì không còn là Đạo Thường”, nên không thể gọi tên và vì thế chỉ cón có tế lễ Nam Giao mới biểu lộ được phần nào ý nghĩa cao siêu ấy. Vậy khi tiền nhân ta đặt tên cho nước là Giao Chỉ thì không có lý do gì lại không nghĩ tới lễ Nam Giao được thực thi trọng thể mỗi năm mỗi lần: cũng như được ghi lại ngay đầu kinh Thư. Cho nên đặt danh hiệu Giao Chỉ cho nước là nói đến sứ mạng cao cả của những người sống trong nước ấy vậy.

Chúng ta biết rằng giữa danh hiệu với vật tổ có mối liên hệ tâm linh nghĩa là đã thiết lập theo một cơ cấu lý tưởng, nương theo ý tưởng đó mà xét các tên nước ta trong dĩ vãng chúng ta nhận thấy hai điểm đáng ghi chú: trước hết là các tên nước Việt Nam gắn liền với điểu và thú. Vì ý tưởng là muốn có hai đức tính. Điểu sau là hai đức tính đó được đặt ngang nhau trong thế hòa hợp: điểu thú đi đôi, cũng như núi sông gặp gỡ (ngũ lĩnh giao thoa với ngũ khê, để cho “văn chất bân bân”: chất gia đi với văn gia làm nên Văn Lang (Socio 27). Rõ rệt là hai nét đặc trưng của Kinh Dịch là Âm Dương lưỡng nghi và hòa hợp Giao Chỉ làm nên Đạo: “nhất điểu nhất thú… nhất âm nhất dương chi vị đạo”, cả hai được đúc kết lại khăng khít ít ra trong dự tính khi tiền nhân đặt danh hiệu cho nước. Hai đức tính là Nam Bắc, là Bố Cái, là Hiếu Trung, là làng nước… Hễ chú trọng đến một vế đơn thuần là chưa hiểu được nền văn hóa dân tộc luôn luôn lưỡng diện, lưỡng tính. Đấy là đạo lý đã được ghi vào những danh hiệu đầu tiên là Xích Quỷ, một danh hiệu đánh dấu sự chuyển hướng từ Hà Vu tới Hà Lạc. Rồi nội dung đó được trao sang danh hiệu Văn Lang, một danh hiệu nói lên đúng nhất sứ mạng của Việt Nam là một nền “văn hiến chi bang” , cho nên không lạ chi đó là một danh hiệu quan trọng nhất được giữ lâu nhất tức hơn 26 thế kỷ.

Các danh hiệu về sau cũng chỉ là lắp lại kiểu khác cái ý hướng của hai danh hiệu trên kia, không quan trọng lắm nên cũng chỉ giữ được một quãng ngắn: Âu Lạc độ 10 năm. Nam Việt được non trăm năm. Tất cả đều thua Văn Lang, vì chữ Văn nói lên rõ nhất sự đúc kết này. Bởi vậy danh hiệu Văn Lang đáng chú trọng hơn cả để chỉ một nước đã vượt qua được 2 đợt vu hiến và ý kiến mà đạt đợt văn hiến để lập nên một nền “văn hiến chi bang” với sứ mạng duy trì mãi mãi cái hồn của Viêm tộc, của Tam Miêu, của Bách Việt, của Lạc Việt, của Đông Việt. Đứng về phương diện Viêm tộc thì không cứ gì người Việt nhưng là cả Thái Lan, Ai Lao, Đại Hàn… cũng là một gốc Viêm tộc, cùng một nền văn minh nông nghiệp; tuy nhiên xét về danh hiệu thì danh hiệu nước Việt Nam là có tính cách thừa kế một di sản thiêng liêng của cả một dân tộc lớn đã sinh sống ở Viễn Đông trước đây trên 5, 6 ngàn năm, rồi sau rút về vùng Nam Dương tử giang trở xuống, và cuối cùng thu mình lại trong mảnh đất Việt Nam hiện nay. Cho nên nếu lấy về danh hiệu thì dân Việt Nam có liên hệ với Viêm tộc như họ máu hàng dọc có nhiệm vụ phải duy trì cái sứ mạng thiêng liêng đó: một nền văn hóa nông nghiệp duy nhất còn sót lại trước sự tràn lấn của các ý hệ phát xuất từ nền móng công thương. Liệu Việt Nam có còn đủ sức thi hành nổi sứ điệp gói ghém trong các danh hiệu của nước nhà chăng?

KHÔNG THẤY KẾT LUẬN RÕ RÀNG LẮM:

- Âu Lạc: cũng là Văn Lang mà thôi (không kể vùng đất bị mất thời Ân Thương.

- Nam Việt: cũng thế, tuy nhiên ban đầu chỉ là 3 quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng (gồm một phần Đông và Tây Âu - bởi nếu là Việt Nam thì sao lấy được?). Sau thống nhất toàn bộ vẫn chính là Âu Lạc. Mục đích Triệu Đà tấn cộng Trường Sa nhằm lấy đất bàn đạp vùng Bắc Ngũ Lĩnh chứ không phải "đánh rồi rút về".

Giao chỉ: đã giải thích - chính là + tương ứng con số 10 (kết thúc chu kỳ hay sự trở lại): Bức tranh Phục Hy Nữ Oa chỉ ra ý nghĩa Giao chỉ: thước eke và compas.

Việt Thường: Thường mang ý nghĩa "quy luật vận động phản phục" hay sự trở lại. Việt Thường là điểm trung tâm văn hóa phán tán ra thế giới và sẽ tuân quy luật vận động mà "trở về", nên Việt Thường mang ý nghĩa "Sự trở lại của người Việt".

Nam Giao: đàn Nam Giao

Đàn Nam Giao triều Nguyễn (tiếng Anh : The altar of Nam-Giao, tiếng Trung : 阮朝南郊壇) là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm, thuộc địa phận phường Trường An, thành phố Huế. Đây là đàn Nam Giao duy nhất còn hiện hữu (dù trong tình trạng không còn nguyên vẹn) ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất còn tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế.

Lễ tế Nam Giao là nghi lễ quan trọng bậc nhất dưới chế độ quân chủ vì chỉ nhà vua mới có quyền làm lễ tế Giao, tức là tế Trời Đất, nhằm khẳng định tính chính thống của triều đại, uy quyền của Hoàng đế tuân theo mệnh trời mà cai trị dân chúng. Do vậy, hầu như các triều đại phong kiến Việt Nam đều tổ chức lễ tế Giao và cho xây dựng đàn Nam Giao. Cũng với mục đích đó, đàn Nam Giao đã được nhà Nguyễn khởi công xây dựng vào ngày 25 tháng 3 năm 1806. Sau khi hoàn thành, vua Gia Long lần đầu tiên tổ chức lễ tế Giao tại đây vào ngày 27 tháng 3 năm 1807.

Như vậy, vua Nghiêu sai Hy Hoa đến Nam Giao... quan trắc Thiên Văn (sách của người Việt kể tích xưa), và Nam giao nhận định châu Kinh, Dương của Trung Hoa sẽ cùng ý nghỉa đàn Nam Giao của Việt Nam thì:

Một lần nữa làm rõ chữ Giao Chỉ và cũng có thể hiểu Nam Giao chính là giao của Xích Vĩ.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đông Lan

AN VI và Tranh Thập Mục Ngưu Đồ

Với Thiền, tu thì Tiệm, mà chứng thì Đốn. Nghĩa là, sự tu tập thiền vẫn cần đặt ra trong chiều thời gian mà đi đến từ từ, nhưng chứng là một biến cố ngoài thời gian. Thập Mục Ngưu Đồ ( mười bức tranh chăn trâu) của Thiền Tông cũng ghi lại bước tiến từng thứ bậc ấy.

Bước tiến ấy theo ba đoạn đường: Hữu Vi- Sai Tâm bắt Tâm; Vô Vi- Tâm Vô Tâm; An Vi- Bình Thường Tâm.

Mời bạn, tạm dừng bước, ghé bến thời gian, tịnh tâm chiêm ngắm 10 bức tranh của hành trình Tâm Thức An Vi…

1- Hữu Vi : Sai Tâm bắt Tâm (tranh 1,2,3,4,5, và 6)

Chú mục đồng đi tìm trâu, đâu cũng là hoang vu, là rừng rậm, muôn nẻo khó tìm. Tìm ở đâu? Mơ hồ cảm thấy bóng dáng trâu, phải đi tìm (Tranh 1: Tìm Trâu); rồi chú mục đồng trong mong ước tìm được trâu, sẽ thấy được dấu vết của chân trâu, trâu có trốn đâu, “Tìm sẽ gặp” (Tranh 2: Thấy dấu). Trâu vẫn đứng đó một mình, tự thưở nào, đôi sừng lẫm liệt, mũi dựng mây xanh, thế là chú mục đồng đã lần theo dấu chân trâu mà thấy được trâu ( tranh 3: Thấy trâu) rồi nắm chắc sợi dây nối để giữ trâu sau khi đã được, không dám xa lìa, sợ mất trâu, (tranh 4: Được trâu); Trâu cũng thuần hoá dễ dàng, chú mục đồng giờ yên chí hơn với con trâu ngoan ngoãn, tay dắt trâu lòng nhẹ bước (tranh 5: Dắt trâu) . Chú mục đồng giờ đây vui mừng, ca hát líu lo, miệng thổi sáo, cỡi trâu về nhà (tranh 6: Cỡi trâu về nhà).

Cỡi trâu về nhà là cỡi Tâm về chốn ban sơ.

Một lúc nào đó, do những cơ duyên nào đó của đời, lòng ta bỗng dấy lên những thao thức băn khoăn. Hình như niềm vui trần thế không còn làm ta vui trọn vẹn, hình như cảnh đời có phần giả tạm, phồn hoa. Ta muốn tìm một Lẽ gì Thật hơn, ta muốn tìm niềm Bình An không thể bị hư hao vì đời trần thế… Dấu chân trâu là những dấu tích của Chân Lý mà ta ngưỡng vọng cầu tìm. Tìm sẽ gặp. Những dấu đó trong kinh, trong sách, trong những phút vắng lặng, tâm hồn trống trải, trí óc nhẹ nhàng… Ta phăng dấu ấn đi tìm trâu, rồi trâu hiện ra, toàn thể, gần gũi, dễ chịu, ta sợ mất, ta dắt, ta canh, ta cột cho thật chặt, rồi ta vui quá, leo lên lưng trâu, ca hát mà cưỡi trâu về… Trâu đâu còn khó tìm, trâu đâu có xa lạ, trâu và ta đã là Một trong buổi sớm mai An Vui ấy.

Cũng như trâu, Tâm đâu ở nơi xa. Một lúc dừng chân, ghé thời gian, tìm dấu chân trâu Tính thể mới ngỡ ngàng nhận ra Ta với Tâm rất gần, rất thân, chỉ tại chưa lắng đọng nỗi đời hư huyễn, biên độ vọng động còn cao. Một phút tĩnh tâm, giao động giảm dần và tan loãng dần để Tâm Bình dàn trải: An Vui là như thế đấy, Hòa với Tâm, đi về Nhà, có Mẹ có Ta.

2- Vô Vi : Tâm Vô Tâm (tranh 7, 8)

Đạo không mâu thuẫn. Đâu lý nào Ta với Tâm khác biệt đến nỗi phải đi tìm, đến nỗi phải vui mừng kềm giữ trâu chỉ sợ mất trâu.

Tâm ở đâu mà cầu An Tâm? Đại Ngã còn phải cầu tìm để hòa nhập hay trở về cũng vẫn là cái gì cách biệt. Sự phân biệt này cũng do lý trí mà ra, nếu không dùng trí biện biệt, thì làm gì có Tâm, làm gì có tiểu và đại, làm gì có sự đi với đến hoặc trở về. Ôi thôi! Thế là tâm mà ta cứ mong mỏi cầu tìm, tâm mà ta tưởng là tâm của ta, cũng chỉ là vọng tâm của vọng tưởng, là huyễn của hư … Ta thấy bản thể Hư Tâm, là ta đã mất tâm rồi (tranh 7: Quên trâu còn người). Trong trống vắng tột cùng cõi tĩnh lặng như nhiên không một tạp niệm, ta thấy ta tinh tuyền, trong suốt, trống không, đâu còn gì ngoài Lẽ Thật nhiệm mầu của Huyền Đồng Chân Không Tuyệt Đối: ta mất ta rồi trong Tính Thể Bao Dung (trang 8: Người trâu đều quên).

Tầm ngưu tu phóng tích

Học Đạo quí Vô Tâm

Tích tại, ngưu hoàn tại

Vô Tâm đạo dị tầm.

= Tìm trâu cần phăng dấu

Học Đạo cốt Vô Tâm

Dấu đâu thì trâu đó

Vô Tâm đạo dễ tầm.

3-An Vi : Bình Thường Tâm (tranh 9, 10)

Chứng được Tâm Vô Tâm, sau ba bước Chỉ, Định, Tĩnh nếu nói theo An Vi (Xem Lý Tưởng Đại Học Việt Nho ), hoặc theo Thiền là ba cảnh giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới, đây là bước quyết định cực kỳ quan hệ: ta đi đâu giữa cuộc hư vô này? Đâu là nguồn cội? Thế còn nẻo trần gian, có tội tình gì? Đạo Lý vẫn thâm sâu quyến hút huyền diệu gọi mời. Đời sống cũng lắm vẻ yêu thương bao tình riêng chung đậm nhạt. Lòng ta vẫn còn thổn thức một chữ Tình. Tâm ta vẫn còn vang vọng tiếng hát siêu linh. Bỏ một trong hai mà đi, mâu thuẫn vẫn còn đó, nghịch lý mãi còn đây. Mà hình như, chúng là tự thân, không sao hủy diệt. Mất trâu, mất cả mình, chú mục đồng cảm thức cái hạt bụi chân không nặng như ba ngàn thế giới:

Có thì có tự mảy may,

Không thì cả thế gian này cũng không.

Nhìn xem bóng nguyệt dòng sông,

Ai hay Không Có Có Không là gì ?

(Huyền Quang Tôn giả)

Và, thế là chú mục đồng hoát nhiên đại ngộ, chứng quả An Nhiên, Tự Tại, niềm Bình An thâm sâu.

Chú mục đồng trở về với trời đất, có trời trong ta mà cũng có đất trong ta. Thế gian này trong muôn vật phân chia vọng động mà ta vẫn Bình An Thanh Tịnh, nếu không có cảnh Sắc này làm sao ta liễu ngộ cảnh Không? Ô kìa, núi vẫn là núi, mà mây cũng vẫn là mây, Tâm Hư Không mà đâu đâu không là cảnh hư không, nhìn hư huyễn trong sắc giới, thấy (kiến) Chân Như giữa đời thường, Tâm Bình An chính trong vọng động. Ôi, con đường đi của Thiền giả, bước Nghĩa Hành Trí Thức An Vi…“Vào rừng mà không khua lá, vào nước không quậy sóng”… Tu mà không biết mình tu, làm mà không thấy mình làm, trở về với trời đất để thấy Tâm ta là Tâm vũ trụ mà Tâm vũ trụ cũng là Tâm ta (tranh 9: Trở về nguồn cội). Và nữa, trở về với cuộc đời, với thế tục, trở về với cái Tâm Bình Thường, đất bụi đời không lem lấm được Tâm ta, thần linh hiển thánh trong từng nhất ý, nhất động của Ngôi Lời Nhập Thể và Nhập Thế (tranh 10: Thõng tay vào chợ), đâu đây lời Thánh Ca vang lên ngút ngàn

Posted Image

Tranh số 1: Tìm Trâu

Posted Image

Tranh số 2: Thấy Dấu

Posted Image

Tranh số 3: Thấy Trâu

Posted Image Tranh số 4: Được Trâu

Posted Image

Tranh số 5: Chăn Trâu

Posted Image

Tranh số 6: Cưỡi Trâu về nhà

Posted ImageTranh số 7: Quên Trâu còn người

Posted Image

Tranh số 8: Người Trâu đều quên

Posted ImageTranh số 9: Trở về nguồn cội

Posted ImageTranh số 10: Thõng tay vào chợ

Đông Lan

Đứng sau Thiền của Phật giáo là một "học thuyết thống nhất vũ trụ" chứ đâu chỉ lý luận được. Triết thuyết An Vi của triết gia Kim Định chỉ là một phần nhỏ trong học thuyết trên mà thôi. Làm sao "An vi được khi tương tác từ vũ trụ,... con người trong xã hội ào ạt đi tới mỗi cá nhân từng phút giây?

Nội dung Kinh Thánh của các tôn giáo (ngoại trừ Phật giáo) chỉ là những mảnh vỡ nho nhỏ thôi, những người sáng tạo ra học thuyết, nguyên tắc về vũ trụ quan, nhân sinh quan đã tan thành tro bụi cả mấy thiên niên kỷ rồi!

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Từ huyền sử đến sự thật

Trần Thị Vĩnh-Tường

Hơn 4000 năm, huyền sử lặng lẽ trôi đi dưới đôi bờ thời gian. Những nhân vật hết sức mờ ảo chỉ đến với nhân gian một lần, rồi biến mất tựa như Lưu Nguyễn quên trần hoàn.

Huyền sử là gì?

Người Hy Lạp hãnh diện về Hélène thành Troie, thương cảm cho định mệnh của giai nhân. Thế giới ngưỡng mộ Cléopatre qua khuôn mặt diễm lệ của Liz Taylor, tin chắc rằng “nếu mũi nàng chỉ ngắn một chút xíu, cả thế giới đã thay đổi.” Huyền thoại trong Cựu Ước cho Moses rẽ biển Hồng Hải, cứu dân Do Thái thoát vòng nô lệ. Như C.S Lewis (1898-1963) nhận xét “Huyền thoại là một thể loại nghệ thuật rất khác với văn học”. Dù không hội được những điều kiên của sử học, huyền sử/huyền thoại/truyền thuyết vẫn có giá trị: ghi nhận và chuyên chở một phần sự thật của quá khứ, thổi vào quá khứ ấy một linh hồn riêng của mỗi tộc người.

Đằng khác, huyền sử luôn ở một đầu đối chọi với sử học. Một đằng dựa vào cổ tích truyền miệng, văn hóa dân gian, không gian huyền ảo, siêu nhân vật thần thánh. Một đằng dựa vào những giá trị có thể kiểm chứng được: ở đâu/cái gì/tại sao/thế nào/bao giờ. Nhưng cũng theo phương pháp sử hoc, một sự kiện sai vẫn là một sụ kiện và vẫn có thể dùng như tia phản hồi giúp cho sự kiện đúng được lộ ra ngoài ánh sáng. Ví dụ: lý do người Mỹ dựng lên vụ tàu Maddox 1963 để có cớ tấn công vào vịnh Bắc Việt là một sự kiện ảo (1), nhưng hậu quả của việc này lại là một biến cố lịch sử làm thay đổi vận mệnh của cả dân tộc VN. In hệt như vụ Irak với “sự kiện ảo”: Saddam Hussein sở hữu vũ khí tàn sát tập thể. Năm 1979, Trung Quốc lấy cớ “bênh vực Hoa Kiều ở VN, để dậy cho VN một bài học” chỉ là cái vỏ bên ngoài. Nhưng trận chiến kinh hoàng gây tổn thất nhân mạng và tài sản cho cả hai bên ở biên giới Việt-Hoa, là một sự kiện lịch sử.

Vì vậy, câu hỏi “truyền thuyết Hồng Bàng có thật không” nên đổi lại “truyền thuyết có ý nghĩa gì”.

Truyền thuyết Hồng Bàng có tự khi nào?

Đại Việt sử ký, bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam, do Lê Văn Hưu (1230-1322) soạn năm 1272 không có truyền thuyết Hồng Bàng.

Lĩnh Nam Chích Quái, chuyện cổ tích và truyền thuyết.do nhiều thế hệ soạn giả soạn. Có đến 9 bản LNCQ chép tay, mỗi bản thêm/bớt một số chuyện. Cuối thế kỷ 15, Vũ Quỳnh và Kiều Phú nhuận sắc thêm “ghi chép những chuyện kỳ lạ thu ghép lượm lặt được ở cõi Lĩnh Nam” (sic). Truyền thuyết Hồng Bàng và nhiều cổ tích khác (Hồ tinh, Ngư tinh, Phù Đổng Thiên Vương, Nhất Dạ Trạch, thần Tản Viên, Cây Cau.. lần đầu tiên được ghi trong LNCQ. Kiều Phú viết trong bài tựa “Ôi! Nếu trời đã sai chim huyền điểu xuống để sinh ra nhà Thương (2) thì ắt có việc trăm trứng nở ra con chia nhau cai trị nước Nam. Truyện họ Hồng Bàng không thể mất được. Thà làm đầu con gà còn hơn làm đuôi trâu, cho nên con cháu họ Triệu chống lại Bắc Triều...”( 3)

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, do Ngô Sĩ Liên (năm sinh/năm mất không rõ) soạn năm 1479, mang truyền thuyết Hồng Bàng vào phần ngoại kỷ.

Năm 1919, tác giả Trần Trọng Kim (1882-1953) soạn Việt Nam Sử Lược dựa vào ĐVSKTT. Trần Trọng Kim mang truyền thuyết Hồng Bàng vào VNSL. Cùng thời, chữ quốc ngữ phát triển, truyền thuyết Hồng Bàng được nhắc nhở nhiều, khiến huyền sử trở thành chính sử.

Truyền thuyết Hồng Bàng

“Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.

Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.

Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: ''Ta là dòng dõi Long-quân, nhà ngươi dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 ta đem xuống bể Nam Hải.'' (sic)

Truyền thuyết nơi người Việt hải ngoại

Ở Orange County, địa danh/tên tuổi của truyền thuyết được dùng đặt tên cho một số cơ sở: Trung Tâm Việt Ngữ Hồng Bàng, Hiệp Hội Di Sản Hùng Vương, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng, hoặc... tiệm ăn: Âu Lạc.

Thật sự, những người quan tâm tới truyền thuyết Hồng Bàng, tới lịch sử nói chung, không nhiều. Một số người còn tỏ vẻ coi thường, cho Hồng Bàng là chuyện vớ vẩn khó tin. Trái lại, một số bài viết/tác phẩm công phu/dài hơi, huyền thoại hóa thêm truyền thuyết đã sẵn mầu mờ ảo, khiến truyền thuyết/lịch sử dường như trở thành một món xa xỉ, chỉ dành cho giới... cao cấp. Hậu quả, những buổi nói chuyện về tiểu phẩm/tác phẩm lịch sử chỉ lôi cuốn được một số người, đa số lớn tuổi, hoặc các cựu giáo chức sử/địa/ngôn ngữ. Con số thật khiêm nhường so với một buổi trình diễn ca nhạc. Do đó “về nguồn, di sản văn hóa, giữ gìn bản sắc dân tộc, 4000 năm văn hiến...” được lập đi lập lại trong các bài bình luận/diễn văn đẫm ánh đèn sân khấu, cũng hiếm khi nêu rõ nguồn gì, di sản ấy là gì, bản sắc gì, giữ gìn thế nào, văn hiến tính từ hồi nào...

Ở giới trẻ, có lẽ sự hiểu biết về truyền thuyết cũng hạn chế. Ngay các thày cô giáo tình nguyện dạy Việt Ngữ, cũng không có câu trả lời khi các em học sinh thắc mắc “đẻ một lần một trăm con, người đẻ ra trăm trứng...” Vô tri bất mộ, không biết tất không yêu. Tuy không nói ra, các em không tin tưởng vào truyền thuyết nữa. Cứ thế, nước chảy qua cầu.

Tình trạng này, có lẽ bắt nguồn từ vài khiếm khuyết có từ rất lâu, ngay từ trước 1975 ở miền Nam:

. Thiếu khái niệm về huyền thoại và lý giải hợp lý ;

. Thiếu giải thích địa bàn, thời điểm, bản đồ, di chỉ, đồ thị, tranh ảnh... trong hầu hết các sách giáo khoa hoặc các tác phẩm lịch sử. Sử Địa vì vậy là một môn học rất khó nhá, chỉ cần học thuộc lòng để đi thi rồi thôi. Bài viết ngắn này vì vậy xin gợi sự lưu ý đến địa điểm Hồ Nam và Ngũ Lĩnh, cùng những tồn nghi từ thuở còn ngồi ghế trung học.

Địa bàn của truyền thuyết

Chuyện “tuần thú” phương Nam của vua Đế Minh rất dế mèn phiêu lưu ký. Không rõ ông bắt đầu từ đâu, đi với ai, đi bằng gì, đi năm nào. Đến núi Ngũ Linh, Đế Minh gặp một nàng tiên. Mối duyên tình kỳ bí bắt đầu, làm tiền đề cho truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt. Nhân dáng nàng tỏa hương cổ tích: tất cả các tiên đều xuất phát từ miền núi, hang động. Động Bích Đào (4) vàng rơi ánh nguyệt, động Thiên Thai (5) nơi hoa xuân chưa gặp bướm trần gian. Từ núi, người tiên huyền thoại chỉ hiện ra một lần. Giới sử học hiếm khi lý giải đến tên tuổi lý lịch dòng tộc nàng. Dung nhan mờ ảo của nàng lùi dần rồi khuất xa mãi mãi, dù người Việt vẫn hãnh diện nhận “con rồng cháu tiên”.

Nhưng nơi tương phùng lại có thật: núi Ngũ Lĩnh ở phía nam sông Dương Tử, thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ. 5000 năm trước, nơi đó chưa có tên.

Nhưng có tìm tòi, mới thấy cái khó khăn của người xưa, khi tài liệu duy nhất là từ Trung Hoa. Ngay bây giờ, chỉ đi tìm chân dung núi Ngũ Lĩnh, thiếu điều tẩu hỏa nhập ma. Người Trung Hoa gọi Lĩnh Nam là vùng đất phía Nam núi Ngũ Lĩnh. Họ không để ý đến núi Ngũ Lĩnh này vì họ đã thống nhất các bộ lạc thuộc chủng Yue từ lâu.

Các tự điển internet, Wikipedia, Encyclopedia, có nhũng mô tả khá xa nhau:

Wuling Range ((fuq) chạy dài từ phía Tây Hồ Nam đến phía đông Quí Châu. Ngọn Wulingyuan, vĩ tuyến 29 16 Bắc, 110 22 Đông, hiện được Unesco công nhận là kỳ quan thế giới, là một nơi thu hút khách du lịch và cung cấp dược thảo các loại.

Nanling, Nam Lĩnh, còn gọi là Ngũ Lĩnh (Wđ) tên dãy núi ở vùng ranh giới các tỉnh Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc, ngăn cách vùng Lưỡng Quảng với phần lãnh thổ phía bắc của vùng Giang Nam.

Sách vở Việt lại chỉ lưu ý đến Tiểu Ngũ Lĩnh, biên giới thiên nhiên giữa 2 nước Việt-Hoa. Nơi đây là địa bàn của ít nhất hai cuốn dật sử đầu tiên của VN, Lĩnh Nam Dật Sử (1150), và Lĩnh Nam Chích Quái nói trên.

Hồ Nam VW: phía Nam sông Dương Tử, kinh tuyến 108 47 đến 114 Đông, vĩ tuyến 24 đến 30 Bắc. Hồ Nam còn được gọi tắt là tỉnh Tương, theo tên sông Tương (6). Hồ Nam dài 774km, rộng 667km. Hà Nội, vĩ tuyến 21 Bắc, kinh tuyến 105 53 Đông. Mỗi độ là 66 miles hay 111km. Hà Nội cách cực Nam Hồ Nam 333km, cách cực Bắc Hồ Nam 999km.

Địa bàn có thật, không có nghĩa câu chuyện xảy ra đúng in như vậy. 5000 năm trước, chưa có chữ, không có nước nào có tín sử.

Tên các nhân vật đều bằng tiếng Hán ròng do người Trung Hoa đặt hàng ngàn năm sau. Các họ Minh, Hùng, Sùng, Lạc... không thấy hiện diện cả trong lịch sử Việt lẫn trăm họ bây giờ. Tìm kiếm chỉ là... vô vọng vì tất cả những tên tuổi/địa danh trong truyền thuyết đều được tô vẽ hay cóp nhặt qua lại (7). Điều quan trọng tác giả truyền thuyết muốn nhắn gửi là gì? Có phải “những nhân vật trong truyền thuyết thuộc chủng Việt cổ, xuất xứ từ một vùng đất của chủng Việt cổ,” là xứ Trung Hoa bây giờ.

Nói “bây giờ,” vì 5000 năm trước, trên đất Việt Cổ, chưa có nước Trung Hoa. Nhà Chu, triều đại dài nhất và có tín sử của Trung Hoa (1046 - 256TCN) cũng vẫn chỉ là một số bộ lạc thuộc chủng Hoa Hạ ở bờ Bắc sông Hoàng Hà, thuộc hai tỉnh Cam Túc, Thiểm Tây. Thời Xuân Thu (771-401 TCN), Trung Hoa cũng vẫn chỉ là tập hợp một nhóm các nước nhỏ. Mãi đến đời Tần Thủy Hoàng, (207 TTC) gồm thâu 6 nước, mới bắt đầu thành hình một quốc gia gọi là Trung Hoa.

Chủng Bách-Việt xin gọi là Việt-cổ - thiết nghĩ chính xác hơn, cho một ý niệm lập tức về thời gian- là hàng ngàn những bộ lạc/bộ tộc/thị tộc thuộc chủng Yue, tức Việt. Từ Bách Việt xuất hiện lần đầu tiên trong Sử Ký của Tư Mã Thiên. (109 TCN- 91 TCN.). “Bách”, hoàn toàn không có nghĩa “một trăm”. - Rảnh đi coi cải lương không? - Đâu được, bận một trăm việc đây nè. Tiếng Việt có nhiều ca dao/thành ngữ cùng tả ý “không đếm được” ấy: trăm công nghìn việc, trăm nhớ ngàn thương, trăm năm dầu lỗi hẹn hò, trăm dâu đổ vào đầu tằm... Thơ Nguyễn Bính: Mình đi trăm núi nghìn sông. Ngờ đâu mang cả lạnh lùng sang Nam.

Chủng Yue có hai chi lớn nhất: Âu và Lạc. Mỗi chi đều có hàng ngàn những bộ lạc sống cạnh/xen lẫn nhau. Xem “Mékong Ký Sự”, một làng nhỏ ở Vân Nam bên giòng Lan Thương (8) gồm 2.600.000 dân, có đến 14 tộc người sống hòa bình với nhau. Tộc nào giữ nguyên ngôn ngữ, văn hóa tộc ấy từ hàng ngàn năm, hồn nhiên trước thay đổi của thế giới. Các tộc ấy,Yi, Hà Nhì, Bạch, Choang, Thái, Bái, Ngõa, Hán, Hồi, Miêu, Yao... sống đơn giản giữa thiên nhiên tuyệt diệu và câu chuyên thần kỳ về nguồn gốc tộc mình. Những tộc này cũng có mặt ở vùng thượng du/trung du Bắc Việt Nam. Điều này cho thấy sự du đãng kỳ diệu đến mức khó tin của bàn chân người. Đồng thời cũng cho thấy sức sống bền bỉ trong mỗi dân tộc dù thay đổi địa bàn sinh sống. Bản tin nghe từ radio tháng 3/2007: theo một cuộc phỏng vấn nửa triệu người ở 37 địa điểm trên đất Trung Hoa, chỉ 51% biết nói tiếng quan thoại, đa số là giới trẻ ở thành thị. Vậy 49% nói tiếng gì, bản tin không cho biết.

Lạc Việt: một chi lớn thuộc chủng Yue. Lạc Việt cũng gồm hàng ngàn tiểu chi. Lạc Việt chỉ là một thành phần nằm trong Việt Cổ, nhưng Lạc Việt không bao giờ là toàn khối Việt cổ. Lạc Việt cũng là một trong nhiều thành tố cấu thành dân Việt ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, khi sử Trung Hoa nói về Lạc Việt, dù là dân tộc, văn hóa, tiếng nói, biên giới, địa bàn, không phải lúc nào họ cũng ám chỉ người Việt ở Việt Nam.

Đất Việt cổ: chỉ vùng đất từ sông Dương Tử trở xuống. Lúc đó, cả hai chủng Hoa Hạ và Việt cổ đều chưa thành lập những quốc gia đầy đủ những thành tố như bây giờ. Có chăng chỉ là những bộ tộc hay liên minh bộ tộc ở rải rác.

Tình trạng chấp nhận truyền thuyết rồi bỏ lửng lơ không giải thích sẽ để lại cho thế hệ tương lai một black hole, một loại tin tưởng “không thấy mà tin”. Nhưng nếu chấp nhận truyền thuyết, sẽ phát sinh một loạt các câu hỏi:

Hai chủng Hoa Hạ - Việt-cổ có pha trộn không? Vào thời điểm nào?

Người Việt-cổ ở Trung Hoa bây giờ tan biến vào đâu?

Người Việt Nam có phải là người Trung Hoa không?

Người Việt Nam là thành phần nào của chi Lạc? Anh em gần gũi xa/gần của người Việt Nam là những tộc nào?

Người Việt Nam hiện nay có phải là một dân tộc thuần chủng không? Nếu không, những thành tố kia là ai? Từ đâu đến? Hậu duệ là ai?

Ngoài địa bàn trong truyền thuyết, người Việt Nam còn từ địa bàn nào khác?

Quan niệm thế kỷ 15 thời sử gia Ngô Sĩ Liên “không dám rong ruổi ngàn năm để làm chuyện chắp vá”, là phát biểu thời quân chủ. “Thà làm đầu con gà còn hơn làm đuôi trâu”, đan tâm của người xưa muốn nêu cao tự hào dân tộc khi chủ quyền dân tộc bấp bênh. Năm 2007, nếu không xác nhận được địa bàn của tộc Việt, loại tranh cãi tỷ như ai là chủ nhân trống đồng, kinh Dịch, các nền văn hóa Đông Nam Á, văn minh lúa nước, tiếng Việt/tiếng Tàu... chỉ loanh quanh giữa các tác giả người Việt, những tấm lòng son cô quạnh giũa hoang phế miếu đường (9).

Nói chi đến việc tự tin tranh cãi trên trường quốc tế về lãnh thổ/lãnh hải.

Bảo vệ lãnh thổ vẫn là trường ca sinh tử cho dòng giống Việt như tự ngàn năm này qua ngàn năm khác!!

CHÚ THÍCH

(1) Maddox: www.history.navy.mil/photos/sh-usn/usnsh-m/dd731-k.htm

(2) Nhà Thương: khoảng 1027 TCN, triều đại đầu tiên của Trung Quốc, phía Tây châu thổ sông Vị. Ông vua đầu tiên là Thành Thang, vua cuối cùng là vua Trụ.

(3) Lĩnh Nam Chích Quái/Vũ Quỳnh, Kiều Phú/NXB Văn Học, Hà Nội.

(4) http://chimviet.free...evh/lvhs067.htm

Lê Văn Hảo/Xứ Thanh, Xứ Nghệ: động Bích Đào, còn gọi là động Từ Thức, huyền thoại về cuộc tình duyên đẹp dở dang giữa người trần Từ Thức với nàng tiên Giáng Kiều. Động Bích Đào nằm ở dãy núi Thần Phù (xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn), tỉnh Thanh Hóa.

(5) Nguyễn Tường Bách/Mùi Hương Trầm, NXB Trẻ, 2003: huyền sử chép hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hậu Hán (25-250) đi hái thuốc trong núi gặp tiên. Sống với tiên được nửa năm, hai chàng nhớ nhà xin về. Lúc trở lại nhà thì dưới thế đã qua được 7 đời. Khi trở lại, đào nguyên không còn. Động Thiên Thai thuộc về núi Thiên Thai, 100 km cách thành phố Ninh Ba/Trung Hoa.

(6) Chàng tại Tương giang đầu. Thiếp tại Tương giang vĩ, chính là ở đấy.

(7) http://www.viethoc.o...75,8975,quote=1

Truyện Liễu Nghị, đời Tống, rất liêu trai chí dị: thư sinh kết duyên với con gái út của Long quân hồ Động Đình, in hệt đoạn Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân

(8) Phim tài liệu Mékong Ký Sự/Truyền Hình TP HCM 2003, sông Lan Thương, tên của sông Mékong khúc chảy qua Vân Nam, có nghĩa “đóa Lan xanh”.

(9) Viên Linh/Hỡi ơi hoang phế miếu đường.

Lòng son như ngói âm dương tan tành.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giao Chỉ và Tượng Quận

Trần Việt Bắc

LTS: Người Việt chúng ta ai đã đọc và tìm hiểu về sử thì đều biết là sử nước Việt chỉ được bắt đầu được viết từ thời nước Việt có tự chủ, nói cho đúng hơn là từ thời Lý. Quyển sử đầu tiên được viết là Sử ký của Đỗ Thiện, rồi sau đó là Việt Chí của Trần Chu Phổ, rồi Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu. Những quyển sử này đã bị thất lạc. Quyển sử đầu tiên còn lại là Đại Việt Sử Ký Toàn thư (ĐVSKTT) của ông Ngô Sĩ Liên, từ khi lưu hành, đã được coi là bộ chính sử và được tham khảo bởi nhiều bộ sử khác.Quyển sử này đã ghi lại được những tài liệu trong sách của ông Lê Văn Hưu để chúng ta - hậu thế- có thể biết được những việc đã xảy ra trong quá khứ của tộc Việt. . Bộ sử này đã viết lại những việc từ ngày lập quốc của nước Việt, thời điểm cả ngàn năm trước khi ĐVSKTT được viết.Từ thời dựng nước mơ hồ với những truyền thuyết, rồi sau đó là hàng chục thế kỷ bị đô hộ, nào có ai ghi lại những việc đã xảy ra! (Mà nếu có ghi chép lại cũng sẽ bị thiêu hủy bởi những kẻ chiếm đóng; vì khác với quan niệm của họ!).

Những sự kiện thành văn, ĐVSKTT một phần lớn đã tham khảo từ các sử sách của Trung Quốc. Tuy nhiên đây là những văn bản đầy thành kiến, theo quan niệm của một quốc gia thống trị viết về một quốc gia bị trị, thí dụ như Hậu Hán Thư quyển 116 chép về văn hóa của người Lạc Việt như sau: "Người Giao Chỉ không phân biệt trưởng ấu... Không biết lễ giá thú, chỉ theo dâm hiếu mà không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng, ..." (trích từ Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn) . Đây là những câu viết của người có quan niệm thống trị, tác giả là Phạm Việp. Ông ta không hiểu phong tục người Việt xứ Âu Lạc, cũng như không tìm hiểu thêm; để viết về một dân tộc có văn hoá và truyền thống khác hẳn Trung Quốc, nhận định theo quan điểm riêng, thiếu sự khách quan của một người viết sử.

Bởi thế, sau khi tham khảo chúng ta chỉ nên lấy những sự kiện - sự kiện mà thôi -của các sử gia Trung quốc cho thời khuyết sử của tộc Việt. Sau đó phải so sánh các sự kiện này với sự kiện khác, kiểm chứng và rút tỉa ra những điều không bị cảm tính chi phối, may ra chúng ta mới biết được đâu là sự thật của quá khứ đã được ngoại bang ghi chép. Vì thế chúng ta phải rất thận trọng khi tham khảo cổ sử của Trung Quốc để tìm hiểu về sử nước nhà. Từ những tham khảo này, bộ ĐVSKTT đã dựng nên một quá khứ của tộc Việt cho thời khuyết sử mà một phần lớn đã tham khảo từ sử liệu của Trung Quốc. Điều này đã gây nên nhiều nghi vấn cho hậu hậu thế!

Hậu thế chúng ta may mắn có được những phương tiện truyền thông tân tiến. Tham khảo sử liệu qua "internet" là một việc hết sức dễ dàng - nếu chúng ta muốn làm - ai cũng có thể tra cứu những tài liệu, mà ngày xưa, tiền nhân mong muốn nhưng không tìm được. Bằng chứng là rất nhiều người đang bàn thảo về sử Việt trong các diễn đàn ở các "Web site" khác nhau. Người viết cũng chỉ là một trong những người đang làm việc này, hoàn toàn làm theo sở thích và vì sự tò mò, với mong muốn được hiểu biết thêm về sử Việt. Biết đâu có thể góp ý cho những bạn đọc cùng sở thích, và đặc biệt là có thể cống hiến cho các bạn trẻ muốn tìm hiểu về sử Việt.

Dù sự hiểu biết về sử rất giới hạn và cũng không biết lượng sức (hiểu biết về Hán học của người viết rất là thô thiển!), nhưng cũng cố gắng tìm câu trả lời để mong biết đâu là sự thật (!) cho những câu hỏi về nguồn gốc của mình, (với sự trợ giúp của các nhu liệu thông dịch (1) cũng như bộ tự điển Hán Nôm của Thiều Chửu và những "chức năng" (function) của "Word").

Mong mỏi được học hỏi thêm từ các học giả thông hiểu về sử học cũng như Hán học.

----------------------------------------------

Đại Việt Sử Ký Toàn thư là bộ chính sử của nước Việt, được viết lại với nhiều truyền thuyết của nhân gian và những tham khảo từ cổ sử của Trung Quốc cho thời gian khuyết sử của nước Việt, như Sử Ký của Tư Mã Thiên, Hán Thư của Ban Cố, Hậu Hán Thư của Phạm Việp cùng các bộ sử khác. Tuy nhiên ĐVSKTT đã có nhiều vấn đề khi tham khảo từ những sử liệu này. Như sử liệu bị chi phối vì hoàn cảnh và cảm tính của các sử gia, cùng những sự kiện đôi khi mâu thuẫn đã được nêu lên trong cổ sử của Trung Quốc. Việc này đã gây nên những tham khảo vòng quanh và sự suy đoán theo những chiều hướng khác nhau đầy hoang mang của hậu thế. Rồi những giả thuyết được đưa ra những tranh luận triền miên.

Bài viết này, người viết xin nêu lên vấn đề tương quan giữa Giao Chỉ, tức là cổ Việt và Tượng Quận thời Tần để mong có sự góp ý của các bậc thức giả, ngõ hầu chúng ta có thể hiểu biết thêm về vấn đề nan giải này trong sử Việt .

ĐVSKTT: Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương (2), đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận (tức là An Nam) ; ...".

Sau đó là An Nam Chí Lược của Lê Tắc (Trắc), 1335, được in bởi Viện Đại Học Huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt nam, 1961. Được chuyển qua ấn bản điện tử bởi các ông Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc năm 2001: "QUYỂN ĐỆ NHẤT, Tống Tự. Nhà Tần (246-207 trước công nguyên) lấy Giao Chỉ làm Tượng-Quận;...".

Theo như trích dẫn trên thì An Nam (cổ Việt gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) là Tượng Quận thời Tần. Câu viết này đã nêu lên một số nghi vấn cho các sử gia. Rồi từ nghi vấn này dẫn đến những nghi vấn khác cùng với các giả thuyết khác nhau. Điều này đã gây nên nhiều khó khăn cho sự tìm hiểu về sử Việt cho hậu thế - mà người viết là một.

1- Quan tâm của các sử gia về vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận.

Đại Việt Sử Cương (ĐVSC) của sử gia Trần Gia Phụng, tập 1, trang 74:

"1. Trung Hoa xâm chiếm cổ Việt. ... . Năm 214 TCN (đinh hợi), Tần Thủy Hoàng Đế (Ch'in Shih Huang-ti, trị vì 221-210 TCN) sai Đồ Thư và Sử Lộc cầm quân tiến xuống phía nam, vượt sông Dương Tử, chiếm vùng đất mà người Trung Hoa gọi là vùng Bách Việt, lập ra 3 quận là Quế Lâm (Kueilin, nay là vùng bắc và đông Quảng Tây), Nam Hải (Nanhai, tức Quảng Đông) và Tượng Quận (Hsiang, vùng Bắc Việt ngày nay)" .

Mặc dù ông Trần Gia Phụng viết là quân Tần xâm chiếm cổ Việt vì Tượng Quận là vùng Bắc Việt ngày nay, nhưng trong ghi chú số 27, trang 65, ông đã nêu lên vấn đề như sau:

" Toàn Thư cũng như các bộ sử khác, kể cả Cương Mục chép theo các bộ sử Trung Hoa việc tướng nhà Tần đã chiếm đất Lĩnh nam và đặt ra các quận Quế Lâm (nay là vùng bắc và đông bắc Quảng Tây), quận Nam Hải (nay là Quảng Đông) và Tượng Quận (vùng cổ Việt) năm 2q14 TCN. Sau đó toàn thư và các bộ sử cũ của nước ta lại viết thêm (tvb: do tác giả tô đậm) rằng: Lúc đó, tại cổ Việt có triều đại An Dương Vương (trị vì 257-208TCN). Về các sự kiện liên quan đến triều đại An Dương Vương, các câu hỏi được đặt ra là: Thục Phán, người nước Ba Thục ở tận Tứ Xuyên (Sichuan), Trung Hoa, sao có thể qua tới cổ Việt để đánh Hùng Vương? [Phía bắc của Bắc Việt là hai tỉnh Vân nam (Yunnan) ở tây bắc và Quảng Tây (Giangxi) ở đông bắc. Phía bắc hai tỉnh này mới là Tứ Xuyên.] Chuyện nỏ thần có thể là lịch sử hay không? Cuối cùng, nếu năm 214 TCN cổ Việt bị quân Hán chiếm và đổi thành Tượng Quận rồi, thì cần gì Triệu Đà phải đánh lần nữa vào các năm 210 TCN và 208 TCN? Vậy phải chăng chuyện An Dương Vương chỉ là truyền thuyết".

Một lần nữa, trong ghi chú số 5, trang 100, ông lại nêu lên sự quan tâm của mình:

" .... . Ở đây có một điểm trong các sách sử cũ cần cẩn án: 1) Nếu theo các bộ sử cũ, năm 214TCN, Đồ Thư và Sử Lộc chiếm đất Lĩnh Nam (phía nam núi Ngũ Lĩnh) lập ra 3 quận Quế Lâm, Nam hải và Tượng Quận, mà Tượng Quận bao gồm cả cổ Việt, thì tại sao các bộ sử cũ còn chép rằng Triệu Đà hai lần đánh cổ Việt, năm 210 TCN và năm 208 TCN? Nếu Triệu Đà phải đem quân đi đánh cổ Việt, có nghĩa là lúc đó người Trung Hoa chưa chiếm được cổ Việt. 2) Thứ nhì, nếu cổ Việt đã rơi vào tay Đồ Thư từ năm 214 TCN, thì chuyện An Dương Vương dùng nỏ thần để chống cự với Triệu Đà chỉ là chuyện truyền thuyết không có thật".

Vậy nếu Tượng quận gồm cổ Việt thì sử liệu nói về An Dương Vương chỉ là truyền thuyết!

Việt Nam Sử Lược (VNSL) của sử gia Trần Trọng Kim, ấn bản đầu tiên năm 1921, được in lại bởi nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin, 1999, trang 29:

" 3. Nhà Tần Ðánh Bách Việt. Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc ở bên này, thì ở bên Tàu vua Thủy Hoàng nhà Tần, đã nhất thống thiên hạ. Ðến năm đinh hợi (214 trước Tây lịch). Thủy Hoàng sai tướng là ÐồThư đem quân đi đánh lấy đất Bách Việt (vào quãng tỉnh Hồ Nam, Quảng Ðông và Quảng Tây bây giờ). An Dương Vương cũng xin thần phục nhà Tần.Nhà Tần mới chia đất Bách Việt và đất Âu Lạc ra làm ba quận, gọi là: Nam Hải (Quảng Ðông), Quế Lâm (Quảng Tây) và Tượng Quận (Bắc Việt (2)).

Người bản xứ ở đất Bách Việt không chịu để người Tàu cai trị, trốn vào rừng ở. Ðược ít lâu quân của Ðồ Thư, vốn là người ở phương bắc, không chịu được thủy thổ, phải bệnh rất nhiều. Bấy giờ người Bách Việt thừa thế nổi lên giết được Ðồ Thư".

Theo sử gia Trần Trọng Kim; thì Bắc Việt (cổ Việt) là Tượng quận thời nhà Tần.

Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt (NGMLCDTV) 1971, được in lại bởi nhà xuất bản Xuân Thu, Los Alamitos California. Tác gỉa là nhà văn và cũng là học giả Bình Nguyên Lộc. Đây là một bộ sách khá dầy, nặng phần khảo cứu về ngữ pháp, gần 900 trang (khổ nhỏ) . Tác giả đã viết một đoạn khá dài (từ trang 221 đến trang 287) trong chương 2: " Những sai lầm", tiết mục D: "NƯỚC TÂY ÂU MƠ HỒ VÀ TƯỢNG QUẬN BÍ MẬT", để nói về sự phản tương quan giữa cổ Việt và Tượng Quận. Ông đã đưa ra những nhận xét (với cách hành văn châm biếm và đôi khi hài hước của một văn sỹ, cùng với những kiến thức của một học giả uyên bác về ngữ học, phê bình về những sử liệu mà theo ông là ngụy tạo, đây là một điều rất hào hứng cho người viết!) để nói lên những sai lầm về giả thuyết của các học giả như: L. Aurousseau, H. Maspéro, Trần Kinh Hòa, Nguyễn Phương,... . Sau đó ông dùng "4 bằng chứng", đặc biệt là bằng chứng thứ 4, đã được coi là bằng chứng "quyết định" để ông có thể đi đến những kết luận như sau:

Trang 283:

" Với câu sử của Tư Mã Thiên và Lưu An (3) và những gì chúng tôi đưa ra để bác bỏ các thuyết, ta đã làm sáng tỏ được:

1.- Tần không hề đánh xuống khỏi Hạ-chí -Tuyến Bắc, tức Tây Âu không là cổ Việt.

2.- Tâu Âu Lạc là một địa danh hoàn toàn không có.

3.- Huyện Tây Vu không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.

4.- Thượng du tả ngạn Nhĩ Hà không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.

5.- Trạch Hu Tống là vua của Tây Âu, theo Lưu An chép. Khi Tây Âu không là Bắc Kỳ, không là Thượng du Bắc Việt thì Trạch Hu Tống (4) chẳng dính líu gì tới cổ Việt hết.

6.-Tượng Quận không hề là Bắc Kỳ, vì Tần Thỉ Hoàng không có chiếm Tượng Quận.

7.- Không có chánh sách trồng người tại cổ Việt Nam để đẩy dân Việt nam vào thế thiểu số."

Đặc biệt là trong chương này ông cũng đã đưa ra một giả thuyết khá lý thú về nguồn gốc của An Dương Vương, tuy nhiên đây không phải là trọng tâm của đề tài, nên người viết hy vọng có thể sẽ trình bày vấn đề này trong một bài viết khác trong tương lai.

Việt Sử Toàn Thư (VSTT) của sử gia Phạm văn Sơn, ấn bản đầu tiên năm Canh Tí (1960), tái bản bởi nhà xuất bản Đại Nam, tủ sách sử học, trang 50:

" Về Tượng Quận, Việt Nam Sử Lược chép là Bắc Việt . Chúng tôi không đồng ý vì Bắc Việt khi đó là Âu Lạc đã thành Tượng Quận thì sau nầy đâu có sự kiêm tính của Triệu Ðà bằng binh đao, chúng tôi cũng không thấy sách nào nói như Việt Nam Sử Lược rằng An Dương Vương đầu phục nhà Tần để quyết định rằng vì sự thần phục nầy mà Âu Lạc biến thành Tượng Quận. Tóm lại ảnh hưởng của nhà Tần bấy giờ chỉ mới đến địa phận Tây Âu là tỉnh Quảng Tây và miền Uất Lâm cùng Nam Hải. Sau đó Tần triều phái 50 vạn người tù đầy đến chiếm đóng các nơi đã cướp được để bảo vệ bộ máy cai trị vừa mới thiết lập".

Ông Phạm Văn Sơn cũng đưa ra thêm ghi chú ở cuối trang 50 này như sau:

"Theo Trúc Khê tiên sinh: Sử ta nói Tượng Quận nhà Tần là đất Bắc Kỳ. Trung Kỳ bây giờ, song so sánh địa lý và dẫn chứng với các sách thì Tượng Quận chính thuộc về một phần đất của tỉnh Quảng Tây nước Tần ngày nay. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim nói Tượng Quận là đất Bắc Kỳ có thể không đúng..

Sử gia Phạm Văn Sơn đã không đồng ý Giao Chỉ là Tượng quận, tuy nhiên ông không đưa ra những chứng minh qua sử liệu để phản bác vấn đề Giao Chỉ là Tượng quận thời Tần

Vậy qua sử sách hiện đại và cận đại, chúng ta thấy vẫn đang có những sự mâu thuẫn. Sự việc đã dẫn tới nghi vấn lớn và khó hiểu hơn nữa là xuất xứ của An Dương Vương. Nhiều giả thuyết đã nêu lên về vấn đề này, tác giả ĐVSKTT- ông Lê Văn Hưu và sau đó là ông Ngô Sỹ Liên cùng các sử gia khác trong các thời sau - đã đặt làm một thời kỳ riêng là "Kỷ nhà Thục, An Dương Vương" trong sử Việt. Điều này làm cho hậu thế hoang mang, vì không biết đâu là sự thật của lịch sử!

2- Giao Chỉ và Tượng quận qua thư tịch cổ (5) của nước Việt

Ngược dòng thời gian, người viết xin trích dẫn những tài liệu trong thư tịch có liên quan đến vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận.

Phương Đình Địa Dư Chí (PĐĐDC)của Nguyễn Văn Siêu (6), "lần đầu in bằng chữ Hán vào năm Canh Tý (1900), niên hiệu Thành Thái thứ 12", tái bản bởi nhà xuất bản Văn Hoá - Thông Tin, trang 28: "Nhật Nam thái thú: Vua Hán Vũ đế đổi Tượng quận nhà Tần là Nhật Nam. Nhà Ngô lại đặt là quận Cửu Đức. ...".

Ông Nguyễn Văn Siêu cho là Nhật Nam thuộc về Tượng quận (Nhật Nam ở xa hơn về về phía nam so với Cửu Chân và Giao Chỉ).

Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, nhà xuất bản Thuận Hoá, khi viết về các tỉnh miền trung châu Bắc Việt đã viết như sau (thí dụ điển hình là tỉnh Bắc Ninh)":

"Dựng đặt và diên cách. Đời Hùng Vương xưa là bộ Vũ Ninh, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ, tức là đất hai huyện Luy Lâu và Long Biên, ....".

Các sử quan triều Nguyễn vẫn coi Bắc Việt (cổ Việt) là Tượng quận đời Tần.

Vân Đài Loại Ngữ (VĐLN) của Quế Đường Lê Quí Đôn do Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải, xuất bản bởi nhà sách Tự Lực, trang 167:

" Đời An Dương Vương, quân nhà Tần sang đánh cướp lấy miền đất Lục-lương của Nam Việt (người Lĩnh-nam phần nhiều ở vào khoảng đất núi, tính người cương cường nên gọi là Lục Lương), đặt ra các quận: Quế -lâm; Nam hải; Tượng -quận (Quế -lâm nay là Quảng-tây; Nam-hải nay là Quảng-đông;Tượng-quận nay là nước ta).

Qua trích dẫn trên, ông Lê Quí Đôn cũng đã viết Tượng quận là cổ Việt.

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (KKĐCSTGCM hay Cương Mục) . Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn thảo (1856-1881). Viện Sử Học dịch (1957-1960). Nhà xuất bản Giáo Dục (Hà Nội) ấn hành 1998. Trong quyển 1: đề tài "Hùng Vương dựng nước" viết như sau:

" Năm Đinh Hợi (214 tr.c.ng.) (Thục An Dương Vương năm thứ 44; Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần sai Đồ Thư và Sử Lộc sang lấy đất Lĩnh Nam, đặt ra Tượng quận.

Bấy giờ nhà Tần hám đất Việt có nhiều ngọc trai và ngọc cơ, muốn chiếm lấy đặt làm quận huyện, mới bắt kẻ trốn tránh, người gửi rể và lái buôn ở các đạo đi làm lính, sai hiệu úy là Đồ Thư làm tướng, Sử Lộc thì khơi cừ lấy lối tải lương, đi sâu vào cõi Lĩnh Nam, cướp lấy đất Lục Lương, đặt ra Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đày những kẻ phải đi thú . Người Việt bấy giờ đều rủ nhau núp vào trong rừng rậm, không ai chịu để cho người Tần dùng. Lại ngầm bầu những người tài giỏi lên làm tướng, đánh nhau với người Tần, giết được hiệu úy Đồ Thư.

Lời chua: .... Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận: Theo sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi nhà Tống, ba quận ấy là đất Bách Việt ngày trước, từ Tần Thủy Hoàng lấy được thiên hạ, mở núi dọn đường, cướp lấy đất Dương, Việt, đặt ra Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Bây giờ tỉnh Quảng Tây tức là Quế Lâm, tỉnh Quảng Đông tức là Nam Hải, đất Giao Chỉ tức là Tượng Quận đời Tần.".

Các sử quan triều Nguyễn nói cổ Việt là Tượng quận thời Tần.

Việt Sử Tiêu Án, soạn giả: Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ 1775. Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu 1960. Nhà xuất bản: Văn Sử 1991. Chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc 2001. Kỷ: Ngoại Thuộc: Nhà Triệu, Triệu Đà .

"Nhà Tần cho là nước Việt ta nhiều châu báu, muốn chia nước ta ra làm quận huyện, sai Hiệu úy là Đồ Thư mang quân vào sâu mãi Lĩnh Nam lấy đất Lục Lương đặt ra Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận 1. Người Việt ta đều chạy trốn vào trong rừng rậm, không chịu để cho nhà Tần dùng, ngầm đặt Kiệt Tuấn làm tướng, đương đêm đánh Đồ Thư, nhà Tần bèn mang 500 vạn dân phát vãng đi đày sang ở đó, cử Nhâm Ngao làm quan Úy ở Nam Hải, Triệu Đà là quan lệnh Long Xuyên".

Không thấy ông Ngô Thời Sỹ nói rõ về việc Giao Chỉ là một phần của Tượng quận, nhưng chữ "nước Việt ta" và "người Việt ta" đã nói lên việc quân Tần đã tấn công cổ Việt.

Khi nói về thời Triệu Đà ông viết như sau:

"Xét sử cũ: An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ: "Triệu Kỷ Vũ Đế". Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta" .

Qua câu viết này, dù không trực tiếp viết ra, nhưng người viết cho là ông cũng đã gián tiếp công nhận Giao Chỉ nằm trong Tượng quận.

Ở cuối trang, dịch giả viết trong ghi chú 1 như sau: "1 Tượng Quận. Quận do nhà Tần đặt, song chỉ có tên, chưa có đất và chưa có bộ máy hành chính cấp quận. Xưa nay nhiều người lầm Tượng Quận bao gồm cả đất Việt Nam ngày nay."

Đại Việt Sử Ký Tiền Biên của ông (Ngô Thời Sỹ) cũng viết: "Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam".Người viết xin đặt câu hỏi về đoạn văn này.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT quyển 1, trang 138) viết như sau (với ghi chú số 2 và 3, của người dịch):

Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể [8b] người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương (2)(7), đặt các quận Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây), Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là An Nam) ; cho Nhâm Ngao làm Nam Hải úy, Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh (Long Xuyên là thuộc huyện của Nam Hải), đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở Ngũ Lĩnh, Ngao và Đà nhân đó mưu xâm chiếm nước ta.

(Chuế tế: con trai không có tiền nộp sính lễ, lấy thân ở gửi nhà vợ nên gọi là chuế tế [ở gửi rể] như cái bướu ở mình người ta, là vật thừa. Lục Lương là người Lĩnh Nam phần nhiều ở chỗ núi rừng, trên cạn (lục), tính người mạnh tợn (cường lương) nên gọi là Lục Lương ).

Câu hỏi được đặt ra: Tượng Quận bao gồm cổ Việt hay ở ngoài cổ Việt ? Đâu là sự thật của lịch sử ?

3- Tìm hiểu nguồn gốc của vấn đề.

Chúng ta cũng biết rằng, thư tịch hay các sách về sử của nước Việt chỉ được viết ra từ thời Lý. Đầu tiên là Sử Ký của Đỗ Thiện (8), Việt Chí của Trần Chu Phổ (9), Đại Việt Sử Ký cuả Lê Văn Hưu (10)(những sách này đã bị thất lạc), Đại Việt Sử Lược của tác giả Khuyết Danh (11), ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên, v.v.... Những sách này đã tham khảo và lấy những sử liệu từ những bộ sử của Trung Hoa như sách Hoài Nam Tử của Hoài Nam Vương Lưu An (trình cho Hán Vũ Đế năm 139 TCN), Sử Ký của Tư Mã Thiên (năm 97 TCN), Hán Thư của Ban Cố (khoảng năm 92, là năm ông này bị chết trong ngục, bộ sử này sau đó đã được hoàn tất bởi cô em gái là Ban Chiêu), Hậu Hán Thư của Phạm Việp ( khoảng trước năm 445 là năm ông này bị giết) v.v... . Tuy nhiên khi tham khảo những sử liệu được viết từ một quốc gia "thống trị"; để viết sử cho một quốc gia đã qua một thời gian "bị trị", các sử gia phải vô cùng cẩn thận, từ việc so sánh các sử liệu về việc đồng nhất của các sự kiện, còn phải phân tách, phán đoán, lý giải để tìm hiểu sự thật của lịch sử. Vì các sử gia của quốc gia thống trị đã viết sử theo quan niệm của họ, nhiều khi đến độ sai lầm vì nhiều lý do khác nhau. Nếu những tham khảo được lấy từ những điều chủ quan hay sai lầm để viết sử nước nhà, hậu thế sẽ đọc được những sự việc trong quá khứ với đầy nghi vấn và hoang mang với câu hỏi đâu là sự thật ?

Sử gia Phạm Văn Sơn đã nêu ra vấn đề là cổ Việt (hay Giao Chỉ và Cửu Chân) không phải là Tượng quận thời Tần, dù trong các thư tịch và cổ sử của nước Việt cũng như cận và hiện đại đều nói như thế.

Người viết đã trích dẫn đoạn văn của ĐVSKTT nói về Tượng Quận: "... đặt các quận Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây)30, Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là An Nam) (3) ".

Đoạn văn với cước chú số (3) trang 138, tập 1 viết như sau:

"3 Tượng Quận: tên quận đời Tần mà trước đây nhiều sách sử của ta và của Trung Quốc đều chú giải là quận Nhật Nam, hay bao gồm cả ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thời Hán, tức đất An Nam. Thuyết đó là dựa vào một câu cước chú của Hán Thư (q.28 hạ, tr. 11a) về quận Nhật Nam thời Hán: "Quận Nhật Nam - quận Tượng thời Tần ngày trước". Nhưng từ cuối thế kỷ XIX, thuyết đó đã bị phê phán. Chính Hán thư phần Bản Kỷ (q.7 tr.9a) chép rõ rằng: "Năm thứ 5 hiệu Nguyên Phương (76 TCN), bãi bỏ quận Tượng, chia đất".

Dù đây chỉ là cước chú (12) trong ĐVSKTT, nhưng tài liệu này đã chỉ ra manh mối cho người viết, đã giúp rất nhiều cho việc tìm hiểu về cội nguồn của vấn đề.

Hán Thư, quyển 28 (13) "Địa lý chí đệ bát hạ" viết về quận Nhật Nam như sau : "Quận Nhật Nam, là Tượng Quận cũ thời Tần .... . Thuộc Giao Châu"

Hán Thư, quyển 7 (14) " Thiệu Đế kỷ đệ thất" viết về việc bãi bỏ Tượng quận và chia quận này làm hai, sát nhập vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha : "Mùa thu, bãì bỏ Tượng Quận, chia và sát nhập vào Uất Lâm, Tường Kha".

Hai quận Uất Lâm và Tường Kha ở phía đông bắc tỉnh Quảng Tây và một phần của Tứ Xuyên, rất xa quận Nhật Nam, nên khó có thể nghĩ rằng Nhật Nam là Tượng Quận thời Tần. Vì thế người viết nhận thấy vấn đề về "Giao Chỉ và Tượng quận" bắt nguồn từ việc tham khảo sử liệu trong Hán Thư của Ban Cố. Bộ sử này; hai quyển 7 và 28 đã nêu lên mâu thuẫn về vấn đề Tượng Quận và Giao Chỉ. Vì chỗ toạ lạc của hai địa danh này ở quá xa nhau.

Câu hỏi được đặt ra:

- Tượng Quận thời Tần nằm ở đâu? Ở phía tây bắc Quảng Tây ngày nay; hay kéo dài xuống phía nam tới tận quận Nhật Nam, và bao gồm cả Giao Chỉ là nước Việt cổ ?

- Giao Chỉ có bị quân Tần đánh và chiếm đóng không?

Bởi vì nếu Giao Chỉ là Tượng Quận hay nằm trong Tượng Quận thì Giao Chỉ đã bị quân Tần đánh và chiếm đóng. Còn như nếu Giao Chỉ nằm ngoài Tượng Quận thì Giao Chỉ không bị quân Tần xâm lăng, vì chỉ có thể chiếm đóng sau khi đã thành công trong việc dùng võ lực để xâm lăng.

Theo thiển ý, để hiểu rõ về một biến cố xảy ra, chúng ta cần ba yếu tố chính. Đó là nhân vật, thời gian và không gian (địa điểm). Các sử liệu đã đưa ra tên của nhân vật, thời gian, và địa điểm - nơi đã xảy ra những diễn biến này . Tuy nhiên tên những địa điểm nơi xảy ra biến cố đã bị biến đổi theo thời gian; cũng như qua các triều đại. Vì vậy, hậu thế rất khó có thể mường tượng được những nơi liên quan đến biến cố này nếu không có họa đồ để tham khảo.<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break">

1. "HanoConv1.0", "Hanosoft". Xin thành thật cám ơn các quý vị trong hội Hán Nôm đã thiết lập nên những nhu liệu này và cho phép xử dụng miễn phí. Không có các nhu liệu này thì bài viết này sẽ không thể hoàn tất!.

2. Trong ấn bản điện tử hiện đang lưu hành trên internet ghi là "Tượng Quận (Bách Việt)". Tuy nhiên người viết thấy trong bản chính (sách), ông Trần Trọng Kim viết là " Tượng Quận (Bắc Việ)t" .

3. Lưu An viết sách Hoài Nam Tử. Người viết sẽ viết thêm về nhân vật này trong phần sau của bài viết.

4. Nhiều sách viết là Dịch Hu Tống. Người viết sẽ dùng tên này.

5. Người viết mạn phép gọi là "thư tịch cổ" cho những tài liệu từ thời nhà Nguyễn trở về trước là những thư tịch viết bằng Hán tự.

6. Nguyễn Văn Siêu sinh năm Kỷ Mùi ( 1799), tự là Tốn Ban, hiệu là Phương Đình, người làng Lủ ( Kim Lũ), huyện Thanh Trì, Hà Nội. Văn nhân nổi tiếng cùng thời với Cao Bá Quát với câu đối khen tặng của vua Tự Đức:

"Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán,

Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường"

Tùng: Tùng Thiện vương. Tuy: Tuy Lý Vương.

7. (2) ĐVSKTT : Đây viết là Lục Dương, cuối câu viết là Lục Lương .

Sử Ký của Tư Mã Thiên trong “Nam Việt Úy Đà liệt truyện viết là Dương Việt. Cũng trong Sử Ký, phần Tần Thủy Hoàng bản kỷ viết là Lục Lương. Vậy theo thiển ý, tác giả ĐVSKTT gồm hai chữ Lục Lương và Dương Việt thành chữ Lục Dương ở đây.

8. Sử Ký của Đỗ Thiện được viết sau năm 1135, khoảng dưới triều Lý Anh Tông (1138-1175).

9. Quyển sử này được viết trước sách Đại Việt Sử Ký (1272) của Lê Văn Hưu.

10. Đại Việt Sử Ký (ĐVSK) của Lê Văn Hưu, gồm 30 quyển, hoàn tất năm 1272.

11. Đầu thời nhà Trần, người viết phỏng đoán là sách này được viết trong khoảng thời gian từ 1234 đến 1258.

12. Trang mở đầu của bộ ĐVSKTT : " ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ. Bản in Nội các quan bản. MỘC BẢN KHẮC NĂM CHÍNH HÒA THỨ 18 (1697). tập 1. Lời giới thiệu: Giáo sư Viện sĩ: Nguyễn Khánh Toàn. Khảo cứu về tác gỉa, văn bản và tác phẩm: Giáo sư Phan Huy Lê. Dịch và chú thích: Ngô Đức Thọ. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn. NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI, HÀ NỘI - 1998

13.http://www.chinaknow...phy/hanshu.html

"Nhật Nam quận, cố Tần Tượng quận, Vũ Đế Nguyên Đỉnh lục niên khai, cánh danh . Hữu tiểu thuỷ thập lục, tịnh hành tam thiên nhất bách bát thập lí (3110 dặm). Thuộc Giao Châu" .

14. Hán Thư quyển thất. Thiệu Đế kỷ đệ thất : "thu , bãi Tượng quận, phân thuộc Uất Lâm, Tường Kha".Hán thư của Ban Cố, quyển 7 viết: "Thu , bãi Tượng Quận, phân thuộc Uất Lâm,Tường Kha

bài 2:

4- Quân Tần mang quân đi đánh Bách Việt từ lúc nào?

Sau khi gồm thâu sáu nước để thống nhất Trung Hoa năm 221BC, Tần Thủy hoàng muốn mở rộng đế quốc. Về hướng nam Trung Hoa, Thủy hoàng đã ra lệnh cho Đồ Thư mang quân đi chinh phục Lĩnh Nam.

Như đã trích dẫn trong ĐVSKTT trong phần trên cùng với sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng bản kỷ, dịch giả Nhữ Thành : “Năm thứ 33 (214TCN),Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh,những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương,lập thành Quế Lâm,Tượng Quận,Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ”(1).

Qua đoạn sử liệu trên chúng ta chỉ biết là năm 214 TCN, nhà Tần coi như đã chiếm được một vùng đất ở Lĩnh Nam, đặt làm 3 quận. Tuy nhiên sử liệu này đã không nói là quân Tần bắt đầu mang quân vào Lĩnh Nam từ lúc nào.

Để biết lúc nào quân Tần bắt đầu xâm lăng, “Nam Việt Úy Đà liệt truyện" (Sử Ký) viết: “...Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã mười ba năm. Thời Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải”.

Câu dịch “Như thế đã mười ba năm" rất khó hiểu, vì câu viết có tính cách tương đối, 13 năm so với thời điểm nào? Vì việc này, người viết xin trích dẫn sách Sử Ký với tam gia chú- quyển 113- Nam Việt Uý Đà liệt truyện: “Tập giải Từ Quảng viết :“Tần tịnh thiên hạ, chí Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) thập tam niên. Tịnh thiên hạ bát tuế (8 năm), nãi bình Việt địa, chí Nhị Thế nguyên niên lục niên (214 TCN) nhĩ".

Qua lời chú này, chúng ta thấy là khi nhà Tần chiếm xong 6 nước kể từ năm Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) là 13 năm: 209 +(13-1)(2) = 221 TCN. Phù hợp với việc "biên niên" trong chính sử Trung Quốc.

Nhà Tần “bình Việt địa" trong 8 năm, tới năm thứ sáu thời Nhị Thế là năm 214 TCN. Vậy nhà Tần bắt đầu chuẩn bị sự bành trường đế quốc nhà Tần là : 214 + (8 -1) = 221 TCN. Tuy nhiên người viết nhận thấy là khi vừa chiếm xong sáu nước, Thủy Hoàng đế phải có một thời gian để chuẩn bị quân đội, như việc "bắt lính" từ các nước vừa chiếm như “đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn" (ĐVSKTT) cũng như lương thực cho đạo quân nam chinh này.

Vì thế, người viết nghĩ là một năm sau, đó là năm 220 TCN , thời điểm này quân Tần mới có đủ thời gian để mang quân đi xâm lăng Bách Việt

5- Địa điểm đóng quân của quân Tần

Quân Tần đóng quân ở chỗ nào?

Không thấy các bộ chính sử nói rõ về việc này, chỉ viết vắn tắt là Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang 500 ngàn quân vượt Ngũ Lĩnh (?) để xâm chiếm Lĩnh Nam (?).

ĐVSKTT: “Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương…

...đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở Ngũ Lĩnh”.

a. Sách Hoài Nam Tử (3)

Tuy nhiên có một tài liệu khá lý thú đã nói về nơi chốn quân Tần đồn trú, cũng như những biến cố trong chiến dịch này, dù rất sơ lược, nhưng rất là quý giá. Đó là sách Hoài Nam Tử của Lưu An, quyển 18, chương "Nhân Gian Huấn", có đoạn đã viết về việc này như sau (4):

Kiến kỳ truyện viết: "Vong Tần giả, hồ dã ". Nhân phát tốt ngũ thập vạn, sử Mông công - Tương ông tử tướng, trúc tu thành, tây thuộc Lưu Sa, bắc kích Liêu thuỷ, đông kết Triều Tiên, Trung quốc nội quận vãn xa nhi hướng chi. Hựu lợi Việt chi tê giác - tượng xỉ -phỉ thuý - châu cơ, nãi sử uý Đồ Tuy (Nôm: Thư) phát tốt ngũ thập vạn, vi ngũ quân, nhất quân tái Đàm Thành chi lĩnh, nhất quân thủ Cửu Nghi chi tái, nhất quân xử (xứ) Phiên Ngu (Phiên Ngung) chi đô, nhất quân thủ Nam Dã chi giới, nhất quân kết Dư Can chi thuỷ, tam niên bất giải giáp trì nỗ. Sử Giám Lộc vô dĩ chuyển hướng, hựu dĩ tốt tạc cừ nhi thông lương đạo, dĩ dữ Việt nhân chiến, sát Tây Ẩu (Nôm: Âu) quân Dịch Hu Tống. Nhi Việt nhân giai nhập tùng bạc trung, dữ cầm thú xứ, mạc khẳng vi Tần lỗ. Tương trí kiệt tuấn dĩ vi tướng, nhi dạ công Tần nhân, đại phá chi, sát uý Đồ Tuy (Nôm: Thư), phục thi lưu huyết số thập vạn.

Tạm dịch (5):

...

Truyện xưa viết: "Nhà Tần vong, tại sao vậy". Nguyên nhân là sai Mông công (Mông Điềm) và Tương ông đưa 50 vạn quân xây trường thành. Phía tây thì chiếm Lưu Sa, phía bắc thì đánh Liêu, phía đông thì liên kết với Triều Tiên, các quận của Trung quốc phải kéo xe đi chinh chiến.

Lại ham những món lợi như sừng tê giác, ngà voi, ngọc phỉ thúy, trân châu, nên sai quan úy là Đồ Thư mang 50 vạn quân, chia làm 5 đạo đi xâm chiếm (Bách Việt). Một đạo đóng ở Đàm Thành, một đạo phòng thủ ở Cửu Nghi là chỗ hiểm yếu, một đạo đóng ở Phiên Ngung làm đô thành, một đạo đóng ởNam Dã là nơi biên giới, một đạo đóng ỡ sông Dư Can. Ba năm quân không cởi giáp, lúc nào cũng phải mang theo cung nỏ. Sử Lộc (6) không tìm được hướng (để tiến quân), mới tuyển lính đào kinh để chuyển binh lương đánh người (Bách) Việt, giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống. Vì vậy người (Bách) Việt vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm tù binh. Ho kén chọn ngưòi tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn công quân Tần, đạt được chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết cả chục vạn.

Địa danh và sự việc đã được sách Hoài Nam Tử nói qua, những điều này, người viết xin lần lượt trình bày qua những tham khảo, suy luận cùng những phỏng đoán của cá nhân trong phần sau.

Trước khi tìm hiểu về những địa danh và sự kiện được nêu lên trong tài liệu này, người viết xin nói sơ lược về tiểu sử tác giả sách Hoài Nam Tử, hầu chúng ta có thể biết thêm về thời điểm lúc quyển sách này ra đời.

Tác giả sách Hoài Nam Tử là Hoài Nam Vương Lưu An, ông là cháu của Hán Cao Tổ Lưu Bang (gọi Lưu Bang bằng ông), con của Lưu Trường, em họ (?) của Hán Cảnh Đế Lưu Khải (156 TCN – 141 TCN) và là chú họ (?) của Hán Vũ Đế Lưu Triệt (140 TCN – 87 TCN). Được phong làm Hoài Nam Vương ở vùng sông Hoài (7) (tỉnh An Huy ngày nay). Ông sinh năm 179 TCN, ông tự sát năm 122 TCN (hay 123 TCN?) vì có ý định mưu phản Hán Vũ đế, nhưng sự việc bị tiết lộ. Lưu An là người đã dâng biểu can Hán Vũ đế về việc nhà Hán định đánh Mân Việt khi Triệu Văn Vương của nước Nam Việt là Triệu Hồ (con Trọng Thủy, cháu Triệu Đà) trình cho Hán Vũ đế biết việc Mân Việt mang quân đánh Nam Việt (135 TCN).

Sách Hoài Nam Tử là bộ sách của Đạo gia, được viết bởi tám học giả ở vùng Hoài Nam gọi là Hoài Nam bát tiên, dưới sự chỉ đạo của Hoài Nam Vương Lưu An. Sách này được trình cho Hán Vũ Đế xem năm 139 TCN. Sách này ra đời trước cả bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên (145 TCN - 93 TCN, đây là bộ chính sử sớm nhất của Trung quốc, hoàn tất năm 97 TCN). Nhà Tần đặt Lĩnh Nam thành quận huyện năm 214 TCN, sách Hoài Nam Tử hoàn tất năm 139 TCN, được viết sau biến cố này 75 năm, tương đối khá ngắn so với chiều dài của lịch sử, nên người viết nhận thấy sự khả tín khá cao, hơn nữa có lẽ đây là sách duy nhất nói về việc này còn lưu truyền. Vì thế sự tìm hiểu về việc tiến quân của quân Tần được đặt căn bản theo đoạn văn đã trích dẫn ở trên của sách Hoài Nam Tử.

Qua sử liệu, chúng ta biết quân Tần vượt Ngũ Lĩnh để xâm chiếm Lĩnh Nam. Câu hỏi được đặt ra là Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam ở đâu so với địa danh ngày nay.

b. Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam

Bản đồ số 1 - Ngũ Lĩnh (ngày nay là Nam Lĩnh)

Bản đồ số 2- Ngũ Lĩnh-chi tiết

Ngũ Lĩnh

Là rặng Nam Lĩnh ngày nay, gồm 5 rặng núi nằm kế nhau theo hướng đông bắc, từ phía tây qua đông theo thứ tự như sau:

Việt Thành lĩnh (Yuechengling )

Đô Bàng lĩnh (Dupangling )

Minh Chử lĩnh (Mengzhuling )

Kỵ Điền lĩnh (Qitianling )

Đại Du (Dữu) lĩnh (Dayuling )

Rặng Ngũ Lĩnh kéo dài từ phía bắc tỉnh Quảng Tây sang đến một phần phía bắc tỉnh Quảng Đông. Ngũ Lĩnh phân chia ranh giới các tỉnh Hồ Nam - Quảng Tây, Hồ Nam - Giang Tây - Quảng Đông, thành hai vùng địa lý khác biệt.

Phía bắc Ngũ Lĩnh, tỉnh Hồ Nam có sông Tương theo hướng nam- bắc chảy vào hồ Động Đình và sông Dương Tử. Sông Cám (hay Cống giang) cũng theo hướng nam - bắc chảy vào hồ Bá Dương.

Phía nam, ở tỉnh Quảng Tây có sông Li theo hướng bắc - nam chảy vào sông Chu. Quảng Đông có sông Bắc cũng theo hướng bắc – nam chảy vào sông Tây (Tây giang).

Rặng Ngũ lĩnh không cao, trung bình từ 1000 tới 1500 mét (khoảng 3300 tới 5000 feet). Tuy nhiên rất hiểm trở và khó vượt qua bằng đường bộ.

Những quan ải tại Ngũ Lĩnh:

Sử Ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyện: " (Nhâm) Ngao chết, Đà lập tức truyền hịch bảo các cửa quan Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàng Khê rằng: Quân giặc sắp đến, phải chặn ngay đường, tụ tập quân sĩ để tự bảo vệ".

Hoành Phổ quan, là Mai quan ngày nay (Meiguan) (8). Đây là một cửa ải quan trọng bậc nhất trên rặng Ngũ Lĩnh từ Hoa hạ đến Lĩnh Nam. Ngày nay tại đây vẫn còn một thị xã nhỏ sát ranh giới Giang Tây và Quảng Đông mang tên này. Từ Mai quan tới thị xã Nam Hùng tỉnh Quảng Đông khoảng 30 km ( 19 dặm). Thời Tần có tên là Hoành Phổ quan, cửa quan này nằm trên Đại Du (Dữu) lĩnh là một trong Ngũ Lĩnh, rất hiểm trở khó qua lại. Thời Đường gọi là Tần quan. Năm 716, Tể tướng Trương Cửu Linh (9) mở rộng thêm bằng cách đục đá xuyên qua núi bên dưới lối đi cũ để bớt độ dốc và lát gạch cho dễ qua lại. Phía bắc cửa ải có khắc hàng chữ "Nam Việt Hùng quan", phía nam có khắc hàng chữ "Lĩnh Nam Đệ Nhất quan".

Dương Sơn quan (10) ở phía đông nam Kỵ Điền lĩnh, gần Liên giang ( Lian jiang). Ngày nay thuộc huyện Dương Sơn (Yangshan), Thanh Viễn thị, góc tây bắc tỉnh Quảng Đông.

Hoàng Khê quan ở phía nam Kỵ Điền lĩnh, gần núi Hoạt Thạch, chỗ 3 con sông hợp lại là Bắc Giang (Beijiang), Liên giang ( Lianjiang) và Ống giang (Wengjiang) . Ngày nay thuộc huyện Anh Đức (Yingde), Thanh Viễn thị (Qingyuan), phía bắc đô thị Quảng Châu.

Ngoài những ải trên được ghi lại trong Sử Ký, còn có Ly Thủy quan là chỗ Sử Lộc đào kinh Linh Cừ thông thủy đạo từ Tương giang nối với Ly giang để chuyển lương trong chiến dịch xâm chiếm Lĩnh Nam.

Lĩnh Nam.

Địa thế: Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của rặng Ngũ Lĩnh. Tuỳ theo sự giải đoán của từng người hay nói chung là tùy theo quan niệm của từng dân tộc. Người Trung Quốc gọi vùng Lĩnh Nam là đất của người Bách Việt gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến và phía nam của Chiết Giang (vùng đất của các nước cổ thời là Mân Việt và Đông Việt). Người Việt Nam gọi Lĩnh Nam là vùng đất gồm Quảng Tây, Quảng Đông và Cổ Việt là Bắc Việt ngày nay, vì trong cổ sử của nước Việt nói về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng như sau: ĐVSKTT:" Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:... Cho nên Trưng Nữ Vương tuy đánh lấy được đất Lĩnh Nam, nhưng không giữ được nơi hiểm yếu ở Ngũ Lĩnh, rốt cuộc đến bại vong" cũng như truyện "Lĩnh Nam Chích Quái"của Trần Thế Pháp. Trong khi đó học giả Tây Phương (11) nói Lĩnh Nam chỉ gồm có hai tỉnh là Quảng Tây và Quảng Đông. Tuy nhiên, nếu hiểu một cách phổ quát thì Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của Ngũ Lĩnh, gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, đảo Hải nam, phía nam Chiết Giang và Bắc Việt Nam ngày nay. Vùng đất có các sắc dân không thuộc Hán tộc, khác hẳn về ngôn ngữ, phong tục và văn hoá với dân vùng Hoa Bắc và Hoa Nam thời cổ.

Phía tây Lĩnh Nam là vùng cao nguyên của hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu, cũng là phía tây của tỉnh Quảng Tây với rặng Ô Mông sơn (Wumeng shan) và Lục Chiếu sơn (Liuzhao shan (sát với biên giới Việt Nam- Vân Nam và Quảng Tây). Đây là những rặng núi tương đối khá cao để có thể phân biệt về ranh giới thời cổ. Phía đông bắc Lĩnh Nam là các rặng núi Vũ Di sơn, Tải Vân Sơn và Liên Hoa Sơn, phân chia hai vùng Lĩnh Nam và Dương Việt (huyện Mân Trung thời Tần). Phía đông và phía nam của Lĩnh Nam giáp biển Nam Hải.

Vùng Lĩnh Nam có sông lớn thứ 3 của Trung Quốc là Tây Giang sau Hoàng Hà và Dương Tử (Trường giang), Đây là thủy đạo chính của vùng Lĩnh Nam. Sông này tùy từng đoạn đã được đặt bằng những tên khác nhau. Các đoạn sông này nối tiếp với nhau từ tây qua đông theo thứ tự sau: Nam Bàn giang (tên cổ thời là sông Tường Kha) - Hồng Thủy hà, Tây giang và Chu giang là đoạn nối với biển Nam Hải.

Sông Tây giang có những chi lưu chính ở phía bắc như Bắc Bàn giang, Liêu giang, Li giang, Bắc giang và Đông giang. Những chi lưu ở phía nam như Hữu giang và Tả giang (phát nguyện từ bắc Việt Nam) hợp lại là Uất giang, chảy vào Tây giang.

Khí hậu Lĩnh Nam khác hẳn với khí hậu Hoa hạ. Phía bắc Ngũ Lĩnh lạnh và khô, nhiều khi mùa đông có tuyết, nhưng phía nam Ngũ Lĩnh – Lĩnh Nam- thì ấm áp quanh năm, đây là vùng khí hậu nhiệt đới. Nhiệt độ thay đổi từ 10°C (tháng 11, 12, 1, 2) đến 30°C (tháng 5, 6, 7, 8). Thời gian trồng cấy từ 250 đến 320 ngày trong một năm ( nhiệt độ tối thiểu để có thể cấy lúa là 10°C). Lĩnh Nam có nhiều mưa, tháng 5, 6, 7, 8 là mùa mưa, cao điểm là tháng 6, vũ lượng lên tới 25cm (10 inches). Vũ lượng cho cả năm khá cao, 170 cm (67 inches) tại Quảng Châu, 200 cm (80 inches) tại Hồng Kông, 180 cm (71 inches) tại Hà Nội.

Lịch sử: Trước khi quân Tần theo lệnh của Tần Thủy Hoàng đi mở rộng đế quốc nhà Tần về phía nam, Lĩnh Nam không có những liên hệ nào đáng kể với vùng Hoa Hạ, ngoại trừ những việc giao thương rất lẻ tẻ qua những vùng có thể đi bằng đường bộ (12). Sự qua lại cực kỳ chật vật vì phải vượt qua những đường đèo hiểm trở tại rặng Ngũ Lĩnh. Văn hoá của Trung Quốc chưa xâm nhập vào vùng Lĩnh Nam. Về phía đông bắc, sau khi nước Sở và Tề xâu xé nước Việt của Câu Tiễn (13) năm 333 TCN, hậu duệ của vua Việt và một số dân Việt chạy về phía nam là hai tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến. Tại đây hai nước nhỏ được lập nên là Đông Việt và Mân Việt, vùng này được gọi chung là Dương Việt. Phía tây bắc của Lĩnh Nam có nước Dạ Lang thuộc tỉnh Quý Châu, phía tây Lĩnh Nam có nước Điền ở vùng hồ Điền Trì sát đô thị Côn Minh, tỉnh Vân Nam ngày nay. Mới đây các nhà khảo cổ đã khai quật được 118 di chỉ của nước Điền, từ những di chỉ này, chúng ta biết dân nước Điền rất điêu luyện về cách đúc đồng thau (bronze) (14) lúc cổ thời. Tại trung tâm của Lĩnh Nam có nước Tây Âu là một nước khá lớn, nước này đã chống trả lại đội quân nam chinh của Tần Thủy Hoàng một cách kịch liệt. Phía cực nam của Ngũ Lĩnh là nước Âu Lạc tức là Giao Chỉ hay nước Việt Nam thời cổ.

Các sắc tộc: Lĩnh Nam (Quảng Đông, Quảng Tây và cổ Việt) gồm nhiều sắc tộc, người Hán gọi chung là người Bách Việt, gồm nhiều bộ tộc đã định cư ở đây từ lâu đời. Cổ thời, trước khi nhà Tần mang quân xâm chiếm, Lĩnh Nam có hai sắc tộc chính thuộc chủng tộc Thái là Tráng (15) (Zhuang) ở vùng Quảng Tây và Quảng Đông, Lê (16) (Li) ở vùng bán đảo Lôi Châu (Leizhou) và ven đảo Hải Nam (17). Xa về phía nam là chủng tộc Lạc Việt tại vùng Âu Lạc. Sau này lại có các sắc tộc thiểu số khác di dân đến đây sinh sống như người H’Mông(18), người Dư (19), Di tộc (Lô Lô) (20), người Dao (21) v.v…

Dân số Lĩnh Nam:

Theo như Hán Thư, Điạ Lý chí của Ban Cố thì các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, cộng lại được 215,448 nhà, và số nhân khẩu là 1,272,390 (22) người. Đây là dân số Lĩnh Nam theo thống kê thời Tiền Hán (206 TCN – 9 ).

Nước cổ Việt (Âu Lạc) gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tổng cộng là 143643 nhà và 981,835 người.

Vùng Quảng Tây và Quảng Đông gồm 4 quận Nam Hải, Hợp Phố, Thương Ngô và Uất Lâm là 71,805 nhà và 390,555 người.

Tỷ lệ dân số cổ Việt nhiều hơn 2.5 lần so với dân số hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây

Tuy nhiên, không phải tất cả dân chúng tham gia kiểm kê, nên người viết phỏng đoán là dân số Lĩnh Nam ở đầu thế kỷ thứ nhất có khoảng 2 triệu người. Ngược lại 2 thế kỷ, trước khi nhà Tần sang xâm chiếm, người viết phỏng đoán dân số tại Lĩnh Nam có khoảng 1.5 triệu người: 500 ngàn tại vùng Quảng Tây và Quảng Đông (23), 1 triệu người tại cổ Việt.

c. Những địa điểm đóng quân

Sau vài nét đại cương về Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam, người viết xin trình bày từng địa điểm đồn trú của quân Tần, mà sách Hoài Nam Tử đã viết. Những vị trí này được truy tầm qua các tài liệu cổ của Trung Quốc như: Sử Ký, (Tiền) Hán thư, Hậu Hán thư, Tấn thư, Thủy Kinh chú, Thủy Kinh chú sớ, cùng với bản đồ của Trung Quốc và các phương tiện truyền thông tinh vi ngày nay như "Internet và ""Google Earth". Sau đó sẽ phỏng đoán đường hành quân đặt căn bản qua các tài liệu trên, để chúng ta có một khái niệm tổng quát về chiến dịch xâm lăng Bách Việt của quân Tần.

Đàm Thành

Theo Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" (24) thì Đàm Thành là một huyện của quận Vũ Lăng thời Hán (quận Kiềm Trungthời Tần). Thời Hậu Hán, Hán Quang Vũ chia quận này ra làm 6 huyện. Đàm Thành là một trong 6 huyện, tọa lạc tại phía tây nam của quận Vũ Lăng.

Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong "Thủy Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 37, trang 483): "Sông Ngân Thủy ra từ khe Nguyên Thủy ở biên giới phía bắc huyện Tầm Thành (25) (nv: Đàm Thành, xin coi ghi chú) quận Vũ Lăng".

Quận Vũ Lăng, theo Hán Thư của Ban Cố, "Địa lý chí", quyển 28 hạ (26), thì Vũ Lăng là một trong các quận của nước Sở ngày trước.

Theo như bản đồ ngày nay thì quận lỵ của Vũ Lăng là Hoài Hoá thị ở phía tây tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc, phía nam rặng núi Vũ Lăng. Hoài Hoá thị có sông khá lớn là Nguyên giang (27) chảy qua. Sông này bắt nguồn từ ranh giới Quý Châu, Quảng Tây và Hồ Nam, chảy về hướng đông-bắc đổ nước vào vùng hồ Động Đình.

Đàm Thành toạ lạc tại Tịnh huyện (Tịnh châu Miêu tộc đồng tộc tự trị huyện), thuộc Hoài Hóa thị (Huaihua), phía tây nam tỉnh Hồ Nam, là một trong 12 thành của quận Vũ Lăng thời Hán (quận Kiềm Trung thời Tần).

Người viết phỏng đoán thành này nằm trên bờ sông Nguyên, là thị trấn Tịnh Châu (Jing Zhou) của tỉnh Hồ Nam ngày nay. Vì đây là một vùng phẳng duy nhất để có thể đủ chỗ cho 100 ngàn quân trú đóng và tiện việc vận chuyển quân lương bằng đường thủy.

Bản đồ số 3 - 3 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Đàm Thành, Cửu Nghi, Nam Dã

Cửu Nghi

Theo Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" (28) thì Cửu Nghi là một vùng núi ở quận Linh Lăng.

Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong "Thủy Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 38, trang 519) (29): “… Lại chảy về phía đông bắc, qua phía tây huyện Tuyền Lăng.Sông Doanh Thủy ra từ núi Lưu Sơn ở phía nam huyện Linh Đạo quận Doang Dương, chảy về phía tây đi qua dưới núi Cửu Nghi, chân núi uốn khúc khắp đồng Thương Ngô, ngọn núi mọc cao vút trong khoảng mấy quận. Núi bày ra chín ngọn, một ngọn dẫn một con suối, núi khe hiểm trở, núi tuy khác nhau, nhưng hình thế giống nhau, làm cho du khách nghi hoặc, cho nên gọi là núi Cửu Nghi ”.

Cửu Nghi Sơn: địa danh này ngày nay vẫn còn. Tọa lạc Vĩnh Châu thị (Yongzhou), cách huyện Ninh Viễn (Ningyuan) khoảng 15 km (chừng 10 miles) về phía nam, nằm gần cực nam tỉnh Hồ Nam, một trong những núi thuộc Minh Chử lĩnh (sát ranh giới Hồ Nam - Quảng Đông). Đỉnh cao nhất là núi Phấn Cơ (Fenji -1959m). Phía bắc chân núi này vẫn còn một thị xã nhỏ có tên là Cửu Nghi.

Phía đông núi Cửu Nghi có sông Xuân Lăng, sông này thông với Tương giang ở phía bắc tại thị trấn Hành Dương (Hengyang-tỉnh lớn thứ nhì của tỉnh Hồ Nam sau Trường Sa).

Bên bờ sông Xuân Lăng ngày nay có thị trấn Lam Sơn (Lanshan) tương đối khá phẳng Người viết phỏng đoán là một đạo quân Tần đã đóng ở đây để tìm cách vượt Ngũ Lĩnh.

Phiên Ngung

Bản đồ số 4 - 1 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Phiên Ngung

Điạ danh này đã được nói tới trong Sử Ký của Tư Mã Thiên - "NamViệt Úy Đà liệt truyện" ba lần. Đây là kinh đô của nưóc Nam Việt thời Triệu Đà. Khi quân nhà Hán mang quân sang đánh Nam Việt (thời Triệu Ai vương là vua chót của nhà Triệu -112 TCN). Sử Ký, bản dịch của Nhữ Thành : " Sau quân Việt mở thẳng đường, mang lương thực người Việt đem quân đánh bọn Thiên Thu, diệt được họ cách Phiên Ngung bốn mươi dặm,...Năm thứ năm niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 112 trước Công nguyên.....đưa quân từ đất Dạ Lang xuống đường sông Tường Kha. Các quân ấy đều gặp nhau ở Phiên Ngung.....Năm thứ sáu niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 111 trước Công nguyên), mùa đông..... Phục Ba cùng quân của Lâu thuyền họp lại mới có được hơn nghìn người, bèn cùng tiến. Quân của Lâu thuyền đi trước đến Phiên Ngung, Kiến Đức cùng Gia đều giữ thành.

Tuy nhiên, trong các cổ sử của Trung Quốc, nếu phiên dịch ra Hán Nôm thì đều gọi là Phiên Ngu. Như đã trích dẫn trong sách Sử Ký, quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận được thành lập thời Tần. Sau khi Hán Vũ đế chiếm Nam Việt (111 TCN), đặt Nam Hải là một quận của Giao châu.

Hán thư của Ban Cố viết: Nam Hải là một trong 7 quận thời Tiền Hán (30) thuộc Giao châu, đất của Triệu Đà, Phiên Ngung là thủ đô. Giao châu gồm các quận: Thương Ngô - Uất lâm - Hợp Phố - Giao Chỉ - Cửu Chân - Nam Hải - Nhật Nam. Nam Hải là đất của người (Bách)Việt. Sau đó (cũng năm 111 TCN) đã đặt thêm hai quận là Đam Nhĩ và Chu Nhai (31) ở đảo Hải Nam.

Hậu Hán thư của Phạm Việp viết là Phiên Ngung thuộc quận Nam Hải (32), là một trong những quận thuộc Giao châu thời Hán

Theo Tấn thư, Phiên Ngung (Ngu) là một trong 6 huyện của quận Nam Hải. Quận Nam Hải gồm có Phiên Ngung, Tứ Hội, Tăng Thành, Bác La, Long Xuyên và Bình Di (33).

Qua những trích dẫn trên, chúng ta biết là Phiên Ngung nằm ở thị trấn Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay, tại đây đã tìm được mộ phần của Nam Việt Văn Vương Triệu Hồ (137 TCN -125 TCN).

Phiên Ngung (Ngu) ngày nay vẫn còn tên và là một chi khu trong đô thị Quảng Châu. Nếu tra cứu trong bản đồ thì Phiên Ngung ( Panyu) là một trong 12 đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Châu, phía đông nam, kế cận với xa lộ vòng quanh đô thị này.

Một trong 5 đạo quân Tần (mà người viết phỏng đoán là dưới sự lãnh đạo của Nhâm Ngao) đã vượt Ngũ Lĩnh đến đây chiếm đóng. Đạo quân không gặp sức kháng cự nào đáng kể của dân Bách Việt.

Nam Dã

Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" viết (34): Nam Dã là một huyện của quận Dự Chương. Huyện này được đặt ra từ thời Cao đế nhà Tiền Hán (Hán Cao Tổ Lưu Bang, 206 TCN - 195 TCN).

Quận Dự Chương có những huyện : Nam Xương, Kiến Thành, Tân can, Nghi Xuân, Lư Lăng, Cám (hay Cống), Vu Đô, Nam Dã, Nam Thành, Bá Dương, Lịch Lăng, Dư Hãn, Bành Trạch, Bành Lãi, Thạch Dương, Lâm Nhữ, Kiến Xương, Sài Tang, Ngải, Hải Hôn hầu quốc, Bình Đô hầu quốc.

Tấn thư viết Nam Dã là một huyện của quận Lư Lăng. Quận này do nhà Ngô dựng lên thời Tam Quốc (35) (220 - 280)

Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong "Thủy Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 39, trang 655) (36): " Sông Cống (Cám ) Thũy ra từ phía tây huyện Nam Dã quận Dự Chương, chảy về phía bắc qua phía đông huyện Cống.

Ban Cố gọi là huyện Nam Dã, nơi sông Bành Thủy chảy ra, chảy vào phía đông vào sông Hồ Hán.....Lưu Trừng Chi nói:... Sông Dự Chương dẫn nguồn chảy về phía đông bắc, đi qua phía bắc huyện Nam Dã".

Sông Dự Chương mà Ban Cố viết là Cám (Cống) giang ngày nay.

Huyện Nam Dã quận Dự Chương thời Tần ở về phía cực nam tỉnh Giang Tây, thuộc Tráng (Cám) Châu thị ( Ganzhou shi), thị trấn Tráng (Cám) Châu, phía đông bắc của Mai quan (thời Tần là Hoành Phổ quan) thuộc Dại Du lĩnh, tọa lạc trên bờ đông nam của Cám (Cống) giang. Sông này là thủy lộ chính theo hướng bắc-nam của tỉnh Giang Tây.

Một đạo quân khác đến đồn trú tại Nam Dã, sau khi đạo quân trước đã tiến vào Lĩnh Nam và chiếm đóng Phiên Ngung.

Dư Can

Bản đồ số 5 - 1 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Dư Can

Trước khi tìm hiểu về vị trí của địa danh này, người viết xin trình bày một vấn đề về từ ngữ có liên quan đến chữ "can", vì chữ này đã gây trở ngại rất nhiều cho người viết trong việc tra cứu.

餘干 phiên dịch là "Dư Can", bản sao lại là chữ Hán phồn thể, nên chỉ có thể dịch là "Dư Can". Nếu chữ là giản thể thì có thể dịch là "Dư Can" hay "Dư Hãn". Nếu chữ thêm bộ "thủy" thành chữ thì có thể phiên dịch chữ Hán phồn thể là "can" hay "hãn"

Các bộ cổ sử như Hậu Hán thư, Tấn thư viết là : , có thể phiên dịch là "Dư Can" hay "Dư Hãn". Dù cổ sử được viết như thế, nhưng người viết không thể phỏng đoán một cách vô căn cứ là sách Hoài Nam Tử viết chữ "can" thiếu bộ "thủy", để có thể đọc là "hãn" cho phù hợp với cổ sử. Trở ngại này do khả năng Hán học của người viết quá thô thiển.

Sự tra cứu tưởng như phải ngưng ở đây vì chữ "can", vì người viết nghi ngờ chữ "can" có thể phiên dịch là "can, hãn", vì nghĩ là đã bị ghi sai khi chuyển lên ấn bản điện tử. May mắn thay! Sự việc đã không như thế, sách "Thủy Kinh Chú sớ" của hai học giả Dương Thủ Kính và Hùng Hội Trinh (37) đã giải thích về chữ “can” và “hãn” khá rõ ràng như sau:

Bản dịch : Nguyễn Bá Mão dịch từ "Thủy Kinh Chú Sớ", (quyển 33 đến quyển 40).

Trang 684: "Sông Cống Thủy lại chảy về phía bắc, đi qua huyện Nghiêu Dương (38), Thủ Kính chú: thời Hán, huyện thuộc quận Dự Chương, thời Hậu Hán y theo, thời Ngô thuộc quận Bà Dương, thời Tấn y theo, thời Tống bớt. Huyện ở phía tây bắc huyện Bà Dương ngày nay 120 dặm(39), là huyện Dự Chương thời Vương Mãng. Có sông Dư Thủy chảy vào. Sông Dư Thủy ra về phía đông ở huyện Dư Hãn, thời Vương Mãng gọi là Trị Can. Sông Dư Thủy chảy về phía bắc đến huyện Nghiêu Dương chảy vào sông Cống Thủy. Thủ Kính chú: "Hán chí", "Tấn chí" viết chữ "hãn" là "mồ hôi", "Tống chí" và "Tề chí" viết chữ "can" là "liên can". Thời Hán, huyện Dư Hãn thuộc quận Dự Chương, thời Hậu Hán y theo, thời Ngô thuộc là quận Bà Dương, các thời Tấn, Tống, Tề, Lương y theo. Huyện ở phía đông bắc huyện Dư Can ngày nay".

Vậy nếu theo như giải thích của học giả Dương Thủ Kính thì chữ "Dư Hãn" trong "Hán Chí" (Hậu Hán thư, Chí) và "Tấn chí" (Tấn thư, Chí) cũng là chữ "Dư Can" như trong sách Hoài Nam Tử, nhưng đã bị thay đổi theo thời gian. Vậy cũng có thể hiểu "Dư Can" thời Tần cũng là "Dư Hãn" thời Hán; như đã viết trong sách Hoài Nam Tử.

Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" viết Dư Hãn là một huyện của quân Dự Chương (xin đọc trong trích dẫn nói về huyện Nam Dã).

Tấn Thư viết Dư Hãn là một huyện của quận Bá (Bà) Dương (Poyang) thời Ngô (40)

Qua những trích dẫn trên, ta có thể biết được là “Dư Can” trong sách Hoài Nam Tử tọa lại tại huyện Dư Can tỉnh Giang Tây ngày nay. Huyện lỵ là thị xã Dư Can ở sát phía bắc của sông Tín (Xin jiang ).

Dư Can thủy

Địa danh Dư Can đã được biết qua dẫn chứng trên, tuy nhiên vị trí sông Dư Can vẫn chưa biết rõ. Qua câu phiên dịch sách “Thủy Kinh Chú sớ” : “Sông Dư Thủy ra về phía đông ở huyện Dư Hãn” (Thuỷ đông xuất Dư Hãn huyện). Ta có thể biết rằng sông Dư Thủy nói ở đây là sông Dư Hãn, cũng là Tín giang (Xin jiang ) ngày nay. Sông này bắt nguồn từ rặng Vũ Di sơn (Wuyi shan) chảy về phía tây, hợp với một nhánh của sông Cám đổ vào hệ thống sông ngòi phức tạp quanh vùng hồ Bá Dương.

Một đạo quân Tần đã dùng thủy đạo đến đóng tại thượng lưu Dư Hãn thủy (Tín giang), gần ranh giới phía đông bắc tỉnh Giang Tây và tây bắc tỉnh Phúc Kiến, để chuẩn bị vượt Vũ Di Sơn tiến vào Mân Việt. Người viết phỏng đoán quân Tần đã đóng gần thị xã Ưng Đàm ( Yingtan) ngày nay, vì tại đây có đường xe lửa cũng như xa lộ băng qua Vũ Di Sơn tới Nam Bình (Nanping) và Phúc Châu ( Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến (Mân Việt thời Tần) là hai thị trấn lớn. Điều này ám chỉ là ngày xưa có thể có đường bộ băng qua vùng núi này. Hơn nữa khi vừa băng qua Vũ Di sơn là có sông Phú Đồn ( nối với sông Mân. Đây là thủy lộ thuận tiện nối Nam Bình với Phú Châu).

Vậy là chúng ta đã biết được 5 địa điểm đóng quân của 500 ngàn quân Tần trong chiến dịch xâm lăng Bách Việt. Những địa điểm này được ghi lại trong bản đồ đính kèm dưới đây:

Bản đồ số 6 - 5 địa điểm đồn trú của quân Tần (tổng quát)

Bản đồ số 7 - 5 địa điểm đồn trú của quân Tần

(1) Phiên âm Hán Nôm: “Tam thập tam niên , phát chư thường bô vong nhân, chuế tế, cổ (giả) nhân lược thủ Lục Lương địa , vi Quế Lâm,Tượng quận, Nam Hải , dĩ thích khiển thú”.

(2)" 209 +(13-1) = 221 TCN" : năm thứ 1là 209 TCN, đếm thêm 12 (thứ 13) là 221 TCN

(3) Độc giả có thể sao lại nguyên bản bằng chữ Hán tại: http://www.geocities.../HuaiNanZi.html

(4) Nguyên bản:

(5) Đương nhiên là người viết có thể có những thiếu sót và sai lầm trong đoạn phiên dịch này, xin các bậc tinh thông Hán học chỉ bảo.

(6) Người viết dùng tên Sử Lộc như trong sách "Việt Sử Toàn Thư ", của sử gia Phạm Văn Sơn, trang 56

(7) Lưu An được phong Hoài Nam Vương (164BC) . Ông không nhập bọn theo "loạn 7 nước năm 154 TCN" thời Hán Cảnh Đế, nên được triệu về Trường An để tham chính . Nguồn: Hán Thư của Ban Cố quyển 44, " Hoài Nam Hành Sơn Tế Bắc vương liệt truyện"

(8) Tham khảo từ sách "Tigers, Rice, Silk & Silt" của Robert B. Marks, trang 21-24, và trong http://en.wikipedia.org/wiki/Mei_Pass

(9) Trương Cửu Linh (Zhang Jiuling 678-740, thời Đường Huyền Tông 712-756). Ông này quê ở Thiều Quan (Shaoguan), phiá tây nam Mai quan, nên hăng hái mở đường thông thương giũa Hoa Hạ và Lĩnh nam

(10)Sử Ký: Tam gia chú

Dương Sơn, Linh Tác ẩn diêu thị án :Địa Lý chí vân Yết Dương hữu Dương Sơn huyện . Kim thử huyện thượng lưu bách dư lý hữu Kỵ Điền lĩnh , đương thị Dương Sơn quan .

(11) Robert B. Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment and Economy in Late Imperial South China", Cambridge University Press, 1998

(12) Hidden Trade Routes of The South : http://www.uglychine.../vietnamese.htm

(13)Lúc này vua nước Việt là Việt Vương Vô Cương 337 TCN-333 TCN

(14) Độc giả có thể xem những di chỉ này tại: http://news.gov.hk/e...109en20004.htm#

(15) Ngày nay, Quảng Tây là Tráng tộc tự trị khu (Guangxi Zhuang Autonomous Region). Tổng số dân tộc Tráng khoảng 18 triệu người.

(16) Lê tộc ngày nay có khoảng 1.3 triệu người, hầu hết định cư tại đảo Hải nam

(17) Robert B. Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment and Economy in Late Imperial South China", Cambridge University Press, 1998, trang 54.

(18) H’Mong ( Miao), tên cũ để gọi dân tộc thời xưa là Miêu tộc, tiếng Việt gọi là người Mèo. Đây là một sắc tộc rất lớn, dân số lên tới 7.5 triệu người. Dân tộc H’Mông định cư tại các tỉnh của Trung Quốc như Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Hồ Nam, Tứ Xuyên, Hải Nam. Tại Việt Nam có khoảng có khoảng 800 ngàn người. Tại Hoa Kỳ có khoảng 275 ngàn người.

(19) Dư tộc (She) khoảng trên 600 ngàn người, định cư tại các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tây và Quảng Đông

(20) Di tộc ( Yi ) tiếng Việt gọi sắc tộc này là Lô Lô. Đây là sắc tộc lớn khoảng 6.5 triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc. Việt Nam có khoảng hơn 3 ngàn người Lô Lô tại các tỉnh Hà Giang, Lào Cai và Cao Bằng.

(21) Người Dao (Yao) khoảng tr ên 2 triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông của Trung Quốc. Vi ệt Nam có khoảng nửa triệu người Dao.

(22) Quận Nam Hải: 19613 nhà, 94253 người. Quận Uất Lâm: 12415 nhà, 71162 người. Quận Thương Ngô: 24379 nhà, 146160 người. Quận Hợp Phố: 15398 nhà, 78980 người. Quận Giao Chỉ: 92440 nhà, 746237 người. Quận Cửu Chân: 35743 nhà, 166113 người. Quận Nhật Nam: 15460 nhà, 69458 người .

(23) Theo tác giả Robert B. Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment and Economy in Late Imperial South China", Cambridge University Press, 1998, trang 55, Lĩnh Nam gồm Quảng Đông và Quảng Tây (năm 206 TCN đến 200 TCN) có khoảng 72,000 nhà và từ 350,000 tới 400,000 người

(24) Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", phiên dịch Hán Nôm: "Vũ Lăng quận Tần Chiêu Vương trí, danh Kiềm Trung quận, Cao Đế ngũ niên cánh danh. Lạc Dương nam nhị thiên nhất bách lý. Thập nhị thành, hộ tứ vạn lục thiên lục bách thất thập nhị (46672), khẩu nhị thập ngũ vạn cửu bách nhất thập tam (250913)...... Lâm Nguyên Hán thọ cố tác, Dương gia tam niên cánh danh, thứ sử trị. Sàn (sán) Lăng, Linh Dương, Sung, Nguyên Lăng tiên hữu Hồ Đầu sơn. Thần Dương, Dậu Dương, Thiên Lăng, Đàm Thành, Nguyên Nam, Kiến Vũ nhị thập lục niên (36AD) trí.

(25) Thuỷ Kinh Chú quyển tam thập thất : "Ngân Thuỷ xuất Vũ Lăng Đàm Thành huyện bắc giới Nguyên thuỷ cốc".

(26) Phiên dịch Hán Nôm: "Sở địa, dực - chẩn chi phân dã. Kim chi Nam quận - Giang Hạ - Linh Lăng - Quế Dương - Vũ Lăng - Trường Sa cập Hán trung - Nhữ Nam quận, tận Sở phân dã".

(27) Nguyên giang chảy qua Hồ Nam khác với Nguyên giang tại Vân Nam. Nguyên giang ở Vân Nam là thượng nguồn sông Hồng của Việt Nam.

(28)Linh Lăng quận Vũ Đế trí. Lạc Dương nam tam thiên tam bách lý. Thập tam thành, hộ nhị thập nhất vạn nhị thiên nhị bách bát thập tứ (21,284), khẩu bách vạn nhất thiên ngũ bách thất thập bát (1,001,578). Tuyền Lăng, Linh Lăng, Dương Sóc sơn Tương thuỷ xuất. Doanh đạo nam hữu Cửu Nghi sơn. Doanh Phổ linh đạo, Thao Dương, Đô Lương hữu Lộ sơn., Phù Di hầu quốc ( cố thuộc Trường Sa ) . Thuỷ An hầu quốc. Trọng An hầu quốc, cố Chung Vũ, Vĩnh Kiến tam niên (422AD) cánh danh. Tương hương, Chiêu (Thiệu) Dương hầu quốc . Chưng Dương hầu quốc, cố thuộc Trường Sa.

(29) Nguyên bản:

Phiên âm Hán Nôm: “…Hựu đông bắc quá Tuyền Lăng huyện tây . Doanh Thuỷ xuất Doanh Dương linh đạo huyện nam lưu xuất . Tây lưu kính Cửu Nghi sơn hạ , bàn cơ Thương Ngô chi dã , phong tú số quận chi dản (gian, nhàn) . La nham cửu cử , các đạo nhất khê , tụ hác phụ trở , dị lĩnh đồng thế , du giả nghi yên , cố viết Cửu Nghi sơn”.

(30) Phiên âm Hán Nôm : Hán thư, Địa lý chí, quyển 28:

" Nam Hải quận , Tần trí Tần bại , Uý Đà vương thử địa . Vũ đế Nguyên Đỉnh lục niên (111BC) khai . Thuộc Giao Châu . Hộ vạn cửu thiên lục bách nhất thập tam (19613) , khẩu cửu vạn tứ thiên nhị bách ngũ thập tam (94253) . Hữu Bổ (Phố) Tu quan. Huyện lục : Phiên Ngu, Uý Đà đô. Hữu Diêm quan. Bác La, Trung Túc, hữu Khuông Phổ quan. Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương

Việt địa, khiên ngưu - vụ nhữ (nữ) chi phân dã. Kim chi Thương Ngô - Uất lâm - Hợp Phố - Giao Chỉ - Cửu Chân - Nam Hải - Nhật Nam, giai Việt phân dã".

(31) Phiên âm Hán Nôm :Hán thư, Địa lý chí, quyển 28: "Vũ Đế nguyên phong nguyên niên (111BC) lược dĩ vi Đạm nhĩ - Châu Nhai quận".

(32) Phiên âm Hán Nôm: Hậu Hán thư , Chí đệ nhị thập nhị, quận quốc tứ : "Nam Hải quận Vũ Đế trí. Lạc Dương nam thất thiên nhất bách lý. Thất thành, hộ thất vạn nhất thiên tứ bách thất thập thất (71,477), khẩu nhị thập ngũ vạn nhị bách bát thập nhị (250,282). Phiên Ngung (Ngu), Bác La, Trung Túc, Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương, Tăng Thành hữu Lao Linh sơn".

(33) Phiên âm Hán Nôm :Tấn thư, quyển thập ngũ, chí đệ ngũ: " Giao Châu: .... Nam Hải quận Tần trí. Thống huyện lục, hộ cửu thiên ngũ bách. Phiên Ngung (Ngu), Tứ Hội, Tăng Thành, Bác La, Long Xuyên, Bình Di".

(34) Phiên âm Hán Nôm :

"Dự Chương quận Cao Đế trí. Lạc Dương nam nhị thiên thất bách lý. Nhị thập nhất thành, hộ tứ thập vạn lục thiên tứ bách cửu thập lục (406,496), khẩu bách lục thập lục vạn bát thiên cửu bách lục (1,668,906).

Nam Xương, Kiến Thành, Tân Cam, Nghi Xuân, Lư Lăng, Cám (Cống) hữu Dự Chương thuỷ. Vu Đô, Nam Dã hữu đài Linh (Lãnh) sơn., Nam Thành, Bá Dương hữu Bá thuỷ. Hoàng kim thái (thải). Lịch Lăng hữu Phó Dương sơn. Dư Hãn, Bá Dương, Bành Trạch, Bành Lãi trạch tại tây. Sài Tang, Ngải Hải Hôn hầu quốc. Bình Đô hầu quốc, cố An Bình., Thạch Dương, Lâm Nhữ, Vĩnh Nguyên bát niên (97) trí., Kiến Xương, Vĩnh Nguyên thập lục niên (105) phân Hải Hôn trí".

(35) Phiên âm Hán Nôm: Tấn thư quyển thập ngũ, chí đệ ngũ : "Lư Lăng quận Ngô trí. Thống huyện thập, hộ nhất vạn nhị thiên nhị bách (12200). Tây Xương, Cao Xương, Thạch Dương, Ba Khâu, Nam Dã, Đông Xương, Toại Hưng, Cát Dương, Hưng Bình, Dương Phong".

(36) Phiên âm Hán Nôm :

Thuỷ Kinh chú quyển tam thập cửu (39) : "Cám (Cống ) thuỷ xuất Dự Chương Nam Dã huyện tây , bắc quá Cám (Cống) huyện đông . ...

Ban Cố xưng Nam Dã huyện , Bành thuỷ sở phát , đông nhập Hồ Hán thuỷ .

Lưu Trừng Chi viết :.... Dự Chương thuỷ đạo nguyên đông bắc lưu , kính Nam Dã huyện bắc" .

(37) Nguyễn Bá Mão, người biên dịch sách “Thủy Kinh Chú sớ: “ Đến thời cận đại, vào đầu thế kỷ 20, hai nhà học gỉa gồm thầy là Dương Thủ Kính (1839-1915) và trò là Hùng Hội Trinh (?-1936), trên cơ sở sách "Thủy kinh chú" của Lịch Đạo Nguyên, đã bỏ ra toàn lực trong mấy chục năm trời, thu thập rộng rãi trong các thư tịch, gom góp lại lời của nhiều học giả, để sớ, nghĩa là chú thích kỹ hơn sách "Thủy kinh chú" hợp lại sạn thành bộ sách "thủy kinh chú sớ" cũng gồm 40 quyển, với hơn 1, 510, 000 chữ, nhiều gấp 5 lần sách "Thủy kinh chú", và gấp 100 lần sách gốc "Thủy kinh".

(38) Những chữ in đậm là phiên dịch từ "Thủy Kinh chú" của Lịch Đạo Nguyên.

Phiên dịch Hán Nôm: " Cám (Cống) thuỷ hựu bắc kính Nghiêu Dương huyện , Vương Mãng chi Dự Chương huyện dã . Dư Thuỷ chú chi . Thuỷ đông xuất Dư Hãn huyện , Vương Mãng danh chi viết Trị Can dã. Dư Thuỷ bắc chí Nghiêu Dương huyện chú Cám (Cống) thuỷ".

(39) Đây là dặm của Trung Quốc, một dặm = 0.56 Km, không phải dặm Anh (1.6 km)

(40) Phiên âm Hán Nôm :

“Tấn thư quyển thập ngũ, chí đệ ngũ: Bá Dương quận Ngô trí. Thống huyện bát, hộ lục thiên nhất bách (6100).

Quảng Tấn, Bá Dương, Lạc (Nhạc) An, Dư Hãn Nghiêu Dương, Lịch Lăng, Cát Dương, Tấn Hưng”.

Phân tích của tác giả Trần Việt Bắc rất tuyệt vời, nghiên cứu rất công phu. Tuy nhiên, còn phải logic được các sữ kiện:

- An Dương Vương lập Âu Lạc ở đâu.

- Kinh đô Âu Lạc là Cổ Loa hay? nều An Dương Vương kế thừa HÙng Vương XVIII thì kinh đô sẽ tại Phong Châu, tuy nhiên không có đấu viết của kinh đô này.

- Nam Việt tấn công Âu Lạc do biên giới Nam Việt tiếp giáp (3 quận của Tần), tuy nhiên Tần có tấn công tới Giao Chỉ không? Đương nhiên là có bởi có thành chiến (hộ thành) Cổ Loa cho Kinh thành Bạch Long Thành = Thăng Long. Chứng tích còn không? Vâng, còn lưu trữ, xác xuất 1/ triệu mà vẫn tồn tại. Kinh thành này làm sao không thấy? Bị Tần phá hủy sau khi rút lui, bởi Đồ Thư bị giết.

- Tây Âu Lạc: nghĩa là phía Tây so với Nam Việt là nước Âu Lạc, bao hàm Vân Nam, Quý Châu gồm cả Giao Chỉ. Đây là lý do không thấy thông tin chiến tranh Tần với Vân Nam và Quý Châu. Tần đánh Giao Chỉ vì đây là trung tâm của Văn Lang.

- Đền thờ An Dương Vương, Mỵ Châu, Triệu Đà, Trọng Thủy... vẫn còn tại Việt Nam. Chú ý, Lý Ông Trọng là Trọng Thủy ở Chèm vùng Hà Nội ngày nay tức thuộc Bạch Long Thành mà không ở Cổ Loa.

- Trống đồng quy tụ thứ tự ở các trung tâm: Giao Chỉ, Điền, Quảng Tây.

- Triệu Đà cửu tướng sang Giao Chỉ quản lý sau khi Âu Lạc và Nam Việt thống nhất: chính là vùng Văn Lang cổ. Tuy nhiên, vẫn có tính độc lập như Mân Việt tấn công Nam Việt sau thời Triệu Đà.

- Hán chiến Man Việt, đóng sở lỵ tại Luy Lâu và chia 9 quận và Giao Châu vẫn quan trọng nhất và nắm hết.

- Tần đặt Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận, trong đó Tượng Quận với một phần Quảng Tây và Nam Quý Châu thì sẽ:

+ Giáp biên giới Giao Chỉ, Vân Nam, Quý Châu cho nên không hàm nghĩa Tần thất bại tại Tây Âu sau khi giết được vua là Dịch Hu Tống, một cách Logic là Tần đã chinh phục được mà đấy là lý do còn lại 3 quận trong tay.

+ Biên giới giáp Giao Chỉ mà Giao chỉ là kinh đô Văn Lang cho nên, bắt buộc Tần phải chinh phục được. Tuy nhiên, giữa Vân Nam vùng Cao và Giao Chỉ liên tục nhau, làm thế "Ỷ dốc" tức liên hợp chống Tần và vì vậy, sẽ không thấy tần tấn công Vân Nam mà tập trung vào Giao Chỉ hoặc nếu có tấn công Vân Nam chỉ ngăn chặn sự bổ túc cho nhau.

+ Giao chỉ là kinh đô Văn Lang, đương nhiên quân đội mạnh nhất và trung thành nhất, cho nên trận chiên xảy ra tại đây mới có khả năng quyết định cục diện.

+ Vậy tại sao An Dương Vương cùng Triệu Đà hợp nhất trở lại? Thật siêu việt, vua An Dương Vương không muốn chiến tranh nội bộ Văn Lang xảy ra, đồng thời Nam Việt vẫn là Văng Lang, Mỵ Nương lấy Trọng Thủy sinh con thì vẫn làm vua Nam Việt. Đồng thời, vẫn có sức mạnh ngăn chặn phương Bắc một lần nữa. Đây mới là ý nghĩa chính.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hiện nay có thuyết An Dương Vương nguồn gốc từ Quảng Tây và như vậy: Triệu Đà không thể thống nhất được Nam Hải, Tượng Quận, Quế Lâm vì có phần lớn diện tích Quảng Tây, cho nên, bắt buộc An Dương Vương phải lấy lại mảnh đất này. Triệu Đà cũng nói rằng phái Tây là nước Âu Lạc, điều này khẳng định ngoài 3 quận của Nam Việt về phương Tây chắc chắn là Âu Lạc.

Một giả định An Dương Vương là thuộc vùng cao Bắc Bộ Việt Nam, tuyệt đối sự kiện này là không thể bởi Giao Chỉ là kinh đô Văn Lang rộng lớn, không có một nhân vật nào thuộc chính Giao Chỉ lại có thể thay tên quốc gia được khi các bộ xung quanh không có động tĩnh gì - tình trạng này giống như nhà Chu Trung Hoa vậy. Mặc khác, để giao chiến với Giao Chỉ thì thực lực của An Dương Vương phải tương ứng ít nhất là một Bộ của Văn Lang và nằm sát biên giới Giao Chỉ mới giao chiến vài lần...

Thời An Dương Vương, vùng Vân Nam có nhiều trống đồng loại H.II nhưng rất đặc biệt, cấu trúc lễ hội với các hình tượng được đúc trên bề mặt trống đồng - điều này khẳng định một sự thay đổi về bản chất của trống đồng và không gì khác hơn, gián tiếp khẳng định Vân Nam chính là bộ chủ An Dương Vương.

An Dương Vương cũng là niên hiệu cuối của 108 vua Hùng, Kinh Dương Vương là vua Hùng thứ nhất: chỉ ra ý nghĩa kết thúc một chu kỳ Hùng Vương với Kinh Dương Vương là mặt trời thiên đỉnh còn An Dương Vương là mặt trời lặn.

Trong lịch sử, sự kiện Triệu Vũ Đế lấy vợ người Việt cũng là một mắt xích quan trọng, và dĩ nhiên nó có lẽ cũng phải được giải thích như thế nào đấy hợp lý trong chuỗi sự kiện chung.

Một ghi chú nhỏ: Trong 15 bộ của Văn Lang, thì vùng đất Tây Tạng thuộc về Văn Lang, người dân xem Quan Âm Bồ Tát và con khỉ thần là hóa thân của ngài chính là tổ của họ.

Bà Trình Thị là ai? ở đâu? đã ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng dất nước Nam Việt như thế nào? Dưới cái nhìn tổng diện, nước Nam Việt đại diện cho ai? người dân Nam Việt là ai? Những ông vua nước Nam Việt là ai? các quận Giao Chỉ, Cửu Chân được phát triển như thế nào dưới thời nhà Triệu?

Có thật nhiều câu hỏi mà chúng ta cần tìm hiểu, không chỉ đơn thuần công nhận hay không công nhận nhà Triệu là triều vua "chính thống" của nước ta.

Sở dĩ chúng ta cần tìm hiểu về người phụ nữ Việt Nam có tên là Trình Thị trên dòng lịch sử, cũng như tìm hiểu về nước Nam Việt, bởi vì đó là thời kỳ "lịch sử truyền văn" đầu tiên, liên quan đến nước Việt ta, có thực một trăm phần trăm, được ghi chép lại bằng văn tự, không phải bằng truyền thuyết.

Giáo sư sử học Trần gia Phụng trong cuốn "Những câu chuyện Việt sử" (trang 12) đã viết: "Chuyện Văn Lang và Âu Lạc được xếp vào loại khó tin được, nhưng Tượng Quận thì không còn là chuyện hoang đường mà chắc chắn là chuyện lịch sử rõ ràng".

Cũng theo giáo sư sử học Trần Gia Phụng, dẫn chứng sách "Đất nước Việt Nam qua các đời", nhà nghiên cứu Đào Duy Anh cho rằng: "quốc hiệu Văn Lang chỉ là một tên theo truyền thuyết".

Như vậy, nước Âu Lạc cũng chỉ là "một tên trong truyền thuyết", vì Thục Phán đánh chiếm lấy một nước (Văn Lang) trong truyền thuyết để lập ra một nước Âu Lạc trong truyền thuyết.

Học giả Ngô Thời Sỹ cũng đã khẳng định: "Xét nước Việt ta lập quốc, tuy ở sau đời vua Hy và Hiệt nước Tàu, mà văn tự chưa có, ký tái còn thiếu, về phần thế thứ niên kỷ, chính trị phong tục đáng nghi hay đáng tin đều không có gì đủ làm chứng cứ"

Tiếp tục theo dẫn chứng của giáo sư Trần Gia Phụng: "nhận xét về lịch sử Hùng Vương và Thục Vương tức là những nhân vật theo truyền thuyết đã làm chủ nước Văn Lang và Âu Lạc, trong dụ ngày 12 tháng 7 năm bính thìn (12-6-1850), vua Tự Đức (trị vì 1847-1883) viết: " Việc Kinh Dương và Lạc Long mà Sử cũ đã chép, hoặc có hoặc không, dầu có nhưng không nên thảo luận đến là hơn cả..."

"Cũng như thế, học giả Lê Quí Đôn (1726-1784) trong Vân đài loại ngữ đã nhận xét: "...Tôi xét đời Hùng Vương, trên nối đời Hồng Bàng, không có chữ nghĩa gì truyền lại; về 15 bộ đặt ra thời đó, cùng với các quận huyện do nhà Hán, nhà Ngô (Trung Hoa) mới đặt ra, tên ghi lẫn lộn; tôi ngờ rằng những tên đó do các hậu nho góp nhặt vay mượn chép ra, khó mà tin được..."

Qua những dẫn chứng nêu trên, chúng ta, những kẻ hậu bối khi tìm hiểu vế lịch sử ở thời đại "Triệu Đà và nước Nam Việt trước Tây Lịch" đều tỏ ra rất hoang mang, khó hiểu, đôi khi thấy có sự mâu thuẫn trong lý luận trước sau. Lý do, đã có sự lẫn lộn về "lịch sử thành văn" với "lịch sử truyền thuyết", hay nói theo giáo sư Trần Gia Phụng, đã có sự lẫn lộn giữa "chuyện lịch sử rõ ràng" và "chuyện lịch sử khó tin được".

Như vậy, chuyện Triệu Đà đánh Tượng Quận thuộc về "chuyện lịch sử rõ ràng", còn chuyện Triệu Đà đánh lấy nước Âu Lạc thuộc về "chuyện lịch sử truyền thuyết".

Cũng vì thế, một người phụ nữ Việt Nam có tên là Trình Thị đã kết duyên với ông tướng nhà Tần là Triệu Đà, từng là mẹ, là bà nội, cố tồ nội của những ông vua nhà Triệu, đã bị bỏ quên. Điều đáng buồn hơn nữa, những ông vua nhà Triệu như Triệu Văn Vương (137-125) là cháu nội của bà mẹ Lạc Việt Trình Thị, là con trưởng của Trọng Thủy và Mỵ Châu mang 75% dòng máu Việt Nam (Lạc Việt), hay Triệu Minh vương (125-113 tr. tây Lịch) mang trên 80% dòng máu Lạc Việt, lai bị đánh đồng với những tên thái thú Tàu của thời gian Bắc thuộc (Hán thuôc...)!

Để phân biệt, chúng ta tìm hiểu thời đại "Triệu Đà và nước Nam Việt" dưới hai cách nhìn khác nhau: Cách nhìn bao quát trong cảnh giới lịch sử truyền thuyết, và cách nhìn bao quát trong cảnh giới lịch sử thành văn.

Dưới cách nhìn "lịch sử truyền thuyết", Triệu Đà đánh lấy nước Âu Lạc của vua Thục, cũng tương tự như Thục Phán đánh lấy nước Văn Lang của vua Hùng. Triệu Đà xuất quân từ quận Nam Hải (tức vùng đất thuộc tỉnh Quảng Đông) tương tự Thục Phán "xuất quân từ tỉnh Vân Nam tiến xuống lưu vực sông Nhị Hà thôn tính Tây Âu và Lạc Việt (nước Văn Lang) rồi lập ra nước Âu Lạc" (theo Phạm Văn Sơn). Cả Thục Phán lẫn Triệu Đà cùng xuất quân từ Quảng Đông, Quảng Tây, tức là vùng đất Nam Lĩnh, theo truyền thuyết là vùng đất Cổ Việt, nơi Kinh Dương Vương được truyền ngôi, dựng nước đầu tiên. Vùng đất Cổ Việt là nơi sinh tụ của những người Việt Nam đầu tiên, được coi là "cái nôi" Văn minh của miền Nam nước Tàu, bao gồm nhiều dân tộc Việt gọi là Bách Việt, trong đó người Lạc Việt là dân tộc hùng mạnh hơn cả.

Dưới cách nhìn " lịch sử thành văn", Triệu Đà ban đầu là tướng nhà Tần, trấn nhậm ở vùng đất Nam Hải. Sau Triệu Đà nổi dậy phản Tần, giết hết Trưởng Lại nhà Tần và đánh chiếm lấy đất đai của nhà Tần trong đó có Tượng Quận thuộc về miền Bắc Việt Nam ngày nay, để lập ra nước Nam việt. Dưới con mắt của Sử quan nhà Hán, không hề có nước Âu Lạc, mà chỉ có nước Nam Việt. Chúng ta sẽ tìm hiểu về vấn đề này cặn kẽ hơn vào những phần sau.

1- Bà Trình Thị là ai?

Theo sách ngoại sử, Bà Trình Thị, vợ Triệu Đà là người Lạc Việt quê ở huyện Chân Định (không phải Chân Định bên Trung Hoa). Theo Sổ Tay Địa Danh Việt Nam của Đinh Xuân Vịnh, "huyện Chân Định về đời Lê thuộc phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam, nguyên là huyện Chân Lợi, đời Lê vì kị húy vua Lê Thái Tổ nên đổi là Chân Định, lấy tên quê hương Triệu Đà ở nước Triệu bên Trung Quốc. Đà có người vợ người Việt quê ở làng Đồng Xâm, huyện Chân Định. Đời Thành Thái vì kị húy tên vua Dục Đức là Ưng Chân, đổi là Trực Định và chuyển thuộc tỉnh Thái Bình mới thành Lập (1894), từ năm 1945 là huyện Kiến Xương. Quê Nguyễn Quang Bích, Trương Quỳnh Như".

2- Bà Trình Thị đã ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng đất nước Nam Việt như thế nào?Trước khi bàn đến ảnh hưởng của người phụ nữ Việt Nam Trình Thị đối với một di dân ngoại quốc hội nhập vào xã hội nước nhà, chúng ta thử tìm hiểu qua về cuộc đời của Tướng Triệu Đà.

Triệu Vũ Vương tức Triệu Đà làm vua 70 năm, mất năm Giáp Thìn (137 trước Tây Lịch), thọ 121 tuổi (Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim, trang 32), suy ra ngài sinh năm 258 trước Tây Lịch (tr.TL).

Triệu Đà đến nước Nam ta từ bao giờ? Căn cứ vào lời lẽ trong thư gửi Hán Văn Đế vào khoảng năm 179 tr. TL sau khi Lữ Hậu mất (180 tr. TL): "Lão phu ở đất Việt đã bốn mươi chín năm nay, bây giờ đã có cháu rồi", suy ra ngài đến nước Nam ta vào khoảng năm 228 tr. TL, lúc đó 30 tuổi. Lý do Triệu Đà qua nước Nam để làm gì? và bằng cách nào? ban đầu đến ở đâu? chúng ta chưa rõ. Nhưng có lẽ Triệu Đà không qua nước Nam với tư cách là một ông tướng nhà Tần, vì khi Triệu Đà "di cư" qua nước Nam, nhà Tần chưa đem quân đánh Bách Việt (Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây). theo Trần trọng Kim, Nhà Tần đánh Bách Việt vào năm 214 tr. TL.(VNSL - Trần Trọng Kim trang 18), cách 14 năm sau khi Triệu Đà sang sinh sống tại nước ta(Khoảng thời gian 14 năm đủ cho 1 di dân lập gia đình vòi người bản xứ, hội nhập vào xã hội mới: học tiếng nói, thấm nhuần phong tục tập quán của xã hội mới Có thể, thời gian dài 14 năm này, Triệu Đà đã kết duyên với bà Trình Thị, người Phụ Nử Việt thuộc tỉnh Thái Bình là chốn địa linh nhân kiệt, đã sản sinh ra những danh nhân anh hùng như Nguyễn Quang Bích, Trương Đăng Quỹ, Trương Quỳnh Như. Người con trai trưởng là Trọng Thủy của bà mẹ Việt, đã được sinh ra trong khoảng thời gian này (Có thể, Triệu Đà di cư qua nước Nam khoảng năm 228 tr. TL, đến ở Tỉnh Thái Bình, rồi 1 hoặc 2 năm sau tức năm 227 - 226 tr. TL mới quen biết và cưới Trình Thị, và 1 hoặc 2 năm sau 225-224 tr. TL mới sanh ra Trọng Thủy. Như vậy, theo truyền thuyết khi Trọng Thủy cưới Mỵ Châu vào khoảng năm 206 tr. TL đã khoảng 18 tuổi, phù hợp với tuổi lập gia đình của người con trai).

Triệu Đà gia nhập quân đội nhà Tần sớm lắm cũng vào năm 214 tr. TL là năm quân nhà Tần xâm lăng Bách Việt. Tại sao Triệu Đà gia nhập vào quân đội nhà Tần? Có thể lúc đó nước Âu Lạc đã "thần phục" nhà Tần bằng đường lối ngoại giao, (nghĩa là vẫn giữ nguyên tình trạng tự trị trong nước), và bị nước Tần đổi tên thành Tượng Quận. Triệu Đà nhân lúc thiên hạ biến loạn đã đầu quân với tướng Nhâm Ngao, được tin dùng để mưu toan chiếm giữ vùng đất Tượng Quận để sát nhập với quận Nam Hải lập thành một nước lớn, đối đầu với nhà Hán sau này), vì Triệu Đà đã sống ở Tượng Quận (Âu Lạc) lâu năm, thấm nhuần văn hóa Lạc Việt, quen thuộc thủy thổ địa phương và rành về đường đi nước bước tại vùng đất cực Nam đối với Bắc phương này.

Bà Trình Thị quê làng Đường Sâm (sau này thuộc tỉnh Thái Bình) đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của Triệu Đà, một người nước Triệu (?) (Đinh Xuân Vịnh - Sổ Tay Địa Danh Việt Nam, trang 113) di cư qua Tượng Quận vào khoảng năm 228 tr. T.L.

Cũng nên biết thêm, nước Tần là một trong “thất hùng” thời chiến quốc, gồm có: Yên, Tề, Hàn, Ngụy, Triệu, Sở, và Tần. Nước Tần rộng lớn, lại có địa thế hiểm trở, nên hùng mạnh lên, thôn tính 6 nước trong thất hùng để trở thành một nước Tần thống nhất Trung nguyên, do Tần Thủy Hoàng lãnh đạo, lên ngôi Hoàng Đế năm 221 tr. T.L.

Vào năm 228 tr. T.L nước Triệu bị diệt (Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, trang 112). Có lẽ đây là nguyên nhân Triệu Đà phải bỏ nước ra đi, mang tâm trạng của một kẻ vong quốc, nợ nưốc thù nhà, sang vùng đất mới ở vùng cực nam Trung quốc, nương náu tại huyện Chân Lợi và gặp người con gái Việt làng Đường Sâm tên là Trình Thị. Điều này cũng giải thích tại sao Triệu Đà đã mạnh tay giết hết trưởng lại nhà Tần khi lập quốc.

Ảnh hưởng đầu tiên và sâu đậm nhất của bà Trình Thị là biến đổi Triệu Đà từ một người gốc phương Bắc (ta gọi chung là người Tàu) thành một người Việt phương Nam: “Triệu Đà mặc dầu gốc miền Bắc, nhưng vì xuống ở miền Nam lâu ngày đã bị đồng hóa bởi người Nam Việt, chấp nhận các phong tục tập quán của người Nam Việt đến độ quên hết quá khứ của mình, đúng như Lê Thành Khôi đã nhận xét.” (Phạm Cao Dương, Lịch sử dân tộc Việt Nam, quyển 1, trang 70 ).

Thứ đến, Triệu Đà lên ngôi báu, quyền lực ngang ngửa với vua Hán bên Tàu, nhưng vẫn chiều chuộng người vợ Viêt, đối xử với họ hàng bên ngoại rất hậu: “ ...:(Triệu) Đà chỉ chia Âu Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Có lẽ quận Giao Chỉ gồm hết địa phận Bắc Việt và một phần đất phía Nam tỉnh Quảng Tây nữa. Ở mỗi quận, Đà đặt một quan Điển Sứ để coi việc chính trị, hành chính, một quanTả tướng (?) coi việc quân sự, còn các quí tộc bản sứ vẫn giữ được thái ấp và trị dân như cũ. Con cháu Thục Phán ở đất Tây Vu, trung tâm điểm Loa thành vẫn được xưng vương (Tây Vu vương) và được biệt đãi hơn cả (Phạm Văn Sơn - Việt Sử Toàn Thư – trang 86, 87).

Như vậy, đem so sánh với những cuộc thay đổi triều đại trong lịch sử Việt Nam, như nhà Trần diệt nhà Lý, Nhà Nguyễn (Gia Long) diệt nhà Tây Sơn hay chế độ Cộng Sản miền Bắc diệt chế độ Tự Do miền Nam gần đây, chính sách nhà Triệu đã tỏ ra nhân đạo hơn cả: Không trả thù, không truy bức, tận diệt, không tàn sát, không đối sử phân biệt, tù đầy đối với kẻ bại trận, thử hỏi ai hơn Triệu Vũ Vương? Không những thế, họ Triệu còn anh em, họ hàng ở Chân Định, và có những kẻ thuộc hạ là người đồng hương phương Bắc, nhưng Triệu Vũ Vương chỉ truyền ngôi cho con cháu mang dòng máu Việt, dùng người Nam Việt sung vào các chức vụ quan trọng (Thừa tướng Lữ Gia và nhiều quan Đại thần đều là người Nam Việt). Tại sao vậy? Có phải đó là nhờ ảnh hưởng của bà Trình Thị, một phụ nữ Việt đã khôn khéo biết bàn bạc với chồng, cộng với chính sách ngoại giao mềm dẻo và tài trị nước của Triệu Đà? Nên nhớ rằng, nước Nam Việt là một nước tân lập, bao gồm vùng đất Bách Việt (Quảng Đông, Quảng Tây sau này) là nơi sinh sống của các dân tộc Việt như Lạc Việt, Âu Việt, Mân Việt... (2) và vùng đất của người Âu Lạc (Bắc Việt sau này). Người dân Nam Việt là những người Việt trong nhiều dòng tộc mà người Hán gọi là Bách Việt: “người Việt Nam bây giờ tức là người Lạc Việt thuở xưa sinh tụ ở miền Nam bộ Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây), sau này trôi dạt xuống lưu vực sông Nhị Hà” (Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư, trang 31).

Theo tam đoạn luận, nước Nam Việt là nước của các dân tộc Việt. Người Lạc Việt thuộc về dân tộc Việt. Vậy nước Nam Việt là nước của người Lạc Việt.

Nước Nam Việt đại diện cho ai?

Một Quốc gia được thành lập, phải bao gồm 4 yếu tố chính: 1- Có một chính quyền (triều đình), 2- Có lãnh thổ riêng với biên giới cần phòng vệ. 3- Dân chúng 4- Được các nước khác nhìn nhận và liên hệ ngoại giao.

Nước Nam Việt có đầy đủ những yếu tố kể trên: Có một triều đình do người Việt làm quan và làm vua (lai trên 50% máu Việt tộc, sau khi được Triệu Đà truyền ngôi); có lãnh thổ riêng bao gồm quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng quận ...với biên giới riêng; có dân chúng là người Nam Việt tức là những người Lạc Việt, Âu Việt...và được nước Hán nhìn nhận và liên hệ ngoại giao, mặc dù dưới hình thức "thụ phong" như hầu hết đối với các vị vua Việt Nam sau này.

Đối với nhà Hán, chỉ có một nước Nam Việt duy nhất, kinh đô đóng tại Phiên Ngung. Triều đình nước Nam Việt đại diện cho dân chúng Việt trong việc ngoại giao với nhà Hán, cũng như trong việc bảo vệ biên cương, phát triển kinh tế, nông nghiệp, thương nghiệp và giáo dục, học thuật.

Người dân Nam Việt là ai?

Như chúng ta đã biết, nước Nam việt đại diện cho người Nam việt, trong đó có nhiều sắc dân Việt (Bách Việt)kể cả những sắc dân Âu Việt và Lạc Việt là Tổ Tiên của người Việt Nam ngày nay.

Theo Phạm Văn Sơn (Việt Sử Toàn Thư): "Vào thế kỷ thứ 30 trước CL, dân Hán tộc sống ở dọc sông Hoàng Hạ Tại lưu vực sông Dương Tử thì có dân bản thổ: bên bờ sông phía Bắc có dân Miêu và Man, bên bờ phía Nam vùng Động Đình va Phiên dương có dân Việt chúng ta ở rải rác đến núi Ngũ Lĩnh, các dân ở đây đã có trình độ xã hội canh nông" (trang 48).

Nhận xét này cho thấy người Việt, Tổ tiên của người Việt Nam chúng ta ngày nay ban đầu ở rải rác trên khắp vùng đất Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam xuống tới miền Bắc Việt và một phần đất Trung Việt ngày nay.

Nhận xét này cũng phù hợp với truyền thuyết về Nước Văn Lang là nước của người Lạc Việt (Tổ tiên của người Việt Nam chúng ta).

Về cương vực (biên giới) nước Văn Lang, Sử gia Phạm Cao Dương viết:"Nước Văn Lang tương truyền rất rộng, phía đông giáp Nam hải, phía tây giáp Ba Thục, phía bắc giáp hồ Động đình và phía Nam giáp nước Hồ Tôn tức nước Chiêm Thành sau này". Ông Phạm Cao Dương cho biết thêm: " Cương giới này bị các nhà khảo cứu xưa cũng như nay cho là không thể có được.

Như vậy, vùng đất có người Việt ở trước khi nhà Tần xâm lăng đất Bách Việt, chính là vùng đất phía Nam vùng núi Ngũ Lĩnh của nước Tàu, mà người Tàu thường gọi là Nam Lĩnh, có ranh giới với phương bắc từ Động Đình Hồ. Người Hán khi đó gọi giống dân thuộc vùng Nam Lĩnh là giống Nam Man hay Nam Di. Thư của Triệu Đà gửi Hán Văn đế có câu: "Đến Cao Hậu phân biệt hoa, di khác nhau, lại ra lệnh rằng không cho nước Việt Nam được có các đồ loài kim, sắt, đồ làm ruộng, đến ngựa, trâu, dê chỉ cho con đực, không cho con cái" (Ngô Thời Sĩ - Việt Sử tiêu án trang 29).

Đúng như nhận xét của sử gia Phạm Cao Dương, tổng hợp những ý kiến của các nhà viết sử về nước Văn Lang, chúng ta đều nhận thấy cương vực nước Văn Lang theo truyên thuyết là không đúng. Tại sao vậy? Bởi vì - cũng theo truyền thuyết - nước Văn Lang được thành lập vào khoảng năm 2879 trước Tây Lịch, tương đương với đời Ngũ đế bên Tàu (khoảng 2900 đến 2350 trước Tây Lịch)là thời huyền thoại (Nguyễn Hiến Lê - Sử Trung Quốc, trang 45-47.)Thời gian này chưa có những nước lớn kiểu Đế quốc, phân chia cương vực rõ ràng và được ghi chép lại bẳng văn tự như thời nhà Tần do Tần Thủy Hoàng lãnh đạo.

Tương quan giữa những tên gọi: nước Xích Quỷ, nước Văn Lang, nước Âu Lạc, Nước Việt Thường, Giao chỉ, Tượng Quận:

- Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim) cho biết cương vực của nước Xích Quỷ: "Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải". Đây là theo truyền thuyết, và Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ.

- Việt Sử Toàn Thư (Phạm Văn Sơn, ghi chép tương tự, nhưng chỉ cho biết : "nước của Kinh Dương Vương lấy quốc hiệu là Xích Quỷ gần tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây bây giờ".

Như vậy theo truyền thuyết, nước của Kinh Dương Vương tên là Xích Quỷ, nằm ở vị trí vùng đất Bách Việt (Nam Hải . Quế Lâm thời Tần, hay Quảng Đông, Quảng Tây sau này), kéo dài qua Bắc Việt tới tỉnh Nghệ An nước Việt Nam bây giờ.

Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân làm vua nước Xích Quỷ.

Tới khi Lạc Long Quân truyền ngôi lại cho các đời vua Hùng thì gặp trở ngại: 100 con của Lạc Long Quân và Âu Cơ đã bị chia ra làm đôi: một nửa theo Mẹ lên rừng, một nửa theo cha xuống bể. Truyền thuyết không nói rõ thời gian "chia đôi", cũng như nguyên nhân vì sao chia đôi?

Chỉ biết rằng sau khi "chia đôi", tên nước cũ Xích Quỷ biến mất, và tên nước mới Văn Lang xuất hiện.

Về cương thổ nước văn Lang như chúng ta đã đề cập đến ở trên, rất rộng lớn bao gồm cả vùng đất Bách Việt (Quảng Đông, Quảng Tây) và Bắc Việt ngày nay. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi chép tương tự (có lẽ cùng tham khảo từ một câu chuyện dã sữ ?)

Đến đây, người đọc sử gặp phải điều không ổn, vì một mặt sử viết rằng nước Văn Lang được chia thành 15 Bộ, trong đó không có Bộ nào ở ngoài lãnh thổ của đất Bắc Việt ngày nay (nghĩa là nước Văn Lang chỉ nằm gọn trong vùng đất Bắc Việt ngày nay mà thôi). Mặt khác sử lại viết rằng nước Văn Lang rộng tới Ba Thục và Động Đình Hồ?

Phải chăng truyền thuyết kể lại đã bị "tam sao thất bản" (sao chép nhiều lần không còn đúng với bản chính), câu mất câu còn rồi chắp vá lại thành một câu chuyện "tiền hậu bất nhất" (phần đầu và phần cuối không phù hợp, trái ngược nhau). Chính Giáo sư Trần Gia Phụng trong "Những Câu Chuyyện Việt Sử" cũng đã dẫn chứng nhận xét của học giả Lê Quí Đôn như sau: "Tôi xét đời Hùng Vương , trên nối đời Hồng Bàng, không có chữ nghĩa gì truyền lại, về 15 bộ đặt ra thời đó, cùng với các quận huyện do nhà Hán, nhà Ngô (Trung Hoa) mới đặt ra, tên gọi lẫn lộn, tôi ngờ rằng những tên đó do các hậu nho góp nhặt vay mượn chép ra, khó mà tin được..."

Như vậy, 15 bộ của nước Văn Lang không chắc có thật, khó tin. Nhưng tại sao các nhà viết sử không bỏ đi, còn chép vào sử sách mà không ghi chú rõ ràng, khiến có nhiều người đã nghĩ rằng nước cổ Việt (Văn Lang) chỉ nằm trong phạm vi đất Bắc Việt ngày nay? Bỏ đi, không còn 15 bộ như đã "gán ghép" cho nước Văn Lang, để cương thổ nước Xích Quỷ và nước Văn Lang là một, nghĩa là bao trùm hết vùng đất Bách Việt và Bặc việt ngày nay như truyền thuyết, có lẽ chúng ta đã khỏi phải tranh luận về tính chính thống của thời đại Triệu Đà?

Truy nguyên theo truyền thuyết, nếu chúng ta bỏ đi phần "thêm thắt" 15 bộ vào nước Văn Lang, thì nước Xích Quỷ (của Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân) và nước Văn Lang của các vị vua Hùng xem ra chỉ là môt. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra: nếu nước Văn Lang bao trùm vùng đất Bách Việt (Quảng Đông Quảng Tây)và Băc Việt (ngày nay), thì cớ gì Triệu Đà là Tướng nhà Tần phải đi chinh phục nước Âu Lạc?

Như chúng ta đều biết bên Trung Hoa, thời Chiến Quốc (403-256 tr. T.L), có 7 nước hùng mạnh gọi là "thất hùng". Sau, nước Tần do Tần Thủy Hoàng lãnh đạo diệt được 6 nước để gom lại thành một nước lớn thống nhất. Như vậy trước thời Tần Thủy Hoàng, nước Trung Hoa còn ở tình trạng phân chia thành nhiều nước nhỏ, tuy tự trị nhưng tự coi mình là nước chư hầu, tuân phục vua một nước hùng mạnh nhất gọi là Minh chủ hay Thiên Tử. Thiên tử coi Trung Nguyên là một nước lớn bao gồm nhiều nước chư hầu, nhưng trên thực tế chỉ là vua một nước hùng mạnh mà thôi. Vua những nước nhỏ kia, nếu hùng mạnh lên có thể lên thay thế làm Thiên tử như thường.

Trở lại nước Xích Quỷ hay Văn Lang trong truyền thuyết, có lẽ cũng tương tự như bên Trung quốc chăng? Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân hay các vị vua Hùng đều là vua nước Lạc Việt hùng mạnh nhất, nên được coi là vua của toàn cõi Nam Lĩnh (bao gỗm cương vực nước Xích Quỷ). Những nước việt nhỏ "chư hầu" khác trên đất Bách Việt như Tây Việt, Âu Việt, Mân Việt, Đông Việt (Đông Âu), kể cả Sở Việt (con cháu nước Sở di dân), Ngô Việt (con cháu nước Ngô di dân)...

Khi "Minh Chủ" Hùng Vương thứ 18 không đủ mạnh, nước "chư hầu" Tây Việt do Thục Phán làm thủ lãnh đã đánh đổ nước Văn Lang để lập ra nước Âu Lac.

Tóm lại, trên danh vị, nước Xích Quỷ do Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân làm "Minh chủ", cũng như nước Văn Lang do các vị vua Hùng làm "Minh chủ" đều có cương vực rộng lớn, bao trùm toàn vùng đất Lưỡng Quảng và Bắc Việt ngày nay. Nhưng trên thực tế, nước Xích Quỷ, hoặc nưóc Văn Lang, hoặc nước Âu Lạc chỉ chiếm một phần lãnh thổ nhỏ hơn gồm có kinh đô và triều đình cai quản các nước "chư hầu", mà ta hiểu đó là phần đất Bắc Việt ngày nay?

Kinh đô nước Xích Quỷ, không thấy truyền thuyết nói tới, nhưng có lẽ ở tại vùng đất Bách Việt, có thể là Phiên Ngung (?), nơi mà Triệu Đà chọn làm Kinh đô của nước Nam Việt sau nầy.

Kinh Đô của nước Văn Lang là Phong Châu tức vùng đất thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay. (Việt Sử Tiêu Án - Ngô Thời Sỹ - trang 13, viết: " Phong Châu theo sử cũ, đông đến bể, tây đến Ba Thục, bắc đến Động Đình, nam giáp Hồ Tôn". Có lẽ truyền thuyết muốn nói đến uy quyền của nước Văn Lang (Kinh Đô là Phong Châu) tỏa rộng ra như thế chứ không có ý nói lãnh thổ có cương vực rõ rệt như quan niệm của chúng ta ngày nay).

Chúng ta cũng suy ra rằng, cuối đời các vị vua Hùng, nước Văn Lang suy yếu dần, uy quyền của vua Hùng thứ 18 thu nhỏ lại ở phạm vi vùng đất Bắc Việt ngày nay. Một số nước nhỏ "chư hầu" ở vùng đất Bách Việt đã mạnh lên, tự chủ, không còn tuân phục "Minh Chủ" nước Văn Lang nữa. Thục Phán là lãnh tụ nước nhỏ "chư hầu" Tây Âu (Âu Việt) đánh bại Hùng vương thứ 18, xâm chiếm nước Văn Lang và đổi tên thành nước Âu Lạc. Thục An Dương Vương nưóc Âu Lạc đóng đô tại Phong Khê (thuộc tỉnh Hòa Bình ngày nay, ở sâu về phía Nam cách xa Phong Châu là vùng đất Phú Thọ ngày nay. Có lẽ nước Âu Lạc cũng không đủ mạnh, nên uy quyền nhà vua không thể toả rộng đến vùng đất Bách Việt. Các nước nhỏ "chư hầu" xưa của nước Văn Lang tại vùng Lưỡng Quảng ngày nay, có lẽ không còn tuân phục nước mới Âu Lạc nữa, nên tạo ra tình trạng "vô chủ" khi nhà Tần xâm chiếm đất Bách Việt (xin nhấn mạnh ở đây, sử chỉ nói đến đất Bách Việt mà không hề nói đến một vị vua nào đó trên đất Bách Việt). Hơn nữa, các Lạc Tướng, Lạc Hầu của Triều Đại Hùng Vương đã trung thành với nước Văn Lang trên ngàn năm, không dễ gì quên chủ cũ, "một sớm một chiều" có thể quy thuận kẻ "xâm lăng" Thục Phán là người đã đánh chiếm nước Văn Lang (?!). Điều này cũng giải thích tại sao Thục An Dương Vương đã phải xây thành Cổ Loa ngay giũa kinh đô Phong Khê, thuộc tỉnh Phúc An ngày nay, trong khi nước Văn Lang tồn tại cả ngàn năm mà không cần phải xây thành như thế? Hơn nữa, muốn ngăn chặn giậc ngoại xâm từ phía Bắc, hoặc phía Tây, phía Nam, phải xây thành lũy ở biên giới chứ? Xây thành ở kinh đô chỉ có mục đích bảo vệ triều đình và dân chúng ở kinh đô mà thôi?

Chúng ta vừa bàn đến những tên nước cổ Việt: Xích Quỉ, Văn Lang và Âu Lac. Những tên nước này hoàn toàn thuộc về huyền thoại, chỉ có trong truyền thuyết.

Tên nước Việt Thường được coi là "bán thực bán huyền" (semi-historique - từ của Nguyễn Hiến Lê trong "Sử Trung Quốc").

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (trang 134) cho biết: "thời Thành Vương nhà Chu [1063-1026], nước Việt ta lần đầu sang thăm nhà Chu (không rõ vào đời hùng vương thứ mấy), xưng là Việt Thường thị, hiến chim trĩ trắng. Chu công nói: "Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không coi người ta là bề tôi của mình", rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về nước.

Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược (trang 13), nói rõ hơn, nhưng nghi ngờ tên nước Việt Thường, không biết có phải là tên của nước cổ Việt hay không(?) : "Về đời bấy giờ, sử Tàu có chép rằng năm tân mão (1100 tr. T.L.), đời vua Thành vương nhà Chu có nước Việt Thường ở phía nam xứ Giao Chỉ sai sứ đem chim bạch trĩ sang cống, nhà Chu phải tìm người làm thông ngôn mới hiểu được tiếng, và ông Chu Công Đán lại chế ra xe chỉ nam để đem sứ Việt Thường về nước. Vậy đất Việt Thường và đất Giao Chỉ có phải là đất của Hùng Vương lúc bấy giờ không?"

Ông Phạm Cao Dương trong "Lịch Sử Dân tộc Việt Nam, quyển 1", có cùng quan điểm với ông Trần Trọng Kim về tính xác thực của nước Việt Thường, nên đã xếp phần sử liệu này vào một trong "các truyện cổ thời Hùng Vương" (trang 19).

Tuy nghi ngờ tính xác thực về câu truyện nước Việt Thường, nhưng cả hai ông Trần Trọng Kim và ông Phạm Cao Dương đều xác nhận nước Việt Thường "ở phía nam xứ Giao chỉ" (Trần Trọng Kim), hay nói rõ hơn: "miền châu thổ Hồng Hà hay miên Quàng Bình, Quảng Trị tức đất Việt Thường thời xưa đứng về phương diện địa lý theo các sách cổ.

Đối với "Việt Sử Tiêu Án", ông Ngô Thời Sỹ coi Việt Thường là một dòng họ của nước Việt (không nêu ra vùng đất sinh tụ hay ranh giới của họ Việt Thường: " Nước Việt ta khi mới vào cống nhà Chu, tự xưng là họ Việt Thường, dâng con bạch trĩ, chín lần đổi trạm mới đến được, ông Chu công ủy lạo cho về, cho năm cỗ xe đặt kim chỉ nam, để chỉ lối mà về".

Phạm Văn Sơn trong Việt Sử Toàn Thư (trang 20), lại nêu ra địa danh của nước Việt Thường khác với địa danh do ông Phạm Cao Dương nêu lên (miền Quảng Bình , Quảng Trị tức đất Việt Thường thời xưa): "Sách xưa (?) chép ở phía Nam đất Giao Chỉ, cuối đời Chu nước Việt Thường đã có phen thông sứ với Chu Thành vương và có cống một con bạch trĩ. Nước Việt Thường xuất hiện có lẽ đã lâu lắm từ đầu đời nhà Chu ở trên địa bàn cũ của nước Tam Miêu (ở giữa hồ Động Đình và hồ Phiên Dương). trung tâm điểm của nước ấy là xứ Việt Chương".

Xem như vậy, nước Việt Thường được sử cũ của người Tàu ghi lại về thời nhà Chu (1049-221 Tr. Tây Lịch), được coi như là thưc (theo Nguyễn Hiến Lê, từ triều đại nhà Thương (1450-1050 tr. T. L) là triều đại có sử), nhưng theo truyền thuyết của ta, nước Việt Thường thuộc về thời Họ Hồng Bàng (2879-258 tr. Tây Lịch) là thời chưa có sách vở ghi chép lại nên vẫn chỉ là truyền thuyết.

Bây giờ chúng ta bàn tiếp đến Giao Chỉ và Tượng Quận.

Như trên đã nói "Tượng Quận thì không còn là chuyện hoang đường mà chắc chắn là chuyện lịch sử rõ ràng" (Trần Gia Phụng), vậy chúng ta tìm hiểu về Tượng Quận trước, sau đó tìm hiểu Quận Giao Chỉ, bởi vì Quận Giao Chỉ cũng là "chuyện lịch sử có thật" nằm trên phần đất Tượng Quận của nhà Tần, tức là trên phần đất của nước Nam Việt thời Triệu Đà: "Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung gần thành Quảng Châu, thuộc tỉnh Quảng đông hiện tại, chia các đất đai của nhà Thục cũ và các miền đất phía Nam thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân rồi cử hai viên điển sứ (sứ thần) xuống coi giữ" (Phạm Cao Dương).

Vì còn vài vấn đề khúc mắc cần tìm hiểu, VS xin tạm gác lại câu chuyện về người Phụ Nữ việt Nam Trình Thị cũng như phần tìm hiểu về Giao Chỉ, Việt Thường.

Có mấy câu hỏi để cùng tham khảo ý kiến của quí anh chị, nhất là anh TVB, SK...:

Việt Sử Tiêu Án (VSTA) của Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ (Ngô gia Văn Phái) trang 22 viết: Ngoại Thuộc Nhà Triệu - Triệu Đà:

"Nhà Tần cho là nước ta nhiều châu báu, muốn chia nước ta ra làm quận huyện, sai Hiệu-úy là Đồ Thư mang quân vào sâu mãi Lĩnh Nam lấy đất Lục Lương đặt ra Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận. Người Việt ta đều chạy trốn vào trong rừng rậm, không chịu để cho nhà Tần dùng, ngầm đặt Kiệt Tuấn làm tướng , đương đêm đánh Đồ Thư, nhà Tần bèn mang 500 vạn dân phát vãng đi đầy sang ở đó..."

Câu hỏi:

1- Hai tiếng "nước ta" ở đầu câu, muốn ám chỉ phần đất nào? Phần đất Bách Việt bao gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây sau này hay là phần đất Bắc Việt sau này?

2- Câu: "Người Việt ta đều chạy trốn vào trong rừng rậm" muốn ám chỉ "người việt ta " nào? "Người Việt ta" thuộc thành phần dân tộc Bách Việt trên "đất Bách Việt" hay "người Việt ta" trên đất Âu Lạc theo truyền thuyết tức đất Bắc Việt và một phần đất Trung Việt sau này?

3- Đồ Thư có sang đánh nưóc Âu Lạc theo truyền thuyết không? hay chỉ đánh nhau trên đất Bách việt vời người thuộc dân tộc Bách Việt?

Trả lời được những câu hỏi này, đương nhiên chúng ta có câu trả lời về "người Việt ta" có thuộc về dân tộc Bách Việt hay không?

----

Đọc kỹ bài biên khảo cuả anh, VS nhận thấy có hai điểm quan trọng:

1- "Năm 221BC sau khi gồm thâu sáu nước để thống nhất Trung Hoa, Tần Thủy hoàng đã ra lệnh cho Đồ Thư mang quân đi chinh phục Lĩnh Nam. Quân Tần đã vào Lĩnh Nam và xâm chiếm vùng này".

- Theo Trần Trọng Kim (VNSL trang 18):"Đến năm đinh hợi (214 tr. Tây lịch) Thỉ hoàng sai tướng Đồ Thư đem quân đi đánh lấy đất Bách Việt"

- Theo ĐVSKTT Ngô SỸ Liên viết:" năm thứ 44 (214 TCN)(Tần Thủy Hoàng năm thứ 33) Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể, người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân Lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi, vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Lương..."

- Ông Phạm Cao Dương giải thích thêm: "Những người Việt đã không chịu khuất phục . Họ bỏ vào các rừng rậm rồi suy cử người tuấn kiệt làm tướng đánh quân Tần giết được Đồ Thư (214 tr. TC). (LSDTVN tr. 45)

- Theo Phạm Văn Sơn (Việt Sử Toàn Thư tr. 57):"Việc xẩy ra vào khoảng năm 221-214 tr. TL. Quan Hiệu Úy là Đồ Thư đem quân lâu thuyền cùng tướng Sử Lộc đào sông vận lương đi sâu vào đất Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Dương...". Ông Phạm Văn Sơn cũng cho biết thêm: "người Kiệt Tuấn (viết hoa) được nhân dân Tây Âu cử ra là An Dương Vương nhà Thục, ...".

Như vậy theo VS nghĩ, năm 221 tr. CN là thời gian quân Tần chuẩn bị đi đánh Bách Việt, phải mất 7 năm, quân Tần mới chiếm xong Bách Việt, nhưng tướng Đồ Thư bị giết vào năm 214 tr. CN là thời gian quân Tần bình định đất Bách Việt.

Về danh từ "người tuấn kiệt" theo ông Phạm Cao Dương, chỉ là một người tài giỏi chứ không phải là tên người (?)

2- Giao Chỉ không bị quân Tần chiếm đóng vì Giao Chỉ không (nguyên bản thiếu chữ không)phải là Tượng Quận thời Tần.

Về điểm này, VS đã nghĩ đến nên đang tìm hiểu về: "người Giao Chỉ", "đất Giao Chỉ" và "quận Giao Chỉ".

Theo ghi chú của DVSKTT (trang 138), trước kia sách sử của ta và Trung Quốc đều cho rằng Tượng Quận đời Tần là quận Nhật Nam hay bao gồm cả cả 3 quận Giao chỉ, Cửu chân, Nhật Nam thời Hán, tức đất An Nam. Thuyết này đã bị phê phán (thế kỷ XIX) như anh TVB đã trình bày: " Tượng Quận thời nhà Tần tọa lạc phía tây bắc tỉnh Quảng Tây và phía tây nam Quý Châu ngày nay và Tượng Quận không phải là đất An Nam cũ.

Anh TVB đặt câu hỏi: "người Giao Chỉ có giao tranh với quân Tần hay không?"

VS nghĩ là "có", bởi vì người Giao Chỉ ở rải rác trên khắp đất Bách Việt từ Động Đình Hồ xuống tới phía nam biên giới đất Chiêm Thành sau này. Quân nhà Tần đánh Bách Việt, đương nhiên phải đánh nhau với người Giao Chỉ, tức người Lạc Việt hay ngưòi Âu Việt...nhưng chỉ đánh nhau trên đất Bách Việt (Quảng Đông, Quảng Tây sau này).

Điểm rắc rối là phần đất Bắc Việt và một phần đất Trung Việt ngày nay, thời Tần tên gọi là gì nếu không phải là Tượng Quận? Câu chuyện truyền thuyết "Triệu Đà xâm lăng Âu Lạc" sự thật đúng được bao nhiêu phần trăm? Nên nhớ rằng, nước Âu Lạc chỉ có trong truyền thuyết: " Chuyện Văn Lang và Âu Lạc được xếp vào loại khó tin được, nhưng đến Tượng Quận thì không còn là chuyện hoang đường mà chắc chắn là chuyện lịch sử rõ ràng" (Trần Gia Phụng).

Cũng vì câu cước chú trong Hán Thư (q. 28 tr. 11a) về quận Nhật Nam thời Hán: "Quận Nhật Nam - quận Tượng thời Tần ngày xưa", khiến nhiều sách sử đã cho rằng Tượng quận thuộc về đất Bắc Việt và một phần đất Trung Việt ngày nay.

Một câu hỏi nữa được đặt ra: "Triệu Đà có xâm lăng đất Bắc Việt và một phần Trung Việt ngày nay hay không?

ĐVSKTT (trang 143) cho biết: "Canh Thân, năm thứ 27(181 TCN), Hán Cao Hậu năm thứ 7). Nhà Hán sai Lâm Lư Hầu Chu Táo sang đánh Nam Việt để báo thù việt đánh Trường sa. Gặp khi nắng to ẩm thấp, bệnh dịch phát, bè bãi quân. Vua (Triệu Vũ Vương)nhân thế dùng binh uy và của cải để chiêu vỗ Mân Việt và Âu Lạc ở phía tây (tức là Giao Chỉ và Cửu Chân), các nơi ấy đều theo về, từ đông sang tây rộng hơn vạn dậm. Vua ngồi xe mui vàng, dùng cờ tả đạo, cho là nghi vệ ngang với nhà Hán".

Cũng theo ĐVSKTT (tr. 142): "Quý Mão, năm thứ 10 (198 TCN), (Hán Cao Đế năm thứ 9), vua (Triệu Đà) sai hai sứ coi giữ hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân"

Câu hỏi: "Nếu năm 198 TCN Triệu Đà đã sai sứ coi giữ hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân rồi, thì cớ gì mãi tới năm 181 TCN, tức 17 năm sau Triệu Đà còn phải "dùng binh uy và của cải để chiêu vỗ Mân Việt và Âu Lạc ở phía tây (tức là Giao Chỉ và Cửu Chân), các nơi ấy đều theo về" ?

Trần Việt Bắc

Share this post


Link to post
Share on other sites

VÂN NAM

Lịch sử

"Người Nguyên Mưu" (元谋人), hóa thạch của người đứng thẳng (Homo erectus) được những người xây dựng đường sắt khai quật trong thập niên 1960, đã được xác định là hóa thạch người cổ nhất đã biết đến ở Trung Quốc. Vào thời kỳ đồ đá mới, ở đây đã có sự định cư của con người trong khu vực hồ Điền Trì (滇池). Những người nguyên thủy này sử dụng các công cụ bằng đá và đã xây dựng được các công trình đơn giản bằng gỗ.

Vào khoảng thế kỷ 3 TCN, khu vực trung tâm của Vân Nam, xung quanh Côn Minh ngày nay đã được biết đến như là Điền. Năm 279 TCN một viên tướng nước Sở là Trang Giao hay Trang Kiệu (庄跤/庄峤) đã từ thượng nguồn sông Dương Tử tiến vào khu vực này, lập ra nước Điền và tự xưng là "vua nước Điền". Ông và những người kế nghiệp ông đã mang tới Vân Nam ảnh hưởng của người Hán, sự khởi đầu của một lịch sử lâu đời các cuộc di cư và sự mở rộng ảnh hưởng văn hóa.

Đoạn văn này chỉ ra Văn Lang với bộ Vân Nam đã bị Sở tấn công và lập nước Điền: điều này chính sử Việt không thấy nói, do vậy phải kiểm tra lại : điều này mâu thuẫn nguồn gốc Thục An Dương Vương xuất phát từ Vân Nam.

Sở bị Tần diệt vào năm 221 trước CN: nếu thế thì Tần có lẽ đã chiếm Vân Nam: điều này vô lý, do vậy cuộc chiến này Sở không thể chiếm Vân Nam hoặc ngụy thư?

Một ghi nhận khác:

Theo các tài liệu khảo cổ học vương quốc Điền là một nước theo hình thức bộ tộc thành lập bởi một nhóm sắc dân ở Vân Nam xuất hiện vào khoảng giữa thời Chiến Quốc (461-221 tr.CN) và Tiền Hán. Họ sống quanh hồ Điền gọi là Dianchi (Điền Trì, Ao Điền) tỉnh Vân Nam. Người Điền lần đầu tiên được nhắc tới trong Sử Ký của Tư Mã Thiên (145-90 tr.CN). Theo Sử Ký, quyển 116, Tây Nam Di liệt truyện thì Trang Kiểu tướng nước Sở, vào khoảng năm 279 tr.CN được Sở Khoảnh Tương Vương sai xuống chiếm khu vực Vân Nam ngày nay. Trong khi ông hoàn thành nhiệm vụ thì nước Sở bị Tần đánh bại vào năm 277 tr.CN. Trang Kiểu ở lại tự xưng vương làm vua nước Điền với tước hiệu là Trang vương.

Năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc và mở rộng quyền lực của mình xuống phía nam. Các châu và huyện đã được thiết lập tại đông bắc Vân Nam. Đường giao thông đang có tại Tứ Xuyên đã được mở rộng về phía nam tới gần Khúc Tĩnh (曲靖) ngày nay, ở miền đông Vân Nam - được gọi là "Ngũ xích đạo" (đường 5 thước). Năm 109 TCN, Hán Vũ Đế phái Vương Thiên Vũ đến đất Điền tuyên truyền sức mạnh của quân Hán nhưng Điền Vương ỷ có mấy vạn binh sĩ lại có những bộ tộc cùng họ ở phía đông bắc là Lao Thâm, Mạc My ủng hộ nên không chịu quy phục. Năm 109 TCN, Vũ Đế điều động quân Ba Thục tấn công tiêu diệt Lao Thâm, Mạc My xua quân tiến sát đất Điền. Điền Vương xin đầu hàng, nhà Hán giao quyền cho tướng Quách Xương đặt quận Ích Châu với 24 huyện trực thuộc. Nơi đặt trụ sở của quận này là huyện Điền Trì (ngày nay là Tấn Ninh). Về sau lại hàng phục được Côn Minh sáp nhập vùng này vào quận Ích Châu.

Một huyện khác được gọi là "Vân Nam", có lẽ là lần sử dụng đầu tiên của tên gọi này. Để mở rộng quan hệ thương mại mới hình thành với Miến Điện và Ấn Độ, Hán Vũ Đế còn giao cho Đường Mông (唐蒙) nhiệm vụ bảo trì và mở rộng Ngũ xích đạo, đổi tên nó thành "Tây Nam Di đạo" (西南夷道). Vào thời gian đó, kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp ở Vân Nam đã được cải thiện rõ rệt. Người dân địa phương sử dụng các công cụ và cày bừa bằng đồng thau cũng như chăn thả nhiều loại gia súc, như trâu, bò, ngựa, cừu, dê, lợn và chó.

Các nhà nhân loại học đã xác định là những người này có quan hệ họ hàng gần với những người mà ngày nay gọi là người Thái. Họ sinh sống theo bộ tộc, đôi khi được những người Hán bị lưu đày đứng đầu.

Trong thời kỳ Tam Quốc, lãnh thổ của Vân Nam ngày nay, Kiềm Tây (黔西) và miền Nam Tứ Xuyên được gọi chung là "Nam Trung" (南中). Sự tan rã của quyền lực trung ương tại Trung Quốc đã làm gia tăng tính tự trị của Vân Nam cũng như tăng thêm quyền lực cho các bộ tộc địa phương. Năm 225, một chính trị gia nổi tiểng là Gia Cát Lượng (诸葛亮) đã dẫn quân đến Vân Nam để dẹp yên các bộ tộc này.

Vào thế kỷ 4, miền Bắc Trung Quốc chủ yếu bị những bộ tộc từ Trung Á tràn sang. Vào thập niên 320, thị tộc Thoán (爨) đã di cư tới Vân Nam. Thoán Sâm (爨琛) tự xưng làm vua và duy trì quyền lực tại Điền Trì (khi đó gọi là Côn Xuyên 昆川). Từ đó trở đi, thị tộc này đã cai quản Vân Nam trên 400 năm. Năm 738, Bì La Các (皮罗阁), thủ lĩnh bộ lạc Mông Xá, đã thành lập Vương quốc Nam Chiếu (南诏) tại Vân Nam với kinh đô tại thành Thái Hòa (nay là Đại Lý) lập ra năm 739. Ông được nhà Đường công nhận là "Vân Nam Vương". Từ Đại Lý, mười ba đời vua Nam Chiếu đã cai trị trên 2 thế kỷ và đóng một vai trò quan trọng trong mối quan hệ luôn biến đổi giữa Trung Quốc và Tây Tạng. Năm 902, quyền thần của Nam Chiếu là Trịnh Mãi chiếm đoạt quyền hành, đổi tên nước thành Đại Trường Hòa. Năm 929, Triệu Thiện Chính diệt Đại Trường Hòa, lập ra nước Đại Thiên Hưng. Năm 930, Tiết độ sứ Đông Xuyên là Dương Càn Hưng diệt Đại Thiên Hưng, đổi tên nước thành Đại Nghĩa Ninh. Năm 937, thủ lĩnh tộc Bạch là Đoàn Tư Bình (段思平) đã diệt Đại Nghĩa Ninh và thành lập Vương quốc Đại Lý, đóng đô tại Đại Lý. Vương quốc này khi đó bao gồm lãnh thổ ngày nay thuộc các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Tây Nam Tứ Xuyên, Bắc Miến Điện, Bắc Lào và một số khu vực tại Tây Bắc Việt Nam.

Năm 1253, Vương quốc Đại Lý bị người Mông Cổ và quân đội của Đại hãn Mông Kha tấn công. Năm 1276, Hốt Tất Liệt cho thành lập tỉnh Vân Nam. Vân Nam đã thành tỉnh đầu tiên trong các tỉnh miền Nam Trung Hoa nằm dưới sự kỉểm soát của Mông Cổ, và nó cũng là tỉnh cuối cùng tại Trung Hoa mà người Mông Cổ nắm giữ, ngay cả sau khi họ đã mất Bắc Kinh và bị đuổi ra khỏi các tỉnh miền Bắc. Tổng cộng họ đã chiếm giữ Vân Nam trong 130 năm. Phải chờ mãi 15 năm sau khi kẻ sáng lập triều đại nhà Minh được thừa nhận là nhà lãnh đạo toàn thể Đế quốc Trung Hoa, ông ta mới phái các đội quân của ông đến trục xuất người Mông Cổ ra khỏi bàn đạp sau cùng của họ, tức là Vân Nam.

Năm 1381, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương phái các tướng là Phó Hữu ĐứcMộc Anh đem quân chiếm Vân Nam, diệt Lương Vương của triều Nguyên. Dấu ấn nhà Minh trên Vân Nam đã lưu tồn và còn được nhận thấy. Các ngôi chùa và tượng đài thuộc niên đại nhà Minh có rất nhiều; các chiếc câu treo bằng xích sát đặc sắc bắc ngang sông Cửu Long và sông Salween, cũng như nhiều con sông nhỏ hơn ở miền Tây Vân Nam chứng thực cho sinh khí của chế độ mới và sự quan tâm của nó vào việc cải tiến các sự giao thông. Nhiều thành phố của Vân Nam mắc nợ hình thức hiện đại của chúng nơi các nhà xây dựng thời Minh, và nhiều thành phố phản ảnh, nơi các bức tường thành thẳng đứng bao quanh và các đường phố cắt nhau, mẫu họa đồ thiết kế thành phố chung của miền Bắc Trung Hoa, các bản sao chép thu nhỏ của Bắc Kinh.

Cuối thời nhà Minh, Hoàng đế Nam Minh (Quế Vương) là Chu Do Lang (niên hiệu Vĩnh Lịch, 1646-1662) đã chạy tới Vân Nam. Năm 1659, nhà Thanh sai Bình Tây Vương Ngô Tam Quế tấn công Vân Nam. Năm 1662, Ngô Tam Quế tấn công sang Miến Điện, bắt được Vĩnh Lịch bắt treo cổ chết. Người Mãn Châu tưởng thưởng họ Ngô bằng việc cử ông làm Tổng đốc cả về mặt dân sự lẫn quân sự hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu với tước vương. Ảnh hưởng của ông rất mạnh tại các tỉnh lân cận vừa mới bình định xong là Hồ Nam và Tứ Xuyên, và còn vang xa đến tận vùng đông bắc như các tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc. Tại tất cả các khu vực này, Ngô Tam Quế đã bổ nhiệm các quan chức, hay phải được tham khảo trước khi có sự bổ nhiệm bất kỳ người nào. Ông ta gần như một ông hoàng độc lập. Sau mười năm của quan hệ phiền hà này, song hành cùng với hai ông Phiên vương Trung Hoa được gọi là “phong kiến” khác [gồm Ngô Tam Quế là Bình Tây Vương, và hai kẻ khác là Bình Nam Vương và Tĩnh Nam Vương. Sau khi Ngô Tam Quế từ trần, hai phiên vương này đều bị nhà Mãn Thanh loại trừ, chú của người dịch], cũng là các tướng lĩnh nhà Minh như họ Ngô, tại các phần đất khác ở miền Nam Trung Hoa, Triều đình Mãn Châu đã cảm thấy đủ mạnh để thách đố quyền lực của họ và đập tan nó nếu chứng tỏ là ngoan cố. Các danh vọng cao quý được ban cho các ông hoàng Trung Hoa này, nhưng tư thế độc lập của họ bị bãi bỏ. Các ông hoàng khác đã chấp nhận. Ngô Tam Quế bác bỏ lời hứa trung thành này, tuyên bố độc lập và trong năm 1673 tự tuyên xưng là Tổng tư lệnh Vĩ Đại của triều đại nhà Chu. Tuy nhiên nhà Thanh đã đàn áp cuộc nổi loạn này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đạm Nhĩ Chu Nhai

Friday, December 7, 2012 6:38:06 AM

Nguồn cội, Địa lý

Sau khi Lộ Bác Đức chiếm Nam Việt, nhà Tây Hán chia đất Nam Việt thành 9 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Uất Lâm, Nhật Nam, Hợp Phố, Nam Hải, Thương Ngô, Đam Nhĩ và Chu Nhai. Hai quận Đam Nhĩ và Chu Nhai được định vị là đều nằm ở đảo Hải Nam ngày nay. Nhưng... đảo Hải Nam cách đây không lâu cũng mới là một huyện đảo của tỉnh Quảng Đông, liệu vào đầu Công nguyên có được bao nhiêu dân mà lập tới 2 quận? (Văn nhân)

Mở đầu bài minh Mộ Chí tiến sĩ Thái Đình Lan của Lâm Hào đời nhà Thanh soạn:

"Miền Chu Nhai hoang phục xa xôi, đất Quỳnh Sơn tích học, khởi nghiệp. Tường Kha vùng sông hẻo lánh, Doãn Trân giỏi kinh truyện mà danh tiếng xa truyền. Nhờ khôn linh hun đúc mà biết địa mạch rộng dài. Nhân văn tuỳ khí vận mà sinh, ấp ủ lâu tất hào kiệt đột phát, phải đâu thời tục có thể cản ngăn, tự phát tiếng kêu cho người đời kinh hãi! Ta đã thấy điều đó ở Thu Viên tiên sinh."

Thu Viên tiên sinh là Thái Đình Lan, tiến sĩ người Bành Hồ - Đài Loan, đã từng bị nạn thuyền lưu lạc sang Việt Nam thời vua Minh Mạng. Trên đường từ Việt Nam về ông đã viết tác phẩm Hải Nam tạp trứ, một tài liệu ghi chép về tình hình Việt Nam lúc đó còn lưu tới nay.

Trong bài minh trên cho thấy rõ quê của Thái Đình Lan Bành Hồ - Đài Loan được gọi là miền Chu Nhai. Như vậy Chu Nhai là đất Phúc Kiến xưa chứ không phải ở đảo Hải Nam.

Bài thơ Cư Đam Nhĩ (Ở Đam Nhĩ) của Tô Đông Pha thời Tống có câu:

Cửu từ nam hoang ngô bất hận

Tư du kỳ tuyệt quán bình sinh

Dịch nghĩa

Chín chết phương nam ta không hận

Chuyến này kỳ tuyệt nhất bình sinh

Chuyện Tô Đông Pha bị đi lưu trú ở Đam Nhĩ cũng được Nguyễn Trãi nhắc đến trong bài Tặng con cháu ba họ: Khổng, Nhan, Mạnh dạy học ở Thái Bình:

Nhân sinh thập lự cửu thường quai

Thạnh thế thùy tri hữu khí tài

Pha lão tích tằng Đam Nhĩ khứ

Trường Canh diệc hướng Dạ Lang lai.

Dịch

Nghĩ mười, sai chín người đời

Bỏ quên tài lúc thịnh thời biết không

Lão Pha, Đam Nhĩ đã từng

Trường Canh cũng phải hướng vùng Dạ Lang.

Tuy nhiên khi xem đến tiểu sử của Tô Đông Pha thì lại thấy Tô Đông Pha do mâu thuẫn với Vương An Thạch đã bị chuyển đi lưu trú ở Hàng Châu (Triết Giang). Như vậy Đam Nhĩ có thể không phải ở đảo Hải Nam mà chính là tỉnh Triết Giang ngày nay.

Nếu Đam Nhĩ và Chu Nhai thời Tây Hán là Phúc Kiến và Triết Giang thì đất của Nam Việt Triệu Đà phải là toàn bộ vùng Nam Dương Tử. Không biết ai đó đã cố ý ép 2 quận lớn ven biển này vào hòn đảo Hải Nam hoang vu, mục đích rõ ràng để dấu đi qui mô của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng trên vùng Hoa Nam.

Mã Viện khi đánh Hai Bà Trưng đuợc phong là Phục Ba tướng quân, tức là danh hiệu của Lộ Bác Đức nhà Tây Hán khi tiêu diệt nước Nam Việt của Triệu Đà. Chỉ danh hiệu này cũng cho thấy qui mô của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng không kém gì Triệu Đà xưng đế Nam Việt xưa.

Khun Borom

Sunday, December 9, 2012 9:55:40 AM

Người Thái ở Việt Nam, người Lào và người Thái Lan đều coi Khun Borom là vị vua đầu tiên của mình. Khun Borom là tên đọc theo tiếng Thái Lan và Lào. Người dân tộc Thái Tây Bắc Việt Nam gọi là Khun Bó Dôm. Dôm cũng là tên của con sông Nậm Rốm (chính xác là Nặm Dôm), chảy qua Điện Biên sang Lào đổ vào sông Mê Kong. Theo truyền tích của người Thái Lào thì Khun Borom đầu tiên đã xây dựng Mường Then thành trung tâm của hoàng gia. Mường Then được ký âm chữ Nho là Mãnh Thiên, thời Nguyễn là trấn Ninh Biên, nay là Điện Biên Phủ.

Borom không phải là tên riêng mà là danh xưng. Bằng chứng là danh xưng này còn được hậu duệ của Khun Borom cai trị vương quốc Ayutthaya sau này sử dụng như: Borom Maratcha hay Borom Trailokanat.

Không rõ Dôm tiếng Thái nghĩa là gì, nhưng rất có thể con sông Dôm chảy qua kinh đô của vương quốc thì gọi là con sông Cả hay sông Cái. Bó Dôm tiếng Thái có thể tương đương với Bố Cái của tiếng Việt, trong đó một từ là ghi âm, một từ dịch nghĩa.

Khun Borom được các sử gia Thái Lào xác định là vua Bì La Các (Piloko), người khởi đầu nước Nam Chiếu vào đầu thế kỷ 8 dưới triều Đường. Bì La (Pilo) thiết Bố. Bì Lô Các cũng là Bố Cái. Như vậy có thể thấy Khun Borom của người Lào Thái chính là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng của Việt Nam, người đã khởi nghĩa chống nhà Đường vào thế kỷ 8:

Thanh chấn Lý Đường, Thuận Đức niên gian uy Bắc khấu

Vận thừa Mai Đế, Phong thành phủ lỵ thái Nam Bang.

Niên hiệu của Khun Borom – Bố Cái được câu đối trên chép là Thuận Đức, đóng đô tại Phong Thành, lập nước là Nam Bang. Có thể thấy Phong thành đây chính là Mường Then – Điện Biên, nằm ngay cạnh tỉnh Phong Xa Lỳ của Lào. Nam Bang là nước phía Nam hay Nan Chao (theo tiếng Thái nghĩa là nước của người phương Nam). Nan Chao là Nam Chiếu.

Sách Lịch sử Thái Lan chép (Wyatt, David K.):

Năm Khai Nguyên thứ 26 (738), Bì La Các cầu Đường trợ giúp đánh bại La Quân Chiếu Điên Chi Thác, Lãng Khung Chiếu Chí La Quân, Thi Lãng Chiếu Bàng La Điên, Việt Tích Chiếu Vu Tặng, Mông Hề Chiếu Nguyên La, sách nhập ngũ chiếu. Nhà Đường phong cho Bì La Các làm Vân Nam Vương, ban danh là Mông Quy Nghĩa. Bì La Các lấy vùng tây Nhị Hà (tức Nhĩ Hải) làm cơ sở kiến lập nên Nam Chiếu Quốc. Năm sau, dời đô về thành Thái Hòa (tức thành cổ Đại Lý ngày nay).

Đoạn trên cho một thông tin: đất Nam Chiếu của Bì La Các ban đầu nằm ở “tây Nhị Hà”, tức là phía Tây sông Hồng ngày nay. Chú dẫn thành “hồ Nhĩ Hải” ở Vân Nam là sai hoàn toàn. Thành Thái Hòa như vậy có thể chính là Mường Then ở Điện Biên, là Đại Lỵ Phủ (Talifu) như trong câu đối, chứ không phải ở Đại Lý – Vân Nam sau này. Tây Nhị Hà cũng là đất của Bố Cái Phùng Hưng chiếm đóng trước khi tấn công Tống Bình.

Theo cuốn Lịch sử Lào của Viravong M.S. (1964) thì vào năm 50 sau CN (thời Hán Quang Vũ?) người Lào ở Nam Trung Hoa dưới áp lực của người Hán đã chia thành 2 nhóm. Nhóm ở lại gọi là Ai Lao. Nhóm di chuyển xuống phương Nam gọi là Ngai Lao. Thời kỳ tiếp theo nhóm Ngai Lào đã hình thành 6 thành phố mới. Nếu đối chiếu với 6 chiếu của Nam Chiếu thì trùng khớp:

1. Mong-Sui là Mông Huề

2. Lang-Kong là Lãng Khung

3. Theng-Tsieng là Đằng Đạm

4. Tse-Lang là Thi Lãng

5. Mong-Tse là Mông Xá.

6. Ia-Tse còn lại có thể Việt Tích.

Còn theo sử Lào – Thái (Manich, 1967) thì Khun Borom đã cử 7 hoàng tử đi chiếm 7 khu vực khác nhau thuộc đất Lào, Việt Nam, Thái Lan, Burma và Vân Nam. Ngoại trừ khu vực Kammuon trên đất Burma được chiếm vào thời gian muộn hơn, còn 6 khu vực trước đó có thể so trùng khớp với 6 chiếu trên :

1. Khun Lo chiếm Mường Xoa, nay là Luong Phra Bang. Mường Xoa ứng với chiếu Mông Xá. Khun Lo được coi là tổ tiên của nước Lang Xang (Triệu Voi) sau này.

2. Khun Khamphong chiếm Chiengsen (Chiềng Sen?), vùng đông bắc Thái Lan, quãng Chiềng Mai. Chieng Sen ứng với chiếu Đằng Đạm.

3. Khun Chet Chang chiếm Xieng Khouang (Chiềng Khoảng?), là đất Bồn Man hay Bồn Thác, sau này qui về Việt Nam dưới triều Lê. Bồn Thác là chiếu Việt Thác.

4. Khun In chiếm Lan-Pya sau là vùng Ayutthaya trên đất Thái Lan. Có thể đây là chiếu Lãng Khung (Lang-Kong như ở trên) vì vùng này nằm ở trung lưu sông Mê Kong - Khung giang.

5. Khun Pha Lan chiếm Mường Teh-Hoh, được xác định là Sipsong Panna ở Vân Nam. Có thể đây là chiếu Thi Lãng.

6. Khun Chusang chiếm Mường Chulni, được cho là vùng Hứa Phần và một phần Bắc Việt, có thể tương ứng với chiếu Mông Huề (hay Mong Sui ở trên).

Như vậy 6 chiếu khởi đầu của Bì La Các hoàn toàn khớp với vùng đất mà 6 hoàng tử của Khun Borom đã chinh phục. Rõ ràng 6 chiếu này không phải nằm chỉ ở Vân Nam mà là một khu vực rộng lớn từ Tây Bắc Việt, Lào, tới Thái Lan.

6 Chiếu người Thái

Tổng hợp các thông tin có thể tóm tắt lịch sử người Thái tới thời Khun Borom như sau:

- Người Thái ban đầu nằm trong tộc Mi, là tộc người theo Lạc Long quân tiến lên hướng ”Đông Nam”, là thành phần chính của nhà Hạ ở vùng Quảng Đông Quảng Tây.

- Thời Chu một phần tộc Mi di chuyển sang hướng Tây về vùng Vân Nam, thành nước Điền vào cuối thời Chiến Quốc.

- Thời Hiếu Vũ Đế khi Lộ Bác Đức đánh nhà Triệu. Con cháu nhà Triệu chạy xuống phía Tây (Vân Nam – Điện Biên) và Nam về tận cửa Thần Phù như ghi trong Lĩnh Nam chích quái, Truyện Nam Chiếu.

- Cuối triều Tân của Vương Mãng, tiền nhân họ Phùng là Phàn Sùng cầm đầu quân Xích Mi chống lại quân Lục Lâm của Hán tặc. Xích Mi nghĩa là tộc người Mi ở phương Nam. Tộc Mi là nhóm Tày Thái. Tiếp theo Hán Quang Vũ cử Mã Viện tấn công phương Nam, dẫn đến việc chia tách Ai Lao và Ngai Lao ở trên.

- Thời Tam Quốc, Gia Cát Vũ Hầu của Thục thu phục Nam Man Mạnh Hoạch (Mạnh = Mãnh = Mường), có thể một phần người Thái đã di cư tiếp xuống phía Nam lúc này. Mạnh Hoạch có lẽ là thủ lĩnh của cả người Thái lẫn người Môn-Khmer (Mường, Xá) ở vùng Tây Bắc.

- Khi nhà Tấn diệt nhà Thục của Lưu Bị, đất phương Nam của Thục thuộc Mạnh Hoạch bị chia tách, một phần theo về cùng con cháu bên ngoại của Lưu Bị - Khu Liên làm nên nước Lâm Ấp.

- Khi Lâm Ấp bị nhà Tùy diệt thì tiếp theo Mai Hắc Đế khởi nghĩa chống nhà Đường ở vùng Nghệ An. Mai Hắc Đế là đế của tộc người Mi – Mai, hay người Thái. Khởi nghĩa thất bại, nghĩa quân rút về vùng Bồn Man. Vùng Bồn Man này có lẽ không trùng với vương quốc Bồn Man sau này ở Xiêng Khoảng, mà nằm ở Tây Nghệ An - Thanh Hóa, tức là đất Hứa Phần.

- Bố Cái Phùng Hưng – Khun Borom nối vận Mai Hoàng và tiền nhân họ Phùng từ châu Đường Lâm (vùng Hứa Phần) đã làm nên Nam Chiếu, vương quốc của người Thái huy hoàng trong lịch sử.

Theo thông tin về Bì La Các thì Phùng Hưng khởi nghĩa ban đầu không phải chống lại triều Đường, trái lại còn được sự ủng hộ của Đường Huyền Tông để thu phục 6 chiếu từ tay người Lawa – Xá, nói chung là người Môn – Khmer hay tộc Cơ của các châu Cơ Mi (Kimi), sống ở vùng này trước đó. Nam Chiếu chống lại triều Đường bắt đầu từ đời con của Bì La Các là Cáp Lỗ Phong hay Khun Lo trong sử Lào.

Tên Khun Lo và Cáp Lỗ Phong cho thấy vùng đất Lào xưa có tên là nước Lỗ. Vào thời trước công nguyên thì đây là khu vực của người nhóm Môn-Khmer, tiền thân người Cămpuchia bây giờ. Vì thế mới có chuyện mộ ông Lỗ Ban, tổ sư nghề mộc của nước Lỗ thời Chiến Quốc lại thấy ở Angkor Wat như được mô tả trong Chân Lạp phong thổ ký. Khổng Tử người nước Lỗ dậy học trò bên sông Thù, sông Tứ, có thể chính là sông Mê Kong vì Tứ là chỉ phương Tây, tương đương với Khung giang.

Một số từ Thái và họ người Thái có thể hiểu như sau:

- Bồn Man là ký âm chữ Nho của từ Bản Mường, nghĩa là đất nước theo tiếng Thái. Ví dụ người Thái nói Mường Lào, Mường Việt nghĩa là nước Lào, nước Việt.

- Tạo (trong tiếng dân tộc Thái) = Thao (trong tiếng Thái Lào), nghĩa là Thiêu, chỉ ngọn lửa, là biểu trưng của người lãnh đạo.

- Họ Lư (Lư Cầm), hay người Lự, họ Lò có lẽ cũng là từ Lỗ hay La mà ra, là quẻ Ly chỉ phương Tây trong Hậu thiên bát quái.

- Họ Cầm có thể từ chuỗi Điểu - Cầm – Chim.

- Điểu còn có thể biến thành Điêu, rồi thành họ Đèo, như Đèo Văn Trí ở Lai Châu thời Pháp còn gọi là Điêu Văn Trí, là con của Đèo Văn Sinh hay Cầm Sinh. Điêu = Cầm.

Nam Triệu và Nam Chiếu

Wednesday, January 23, 2013 11:38:15 PM

Nguồn cội

Trong Lĩnh Nam chích quái có một câu chuyện rất thật, không có chút huyền thoại hay “chích quái” nào nhưng lại khó hiểu nhất vì chẳng hề ăn khớp tí gì với chính sử. Đó là Truyện Nam Chiếu. Nay xin “đọc lại” câu chuyện này, không cần phải “giải mã” gì, chỉ cần đối chiếu với những gì đã và đang biết về lịch sử bị lãng quên của miền Tây và Nam nước ta.

Câu đầu tiên của Truyện Nam Chiếu khẳng định: “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”. Câu khẳng định này đúng là đánh đố người đọc ngày nay. Nam Chiếu được coi là quốc gia của người Di Bạch vùng Vân Nam, sao lại là con cháu Triệu Đà được? Nhưng đích thực, câu mở đầu này đã xác định nước “Nam Chiếu” thực chất là ở đâu.

Triệu Vũ Đế dựng nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung – Quảng Đông. Thành phần dân tộc chính vùng này là nhóm người Tày Thái. Nam Chiếu là con cháu Triệu Đà, tức là một quốc gia người Thái. Lịch sử Nam Chiếu cho biết quốc gia người Thái này đã từng trải rộng trên đất Tây Bắc Việt Nam, Lào và Bắc Thái Lan.

Nước Nam Chiếu ở trong truyện không phải mới bắt đầu vào thời Đường như nước Nam Chiếu theo chính sử ở Vân Nam, mà có gốc gác từ thời Tây Hán. Khi Lộ Bác Đức tấn công Nam Việt thì “Con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn, là những xứ vắng vẻ không người. Khi bộ hạ đông đúc họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bể đột nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu”.

Đất Hoành Sơn mà ở gần cửa Thần Phù thì là đèo Ngang giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, chứ không phải Hoành Sơn ở Quảng Bình. Con cháu họ Triệu như vậy trở về vùng Ái Châu tụ tập.

Đoạn ghi chép trên rất giống với chuyện… Man vương Mạnh Hoạch chống lại các vị quan họ Chu của nhà Đông Hán trong thần tích làng Hương Ngải - Sơn Tây. Mạnh Hoạch hoạt động cả một dải từ Hưng Hóa tới Ái Châu, làm quan cai trị ở Giao Châu lúc đó phải lao đao… Nam Triệu như vậy là tên gọi nước của Mạnh Hoạch từ thời Đông Hán, là vùng đất phía Tây Giao Chỉ.

Tiếp theo, “Đến đời Ngô, Tôn Quyền sai Đái Lương, Lữ Đại làm thú mục để đánh dẹp. Quân Nam Chiếu ở cả một vùng từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở, không có một vết chân người. Quân Nam Chiếu ở đấy thường lấy việc cướp bóc để sinh sống, đánh giết thú mục, không thể ngăn cản nổi.

Đây cũng là thành tích của Mạnh Hoạch khi phần đất phía Đông Giao Chỉ được Sĩ Nhiếp Ngạn Uy dâng cho Ngô Tôn Quyền. Đoạn trên cho biết một loạt các địa danh “từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi”. Các địa danh này hẳn nằm ở Tây Bắc và Tây Thanh Nghệ ngày nay, là đất Nam Triệu của Mạnh Hoạch.

Mạnh Hoạch hay Mãnh Hoàng, có thể chỉ là cách gọi vị vua của người Mường Mán. Mãnh Hoàng là con cháu họ Triệu, sau khi kinh đô Phiên Ngung của Nam Việt thất thủ đã rời về Tây Giao Chỉ và hùng cứ một vùng, liên tục chống lại các quan lại nhà Hán rồi tới nhà Ngô. Tiếp theo thì như đã biết, Vũ Hầu Gia Cát, thừa tướng của nhà Thục đã vượt Lô Giang, tiến vào Tây Bắc bình định, thu phục Mãnh Hoàng. Mãnh Hoàng tiếp tục cai quản khu vực Nam Triệu này dưới hình thức tự trị, độc lập.

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là Triệu Ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều nể phục, cùng hợp lại với quân Nam Chiếu, được hơn hai vạn người, lại đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ, xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển.

Nếu đối chiếu với tộc phả họ Phạm:

"Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân - Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) - tức là Nam Trung bộ ngày nay.

Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trước CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm Ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).”

Có thể thấy Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà, là họ Lý, bắt đầu từ Lý Thân (Lý Ông Trọng). Vùng đất Tây Giao Chỉ là vùng Lâm Thao, nơi Lý Ông Trọng trấn giữ người Hồ dưới thời Tần.

Đặc biệt truyền phả họ Nguyễn còn chép rằng Triệu Đà chính là Lý Ông Trọng. Chuyện này tuy còn nhiều nghi vấn, nhưng có thể có phần nào là sự thật khi con cháu Triệu Đà cũng là con cháu của Lý Thân, chiếm vùng đất Tây Giao Chỉ dưới thời Hán.

Vùng Tây Giao Chỉ là đất của Mãnh Hoàng (Mạnh Hoạch), còn gọi là Nam Triệu, thời Tam quốc đã hàng phục nước Thục nhờ công của Vũ Hầu Gia Cát. Khi nhà Tấn diệt Thục, Tấn chỉ chiếm được vùng Xuyên Thục phía Bắc của nước này. Phần phía Nam vẫn do Mãnh Hoàng tự trị kiểm soát. Theo Truyện Nam Chiếu thì lúc này Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà – Lý Thân, đã lên nắm quyền cai quản ở đây. Triệu Ông Lý chống lại nhà Tấn, “cùng hợp với quân Nam Chiếu”, tức là hợp với quân của họ Phạm ở phía Nam vùng ven biển Trung Bộ theo như tộc phả họ Phạm chép.

Truyên Nam Chiếu chép: “Khi ấy, nước Tây Bà Dạ chia đều đất ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Già La, trên từ Cầm Châu xuống tới Hoan Châu gọi là lộ Lâm An giao cho Nam Chiếu và Triệu Ông Lý thống lĩnh. Sau đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá, đất Diễn Châu, đông giáp với biển, tây tới nước Bà Dạ, nam tới Hoành Sơn, tự xưng làm chúa.”

Có thể thấy nước Nam Chiếu trong truyện ở thời kỳ nhà Tấn chính là xứ Lâm Ấp hay Nam Hà trong tộc phả họ Phạm. Xứ này bao gồm 2 phần:

- Phần lộ trên từ Quý Châu tới Diễn Châu do Triệu Ông Lý cai quản. Lộ này có tên Như Hoàn, hay Già La, sách khác gọi là Như La, Gia Viễn. Đây là phần đất liền không giáp biển, là Tây Giao Chỉ, gồm cả đất Lào ngày nay. Tên gọi Già La hay Như La cho thấy vùng này chính là nước Lỗ (La) của thời Chiến Quốc. Đây cũng là đất Lâm Thao thời Tần, trước do Lý Ông Trọng cai quản, sau đó giao cho con cháu Lý Thân.

- Lộ dưới từ Cầm Châu tới Hoan Châu gọi là Lâm An, do con cháu họ Phạm quản lý. Đây là phần giáp biển, ven biển miền Trung ngày nay. Tên lộ Lâm An cho thấy đây là đất Yên (An) thời Chiến Quốc, đã được nhà Tần giao cho Phạm Duy Hinh, con của tướng Phạm Duy Minh ở Đằng Châu cai quản.

<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break">

Bản đồ trên ước vẽ 2 phần đất Già La và Lâm An từ thời Tấn. Đây là phạm vi nước Lâm Ấp vẫn được mô tả trong sử sách, có phía Đông giáp biển, Tây đến Vân Nam …

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Nhà Đông Tấn sai tướng là Tào Khả đem quân sang đánh, Ông Lý mai phục ở rừng núi hiểm trở nơi đầu nguồn sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở núi Liên Vị, địch tới thì mình đi, địch đi thì mình tới, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5 năm trời, không hề đối đầu. Quân Tấn không chịu nổi lam chướng, chết hơn quá nửa, bèn rút quân về.

Nhà Tấn sau khi diệt Thục và Ngô, tấn công xuống phương Nam. Nhưng gặp sự kháng cự của Mãnh Hoàng, rồi Triệu Ông Lý ở vùng Nam Triệu này, không tiến nổi. Vùng đất này như vậy vẫn giữ độc lập từ thời Tấn.

Lý Ông Nam Triệu tương đương với … Lý Nam Đế (Triệu = Chúa), trong sử Việt được gọi là triều Hậu Lý Nam Đế. Tới thời Tùy Cao Tổ năm 602 tướng Lưu Phương đã dụ hàng con cháu của Nam Triệu, đưa vùng đất La – Lỗ nhập vào đất Tùy. Năm 605 Lưu Phương cũng tấn công xuống phía Nam thắng lợi, đuổi họ Phạm chạy ra ngoài hải đảo, sát nhập nốt đất An – Yên vào nhà Tùy. Nước “Nam Triệu” của Triệu Ông Lý chấm dứt ở đây sau 600 năm tồn tại. Nhưng sau đó, một nước Nam Chiếu mới lại nổi lên…

Tộc phả họ Phạm viết: "Đến đời vua họ Phạm thứ 19 là Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa, vơ vét của cải , châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua họ Phạm, khiến Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh về cùng Mai Thúc Loan và cha con Phùng Hưng, Phùng An , diệt được quan quân nhà Đường và lập Mai Thúc Loan làm Bố Cái Đại vương, tức Mai Hắc đế (766)."

Còn Truyện Nam Chiếu chép: “Quân Nam Chiếu tới cướp các xứ Nam thành, Đông thành, Trường An, quan lệnh không thể dẹp nổi. Tới khi nhà Đường thịnh lên, vua Ý Tông sai Cao Biền đem quân sang dẹp, không đánh nổi phải bỏ về.

Đoạn này nói tới cuộc khởi nghĩa thời Mai Thúc Loan - Phùng Hưng, tấn công chiếm thành Tống Bình (Trường An?). Phải tới Cao Vương Biền mới đuổi được quân Nam Chiếu của họ Phùng ra khỏi Đông Giao Chỉ, và đặt vùng này làm Tĩnh Hải quân. Nhưng phía Tây Giao Chỉ vẫn do Nam Chiếu chiếm giữ. Thậm chí còn mở rộng ra thành 6-7 “chiếu” theo như truyền thuyết về Khun Borom ở Lào.

Đoạn cuối cùng của Truyện Nam Chiếu: “Tới đời Ngũ Đại vua Tấn là Thạch Kính Đường sai tướng tư mã là Lý Tiến đem 30 vạn quân đánh Đồ Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về biên giới Ai Lao, gọi là nước Đầu Mô, nay là đất Bồn Man”.

Thời Thạch Kính Đường thì Hoa Nam đã chia năm xẻ bảy, còn hơi sức đâu mà nhà Hậu Tấn đánh dẹp Nam Chiếu. Lúc này trên đất Tĩnh Hải là triều đại của Nam Hán Lưu Cung. Đoạn sử trên có thể nói tới sự kiện Cao Biền đánh Nam Chiếu từ thời Đường Ý Tông, hoặc chuyện Đoàn Tư Bình diệt Nam Chiếu, lập nước Đại Lý. Có điều sử Tàu đã biến chuyện Nam Chiếu bị diệt thành chuyện Nam Hán Lưu Cung cử Lý Tiến đánh Khúc Thừa Mỹ. Có thể Lý Tiến là tướng của Lưu Cung quãng năm 936 – 940 (thời Hậu Tấn) đã tấn công Nam Chiếu ở Tây Giao Chỉ, chứ không phải đánh Khúc Thừa Mỹ.

Phải nói Truyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái là một ghi chép rất đầy đủ và chân xác về lịch sử vùng Tây Giao Chỉ trong suốt một thời kỳ dài từ Đông Hán tới tận thời Ngũ Đại. 1000 năm lịch sử của miền Tây đã bị lãng quên, may mắn còn được lưu lại trong truyện. 600 năm Nam Triệu và 400 năm Nam Chiếu, kiên cường chống lại phương Bắc, huy hoàng mở các quốc gia người Thái khắp Đông Nam Á.

Sử gia Đào Duy Anh viết trong Lịch sử cổ đại Việt Nam: cho rằng Quý Châu và Vân Nam thuộc về nước Sở - có lẽ chính là từ mục Tây Nam Di của Sử Ký. Theo cuộc chiến Tần - Văn Lang thì Tần chia 5 đạo quân tiến vào và việc tấn công vào Quý Châu không thuận lợi nhất, chưa kể tới Vân Nam phải vượt qua Quảng Châu. Điều này có lẽ không hợp lý. Và vì vậy, việc nhận định An Dương Vương theo Đào Duy Anh, không thể ở Vân Nam nên mới cho rằng ở Quảng Châu.

Posted Image

Qua bản đồ, chứng tỏ Quý Châu và Vân Nam không thuộc Sở. Khu vực này để trống - thuộc tướng Trang Kiểu? nếu chiến tranh Sở - Tần đến hồi gay cấn nhất, thì rõ ràng quân của Trang Kiểu phải rút về ngay hoặc trước đó không thể tổ chức cuộc chiến to lớn này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Nam Chiếu

Posted on Tháng Năm 26, 2010 by Nguyễn Hữu Vinh Người Nam Chiếu chính là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà.

Thời Hán Vũ Đế, Thừa tướng của Triệu Đà là Lữ Gia không thần phục nhà Hán, giết sứ Hán là bọn An Quốc và Thiếu Quý. Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức và Dương Phác đem quân chinh phạt, bắt được Vệ Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia, thôn tính cả nước (1), phân đất đặt quan cai trị.

Posted ImageTriệu Đà

Họ Triệu mất nước, con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau hội họp nhau ở Thần Phù, Hoành Sơn là những xứ vắng vẻ không có người. Họ bèn đóng tàu thuyền, đột nhập vào nội địa cướp người ven biển, giết các quan lệnh của nhà Hán, xưng là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu

Đến đời Tam Quốc, Tôn Quyền nhà Ngô sai Đái Lương, Lữ Đại (2) làm Thái Thú để đánh dẹp. Quân Nam Chiếu ở cả một vùng từ núi Thiên Cầm tới các vùng Hà Hoa, Cao Hoàng, Hoành Sơn, Ô Đặc, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Đổ, Vọng Án và Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở, không có một vết chân người. Quân Nam Chiếu ở đấy, khi số người đã nhiều, thường lấy châu bảo, ngọc ngà đút lót cho nước Tây Bà Dạ cầu làm thân thuộc, để cúu giúp lẫn nhau. Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là Triệu Ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều nể phục, cùng hợp lại với quân Nam Chiếu, được hơn hai vạn người, lại đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ, xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển. Khi ấy, nước Tây Bà Dạ chia đều đất ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Như Hoàn. Trên từ Cầm Châu xuống tới Hoan Châu gọi là lộ Lâm An và giao cho nước Nam Chiếu, cho Triệu Ông Lý thống trị. Sau đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá, đất Diễn Châu, đông giáp với biển, tây tới nước Bà Dạ, nam tới Hoành Sơn, tự xưng làm chúa.

Nhà Đông Tấn sai tướng là Tào Khả đem quân sang đánh, Ông Lý mai phục ở rừng núi hiểm trở nơi đầu nguồn sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở núi Liên Vị, địch tới thì mình đi, địch đi thì mình tới, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5 năm trời, không hề đối đầu. Quân Tấn không chịu nổi lam chướng, chết hơn quá nửa, bèn rút quân về.

Quân Nam Chiếu tới cướp Trường An và các vùng lân cận, quan lệnh không thể dẹp nổi. Tới khi nhà Đường thịnh lên, vua Ý Tông sai Cao Biền (3) đem quân sang dẹp, không đánh nổi phải bỏ về. Tới đời Ngũ Đại (4), Thạch Kính Đường sai tướng Tư Mã là Lý Tiến (5) đem 30 vạn quân đánh vào Đồ Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về biên giới Ai Lao, gọi là nước Đầu Mô, nay là đất Bồn Mang (6).

Chú thích:

1) Bản A 2914 thì “thôn tính cả nước” chép thành “Nước Nam Việt liền mất”.

Posted ImageTượng Triệu Đà ở Chính Định, Thạch Gia Trang, Hà Bắc, Trung Quốc

2) Việt Sử Lược chép rằng: “Tôn Quyền nghe Sĩ Nhiếp mất, chia đất từ Hợp Phố về Bắc thuộc Quảng Châu, cho Lữ Đại làm Thứ sử; từ Hợp Phố về Nam là Giao Châu, sai Đái Lương làm Thứ Sử. Cho Trần Thì làm Thái thú thay Nhiếp. Bọn con của Nhiếp là Huy đem binh chống cự với Lương. Sau, Lữ Đại dùng kế giết chết Huy, lấy đầu đem về Vũ Xương. (Nguyễn Hữu Vinh dịch) 3) Việt Sử Lược chép rằng: Đường Ý Tông cho gọi các đạo binh về, bãi bỏ An Nam Đô Hộ Phủ, đặt Hành Giao Châu ở trấn Hải Môn, sai Tống Nhung làm Thứ sử Giao Châu. Tháng 7, đặt lại Đô Hộ Phủ. Năm thứ 5 niên hiệu Hàm Thông (864), nhà Ðường cho quan Dung Quản Kinh Lược Sứ là Trương Nhân kiêm luôn việc quân ở An Nam. Nhân không chịu đi nhậm chức, Hạ Hầu tiến cử Cao Biền đến thay Nhân. Biền tự Thiên Lý, cháu của Sùng Văn, suốt đời binh nghiệp, thích đọc sách, ưa đàm luận cổ kim. Lúc nhỏ theo giúp Châu Thúc Minh. Một hôm, có hai chim diều hâu đang bay, Cao Biền giương cung mà nói rằng: “Nếu tôi được phú quý thì bắn trúng vậy”. Rồi bắn một phát xuyên cả hai chim. Dân chúng đều sợ, gọi Cao Biền là “Lạc Điêu Thị Ngự”. Sau vì có công, được thăng làm Phòng Ngự Sứ ở Tần Châu. Bấy giờ, Giao Châu đã lọt vào tay Nam Chiếu. Năm thứ 5 niên hiệu Hàm Thông (864), làm Kiêu Vệ Tướng Quân, lãnh chức An Nam Đô Hộ Phủ Kinh Lược Chiêu Thảo Sứ, và được giao phó hết binh quyền của Trương Nhân. Tháng 9, Biền đến nam Phong Châu. Dân man đông đến 5 vạn người đang gặt lúa, Biền đánh úp một trận, phá tan tành, bèn tiến sang đánh quân Nam Chiếu, lại dẹp được quân Nam Chiếu, giết tướng Nam Chiếu là Đoàn Tù Thiên và chém hơn 3 vạn đầu quân thổ man. Nhà Đường bèn bãi bỏ Đô Hộ Phủ, đặt Tĩnh Hải Quân, và cho Biền làm Tiết Độ Sứ. Biền chiếm giữ Giao châu xưng vương. Từ lúc người man nổi lên đến lúc ấy đúng mười năm mới được yên ổn. Biền tu sửa La Thành, chu vi dài 1980 trượng 5 thước, cao 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 6 thước. Bốn thành có đắp tường ngăn cao 5 thước 5 tấc, xây 55 gian lầu địch, 5 môn lâu, 6 cửa vòng cung hình tò vò, 3 ngòi nước, đắp 34 con đường đi. Lại đắp đê chu vi dài 2125 trượng 8 thước, cao 1 trượng 5 thước, chân đê rộng 3 trượng, xây cất nhà cửa hơn 5000 căn. Cao Biền thấy đường biển từ Giao Châu ta đến Ung, Quảng có nhiều đá ngầm, thường làm đắm chìm thuyền bè, cản trở việc vận tải lương thực bèn sai quan Trưởng Sử là bọn Lâm Phúng đào thông con đường ấy. Mùa hè, ngày mồng năm tháng tư, bắt đầu công việc. Ðược hơn một tháng, sắp xong, chỉ còn một đoạn ở giữa thì gặp những tảng đá lớn dài mấy trượng, cứng như sắt, chém dao xuống thì cong lưỡi, đập búa vào thì búa gãy cán. Những phu dịch nhìn nhau đành chịu dễ chừng muốn bỏ dở công việc. Ngày 26 tháng 5, mây đen đùn lên, gió lớn dữ dội giữa ban ngày, sấm dậy ầm ầm, sét đánh liên tiếp, chợt trời quang mây tạnh, những tảng đá lớn đã thấy vỡ tan cả, chỉ còn hai chỗ nữa mà thôi. Ðến ngày 21 tháng 6, sấm sét lại nổi lên như trước và các tảng đá lớn trong chốc lát cũng đều bị vỡ tan. Công việc hoàn thành. Do vậy, mới gọi chỗ ấy là kênh Thiên Uy. Năm thứ 9 (868), Ý Tông cho Biền làm Hữu Kim Ngô Đại Tướng Quân, phong thêm chức Kiểm Hiệu Thượng Thư Hữu Bộc Xạ, cho sang làm Tiết độ Sứ ở Thiên Bình, rồi mất. (Nguyễn Hữu Vinh dịch)

4) Ngũ đại: Khoảng thời gian loạn lạc trong lịch sử Trung Quốc từ năm 907 đến 979 sau Công Nguyên, gồm có 5 triều đại và 10 nước. Trong đó có nước Nam Hán đem quân xâm chiếm nước ta, bị Ngô Quyền đánh tan ở sông Bạch Đằng vào năm 938.

5) Việt Sử Lược chép: Năm thứ nhất niên hiệu Trường Hưng (930) đời Minh Tông nhà Hậu Đường, chúa Nam Hán là Lưu Yểm (cũng gọi là Lưu Nghiễm, Lưu Cung) sai tướng Lương Khắc Chân sang đánh Giao Châu ta, bắt Tiết Độ Sứ Khúc Toàn Mỹ, cho tướng là Nguyễn Tiến (Lý Tiến) lên thay. Trong khoảng niên hiệu Trường Hưng (930- 933) đời Ðường Minh Tông, Đình Nghệ đem quân đánh Nguyễn Tiến. Tiến chạy về Hán. (Nguyễn Hữu Vinh dịch)

6) Bản VHV 1473 và Bản A 2914 thì “nay là đất Bồn Mang” viết thành “thường hay làm việc cướp bóc, lúc đánh lúc nghỉ, chưa hề ngừng, cho đến hôm nay cũng vậy”.

(Nguyễn Hữu Vinh dịch)

Bình:

• Theo truyện này, nước “Nam Chiếu” cua con cháu Triệu Đà nằm khoảng ngày nay là Nghệ An đến Đèo Ngang (Hoành Sơn). Vậy thì khác với nước Nam Chiếu (Nan Chao) ở vùng mà ngày nay là Vân Nam, Trung quốc, là tiền thân của nước Đại Lý của nhà họ Đoàn nổi tiếng với nhiều vị vua đi tu (mà tiêu thuyết gia Kim Dung đã tiểu thuyết hóa như là truyền nhân của Nhất Dương Chỉ), và ngày nay là một danh thắng du lịch.

Vào khoảng năm 738, đời Đường Huyền Tông ở Trung quốc, 6 “chiếu” của người Bạch và Di ở Vân Nam thống nhất thành nước Nam Chiếu. Vì nhà Đường suy yếu, nước Nam Chiếu phát triển và bành trướng rất nhanh, đầu tiên là vào Miến Điện, sau đó là toàn bộ Vân Nam ngày nay, xuống phía bắc Lào và Thái Lan, và sau đó về phía bắc tới Tứ Xuyên (Trung quốc). Đây là nước Nam Chiếu tấn công Giao Châu (Việt nam) từ 858 đến 866.

Theo sách sử Việt, chú thích số 3 bên trên, quân Nam Chiếu hợp với quân thổ man tiến chiếm Giao Châu. Vậy nước “Nam Chiếu” trong truyện này–con cháu của Triệu Đà ở vùng Nghệ An Hoành Sơn–có lẽ là một trong những nhóm “quân thổ man” trong truyện thì có lý hơn.

• Nếu truyện này mà có một phần sự thật thì truyện này giải thích việc bành trướng đất Giao Châu (Việt Nam cổ) từ vùng Nghệ An ra đến Đèo Ngang (phía bên kia Đèo Ngang là đất của Chiêm Thành).

• Triệu Đà là tướng của Tần Thủy Hoàng, xâm chiếm Âu Lạc và, theo huyền sử, dùng con trai là Trọng Thủy kết hôn với công chúa Mỵ Châu, con của An Dương Vương, để làm gián điệp. Nhờ đó Triệu Đà chiếm được Âu Lạc và xưng đế gọi là Triệu Vũ Đế.

Lẽ ra phải xem gia tộc nhà Triệu là của Trung quốc, và thời kỳ Triệu Đà là thời Bắc thuộc, thì sách sử Việt có khuynh hướng xem Triệu Đà là vua của Việt Nam, vì lý‎ do nhà Triệu khá độc lập với nhà Hán ở Trung quốc, và cuối cùng Lữ Gia, tể tướng qua 3 đời vua Triệu, công khai chống lại nhà Hán. Hán Vũ Đế phải sai đại quân sang đánh và thắng Lữ Gia.

Có lẽ đây là tâm lý Việt: “Ông chống kẻ thù của tôi thì ông là người nhà tôi.”

• Và có lẽ vì thế mà Lĩnh Nam Chích Quái lại có truyện về nước “Nam Chiếu”, vì theo truyện này “Người Nam Chiếu là con cháu của vua Vũ Đế Triệu Đà”. Nghĩa là, lịch sử “Nam Chiếu” là một phần lịch sử của Việt Nam, theo tâm lý nói trên.

• Hơn nữa, theo truyện này, nó là phần lịch sử bất khuất không chịu tùng phục Trung quốc bao giờ, từ khoảng năm 208 TCN, lúc Triệu Đà chiếm Âu Lạc cho đến đời ngũ đại (907-979 SCN), tức là khoảng 1200 năm.

• Dù sao đi nữa, thì khoảng huyền sử/lịch sử này diễn tả hai điểm rất rõ:

1. Mối quan hệ tình cảm bị trị/cai trị giữa Giao Châu và Trung quốc, từ thời xa xưa đó đến nay.

2. Trong mối quan hệ bị trị/cai trị đó, ông chống Trung quốc thì ông là người nhà của tôi. Xem ra tâm lý này vẫn còn rất sinh động ngày nay!

• Câu hỏi: Sách sử chúng ta có nên làm rõ ra là Triệu Đà là người Trung quốc đô hộ Việt Nam, không phải là vua Việt, và thời nhà Triệu là thời Bắc thuộc?

(Trần Đình Hoành bình)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Người Việt sẽ không thể nào gạt bỏ được Triệu Vũ Đế khỏi sử sách vì những công lao to lớn đối với người Việt:

- Đây là vị vua đầu tiên xứng Đế của nước ta.

- Đây là vị vua đã đặt tên nước Nam ta.

Với 2 công lao "Nam bang thủy đế" như vậy thì Triệu Vũ Đế chính là ... Lý Nam Đế, người đã Hưng đế nghiệp ở đất Long Biên (= Long Xuyên, điện Long Hưng - Xuân Quan), khởi nghĩa ở Bái Đình (=Thái Bình, đền Đồng Xâm).

Triệu Vũ Đế = Lý Nam Đế (Lý Bôn) = Lưu Bang.

Triệu Việt Vương là 4 đời vua Triệu của Nam Việt tiếp theo.

Nam Chiếu = Nam Triệu, là hậu duệ của Triệu Vũ Đế đã lui về vùng Phong Châu chống Hán sau thất bại ở Dương Thành.

Mọi việc đã thật rõ ràng.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nam Triệu và Nam Chiếu

Nguồn cội

Trong Lĩnh Nam chích quái có một câu chuyện rất thật, không có chút huyền thoại hay “chích quái” nào nhưng lại khó hiểu nhất vì chẳng hề ăn khớp tí gì với chính sử. Đó là Truyện Nam Chiếu. Nay xin “đọc lại” câu chuyện này, không cần phải “giải mã” gì, chỉ cần đối chiếu với những gì đã và đang biết về lịch sử bị lãng quên của miền Tây và Nam nước ta.

Câu đầu tiên của Truyện Nam Chiếu khẳng định: “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”. Câu khẳng định này đúng là đánh đố người đọc ngày nay. Nam Chiếu được coi là quốc gia của người Di Bạch vùng Vân Nam, sao lại là con cháu Triệu Đà được? Nhưng đích thực, câu mở đầu này đã xác định nước “Nam Chiếu” thực chất là ở đâu. Triệu Vũ Đế dựng nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung – Quảng Đông. Thành phần dân tộc chính vùng này là nhóm người Tày Thái. Nam Chiếu là con cháu Triệu Đà, tức là một quốc gia người Thái. Lịch sử Nam Chiếu cho biết quốc gia người Thái này đã từng trải rộng trên đất Tây Bắc Việt Nam, Lào và Bắc Thái Lan.

Đoạn này còn có nghĩa: con cháu của Triệu Đà hay của Trình Thị, cũng của Mỵ Châu - Trọng Thủy và Mỵ Châu con vua An Dương Vương - bộ chủ vùng Vân Nam thì ý nghĩa này mới lộ rõ. Vân Nam là Điền Việt cũng hàm ý Lý Việt, sau này chính là nước Đại Lý. Câu truyện Lý Ông Trọng chính là trọng Thủy như đã phân tích.

Do Triệu Vũ Đế đơn thương độc mã, sau này có thể thu gom họ Triệu nhưng không thể khống chế Vân Nam sau khi thất thủ trước nhà Hán. Vân Nam và Quý Châu vẫn thuộc Tây Hán theo dạng tự trị. Do vậy, Lý chính là họ ngoại.

Nước Nam Chiếu ở trong truyện không phải mới bắt đầu vào thời Đường như nước Nam Chiếu theo chính sử ở Vân Nam, mà có gốc gác từ thời Tây Hán. Khi Lộ Bác Đức tấn công Nam Việt thì “Con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn, là những xứ vắng vẻ không người. Khi bộ hạ đông đúc họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bể đột nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu”.

Đất Hoành Sơn mà ở gần cửa Thần Phù thì là đèo Ngang giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, chứ không phải Hoành Sơn ở Quảng Bình. Con cháu họ Triệu như vậy trở về vùng Ái Châu tụ tập. Đoạn ghi chép trên rất giống với chuyện… Man vương Mạnh Hoạch chống lại các vị quan họ Chu của nhà Đông Hán trong thần tích làng Hương Ngải - Sơn Tây. Mạnh Hoạch hoạt động cả một dải từ Hưng Hóa tới Ái Châu, làm quan cai trị ở Giao Châu lúc đó phải lao đao… Nam Triệu như vậy là tên gọi nước của Mạnh Hoạch từ thời Đông Hán, là vùng đất phía Tây Giao Chỉ.

Mạnh Hoạch (孟獲) là một nhà quý tộc, người đứng đầu Nam Man nằm ở Nam Trung, phía nam của Thục Hán, thuộc khu vực ngày nay là Vân Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Theo Tam Quốc Diễn nghĩa, Mạnh Hoạch đứng đầu các bộ lạc Nam Man và thường xuyên quấy nhiễu và Gia Cát Lượng đã đích thân dẫn quân đến thu phục Mạnh Hoạch. Theo Tam Quốc Diễn nghĩa thì Gia Cát Lượng đã 7 lần bắt được Mạnh Hoạch và tha với mục đích thu phục nhân tâm các bộ lạc khu vực này.

Tiếp theo, “Đến đời Ngô, Tôn Quyền sai Đái Lương, Lữ Đại làm thú mục để đánh dẹp. Quân Nam Chiếu ở cả một vùng từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở, không có một vết chân người. Quân Nam Chiếu ở đấy thường lấy việc cướp bóc để sinh sống, đánh giết thú mục, không thể ngăn cản nổi.

Đây cũng là thành tích của Mạnh Hoạch khi phần đất phía Đông Giao Chỉ được Sĩ Nhiếp Ngạn Uy dâng cho Ngô Tôn Quyền. Đoạn trên cho biết một loạt các địa danh “từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi”. Các địa danh này hẳn nằm ở Tây Bắc và Tây Thanh Nghệ ngày nay, là đất Nam Triệu của Mạnh Hoạch.

Mạnh Hoạch hay Mãnh Hoàng, có thể chỉ là cách gọi vị vua của người Mường Mán. Mãnh Hoàng là con cháu họ Triệu, sau khi kinh đô Phiên Ngung của Nam Việt thất thủ đã rời về Tây Giao Chỉ và hùng cứ một vùng, liên tục chống lại các quan lại nhà Hán rồi tới nhà Ngô. Tiếp theo thì như đã biết, Vũ Hầu Gia Cát, thừa tướng của nhà Thục đã vượt Lô Giang, tiến vào Tây Bắc bình định, thu phục Mãnh Hoàng. Mãnh Hoàng tiếp tục cai quản khu vực Nam Triệu này dưới hình thức tự trị, độc lập.

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là Triệu Ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều nể phục, cùng hợp lại với quân Nam Chiếu, được hơn hai vạn người, lại đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ, xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển.

Nếu đối chiếu với tộc phả họ Phạm:

"Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân - Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) - tức là Nam Trung bộ ngày nay.

Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trước CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm Ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).”

Có thể thấy Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà, là họ Lý, bắt đầu từ Lý Thân (Lý Ông Trọng). Vùng đất Tây Giao Chỉ là vùng Lâm Thao, nơi Lý Ông Trọng trấn giữ người Hồ dưới thời Tần.

Đặc biệt truyền phả họ Nguyễn còn chép rằng Triệu Đà chính là Lý Ông Trọng. Chuyện này tuy còn nhiều nghi vấn, nhưng có thể có phần nào là sự thật khi con cháu Triệu Đà cũng là con cháu của Lý Thân, chiếm vùng đất Tây Giao Chỉ dưới thời Hán.

Vùng Tây Giao Chỉ là đất của Mãnh Hoàng (Mạnh Hoạch), còn gọi là Nam Triệu, thời Tam quốc đã hàng phục nước Thục nhờ công của Vũ Hầu Gia Cát. Khi nhà Tấn diệt Thục, Tấn chỉ chiếm được vùng Xuyên Thục phía Bắc của nước này. Phần phía Nam vẫn do Mãnh Hoàng tự trị kiểm soát. Theo Truyện Nam Chiếu thì lúc này Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà – Lý Thân, đã lên nắm quyền cai quản ở đây. Triệu Ông Lý chống lại nhà Tấn, “cùng hợp với quân Nam Chiếu”, tức là hợp với quân của họ Phạm ở phía Nam vùng ven biển Trung Bộ theo như tộc phả họ Phạm chép.

Truyên Nam Chiếu chép: “Khi ấy, nước Tây Bà Dạ chia đều đất ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Già La, trên từ Cầm Châu xuống tới Hoan Châu gọi là lộ Lâm An giao cho Nam Chiếu và Triệu Ông Lý thống lĩnh. Sau đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá, đất Diễn Châu, đông giáp với biển, tây tới nước Bà Dạ, nam tới Hoành Sơn, tự xưng làm chúa.”

Có thể thấy nước Nam Chiếu trong truyện ở thời kỳ nhà Tấn chính là xứ Lâm Ấp hay Nam Hà trong tộc phả họ Phạm. Xứ này bao gồm 2 phần:

- Phần lộ trên từ Quý Châu tới Diễn Châu do Triệu Ông Lý cai quản. Lộ này có tên Như Hoàn, hay Già La, sách khác gọi là Như La, Gia Viễn. Đây là phần đất liền không giáp biển, là Tây Giao Chỉ, gồm cả đất Lào ngày nay. Tên gọi Già La hay Như La cho thấy vùng này chính là nước Lỗ (La) của thời Chiến Quốc. Đây cũng là đất Lâm Thao thời Tần, trước do Lý Ông Trọng cai quản, sau đó giao cho con cháu Lý Thân.

- Lộ dưới từ Cầm Châu tới Hoan Châu gọi là Lâm An, do con cháu họ Phạm quản lý. Đây là phần giáp biển, ven biển miền Trung ngày nay. Tên lộ Lâm An cho thấy đây là đất Yên (An) thời Chiến Quốc, đã được nhà Tần giao cho Phạm Duy Hinh, con của tướng Phạm Duy Minh ở Đằng Châu cai quản.

Nước Tây Bà Dạ là nước Lào hay? Campuchia? hay Miến, Thái...?

Bản đồ trên ước vẽ 2 phần đất Già La và Lâm An từ thời Tấn. Đây là phạm vi nước Lâm Ấp vẫn được mô tả trong sử sách, có phía Đông giáp biển, Tây đến Vân Nam …

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Nhà Đông Tấn sai tướng là Tào Khả đem quân sang đánh, Ông Lý mai phục ở rừng núi hiểm trở nơi đầu nguồn sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở núi Liên Vị, địch tới thì mình đi, địch đi thì mình tới, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5 năm trời, không hề đối đầu. Quân Tấn không chịu nổi lam chướng, chết hơn quá nửa, bèn rút quân về.

Nhà Tấn sau khi diệt Thục và Ngô, tấn công xuống phương Nam. Nhưng gặp sự kháng cự của Mãnh Hoàng, rồi Triệu Ông Lý ở vùng Nam Triệu này, không tiến nổi. Vùng đất này như vậy vẫn giữ độc lập từ thời Tấn. Vùng Vân Nam?

Lý Ông Nam Triệu tương đương với … Lý Nam Đế (Triệu = Chúa), trong sử Việt được gọi là triều Hậu Lý Nam Đế. Tới thời Tùy Cao Tổ năm 602 tướng Lưu Phương đã dụ hàng con cháu của Nam Triệu, đưa vùng đất La – Lỗ nhập vào đất Tùy. Năm 605 Lưu Phương cũng tấn công xuống phía Nam thắng lợi, đuổi họ Phạm chạy ra ngoài hải đảo, sát nhập nốt đất An – Yên vào nhà Tùy. Nước “Nam Triệu” của Triệu Ông Lý chấm dứt ở đây sau 600 năm tồn tại. Nhưng sau đó, một nước Nam Chiếu mới lại nổi lên…

Tộc phả họ Phạm viết: "Đến đời vua họ Phạm thứ 19 là Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa, vơ vét của cải , châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua họ Phạm, khiến Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh về cùng Mai Thúc Loan và cha con Phùng Hưng, Phùng An , diệt được quan quân nhà Đường và lập Mai Thúc Loan làm Bố Cái Đại vương, tức Mai Hắc đế (766)."

Còn Truyện Nam Chiếu chép: “Quân Nam Chiếu tới cướp các xứ Nam thành, Đông thành, Trường An, quan lệnh không thể dẹp nổi. Tới khi nhà Đường thịnh lên, vua Ý Tông sai Cao Biền đem quân sang dẹp, không đánh nổi phải bỏ về.

Đoạn này nói tới cuộc khởi nghĩa thời Mai Thúc Loan - Phùng Hưng, tấn công chiếm thành Tống Bình (Trường An?). Phải tới Cao Vương Biền mới đuổi được quân Nam Chiếu của họ Phùng ra khỏi Đông Giao Chỉ, và đặt vùng này làm Tĩnh Hải quân. Nhưng phía Tây Giao Chỉ vẫn do Nam Chiếu chiếm giữ. Thậm chí còn mở rộng ra thành 6-7 “chiếu” theo như truyền thuyết về Khun Borom ở Lào.

Đoạn cuối cùng của Truyện Nam Chiếu: “Tới đời Ngũ Đại vua Tấn là Thạch Kính Đường sai tướng tư mã là Lý Tiến đem 30 vạn quân đánh Đồ Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về biên giới Ai Lao, gọi là nước Đầu Mô, nay là đất Bồn Man”.

Bồn Man???

Thời Thạch Kính Đường thì Hoa Nam đã chia năm xẻ bảy, còn hơi sức đâu mà nhà Hậu Tấn đánh dẹp Nam Chiếu. Lúc này trên đất Tĩnh Hải là triều đại của Nam Hán Lưu Cung. Đoạn sử trên có thể nói tới sự kiện Cao Biền đánh Nam Chiếu từ thời Đường Ý Tông, hoặc chuyện Đoàn Tư Bình diệt Nam Chiếu, lập nước Đại Lý. Có điều sử Tàu đã biến chuyện Nam Chiếu bị diệt thành chuyện Nam Hán Lưu Cung cử Lý Tiến đánh Khúc Thừa Mỹ. Có thể Lý Tiến là tướng của Lưu Cung quãng năm 936 – 940 (thời Hậu Tấn) đã tấn công Nam Chiếu ở Tây Giao Chỉ, chứ không phải đánh Khúc Thừa Mỹ.

Phải nói Truyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái là một ghi chép rất đầy đủ và chân xác về lịch sử vùng Tây Giao Chỉ trong suốt một thời kỳ dài từ Đông Hán tới tận thời Ngũ Đại. 1000 năm lịch sử của miền Tây đã bị lãng quên, may mắn còn được lưu lại trong truyện. 600 năm Nam Triệu và 400 năm Nam Chiếu, kiên cường chống lại phương Bắc, huy hoàng mở các quốc gia người Thái khắp Đông Nam Á.

Câu chuyện này sẽ được phân tích kỹ thêm, vì đây là sử chứ không phải huyền thoại.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một số thời điểm chính của nước Sở:

Sở Khoảnh Tương vương (chữ Hán: 楚頃襄王, ?-262 TCN, trị vì 298 TCN-263 TCN[1][2])

Ngay sau khi Khoảnh Tương vương nối ngôi, nước Tần nhân nước Sở chưa ổn định đem quân đánh, quân Sở đại bại, mất 16 thành, năm vạn quân bị Tần giết.

Theo nhiều sử sách ghi lại, Sở Khoảnh Tương vương là người hoang dâm vô độ, thích âm nhạc, ít quan tâm chính sự, tin dùng bọn xu nịnh, làm nước Sở ngày một suy yếu.

Năm 286 TCN, vì Tống Khang vương lấn đất của ba nước Ngụy, SởTề, Tề Mẫn vương kêu gọi ba nước cùng nhau đánh Tống. Sở Khoảnh Tương vương hưởng ứng. Quân 3 nước đánh bại quân Tống giết chết vua Tống, chia đất Tống làm ba.

Tuy nhiên sau đó Tề Mẫn vương muốn chiếm toàn bộ đất Tống, bèn gây hấn với Sở chiếm Hoài Bắc. Bấy giờ Yên Chiêu vương muốn đánh Tề, cử Nhạc Nghị sang nước Sở liên lạc Sở Khoảnh Tương vương cùng nhau xuất quân. Khoảnh Tương vương ghét Tề Mẫn Vương nên hợp tung cùng YênTriệu, Tần, Ngụy đánh Tề. Năm 285 TCN, liên quân đánh bại quân Tề ở Tế Tây. Quân Yên tiếp tục đánh còn chư hầu bãi binh rút về.

Năm 282 TCN, Tề Mẫn vương bị quân Yên chiếm hết 70 thành, chạy về thành Cử, cầu cứu nước Sở, hứa sẽ dâng cho Hoài Bắc. Sở Khoảnh Tương vương sai Náo Xỉ đem quân giúp Tề, tuy nhiên sau đó Náo Xỉ giết chết Tề Mẫn vương và định chiếm nước Tề, bị người nước Tề giết chết.

Năm 279 TCN, Tần Chiêu vương sai Bạch Khởi đem quân đánh Sở, Sở đại bại, mất đất Yên (nay là Yên Lăng, tỉnh Hà Nam) và đất Lăng (nay thuộc vùng Tây Bắc Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc). Sở Khoảnh Tương vương dâng sổ sách cầu hoà, Tần Chiêu Tương vương giả vờ chấp nhận, Khuất Nguyên khuyên Sở Khoảnh Tương vương không nên tin vua Tần nhưng ông không nghe. Kết qua quân Tần tiến vào chiếm Dĩnh Đô, Khuất Nguyên tự tử. Sở Khoảnh Tương vương phải thiên đô sang đất Trần. Khu lăng mộ các tiên vương nước Sở bị Bạch Khởi thiêu trụi.

Năm 277 TCN, Bạch Khởi chiếm đất đất Vu Trung và đất Kiềm Trung (nay thuộc miền đất nằm giữa đông Tứ Xuyên, tây Hồ Bắc, tây Hồ Nam và một phần bắc bộ của tỉnh Quý Châu) của nước Sở, sáp nhập vào Tần.

Năm 273 TCN, Sở Khoảnh Tương vương đem quân hợp với Hàn, Ngụy, Triệu đánh nước Yên.

Theo Sử ký, quyển 116, Tây Nam Di liệt truyện[3] tTrang Kiểu, có thời từng là tước nước Sở, vào khoảng năm 279 TCN được Sở Khoảnh Tương Vương (298 TCN-263 TCN) giao nhiệm vụ tấn công khu vực ngày nay là Vân Nam. Trong khi ông hoàn thành nhiệm vụ chinh phục các bộ lạc bản xứ thì nước Sở lại thất bại trong cuộc chiến với nước Tần và năm 277 TCN thì quận Kiềm Trung bị Tần chiếm, làm cho đường trở về nước Sở của Trang Kiểu bị cắt đứt. Ông tự xưng làm vua nước Điền với tước hiệu là Trang vương.

Tư Mã Thiên viết Sử ký trong thời Hán Vũ Đế, do vậy cũng bị ảnh hưởng ý đồ của nhà Hán trong việc viết sử - điều này là chắc chắn. Tuy nhiên, có thể ông sẽ "mã hóa" những chỗ "sửa sử" bằng các thông tin điều chỉnh khác.

Năm 277, 276 TCN, ở phía Nam, Bạch Khởi bình định đất Vu, đất Kiềm (nay thuộc miền đất nằm giữa đông Tứ Xuyên, tây Hồ Bắc, tây Hồ Nam và một phần phía Bắc của tỉnh Quý Châu) của nước Sở, đặt là quận Kiềm Trung. Rõ ràng không tấn công Vân Nam được, diện tích của Sở trên bản đồ thời Chiến Quốc lấn vào Quý Châu 1 phần.

Nếu Bạch Khởi lấy Quý Châu được cho là của Sở, thì sẵn sàng đi tới Vân Nam cũng của Trang Kiểu. Như vậy, sự kiện này là có thể nhưng Trang Kiểu không thể lấy được Vân Nam - nó sẽ làm rúng động Văn Lang, rõ ràng phải được ghi nhận một cách đặt biệt, trong khi đó chỉ đọc Sử ký mới thấy. Thời gian Trang Kiểu tấn công, cũng chính là thời vua An Dương Vương chưa nối tiếp Hùng Duệ Vương.

Nếu xem lại cuộc chiến tranh của Tần, đã dùng 5 mũi tấn công Văn Lang mà không thấy việc đánh từ Quý Châu xuống (nếu đã vào tay mình), dùng thế vu hồi thì rõ ràng, Quý Châu và Vân Nam vẫn thuộc Văn Lang thời gian này. Như vậy, sự kiện ghi nhận trong Sử Ký có lẽ đã phải viết theo yêu cầu của nhà Hán có mục đích: tách rời mối liên hệ Quý Châu, Vân Nam và các Bộ Văn Lang còn lại, đặc biệt là Lạc Việt Phong Châu vì An Dương Vương - bộ chủ Vân Nam nói Hùng Vương.

Sau này, Vân Nam và Quý Châu là 2 khu tự trị thuộc Tây Hán, sau khi Nam Việt của Triệu Vũ Đế thất thủ. Điều này nói lên tính độc lập, địa thế và con người nơi đây.

Vân Nam chính là 1 trong 3 trung tâm trống đồng của Văn Lang: Phong Châu Việt Nam và Quảng Tây - nơi chống cự quân Tần kịch liệt nhất.

Sau này, do tính độc lập của các Bộ Văn Lang càng cao vào thời Nam Việt (gần 100 năm), cho nên mối quan hệ không còn chặt chẽ, do đó nhà Hán đánh gục dễ dàng.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trích Nam Việt Úy Đà liệt truyện của SỬ KÝ:

Nam Việt giáp giới với quận Trường Sa. Thời Cao Hậu, quan đương sự xin cấm không cho người Nam Việt vào mua đồ sắt. Đà nói:<br style="font-family: Times New Roman; font-size: 19px; line-height: 140%;"> - Cao Đế lập ta làm vương, cho sứ giả cùng hàng hóa được đi lại. Nay Cao Hậu nghe lời bọn bầy tôi gièm pha, cách biệt man di, cấm đứt khí vật,. Đó chắc là mưu kế của Trường Sa Vương. Ông ta muốn tìm cách dựa vào Trung Quốc, tiêu diệt Nam Việt để làm vua cả đất của ta. Đà bèn tự tôn là “Nam Việt Vũ Đế”; đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa, đánh bại mấy huyện rồi đi. Cao Hậu sai tướng quân Lâm Hi Hầu tên là Táo đến đánh. Gặp lúc trời nắng khí ẩm, quân lính bị bệnh dịch rất nhiều, nên quân Hán không qua được núi Dương Sơn. Được hơn một năm, Cao Hậu mất, liền bãi binh.<br style="font-family: Times New Roman; font-size: 19px; line-height: 140%;"> Đà nhân đó, dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình. Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn dặm. Đà bèn đi xe mui lụa mầu vàng cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là “chế”(2), chẳng kém gì Trung Quốc.<br style="font-family: Times New Roman; font-size: 19px; line-height: 140%;"> Năm đầu thời Hiệu Văn Đế, thiên hạ mới yên. Nhà vua sai sứ đi bá cáo chư hầu, tứ di biết rằng nhà vua ở đất Đại (3) về lên ngôi, ý muốn nêu cao đạo đức của nhà vua. Nhân Đà có mồ mả cha mẹ ở huyện Chân Định, nhà vua bên đặt người giữ ấp để hàng năm đến ngày giỗ thờ cúng. Đối với anh em họ của Đà, nhà vua ban ơn cho họ làm quan to và thưởng cho nhiều của. Nhà vua xuống chiếu cho bọn thừa tướng là Trần Bình cử người có thể đi sứ sang Nam Việt. Bình nói:<br style="font-family: Times New Roman; font-size: 19px; line-height: 140%;"> - Có Lục Giả người huyện Hảo Chỉ, thời tiên đế đã quen đi sứ Nam Việt.<br style="font-family: Times New Roman; font-size: 19px; line-height: 140%;"> Vua Hán bèn triệu Giả phong làm thái trung đại phu để đi sứ, nhân đấy trách Đà đã tự lập làm “đế” mà không hề phái sứ giả sang báo tin.<br style="font-family: Times New Roman; font-size: 19px; line-height: 140%;"> Lục Giả đến nơi, Nam Việt Vương sợ hãi, làm giấy tạ tội rằng: “Thần tên là Đà, là một kẻ già ở man di. Ngày trước Cao Hậu gạt bỏ Nam Việt, thần trộm ngờ Trường Sa Vương đã gièm pha thần. Lại nghe đồn Cao Hậu giết hết họ hàng Đà, đào mồ mả, đốt hài cốt cha ông Đà. Vì thế nên liều mạng xâm phạm biên cảnh quận Trường Sa. Vả lại phương Nam đất thấp, ẩm, dân man di ở vào giữa. Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”; ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”. Lão thần trộm dùng bậy danh hiệu “đế” chỉ để tự vui (4), chứ đâu dám để nói đến tai bệ hạ ?”.

Cao Hậu sai tướng quân Lâm Hi Hầu tên là Táo đến đánh. Gặp lúc trời nắng khí ẩm, quân lính bị bệnh dịch rất nhiều, nên quân Hán không qua được núi Dương Sơn. Được hơn một năm, Cao Hậu mất, liền bãi binh: đây là một trận chiến mà Hán đã thua, tuy nhiên Sử ký đã viết theo yêu cầu của thời thế.

Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”; ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”: Phía Tây chính là Vân Nam, gọi là Âu Lạc - điều này hoàn toàn phù hợp lịch sử Văn Lang. Chúng ta cũng chú ý Vân Nam là bộ của Thục Phán An Dương Vương.

Trên đây là minh chứng Sử ký cũng đã viết theo yêu cầu của nhà Hán, cho nên phần Tây Nam di liệt truyện của Sử ký nói về Trang Kiểu đánh lấy Vân Nam, lập Điền Quốc trong lúc Sở đang nguy khốn nhất với Tần thì không hợp lý. Mục đích chính ngăn cản mối liên hệ lịch sử giữa các bộ cũ của Văn Lang mà thôi, do thời gian này Vân Nam đang thuộc bộ An Dương Vương, rất hùng mạnh cùng với Quý Châu (Kiềm Trung).

Share this post


Link to post
Share on other sites

Từ huyền sử đến sự thật

Trần Thị Vĩnh-Tường

Hơn 4000 năm, huyền sử lặng lẽ trôi đi dưới đôi bờ thời gian. Những nhân vật hết sức mờ ảo chỉ đến với nhân gian một lần, rồi biến mất tựa như Lưu Nguyễn quên trần hoàn.

Huyền sử là gì?

Người Hy Lạp hãnh diện về Hélène thành Troie, thương cảm cho định mệnh của giai nhân. Thế giới ngưỡng mộ Cléopatre qua khuôn mặt diễm lệ của Liz Taylor, tin chắc rằng “nếu mũi nàng chỉ ngắn một chút xíu, cả thế giới đã thay đổi.” Huyền thoại trong Cựu Ước cho Moses rẽ biển Hồng Hải, cứu dân Do Thái thoát vòng nô lệ. Như C.S Lewis (1898-1963) nhận xét “Huyền thoại là một thể loại nghệ thuật rất khác với văn học”. Dù không hội được những điều kiên của sử học, huyền sử/huyền thoại/truyền thuyết vẫn có giá trị: ghi nhận và chuyên chở một phần sự thật của quá khứ, thổi vào quá khứ ấy một linh hồn riêng của mỗi tộc người.

Đằng khác, huyền sử luôn ở một đầu đối chọi với sử học. Một đằng dựa vào cổ tích truyền miệng, văn hóa dân gian, không gian huyền ảo, siêu nhân vật thần thánh. Một đằng dựa vào những giá trị có thể kiểm chứng được: ở đâu/cái gì/tại sao/thế nào/bao giờ. Nhưng cũng theo phương pháp sử hoc, một sự kiện sai vẫn là một sụ kiện và vẫn có thể dùng như tia phản hồi giúp cho sự kiện đúng được lộ ra ngoài ánh sáng. Ví dụ: lý do người Mỹ dựng lên vụ tàu Maddox 1963 để có cớ tấn công vào vịnh Bắc Việt là một sự kiện ảo (1), nhưng hậu quả của việc này lại là một biến cố lịch sử làm thay đổi vận mệnh của cả dân tộc VN. In hệt như vụ Irak với “sự kiện ảo”: Saddam Hussein sở hữu vũ khí tàn sát tập thể. Năm 1979, Trung Quốc lấy cớ “bênh vực Hoa Kiều ở VN, để dậy cho VN một bài học” chỉ là cái vỏ bên ngoài. Nhưng trận chiến kinh hoàng gây tổn thất nhân mạng và tài sản cho cả hai bên ở biên giới Việt-Hoa, là một sự kiện lịch sử.

Vì vậy, câu hỏi “truyền thuyết Hồng Bàng có thật không” nên đổi lại “truyền thuyết có ý nghĩa gì”.

Truyền thuyết Hồng Bàng có tự khi nào?

Đại Việt sử ký, bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam, do Lê Văn Hưu (1230-1322) soạn năm 1272 không có truyền thuyết Hồng Bàng.

Lĩnh Nam Chích Quái, chuyện cổ tích và truyền thuyết.do nhiều thế hệ soạn giả soạn. Có đến 9 bản LNCQ chép tay, mỗi bản thêm/bớt một số chuyện. Cuối thế kỷ 15, Vũ Quỳnh và Kiều Phú nhuận sắc thêm “ghi chép những chuyện kỳ lạ thu ghép lượm lặt được ở cõi Lĩnh Nam” (sic). Truyền thuyết Hồng Bàng và nhiều cổ tích khác (Hồ tinh, Ngư tinh, Phù Đổng Thiên Vương, Nhất Dạ Trạch, thần Tản Viên, Cây Cau.. lần đầu tiên được ghi trong LNCQ. Kiều Phú viết trong bài tựa “Ôi! Nếu trời đã sai chim huyền điểu xuống để sinh ra nhà Thương (2) thì ắt có việc trăm trứng nở ra con chia nhau cai trị nước Nam. Truyện họ Hồng Bàng không thể mất được. Thà làm đầu con gà còn hơn làm đuôi trâu, cho nên con cháu họ Triệu chống lại Bắc Triều...”( 3)

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, do Ngô Sĩ Liên (năm sinh/năm mất không rõ) soạn năm 1479, mang truyền thuyết Hồng Bàng vào phần ngoại kỷ.

Năm 1919, tác giả Trần Trọng Kim (1882-1953) soạn Việt Nam Sử Lược dựa vào ĐVSKTT. Trần Trọng Kim mang truyền thuyết Hồng Bàng vào VNSL. Cùng thời, chữ quốc ngữ phát triển, truyền thuyết Hồng Bàng được nhắc nhở nhiều, khiến huyền sử trở thành chính sử.

Truyền thuyết Hồng Bàng

“Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.

Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.

Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: ''Ta là dòng dõi Long-quân, nhà ngươi dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 ta đem xuống bể Nam Hải.'' (sic)

Truyền thuyết nơi người Việt hải ngoại

Ở Orange County, địa danh/tên tuổi của truyền thuyết được dùng đặt tên cho một số cơ sở: Trung Tâm Việt Ngữ Hồng Bàng, Hiệp Hội Di Sản Hùng Vương, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng, hoặc... tiệm ăn: Âu Lạc.

Thật sự, những người quan tâm tới truyền thuyết Hồng Bàng, tới lịch sử nói chung, không nhiều. Một số người còn tỏ vẻ coi thường, cho Hồng Bàng là chuyện vớ vẩn khó tin. Trái lại, một số bài viết/tác phẩm công phu/dài hơi, huyền thoại hóa thêm truyền thuyết đã sẵn mầu mờ ảo, khiến truyền thuyết/lịch sử dường như trở thành một món xa xỉ, chỉ dành cho giới... cao cấp. Hậu quả, những buổi nói chuyện về tiểu phẩm/tác phẩm lịch sử chỉ lôi cuốn được một số người, đa số lớn tuổi, hoặc các cựu giáo chức sử/địa/ngôn ngữ. Con số thật khiêm nhường so với một buổi trình diễn ca nhạc. Do đó “về nguồn, di sản văn hóa, giữ gìn bản sắc dân tộc, 4000 năm văn hiến...” được lập đi lập lại trong các bài bình luận/diễn văn đẫm ánh đèn sân khấu, cũng hiếm khi nêu rõ nguồn gì, di sản ấy là gì, bản sắc gì, giữ gìn thế nào, văn hiến tính từ hồi nào...

Ở giới trẻ, có lẽ sự hiểu biết về truyền thuyết cũng hạn chế. Ngay các thày cô giáo tình nguyện dạy Việt Ngữ, cũng không có câu trả lời khi các em học sinh thắc mắc “đẻ một lần một trăm con, người đẻ ra trăm trứng...” Vô tri bất mộ, không biết tất không yêu. Tuy không nói ra, các em không tin tưởng vào truyền thuyết nữa. Cứ thế, nước chảy qua cầu.

Tình trạng này, có lẽ bắt nguồn từ vài khiếm khuyết có từ rất lâu, ngay từ trước 1975 ở miền Nam:

. Thiếu khái niệm về huyền thoại và lý giải hợp lý ;

. Thiếu giải thích địa bàn, thời điểm, bản đồ, di chỉ, đồ thị, tranh ảnh... trong hầu hết các sách giáo khoa hoặc các tác phẩm lịch sử. Sử Địa vì vậy là một môn học rất khó nhá, chỉ cần học thuộc lòng để đi thi rồi thôi. Bài viết ngắn này vì vậy xin gợi sự lưu ý đến địa điểm Hồ Nam và Ngũ Lĩnh, cùng những tồn nghi từ thuở còn ngồi ghế trung học.

Địa bàn của truyền thuyết

Chuyện “tuần thú” phương Nam của vua Đế Minh rất dế mèn phiêu lưu ký. Không rõ ông bắt đầu từ đâu, đi với ai, đi bằng gì, đi năm nào. Đến núi Ngũ Linh, Đế Minh gặp một nàng tiên. Mối duyên tình kỳ bí bắt đầu, làm tiền đề cho truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt. Nhân dáng nàng tỏa hương cổ tích: tất cả các tiên đều xuất phát từ miền núi, hang động. Động Bích Đào (4) vàng rơi ánh nguyệt, động Thiên Thai (5) nơi hoa xuân chưa gặp bướm trần gian. Từ núi, người tiên huyền thoại chỉ hiện ra một lần. Giới sử học hiếm khi lý giải đến tên tuổi lý lịch dòng tộc nàng. Dung nhan mờ ảo của nàng lùi dần rồi khuất xa mãi mãi, dù người Việt vẫn hãnh diện nhận “con rồng cháu tiên”.

Nhưng nơi tương phùng lại có thật: núi Ngũ Lĩnh ở phía nam sông Dương Tử, thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ. 5000 năm trước, nơi đó chưa có tên.

Nhưng có tìm tòi, mới thấy cái khó khăn của người xưa, khi tài liệu duy nhất là từ Trung Hoa. Ngay bây giờ, chỉ đi tìm chân dung núi Ngũ Lĩnh, thiếu điều tẩu hỏa nhập ma. Người Trung Hoa gọi Lĩnh Nam là vùng đất phía Nam núi Ngũ Lĩnh. Họ không để ý đến núi Ngũ Lĩnh này vì họ đã thống nhất các bộ lạc thuộc chủng Yue từ lâu.

Các tự điển internet, Wikipedia, Encyclopedia, có nhũng mô tả khá xa nhau:

Wuling Range ((fuq) chạy dài từ phía Tây Hồ Nam đến phía đông Quí Châu. Ngọn Wulingyuan, vĩ tuyến 29 16 Bắc, 110 22 Đông, hiện được Unesco công nhận là kỳ quan thế giới, là một nơi thu hút khách du lịch và cung cấp dược thảo các loại.

Nanling, Nam Lĩnh, còn gọi là Ngũ Lĩnh (Wđ) tên dãy núi ở vùng ranh giới các tỉnh Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc, ngăn cách vùng Lưỡng Quảng với phần lãnh thổ phía bắc của vùng Giang Nam.

Sách vở Việt lại chỉ lưu ý đến Tiểu Ngũ Lĩnh, biên giới thiên nhiên giữa 2 nước Việt-Hoa. Nơi đây là địa bàn của ít nhất hai cuốn dật sử đầu tiên của VN, Lĩnh Nam Dật Sử (1150), và Lĩnh Nam Chích Quái nói trên.

Hồ Nam VW: phía Nam sông Dương Tử, kinh tuyến 108 47 đến 114 Đông, vĩ tuyến 24 đến 30 Bắc. Hồ Nam còn được gọi tắt là tỉnh Tương, theo tên sông Tương (6). Hồ Nam dài 774km, rộng 667km. Hà Nội, vĩ tuyến 21 Bắc, kinh tuyến 105 53 Đông. Mỗi độ là 66 miles hay 111km. Hà Nội cách cực Nam Hồ Nam 333km, cách cực Bắc Hồ Nam 999km.

Địa bàn có thật, không có nghĩa câu chuyện xảy ra đúng in như vậy. 5000 năm trước, chưa có chữ, không có nước nào có tín sử.

Tên các nhân vật đều bằng tiếng Hán ròng do người Trung Hoa đặt hàng ngàn năm sau. Các họ Minh, Hùng, Sùng, Lạc... không thấy hiện diện cả trong lịch sử Việt lẫn trăm họ bây giờ. Tìm kiếm chỉ là... vô vọng vì tất cả những tên tuổi/địa danh trong truyền thuyết đều được tô vẽ hay cóp nhặt qua lại (7). Điều quan trọng tác giả truyền thuyết muốn nhắn gửi là gì? Có phải “những nhân vật trong truyền thuyết thuộc chủng Việt cổ, xuất xứ từ một vùng đất của chủng Việt cổ,” là xứ Trung Hoa bây giờ.

Nói “bây giờ,” vì 5000 năm trước, trên đất Việt Cổ, chưa có nước Trung Hoa. Nhà Chu, triều đại dài nhất và có tín sử của Trung Hoa (1046 - 256TCN) cũng vẫn chỉ là một số bộ lạc thuộc chủng Hoa Hạ ở bờ Bắc sông Hoàng Hà, thuộc hai tỉnh Cam Túc, Thiểm Tây. Thời Xuân Thu (771-401 TCN), Trung Hoa cũng vẫn chỉ là tập hợp một nhóm các nước nhỏ. Mãi đến đời Tần Thủy Hoàng, (207 TTC) gồm thâu 6 nước, mới bắt đầu thành hình một quốc gia gọi là Trung Hoa.

Chủng Bách-Việt xin gọi là Việt-cổ - thiết nghĩ chính xác hơn, cho một ý niệm lập tức về thời gian- là hàng ngàn những bộ lạc/bộ tộc/thị tộc thuộc chủng Yue, tức Việt. Từ Bách Việt xuất hiện lần đầu tiên trong Sử Ký của Tư Mã Thiên. (109 TCN- 91 TCN.). “Bách”, hoàn toàn không có nghĩa “một trăm”. - Rảnh đi coi cải lương không? - Đâu được, bận một trăm việc đây nè. Tiếng Việt có nhiều ca dao/thành ngữ cùng tả ý “không đếm được” ấy: trăm công nghìn việc, trăm nhớ ngàn thương, trăm năm dầu lỗi hẹn hò, trăm dâu đổ vào đầu tằm... Thơ Nguyễn Bính: Mình đi trăm núi nghìn sông. Ngờ đâu mang cả lạnh lùng sang Nam.

Chủng Yue có hai chi lớn nhất: Âu và Lạc. Mỗi chi đều có hàng ngàn những bộ lạc sống cạnh/xen lẫn nhau. Xem “Mékong Ký Sự”, một làng nhỏ ở Vân Nam bên giòng Lan Thương (8) gồm 2.600.000 dân, có đến 14 tộc người sống hòa bình với nhau. Tộc nào giữ nguyên ngôn ngữ, văn hóa tộc ấy từ hàng ngàn năm, hồn nhiên trước thay đổi của thế giới. Các tộc ấy,Yi, Hà Nhì, Bạch, Choang, Thái, Bái, Ngõa, Hán, Hồi, Miêu, Yao... sống đơn giản giữa thiên nhiên tuyệt diệu và câu chuyên thần kỳ về nguồn gốc tộc mình. Những tộc này cũng có mặt ở vùng thượng du/trung du Bắc Việt Nam. Điều này cho thấy sự du đãng kỳ diệu đến mức khó tin của bàn chân người. Đồng thời cũng cho thấy sức sống bền bỉ trong mỗi dân tộc dù thay đổi địa bàn sinh sống. Bản tin nghe từ radio tháng 3/2007: theo một cuộc phỏng vấn nửa triệu người ở 37 địa điểm trên đất Trung Hoa, chỉ 51% biết nói tiếng quan thoại, đa số là giới trẻ ở thành thị. Vậy 49% nói tiếng gì, bản tin không cho biết.

Lạc Việt: một chi lớn thuộc chủng Yue. Lạc Việt cũng gồm hàng ngàn tiểu chi. Lạc Việt chỉ là một thành phần nằm trong Việt Cổ, nhưng Lạc Việt không bao giờ là toàn khối Việt cổ. Lạc Việt cũng là một trong nhiều thành tố cấu thành dân Việt ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, khi sử Trung Hoa nói về Lạc Việt, dù là dân tộc, văn hóa, tiếng nói, biên giới, địa bàn, không phải lúc nào họ cũng ám chỉ người Việt ở Việt Nam.

Đất Việt cổ: chỉ vùng đất từ sông Dương Tử trở xuống. Lúc đó, cả hai chủng Hoa Hạ và Việt cổ đều chưa thành lập những quốc gia đầy đủ những thành tố như bây giờ. Có chăng chỉ là những bộ tộc hay liên minh bộ tộc ở rải rác.

Tình trạng chấp nhận truyền thuyết rồi bỏ lửng lơ không giải thích sẽ để lại cho thế hệ tương lai một black hole, một loại tin tưởng “không thấy mà tin”. Nhưng nếu chấp nhận truyền thuyết, sẽ phát sinh một loạt các câu hỏi:

Hai chủng Hoa Hạ - Việt-cổ có pha trộn không? Vào thời điểm nào?

Người Việt-cổ ở Trung Hoa bây giờ tan biến vào đâu?

Người Việt Nam có phải là người Trung Hoa không?

Người Việt Nam là thành phần nào của chi Lạc? Anh em gần gũi xa/gần của người Việt Nam là những tộc nào?

Người Việt Nam hiện nay có phải là một dân tộc thuần chủng không? Nếu không, những thành tố kia là ai? Từ đâu đến? Hậu duệ là ai?

Ngoài địa bàn trong truyền thuyết, người Việt Nam còn từ địa bàn nào khác?

Quan niệm thế kỷ 15 thời sử gia Ngô Sĩ Liên “không dám rong ruổi ngàn năm để làm chuyện chắp vá”, là phát biểu thời quân chủ. “Thà làm đầu con gà còn hơn làm đuôi trâu”, đan tâm của người xưa muốn nêu cao tự hào dân tộc khi chủ quyền dân tộc bấp bênh. Năm 2007, nếu không xác nhận được địa bàn của tộc Việt, loại tranh cãi tỷ như ai là chủ nhân trống đồng, kinh Dịch, các nền văn hóa Đông Nam Á, văn minh lúa nước, tiếng Việt/tiếng Tàu... chỉ loanh quanh giữa các tác giả người Việt, những tấm lòng son cô quạnh giũa hoang phế miếu đường (9).

Nói chi đến việc tự tin tranh cãi trên trường quốc tế về lãnh thổ/lãnh hải.

Bảo vệ lãnh thổ vẫn là trường ca sinh tử cho dòng giống Việt như tự ngàn năm này qua ngàn năm khác!!

CHÚ THÍCH

(1) Maddox: www.history.navy.mil/photos/sh-usn/usnsh-m/dd731-k.htm

(2) Nhà Thương: khoảng 1027 TCN, triều đại đầu tiên của Trung Quốc, phía Tây châu thổ sông Vị. Ông vua đầu tiên là Thành Thang, vua cuối cùng là vua Trụ.

(3) Lĩnh Nam Chích Quái/Vũ Quỳnh, Kiều Phú/NXB Văn Học, Hà Nội.

(4) http://chimviet.free...evh/lvhs067.htm

Lê Văn Hảo/Xứ Thanh, Xứ Nghệ: động Bích Đào, còn gọi là động Từ Thức, huyền thoại về cuộc tình duyên đẹp dở dang giữa người trần Từ Thức với nàng tiên Giáng Kiều. Động Bích Đào nằm ở dãy núi Thần Phù (xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn), tỉnh Thanh Hóa.

(5) Nguyễn Tường Bách/Mùi Hương Trầm, NXB Trẻ, 2003: huyền sử chép hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hậu Hán (25-250) đi hái thuốc trong núi gặp tiên. Sống với tiên được nửa năm, hai chàng nhớ nhà xin về. Lúc trở lại nhà thì dưới thế đã qua được 7 đời. Khi trở lại, đào nguyên không còn. Động Thiên Thai thuộc về núi Thiên Thai, 100 km cách thành phố Ninh Ba/Trung Hoa.

(6) Chàng tại Tương giang đầu. Thiếp tại Tương giang vĩ, chính là ở đấy.

(7) http://www.viethoc.o...75,8975,quote=1

Truyện Liễu Nghị, đời Tống, rất liêu trai chí dị: thư sinh kết duyên với con gái út của Long quân hồ Động Đình, in hệt đoạn Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân

(8) Phim tài liệu Mékong Ký Sự/Truyền Hình TP HCM 2003, sông Lan Thương, tên của sông Mékong khúc chảy qua Vân Nam, có nghĩa “đóa Lan xanh”.

(9) Viên Linh/Hỡi ơi hoang phế miếu đường.

Lòng son như ngói âm dương tan tành.

Tại lễ hội Đền Hùng năm 2013 có bán cuốn sách "Giới thiệu khu di tích lịch sử Đền Hùng" của tác giả Vũ Kim Biên sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn. Sở văn hóa thể thao du lịch Phú Thọ xuất bản năm 2013. Trong sách, trang 49, mục 12: Nước Văn Lang, trong đó viết: "Nước Văn Lang do 15 bộ lạc hợp thành...Cương vực này tương đương Bắc Bộ và Trung Bộ ngày nay (1), dân số nước Văn Lang khoảng một triệu người" và chú thích (1): Các sách sử thời phong kiến nói cương vực nước Văn Lang đến tận hồ Động Đình thuộc tỉnh Hồ Nam Trung Quốc. Vấn đề này theo chúng tôi hiểu là: Cương vực ấy chính là địa bàn Bách Việt, tức là hàng trăm bộ lạc thuộc giống người Việt cư trú ở Việt Nam, Lào, Quảng Đông, Quảng Tây từ rất xa xưa. Khoảng đầu thiên niên kỷ 1 trước công nguyên, trăm bộ lạc này liên kết lại với nhau thành từng nhóm lập các quốc gia, trong đó có nước Văn Lang của Vua Hùng. Các sử gia phong kiến không phân biệt rõ ràng, đã đẩy cương vực nước Văn Lang sang tận hồ Động Đình. Hoặc giả các vị đó cài mật mã để sau này con cháu tìm hiểu về nguồn gốc Bách Việt cũng nên".

Share this post


Link to post
Share on other sites