hoangnt

Thành Cổ Loa được Xây Dựng Thời Gian Nào?

194 bài viết trong chủ đề này

Vạn Xuân Lý Nam Đế

Bách Việt Trùng Cửu

Posted Image“Linh quốc sử từ” tại Giang Xá

Làng Giang là một làng cổ nằm cạnh thị trấn Trôi của huyện Hoài Đức, Hà Nội. Làng này có điều đáng chú ý là nơi có ngôi đền thờ Lý Nam Đế gọi là Quán Giang. Theo thần tích của đền do Nguyễn Bính soạn thì Giang Xá là nơi Lý Nam Đế lớn lên (tại chùa Linh Bảo) và tế trời đất khi khởi nghĩa. Khởi nghĩa thành công, Lý Nam Đế lên ngôi Hoàng đế, lập kỷ nguyên Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân. Giang Xá cùng một số nơi khác được phong là Thang mộc ấp. Khi Lý Nam Đế rút về động Khuất Liêu, dân Giang Xá đã lập sinh từ để cúng tế về sau. Từ Lý Phật Tử lên tập vị bao năm đều có xuân thu quốc tế (do các quan trên về tế xuân). Sau này, tới thời Lê Thần Tông (1622) dân làng mới xin và được cho qui tế.

Đôi câu đối ghi lại được từ Quán Giang:

Posted Image Posted Image

Bên trên vế đối thứ nhất có hai chữ “Thành Thái” cho biết thời gian sáng tác câu đối này là dưới thời Nguyễn (vua Thành Thái).

Câu đối có phần vế sau chụp không rõ với những chữ Nho cổ khá hiểm hóc. Sau khi thảo luận (cảm ơn các bạn fanzung và minh2mum tại diễn đàn Viện Việt học) đã phiên âm như sau:

洪惟南越肇基貉雄吳蜀以前赫濯殾靈天德紀元初一綂

歷考帝王世祀丁趙陳黎而後焜煌彞典萬春建國閌千秋

Hồng duy Nam Việt triệu cơ, Lạc Hùng Ngô Thục dĩ tiền, hách trạc tuấn linh, Thiên Đức kỷ nguyên sơ nhất thống

Lịch khảo đế vương thế tự, Đinh Triệu Trần Lê nhi hậu, hỗn hoàng di điển, Vạn Xuân kiến quốc kháng thiên thu.

Câu đối này có những thông tin thật khó hiểu:

- Vế đối đầu nói tới “Nam Việt” mở nền móng nhưng cùng với Lạc Hùng lại còn kể cả Ngô Thục. Ngô, Thục nào của nước Nam Việt đây?

- Vế thứ hai sau khi đã tra cứu “lịch đế vương thế tự” một cách đầy đủ, thay vì kể “Triệu, Đinh, Lý, Trần” như trong Bình Ngô đại cáo, thì ở đây lại nêu một trật tự khác: “Đinh, Triệu, Trần, Lê”. Nhà Đinh nào trước nhà Triệu đây?

- Cuối cùng, Lý Nam Đế theo câu đối này là triều đại mà trước đó (“dĩ tiền”) là Ngô Thục, còn sau đó (“nhi hậu”) là Đinh Triệu. Theo kiến thức lịch sử thông thường Lý Nam Đế chống giặc Lương vào thế kỷ thứ 6 thì không thể nào sắp xếp cho ổn thỏa thứ tự trong câu đối trên.

Để hiểu câu đối này cần đọc từng chữ, từ đầu:

- “Hồng duy”, dễ bị hiểu là “riêng xét”. Nhưng so vào câu đối, vì đối lại với chữ “lịch khảo” ở vế dưới nên chữ “duy” ở đây phải là động từ, trong từ “tư duy”, chứ không phải là “duy nhất”. “Hồng duy” nghĩa là phải tư duy cho rộng. Một câu mở đầu rất hay. Muốn hiểu lịch sử các đế vương Nam Việt xưa trước hết phải biết nghĩ cho rộng, cho sâu.

- “Sơ nhất thống”, có người đọc thành “thống nhất sơ sơ”, thật buồn cười. Nghĩa ở đây phải là kỷ nguyên Thiên Đức của Lý Nam Đế đã thống nhất đất nước Nam Việt thủa sơ khai ban đầu. Vì là thời quốc sơ, thông tin chưa thực rõ ràng nên những triều đại này mới “hóa thần hóa thánh” (“tuấn linh”). Cụm từ “sơ nhất thống” cho thấy rõ khởi nghĩa của Lý Bôn đã diễn ra vào thời điểm rất sớm và đã lập được kỳ tích, thống nhất được giang sơn.

Với cách “hồng duy” nghĩ rộng như vậy thì có thể lý giải được câu đối trên:

- Nhà Thục thời lập quốc của Nam Việt là Thục An Dương Vương. Điều này còn ghi trong chính sử phần “ngoại kỷ” = quốc sơ.

- Nhà Ngô: Ca dao Việt có câu:

Vua Ngô ba sáu tấn vàng

Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.

Vua Ngô hay vua phương Bắc mà giàu có mà lại chết “bất đắc kỳ tử” thì có thể có mấy vị:

- Hạ Kiệt: ông này từ thời đồ đá, chắc là sẽ không có nhiều vàng như vậy.

- Trụ Vương: vị vua nổi tiếng xa xỉ, chết trong ngọn lửa thiêu chính cung điện của mình.

- Tần Thủy Hoàng: đại đế thống nhất Trung Hoa, chết dọc đường đi "công tác", bị bỏ chung với cá muối mà mang về.

- Tùy Dạng Đế: cũng cực kỳ xa xỉ, nhưng cái chết tương đối nhẹ nhàng.

Trong số trên có Ân Trụ Vương và Tần Thủy Hoàng là có thể hợp với nhà Ngô trong câu đối. Nhiều khả năng nhất là nhà Tần đã được sử Việt gọi là Ngô, là thời kỳ trước khi Thục An Dương Vương bị diệt.

Một dẫn chứng khác từ Thiên Nam ngữ lục, khi nói về âm mưu của Triệu Đà:

Bắc Nam hai nước thư giao

Sức nào chống Thục, sức nào chống Ngô.

Khi Triệu Đà còn chưa tiếp vị của Nhâm Hiêu thì rõ ràng “Ngô” ở đây là nhà Tần, “Thục” là Âu Lạc của An Dương Vương.

Như vậy nghĩa của vế đầu câu đối đã sáng tỏ: thời mở nước của Nam Việt trước kia từ Lạc Hùng tới Tần Thục, tiếp là kỷ nguyên Thiên Đức đã thống nhất quốc sơ. Với sử quan "hồng duy" rộng lớn, tác giả câu đối ở đây đã coi nhà Tần cũng là một triều đại lập quốc của người Việt.

- Nhà Đinh: trước nhà Triệu thì chỉ có thể là … Trưng Vương, chứ không phải Đinh Bộ Lĩnh. Hoàng Đinh là tên nước của Hai Bà Trưng. Xin xem thêm các câu liên quan.

- Xác định như vậy thì nhà Triệu ở đây có thể là của Bà Triệu hoặc Triệu Quang Phục.

Thông tin của vế đối thứ hai rõ ràng hơn, có thể “khảo cứu lịch các triều đại” và vẫn còn được chép trong sử sách (“di điển”).

Posted ImageMột khoảnh khắc hiếm khi đền Giang Xá mở cửa

Chỗ khó giải nhất của câu đối là Lý Nam Đế ở vào thời điểm: trước Trưng nữ vương, sau Tần Thục. Vậy khởi nghĩa Lý Nam Đế không thể gì khác chính là khởi nghĩa chống Tần của … Bái công Lưu Bang, hồi “quốc sơ” và đã thống nhất đất Việt, mở nên triều Hiếu huy hoàng, rộng lớn. Đúng là “Thiên Đức” và “Vạn Xuân”.

Dịch câu đối:

Rộng suy Nam Việt mở nền, Lạc Hùng Ngô Thục thủa đầu, loáng bóng trúc thần, Thiên Đức kỷ nguyên ban sơ thống nhất.

Xét lịch Đế Vương thứ tự, Đinh Triệu Trần Lê sau đó, chói vàng sách miếu, Vạn Xuân dựng nước sừng sững ngàn thu.

Posted ImageTrống hội Vạn Xuân ở Giang Xá

Chữ “hồng duy” vẫn còn. Lời nhắc nhở của người xưa, muốn biết sử cũ không thể hạn chế tư duy, tầm nhìn của mình. Mở mắt mới thấy sử Việt bao la. Cái ước muốn đất nước “vạn xuân” của Lý Bôn – Lưu Bang có được vững vàng hay không cũng từ nhận thức “hồng duy” này.

Long Hưng, Long Châu Bách Việt Trùng Cửu

Đình làng Xuân Quan cũng là đền thờ Triệu Vũ Đế, có tên là Long Hưng Điện, nằm ở xã Xuân Quan, Hưng Yên, sát với làng Bát Tràng Hà Nội, cạnh bờ sông Hồng.

Posted Image

Sách Từ điển di tích văn hóa Việt Nam dựa vào các tư liệu cũ (Bắc Ninh tự miếu bi văn, Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí, Bắc Thành địa dư chí lục, Đại Nam nhất thống chí) chép sự tích đền như sau:

Triệu Đà người huyện Chân Định, đầu thời Tần làm quan lệnh Long Châu, sau làm Nam Hải úy. Đến đời Hán được phong làm Nam Việt Vương. Triệu Đà cho con cầu hôn nhà Thục để lấy bí mật nỏ thần, nhân đó diệt nhà Thục lập ra nhà Triệu. Tương truyền Triệu Đà đi tuần phương nam qua xã Nam Quan thấy có rồng vàng hiện ra, cho là đất lành bèn dựng hành cung, gọi là điện Long Hưng. Về sau dân dựng đền thờ trên nền điện cũ.”

Đọc thần tích trên ta chợt liên hệ với thông tin trong Thiên Nam ngữ lục:

Hiệu xưng là Triệu Vũ Hoàng

Chín lần xem trị bốn phương đẹp lòng

Long Biên thành hiệu Thăng Long

Vì xưa rồng dậy dưới sông Nhị Hà.

Có thể thấy khả năng tên thành Thăng Long là do Triệu Đà đã đặt cho vùng đất quanh Hà Nội ngày nay, với trung tâm ở khu vực ven sông Hồng thuộc Gia Lâm – Văn Giang. Tại đây hiện vẫn còn xã Long Hưng của huyện Văn Giang, trùng tên với hành cung xưa của Triệu Vũ Đế.

Khi so sánh 2 tư liệu trên có thể thấy Long Hưng là tên gọi tương ứng với Thăng Long. Đây cũng là giải thích tại sao lại có sự lẫn lộn về truyền thuyết đặt tên thành Thăng Long giữa Triệu Đà và Lý Công Uẩn. Cả 2 vị vua đều xuất phát từ Phiên Ngung – Quảng Đông, tiến đánh lấy Giao Chỉ. Và quan trọng hơn, Lý Công Uẩn (Lưu Cung) là một “Long Hưng”, hay Lang Hưng, là vua của nước Đại Hưng như tên nước ghi trên đồng tiền Đại Hưng bình bảo hay trong Thiên Nam ngữ lục:

“Thùy y củng thủ cửu trùng

Cải nguyên Hưng quốc đề phong trong ngoài”

Cũng trong thần tích trên cho biết Triệu Đà ban đầu là quan lệnh huyện Long Châu. Long Châu chứ không phải Long Xuyên như chính sử hiện nay đang chép. Một số tư liệu khác cũng ghi như vậy. Sách Thất tộc thổ ty ở Lạng Sơn, tác giả Lã Văn Lô có phần về gia phả họ Vi, liên quan tới Triệu Đà:

Xét gia phả họ Vi, nguyên tổ tiên là họ Hàn tên là Nhân, dòng dõi của Hoài Âm hầu Hàn Tín. Lã Hậu nghi Hàn Tín mật thông với Trần Hy làm phản, nên cùng lập mưu với Tiêu Hà diệt trừ Hàn Tín (Khoảng năm 110 trước CN ). Lúc bấy giờ một người thiếp của Hàn Tín có thai, Tiêu Hà mật gửi cho Triệu úy Đà ở Lĩnh Nam nhận nuôi. Đà làm Long châu lệnh (Long châu nguyên là đất Việt ta, thời Tần Vua sai Triệu Đà theo Nhâm Thao sang chia cai trị , đất ấy đến bây giờ thuộc Hán), nuôi nhận (tức là con người thiếp của Hàn Tín) rất chu đáo. Khi Nhân trưởng thành, giúp Đà làm việc, Đà chia đất cho từ Thượng Thạch trở đi, lấy phía Đông làm giới hạn. Đà sai Nhân bỏ nửa chữ Hàn đi trở thành họ Vi từ đó (để tránh chu di Tam tộc). Từ khi Nhân ở đất Long châu, từ Thượng Thạch về phía Đông, Cổ Lân, Tư lãng về phía Bắc đều giao cho Nhân quản trị. Đến lúc họ Triệu suy, Nhân chiếm ức đất Long châu, sai con thứ chín là VI TIẾT NGHIÊM, giúp cai trị. Sau Nghiêm kiêu ngạo làm bậy bị Hồ giết chết (Hồ là cháu Triệu Đà, con Trọng Thủy lấy Mỵ nương nước Việt sinh ra). Họ hàng con cháu lánh nạn về đất Nhật Nam, trở thành một dòng họ quý tộc ở đất này.

(Nguồn Diễn đàn lý học phương đông)

Triệu Đà theo như tất cả những sự kiện ghi lại rõ ràng là một viên quan lớn, có quan hệ trực tiếp với các đại thần triều đình của Lưu Bang (Tiêu Hà, Hàn Tín). Vì thế ông ta không thể là một huyện lệnh nhỏ nhoi mà phải là quan úy đất Long Châu. Long Châu là một quận lớn, nơi Hàn Nhân, con của Hoài Âm hầu Hàn Tín, còn được Triệu Đà chia đất mà cai trị.

Các tư liệu trên đều nhấn mạnh đất Long Châu của Triệu Đà thuộc đất Việt xưa. Long Châu ngày nay là tên một huyện của Quảng Tây, nằm giáp với Cao Bằng và Lạng Sơn của Việt Nam. Với chuỗi liên hệ Long Châu - Long Xuyên - Long Xoang - Long Choang, rất có khả năng Long Châu xưa là cả vùng Quảng Tây, vùng đất của người Choang. Thêm nữa, nếu Quí Châu hay Kỳ Chu chỉ đất gốc của nhà Tây Châu thì Long Châu có thể chính là đất của Đông Châu xưa, là quận Tam Xuyên thời Tần như Tư Mã Thiên đã chép. Vết tích của 2 nhà Châu rất rõ ràng ở vùng Tây Nam Trung Hoa này.

Truyện Mộc tinh trong Lĩnh Nam chích quái chép về thần Xương Cuồng: “… biên giới tây nam giáp liền với nước Mi Hầu, vua Hùng Vương sai dân man Bà Lô (nay là phủ Diễn Châu) hàng năm bắt giống người lão tử sống ở khe núi tới tiến, không thể thay đổi được lệ ấy. Kíp tới khi Tần Thủy Hoàng bổ Nhâm Hiêu làm quan lệnh ở Long Xuyên, muốn bỏ tệ ấy đi. Thần Xương Cuồng tức giận vật chết Hiêu, vì thế về sau lại phải phụng thờ cẩn thận.

Truyện này một lần nữa khẳng định Long Xuyên nằm trên đất Việt cổ, nơi mà thần Xương Cuồng của nước Việt có thể “vật chết” Nhâm Hiêu. Điều lạ nữa là truyện trên nói Nhâm Hiêu, chứ không phải Triệu Đà, là quan ở Long Xuyên. Liệu Nhâm Hiêu và Triệu Đà có phải là một không?

Một liên hệ khác:

Triệu Đà -> Triệu Đầu (trong từ “đầu đà”?) -> Triệu Một -> Triệu Mạt (tên trên lăng mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Đông).

Triệu Đà như vậy có thể là danh xưng của vị vua đầu tiên của triều Nam Việt.

Posted ImageTượng Triệu Vũ Đế ở điện Long Hưng

Lịch sử về Triệu Vũ Đế có thể nhìn nhận lại như sau. Nhâm Hiêu là quan úy của quận Long Châu hay quận Tam Xuyên, là đất của nhà Đông Châu (gồm Quảng Tây, Giao Chỉ) dưới thời Tây Hán. Sau khi Lữ Hậu mất đã chiếm thêm quận Nam Hải và một số quận khác ở Hoa Nam, lập nước Nam Việt, xưng là Triệu Đà hay Triệu Đầu, Triệu Mạt. Cũng chính Triệu Vũ Đế là người đã đặt tên Thăng Long / Long Hưng cho vùng đất ven sông Hồng Hà Nội cách đây trên 2000 năm.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thục An Dương Vương Bách Việt Trùng Cửu

Một đoạn trong Thiên Nam ngữ lục về "Thục Kỷ - An Dương Vương":

Thủa ấy có An Dương Vương

Người quê Ba Thục ở đàng phương tây

Anh hùng trí lực ai tày

Mới sai trấn cõi giáp rày Văn Lang.

Dòm Hậu Hùng nghiệp trễ tràng

Lăm le ý sắm mở mang xa gần

Vân Nam bèn mới dấy quân

Của mượn tượng mã, lưới ngăn nhân tài.

Như vậy ở thế kỷ XVII người ta vẫn xác định An Dương Vương người nước Thục ở phương Tây, dấy binh đánh Hùng Vương từ Vân Nam. Thế mà chẳng hiểu sao thời nay các sử gia lại đoán già đoán non là nước Thục của An Dương Vương gốc ở Cao Bằng, cố tình lờ đi sự đồng nhất về văn hoá và khảo cổ của vùng Vân Nam, Quảng Tây với Bắc Việt (trống đồng) với thời Hùng Vương.

Còn có tư liệu cho rằng Thục Phán là người ở Ai Lao. Thực ra Ai Lao Di hay Di Lão là tên của tộc người sinh sống ở vùng Vân Nam Quí Châu. Thục Phán ở Ai Lao cũng đồng nghĩa với Thục Phán xuất phát từ vùng Vân Quí.

Thêm một chi tiết trong giải mã câu chuyện An Dương Vương trong Thiên Nam ngữ lục: Câu chuyện kết thúc với việc Trọng Thuỷ nhảy xuống giếng tự tử và tương truyền ngọc trai biển (do Mỵ Châu hoá thành) rửa ở giếng này sẽ rất sáng. Trong TNNL về việc này có câu:

Vì chưng duyên cũ vợ chồng

Hiệu Tẩy Chu tỉnh ở trong Loa Thành.

"Tẩy Chu tỉnh" chính là giếng ngọc (giếng rửa hạt châu).

Như vậy Mỵ Châu hoá thân thành hạt châu, và chữ Châu ở đây còn gọi là Chu như trong câu thơ trên. Điều này hoàn toàn phù hợp với giải thích Mỵ Châu là con gái vua Chu trong Sử thuyết họ Hùng.

Dùng nước giếng để rửa châu cũng ám chỉ chữ "Thuỷ" là nước trong Trọng Thuỷ. Nước giếng là hình tượng của Trọng Thuỷ, ngọc châu là Mỵ Châu. Thuỷ cũng là chỉ phương Bắc, như trong tên của Tần Thuỷ Hoàng.

Câu chuyện An Dương Vương đúng là đã gói một giai đoạn lịch sử rất dài của dân Hoa Việt, từ:

- Nhà Thương sang nhà Chu: An Dương Vương kế Hùng Vương. Rồi việc sứ giả Thanh Giang trao cho Thục Vương Qui Tàng Dịch (móng của Kinh Qui).

- Xây dựng nhà Chu: qua việc Cao Lỗ xây thành Cổ Loa.

- Nhà Chu sang nhà Tần: với chuyện tình Mỵ Châu - Trọng Thủy, hay giữa con gái vua Chu (vua Chủ Cổ Loa) và chàng rể phương Bắc.

Ai đã đặt tên thành Thăng Long? Bách Việt Trùng Cửu

Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì tên gọi thành Thăng Long là do Lý Công Uẩn đặt khi dời đô từ Hoa Lư về Đại La:

«Mùa thu, tháng 7, vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long».

Nhưng theo Thiên Nam ngữ lục, một quyển sử khác viết không lâu sau Toàn thư, thì tên gọi Thăng Long là do … Triệu Đà đặt. Triệu Đà khi tiến quân từ Quảng Đông đánh An Dương Vương đã thấy rồng xuất hiện trên sông:

Binh phân chi dực hữu chi

Triệu thuyền thẳng tới đỗ kề bên sông

Bỗng đâu thấy rồng nổi lên

Dự mừng thánh chúa lập nên cơ đồ.

Khi họ Triệu diệt được An Dương Vương, xưng vua thì do đó mà đổi tên thành Thăng Long:

Hiệu xưng là Triệu Vũ Hoàng

Chín lần xem trị bốn phương đẹp lòng

Long Biên thành hiệu Thăng Long

Vì xưa rồng dậy dưới sông Nhị Hà.

Tư liệu này nghe qua thật là quá hoang đường. Hóa ra như vậy thì tên Thăng Long đã có từ trước khi Lý Công Uẩn dời đô cả nghìn năm. Nhưng suy ngẫm thêm thì có thể sự kiện này có phần nào sự thật:

- Người đặt tên thành Thăng Long không phải là Lý Thái Tổ, vị vua đầu tiên của nhà Lý.

- Người đặt tên thành Thăng Long là người từ Quảng Đông, đã đánh chiếm vùng Bắc Việt và lập quốc xưng vương.

Trong lịch sử Việt thì ngoài Triệu Đà chỉ còn có một người nữa từ Quảng Đông đánh chiếm Bắc Việt là … Lưu Cung, vua Nam Hán, diệt Khúc Thừa Mỹ vào thời hậu Đường. Gộp những sự kiện này lại thì có thể thấy Lưu Cung cũng chính là Lý Công Uẩn, người mở đầu nước Đại Việt gồm 3 miền Việt Đông, Việt Tây và Việt Nam...

Ngoài ra còn có thể suy đoán Triệu Đà (Đào) không nhất thiết là tên riêng, mà có nghĩa là Chúa đất Đào, là vùng đất gồm 3 miền Việt ở trên. Lưu Cung xưng vương Đại Việt ở vùng này nên cũng có thể được gọi là Triệu Đà.

Thiên Nam Ngữ Lục vào thế kỷ XVII, như vậy tác giả đã nghiên cứu thực địa và sử cũ bao gồm cả Đại Việt Sử Ký Toàn thư và các cuốn sử khác, những điểm đặc biệt của Thiên Nam Ngữ Lục mà tác giả Bách Việt Trùng Cửu nghiên cứu đều bổ sung thêm cho chính sử. Tuy nhiên vấn đề tên Thăng Long đã tồn tại thời Lý và nghi ngờ thời Nam Việt Vương Triệu Đà làm chúng ta có một thắc mắc về tên gọi này.

Thăng Long là tên gọi của Loa Thành hay hoàng thành tại Hà Nội?. Như phân tích rõ ràng tồn tại hoàng thành này và tên gọi là??? Lúc này Long Biên ngầm hiểu là ranh giới của tòa thành có hiệu là Long____?. Ta cũng biết Loa thành có một tên gọi là Tư Long (Bạch Long - chúng ta chú ý Bạch Long Vĩ, Hạ Long) thì giải nghĩa được hoàng thành tại Hà Nội giáp sông Hồng, qua phía Đông là thành Bạch Long, như vậy lúc này hoàng thành tên gì?

Cho tới Lý Nam Đế, hoàng thành là Phượng Thành, tại sao đặt tên như vậy? bởi vì tứ trấn là Tứ Thánh là nam nhân (Dương) và trung tâm phải là Âm (nữ nhân) nên lấy tên Phượng Thành. Tại sao? Hoàng thành là trung tâm quản lý quốc gia là cực âm và tên gọi và địa thế hoàng thành phải là cực dương, đấy là lý do như vậy.

Sau này, Thăng Long thành còn có tên Long Phượng Thành với Tử cấm thành gọi là Phượng Thành, điện vua ngự là Kim Loan điện (Phượng là con trống còn Loan là con mái). Phượng và Loan so với Long là cực dương, Long bao gồm âm dương rồi (lưỡng long).

Từ đấy thấy rằng, tác giả Thiên Nam ngữ lục cần phải quán xét thuyết âm dương ngữ hành nữa vì vị thế, tên gọi hoàng thành... người xưa lấy theo phong thủy.

Tên Phượng thành cũng có ở Trung Hoa.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Khi họ Triệu diệt được An Dương Vương, xưng vua thì do đó mà đổi tên thành Thăng Long:

Hiệu xưng là Triệu Vũ Hoàng

Chín lần xem trị bốn phương đẹp lòng

Long Biên thành hiệu Thăng Long

Vì xưa rồng dậy dưới sông Nhị Hà.

Bổ sung: Tác giả Thiên Nam Ngữ Lục ghi chú tại câu thơ: Chín lần xem trị bốn phương đẹp lòng, mặc dù số 9 là phương Tây sắc Bạch nhưng vì có chữ Bốn phương nên số 9 hiểu là 9 ô trong Hà đồ hay Lạc Thư (như 9 châu trong Kinh Thư) cho nên số 9 này không thể nhận định tương ứng phương Tây hoặc sắc Bạch...

Tác giả gán kinh đô Triệu Vũ Đế là thành Phiên Ngung ở Quảng Đông là có ẩn ý gì?.

Trọng Thủy –Mỵ Châu thật...

Văn Nhân

Chuyện cổ tích : Trọng Thủy –Mỵ Châu kể rằng :

Thời vua An Dương Vương, dân chúng xây thành Cổ Loa ngăn chặn giặc phương Bắc. Xây mãi không xong, nhà vua bèn lập đàn cầu tế. Trong lúc đó, một vị thần hiện ra dưới bóng con rùa vàng - tục ngữ gọi là thần Kim Quy - và dạy nhà vua cách xây thành. Thành xây xong, thần Kim Quy còn tặng nhà vua chiếc nỏ thần để giữ nước .

Giặc phương Bắc lại ùn ùn kéo quân xâm chiếm nước ta, nhưng lần nào cũng rước lấy thảm bại. Tướng giặc là Triệu Đà vô cùng tức giận. Hắn bèn nghĩ ra một kế. Xin giao hòa với nước ta rồi sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu hôn với con gái vua An Dương Vương tên là Mỵ Châu. Thâm ý của Triệu Đà là sẽ dùng con trai mình làm mật thám trong việc đánh chiếm nước ta.

Ngay tình, vua An Dương Vương chấp thuận điều nghị hòa và bằng lòng nhận lời cầu hôn của Trọng Thủy.

Trong lúc hàn huyên, Triệu Đà cố tình dò hỏi, Mỵ Châu kể lại cho chồng nghe chuyện xây thành Cổ-Loa và chiếc nỏ thần. Một hôm, nhân lúc Mỵ Châu sơ ý, Trọng Thủy lấy trộm chiếc nỏ thần và thay một chiếc giả vào đó, rồi xin phép vua An Dương Vương về thăm cha mẹ.

Lúc ra đi, Trọng Thuỷ căn dặn vợ :

- Trong lúc anh vắng nhà, nếu có chiến tranh em hãy mặc áo lông ngỗng vào. Khi chạy giặc, em đừng quên rắc lông ngỗng xuống đường. Anh sẽ theo vết lông nghỗng đi tìm em.

Về tới nhà, Trọng Thủy liền giao chiếc nỏ thần cho cha. Nắm được chiếc nỏ thần trong tay, Triệu Đà lập tức kéo quân sang đánh nước ta. Thấy giặc kéo đến, An Dương Vương không tỏ vẻ sợ hãi, bình tĩnh lấy nỏ thần ra bắn. Nhưng lạ thay, đoàn giặc vẫn ào ào xông tới trước các mũi tên bắn ra. Nỏ thần đã trở thành vô hiệu. Hoảng sợ, nhà vua bèn ôm Mỵ Châu lên sau yên ngựa chạy trốn về hướng Nam. Mỵ Châu ngồi sau yên ngựa, rứt lông ngỗng rải xuống đường. Nhà vua chạy đến đâu, giặc theo vết lông ngỗng rượt theo đến đó.

Đến núi Mộ Dạ cụt đường, nhà vua định tự sát thì thần Kim Quy hiện lên bảo:

- Tâu bệ hạ, giặc ngồi ngay sau lưng nhà vua đấy !

An Dương Vương quay lại, thấy Mỵ Châu, hiểu ra sự việc, bèn tức giận rút gươm chém chết con gái. Sau đó, nhà vua phi ngựa nhảy xuống biển tự tử.

Theo dấu lông ngỗng, Trọng Thủy tới được chân núi Mộ Dạ thì thấy Mỵ Châu chỉ còn là một xác không hồn.

Quá hối hận về việc mình đã làm, Trọng Thủy ôm xác vợ khóc nức nở, rồi gieo mình xuống một giếng gần đó.

Ngày nay ở làng Cổ Loa, trước đền thờ An Dương Vương còn cái giếng Trọng Thuỷ. Tục truyền khi Mỵ Châu đã bị cha giết rồi, máu nàng chảy xuống biển, trai ăn được nên mới có ngọc châu. Lấy được ngọc trai đó đem rửa nước giếng trong thành Cổ Loa thì ngọc trong sáng vô cùng.

Hết chuyện kể .

Ta thấy ...Ngay đầu của câu chuyện những chữ ...’giặc phương bắc...’đã chỉ ra giặc xâm lấn nước của An Dương vương không phải là quân binh nước Nam Việt ....vì Nam Việt nằm ở phía Đông của Âu Lạc , Chuyện cũng kể tướng của đám giặc phương BẮC ấy là Triệu Đà chứ không hề nói vua của đám giặc ấy là vua Nam Việt Triệu Đà ...dị bản của chuyện chép ...Triệu Đà là chúa đất Nam Hải không hề có từ nào là... Nam Việt .

Thực vậy những bài viết trước trong loạt bài viết về cổ sử Việt đã chỉ ra :

Theo Sử ký của Tư mã Thiên Khi Doanh Chính lên ngôi Tần thủy hoàng đế năm 221 TCN thì đất Việt ngày nay đã nằm trong lãnh thổ Tần rồi .

Dựa trên những tình tiết có được khi Triệu Đà xưng vương các sử gia Việt nam mới đây đã chỉ ra ...không thể nào Nam Việt ra đời trước năm 179 TCN là năm Lữ hậu nhà Tây Hán mất .

Theo sử nhà Tần thì cuộc hành binh bình định phương nam của họ kết thúc vào năm 214 TCN ...đã gọi là bình định phương nam không lẽ ...chừa đất văn lang –Âu lạc ra ...để đó chờ nhờ Triệu Đà làm giùm....?

Theo Hán thư địa lý chí viết vào thế kỷ thứ I sau Công nguyên thì :

Dân miền giao chỉ –Cửu chân là 912.850 người nếu cộng cả dân Nhật nam ( Chàm ?) 69.845 Thì tổng số dân Âu Lạc là gần 1 triệu người trong khi tổng số dân cả Quảng Đông và Quảng tây giả định là dân Nam Việt của Triệu Đà cũng chỉ có 390.555 người ...Hai đánh một không chột cũng què ...nên khả năng Triệu Đà đánh thắng và chiếm Âu Lạc khó như con lạc đà chui qua lỗ kim ...

Không phải họ Triệu của Nam Việt Thì ai là tác gỉa của vụ án tráo nỏ thần ?

Theo sử sách Tàu thời Chiến quốc ...: Công tử Doanh Tử Sở cháu Tần Chiêu Tương vương , con của Tần Hiếu vương bị đưa sang nước Triệu làm con tin , Lã bất Vi một con buôn nổi tiếng ở thành Hàm Đan kinh đô Triệu đã dâng ái thiếp của mình là Triệu Cơ cho Tử Sở khi đã có thai..., Triệu Cơ sinh ra Doanh Chính ..., năm 257TCN khi quân Tần vây kinh đô Triệu Tử Sở phải nhờ Lã bất Vi giúp mới trốn được về Tần....và năm 250TCN Tử Sở lên ngôi Tần vương hiệu Tần Trang Tương vương , mẹ con Triệu Cơ Doanh Chính cũng năm này mới về đến Tần quốc , năm 246TCN Doanh Chính thay cha làm vương nước Tần , đến năm 221TCN xưng là Tần Thủy hoàng đế ...vua của cả thiên hạ .

Tần và Tấn là 2 trong Xuân thu ngũ bá ; trọng lượng và vị thế gần ngang nhau , sang thời Chiến quốc Tấn bị chia thành 3 nước : Hàn triệu và Nguỵ , Triệu là nước yếu nhất trong tam Tấn ...như thế về sức mạnh Triệu không phải là đối thủ kiến Tần lo lắng đến nỗi đưa ‘hoàng thái tôn’ là Doanh Tử Sở sang làm con tin để cầu hoà ....kỳ lạ hơn nữa năm 260 Tần đại thắng trong trận Trường bình chôn sống 40 vạn quân Triệu trong khi con tin Tử sở vẫn sống tỉnh queo ở kinh đô nước Triệu ....đợi mãi tới năm 257TCN khi tướng Vương Ý vây hãm kinh đô Hàm Đan Tử Sở mới ...phải nhờ đến sự giúp đỡ của Lã bất Vi trốn về Tần ....thật là...chuyện như đùa ....,khôi hài hơn nữa Tử Sở còn ‘xài của thừa’ khi lấy nàng Triệu Cơ ái thiếp của Lã bất Vi làm vợ ..., ta luôn nhớ thời Vua chúa ...hôn nhân của hoàng gia là chuyện quốc gia đại sự ...thường phải mang ra triều đình bàn bạc ....chứ đâu dễ như mua tôm bán tép....với pháp kỷ nghiêm minh của nước Tần sau Thương Ưởng thì 10 cái đầu của Lã bất Vi cũng không còn chứ đừng nói đến chức tể tướng Tần sau này , ý trên chẳng qua chỉ là đoạn hài kịch lịch sử do đám ‘hài sử gia ‘ chăn ngựa phịa ra nhằm phỉ báng nàng Triệu Cơ và làm nhiễu loạn lộn ngược lịch sử Trung –Hoa đích thực nhưng chúng đâu biết là người Việt ai cũng thuộc câu thơ trái khoáy ...

sinh con rồi mới sinh cha...

Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông ...

Cứ từ đó suy ra thì vải thưa không tài nào che nổi mắt thánh ....

Vậy nếu Tần không để con tin ở Triệu thì chuyện Doanh tử Sở – Triệu cơ có không ?

Nếu có thì thực sự xảy ra ở đâu ....

Cùng hàng chư hầu với nhau Tần chẳng kiêng ai ...chỉ trừ có thiên tử ...mới có thể khiến vua quan nhà Tần lao tâm khổ tứ mà thôi ...

- Chiêu →Triệu

Chiêu → Châu.

Những kẻ rắp tâm đảo lôn lịch sử Trung hoa đã gỉa ngu ...biến Châu thành Triệu ...

Tên Triệu Cơ đảo lại thành Cơ Triệu → Cơ Châu , rất có thể Cơ Triệu biến âm thành ‘cô chiêu’ trong thành ngữ Việt ‘cậu ấm-cô chiêu ‘ chỉ những con nhà quyền qúy.

Cơ cũng là họ của dòng vua nhà Chu , Châu là viên ngọc sáng ý chỉ người con gái sắc tài toàn vẹn , là điều Hoàn toàn là hợp lẽ khi cho Cơ Châu là con gái của Cơ Duyên tức Chu Noãn vương vị vua cuối cùng nhà Đông Chu bị nhà Tần diệt ; Cơ Châu đổi thành Mị Châu khi hư cấu lịch sử thành Truyện cổ tích lịch sử cũng là điều dễ hiểu vì Mỵ chỉ có nghĩa là con gái vua (con trai là lang) tức công chúa , Mỵ châu ý chỉ nàng công chúa ‘lá ngọc cành vàng’cũng cùng 1 ý với Cơ Châu nghĩa là châu báu ngọc ngà của dòng họ CƠ ...

Sử thuyết họ HÙNG cho họ Triệu đã diệt vua cuối cùng đời An Dương vương là họ Triệu của vua nước Tần không phải họ Triệu vua Nam Việt và chuyện Trọng Thủy Mỵ châu là 1 chứng cứ có gía .

Dưới thời Doanh Tứ hay Đinh Tứ Năm 316 trước công nguyên Tần chiếm đất Thục nay là Qúy châu còn gọi là Dã lang đất gốc tổ nhà Chu từ thời Thái vương Cổ công Đản phủ ( Sử thuyết họ HÙNG ) ; từ lúc đó bỏ tước ‘công’ và bắt đầu xưng là ‘vương’ , Doanh Tứ xưng là Huệ văn vương coi như không thần phục nhà Chu nữa qua thời Doanh Đảng ( 311 TCN-307 TCN) chính thức xưng là Tần vũ vương ý là đã kiến lập 1 thiên hạ mới thiên hạ của nhà Tần như vậy việc diệt Chu là điều bắt buộc vì thiên hạ không thể có 2 con trời cùng cai trị ...

Nhà Tần bắt đầu thực hiện âm mưu của mình bằng việc phái Doanh tử Sở ‘hoàng thái tôn’ của Tần chiêu tương vương cầu hôn với con gái vua An Dương vương – Cơ Duyên là Cơ Châu và ở rể tại kinh đô nhà Chu tức kinh đô Âu Lạc ....có lẽ Doanh tử Sở là ‘điệp viên siêu hạng’ đầu tiên trên thế giới ..., Cơ Châu 1 lòng 1 dạ với chồng và hạ sinh Doanh Chính ....đứa con trai của 2 dòng đế vương Chu-Tần .... sau này chính là Tần thủy Hoàng , khi đã rõ quân tình và mọi điều cơ yếu Doanh tử Sở gạt vợ về quê ...và rồi chuyện xảy ra như trong truyện Trọng Thủy Mỵ Châu như đã kể ....cũng từ đó ngôn ngữ nước Nam có thêm từ Sở khanh chỉ những gã đàn ông chuyên lường gạt phụ nữ ...., Sở khanh ( công hầu khanh tướng ) nghĩa là vị quan lớn tên SỞ ý chỉ Doanh tử Sở và người bị gạt chính là người vợ hiền thục Mỵ châu hay Triệu Cơ , Sự nhẹ dạ và sự lường gạt có ‘ đẳng cấp quốc tế ’ này đã đưa đến thảm họa là vua cha An Dương vương phải cầm sừng Văn Tê 7 tấc theo thần Kim quy đi vào biển ( với lối suy nghĩ hiện đại thì nơi đến của ngài không phải là ...Thủy phủ ...mà là Indonesia....và các bạn đừng ngạc nhiên nếu ở Indonesia tìm thấy những trống đồng to hơn thậm chí đẹp hơn trống tìm thấy ở Việt nam ).

Một khi đã lần được đầu mối câu chuyện thì không khó để nhìn ra : Thủy trong Trọng Thủy chính là qúy danh...’Sở ’ của hoàng thái tôn nhà Tần ;

Sở → Sủy → Thủy .

Trọng nghĩa là con thứ hai ( thái – trọng – bá ) như vậy Tử Sở là con thứ 2 của Tần hiếu Vương - Doanh Trụ .

Việc đối xử của Tần với vương tôn nước Thục đất gốc tổ nhà Chu cũng rất lạ ...không mổ bụng phanh thây ...như sự tàn bạo đối với đám bại binh nước Triệu ( chôn sống 40 vạn) mà chỉ giáng người cai trị nước Thục dòng vua Khai Minh xuống tước hầu và vẫn cho hưởng bổng lộc nơi đất cũ ... đây cũng là điều đáng suy nghĩ tìm hiểu ...phải chăng là vì ân tình của vua nhà Chu với dòng dõi họ Đinh của nước Tần ...? hoặc gỉa là vì dây mơ rễ má quấn quýt bởi huyết thống giữa dân nhà Chu và người nước Tần ?.

Bình thường ra sự kiện nhà Tần thí chúa đoạt ngôi phải là sự kiện chấn động nổi bật hơn tất cả những sự kiện khác xảy ra giữa các chư hầu với nhau trong thời Xuân thu-Chiến quốc ...vậy mà ngược lại có rất ít tư liệu nói về sự kiện long trời lở đất đó ; ít tới nỗi ... có kẻ cạn nghĩ nói bừa ( hay cố ý? ) là nhà Chu tự nguyện dâng đất cho Tần ...đây cũng là 1 điều bất thường đáng suy nghĩ ...

Với từ khóa SỞ KHANH và tung tích Trọng Thủy thật Mỵ châu thật ...thông qua những tình tiết của chuyện tích có thể kết luận :...

- Diệt triều An Dương vương chiếm đất ÂU-LẠC năm 256 TCN chính là nước TẦN .

- ÂU-LẠC cũng chính là ‘TRUNG - HỎA’ tức vùng ‘Trung tâm và văn minh’ của cả thiên hạ thời nhà Chu .

- VĂN LANG chính là VĂN VƯƠNG tổ nhà Chu trong lịch sử Trung – Hoả ( Hoả ≠ Hoa ) cũng là 1 trong tứ thánh của dịch học và 2 chữ VĂN - LANG đã thành quốc hiệu thiêng liêng cổ xưa của con đàn cháu đống Việt nam ngày nay ...

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Minh đô và Thanh lang thành

Văn Nhân

I / Minh đô.

Xin trích lại vài dòng trước đâyđã viết :

Kinh Thư , thiên Nghiêu điển chép :

....Bèn sai ông Hy Hoà Kính theo trời cao , làm lịch làm tượng về mặt trời ,mặt trăng và các vì sao , cẩn thận truyền cho dân về mùa . Vua sai ông Hy Trọng đến đóng ở Ngung di, gọi là Dương cốc ,cẩn thận xem từ lúc mặt trời mọc , định các việc làm về mùa xuân .Xem nhật trung tinh Điểu để định tháng trọng xuân.....

....lại sai ông Hy Thúc đến đóng ở Nam Giao ( theo ông Tăng tinh Lạp phải thêm vào 3 chữ :viết Minh đô ), định các việc làm mùa hạ , kính cẩn ghi ngày Hạ chí , ngày dài , sao Hỏa khi chập tối thấy ở đỉnhđầu , lấy đó để chính thức định trọng hạ .

....sai ông Hoà Trọng đến đóng ở miền tây gọi là Muội cốc , cẩn thận xem từ lúc mặt trời lặn định các việc làm mùa thu ,. xem tiêu trung tinh Hư để định tháng trọng thu .

....Lại sai ông Hoà Thúc đến đóng ở Sóc phương , gọi là U đô , xét các việc thay đổi mùa đông xem nhật đoản tinh Mão để chính thức định tháng trọng đông .

Ta thấy kinh Thư đã chỉ ra mốc giới ở 4 phương thời khởi thủy của Trung hoa là :

- Miền Ngung di – Dương cốc-mùa xuân , xem lúc mặt trời mọc tức buổi sáng ở phương Đông .

- Miền Nam giao –Minh đô – mùa Hạ .

- Miền tây là Muội cốc phía mặt trời lặn – mùa Thu .

- Miền Sóc phương –U đô – mùa Đông .

Dựa vào ý nghĩa mang trong tên gọi thì Minh đô và U đô phải đảo ngược mới chuẩn xác , Nam giao nghĩa là phía nam đất Giao chỉ có U đô và Minh đô ở Sóc phương tức Xích phương ý chỉ hướng Xích đạo .

Về Phía đông của thời Khởi thủy Trung hoa người ta dễ dàng nhận ra là vùng Quảng Đông Trung quốc hiện nay với các dấu tích ngôn ngữ :

- Ngung di bảo lưu trong tên gọi thành Phiên Ngung là Quảng châu ngày nay .

- Dương cốc còn dấu vết ở Dương thành cũng ở Quảng châu ngày nay , Dương thành này chính là kinh đô thứ 3 của nhà Hạ .

Ở miền Nam giao ông Tăng tinh Lạp thêm vào bản gốc thiếu 3 chữ ....’viết Minh đô ’ là hoàn toàn chính xác .

Tại đền thờ quốc tổ Hùng vương ở Phú thọ có câu đối :

Vế phải: “Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ”.

Vế trái: “Quang nhạc hiệp linh cố cung thành tụy miếu, tam giang khâm đái thượng triều tôn”.

Minh đô - U đô nghĩa là đầu sáng -đầu tối , ‘đầu’ là cơ quan chỉ huy mọi cơ phận của cơ thể sinh vật , vận dụng vào khoa học Sử –địa ; đầu ↔ đô được dùng với nghĩa là trung tâm , nơi chỉ huy – cai quản cả vùng đất . Minh đô là thủ đô của phần đất ở hướng xích đạo–màu đỏ , U đô là thủ đô phần đất ở hướng nam xưa màu đen (nay bị...lộn ngược thành hướng bắc ).

Dương cốc là đất gốc cũng đồng nghĩa với Trung tâm đất nước ở phương đông , tương tự Muội cốc làTrung tâm ở phía tây .

Dương cốc nghĩa là Trung tâm miền Ngung di đã được xác định là Dương thành Quảng châu ngày nay còn Minh đô chiếu theo câu đối ở đền Hùng thì phải nằm trênđất Phú thọ ngày nay.

Minh nghĩa là sáng một từ vô cùng cao trọng đối với người Việt nam vì đế Minh theo truyền thuyết là quốc tổ ; là người khai sinh tổ quốc của muôn đời dòng giống Việt , đế Minh có liên quan gì với Minh đô ?, sự liên quan giữa Dương cốc đất Ngung di và Dương thành qúa rõ còn xét ý nghĩa của tên gọi thì về mặt từ ngữ không thấyđược sự liên quan giữa Minh đô và đất Phú thọ nơi có đền Hùng .

Trong tác phẩm Việt Nam khai quốc (The birth of Vietnam) sử gia Keith Taylor viết Mê linh chính là Đất mà vua Hùng đã khai sinh nước Việt cổ : “Theo Việt Sử Lược, lịch sử Việt Nam bắt đầu khi có một "dị nhân" ở Mê Linh dùng pháp thuật để liên kết tất cả những bộ lạc dưới quyền mình, rồi dị nhân xưng hiệu là Hùng Vương và đặt tên nước là Văn Lang” , thông tin này hoàn toàn phù hợp với chứng tích khảo cổ học cho thấy rằng vào khoảng thế kỷ 7 trước Công Nguyên (TCN), những nền văn hoá khác nhau ở Bắc Việt được thống nhất lại dưới ảnh hưởng của văn hoá Đông Sơn bắt nguồn từ vùng Mê Linh.

Nghiên cứu Việt Điện U Linh Tập, Keith Taylor còn cho là : Thủy Tinh không phải là một kẻ xâm lăng ngoại lai, mà lại chính là bạn thân của Sơn Tinh và cả hai bên đều cùng sống ẩn tích tại Mê Linh , Sử thuyết họ Hùngđã trưng nhiều bằng cớ chứng minh Sơn tinh chính là vua Vũ tổ nhà Hạ.

Sử Việt nam cũng chép Mê linh là thủ đô nước Việt cổ của Trưng vương thời 3 năm độc lập ngắn ngủi .

Xét như thế đất Mê linh đã là kinh đô của con cháu nhà Hùng từ thuở khai quốc liên tục tới thời nước Văn lang và kéo dài mãi cho tới khi nô lệ Hãn quốc .

Thật may mắn khi qua phép phiên thiết Hán vănđã có được thông tin lịch sử vô cùng quan trọng :

Mê linh thiết Minh .

Đây làbằng chứng rõ ràng để xác định : đất Mê linh ở Phú thọ ngày nay chính là Minh đô đã viết trong kinh Thư .Với bằng chứng này thì không còn là sự liên tưởng mơ hồ ; Minh đô – Mê linh đô trung tâm đất nước từ thời vua Hùng đã thành hiện thực lịch sử không thể nào bác bỏ .

Xét như thế thì Vùng bắc và bắc trung Việt ngày nay chính là phần đất Sóc phương của lãnh thổ nhà Hạ vương triều đầu tiên của Trung Hoả và cổsử Trung hoả thực ra là cổ sử của dân Việt .

Thực tự hào biết bao ôi đất nước văn hiến ngàn năm .

II / Thanh lang thành .

Là người Việt có ai không biết về thành Thăng long kinh đô bao đời nay ?

Nhưng ...rất có thể tên thực sự của kinh đô ngàn năm nước ta là ‘Thanh lang thành’ nghĩa là thành vua phía đông chứ không phải Thăng long thành theo như huyền tích rồng lên thời vua Lý thái tổ dời đô .

Tất cả những chữ ‘long’ trong sách sử dùng chỉ vua thực ra là từ LANG của Việt ngữbiến âm , lang xa là xe của vua , lang ngai là ghế của vua , lang bào là áo của vua , lang thành là thành của vua .v.v. nghe ra sát nghĩa hơn là xe rồng , áo rồng , thành rồng ...

Tiếp nối dòng liên tưởng của Sử thuyết Hùng Việt ...Nhà Châu có 2 kinh đô ở phía tây vàphía đông , ‘Thanh lang thành’ nghĩa đúng thực là thành vua phía đông nhà Châu , Thanh là màu xanh chỉ phương đông theo Dịch học , Lang đồng âm với long đồng nghĩa với vương - thủ lãnh , cụm từ ‘Thanh lang thành’ hoàn toàn khớp về nghĩa với tên gọi Đông đô hay đông kinh của Hà nội xưa , vì thành do Chu công chúa nước Lỗ chủ trì việc xây dựng nên còn gọi là thành ‘cao Lỗ’ biến âm ra ‘Cổ loa’ (từ cao ở đây nghĩa là chúa - là vương) .

Cùng 1 nghĩa ‘Thành vua phía đông’ Thăng long thành còn có tên khác :

-Côn lôn hay Côn luân ...như trong 1 bài viết trước đã viết tên gọi thực đúng của thành là ‘cun Lung’ nghĩa là vua phương đông không phải Côn lôn hay Côn luân như sách Tàu viết .

-Tư long thành chỉ là tên viết sai của Từ lang thành , ‘Từ’ hay từ ái nghĩa là thương yêu tượng cuả quẻ Khảm chỉphương đông , chữ Từ này cũng y như chữ từ trong Từ quốc thời Ân Thương và rợ Hoài Di – Từ nhung thời nhà Châu .

Sách sử – địa Việt hiện nay cho sở dĩ Hà nội có tên Đông đô là để phân biệt với Tây đô của nhà Hồ ởThanh hóa nhưng khi nhìn lên bản đồ ...thì thấy không thể như thế được , Hà nội và Tây kinh nhà Hồ nằm đúng trên trục Bắc – nam nên không thể chia đông với tây được , phải chăng ...có phần hợp lý hơn khi xem Đông đô là phần đối của Hạo kinh hay Cun Ninh tức Tây đô của nhà Chu ở Vân nam , nếu đúng như thế thì tên Đông đô của Hà nội xưa đã có từ 1000 năm trước công nguyên , như vậy năm 2010 thay vì kỷ niệm 1000 năm Thăng long – Hà nội phải đổi thành đại lễ kỷ niệm 3000 năm THANH LANG THÀNH - Đông đô - Hà nội mới đúng .

Cùng với Minh đô – Mê linh đô thì chuỗi nối kết Nhà Đông Châu – Đông đô –Thanh lang thành - nền văn minh Đông sơn phải chăng là đã đủ để khai mở 1 dòng lịch sử khác cho người Việt nam ?.

Minh cũng chính là ánh sáng cũng là biểu tượng của chim phượng hoàng, loài chim sống lại từ đống tro tàn của mình, văn hóa Việt hay dùng biểu tượng như Long, Phượng... cho nên hoàng thành tên là Phượng Thành chứ không là Minh Thành, và cũng thường gọi là kinh đô chứ không là Minh đô chẳng hạn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

An Nam Chí Lược:

Long Biên: cuối đời Tây Hán, trị sở của Thứ sử quận Giao Châu tên là Long Uyên, sau vì có giao long nằm khoanh tròn trên mặt nước mới cải tên là Long Biên.

Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chua rằng:

Long Biên là tên huyện đời nhà Hán, theo Thủy kinh chú thì năm 13 hiệu Kiến An (208), lúc bắt đầu xây thành, có loài giao long đến khoanh mình trên mặt nước, ở hai bên phía Nam và phía Bắc, nhân đây mới cải tên lại là Long Uyên. Như vậy, tên Long Biên có trước và Long Uyên có sau.

Nhắc đến sự bất tử, người ta không thể không nhắc đến một loài chim chỉ có trong truyền thuyết: Phương hoàng. Đó là một loài chim kì diệu với những khả năng đặc biệt: nước mắt chữa lành mọi vết thương, máu thịt giúp trường sinh bất tử, tiếng hót có tác dụng thần diệu về tinh thần… Phương hoàng là một sinh vật bất tử, vòng đời của chúng không bao giờ kết thúc. Đến lúc già yếu hay bị thương quá nặng, phương hoàng sẽ tự xây một cái tổ bằng lông của mình, sau đó tự thiêu bằng nguồn nhiệt của bản thân. Và từ đống tro tàn, phương hoàng sẽ hồi sinh dưới hình dạng của một chú chim non. Chính vì khả năng đặc biệt này mà phượng hoàng trở thành biểu tượng của sự sống và cái chết.

Posted ImagePhương hoàng - hình tương loài chim mà dù ở phương Tây hay phương Đông cũng mang ý nghĩa thiêng liêng cao quý. Nó đại diện cho cái đẹp mà khi nhắc đến ai cũng ngưỡng mộ.

Phượng Hoàng: thể hiện sự tái sinh và bất tử + ánh sáng trí tuệ + Minh vương >>>> Phượng Thành mang ý nghĩa là kinh đô của ánh sáng muôn đời.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đến với Cổ Loa thành

Posted Image

Cổ Loa được biết đến không chỉ là cái tên một thành trì quân sự nổi tiếng của nước Âu Lạc thời An Dương Vương mà còn là trụ sở của huyện Phong Khê thời thuộc Hán, là căn cứ quân sự thời Hậu Lý Nam Đế vào năm 692. Đó cũng là kinh đô đầu tiên của Nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập do Ngô Vương Quyền khởi lập và tồn tại từ năm 939 đến năm 944...

Cổ Loa thành là một minh chứng cho tài năng sáng tạo và tinh thần bám trụ của người Việt.

Khu di tích Cổ Loa nằm trên địa phận 3 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội), cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 17km về phía Bắc. Theo các tài liệu khảo cổ học thì xa xưa nơi đây là rừng rậm, do biến đổi của thiên nhiên nên tất cả đã chìm vào lòng đất, hiện chỉ còn dấu tích những dải than bùn lớn, những cây cổ thụ... kéo dài qua nhiều địa phương từ Đài Bi qua Cầu Cả, Đại Đà, Hội Phụ đến Lỗi Khê...

Hơn hai nghìn năm trước, An Dương Vương Thục Phán đã tiến về xuôi để lập kinh đô mới cho nước Âu Lạc tại Cổ Loa. Ông đã cho đào đắp thành lũy kiên cố, đào hào sâu phòng thủ chắc chắn, luyện quân tinh nhuệ, chế tạo vũ khí để bảo vệ đất nước trước sự đe dọa của quân xâm lược nhà Triệu ở phương Bắc. Trải qua sự biến thiên của thời gian, Cổ Loa từng có những tên gọi khác nhau như Khả Lũ thành, Côn Lôn thành, Việt Vương thành và Tư Long thành...

Cổ Loa nằm trên một vùng đất cao, thoải dần từ Bắc xuống Nam. Có thể chia khu di tích này thành ba hạng mục chính: Thứ nhất là di tích tường thành với kiến trúc đặc trưng của thành, lũy, hào, gò, đống... Thứ hai là di tích khảo cổ học qua các thời đại Đồ đồng, Đồ sắt thời đại phong kiến. Thứ ba là di tích kiến trúc nghệ thuật với đình, đền, am, miếu...

Cũng giống như nhiều điểm di tích khác, ở Cổ Loa còn có sự đan xen của làng xóm, đồng ruộng, khu dân cư, khu hành chính... Khu dân cư ở Cổ Loa gồm trại, xóm, làng, ruộng, ao chuôm, ngòi lạch. Khu hành chính có bệnh viện, trụ sở cơ quan hành chính phục vụ, trường học, cửa hàng... Nơi đây có chợ Sa nổi tiếng cả vùng và đã đi vào sử sách về dấu ấn văn minh thương nghiệp từ rất sớm. Đặc biệt, ngay từ thời An Dương Vương, Cổ Loa đã có hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh với đường bộ và đường thủy, tạo điều kiện thuận lợi cho đời sống và sản xuất của nhân dân.

Theo truyền thuyết dân gian, Cổ Loa thành nguyên thủy của Thục Phán gồm có chín lớp tường thành, bên ngoài là hào sâu bao bọc nhưng hiện nay chỉ còn lại ba vòng thành đắp bằng đất theo hình xoáy trôn ốc, gần như lồng vào nhau ở thế cao dần lên; chúng không hoàn toàn đồng tâm mà hơi lệch về phía Nam. Từ ngoài nhìn vào, trước tiên có thể nhìn thấy dấu tích thành ngoại, tiếp đó là thành trung và thành nội. Cả ba lớp thành được nối liền bằng một cửa lớn gọi là Loa Khẩu ở phía Đông Nam. Thành ngoại có chu vi 8.000m, hiện vẫn còn nhiều đoạn tường thành cao và đẹp. Thành trung còn bảo tồn được nhiều đoạn tường thành, có nhiều đoạn gấp khúc, tổng chu vi là 6.500m, cao từ 6 đến 12m. Thành nội là điểm cao nhất, có dạng hình chữ nhật với chu vi 1.650m, có 18 ụ đất nhô ra làm vị trí đặt hỏa hồi dành cho lính canh, khiến cho cả tòa thành không có tử giác (tức góc chết, nơi không quan sát được). Nếu cộng cả ba vòng thành lại thì tổng chiều dài là 16km, trải trên diện tích 850ha.

Cổ Loa thành thể hiện trình độ lao động sáng tạo của ông cha ta xưa kia đã làm nên một công trình quân sự kiên cố bậc nhất đương thời. Các tài liệu ghi chép trong đợt khai quật đào cắt một số đoạn thành năm 1970 cho biết: tường thành Cổ Loa có hai lớp đất, lớp dưới chân thành gồm nhiều mảnh gốm lẫn với than, được kè bằng đá hộc và đá cuội to làm cho chân thành rất chắc chắn. Cấu trúc chung với các vòng thành là những hỏa hồi vọng gác cũng tương tự như vậy. Mỗi vòng thành có 4 hoặc 5 cửa mở ra các phía, nối với nhau bằng một con đường quanh co hai bên. Dưới chân thành là hệ thống hào sâu, ngòi nước, ao hồ... chạy vòng quanh, lại được nối liền với Hoàng Giang (xưa kia là một nhánh của sông Nhị, chảy qua 5 huyện rồi đổ vào sông Cầu) làm nhiệm vụ phòng thủ rất hữu hiệu. Lũy đắp mé ngoài dựng đứng để quân địch khó leo qua còn mé trong thoai thoải để quân ta có thể dễ dàng leo lên đón đánh giặc. Phía ngoài ba vòng thành còn có nhiều ụ đất được đắp khá cao với ý nghĩa là những công trình tiền vệ cho thành như Đống Chuông, Đống Dân, Ngự Xạ Đài... An Dương Vương đã biết kết hợp các yếu tố tự nhiên một cách khéo léo, tạo thành một căn cứ vừa thuận lợi cho phòng thủ, mai phục, vừa dễ dàng cho việc vận động, tấn công theo lối du kích. Đây cũng là chiến thuật độc đáo mà sau này, cả trong thời hiện đại, quân và dân ta đã vận dụng sáng tạo đồng thời phát triển thêm lên trong các cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Đây cũng là ví dụ điển hình về việc kết hợp hai thứ quân: quân thủy và quân bộ hiệp đồng chiến đấu trên một địa bàn.

Cổ Loa thành còn là một công trình kiến trúc nghệ thuật và xây dựng đặc sắc mặc dù được xây dựng với mục đích quân sự. Ở phía Bắc, ông cha ta đã lợi dụng các đồi gò, ụ đống cao làm lũy phòng vệ, làm pháo đài tấn công giặc; còn ở phía Nam thì dựa vào địa hình đồng bằng rộng lớn, lấy Hoàng Giang làm chiến hào tự nhiên án ngữ, đào thêm nhiều đoạn sông để nối Hoàng Giang với sông Hồng, sông Cầu đến sông Lục Đầu, tạo nên một hệ thống giao thông thuận tiện ra đến tận cửa biển và Đầm Cả trở thành một quân cảng lớn đủ cho vài trăm thuyền bè neo đậu... Các di tích kiến trúc nghệ thuật khác trong thành nội còn phải kể đến đền An Dương Vương, đình Cổ Loa Ngự Triều Di Quy, am Mỵ Châu, miếu thần Kim Quy... Theo văn bia Cổ Loa, đền thờ An Dương Vương được xây dựng năm 1687, trùng tu năm 1893. Những di vật quý là tấm bia đá lớn bốn mặt hình khối vuông, ghi niên hiệu Hoàng Định thứ 5 (1606). Bên trong đền có đôi ngựa chiến bằng gỗ làm vào năm 1716. Ở hậu cung, trên bàn thờ có pho tượng vua Thục bằng đồng nặng 255 cân ta được đúc vào năm 1807. Trước tam quan đền có đôi rồng đá vuốt râu, đặc trưng cho phong cách nghệ thuật điêu khắc thời Hậu Lê (thế kỷ XVII-XIX). Dấu ấn của sự vận dụng thuyết phong thủy rất rõ nét: ở mặt trước đền thờ có hương án, tạ thủy, tay nghi, hai bên có đôi mắt rồng bố trí cân xứng, tạo thành thế đất Cổ Tử Long uy nghi, bề thế. Nhìn toàn cảnh, bố cục kiến trúc và nghệ thuật xây dựng tòa thành, đình giếng, đền, am, miếu... là một bức tranh hoàn chỉnh.

Tôi nhận định chỉ có 1 cái giếng, gọi là độc long nhãn (các bài viết của dienbatn) - mắt này gọi là con mắt nội quán, mắt thứ ba tích hợp toàn bộ các giác quan của con người - nó nằm bên trái đình, đền...

Đến thăm Cổ Loa thành, du khách không thể bỏ qua việc tìm hiểu di tích khảo cổ học ở cả một vùng rộng lớn xung quanh để hiểu thêm, tự hào thêm về lịch sử dân tộc, lịch sử nước nhà. Dọc bờ Hoàng Giang, có rất nhiều di chỉ như Đồng Vông, Đồng Chiện ở phía Nam; Vườn Đất, Vườn Trình ở phía Bắc... thuộc thời đại Đồ đồng, cách đây đến 4.000 năm. Sau đó, có những di chỉ vào thời đại giữa Đồ đồng (cách đây khoảng trên 3.000 năm đến 3.500 năm) là Bãi Mèn, Cầu Vực, Tiên Hội, Đình Trang... và những di chỉ vào đầu thời đại Đồ sắt (cách đây trên 2.000 năm đến 3.000 năm) như Đình Tràng, Bãi Miễu, Đường Mây, xóm Nhồi, xóm Hương... Bên cạnh đó còn có rất nhiều di vật cổ là đồ đất nung, đồ sắt, men, gốm... trong các ngôi mộ gạch và khuôn giếng cổ ở Đồng Đô, Mả Cơ, Ao Má... có niên đại từ trước và sau Công nguyên đến thế kỷ thứ X, nhiều di vật đã được giám định là sản phẩm của các thời đại phong kiến Lý, Trần, Lê, Nguyễn... chứng tỏ sự tiếp nối liên tục của lịch sử dân tộc.

Đến thăm Cổ Loa thành, du khách sẽ cảm nhận được khung cảnh một vùng quê cổ tích với bao huyền thoại, nghe lại thiên tình sử Mỵ Châu - Trọng Thủy đầy bi tráng... Lịch sử hàng nghìn năm đã đi qua nhưng dấu ấn một thời đại hào hùng thuở An Dương Vương nối nghiệp các Vua Hùng sẽ còn sáng mãi.

Do dữ liệu lịch sử tại các vùng đất Văn Lang cũ không nhiều, cũng như của Hoa Bắc nói về kinh thành Việt, do vậy để xác định thời gian nào Phượng Thành được xây dựng sẽ xác định trên:

- Truyền thuyết Lạc Long Quân diệt ngư tinh, mộc tinh...

- Vua Hùng tìm đất đóng đô.

- Lão Tử - Chử Đồng Tử.

- Thông hiếu rùa thần cho vua Nghiêu.

- Vua Vũ hội chư hầu tại Đồ Sơn.

- Thông hiếu chim trĩ nhà Chu.

- Chiến tranh Ân Thương.

- Chiến tranh Thục Phán và Hùng Vương XVIII.

- Lịch sử Trống đồng Đông Sơn.

- Thành chiến Hoa Bắc và Nam (nếu có).

Share this post


Link to post
Share on other sites



Kattigara Kinh đô Huyền thoại Việt

TS. Hà Hữu Nga


Trong thời gian Alexander Đại đế (365-323 TCN) mở một loạt chiến dịch lớn tiến về phương Đông, đánh bại Đế quốc Ba Tư vào năm 334 TCN, chinh phục Ai Cập năm 332-331 TCN, và thiết lập nền cai trị tại Ấn Độ vào năm 326 TCN thì vùng đất sau này được gọi là China (Đất Tần - Trung Quốc) chưa có nước Chin (Tần), còn người Hy Lạp thì thực sự bắt đầu quan tâm đến các Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) ở Phương Đông theo đường biển. Các bộ óc lớn nhất của thế giới Hy Lạp – La Mã cổ đại như Erathostenes (276-194 TCN), Hipparchus (190-120 TCN), Strabo (63 TCN - 24 SCN), Marinus (70 - 130 SCN), và đặc biệt là Ptolemy đã kế tiếp nhau xây dựng bản đồ thế giới, xác định vị trí của các đất nước, các đô thị quan trọng nhất trên trái đất, trong đó có Kattigara, một địa danh được cho là thuộc cực đông của thế giới theo quan niệm Hy Lạp cổ đại. Trong khoảng 2000 năm nay biết bao nhiêu công sức, trí tuệ, khát vọng và cả sinh mạng người đã được đánh đổi để mong tìm ra vị trí chính xác của cái đô thị đầy duyên nợ ấy, nhưng dường như Kattigara vẫn còn là một ẩn số lớn đối với người đời.
Ptolemy (90 - 168 SCN) là một học giả cổ đại nổi tiếng, mang họ Hy Lạp sống ở thành phố Alexandria. Tên đầy đủ của ông viết theo tiếng Hy Lạp là Κλαύδιος Πτολεμαῖος, còn theo tiếng Latin là Claudius Ptolemaeus, và chính cái tên này dường như lại cho thấy ông là một công dân La Mã, ông nổi tiếng với tư cách là nhà thiên văn học, toán học, và đặc biệt là nhà địa lý học; Học thuyết Địa tâm gắn liền với tên tuổi ông đã thống trị thế giới suốt cả ngàn năm. Tập Địa lý học của ông gồm 8 cuốn, có ý nghĩa to lớn trong lĩnh vực nghiên cứu cổ bản đồ và địa lý học nói chung. Cuốn thứ nhất phác thảo về các nguyên lý làm nền tảng để ông xây dựng tọa độ, xác định vị trí chính xác cho các vùng đất trên thế giới, còn các cuốn sách khác, về cơ bản là tập chỉ dẫn cho việc thể hiện thành bản đồ dựa trên các tính toán của ông. Tuy nhiên di sản của Ptolemy còn lại cho đến bây giờ lại là các bản đồ phục dựng vào thế kỷ XIV – XVI, dựa trên các dữ liệu trong tập Địa lý của ông. Giá trị của những bản đồ này đã được thẩm định một cách nghiêm nhặt và đã cho thấy một mức độ chính xác nhất định về các con số thể hiện các tọa độ và một số địa danh được mô tả, trong đó có đô thị cổ Kattigara trong công trình của Ptolemy. Trong số 8.000 địa danh được ông ghi chú và mô tả thì Kattigara là cái tên gắn liền với nhiều nhân vật lừng lẫy từ thời cổ đại, kể cả bản thân Ptolemy; các nhà thám hiểm vĩ đại thời trung đại: Cristoforo Colombo (1451 - 1506), Amerigo Vespucci (1454 - 1512), Fernand de Magellan (1480-1521); và các học giả danh tiếng thời hiện đại như Ferdinand von Richthofen (1833-1905), George Coedes (1886-1969), Édouard Chavannes (1865-1918), Louis Malleret (1901 - 1970) v.v...cùng với rất nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi khác của Đông Nam Á, và của Việt Nam.
I. Kattigara và Thuyết địa tâm Hy Lạp cổ đại
Thành phố Alexandria, nơi Ptolemy sinh sống vốn là một trung tâm tri thức cổ đại lớn nhất và nổi tiếng với thư viện Alexandria, do vua Ai Cập Ptolemy I Soter I (Πτολεμαῖος Σωτήρ, 367 – 283 TCN), là một dũng tướng thân tín nhất và là một trong 7 vệ sỹ của Alexandros Đại đế cho xây dựng. Ông cai trị Ai Cập từ năm 323 đến 283 TCN, và khoảng năm 305 TCN ông đã lấy tước hiệu Thần vương Pharaoh đặt cho mình, trong khi đó tước hiệu này chỉ sử dụng cho các vua Ai Cập cổ đại cho đến thiên niên kỷ II TCN mà thôi. Khoảng năm 290 TCN, Pharaoh Ptolemy I cho xây "Museion", trong đó có một đại học, một viện hàn lâm và thư viện Alexandria với khoảng 400.000 cuộn sách vào lúc khởi đầu. Thư viện chỉ thực sự hoạt động dưới thời vua kế tiếp là Ptolemy II Philadelphus (285 - 246 TCN) với 500.000 cuộn sách. (Tarn, W.W. 1928). Đời vua Ptolemy III Euergetes đã cho người đi khắp nơi mua sách hoặc mượn sách có đặt cọc rất lớn, có cuốn tới 15 talent vàng, sau đó không nhận lại tiền cọc mà đổi lấy sách cho thư viện. (Erksine A. 1995: 38 - 48). Theo sử gia Plutarch, người viết tiểu sử Caesar thì năm 48 TCN thư viện bị cháy trong cuộc tấn công của Julius Caesar vào Alexandria dưới thời trị vì của Ptolemy XIII. Sau này Marcus Antonius (83 – 30 TCN) lại lấy 200.000 cuộn sách tặng Cleopatra làm quà cưới, khiến cho thư viện ngày càng nghèo đi. Strabo (Στράβων, 64 TCN – 24 SCN), nhà địa lý, lịch sử, triết học Hy Lạp cổ đại, tiền bối của Marinus và Ptolemy, đã từng làm việc tại thư viện Alexandria năm 23 TCN cũng ghi nhận điều đó, còn nhà triết học La Mã nổi tiếng Licius Annaeus Seneca (4 TCN – 65 SCN) có nói đến 40.000 cuộn sách của thư viện Alexandria đã bị đốt cháy. (Griffin, Miriam T. 1976). Có thể thư viện Alexandria vẫn được duy trì cho đến khi phần lớn sách bị mất lúc hoàng đế La Mã Aurelius (270–275) chiếm Alexandria từ nữ hoàng Zenobia xứ Palmyra. (El-Abbadi, Mostafa 1992).
Sống trong bối cảnh tri thức của thành Alexandria như vậy, chắc chắn các tiền bối của Ptolemy, và chính bản thân ông đã có rất nhiều điều kiện để thu thập nhiều nguồn tư liệu địa lý trong thế giới cổ đại, cho dù đến thời ông thư viện Alexandria đã trải qua nhiều phen binh lửa. Điều đó chứng tỏ một thực tế là ông đã đưa vào công trình của mình hơn 8000 địa danh mà nhiều địa danh đối với ông, chắc chắn cũng mơ hồ như đối với chính những người tìm kiếm khác vậy. Một nghiên cứu so sánh của Strabo cho thấy phạm vi hiểu biết về phần thế giới chưa được biết đến còn mênh mông đến mức nào. Khối tri thức to lớn và cách mô tả rất cụ thể trong bộ Địa lý của Strabo đã tạo nền tảng vững chắc cho sự hiểu biết phần thế giới Địa Trung Hải, Tây Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Ba Tư và một phần Ấn Độ cho những người đi sau, trong đó có Ptolemy (Strabo 1917-1932). Các đoạn chú thích của Marinus chứa đựng nhiều dữ kiện đã được xây dựng dựa trên các ghi chép của các cuộc hành trình dài, các cuốn nhật ký hành trình chính thức, các tư liệu hành chính và cả các quan sát thiên văn của các nhà hàng hải và các thương nhân từ rất nhiều thế hệ khác nhau. Nhờ đức siêng năng và say mê đặc biệt với sự nghiệp địa lý học mà Ptolemy đã được thế giới cổ đại Hy La ngưỡng mộ. Nhà địa lý học Marcianus Heracleensis (thế kỷ IV) đã gọi ông là “nhà địa lý học cổ điển cuối cùng”.
Cái tên Ptolemy gắn liền với học thuyết địa tâm ở giai đoạn đỉnh cao của nó. Với tư cách là một đặc thù tư duy Hy Lạp cổ đại, thuyết này cho rằng Trái đất là trung tâm của vũ trụ và Mặt trời cùng các thiên thể khác quay xung quanh nó. Hệ này được coi là hình mẫu tiêu chuẩn thời Hy Lạp cổ đại, kể từ Aristotle (384 BC – 322 BC) – thầy dạy của Alexandros Đại đế - cho đến Ptolemy cũng như đa số các triết gia Hy Lạp khác đều đồng thuận coi Mặt trời, Mặt Trăng, các vì sao là vệ tinh của Trái Đất. Mô hình địa tâm bắt đầu xuất hiện trong triết học và thiên văn Hy Lạp từ rất sớm. Có thể tìm thấy những dấu vết mô hình này trong triết học trước cả Socrates (469-399 TCN). Ngay từ thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên Anaximander (610 – 546 TCN) đã đưa ra một vũ trụ học với Trái đất như một mặt cắt của một hình trụ là trung tâm của vạn vật. Mặt trời, Mặt trăng và các hành tinh lồng trong những bánh xe vô hình quanh Trái Đất; thông qua những hố đó, con người có thể thấy được ngọn lửa thần bí. Còn các môn đồ Pytagoras (khoảng 580-490 TCN) thì cho rằng Trái đất là một hình cầu, nhưng không phải ở trung tâm; họ tin rằng nó chuyển động quanh một ngọn lửa vĩnh cửu. Sau này các quan điểm đó được phối hợp với nhau, vì thế đa số những học giả Hy Lạp từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên đều nghĩ rằng Trái Đất là một hình cầu tại trung tâm vũ trụ. (Dreyer J.L.E. 1953; Heath, Thomas 1913). Trong thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, hai nhà triết học Hy Lạp có nhiều ảnh hưởng đã viết các tác phẩm dựa trên mô hình địa tâm. Đó là Platon (427-347 TCN) và học trò của mình, Aristotle. Theo Platon, Trái Đất hình cầu, và nằm ở trung tâm vũ trụ. Các ngôi sao và các hành tinh được gắn trên các mặt cầu quay quanh Trái đất, với thứ thự (từ trong ra ngoài): mặt trăng, mặt trời, sao Kim, sao Thủy, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ, các ngôi sao cố định. Plato miêu tả vũ trụ một cách thần bí, còn Eudoxus Cnidus (408-355 TCN) đồng thời với Platon thì cho rằng toàn bộ các hiện tượng thiên thể có thể được giải thích bằng một chuyển động tròn duy nhất. Aristotle đã thêm chi tiết vào hệ thống của Eudoxus. Trong hệ thống đã được phát triển đầy đủ của Aristotle, Trái đất hình cầu nằm ở trung tâm vũ trụ. (Dreyer J.L.E. 1953; Evans, James 1998).
Dù những giáo lý căn bản của thuyết địa tâm Hy Lạp được hình thành từ thời Aristotle, các chi tiết về hệ của ông không phải là một tiêu chuẩn. Tăm tiếng này được dành cho Hệ Ptolemy, được nhà thiên văn học Ptolemy đưa ra vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Cuốn sách thiên văn học quan trọng của ông Almagest là thành quả cao nhất của công trình kéo dài hàng thế kỷ của các nhà thiên văn Hy Lạp; nó đã được chấp nhận trong suốt hơn một nghìn năm sau, được những người Châu Âu và các nhà thiên văn học Hồi giáo coi là mô hình vũ trụ chính xác. Vì ảnh hưởng của nó, hệ Ptolemy thỉnh thoảng được coi tương tự với mô hình địa tâm. Đó chính là một trong những cơ sở lý thuyết để Ptolemy sử dụng các công cụ toán học và vật lý áp dụng vào các khung tính toán địa lý của các tiền bối, kết hợp với việc phê phán các bậc tiền bối để xây dựng hệ thống kinh tuyến, vĩ tuyến và tính toán các tọa độ trên trái đất (Evans, James 1998.; Heath, Thomas 1913).
Một trong những tiền bối lỗi lạc nhất của Ptolemy là Eratosthenes làm việc tại thành phố Alexandria. Ngay từ rất sớm ông đã sử dụng các phương pháp khoa học để tìm cách đo đạc trái đất. Khai thác tri thức và các ghi chép của rất nhiều người thuộc nhiều thời lưu tại thư viện, ông biết giữa trưa ngày 21 tháng 6, mặt trời lên đến thiên đỉnh tại Syene (Aswan), trong khi đó tại Alexandria bao giờ mặt trời cũng có bóng dài, nhờ đó ông tính được Syene thuộc về phía nam Alexandria. Dựa vào kết quả quan sát từ hai địa điểm cách xa nhau ấy ông đã tính được chu vi của trái đất là 250.000 stadium, tổng cộng là khoảng 28.700 dặm, thừa khoảng 15 phần trăm so với chu vi thực mà ngày nay khoa học tính được một cách chính xác. Và phương pháp đo đạc vĩ mô của ông đã trở thành một đóng góp lớn cho nhân loại. Tiếp theo Eratosthenes, Ptolemy còn có một tiền bối vĩ đại khác, đó là Hipparchus, xứ Nicea, người đã chia trái đất thành 3600 và mỗi độ cách nhau 70 dặm, tương đương với khoảng cách giữa hai kinh tuyến để tính toán. Các thuật ngữ kinh tuyến, vĩ tuyến là do ông xây dựng và sử dụng (Broorstin, Daniel J. 1983).
Trong các công trình của các học giả trước Ptolemy, trái đất được biết với các dữ liệu sau: chiều Đông Tây là 1800, còn chiều Bắc Nam là 900. Trong công trình Almagest ông muốn chia trái đất thành 4 phần bằng đường xích đạo và quỹ đạo kinh tuyến qua hai cực trái đất. Phần thế giới đã biết của Ptolemy thuộc vùng phía bắc, phương Bắc Nam được tính từ cực bắc đến đường xích đạo, còn phương Đông Tây được tính bằng đường quỹ đạo kinh tuyến, có khoảng cách là 1800, không nhiều hơn sự khác biệt của 12 giờ, mà mỗi giờ được tính là 150 giữa hai điểm của phần thế giới đã biết, tính theo số lần bị che lấp của mặt trăng tại bất cứ một điểm nào ở phần trái đất đã biết. Đối với ông, vùng con người sống được là các khu vực thuộc bắc xích đạo. Điểm cực bắc có vĩ độ 630 Bắc (vùng Thule), còn điểm cực Nam thuộc vĩ độ 16.5/120 Nam (vùng Aigisymba - Cặp tê giác và Mũi Prason). Vậy là từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Sinae (mà nhiều học giả sau này giả định là Trung Quốc) theo hướng Đông - Tây là 1800. Đó chính là các điểm giới hạn của bản đồ thế giới của ông. Trong ranh giới đó, ông cố gắng xác định một cách ổn định các dữ liệu địa lý mà ông thu thập được của các bậc tiền bối với các dữ liệu thiên văn của ông để xây dựng bản đồ. [Riley T. M. 1995, 232].
Ông tính toán sự khác biệt giữa các cuộc hành trình của các nhà hàng hải, các thương nhân đã được ghi chép và khoảng cách thật, tức là khoảng cách theo vĩ độ Bắc qua Thule (Vùng Bắc Âu) và vĩ độ Nam qua Aigisymba (Trung Phi) và Mũi Prason (Ven biển châu Phi) bằng các phương pháp tính thông thường. Còn cực Đông thì ông sử dụng Kattigara làm vĩ độ 1800., có nghĩa là Kattigara cũng thuộc vùng đất Sinae. Marinus đã khai thác số liệu được ghi chép nhiều lần của các thương nhân, các nhà hàng hải, nên đã tính được khoảng cách về phía Nam tính từ đường xích đạo là 24.680 stade (đơn vị tính chiều dài, số nhiều của từ stadium, mỗi stadium = 184m), trong đó 500 stade = 10 vĩ, vậy thì quãng đường 24.680 stade người lữ hành phải qua 490 vĩ Nam. Marinus cũng đã tính quãng đường từ Ptolemai ở Trogloditya đến Mũi Prason, thuộc đất Ethiopia, là 27.800 stade, 560 vĩ Nam. Theo Ptolemy thì các khoảng cách đó cho thấy Ethiopia ở vùng lạnh thuộc Nam Bán cầu, trong khoảng 500 - 550 vĩ Nam, vì vậy Tê giác không thể sống được ở đó. Không những thế, người Garamantes lại chính là người Ethiopia thì “các dữ liệu của Marinus sẽ trở thành trò cười cho vị vua ở đó”, vì làm sao mà một vị vua lại có thể sống xa thần dân của mình đến thế được. Hơn nữa lại còn phải tính đến sự tương thích về khí hậu, chủng tộc, động vật giữa các vùng tương ứng thuộc Bắc và Nam bán cầu. Trong khi đó những người Ethiopia da đen lại sống gần những người ở phía Nam Ai Cập, người Ethiopia sống giáp đường Xích đạo về phía nam, còn người Ai Cập lại sống giáp đường Xích Đạo về phía bắc, vì vậy theo Ptolemy, khoảng cách thực phải giảm đi một nửa so với con số của Marinus, còn 23.1/20 mà thôi. Ngoài ra Marinus cũng có các báo cáo về các cuộc hải trình giữa Aromata (Sừng Châu Phi) và Rhapta (thuộc bờ đông Châu Phi). Diogenes xứ Kunikos (Διογένης ὁ Κυνικός 404-323 TCN) đã phải mất 25 ngày đi thuyền về phía nam để đến các nguồn sông Nile ở Mũi Rhapta. Vậy thì số liệu của Marinus rất vô lý, nên Ptolemy đều giảm đi một nửa. [Riley T. M. 1995, 233].
Trên cơ sở đó, Ptolemy đã coi việc giảm các số liệu của Marinus xuống còn một nửa là một nguyên tắc. Vì vậy đối với trường hợp Đông Tây, đương nhiên ông cũng áp dụng nguyên tắc này cho các khu vực thuộc phần thế giới đã biết. Marinus có các báo cáo về cuộc hành trình từ Hierapolis tại Euphrates (Syria) đến Tháp đá thuộc “ranh giới phía tây của Sinae” là 26.280 stade, và hải trình từ Tháp đá đến “Sera thủ đô của Sinae” là 36.200 stade, về thời gian mất 7 tháng với tổng chiều dài đoạn đường là 62.480 stade hoặc là 156,1/50. Thêm vào con số ấy 720, tính từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Hierapolis và tổng đoạn đường Tây - Đông của thế giới đã biết là 228,1/50. Với vĩ tuyến Tây – Đông, Ptolemy tính mỗi độ bằng 400 stade, và áp dụng nguyên tắc giảm một nửa như đối với trường hợp châu Phi, Ptolemy cũng giảm con số tính toán của Marinus là 36.200 stade xuống còn 18.100 stade, và nếu tính theo độ thì còn 45,1/20, tình cờ là nó lại gần với con số thực. Con số 26.280 stade từ Hierapolis đến Tháp đá thuộc Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) được điều chỉnh xuống còn 24.000 stade, hoặc 600, và tổng số độ từ Hierapolis đến Sera là 105,1/40. Vậy là đoạn đường từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Hierapolis là 720, và từ Hierapolis đến Sera là 105,1/40, tổng cộng là 177, 1/40, gần khớp với tổng chiều dài vĩ tuyến Tây – Đông 1800. [Riley T. M. 1995, 233].

Trong chương I.14 của công trình Địa lý, khoảng cách đường biển theo các báo cáo từ Ấn Độ đến Kattigara trên cùng vĩ tuyến với Sera cũng áp dụng nguyên tắc giảm thiểu như trên, để tính phương Đông Tây, vì vậy mà cũng còn gần 1800. Tất nhiên Ptolemy còn có các nguồn tư liệu khác nhau vì vậy ông chỉnh sửa các số liệu cũ bằng các số liệu mới hơn, và cũng đề cập đến tính cần thiết của việc phải cập nhật các nguồn dữ liệu mới đó. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể dễ dàng thực hiện đối với vùng thế giới đã biết, chủ yếu thuộc phạm vi Ả Rập, xa nhất là đến Ấn Độ, nơi mà cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế chấm dứt ở đó. Còn ngoài phạm vi đó thì các nguồn số liệu, dữ liệu mới là rất hiếm hoi. Trong thực tế thì đối với công trình Địa lý, Ptolemy đã sử dụng khuôn khổ và số liệu mà các tiền bối đã thực hiện. Đối với trường hợp này thì bản đồ truyền thống bao gồm cung ¼ bán cầu bắc, và ông đã điều chỉnh các báo cáo và các số liệu cũ bằng nguyên tắc giảm ½ đối với phần thế giới đã biết như vừa đề cập ở trên. [Riley T. M. 1995, 234].
Trên cơ sở học thuyết của mình, một địa điểm tại cực đông của địa cầu như Kattigara chính là một nhu cầu thúc bách trí tưởng tượng Hy Lạp cổ đại trong rất nhiều đời nhằm kiểm nghiệm lý thuyết địa tâm và mục đích cuối cùng là chinh phục địa cầu của tinh thần Hy Lạp. Nhưng có lẽ chỉ đến thế kỷ thứ tư TCN, sau khi Alexander Đại đế, học trò của Aristotle, chiến thắng Ai Cập, Ba Tư và Ấn Độ thì các hiểu biết về phương Đông, đặc biệt là những thông tin và tên gọi kiểu như Kattigara mới được các thương gia Nam Ấn cung cấp cho Alexander Đại đế và các tướng lĩnh dưới quyền ông một cách rõ ràng và chắc chắn nhất. Giai đoạn này tương đương với thời Hùng Vương 18 gồm có “Hùng Duệ Vương, Hùng Kính Vương và Tản Viên” trong truyền thuyết Việt, sau đó nhà nước Hùng Vương bị Thục Phán thôn tính vào năm 257 TCN theo Đại Việt sử ký Toàn thư hoặc vào năm 179 TCN theo các nguồn khác.
II. Kattigara – Marinus và Ptolemy
Tuy địa danh Kattigara không phải do Ptolemy phát hiện, nhưng cái tên đó lại gắn liền với Ptolemy và tất cả những nghi vấn mà ông đã để lại cho đời sau trong chính các ghi chú của công trình Địa lý học của mình. Một trong những ghi chú được tất cả những người tìm kiếm Kattigara phân tích, đó là việc ông than phiền Marinus không ghi rõ khoảng cách hải trình từ Bán đảo Vàng, ngày nay được thừa nhận là Bán đảo Malay đến Kattigara. Trong công trình của mình, Marinus chỉ ghi một cách mơ hồ là Alexandros đã viết rằng vùng đất đó ở bên kia vùng đất quay về phía nam, và phải bơi dọc theo đó đến Zabai mất 20 ngày, sau đó từ Zabai bơi tiếp một hồi về phương nam rồi rẽ trái đi tới Kattigara trong “vài ngày”. Theo Ptolemy thì “Marinus đã phóng đại khoảng cách đó bằng cách nói “vài ngày” có nghĩa là nhiều ngày, lại còn nói là vì vô số ngày nên không thể hiện bằng con số cụ thể được. Điều đó thật nực cười: làm gì có chuyện không tính được cụ thể số ngày, cho dù có đi vòng quanh cả trái đất đi nữa?” Hoặc có điều gì đó đã cản trở Alexandros không nói “nhiều ngày”, mà chỉ nói “vài ngày”, hệt như Marinus nói: “Dioskoros cho biết hải trình từ Rhapta đến Mũi Prason mất “nhiều ngày” (Ptolemy, 2000: 76).
Như vậy với ghi chú trên chúng ta biết chắc chắn rằng cái tên Kattigara không phải là do Ptolemy tìm kiếm được thông tin trực tiếp và đưa vào công trình Địa lý học của ông, mà do ông sử dụng lại từ công trình của Marinus. Trong thực tế thì nếu không có Địa lý học của Ptolemy, người ta sẽ không biết gì nhiều về Marinus. Có thể nói nhờ có Ptolemy thì người đời sau mới biết được vị thế và đóng góp to lớn của Marinus cho Địa lý học thế giới. Nhưng chính bản thân Marinus cũng để lại cho Ptolemy những vấn đề mà ông không giải quyết được, chẳng hạn ông không biết Marinus nói về hải trình đến Kattigara của Alexandros nào, ở thời nào. Liệu người này có trực tiếp đến Kattigara hay ông ta phái người đi đến đó. Khi tính khoảng cách từ Hy Lạp đến Kattigara ông cho rằng Marinus đã phóng đại kinh độ bằng cách xác định khoảng cách giữa các đảo Fortunes ở phía Tây đến các vùng cực đông thuộc Sera của Sinae và đến Kattigara không hơn 12 giờ. Bằng cách xác định vị trí của Sera, Marinus đã sử dụng tuyến hải hành của các thương nhân hoặc nhà hải hành nào đó đã đến đó và Ptolemy đã phê phán việc xác định đó. “Vì ông nói với chúng ta rằng các khoảng cách mà một kẻ tên Maes nào đó có họ Titianus, một người Macedonian, và cũng là một thương nhân giống như cha ông ấy; đâu phải tự ông ta thực hiện cuộc hải hành mà là cử người tới buôn bán với người Seres”. Nhưng rất may là sau này người ta đã tìm được tung tích của nguồn thông tin thứ hai mà Marinus đã sử dụng cho việc tính toán đoạn đường đến Kattigara. Nhân vật Maes Titanius ấy chính là một nhà lữ hành đã từng đi theo con đường tơ lụa trên bộ từ Địa Trung Hải tới phương Đông vào cuối thế kỷ I TCN hoặc đầu thế kỷ I SCN; nhờ có lời phàn nàn của Ptolemy mà thân phận của Maes Titanius đã được làm sáng tỏ. (Cary M. 1956: 130-134).
Trong Ghi chú II của tác phẩm Địa lý, Ptolemy cho rằng: Phần có người ở của trái đất chúng ta còn có Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) ở phương Đông bao bọc, có các dân tộc ở cực đông của Đại Á cư trú, là người Sinae và các dân tộc Serice; tương tự như vậy là Vùng đất Chưa biết ở phía Nam khép kín biển Ấn Độ và ôm lấy Ethiopia đến nam Libya, được gọi là đất Agisymba; vòng về phía tây là Vùng đất Chưa biết bao quanh vịnh Ethiopic của Libya, và sau đó bao quanh Đại Tây dương nằm ở cực tây của Libya và châu Âu; và đại dương này bao gồm phần phía bắc với các đảo Britanic và phần cực bắc châu Âu có các tên gọi Duecalydonian và Sarmatic; tiếp đến một Vùng đất Chưa biết trải dọc các phần cực bắc của Đại Á, đó là Sarmatia, Scythia, và Serice…”. Và vùng đất này cũng bọc kín biển Hyrcanian còn được gọi là Caspian. Tương tự như vậy các vịnh Ả Rập, vịnh Ba Tư, vịnh Hằng Hà và Vịnh Lớn ở phương Đông cũng được đất liền bọc kín. Vì vậy chúng ta thấy có ba đại lục châu Á tiếp nối với Libya bởi eo đất Ả Rập tách biển (Địa Trung Hải) của chúng ta khỏi vịnh Ả Rập, và bởi Vùng đất Chưa biết khép kín biển Ấn Độ…”. Cực đông của Vùng đất Chưa biết giới hạn bởi kinh tuyến chạy qua thủ đô của Sinae, ở một khoảng cách là 1190 tính từ Alexandria, tương đương với 8 giờ tính đến đường xích đạo…(Tập sách vii, chương 5)… (Institute on the Far East Works 1915).
Trong cuốn sách thứ nhất của mình Ptolemy nói về Marinus như là một tác giả Hy Lạp lớn nhất về phương diện địa lý học. Có rất nhiều bản in bổ sung các biểu địa lý của ông, nhưng các phán đoán của ông cần phải được chỉnh sửa và ông đã đưa ra rất nhiều con số tính toán về các khoảng cách, chiều dài, chiều rộng của thế giới có con người sinh sống. Về vĩ độ, Ptolemy đã minh họa bằng cách phê phán vị trí do Marinus xác định dựa vào những chuyến hải hành nào đó đến vùng cực nam Ethiopia được gọi là Agisymba. Việc tính toán khoảng cách đại quát từ các tuyến đường đó có lẽ đã đặt vùng này vào khoảng cách 24.680 stades kể từ đường xích đạo về phía nam, hoặc như Ptolemy nói là thuộc về vùng Nam cực băng giá. Tổng cộng, Marinus đã cắt giảm con số đó xuống còn 12.000 stades để đưa nó lại gần với vùng nhiệt đới phía nam, và Ptolemy bằng cách suy đoán là thích hợp với một số loại động vật nhất định nên đã giảm khoảng cách đó xuống còn 8000 stades. Ông cho rằng Marinus đã phóng đại kinh độ khi xác định khoảng cách giữa các đảo Fortunes ở phía Tây đến các vùng cực đông thuộc Sera của Sinae và đến Kattigara không hơn 12 giờ. (Institute on the Far East Works 1915).
Một trong những vấn đề làm đau đầu những người tìm kiếm Kattigara là việc Ptolemy đã cố gắng xác định vị trí kinh tuyến chạy theo đường biển từ Mũi Kory ở Nam Ấn Độ đến Kattigara, được giả định là một cảng thị của Sinae, và nó thuộc vào vị trí 1770 đông. Những băn khoăn chủ yếu gắn liền với kinh độ này liên quan đến đoạn mô tả đô thị đó “ở mãi trong hẽm núi, cuối vùng đồng bằng” (chương 13-14 tập Địa lý của Ptolemy). Nhưng đoạn đó lại nói về tuyến đường trên đất liền đi qua Tháp đá, và bên kia là trạm nghỉ cho các thương nhân đi đến vùng đất của người Seres (bk.vi, chương 13). Richthofen cho rằng trạm này thuộc vùng Pamir (Richthofen, von Ferdinand 1877-1912.). Tuy nhiên theo Stein thì ngày nay khó lòng mà xác định được vị trí của “Tháp đá” nữa, nhưng nơi nghỉ mà Maes Tititanus nói là phía đông “Tháp đá” và nằm trên con đường đi Sera thì chắc chắn vẫn còn đó. Theo Richthofen thì vị trí này phải gần với vùng phân thủy giao nhau với tuyến đường trên, vì Ptolemy đã xác định vị trí đó trên tuyến Imaus, chắc chắn là phù hợp với vùng Pamir ở phương đông. (Stein M.A. 1907: 54-5). Tháp đá của Ptolemy chắc chắn không thể bị lẫn lộn với Tash Kurghan. Nhưng theo Ptolemy, có lẽ hợp lý nhất là xem xét kỹ chi tiết mà Alexandros đã mô tả vùng đất bên kia Vùng đất vàng Chersonese nằm hướng về phía nam, và sau khi đi thuyền trong vòng 20 ngày thì đến thành phố Zabai, sau đó bơi vài ngày nữa theo hướng nam, rồi rẽ trái sẽ đến Kattigara. Điều đó có nghĩa là Ptolemy vẫn nghi ngờ tính xác thực của nguồn thông tin do Maes Tititanus cung cấp trên tuyến đường bộ mà sau này được Richthofen gọi là “Con đường tơ lụa”.
Trong chương 17 của tập Địa lý, Ptolemy nói về những người đã thực hiện các chuyến hải hành đến Ấn Độ và đã từng sống lâu ở đó: Từ những người này chúng ta có những thông tin chính xác hơn về Ấn Độ cũng như về những đất nước xa hơn ở Vùng đất vàng, cho đến tận Kattigara. “Tất cả mọi người đều nhất trí rằng để đến được các vùng ấy, thì phải đi về phương Đông, còn để quay lại thì phải đi về phía Tây, và như thế thì không thể ấn định trước một khoảng thời gian chắc chắn trong bối cảnh đó”. “Họ cũng đồng ý rằng đất nước của người Seres có thủ phủ nằm về phía bắc vùng đất của người Sinae, còn đi tiếp về phía đông thì là Vùng đất Chưa biết, với rất nhiều đầm lầy mọc đầy loại lau sậy lớn, dày đặc đến mức người thổ dân khi đi qua đó cũng phải có cách riêng, vì ở đó không có đường đi.” (Institute on the Far East Works 1915).
Theo nhà Đông phương học kỳ cựu H. G. Rawlinson thì: Các công trình của Ptolemy về địa lý của giai đoạn này chủ yếu dựa vào các thông tin do Marinus xứ Tyre thu thập, đã thể hiện một sự hiểu biết sâu sắc hơn về vùng ven biển châu Á so với các bậc tiền bối của họ. Trong khi đó tác giả của sách Periplus biết không nhiều, hoặc thậm chí không biết gì về vùng biển bên kia sông Hằng. Ptolemy đã phải đương đầu với một vấn đề lớn có lẽ vì ông đã phải phụ thuộc vào nguồn thông tin của “các nhà hàng hải mù chữ với các thông tin mù mờ và lẫn lộn”. Ông đã nhầm Java với Sumatra; ông không nói gì về eo Malacca và ông nghĩ rằng bờ biển Trung Quốc đáng lẽ là ở hướng bắc thì lại quanh về phía nam để tiếp giáp với vùng ven biển Châu Phi. Thông tin mà ông thu lượm từ “các thủy thủ ít học, không đánh vần được đúng tên gọi các cảng biển mà họ cập bến”. Trong đầu họ chỉ có con đường từ cảng này đến cảng khác và thường là lẫn lộn; còn về khoảng cách thì như bản thân ông thú nhận là ông phải dựa vào phép tính trung bình của con tàu đi trong một ngày để tính toán, cùng với phép tính trung bình là các suy luận để giải quyết những bất thường của các vùng biển ông không có thông tin chắc chắn hoặc những nhân tố nhiễu loạn khác. Kết quả ấy đưa đến những sai lạc ghê gớm dù chỉ là về vùng ven biển Ấn Độ. Ptolemy dường như hoàn toàn không biết gì về sự thật là tiểu lục địa này xuôi theo hướng nam. Từ mũi Kory đến vùng cửa sông Hằng có hàng loạt đô thị, trong đó có một đô thị không được nêu tên, nằm giữa Maesolia và Palura. Maesolia hay Masalia trong sách Periplus có lẽ là quận Masulipatam và Palura nơi bắt đầu của Vịnh Hằng Hà nằm thiên về phía bắc một chút. Chính từ vị trí này mà các con tàu bắt đầu cuộc hải hành về phương Đông. Qua khỏi vịnh Bengal, họ đến Sada thuộc vùng Đất Bạc, và từ Sada đến Temala hoặc Tamala gần mũi Negrais, nằm ở đầu vịnh Thái Lan (Vịnh Lớn). Sau đó đi tiếp đến đến một cảng gọi là Zaba. Yule cho đó là Champa và tìm kiếm nó ở bờ phía tây Campuchia và có lẽ gần sông Kampot hoặc sông Kang Kao. Hải trình đó mất 20 ngày; và từ Zabai đến Kattigara có cùng một khoảng cách tương tự như vậy. Tuy nhiên về chặng đường này Ptolemy thừa nhận là ông cũng rất nghi ngờ vì những thông tin mà Marinus có được từ một người nào đó có tên là Alexanderos. (Rawlinson H. G. 1916: 131, 132).
Tiếp tục con đường ven biển từ Palura, Ptolemy mô tả cửa sông Hằng. Ông là một tác giả phương Tây đầu tiên đề cập đến vùng đồng bằng sông Hằng. Ngay cả tác giả sách Periplus cũng không nói gì về điều này, còn Strabo và toàn bộ các tác giả trước đó đều im lặng, nếu không kể đến “các tài liệu tham khảo đáng ngờ” của Vergil về “7 ngọn nguồn êm đềm” của dòng sông đó. Ptolemy gán cho sông Hằng có năm cửa. Từ sông Hằng ông mô tả Ấn Độ xuyên Hằng Hà, trước hết là vùng đất Airrhadii; tiếp đó là Ấn Độ từ sông Hằng đến Tokosanna hoặc sông Arakan; sau đó ông dẫn ta đến Đất Bạc, Arakan và Pegu; rồi đến Besynga hoặc Bassein; và cuối cùng đến vùng Đất Vàng, Bán đảo Malay. Cái tên đó được dịch từ tiếng Phạn Suvarnabhumi để chỉ vùng tam giác châu Irrawady, mà các biên niên sử Mianma gọi tên tương tự vùng ranh giới của họ là Sonaparanta. Tiếp đến là Mũi Lớn Campuchia, và Vịnh Lớn Thái Lan. Ở phía Tây của vịnh này có cảng Zabai đã được các đoàn hải hành nói đến khi bơi tới Kattigara. Cư dân ở đó được mô tả là “lễ phép, đầu tóc bờm xờm, mũi tẹt và hay ngồi xổm” – một đoạn mô tả khái quát khá rành mạch. (Rawlinson H. G. 1916: 133-4).
Nhưng dù có to tiếng phê phán các sai lầm của Ptolemy thời cổ đại thì rồi cuối cùng Rawlinson thời hiện đại cũng vướng không ít mơ hồ khi kết luận rằng: “Kattigara có lẽ là Kian-chi (có thể Rawlinson viết sai từ Kau Chi) ở Bắc Kỳ, Việt Nam hiện nay, vì các biên niên sử Trung Quôc nói về sứ bộ La Mã đến Trung Quốc đã ghé vào đó mua bán rất nhiều. Còn thủ đô của Trung Quốc có lẽ là Nam Kinh; dân Sinae ở Đông Nam Trung Quốc mà Ptolemy nói đến chính là những thương nhân buôn bán với Đông Ấn Độ. Người Seres hoặc Người Dâu tằm cư trú ở phía tây hoặc phía bắc của Sinae, và tiếp xúc với phương Tây qua con đường Pamirs”, (Rawlinson H. G. 1916: 136).

III. Kattigara – Danh phận Đoạn trườngĐối với Ptolemy câu hỏi Kattigara là gì không mấy quan trọng, điều quan trọng nhất đối với ông là cần phải xác định nó ở đâu, có nghĩa là ở kinh độ và vĩ độ nào trong cái mô hình bản đồ thế giới tuyệt vời của ông. Câu hỏi đó đã được ông trả lời bằng các tính toán và suy lý để rồi chấm được nó ở một vùng đất mà đại đa số các nhà nghiên cứu đều nhất trí là ở Việt Nam ngày nay. Tuy nhiên, vấn đề về địa danh Kattigara mà Marinus và Ptolemy đưa ra từ thời cổ đại vẫn tồn tại nguyên vẹn và liên tục cho đến thời trung đại. Nhà thám hiểm vĩ đại, người đã tìm ra châu Mỹ là Amerigo Vespucci đã thực hiện chuyến đi năm 1499 đã viết: Ông hy vọng đến được vương quốc “Melaccha ở Ấn Độ”, thực tế thì đó là Malacca hoặc Melaka thuộc bán đảo Malay, bằng chuyến hải hành từ Tây Ban Nha, bơi về phía tây, qua Đại Tây Dương, vòng qua “Mũi Kattigara” đến Vịnh Lớn Sinus Magnus (Vespucci A. 1500 – 1944 - 1999).
Thomas Suarez cho rằng vị trí chiến lược của Kattigara đã được các nhà thám hiểm tiên phong Châu Âu xác định ở Đông Nam Á, chẳng hạn như Amerigo Vespucci, Christopher Columbus và Ferdinand Magellan. (Suarez, Thomas 1999: 92). Nhưng Vespucci đã thất bại trong việc tìm kiếm Mũi Kattigara trong chuyến thám hiểm năm 1499, khi ông bơi dọc theo bờ biển Venezuela Nam Mỹ, nhưng lại chưa bơi đến được tận cùng để giải quyết câu hỏi: có phải Sinus Magnus của Ptolemy vượt sang đến dải đất bên này không. Tương tự như vậy, Christopher Columbus cũng thất bại trong việc trả lời câu hỏi này khi ông bơi dọc theo chính bờ biển đó. Trong chuyến thám hiểm lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng của mình vào năm 1502 - 1503, Columbus đã xây dựng kế hoạch đi dọc bờ biển Champa về phía nam vòng qua “Mũi Kattigara” và bơi qua eo biển ngăn cách nó với Tân Thế giới để tới Sinus Magnus phía Malacca. Đây chính là tuyến đường mà ông cho rằng Marco Polo đã trở về từ Trung Quốc qua Ấn Độ vào năm 1292. (Nunn, George E. 1992; Wallis, Helen 1992). Columbus cho rằng ông sẽ gặp đoàn thám hiểm của Vasco da Gama từ Bồ Đào Nha đi Malacca theo con đường Châu Phi, vòng qua Mũi Hảo vọng và đem theo ủy nhiệm thư của Quốc vương Ferdinand và Hoàng hậu Isabella của Tây Ban Nha giới thiệu với da Gama. (Millares A. Carlo (ed.) 1951; Serrano C. Seco (ed.) 1954-1955). Khi đến Cariay, ngày nay là Puerto Limon thuộc bờ biển Costa Rica, Columbus nghĩ rằng ông đã đến được các mỏ vàng Champa mà Marco Polo đã nói tới. Chính vì vậy từ Jamaica ông đã viết thư về cho Quốc vương và Hoàng hậu như sau: “Thần đã tới Cariay…Ở đây thần đã biết được về các mỏ vàng của người Champa mà thần tìm kiếm”. (Varela, Consuelo (ed) 1992). Một đoạn chú dẫn những tấm bản đồ do Bartolome Colon, tức là Bartholome Columbus, anh trai Christopher Colon và Alessandro Zorzi xây dựng năm 1504 cho thấy Christopher Columbus đã ước tính khoảng cách giữa Bồ Đào Nha và cái gọi là “Mũi Kattigara” trội lên quá nhiều, tới 2250 đông, thay vì tính toán của Ptolemy là 1800, nên đã làm cho ông tin rằng khoảng cách về phía tây chỉ là 1350. Chính vì vậy các vùng đất Châu Mỹ mà ông phát hiện lại được ông gọi là Đông Ấn. Nội dung của chú giải này là như sau: “Theo Marinus xứ Tyre và Columbus, từ Mũi St. Vincent đến Kattigara là 2250, tức là 15 giờ; theo Ptolemy đến tận Kattigara là 1800, tức là 12 giờ”.
Như George E. Nunn đã lưu ý, theo tính toán thì tấm bản đồ của Colon/Zorzi đã sử dụng kinh độ của Ptolemy từ Mũi St. Vincent về phía đông đến Kattigara, nhưng việc tính toán kinh độ của Marinus và Columbus lại được sử dụng cho khoảng không gian từ Mũi St. Vincent đến Kattigara theo hướng tây. Tấm bản đồ thế giới của Waldseemueller năm 1507 đã sử dụng cả hai tính toán kinh độ trên để thể hiện bờ biển phía đông Châu Á lên hai lần: một lần theo kinh độ của Ptolemy để thể hiện địa cầu như Martin Behaim đã làm vào năm 1492; và lại theo kinh độ của Columbus để thể hiện các phát hiện của ông và các nhà hàng hải Tây Ban Nha băng qua Đại Tây Dương. Các vùng bờ biển phía tây do người Tây Ban Nha phát hiện được Waldseemueller mô tả là “Incognita” - Vùng đất Chưa biết với một vùng biển phỏng đoán ở bên kia, làm cho vùng đất này rõ ràng là một lục địa tách riêng. Vị thế của Nam Mỹ với tư cách là một hòn đảo tách biệt hoặc là một phần của Châu Á, nhất là bán đảo Thượng Ấn (Đông Dương), nơi có địa điểm Kattigara vẫn chưa được xác định chắc chắn là ở đâu. Chính vì vậy mà Nunn đã viết: “Đó là một cách rất hợp lý để trình bày một vấn đề không giải quyết được” (Nunn, George E. 1927: 476-480), hoặc vấn đề Kattigara đã được giải quyết bằng cách đặt nó ở Nam Mỹ. (Nunn, George E. 1932: 12,13 – 49-51). Tương tự như vậy, trên bản đồ địa cầu Jagiellonian Globe, những khác biệt về thước đo khoảng cách kinh tuyến chạy về hướng đông và hướng tây đã tạo ra một Châu Mỹ lưỡng vị gồm cả hai nửa bán cầu đông và tây. Nếu Costa Rica/Panama là một phần của Ấn Độ, như Christopher Columbus khẳng định thì vùng đất choãi về hướng nam đến eo biển kia chính là Mũi Kattigara đã được tìm thấy, và đô thị Kattigara phải nằm trên bờ phía tây của nó, như đã được thể hiện trên bản đồ của Colon/Zorzi vào năm 1504. Và niềm tin của Columbus đã được thể hiện rõ trên tấm bản đồ thế giới của Giovanni Contarini xuất bản tại Venise năm 1506, trên đó có một hình xuáy trôn ốc gắn liền với Champa, được ghi là: “Cristophorus Columbus …bơi về phía tây, đã đến vùng đất có tên gọi Champa…có một kho vàng lớn”. Trên tấm bản đồ này ghi rõ bờ biển phía đông của Vịnh Lớn Sinus Magnus ở vị trí 8.1/20 Nam, và vùng đất Sancta Crucis thuộc Brazil ngày nay, do Pedro Alvares Cabral phát hiện vào tháng Tư năm 1500, được thể hiện thành một lục địa phương nam riêng biệt. (National Library of Australia 2010).
Hơn 23 năm sau, trên bản đồ thế giới năm 1523 nhà địa cầu học Schoener đã thể hiện Kattigara hoặc bán đảo Thượng Ấn - Đông Dương, bao gồm cả Mexico và Nam Mỹ, còn cái tên Biển Đông của Ptolemy thì trở thành Thái Bình Dương. (Wieder F.C. (ed.) 1925). Schoener cũng đưa phát hiện vùng đất Tierra del Fuego của Ferdinand Magellan năm 1520 vào tấm bản đồ với tên gọi là vùng đất Hạ Australis-Brasilia. (Schilder G. 1976: 10). Cũng trong năm 1523 Maximillianus Transynvanus công bố các phát hiện của Magellan ở De Moluccisinsulis với lời chua rằng: Mặc dù các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đã đi tới tận vị trí 120 Nam, nhưng họ vẫn không tìm ra được Kattigara. Cuộc đi vòng quanh thế giới đầu tiên do Antonio Pigafetta, De Moluccis Insulis, và Maximilianus Transylvanus thực hiện, với lời giới thiệu của Carlos Quirino, (Manila, Filipiniana Book Guild, 1969). Antonio Pigafetta ghi là khi đi qua Thái Bình Dương, Magellan chắc chắn đã biết tọa độ Kattigara do Ptolemy xác định, nhưng “đã tìm kiếm Mũi Kattigara” ở vùng xung quanh vị trí 120 Bắc của đường xích đạo. (Peillard L. 1984 : 128). Chuyến thám hiểm thất bại của Magellan trong cuộc tìm kiếm bán đảo Kattigara, tức là Thượng Ấn tại khu vực lân cận Moluccas, đã khiến cho Schoener đi đến kết luận rằng Châu Mỹ chính là bán đảo đó, còn bản thân Magellan thì bị thổ dân Philippines giết chết. Trong Opusculum Gegraphicum, Schoener viết phụ thêm vào tấm bàn đồ đó như sau: Sau Ptolemy, nhiều vùng đất vượt qua vị trí 1800 về phía đông đã được Marco Polo và những người khác phát hiện, giờ đây Collombus và Amerigo Vespucci đã cập đến các bờ biển đó sau khi bơi từ Tây Ban Nha đến Đại Tây Dương, và đã đến thăm các khu vực đó khi nghĩ rằng phần thế giới đó là một hòn đảo gọi là America, phần thứ tư của địa cầu. Nhưng từ các chuyến thám hiểm gần đây nhất của Magellan trong năm 1519…họ đã nhận thấy rằng vùng đất đó trong thực tế là đại lục Thượng Ấn, một phần của Châu Á. (Schoener, J. 1961).
Trong bản đồ của ông năm 1533, Châu Mỹ vẫn được khẳng định là một vùng mở rộng của Đông Dương với ghi chú: Châu Mỹ, một phần của Thượng Ấn và của lục địa Châu Á. Kattigara vẫn là nơi mà Ptolemy đã xác định, tại tọa độ 8 1/20, tính từ đường xích đạo, ở bờ đông của Oceanus Orientalis, Biển Đông, mà giờ đây được xác định là bờ tây Châu Mỹ, thuộc Nam Mỹ. Cũng giống như năm 1515, trên tấm bản đồ này Brazil lại được tái khẳng định là lục địa Nam Cực, một phần của Terra Australis, mới được phát hiện nhưng chưa được biết một cách đầy đủ. Môn địa cầu học của nhà toán học và bản đồ học người Pháp, Oronce Fine được khởi nguồn từ Schoener. (Harrisse, Henry 1961). Trên tấm bản đồ thế giới của Fine năm 1531, công bố năm 1532 trong Novus Orbis Regionum ac Insularum, Brasielie Rego được thể hiện nằm ở phía đông Châu Phi và ở phía nam Java. Kattigara vẫn giữ nguyên vị trí như trên bản đồ của Fine tại bờ tây của Nam Mỹ như trên bản đồ của Schoener các năm 1523 và 1533, giống với các tấm bản đồ thế giới các năm 1540. Hệt như Schoener và Fine cho rằng Canada, Mexico và Peru tạo thành một lục địa nối liền với Châu Á, vì vậy mà Jean Alfonse, cũng là một nhà bản đồ học lại cho rằng vùng đất Kattigara cũng chính là Cathay và gồm toàn bộ các vùng Cực viễn Hằng Hà trải về phía đông, có cả Canada và thuộc châu Á. Tây Ban Nha mới (Mexico) và Peru cũng gắn liền với nó, vì vậy đối với Alfonse, Kattigara ôm chọn các vùng đất này. (Alphonse, Jean 1904 : 398, 401-2). Phù hợp với địa cầu học của Schoener, Fine, và Alphonse, nhóm Harleian đã đặt Kattigara ở bờ tây của Nam Mỹ và tách Mexico thành hai phần, một phần ở Bắc Mỹ và một phần ở Đông Á, là hàng xóm của Cathay và Mangi. (Coote C.H. 1898).
Các bản đồ thế giới được sản xuất từ những năm 1530 đến những năm 1560 tại Dieppe khi nước Pháp do các nhà thương mại và hàng hải Norman dẫn đầu mong muốn sớm có quan hệ thương mại với các vùng thế giới mới. Vì vậy các nhà bản đồ học phải nhanh chóng nhập cuộc. Họ dựa vào công trình của người đồng hương Oronce Fine, vốn chịu ảnh hưởng lớn của Schoener và Martin Waldseemueller. Đến lượt mình, hai người này cố gắng cập nhật hóa nguồn thông tin địa lý mới do các nhà thám hiểm Christopher Columbus, Amerigo Vespucci, Pedro Alvares Cabral, Ferdinand Magellan và những người đương thời của họ vào khung địa cầu học kế thừa từ Claudius Ptolemy và Marco Polo, như đã được thể hiện thành khái niệm trong công trình của Martin Behaim năm 1492. Schoener và Fine bán sát vào tuyên bố của Columbus là ông đã đến Champa năm 1502 bằng cách bơi từ Tây Ban Nha về phía tây. Nam Mỹ được Waldseemueller xác định là Châu Mỹ năm 1507, và cũng được Schoener và Fine cho là Brazil, hoặc là một phần của Nam Cực, Terra Australis, cũng còn có nghĩa là một miền đất kéo dài thành Thượng Ấn – Bán đảo Kattigara – Đông Dương theo Behaim. Các bản đồ thế giới của Dieppe thể hiện giai đoạn tột cùng của địa cầu luận này với những lẫn lộn nghiêm trọng giữa Nam Cực với Brazil, Nam Mỹ lẫn với bán đảo Kattigara - Đông Dương. Điều đó khiến cho việc tìm kiếm Kattigara trong các thế kỷ XVI, XVII càng trở nên mờ mịt, và lắng dần xuống vào thế kỷ XVIII.
Giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XIX và 40 năm đầu thế kỷ XX, cùng với các hoạt động quân sự và khai thác thuộc địa tại Đông Á, người Anh, người Pháp, người Đức, người Hà Lan cùng một số cá nhân và tổ chức học thuật phương Tây khác cũng đã xúc tiến nhiều nghiên cứu lịch sử - văn hóa vùng đất này. Trong bối cảnh đó, vấn đề Kattigara và việc tìm kiếm địa danh Kattigara lại bắt đầu trở nên sôi động, nhưng quan điểm học thuật chi phối việc tìm kiếm của các nhà nghiên cứu phương Tây chủ yếu vẫn gắn liền với hai nền văn hóa lớn kẹp lấy Đông Dương, đó là Trung Quốc và Ấn Độ. Trước hết, khi đề cập đến vấn đề Kattigara họ liền gắn nó với cái gọi là con đường tơ lụa và những người sản xuất ra tơ lụa. Xuất phát điểm ấy đương nhiên đã xác định đường hướng tìm kiếm Kattigara gắn liền với đất nước Trung Quốc và/hoặc các vấn đề liên quan đến lịch sử - văn hóa Trung Quốc, trong trường hợp địa điểm đó có thể nằm ở Bắc Bộ Việt Nam. Nếu như địa điểm đó ở Nam Việt Nam thì đương nhiên người ta phải tìm các xuất phát điểm gắn liền với lịch sử văn hóa của cái gọi là các quốc gia Ấn Độ hóa, mà cụ thể là Phù Nam và Champa. Hai loại định kiến thực dân về phương diện lịch sử văn hóa một cách tự nhiên và vô thức ấy đã giành hết cơ hội cho một khả năng thứ ba, đó là tìm kiếm một Kattigara thuần túy bản địa, hay nói cách khác là thuần túy Việt, dù rằng khả năng này là hoàn toàn có thể.
Về phương án Kattigara nằm ở khu vực Bắc Bộ Việt Nam hoặc Nam Trung Quốc thì có thể coi tổng kết của McCrindle là một đại diện. Theo ông “trên tấm bản đồ thế giới năm 1489 của Henricus Martellus dựa trên công trình Địa lý của Ptolemy thì điểm tận cùng của Châu Á ở Đông Nam Á chính là Mũi Kattigara. Ptolemy hiểu Kattigara là cảng cực đông của các chuyến hải hành từ thế giới Hy La đến các vùng đất Viễn Đông, đó được coi là Mũi Kattigara, được gọi theo tên gọi của đô thị Kattigara mà Ptolemy cho là nằm bên Vịnh Lớn Sinus Magnus, “thực ra là Vịnh Thái Lan tại tọa độ 8.1/2 độ bắc của đường Xích đạo, choãi dài về phía Trung Quốc ở bên kia Vịnh” (McCrindle J.W. 1885 - 1974). Đối với người phương Tây thời gian đó, nói tới Đông Dương thì điều đó dường như đồng nghĩa với hai khả năng: Trung Hoa hoặc Ấn Độ. Với trường hợp đầu thì nhiều nhà Đông phương học người Châu Âu cho rằng Kattigara nằm ở Bắc Bộ, có thể là vùng cửa sông Cái (sông Hồng), hoặc xung quanh Hà Nội, thậm chí chính là Hà Nội. (Institute on the Far East Works 1915; Rawlinson, H. G. 1916). Một quan điểm khác, công nhận Kattigara nằm trên đất Việt Nam, nhưng không phải là ở vùng Đồng bằng Sông Hồng, mà là ở Đồng bằng Sông Cửu Long, cụ thể là ở Sài Gòn (Herrmann, Albert 1938: 123-8) hoặc Óc Eo. (Malleret L. 1951, 1962; Chakravarti Adhir K. 1972).
Điển hình cho trường hợp đầu là các nhà nghiên cứu tập trung xung quanh một tổ chức được gọi là Hakluyt Society, được thành lập năm 1846 tại London, Vương quốc Anh. Mục đích của Hội là tìm cách thúc đẩy tri thức và giáo dục thông qua việc công bố các hồ sơ, ghi chép, tác phẩm về các chuyến thám hiểm, các cuộc lữ hành xuyên lục địa và các tài liệu địa lý khác. Hội lấy tên họ của Rechard Hakluyt (1552-1616), một nhà sưu tập và chủ bút của các xuất bản phẩm về các chuyến hải hành, các cuộc thám hiểm, các chuyến phiêu lưu và các tư liệu khác liên quan đến lợi ích của người Anh tại hải ngoại dưới hình thức các xuất bản phẩm học thuật. Bên cạnh đó Hội còn tổ chức các cuộc gặp gỡ, hội thảo, hội nghị khoa học nhằm thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau giữa các nhà nghiên cứu và công chúng. Vì mục đích phi lợi nhuận đó Hội đã công bố được nhiều bản dịch từ tiếng Hy Lạp, Latin, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp, Hà Lan, v.v…ra tiếng Anh. Bên cạnh đó, Hội Hakluyt cũng có những cộng tác viên đắc lực, đó là tổ chức Những người bạn Mỹ của Hội Hakluyt được thành lập năm 1996 tại Thư viện John Carter Brown Library tại Đại học Brown Hoa Kỳ. Đây cũng là một tổ chức phi lợi nhuận có mục đích tương tự như Hội Hakluyt London, nhưng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực lịch sử Châu Mỹ. (Foster, William 1946; Bridges R. C. & P. E. H. Hair (eds) 1996).
Đại diện cho quan điểm Kattigara nằm ở Bắc Bộ là của Nam tước Fernand von Richthofen, cha đẻ của cụm từ “con đường tơ lụa”. Quan điểm này hầu như đã được tất cả các thành viên Hội Hakluyt nhất trí, và được cho là rất thuyết phục, vì mấy lý lẽ lỏng lẻo và không khỏi lầm lẫn sau: i) trong nhiều thế kỷ kể từ trước Công nguyên đến năm 263 Giao Chỉ thực sự là quận huyện của Trung Quốc; ii) Giao Chỉ là cảng duy nhất trong giai đoạn đó được đề cập đến trong biên niên sử Trung Quốc là có quan hệ ngoại thương, và đó cũng chính là Đông Kinh, Kẻ Chợ, hoặc Hà Nội sau này. Trong khi không có bất cứ báo cáo nào đề cập đến việc người nước ngoài đến Trung Quốc thì riêng Giao Chỉ lại có chuyến thăm của sứ bộ nổi tiếng của vua Đại Tần (La Mã) An Đôn, tức là Marcius Aurelius Antonius (161-180) đến Giao Chỉ vào năm 166; iii) tên gọi vùng đất Jinan (Nhật Nam) có thể chính là từ Sinae đã theo chân các đoàn lữ hành để đến được với các thư viện phương Tây. Richthofen cũng nhấn mạnh: Tác giả Biên niên sử Trung Quốc về chuyến viếng thăm của sứ bộ Đại Tần còn viết thêm: “Người của nước đó thường xuyên đến Phù Nam, Nhật Nam, và Giao Chỉ buôn bán”. Chúng ta đều biết Phù Nam là Champa hoặc Zabai. Riêng ở Nhật Nam, với bến cảng chính Giao Chỉ, chúng ta có thể đảm bảo rằng đó chính là “Kattigara, cảng thị Sinarum” (Yule H. 1882: 658-9).
Còn đại diện cho quan điểm Kattigara thuộc vùng Nam Bộ, sớm nhất phải kể đến ý kiến cho rằng Kattigara là cảng thị Banteaymeas, (nay là Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) không xa Óc Eo. (Caverhill, John 1767). Đến đầu thế kỷ XX, nhiều cuộc nghiên cứu Kattigara lại được tiếp tục khởi động, trong đó có quan điểm cho Kattigara là Sài Gòn xưa (Herrmann 1938); còn lại hầu hết thiên về di chỉ khảo cổ học Óc Eo (Malleret 1951, 1962; Chakravarti 1972). Đối với trường hợp Óc Eo, bên cạnh tài liệu khảo cổ học, các nhà nghiên cứu còn sử dụng tài liệu cổ ngôn ngữ để diễn giải lập luận của mình. Điển hình cho cách tiếp cận này là nghiên cứu của giáo sư người Ấn Độ Chakravarti. Ông cho rằng địa danh Kattigara có thể là các từ Sanskrit Kirti-nagara कीर्ति-नगर “Thành phố Lừng danh”, hoặc Kotti-nagara कोटि-नगर “Thành phố Cường thịnh” (Chakravarti Adhir K. 1998). Tuy nhiên chúng tôi cho rằng việc suy diễn bằng cách biến đổi hẳn các từ mà không chứng minh được quy luật hoặc tính phổ biến của sự biến đổi như vậy có vẻ là một trò chơi ngôn ngữ có họ hàng rất gần gũi với một con dao hai lưỡi*. Cuối cùng cũng cần phải nhắc đến nghiên cứu mới toanh của Ferra, bằng cách bác bỏ hoàn toàn Ptolemy và sử dụng phương pháp xác định tọa độ của Marinus để chứng minh Kattigara là cảng cửa sông Châu Giang, thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Chỉ có điều duy nhất làm người đọc băn khoăn là tác giả này hoàn toàn tin tưởng vào phép tính toán xác định tọa độ Hy La cổ đại của Marinus với thông tin về khoảng cách và hàng loạt địa danh liên quan không được xác minh chắc chắn, nhưng lại lờ tịt một cứ liệu không dễ bác bỏ là cái tên Kattigara mà không hề nói lý do, (Ferra M.J. 2010), chẳng khác nào một hai tiền bối của ông trong Hội Hakluyt đã làm khi cho rằng Kattigara là Hợp Phố, cũng thuộc Quảng Đông, Trung Quốc. (Yule, H. 1882).
Tuy nhiên chúng ta có thể hiểu được tại sao Ferra lại không đã động gì đến việc khai thác ngôn ngữ học lịch sử đối với địa danh Kattigara trong loạt bài viết của mình, bởi vì việc sử dụng cách tiếp cận ngôn ngữ đối với trường hợp Kattigara không phải dễ. Hơn nữa, nếu sử dụng phương pháp địa danh học thì khó mà tìm được Kattigara ở Quảng Châu, vì những từ này chẳng chút liên quan nào đến tiếng Hán cả. Trong thực tế, cho đến bây giờ không ai dám chắc Kattigara là loại ngôn ngữ nào, vì vậy cách xử lý tình huống có vẻ là một biện pháp dễ chấp nhận nhất đối với từng trường hợp cụ thể, trong đó việc lý giải bằng tiếng Sanskrit của giáo sư Chakravarti là một điển hình, cho dù nó có rất ít sức thuyết phục, bởi vì ông không đưa ra được bất cứ một sợi dây liên kết dù mong manh nào của mấy từ đó với bất kỳ mảnh ngôn ngữ nào còn sót lại ở Óc Eo liên quan đến các từ trên. Ấy là chưa kể việc người dân bản địa chắc gì đã sử dụng mấy từ ngoại lai ấy để gọi mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình.
Có lẽ so với Chakravarti, Ferra và rất nhiều người khác nữa, cách tiếp cận của Bình Nguyên Lộc tỉnh táo và đúng đắn hơn nhiều, khi ông đi tìm Kattigara tại vùng Vịnh Hạ Long của Việt Nam bằng cách dựa vào sự phân tích chính cái địa danh ấy bằng tiếng Việt. Vốn là người khẳng định nguồn gốc Mã Lai của người Việt, theo công thức Việt = Mã Lai, ông cho rằng: “Bắc Việt chỉ mới mất những danh từ thuần Việt là Bông, Trái, Muỗng, Ghe vào đầu đời Thanh vì lưu vong nhà Minh tràn ngập vùng đó. Thế nên không ai biết Hòn Gay là cái gì. Có lẽ đó là cái đảo mà ngày xưa là Bến Ghe thương hồ, và nó ăn khớp phần nào với Kattigara của Ptolémée, chớ Kattigara không thể là Oc Eo như ông Melleret đã viết. Kathi có thể nào là Kẻ Thị chăng? Vâng, Kẻ ThịKẻ Chợ cũng thế thôi. Và Kathi GaraKẻ Thị Gay, tức thành phố ghe thuyền, tức thương cảng. Cũng nên biết rằng Ptolémée đến nơi đó** vào cuối thế kỷ thứ II SCN, thế nghĩa là ta bị Mã Viện chinh phục gần hai trăm năm rồi, và sự vay mượn danh từ Thị đã xảy ra rồi. Hoặc Katti hay Kathi Cái Xị của Quảng Đông không chừng, vì dân cổ Tây Âu đã tràn sang đó để buôn bán vì bị trị trước và vì thạo thương mãi hơn ta. Dầu sao, không vì thế mà Kattigara lại nằm trong tỉnh Quảng Đông như có nhiều ông Tây đã nói, vì Gara không ăn vào với địa danh nào cả trừ với GayHòn Gay mà thôi. Kattigara cũng không thể là Óc Eo như ông Melleret đã viết vì ông R.A. Stein đối chiếu sự miêu tả cảnh vật của Ptolémée thì thấy nó không ăn khớp với vùng Óc Eo tí nào cả”. (Bình Nguyên Lộc 1971 - 2007).
Tuy nhiên cũng tương tự với rất nhiều trường hợp khác, chúng ta có thể dễ dàng chỉ ra những mặt mạnh gắn liền với những bấp bênh trong lập luận của Bình Nguyên Lộc khi ông đọc Kattigara là Kẻ Thị Gay. Trước hết trong cụm từ này đọc KaKẻ thì có thể chấp nhận về phương diện nghĩa, mặt dù trong thực tế thì KaKẻ là hai từ Việt cổ về hình thức không khác nhau là mấy cho nên mới qua mặt cả những trí thức Việt uyên thâm như cụ Đào Duy Anh (1997: 31-34), nhưng lại có nội hàm rất khác nhau. Việc đọc TiThị và lý giải vì “ta bị Mã Viện chinh phục gần hai trăm năm rồi” nên “sự vay mượn danh từ Thị đã xảy ra rồi” nghe thì rất thông minh và có lý, nhưng cái lý thông minh đó có gì hơi bất ổn, vì trong thực tế dường như chưa thấy có trường hợp nào người Việt quên mình là người Việt để đến nỗi phải cấy ghép một từ của kẻ ngoại vào giữa hai từ đặc sản Việt để gọi tên một địa danh đặc Việt như Hòn Gay (Gai) cả. Không những thế, nếu ai đã từng đến Hòn Gay, đã sống với kẻ Chã Hòn Gay, đã yêu kẻ Chã Hòn Gay thì mới thấy người Việt tự trọng đến mức nào. Kẻ Chã thà mù chữ chứ không bao giờ quên mình là Việt để đến nỗi chưa đầy 200 năm đã biến mình thành kẻ ngoại. Và không phải chỉ chưa đầy 200 năm, mà trong thực tế đã hơn 2000 năm qua kẻ Chã Hòn Gay nhất định không chịu bán mình mà vẫn nguyên vẹn là kẻ Chã Hòn Gay của nước Việt từ mấy nghìn năm trước. “Kẻ Thị Gay”, đúng là gay ngay cả với một kẻ tinh đời, một bộ óc trác việt và yêu nước Việt đến độ như Bình Nguyên Lộc khi không đọc ra một từ Việt nào khác nên đã phải ngậm đắng để cho từ 市 Thị chen vào giữa hai từ đặc Việt: Kẻ - Gay, cho dù một lần nữa ông buộc phải đem cái tài trí siêu quần của mình ra để biện bác: “Hoặc Katti hay Kathi Cái Xị của Quảng Đông không chừng, vì dân cổ Tây Âu đã tràn sang đó để buôn bán vì bị trị trước và vì thạo thương mãi hơn ta”. Thật đau cho Bình Nguyên Lộc, và cũng thật mừng vì gần nửa thế kỷ trước nước Việt lại có một Bình Nguyên Lộc uyên áo và thâm trầm đến mức nhận ra Việt = Mã Lai, cho dù đúng ra thì phải đảo lại là Mã Lai = Việt, vì đơn giản đối với tôi chí ít thì Việt cũng chắc chắn là tổ của một vài bộ phận Mã Lai-Đa đảo quan trọng, mà vùng đất tổ của họ chính vùng văn hóa biển Soi Nhụ, Cái Bèo, Hạ Long nơi có “Kẻ Thị Gay” của Bình Nguyên Lộc.
IV. Kattigara - Những bối cảnh hy hữu
Lịch sử thật công bằng vì đã đem đến cho Lạc Việt nhỏ bé một cơ hội hiếm hoi để xây đắp nên một nền văn minh Đông Sơn rực rỡ đến nhường ấy, và đã tỏa dạng ảnh hưởng của mình đến nhường ấy. Cái cơ hội ngàn năm có một theo nghĩa đen của cụm từ ấy đã đến vào khoảng thế kỷ V – III TCN khi lục địa Ấn Độ với nền văn minh kỳ vĩ của nó ở phía Tây bị nền văn minh Hy Lạp do Μέγας Αλέξανδρος - Alexandros Macedonia thử thách bằng chiến tranh; khi nền văn minh Hoa Hạ lừng lẫy của nhà Chu ở phía Bắc chìm đắm trong cuộc chiến tương tàn giành giật mảnh đất Trung Nguyên màu mỡ được tạo bởi hai đại giang Hoàng Hà và Dương Tử. Trong thời khắc hy hữu ấy, Lạc Việt đã trở thành trung tâm văn minh của Đông Nam Á lục địa, bên cạnh hai nền văn minh láng giềng Ấn – Hằng và Hoàng Hà – Dương Tử. Và may mắn là trước cơn sóng trào nguy cơ Hán hóa mạnh như vũ bão xuống phương nam thì Lạc Việt có được ba vùng đệm văn hóa làm phên dậu: Điền Việt ở phía Tây Bắc, Dạ Lang thiên chính Bắc, và Nam Việt ở Đông Bắc. Nhờ đó Lạc Việt vừa tỏa dạng được ánh sáng văn hóa của mình, lại vừa có thời gian chuẩn bị để đối phó với nạn đồng hóa của ngoại xâm phương Bắc. Đây không chỉ là giai đoạn lịch sử quyết định để tự biết sức mạnh của mình, mà còn là giai đoạn mà thế giới cũng bắt đầu biết đến mặt trời Đông Sơn của nền văn minh Lạc Việt, mà Kattigara là trung tâm của nguồn sáng đó.
Thời kỳ văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ chính là một trong những kích thích tố cho sự lớn mạnh của Điền quốc (khoảng 278 – 115 TCN) mà chủ nhân có thể là những người thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến. Sự kiện đó càng làm tăng cường các tương tác văn hóa giữa Lạc Việt và Điền Việt: Lạc Việt là cánh cửa mở ra biển Đông cho Điền quốc, đến lượt mình Điền quốc lại trở thành cách cửa mở về các xã hội Tạng Miến phía Tây Bắc của Lạc Việt. Giao lưu mạnh mẽ nhất là giữa Đông Sơn và Điền được thúc đẩy nhờ sông Hồng, sông Đà, sông Chảy và theo các chi lưu của các con sông này, mà chủ đạo là sông Hồng. Dấu tích của sự giao lưu nổi nét vẫn là trống Đông Sơn được chôn theo như một dạng quan tài hay đồ đựng tại đây. Bên cạnh đó còn có những chiếc vỏ sò - một loại tiền tệ được gọi là “bối tiền” sản phẩm của biển Đông nước ta cũng được chôn trong mộ của khu Thạch Trại Sơn. Một số trống Đông Sơn còn tìm được trong mộ táng ở những khu vực khác của tỉnh Quảng Tây như trống Điền Đông, trống La Bạc Loan, trống Phổ Đà… đều có thể được đem đến từ miền bắc Việt Nam theo những con đường trên bộ hoặc đường sông suối. (Trịnh Sinh 1997: 55-65).
Chứng cớ xa nhất về phía bắc là chiếc trống đồng “đặc sản” của Đông Sơn đã có mặt ở Triết Giang, Trung Quốc. Ngôi mộ có trống minh khí là ngôi mộ số 10, được xác định vào thời Tây Hán, tức trùng vào thời Đông Sơn muộn. (Trịnh Sinh 1997). Nhiều khả năng Điền quốc trở thành nơi cung cấp nguyên liệu đồng và trao đổi nhiều công nghệ đồng với Lạc Việt, đặc biệt là những công nghệ được người vùng Lưỡng Hà và Ấn Độ sáng tạo từ rất sớm. Bên cạnh đó Lạc Việt còn nhận được các sản phẩm và công nghệ chăn nuôi, chẳng hạn bò, dê, ngựa. Trong khi đó Lạc Việt cung cấp cho Điền các sản phẩm nông nghiệp như lúa gạo, các loại nông sản, và đặc biệt là các sản phẩm biển như đồi mồi, ngọc trai, cá, muối, tơ tằm, và nhất là nguồn ốc tiền cowries của vùng biển Hạ Long v.v...Riêng nguồn hàng hóa đặc biệt này cũng có thể làm cho Lạc Việt có một vị thế không gì sánh nổi đối với Điền quốc, vì đơn giản loại ốc đó là vật trao đổi ngang giá, là tiền đối với một quốc gia nằm ở ngã ba đường giữa một bên là Ấn Độ ở phương Tây, một bên Trung Quốc ở phương Đông và cao nguyên Thanh Tạng ở phương Bắc. Tại Thạch Trại Sơn, nơi chôn cất các nhân vật hoàng tộc Điền, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một chiếc bình đồng thiếc trang trí 2 con hổ và 7 con bò, chứa vỏ sò, ốc được sử dụng làm tiền tệ, do người Điền chế tạo trong thời kỳ Tây Hán (202 TCN – 9). Những bằng chứng đó cho thấy cửa ra biển qua Lạc Việt đối với Điền quốc là có tính chất sống còn.
Ở phía bắc của Lạc Việt, từ thời Chiến quốc, thế kỷ VII TCN đã xuất hiện một nhà nước tự trị có tên gọi là Dạ Lang được cho là tổ tiên của người Di/Lô Lô. Trung tâm của nước này là xã Khả Lạc, huyện Hách Chương, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc ngày nay. Sử ký của Tư Mã Thiên mục Tây Nam Di chí gọi nước này là 牂牁 Tường Kha và đã mô tả cuộc tấn công của 庄跤 Trang Kiệu, một tướng nước Sở vào Dạ Lang vào cuối thế kỷ IV hoặc đầu thế kỷ III TCN. Cuối thế kỷ I TCN, Dạ Lang gây chiến tranh với các quốc gia láng giềng để mở rộng lãnh thổ và quyền lực. Theo Sử ký thì Dạ Lang đã từng phát triển rất hùng mạnh, có tới 100 nghìn quân tinh nhuệ, tàu bè của người Dạ Lang đi lại trên mặt sông, quang cảnh hết sức tấp nập. Năm 136 TCN Hán Vũ đế cử Đường Mông làm Lang trung tướng dẫn 1000 binh sĩ và mấy vạn dân đem theo lương thực và công cụ sản xuất xuất phát từ Ba quận vượt qua Phù Quan (Hợp Giang, Tứ Xuyên) đến Dạ Lang. Đường Mông tuyên truyền với Chúa Dạ Lang Đa Đồng về sức mạnh của Hán triều, ban tặng của cải để Đa Đồng cho Đường Mông đặt cơ quan quản lý ở đó và cử con trai Chúa Dạ Lang làm Lệnh ở đó. Năm 130 TCN Hán Vũ đế đặt Dạ Lang thành quận huyện và mở đường từ Ba Thục thông đến sông Tường Kha. Sau khi tiêu diệt Nam Việt, nhà Hán tấn công Thả Lan, tây nam huyện Hoàng Bình, Quý Châu ngày nay, giết chết mấy vạn người, đặt thành quận Tường Kha. Chúa Dạ Lang thấy Nam Việt của nhà Triệu bị tiêu diệt liền quy thuận nhà Hán và được Vũ đế phong làm Dạ Lang vương vào năm 111 TCN. (Wade, Geoff 2009).
Về phía đông bắc Lạc Việt, văn hóa Đông Sơn cũng đã phát huy ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là khu vực Lưỡng Quảng, vốn là vùng đất của tổ tiên người Tày – Thái cổ. Đây chính là vùng đệm quan trọng, giống như một dạng phên dậu phía đông bắc cho quốc gia Lạc Việt trong công cuộc ngăn cản sự đồng hóa của phương Bắc, bắt đầu từ thời Tần (221 – 206 TCN) và sau đó là nhà Tây Hán (202 TCN – 9 SCN). Nếu như Điền quốc do một người nước Sở đến tiếm quyền cát cứ khi các thế lực phương Bắc của người Hoa tranh chấp Trung Nguyên thì hệt như vậy, Quốc gia Nam Việt của Triệu Đà cũng ra đời trong bối cảnh nhà Tần và sau đó là nhà Tây Hán không đủ sức với tay trực tiếp thống trị vùng đất Bách Việt phía nam sông Dương Tử. Dù Triệu Đà có mưu lược đến mấy thì cũng phải tự mình hòa đồng với người Việt để cát cứ và buộc phải chống lại những người chủ cũ Tần Hán của mình ở Trung Nguyên. Để tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, và có thể yên ổn cai trị Nam Việt quốc chủ yếu thuộc hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay, Triệu Đà đã thi hành những chính sách hòa hoãn và mềm dẻo với người Việt, đặc biệt là với người Lạc Việt. Trên thực tế, Đà không đủ sức đánh bại được người Lạc Việt ở vùng Bắc Bộ Việt Nam ngày nay, nên mới buộc phải cho con trai là Trọng Thủy gửi rể ở cung đình của An Dương Vương tại Cổ Loa, và đến lúc lừa chiếm được Âu Lạc thì cũng chỉ để lại hai quan sứ cai quản Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi. (Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991).
Đây cũng chính là thời kỳ văn hóa Đông Sơn đã có những ảnh hưởng sâu đậm đến các dân tộc trong vùng Đông Nam Á như Lào, Thái Lan, Malaysia, và Indonesia, mà đại diện là chiếc trống đồng Đông Sơn nổi tiếng. Một số trống đồng Đông Sơn tìm thấy ở sâu trong địa phận Lào như trống Đon Đét, trống Phôn Xa Vẳn, trống Huổi Hủa Xang I và II, trống Viêng Xay ở vùng mường Viêng Xay của tỉnh Sầm Nưa (Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987). Tại Thái Lan đã phát hiện được 22 chiếc trống đồng Đông Sơn (Trịnh Sinh 1988: 93-102). Đó là những trống đồng tìm được trong hang Ongbah giống với trống đồng Quảng Xương, Hữu Chung (P. Sorensen 1979), trống đồng tìm thấy ở hang Thung Yang (R.B. Smith 1979). Trong địa phận Việt Nam về phía nam, dấu tích văn hóa Đông Sơn được phát hiện tại Sa Huỳnh, di tích Gò Quê, xã Bình Đông, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; một loạt trống đồng tìm thấy ở ven biển như ở Nha Trang, Vũng Tầu. Trống đồng còn thấy ở Cao Nguyên Đắc Lắc, ở vùng núi Bình Định, Bình Dương. Vượt ra ngoài Việt Nam về phía nam các nhà khảo cổ cũng tìm thấy trống Đông Sơn ở Ko Samui, tỉnh Surathani, miền nam Thái Lan, chỉ cách bờ biển có 300 m. Vùng bờ biển của Malaysia cũng phát hiện được trống Đông Sơn, điển hình là hai chiếc trống Kuala Torengganu I và II ở bờ phía đông của bán đảo nước này. Vùng Kampon Sungai Lang cũng tìm được 2 trống Đông Sơn cùng được chôn ngửa trong một vò gốm và trống được trang trí hoa văn hiện thực khá đẹp như chim bay, hình người hoá trang lông chim, tượng cóc. Đặc biệt ở vùng quần đảo Indonesia phát hiện khá nhiều trống đồng Đông Sơn trên các đảo, điển hình như trống Xiandua, đảo Java. Đảo này còn có nhóm trống Somarang, trống Dieng. Trên đảo Sumbava có nhóm trống Sanghi gồm 6 chiếc là trống Đông Sơn trang trí đẹp. Trên các đảo Roti, Salayar và nhiều đảo nhỏ khác cũng tìm thấy khá nhiều trống Đông Sơn. Quần đảo Kai, gần Irian Jaya, có lẽ là vùng tìm thấy trống đồng Đông Sơn xa nhất về phía đông mang dấu tích giao lưu văn hoá. Trống đồng Đông Sơn có mặt ở quần đảo này muộn hơn, có thể được nhập từ Bắc Việt Nam vào khoảng 200 năm trước Công Nguyên, (Trịnh Sinh 1997).
Hầu hết các nhà nghiên cứu Đông Nam Á đều cho rằng quá trình Ấn Độ hóa về phương diện văn hóa vùng này được định niên đại từ thế kỷ II SCN, nhưng thật ra thì tri thức của người Ấn Độ về vùng này lại cổ xưa hơn rất nhiều. Và đúng là tri thức Hy Lạp thời Ptolemy về khoảng cách giữa các vùng tại Đông Nam Á chỉ là sản phẩm phụ của thương mại. Sarkar cho rằng sự truyền bá của Đạo Phật một cách rộng rãi trong thời Asoka (270-230 TCN) đã làm biến đổi hẳn tri thức về Đông Nam Á từ một vài vùng đất mới chỉ được biết một cách mơ hồ đối với vùng phía nam Mianmar vốn được gọi là Suvarnabhûmi-Vùng đất vàng, cho đến Suvarnadvîpa – Vùng Đảo vàng với tư cách là một cánh cửa mở vào Trung Quốc. (Sarkar H.B. 1981). Trong khi đó quá trình giao lưu văn hóa giữa Đông Nam Á và Ấn Độ thể hiện thông qua con người, các loại gia vị và các loại cây trồng đã được khảo cổ học phát hiện từ giai đoạn 1000 đến 400 năm TCN. (Laffan, Michael 2005). Ở Bắc Việt Nam, dấu ấn của Asoka đã được sách Giao Châu ký của Lưu Hân Kỳ ghi lại như sau: Con sông Trường Giang (sông Hồng) chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê nghe nói do A Dục Vương xây; thành này ở phía đông nam huyện An Định, tháp và giảng đường xưa vẫn đó. (Lịch Đạo Nguyên (chú) 2005: 433). Còn phương tiện để liên lạc với thế giới bên ngoài thì đã có thuyền đồng, như sách Lâm Ấp ký làm chứng: từ Giao Chỉ đi về phía nam, có sông ngách Đô Quan Tái Phố chảy ra…phía bắc kèm theo sông Trường Giang (sông Hồng) trong sông có chiếc chiếc thuyền đồng do Việt Vương đúc, lúc nước triều xuống người ta có thấy chiếc thuyền ấy (Lịch Đạo Nguyên (chú) 2005: 433). Vì vậy việc thế giới Ấn Độ và Lạc Việt đã có quan hệ tối thiểu là từ thời अशोक Asoka trị vì (299 – 232 TCN) là điều hoàn toàn có thể, và chỉ cần thông qua người Ấn và người Ả Rập thì người Hy Lạp – La Mã cũng có thể thu thập được tư liệu về phương đông, về Lạc Việt cho thư viện Alexandria, và có thể dễ dàng biết đến một đô thị Kattigara huyền thoại của người Lạc Việt.
Marcianus Heracleota, một nhà địa lý Tiểu Hy Lạp, sống sau Ptolemy khoảng hai trăm năm (thế kỷ IV SCN), được coi là người có thẩm quyền tri thức để diễn giải Ptolemy cũng mô tả con đường từ bán đảo Vàng đến Kattigara như sau: bơi về phía nam, rẽ trái hướng đến đất Sinae về phía đông, đến một vịnh lớn có nhiều thú hoang, bơi theo vịnh lớn gọi là vịnh Sinea, nơi con sông Cotiaris chảy vào vịnh, ngược theo sông đó thì đến Kattigara. (Caverhill, John 1767). Dù người ta vẫn nhầm lẫn vịnh này là Vịnh Thái Lan, nhưng tên con sông thì lại gọi là sông Giao Chỉ (Cotiaris). Có một điều rất lạ là đến thời Marcianus đã có các thương đoàn và sứ bộ đi về giữa Alexandria và Trung Quốc, đã ghé qua Giao Chỉ, con đường tơ lụa trên biển đã hình thành, nhưng diễn giải của ông và rất nhiều người khác vẫn không cho biết chắc chắn Kattigara ở chỗ nào, và càng về sau thì người Châu Âu lại càng bối rối trong việc xác định địa danh này như chúng ta đã thấy.
Trong số khá nhiều nhà địa lý học tìm kiếm vị trí của Kattigara mà chúng ta có thể tiếp cận được cho đến hiện nay thì có lẽ mô tả của nhà địa lý kiêm bản đồ học lớn người Pháp Bourguignon d'Anville (1697-1782), là một diễn giải kỹ lưỡng hơn cả. Chọn cái tên Sinae trong Địa lý của Ptolemy làm xuất phát điểm ông cho rằng cái tên đó là để thể hiện Cochin-China, đối với những người Châu Âu thì cái tên ấy chính là Giao Chỉ, có nghĩa là Bắc Kỳ của Việt Nam. Theo ông những người Ả Rập đã gọi Giao Chỉ là Sines, nhờ đó mà Ptolemy biết được đó là dân Sines. Kinh đô của dân Sines được Marinus và Ptolemy gọi là Thyna và đó là từ Latin của Sinae. Kinh đô ấy nằm cách cửa biển của con sông Cotiaris - Giao Chỉ một khoảng xa và về phía trái của con sông này có một con sông khác có tên gọi là Senus, và con sông này chính là sông lớn Camboia, cách cửa biển 80 leages (344km, 1 league = 4.3km). Ở đó có hai nhánh sông khác, còn sông chính nằm về phía bên phải là sông Cotiaris, dẫn đến một đô thị mà nhà địa lý học Ả Rập kia nói là rất nổi tiếng về buôn bán, đó là Loukin, và đó chắc là Thinae của Ptolemy. Nhưng còn cái kinh thành của người Sines mà các nhà địa lý Ả Rập gọi là Sin, và các cuốn sử ký của Trung Quốc gọi là Tehen-tehen thì lại là nơi hẻo lánh hơn Loukin, có tên gọi là Sinhoa đã từng là một đô thị phồn thịnh nhất của Giao Chỉ khi cảng thị này chưa bị sa bồi vùi lấp. (d'Anville 1810: 128-133). Trong trường hợp trên có lẽ d'Anville đã có một số nhầm lẫn về địa danh với Cửu Chân, tên gọi xứ Thanh dưới thời Hán, nhiều khả năng ông đã sử dụng tư liệu hoặc hỏi chuyện các nhà buôn và/hoặc các nhà truyền giáo đã đến Việt Nam rất nhiều vào thế kỷ XVII, XVIII, mà không đặt chân đến Bắc Bộ Việt Nam nên một hai tên sông có thể nhầm với Campuchia. Trong công trình của ông, một số địa danh nghe khá lạ, tuy nhiên vẫn có thể phân biệt được, chẳng hạn Loukin thì người Châu Âu viết nhầm địa danh Long Biên, còn Tehen-tehen có tên gọi Sinhoa thì có vẻ là Thạch Thành, thành đá của nhà Hồ ở Thanh Hóa, chỉ có điều đó không phải là một cảng thị. Tuy nhiên khi nói về Kattigara và xác định nó thuộc Bắc Bộ Việt Nam thì d'Anville lại tỏ ra bám khá sát vào hướng dẫn của Ptolemy, đặc biệt là các ghi chú của ông nói rằng đô thị đó “ở mãi trong hẽm núi, cuối vùng đồng bằng” trên đường bơi tới đó “hai bên có những dãy núi lớn sừng sững” (chương 13-14 tập Địa lý của Ptolemy).
Vậy thì có thể lý giải như thế nào về các lầm lẫn suốt gần 2000 năm qua trong việc xác định chính xác địa danh và vị trí địa lý Kattigara? Một kịch bản có thể hình dung là Alexandros đã thực sự bơi đến Kattigara vào thời điểm cuối cùng trước khi đô thị này đã bị quên lãng, còn những người khác, trong đó có sứ bộ của Antonius thì đến vùng đô thị mới của Giao Chỉ, chứ không phải là Kattigara. Chính vì vậy mà về sau người ta không còn biết tìm Kattigara ở đâu nữa. Nếu căn cứ vào mô tả trong ghi chú của Ptolemy và trong sự hình dung của d'Anville thì Kattigara chính là vùng Kinh đô Phong Châu huyền thoại của người Việt cổ mà vào giai đoạn trước sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng nơi đó vẫn còn là Kinh đô Lạc Việt, dù đã có một thời Cổ Loa thay thế vị trí của nó theo một nghĩa nào đó, trong một thời điểm rất ngắn ngủi, nhưng đối với người Lạc Việt thời đó thì sự xuất hiện của Cổ Loa trong vòng vài chục năm vẫn chưa đủ để xóa đi ký ức của họ về kinh đô Phong Châu huyền thoại, vốn đã trở thành vị trí trung tâm văn minh Việt cổ hàng ngàn năm trời rồi. Ấy là chưa kể xuất thân còn chưa mấy rõ ràng của Thục Phán, chủ nhân thành Cổ Loa và mối quan hệ phức tạp giữa Thục Phán và Nam Việt Vương gốc Hán Triệu Đà trong một bối cảnh ngàn cân treo sợi tóc của hàng trăm ngàn con dân Lạc Việt trước nguy cơ bị Hán hóa. Vì vậy trước sau công nguyên, Kinh đô Phong Châu vẫn là trái tim của mọi con dân nước Việt, và nói tới vùng đất Lạc Việt là phải nói tới Kinh đô Phong Châu. Hơn nữa, về phương diện địa lý, trong thời gian ấy, khi vịnh Bắc Bộ còn ăn sâu vào gần đất Hà Nội thì vùng ngã ba Bạch Hạc vẫn mang bóng dáng là một loại cảng biển, với cảnh hàng năm Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh nhau với Sơn Tinh dưới chân núi Tản Viên. Lúc đó Hà Nội vẫn còn các làng Láng lênh láng nước, và vùng Mê Linh, quê hương Hai Bà Trưng vẫn còn là những vùng nước Mlênh – Mlang (Mênh Mang) về phía bắc tràn lan lên đến vùng Yên Lãng gần Vĩnh Yên bây giờ, còn về phía nam thì thông ra biển ngay sát quê chồng bà Trưng Trắc ở cửa sông Châu Giang, giáp với thành phố Hưng Yên ngày nay. Chỉ sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, cùng với những chính sách đồng hóa thâm độc của tên lão tặc Mã Viện bằng cách tiêu diệt tận gốc các tinh hoa Việt, cướp hết trống đồng - biểu tượng tinh thần Lạc Việt - nung chảy để đúc ngựa và đúc cột đồng, truy sát đến tận diệt các cừ soái Lạc Việt, hòng bắt người Lạc Việt phải quên đi quá khứ huy hoàng của mình thì cái tên Kinh đô Phong Châu mới dần dần bị khuất lấp sau tấm màn đen của chính sách khủng bố đại Hán tộc mà Mã Viện và những kẻ hậu bối của ông ta thực thi.
Trong bối cảnh đó, có lẽ giống như một định mệnh, cái kinh đô có thật kia, cái tên Kattigara đã từng một thời thân quen như máu thịt kia đã vang lên lần cuối cho đến tận trời Tây của Ptolemy và các tiền bối của ông, để rồi khuất lấp vào dĩ vãng và sống dưới dạng các mảnh vụn huyền thoại Việt dưới màn đêm đen nghìn năm Bắc thuộc, đến nổi mới có một hai trăm năm sau người ta chỉ còn biết đến lỵ sở Liên Lâu, Luy Lâu thời kỳ đầu Bắc thuộc, và tiếp đó là vùng đô thị Long Biên ngày một trở nên phồn thịnh cùng với quá trình biển thoái, và đồng bằng châu thổ sông Hồng ngày một vươn xa về phía biển. Đương nhiên đối với các nhà địa lý Hy-La và Ả Rập, cái tên Kattigara không có ý nghĩa gì khác hơn là một địa danh được lấy làm cực đông của địa cầu để chứng minh cho học thuyết địa tâm Hy Lạp. Chính vì vậy ngay cả sau này, khi đã biết quá rõ Trung Quốc nhưng người phương Tây vẫn không thể nào tìm kiếm được Kattigara, không thể nào biết được Kattigara ở đâu.
V. Kattigara - Kinh đô Huyền thoại Việt
Phải công bằng mà nói Bình Nguyên Lộc đã và sẽ còn đồng hành lâu dài với sự nghiệp nghiên cứu nền văn minh Việt cổ khi ông gắn Việt tộc với Mã Lai, dù theo cung cách quay đầu xuống đất. Chính vì vậy, theo tôi, với trường hợp Kattigara ông đã đọc gần đúng nghĩa của cụm từ này theo cách đọc của người Việt cổ, nói cách khác là theo cách đọc của [một bộ phận] tổ tiên người Malayo. Từ một vài từ gốc được người Hy-La cổ đại viết thành một từ đa âm tiết, ông đã tách được thành ba từ riêng biệt theo đúng phong cách và cấu trúc ngôn ngữ Việt, trong đó Ka được đọc thành Kẻ, Ti được đọc thành Thị, còn Gara được đọc thành Ghe (thuyền). Theo tôi, ông đã gần đúng với trường hợp chữ Ka, còn TiGara thì ông chưa đúng, cho dù ông rành rẽ tiếng Mã Lai, như ông đã nói và đã thể hiện trong hai tác phẩm quan trọng Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam Lột trần Việt ngữ. Lầm lẫn của ông, có lẽ xuất phát từ việc ông bị định kiến trước với từ Thị của người Hoa tại Sài Gòn xưa, và đặc biệt có lẽ còn hơn cả định kiến trước, ông đã bị ám ảnh với từ Gay (ghe thuyền) trong tiếng Mã Lai, nên đã lập tức tách thành một từ gọi là Gara để đọc thành Gay. Ấy là chưa kể về phương diện lịch sử, Hòn Gay chỉ thực sự có mầm mống một đô thị kể từ năm 1878, khi nhà buôn người Thanh là Ngô Nguyên Thành xin chính quyền Tự Đức cho khai mỏ than tại vùng này; và đặc biệt là kể từ khi Pháp đánh chiếm Quảng Ninh năm 1883 cho đến Thế chiến I, với chính sách đẩy mạnh khai thác thuộc địa phục vụ cho chính quốc. (Trần Văn Giàu 1961). Còn gần 2000 năm trước thì vùng Hòn Gay có lẽ vẫn chỉ có những vạn chài thưa thớt với những con thuyền và kiếp sống lang thang rày đây mai đó mà thôi.
Giống Bình Nguyên Lộc, tôi cũng hiểu Kattigara là một cụm từ tiếng Việt cổ, chứ không phải là tiếng Phạn hay một thứ tiếng nào khác, để ghi lại một địa danh Việt cổ nổi tiếng; từng từ trong cụm từ đó có nghĩa rất rõ ràng; cả cụm từ được viết rất đúng với cấu trúc tiếng Việt, và không hề nhầm lẫn. Tuy nhiên vì là tiếng Việt cổ, cách xa chúng ta hàng 2000 năm ròng, nên muốn hiểu hết nghĩa của các từ cổ đó thì cần phải so sánh nó với các ngôn ngữ liên quan, trong đó có tiếng Mã Lai. Giống với Bình Nguyên Lộc tôi cũng tách cụm từ đó thành ba từ riêng biệt, nhưng khác với Bình Nguyên Lộc, tôi không tách cụm từ đó thành Ka - Ti - Gara, mà thành Kat - Tiga - Ra. Và cũng khác với Bình Nguyên Lộc, trong ba từ của ông có một từ ngoại lai là Ti (Thị), còn trong ba từ của tôi không có bất cứ từ ngoại lai nào, mà là ba từ tiếng Việt cổ, hoàn toàn cổ, đến mức là ngày nay hầu như người ta không hiểu được rõ ràng, vì vậy cần phải diễn giải các từ này một cách chi tiết hơn.
Trước tiên với trường hợp chữ Ra, theo các nhà ngôn ngữ học trong địa danh thuần Việt, dạng ngữ âm Ra có các biến thể la, , rào dùng để chỉ các con sông, chẳng hạn sông Hồng cũng mang tên là Lô, một nhánh sông từ Tuyên Quang nhập vào sông Hồng ở Việt Trì cũng mang tên Lô; về ngữ âm la, có sông La ở Hà Tĩnh, suối La ở Quảng Trị; về biến thể Rào, có Rào Quán ở Quảng Trị, Rào Nậy - sông Gianh ở Quảng Bình, Cửa Rào - Nậm Nơn hợp thành sông Cả ở Nghệ An v.v... (Trần Trí Dõi 2008). Bên cạnh các tương đồng và biến đổi trên, chúng ta còn thấy ở Việt Nam và Đông Nam Á, sự biến đổi rất phổ biến giữa bán nguyên âm ya, các nguyên âm kép ia, ea, ai, ay (sông nước) trở thành các dạng có phụ âm đầu như ba, da, đa, tạ, đạ, đà, đái, đak, đáy, pa, trà vẫn để chỉ sông nước, ở miền Bắc có Tạ Khoa, Tạ Pú, sông Đà, sông Đáy; đặc biệt là ở các vùng miền Trung – Tây Nguyên có vô số sông suối mang tên Ia, Ea, Trà, Đạ, Đak như Ia Ly, Ea Hleo, Trà Giang, Trà Bồng, Trà Cú, Đạ Đờng, Đạ Tẻ, Đạ Hoai, Đak Bla, Đak Lak, Đak Krông, v.v.... Cho nên hiện tượng biến âm giữa ia, ea, tạ, đà, lô, la thành ra để chỉ sông nước trong cụm từ cổ Kattigara là điều rất bình thường. Và như vậy hoàn toàn có thể đọc Rasông, nước.
Riêng với trường hợp từ Kat nếu bỏ phụ âm cuối [t] còn lại Ka thì đúng là một đặc sản Việt cổ xuất phát từ cuộc sống gắn liền với sông biển. Trong môi trường cư trú của người Việt cổ - một bộ phận của tổ tiên người Malayo-Polynesian - chúng ta thấy có ba từ tạo thành một hệ thống sinh thái nước hoàn chỉnh, đó là Cái để chỉ vũng vịnh ven biển, nơi con người có thể tụ tập thành cộng đồng và sinh sống lâu dài. Vùng biển Quảng Ninh, vịnh Hạ Long và Hải Phòng điển hình cho môi trường này. Ở khu vực này vẫn còn thấy rất nhiều địa danh có từ Cái như Cái Bầu, Cái Lân, Cái Làng, Cái Bèo, v.v... Những vùng này ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán cho nên ít thấy có trường hợp sử dụng từ Hán Việt để mô tả từ này ở khu vực Quảng Ninh, Hạ Long. Nhưng lùi về bờ biển phía đồng bằng Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, chúng ta thấy có hàng loạt từ Hải, chắc chắn đã được dùng thay cho từ Cái, đó là Hải trong Hải Phòng, Hải Hậu. Ở Hải Phòng còn thấy một số địa danh cải biến Cái thành 吉 Cát hoặc lai giữa Việt và Hán Việt, trong đó có thể từ Cát là tiếng Việt thay cho từ Cái như Cát Bà, hoặc Cát Cụt, Cát Dài nhưng đối với trường hợp Cát Hải thì lại có thể được diễn giải bằng hai từ Hán 吉海, trong khi vẫn tồn tại địa danh Cái, chẳng hạn Cái Tráp huyện Cát Hải. Có lẽ các biến đổi địa danh trên diễn ra muộn, không xa ngày nay là bao nhiêu.
Riêng từ Cửa cũng khá phức tạp, vì từ này được dùng để mô tả các cửa sông chảy ra biển, hoặc cửa sông chảy vào một con sông chính nào đó. Hầu hết các vùng này đều dần dần trở thành thủ đô hoặc các đô thị, các trung tâm quan trọng của vùng, nên khi bị người Hán đô hộ, từ Cửa đã được khoác bằng một hai chiếc áo Hán để ghi bằng các âm tương ứng trong tiếng Hán như 古 Cổ (Cổ Loa, Cổ Đô (cạnh ngã ba Hạc Trì), Cổ Lương (Hà Nội), hoặc Khả 可 (Khả Lũ - Cổ Loa; Khả Lạc - Kinh đô của người Dạ Lang cũ nay thuộc Quý Châu, Trung Quốc) chẳng hạn. Như vậy trong hầu hết các trường hợp thì Cổ - Khả là để chỉ một loại trung tâm như Kinh đô, hoặc chính là Kinh đô. Riêng với Kẻ, giống như trường hợp Cái, vì xa các trung tâm đô thị Hán hóa và ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán nên nó vẫn tồn tại nguyên vẹn với tư cách là một từ tiếng Việt, cho dù có một hai âm đọc tương ứng khác là Kẽ, Khe, và cũng có thể được viết bằng từ Hán 溪 Khê. Đây là những địa điểm tụ cư tại cửa các con sông nhỏ, hoặc cửa các con ngòi, lạch nhỏ chảy vào một vùng nước, hoặc một con sông chính. Vì vậy về cấu trúc phân cấp xã hội phải có một loạt Kẻ phụ thuộc vào một Cửa – Cổ - Khả nào đó.
Trong lịch sử thủy cư Việt thì ba từ trên tương ứng với ba quy mô lớn nhỏ khác nhau. Về mặt nguyên ủy, nếu chỉ sống dựa vào tự nhiên thì Cái có quy mô diện tích lớn nhất, và cũng có thể nuôi chứa được một dân số đông nhất vì nguồn lợi thiên nhiên dồi dào của nó. Tuy nhiên khi nông nghiệp, thủ công nghiệp và đô thị phát triển thì Cửa - Khả - Cổ lại là môi trường thuận lợi nhất để nuôi chứa được một dân số lớn đến mức khó tưởng tượng đối với con mắt của người quen nhìn cuộc sống phụ thuộc vào các nguồn thuần túy tự nhiên. Cuối cùng Kẻ vẫn là quy mô làng thôn theo đúng nghĩa của từ khe, ngòi chỉ đủ nguồn lợi để nuôi chứa được một cộng đồng dân số nhỏ bé. Riêng Kẻ Chợ là một khái niệm phiếm chỉ, có lẽ nó ra đời cùng với lớp thị dân vừa thoát khỏi thân phận nông nô, hoặc nông dân tự do nghèo khổ, là những người sống bên lề của xã hội quan lại, quý tộc phong kiến. Vì vậy Kẻ Chợ không nằm trong hệ thống Cái, Cổ, Kẻ truyền thống Việt, mà lại là một từ có vẻ tiên báo về một giai cấp tiểu tư sản thị dân đang xuất hiện và dần dẫn trở thành chủ đạo, giống như các thành thị Châu Âu thời Cận đại vậy. Tuy nhiên vấn đề ở đây lại không phải là chữ Ka, mà là Kat. Liệu có phải Marinus, Ptolemy và những người trước họ đã viết thừa một phụ âm [t]; nếu họ viết thừa một phụ âm [t] thì khi tách ra sẽ đúng là có ba từ Ka – Tiga - Ra mà thôi. Nhưng theo tôi chắc không có chuyện viết thừa phụ âm [t] ở đây. Tôi đã kiểm tra lại nguyên bản viết tay tiếng Hy Lạp của Ptolemy do thư viện Paris công bố [Ptol. Geograph. l.i.c. 17. Paris, 1546, Lib. i, c. 14.] thì thấy tất cả đều được viết là Καττιγαρα*** với hai phụ âm [t]. Như vậy khi tách cụm từ đó thành ba thì sẽ là Kat – Tiga – Ra, và vấn đề sẽ trở nên khó khăn, rắc rối hơn, vì sẽ không còn là Ka để có thể đọc là Khả, Kẻ, Cổ nữa. Như vậy thì không thể đơn giản bỏ một phụ âm [t] đi để đọc cho thuận được. Chỉ còn cách duy nhất là phải thử đọc chữ Kat đó, và tất nhiên cũng phải đọc nó là một từ tiếng Việt.
Tôi nhớ hồi còn nhỏ ở quê, bà nội và bà ngoại tôi rất già, không bao giờ gọi Việt Trì, mà chỉ gọi là Vật Trì, dù bà ngoại là người Bạch Hạc. Tại sao các bà lại nhầm lẫn hoặc nói nhịu kiểu đó? Trong thực tế khả năng biến âm giữa [iê] (chẳng hạn từ thiệt) và [â] (chẳng hạn từ thật) của ViệtVật là thông thường. Nhưng điều đó có ý nghĩa gì không? Tôi nhớ cạnh Việt Trì, bên huyện Ba Vì, sát kề sông Đà có xã Vật Lại. Và tôi cũng đã từng đọc mấy câu thơ nổi tiếng của sĩ phu Ngô Quang Bích (1832 – 1890) làm quan lâu năm ở xứ Hưng Hóa và gắn bó máu thịt với non nước nơi này; chính vì vậy ông đã có được những vần thơ để đời như hai câu 眾水皆東走, 沱江獨北流 Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu; vừa mượn hướng chảy của sông Đà để nói về chí khí của mình, vừa nói về kinh đô Phong Châu, nơi hồn thiêng núi sông ngàn năm hội tụ. Vậy thì chắc hẳn chữ Việt trong Việt Trì, được viết Kat là biến/hoán đổi âm của Vật Quật Quặt Kat được dùng để mô tả dòng Hắc Long – sông Đà chảy vật lại, quật lại, quặt lại, quay lại, từ phía tây nam ngược lên phía bắc; dòng Thanh Long – sông Lô từ phía đông lượn sát Việt Trì quành về phía tây bọc lấy Bạch Hạc; còn dòng Xích Long – sông Hồng đón nước Đà giang rồi lượn vòng hẳn về phía đông hợp lưu với Lô giang, trở thành ba con rồng thiêng quần chầu ôm lấy vùng Đất tổ, tạo thành một Đại huyệt đạo Kattigara.
Tuy nhiên, thử thách lớn nhất trong ba từ trên chính là Tiga, thật không dễ tìm được một từ nào trong vốn tiếng Việt hiện đại tương ứng để suy luận nghĩa của nó. Chính vì vậy, chúng tôi đã phải tìm đến các ngôn ngữ gần gũi hoặc có quan hệ với tiếng Việt, mà trước hết là các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Malayo-Polynesian. Và ở đây chúng tôi đã tìm thấy một gợi ý rất có ý nghĩa, khi phát hiện ra Tiga chính là số 3 (Ba) trong hệ số đếm của các ngôn ngữ Malayo-Polynesian như dưới đây (Anderbeck K. R. 2008):
Malay: Tiga Indonesian: Tiga
Javanese: Tiga, Telu
Balinese: Tiga, Telu
Sundanese: Tilu
Toraja: Tallu
Tagalog: Tatlo
Acehnese: Lhè
Nhìn bảng trên có thể thấy các ngôn ngữ Balinese, Indonesian, Javanese, và Malay vẫn còn giữa được nguyên vẹn số đếm Ba từ thời cổ đại, trong khi đó các ngôn ngữ còn lại đã có những biến đổi hoặc đôi chút khác biệt, tuy nhiên vẫn có những mối liên hệ ngữ âm rất rõ ràng và có tính quy luật. Bình Nguyên Lộc đã chứng minh rằng người Việt cổ cũng sử dụng hệ số đếm này trong cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Còn bản thân chúng tôi vẫn chủ trương khu vực văn hóa Soi Nhụ - Cái Bèo - Hạ Long của người Việt cổ là một trong những cội nguồn của người Malayo-Polynesian, nên đương nhiên ngữ hệ Malayo-Polynesian cũng là một cơ tầng ngôn ngữ Việt. Chính vì vậy ở đây chúng tôi không chứng minh lại nữa, mà chỉ xem xét riêng về khả năng biến đổi những từ đa âm tiết trong tiếng Việt cổ thành từ đơn âm tiết sau khi tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ - văn hóa Hán. Một trong vô vàn trường hợp đó chính là từ Tiga đã biến đổi thành một từ đơn tiết trong tiếng Việt hiện đại là Ba. Như trên chúng ta đã thấy, bên cạnh Tiga của các ngôn ngữ Indonesian, Javanese, Malay đã xuất hiện phụ âm [l] trong chính các từ số đếm Ba của các ngôn ngữ Javanese, Balinese, Sundanese, Toraja, Tagalog, và Acehnese. Trong tiếng Việt, có thể thấy rất rõ sự biến âm giữa [t] ~ [bl]; đặc biệt là vẫn còn rất nhiều hiện tượng biến đổi trực tiếp [g] như: gạy → bẩy, gói → buộc, gập → bẻ, gò → bó, gạt →bạt, guá → bụa, gả → bán. Vì vậy trong trường hợp này, quá trình đơn tiết hóa có thể diễn ra như sau: tiga → tiba → tba → ba.
Vậy là chúng ta đã đọc được cụm từ Kattigara, và đến đây thì ai cũng biết là cụm từ ấy có thể diễn giải theo nghĩa đen là Vùng đất Ba sông Cuộn lại, nói theo cách hiện đại là Thành phố Ngã ba sông, Thành phố Việt Trì. Còn trong lịch sử và tiềm thức thì người Việt vẫn coi đó là Kinh đô Phong Châu của nước Văn Lang, Kinh đô huyền thoại của các vua Hùng, của người Lạc Việt. Như thế có nghĩa là cái đặc trưng lớn nhất của vùng đất linh thiêng này là nơi hợp lưu của ba con sông, và ngay cả đặc trưng 北流 bắc lưu của Hắc Long – Đà Giang cũng đã được người xưa ghi nhận trong chính cái tên mà họ đã gọi nó. Tuy nhiên có một số vấn đề cơ bản về ngữ âm học lịch sử, danh pháp học lịch sử liên quan đến những từ cổ để gọi Kinh đô Phong Châu vẫn còn lại ở vùng này, đó là chữ Trì trong cặp từ Việt Trì. Chữ Việt thì mọi người đều có thể dễ dàng đồng ý là về sau người ta có thể dùng từ chữ Hán là 越 Việt trong cái tên quen thuộc Việt Nam. Nhưng còn chữ 池 Trì được ghép thành 越池 Việt Trì để giải thích là Ao Việt thì không có nhiều sức thuyết phục so với cả trường ý nghĩa rất sâu sắc gắn liền với Kinh đô Phong Châu huyền thoại của dân tộc. Chúng tôi chỉ tạm thấy yên tâm với chữ Trì khi mạo muội cho rằng đó có thể chính một mảnh ngữ âm còn rớt lại từ quá trình biến đổi nghĩa tiga thành ba, nhưng về phương diện ngữ âm thì lại vẫn lưu giữ một mối liên hệ ngầm theo con đường giữa tiga với ti, tli, để rồi cái mảnh ngọc nhỏ xíu quý báu đó đã ẩn mình sau tấm áo Hán 池 trì (ao); và một lần nữa lại long đong cùng các cố đạo Pháp, khi họ dùng chữ cái Latin để ghi âm tiếng Việt thì ti hoặc tli hoặc âm trì trong tiếng Hán của địa danh này đã chính thức trở thành chữ Trì trong hai chữ Việt Trì, vẫn được giải thích là Ao Việt.
Nhưng vẫn không hết băn khoăn, vì bên cạnh chữ Việt Trì, vẫn còn một chữ quen thuộc khác là Hạc Trì. Vậy thì Hạc là gì? Về phương diện thuần túy danh pháp thì có thể diễn giải Hạc Trì là Ao Hạc, nơi có nhiều hạc, sếu đến kiếm ăn. Trong thực tế có thể có chuyện đó, và đúng là có chuyện đó. Vào cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX, khi người viết bài này còn nhỏ, nhà bên dòng sông Lô, cách Việt Trì không bao xa, vào mùa thu chúng tôi vẫn thấy những đàn sếu, bồ nông chân dài, mỏ dài, sải cánh lớn bay về kiếm ăn bên dòng sông vẫn còn rất êm đềm, vắng vẻ. Vì vậy nếu hình dung khoảng hơn 2000 năm trước, cùng với quá trình biển thoái, cả một vùng đất ngập nước bao la, màu mỡ của Ngã ba sông hiện ra, thì đúng là nơi “đất lành chim đậu”. Bên cạnh đó, có thể còn những khả năng khác để diễn giải chữ 鶴 Hạc. Trước hết, trên các trống đồng Lạc Việt có hình khắc chim hạc, sếu. Vì vậy có thể hạc, sếu được sử dụng làm biểu tượng của cư dân Phong Châu nói riêng, làm biểu tượng của người ở nơi cao ráo, ít bị ngập úng, thuộc vùng đồi núi, vùng của mẹ Tiên, người ở trên núi Tiên, mà chữ trên trong tiếng Việt cổ có thể có nguồn gốc từ tlên, tliên, chiền, tiên vẫn còn có thể quan sát được. Ngoài ra cũng còn một cách khác để diễn giải chữ Hạc từ khả năng tương đồng âm giữa chữ Kat và chữ Hạc. Trong tiếng Trung Quốc phổ thông hiện đại, chữ Hạc được phát âm là hứa, khứa, còn những nhóm người khác nhau ở Đài Loan và Quảng Đông thì phát âm là hộc, hạc, hác, khác, khách không xa âm Kat trong tiếng Việt cổ.
Tuy nhiên tích truyện xưa lại lý giải cái tên Bạch Hạc với cây Chiên đàn “cao hàng nghìn nhẫn, tỏa ra một vừng rộng, che rợp như rừng, có đến hàng nghìn dặm, thường có đôi hạc đậu ở trên nên gọi là Bạch Hạc” (Vũ Quỳnh 1993: 95) thì rõ ràng có màu sắc Phật giáo. Trước hết là hình tượng cây Chiên đàn, 栴檀树 Chiên đàn thụ - là loại cây quý, màu vàng tro, tỏa hương thơm ngào ngạt, người xưa dùng để tạc tượng Phật. Theo Kinh Tăng nhất A hàm, quyển 28, trong thời gian đức Phật lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp độ mẫu thân, vua Ưu Điển (Udayana) không được đảnh lễ Ngài, nên sinh bệnh. Các quan lấy cây Chiên đàn tạc pho tượng Phật cao 5 thước, vua liền khỏi bệnh, và đó chính là pho tượng đầu tiên của Đức Phật tại Ấn Độ. Vì vậy hình tượng cây Chiên đàn tại Bạch Hạc chính là cây Chiên đàn trong tích truyện vua Ưu Điển. Cùng với hình tượng cây Chiên đàn thì hình tượng chim Bạch Hạc cũng chính là biểu tượng của Đức Phật. Kinh Đại Niết Bàn chép rằng khi đức Phật nhập niết bàn tại Sa La viên, cả rừng Sa La rủ bóng che chở Ngài, toàn bộ lá trong rừng đều biến thành màu trắng như ngàn cánh hạc trên kim thân đức Phật. Màu trắng là gốc của các màu thể hiện đức Phật nhập Niết Bàn là quay về với bản nguyên vô thủy, vô chung. Chính vì vậy các khu vườn của tăng đoàn sau này thường được gọi là Hạc lâm. Một phiên bản khác nói rằng khi đức Phật nhập Niết Bàn thì hai cây Sa La bên kim thân Ngài biến thành đôi hạc trắng, nên hai cây Sa La đó còn được gọi là Sa La Song thụ, hoặc có tên gọi khác là cây Hạc trắng. Ngoài ra sách Đại Nhật kinh sớ, quyển 3 còn nói ở Ấn Độ có loại chim Sarasa, giống như chim uyên ương, nhưng lớn hơn đôi chút, tiếng hót rất thanh nhã, loài chim này không có ở Trung Quốc, sách Tuệ Lâm Âm nghĩa dịch là Cộng hành điểu, còn gọi là Bạch Hạc – tượng trưng cho Phật tính.
Vậy là dù có những phiên bản khác nhau, nhưng tất cả các hình tượng trên đều là biểu tượng của đạo Phật, của sự quay về với cái bản nguyên của con người. Tuy nhiên trong trường hợp Bạch Hạc, chắc chắn tác giả của tích truyện còn muốn sử dụng hình tượng của Phật giáo để gửi gắm tâm sự và niềm tin của người dân đất Việt vào nơi gốc tổ, coi đó không chỉ là bản nguyên của mỗi cá nhân, gia đình, mà còn là bản nguyên, là nguồn sức mạnh vô song của cộng đồng, và của cả dân tộc. Đặc biệt là khi đất nước gặp nguy nan như khi kẻ thù phương Bắc xâm lược, hoặc gặp thời tao loạn, người con dân Lạc Việt luôn luôn quay trở về tìm lại nguồn sức mạnh vô tận từ gốc tổ, từ bản nguyên, để hồi sinh, lớn mạnh, và chiến thắng.
Vài lời cuối bài viết
Hai nghìn năm là một quãng đường dài, nhiều hiện thực lịch sử đã trở thành ký ức, nhiều ký ức đã trở thành huyền thoại, và đến lượt mình nhiều huyền thoại đối với nhiều người chỉ còn thuần túy là huyền thoại. Có thể Hạc Thành - Phong Châu không ở trong trường hợp đó, nhưng với nhiều người, thật không dễ để nhìn thấy nó như một hiện thực sống động. Trong bối cảnh đó Kattigara - Kinh đô Ba con sông - Hạc Thành, giống như một cuốn phim, không phải ngẫu nhiên đã được Marinus, Ptolemy và những bộ óc vĩ đại khác của thế giới Hy - La ghi lại như để giành tặng riêng cho người Việt. Không phải ngẫu nhiên, vì chính bản thân Lạc Việt - Phong Châu - Kinh đô Ba con sông - Hạc Thành đã một thời tỏa rạng bên bờ biển Đông. Cái thời đó tưởng đã lùi xa, tưởng đã bị vùi lấp trong thẳm sâu quá khứ, nhưng giống hệt một chân lý, và đó chính là chân lý - những gì là giá trị thực thì sẽ vĩnh viễn tồn tại cùng con người. Kattigara là một chân lý như vậy. Tôi hình dung một ngày không xa Việt Trì - Phong Châu - Hạc Thành sẽ có một công viên, một con đường, một nhà hát, một bảo tàng, một đại học mang lại cái tên đầy âm hưởng xưa: Kattigara của những thế hệ tổ tiên vĩ đại. Ở đó bên cạnh bố rồng, mẹ tiên, các vua Hùng và các tiên hiền Lạc Việt, còn có những bức tượng của Alexandros, Titanus, Marinus, Ptolemy, Columbus, Magellan và nhiều vĩ nhân khác nữa - những con người đã chót bén duyên Lạc Việt. Và tương lai sẽ có những tuyến hải hành quay trở lại con đường cổ, từ Kattigara - Phong Châu - Hạc Thành tỏa đến Alexandria, Châu Phi, Châu Mỹ để tưởng nhớ những bước chân các vĩ nhân xưa trên con đường đi tìm một Kattigara huyền thoại nay đã trở về cùng hiện thực. _____________________________________

Chú thích của tác giả :
* Với vốn Phạn ngữ nghèo nàn của mình, nhân tiện trò chơi ngôn ngữ của Giáo sư Chakravarti, tôi cũng xin mạo muội vui đùa tạo ra những từ tiếng Phạn dù có thể hơi ngớ ngẩn, nhưng còn gần gũi với Kattigara hơn là hai từ của ông. Chẳng hạn कटी-गिरा (Kattigira) = Bị bổ vỡ-Bị sụp đổ (hú vía! gira chứ không phải là gara - nagara); कोटि-गिरा (Kottigira) = Cường thịnh Sụp đổ (rủi là gira chứ không phải là gara - nagara); कटी-गेरा (Kattigera) = Bị bổ vỡ - Khu vực (may là gera chứ không phải là gara - nagara); còn từ कोटि-गेरा Kottigera = Khu vực Cường thịnh, thì nghĩa rất hay, nhưng chỉ có điều trớ trêu là cái từ này dường như vừa may (vì Kot = cường thịnh), lại vừa rủi (vì chỉ có Kot chứ không có Kat như trong nguyên văn Kattigara !).
** Về điều này thì Bình Nguyên Lộc đã nhầm lẫn, vì Ptolemy chưa bao giờ đến Kattigara. Còn nếu ông, với tư cách là một nhà địa lý vĩ đại, chuyên đo đạc, tính toán, và xây dựng tọa độ địa lý cho cả địa cầu mà đã đến Kattigara rồi thì hậu thế sẽ không bao giờ phải bận tâm đến việc phải đi tìm Kattigara như bây giờ nữa.
*** Nguyên văn các đoạn bằng tiếng Hy Lạp của Ptolemy đều có hai phụ âm [t] ở chữ Kattigara được tô đậm như dưới đây:
Φησι δε Αλεξανδρον αναγράφεται την γλω εντεύθεν εναντιαν ειναι τη μεσημβρίαν, και τους πλέοντας παρ αιτην εν ημεραις εικοσι κατα λαμβανσιν πολυ Ζαβας. Απο δε των Ζαβων προς νοτου διαπλευσαντας, και μαλλον εις τα ευωνυμα ημερας τινας, εκδεχεδαι τα Καττιγαρα. [Ptol. Geograph. l.i.c. 17. Paris, 1546, Lib. i, c. 14.].
Dịch nghĩa:
Tuy nhiên Alexander thông báo rằng vùng đất từ đó choãi về phía bắc của tuyến hải hành; và những người bơi dọc theo bờ biển đó đến thành Zaba mất hai mươi ngày; từ Zaba bơi về phía nam, và cần nhất là sau đó rẽ về bên trái, mất vài ngày thì đến Kattigara.


Tài liệu dẫn

Alphonse, Jean 1904. La Cosmographie, 1544 ff.150r and 151rv, in Georges Musset (ed.), Recueil de Voyages et de Documents pour servir a l'Histoire de la Geographie, XX, Paris, 1904, pp.398 and 401-2.

Anderbeck, Karl Ronald 2008. Malay Dialects of the Batanghari River Basin (Jambi, Sumatra). SIL International Library of Congress Catalog.

Bình Nguyên Lộc 1971-2007. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Chương V: Dấu vết Mã Lai trong xã hội Việt Nam ngày nay. Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn 1971. Bản điện tử do talawas thực hiện ngày 13/10/2007.Bridges R. C. & P. E. H. Hair (eds) 1996. Compassing the Vaste Globe of the Earth, Studies in the History of the Hakluyt Society, London.Broorstin, Daniel J. 1983. A History of Man's Search to Know His World and Himself. Random House, Inc., United States of America.Cary, Max 1956. Maes, Qui et Titianus. In The Classical Quarterly, New Series, 6.3/4 (July–October 1956), pp. 130–134.Caverhill, John 1767. Some Attempts to ascertain the utmost Extent of the Knowledge of the Ancients in the East Indies. In Proceedings of the Royal Society of London; Philosophical Transactions, vol.57, 1767, pp.155-174. Publisher: Royal Society of London.Chakravarti Adhir K. 1972. Early Sino-Indian Maritime Trade and Fu-Nan, D.C. Sircar (ed.), Early Indian Trade and Industry, Calcutta, University of Calcutta Centre of Advanced Study in Ancient Indian History and Culture, Lectures and Seminars, no.VIII-A, part I, 1972, pp.101-117.Coote C.H. 1898. Autotype Facsimiles of Three Mappemondes, Aberdeen, 1898.

D'Anville 1810. Sinae - Compendium of Ancient Geography. In The Royal Academy of Inscription and bells lettres at Paris. Translated from the French. Vol. II, London.
Dreyer J.L.E. 1953. A History of Astronomy from Thales to Kepler. 2nd edition. New York: Dover Publications.
Đào Duy Anh 1997. Đất nước Việt Nam qua các đời – Nghiên cứu địa lý học lịch sử Việt Nam. In lần thứ hai, Nxb. Thuận Hóa – Huế. Tp. Huế, Thừa Thiên Huế.
El-Abbadi, Mostafa 1992. Life and fate of the ancient Library of Alexandria (2nd edition). Paris: UNESCO.
Erksine A. 1995. Culture and Power in Ptolemaic Egypt: The Museum and Library of Alexandria. Greece & Rome, 2nd ser., 42(1), 38-48.
Evans, James 1998. The History and Practice of Ancient Astronomy. New York: Oxford University Press.
Ferra M.J. 2010. The maps of Claudius Ptolemy explained with a resolution of the place names including Cattigara. India Intra et Extra Ganggem – Sinea and Taprobane. http://www.cartograp...labstracts.htmlFoster, William 1946. The Hakluyt Society, a Retrospect 1846–1946. In Edward Lynam (ed.), Richard Hakluyt & his Successors, A Volume issued to commemorate the Centenary of the Hakluyt Society, London, 1946Griffin, Miriam T. 1976. Seneca: A Philosopher in Politics, Oxford 1976. 34.
Harrisse, Henry 1961. The Discovery of North America, London, 1892 (reprinted Amsterdam, N. Israel, 1961), p.583.
Heath, Thomas 1913. Aristarchus of Samos. Oxford: Clarendon Press, 1913.
Herrmann, Albert 1938. Der Magnus Sinus und Cattigara nach Ptolemaus. Compte-rendu du Congrès international de géographie (Amsterdam), pp. 123-8.Hirth F. 1885. China and the Roma Orient, Text p. 42, and commentary, pp. 173-178. Shanghai & Hong Kong, 1885. Institute on the Far East Works 1915. Note II. Extracts from the Geography of Ptolemy. Vol. I. Second Series No. XXXVII. Issued for 1915 by Society Cathay and the Way thither 1915. Liberary of Wellesley College Presented by Institute on the Far East Works, (Ptolemy K. 1915).
Laffan, Michael 2005. Finding Java: Muslim nomenclature of insular Southeast Asia from Śrîvijaya to Snouck Hurgronje. Asia Research Institute, Working Paper Series No. 52. Princeton University.
Lịch Đạo Nguyên (chú), Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh (sớ), Đoàn Hy Trọng (điểm hiệu), Trần Kiều Dịch (phúc hiệu) 2005. Thủy Kinh chú sớ. Nxb. Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, (Bản tiếng Việt của Nguyễn Bá Mão).
Malleret L. 1951. Les fouilles d’Oc-Eo (1944). Rapport préliminaire, BEFEO 1951, tr. 75-88.Malleret L. 1962. L’Archéologie du delta du Mékong, Tome Troisiéme, La culture du Fu-nan, Paris, 1962, chap.XXV, “Oc-Èo et Kattigara”, pp.421-54.McCrindle J.W. 1885 - 1974. Ancient India as described by Ptolemy, London, Trubner, 1885, New Delhi, Today & Tomorrow's Printers & Publishers, 1974, p.204.
Millares A. Carlo (ed.) 1951. Columbus' letter of credence. In Historia de las Indiaspor Fray BartOlome de las Casas, Mexico, Fondo de Cultura Economica, 1951, Lib.2, cap.iv, pp.219-20.
National Library of Australia 2010. Digital Collections – Maps – A Map of the World 1506.. http//:nla.gov.au/nla.map-f887
Nunn, George E. 1927. The Lost Globe Gores of Johann SchOner, 1523-1524. The Geographical Review, vol.17, no.3, July 1927, pp.476-480.
Nunn, George E. 1932. The Columbus and Magellan Concepts of South American Geography. Glenside, the author, 1932, pp.12-13 & 49-51.
Nunn, George E. 1992. The Three Maplets attributed to Bartholomew Columbus. Imago Mundi, vol.9, 1952, 12-22, p.15
Peillard, Leonce 1984. Antonio Pigafetta, Relation du Premier Voyage autour du Monde par Magellan, Paris, Tallandier.
Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987. Trống Đông Sơn. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991. Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp.Priaulx, Osmond de Beauvoir 1873. Indian Embassies to Rome (J.R.A.S. xix.294) (bound with Apollonius of Tyana), London.Ptolemy K. 1885. Ancient India as described by Ptolemy. Translated by J.W. McCrindle, Publisher: Trübner.Rawlinson, H. G. 1916. Intercourse between India and the Western World from the Earliest Times to the Fall of Rome. Cambridge : University Press, 1916. — vi, [2], p. 196.Reinaud M. 1863. Relations Politiques et Commerciales de l’Empire Romain avec l’Asie Oriental. L’hyrcanie, L’Inde, La Bactriane et La Chine p. 184, Paris.Richthofen, von Ferdinand 1877-1912. China, Ergebnisse eigner Reisen und darauf gegründeter Studien (China: The results of my travels and the studies based thereon, 1877-1912, 5 vols. and atlas).

Riley T. M. 1995. Ptolemy’Use of his Predecessors’ Data. Transactions of the American Philosophical Association 125 (1995) 221 – 225, California State University, Sacramento.


Sarkar H.B. 1981. A geographical introduction to South-East Asia: The Indian perspective. Bijdragen tot de Taal-, Land- en Volkenkunde (hereafter BKI) 137-2/3 (1981): 293-323.
Schilder G. 1976. Australia Unveiled, Amsterdam, Theatrum Orbis Terrarum, p.10.
Schoener, J. 1961. Opusculum Geographicum, Norimberga, [1533], cap.xx; quoted in James R. McClymont The Theory of an Antipodal Southern Continent during the Sixteenth Century, Report of the Fourth Meeting of the Australasian Association for the Advancement of Science, Hobart, January 1892, Hobart, the Association, 1893, p.455; (reprinted Amsterdam, N. Israel, 1961), pp.525-6.
Serrano C. Seco (ed.) 1954-1955. Obras de Martin Fernandez de Navarrete. Madrid, 1954-55, vol.1, pp.223-5.
Smith R.B. 1979. Check list of “Heger type I” Bronze drums from South East Asia. ESA. New York-Kualalumpur.
Sorensen P. 1979. The Ongbah Cave and Its fifth drum. EAS. New York-Kualalumpur.
Suarez, Thomas 1999. Early Mapping of Southeast Asia, Hong Kong, Periplus, 1999, p.92.
Stein R. A. 1907. Ancient Khotan - Detailed Report of Archaeological Explorations in Chinese Turkestan Carried out and Described under the Orders of H.M. Indian Government. Indian Educational Service. Vol.II, Oxford at the Clarendon Press. London, Edinburgh, New York and Toronto.
Stein R. A., A. Herrmann 1940. Das Land der Seide und Tibet im Lichte der Antike, BFEO 1940, No.2, tr. 456-460.Strabo 1917 - 1932. The Geography of Strabo. Loeb Classical Library, 8 volumes, Greek texts with facing English translation by H. L. Jones: Harvard University Press, 1917 thru 1932.
Tarn, W.W. 1928. Ptolemy II. The Journal of Egyptian Archaeology, 14(3/4), 246-260.


Trần Trí Dõi 2008. Tên gọi của sông Hồng: Dấu tích biểu hiện nét đa dạng văn hóa trong lịch sử người Việt. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba. Hà Nội 4-7 tháng 12 năm 2008.
Trần Văn Giàu 1961. Giai cấp công nhân Việt Nam - Sự hình thành và phát triển của nó từ giai cấp “tự mình„ đến giai cấp “cho mình„. Nxb. Sự thật, Hà Nội.
Trinh Sinh 1988. A comment on the bronze drums dícovered in Thailand. Comparative Thai-Vietnamese Archaeoloy: Culture in Metal Age. Bangkok: 93-102.
Trịnh Sinh 1997. Nhân chiếc trống đồng Đông Sơn mới tìm được ở Triết Giang, Trung Quốc. Tạp chí Khảo cổ học, số 3 năm 1997.
Varela, Consuelo (ed) 1992. Lettera Rarissima, Jamaica, 7 July 1503, in Cristobal Colon: Textosy Documentos Completos, Madrid, Alianza Editorial, 1992, p.48.
Vespucci A. 1500 – 1944 - 1999. Amerigo Vespucci to Lorenzo de'Medici, Seville, 18 July 1500; quoted in Frederick J. Pohl, Amerigo Vespucci: Pilot Major, New York, Columbia U.P., 1944, p.77; Early Modern Literary Studies, vol.5, no.2, September 1999.
Vũ Quỳnh 1993. Tân đính Lĩnh Nam Chích quái. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Wade, Geoff 2009. The Polity of Yelang (夜郎) and the Origins of the Name ‘China’. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, Sino-Platonic Papers, 188 (May 2009).

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đền Đồng Xâm, thờ Triệu Vũ Đế Đền Đồng Xâm thờ Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) - tổng thể kiến trúc đồ sộ

Posted Image

Đền Đồng Xâm thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Đây có thể xem như một tập đại thành của nghệ thuật chạm khắc gỗ, đá, kim loại, đắp vữa của Việt Nam thời Nguyễn.

Đền gồm một quần thể di tích có quy mô hoành tráng. Trong đó thờ Triệu Vũ Đế (Triệu Đà hay Triệu Úy Đà) đền thờ Trình thị Hoàng hậu (vợ vua Triệu Vũ Đế) và đền thờ Nguyễn Kim Lâu (vị tổ nghề chạm bạc cổ truyền) cùng hệ thống đền chùa nằm kề sông Vông.

Trung tâm cụm di tích của đền Đồng Xâm là một tổng thể kiến trúc đồ sộ với gần 10.000m2 gồm nhiều công trình kiến trúc hùng vĩ và tuyệt đẹp như Vọng Lâu, Thuỷ tọa, Hoành mã, Sân tế, toà tiền tế, phương đình, toà điện thờ, hậu cung, nhà thờ tổ sư nghề chạm bạc...

Thuỷ tọa là một ngôi nhà hình lục lăng cao gồm sáu cửa vòm quay ra các hướng, từ đây du khách có thể ngắm được toàn cảnh sân tế và các đường thuyền đua tấp nập trên sông khi có lễ hội.

Toà tiền tế của ngôi đền là một tòa đại đình gồm 5 gian rộng, với quy mô đồ sộ có chiều cao tới 13 mét và kiểu dáng kiến trúc bề thế ít gặp ở các di tích khác. Nối liền toà tiền tế tới hậu cung là toà điện Trung tế được kiến trúc theo kiểu Phương đình. Mặt bằng ở khu vực này được các nghệ nhân xử lý cực kỳ hợp lý, từ ba gian của toà tiền tế được rút lại một gian chính giữa làm nền của toà Phương đình.

Toà Hậu cung của đền được cấu trúc thành hai bộ phận liên hoàn là toà điện năm gian, nối với gian trung tâm là phần chuôi vồ được tôn cao mặt bằng để đặt khám gian. Phía hiên ngoài Hậu cung được bài trí hài hoà bằng những đại tự, cuốn thư, câu đối cùng hệ thống y môn gỗ chạm. Hệ thống cánh cửa khay soi ở ba gian trung tâm của toà hậu cung được chạm thủng với đề tài bát bửu, hoa văn, dây lá, chữ triện trên 12 ô cửa của Hậu cung tạo cảm giác lâng lâng thoát tục cho du khách trước khi bước qua ngưỡng cửa vào đây.

Khám gian đặt tại Hậu cung là một tác phẩm độc đáo mang nét đặc thù của làng nghề chạm bạc, đồng, sắt. Khám gian được phong kín bằng những lá đồng chạm thủng với các đề tài khác nhau như tứ linh, tứ quý... Trong khám thờ đặt tượng Triệu Vũ Đế và Hoàng hậu Trình thị, cỡ tượng to tương đương người thật và đều được đúc bằng đồng khảm vàng, bạc, thiếp bạc...

Đền Đồng Xâm còn gắn liền với nghề chạm bạc ở Hồng Thái. Hàng năm nơi đây thường tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn vị tổ sư nghề chạm bạc Nguyễn Kim Lâu.

Làng chạm bạc Đồng Xâm

Vị trí: Làng chạm bạc Đồng Xâm thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình

Đặc điểm: Là làng nghề chạm bạc nổi tiếng với những sản phẩm tinh xảo mang tính nghệ thuật cao.

Làng nghề chạm bạc Ðồng Xâm (tên cũ là Ðường Thâm) nằm ở bên hữu ngạn sông Ðồng Giang. Những ghi chép trong sách sử cho biết: làng này hình thành vào cuối thời Trần-Hồ, cách chúng ta ngày nay trên 600 năm.

Nhưng nghề chạm bạc ở đây thì mãi về sau mới xuất hiện. Làng hiện còn một am thờ và một tấm bia đá ở trong khu chùa Ðường (thôn Thượng Gia ngày nay). Ðó là một văn bia Tổ nghề (dựng năm 1689). Trên văn bia có ghi:

"Hoàng triều Chính Hoà thập niên, Tổ phụ Nguyễn Kim Lâu (...) Bảo Long tụ lạc học nghệ, đáo Ðồng Xâm xứ kiến lập thập nhị phường kim hoàn truyền nghệ."

Tạm dịch: Năm thứ mười dưới triều vua Chính Hoà (1689), vị tổ sư Nguyễn Kim Lâu vốn làm nghề vàng bạc ở Châu Bảo Long, tới xứ Ðồng Xâm lập ra mười hai phường để truyền nghề.

Nguyễn Kim Lâu sống vào khoảng đầu thế kỷ 17. Và như vậy nghề chạm bạc Ðồng Xâm đã tồn tại gần 400 năm nay. Buổi đầu là nghề hàn đồng, gò thùng chậu, đánh dao kéo, chữa khoá, làm quai và vòi ấm tích, điếu bát...về sau mới làm đồ kim hoàn, chuyên sâu về chạm bạc.

Cũng như nhiều nghề thủ công cao cấp khác, như đúc đồng, luyện kim... nghề kim hoàn mang lại thu nhập cao cho người thợ, kỹ thuật lại hết sức phức tạp, nên suốt mấy trăm năm người Ðồng Xâm luôn giữ bí mật nghề. Ðến nay, kỹ thuật này không còn là độc quyền của thợ Ðồng Xâm nữa, nhưng một số thủ pháp kỹ thuật và nghệ thuật tinh xảo nhất vẫn được giữ bí truyền. Phường chạm bạc xưa đã qui định chặt chẽ trong hương ước của làng rằng: người nào đem bí quyết nghề truyền dạy cho nơi khác, cho người làng khác, hay làm đồ giả để lừa người khác, gây sự bất tín thì phải phạt thật nặng... hoặc đem đánh đòn trước nhà thờ Tổ, hoặc phải xoá tên trong phường.

Hàng chạm bạc Ðồng Xâm khác hẳn và nổi trội so với hàng bạc của các nơi khác ở các kiểu thức lạ về hình khối, dáng vẻ sản phẩm, ở các đồ án trang trí tinh vi mà cân đối, lộng lẫy mà nổi rõ chủ đề chính, ở thủ pháp xử lý sáng-tối nhờ tận dụng đặc tính phản quang của chất liệu bạc. Ðặc trưng của sản phẩm Ðồng Xâm là sự điêu luyện tế nhị và hoàn hảo tới mức tối đa. Có thể nói rằng tài năng và tính cẩn trọng của nghệ nhân bạc Ðồng Xâm đã và đang có thể đáp ứng được mọi yêu cầu sử dụng đồ chạm bạc của những khách hàng khó tính và am tường nghệ thuật nhất.

Trải qua nhiều biến đổi nhưng ngày nay nghề vẫn được duy trì và ngày càng phát triển.

- Nếu như Châu Khê (Hải Hưng) sản xuất đồ trang sức bằng vàng là chính; Ðịnh Công (Hà Nội) chủ yếu làm nữ trang bằng vàng, thì Ðồng Xâm (Thái Bình) chuyên nghề chạm bạc

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một cách tiếp cận với cổ sử Việt Nam-1

Posted Image

Lịch sử Việt Nam từ thời Mê Linh liệt nữ trở về trước luôn là sự khơi gợi khám phá và thách thức cho bản thân tôi. Bằng những con đường không chiêu thức của một kẻ viễn kiến ngôi đền sử học, tôi đã tự tìm hiểu khoảng thời gian kia bằng dăm bài viết, có tham khảo một số sách vở và thư tịch cổ Việt Nam cũng như Trung Quốc. Khi hệ thống những bài viết này [1] hoàn thành, cũng là lúc nhận thức của tôi về thời bán sử Việt Nam bước qua một trang mới. Những nhầm lẫn và mâu thuẫn lộ liễu sẽ được thanh lọc, mạch sử đơn lẻ được tổng hợp lại để thành trang viết mới dài hơi hơn, cụ thể hơn. Tóm tắt nghiên cứu: <br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;"><br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;">a) Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc). Giao Chỉ cũng còn gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm nghĩa luôn tên nước Sở thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Giao Chỉ nửa cuối thời Chiến Quốc ở phía nam nước Sở. Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, Giao Chỉ thời Tây Hán là bắc bộ Việt Nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ. Đóng khung bởi kiến thức thiên văn Tần – Hán, Nhật Nam nghĩa là vùng đất phía nam mặt trời, là bán cầu nam, Cửu Chân là Chân Trời, Xích Đạo. Có thể người Trung Quốc không lầm, hơn ai hết họ hiểu Giao Chỉ là gì nhưng nhiều sử gia đã cố ý tung hỏa mù và diễn dịch sai lạc ý nghĩa của từ Giao Chỉ. Đây là phương diện học thuật trong tổng thể âm mưu thực dân của đế quốc Hán. <br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;"><br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;">B) Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở xuống đồng bằng Tây Giang, Quảng Tây, Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đình Hồ là Văn Lang Tây Giang. “Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đã thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc. Không ít cư dân Văn Lang Động Đình Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN. Ở mảnh đất Việt Nam cổ, đoàn lưu dân này vẫn tổ chức xã hội theo mô hình Văn Lang Động Đình Hồ, song các nhóm thị tộc mẫu hệ không còn liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai. Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi. Trong ngôn ngữ của Tư Mã Thiên, Tây Vu (vùng đất phía tây Nam Việt) chính là Tây Âu Lạc sau khi đã bị Triệu Đà thôn tính, nó không phải Tây Vu (vùng đất phía tây đồng bằng sông Hồng) thời Mã Viện. Thời Hán Vũ Đế, Tây Âu Lạc trở thành quận Hợp Phố. Chữ Tây trong Tây Âu Lạc, Tây Âu và Tây Vu ngày nay vẫn còn hiện diện trong tên gọi Quảng Tây, một tỉnh Trung Quốc giáp biên giới phía bắc Việt Nam. Người Lạc Việt ở Hợp Phố xưa hôm nay có thể là người Tráng. Truyền thống xem trống đồng là bảo vật linh thiêng của Lạc Việt vẫn được người Tráng lưu giữ. Ở nhiều ngữ cảnh, chữ Tráng đồng nghĩa với chữ Hùng trong từ Hùng Vương. <br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;"><br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;">c) Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc mình là Đất Nước, khi ký âm bằng Hán tự nó trở thành Âu Lạc. Do đó Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. Từ đây sinh ra từ Tây Âu Lạc tương đương với Tây Âu, nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung. Do đó không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên. Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc (Quảng Tây) chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đã dung hòa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đình Hồ. Chính cội rễ ấy đã che hết những mối nối ký ức, những khoảng trống và “mưu mô” của sử sách Trung Quốc, biến cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn. <br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;"><br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;">d) Chiếu theo bản chất của danh xưng “Vua Hùng” thì Bà Trưng Trắc chính là vị Vua Hùng đầu tiên và cũng là cuối cùng của vùng đồng bằng sông Hồng. Tiếng trống đồng ở một sắc thái và tiết tấu nào đó sẽ là lời hiệu triệu nhân dân của Vua Hùng và Lạc Hầu, Lạc Tướng. Để bẻ gãy mầm mống các cuộc phản kháng của kẻ bị trị, Mã Viện đã càn quét và tịch thu rất nhiều trống đồng sau khi sát hại Hai Bà Trưng. Hậu quả là người Việt Nam đã bị tước mất trống đồng trong sinh hoạt văn hóa - xã hội hàng ngàn năm qua. <br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;"><br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;">A. Giao Chỉ, Tượng Quận, Cửu Chân, Nhật Nam là gì? <br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;"><br style="background-color: white; color: #134f5c; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-size: x-large; line-height: 24px;">1. Nam Giao, một trạm quan trắc thiên văn cổ xưa

Trong Thượng Thư, quyển sử cổ nhất của Trung Hoa tương truyền do Khổng Tử san định, chương Ngu thư, mục Nghiêu điển đã có từ Nam Giao: “Thân mệnh Hy Thúc trạch Nam Giao, bình trật nam ngoa, kính trí. Nhật vĩnh, tinh Hỏa, dĩ chính trọng hạ. Quyết dân nhân, điểu thú hy cách”. Nghĩa là: “(Vua Nghiêu) sai Hy Thúc đến Nam Giao, quan sát mặt trời di chuyển về phương nam, ghi ngày Hạ chí. Lúc ngày dài nhất, sao Hỏa đầu hôm ở đỉnh đầu sẽ là ngày trọng Hạ (giữa mùa Hạ). Dân ăn mặc quần áo mỏng, chim thú thay lông”. Nam Giao nằm trong hệ thống địa danh gồm: Dương Cốc (phía đông), Muội Cốc (phía tây), Sóc Phương (phía bắc), Nam Giao (phía nam). Từ 4 nơi này, các vị quan mà vua Nghiêu phái đến sẽ quan sát qui luật chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các vì sao rồi tổng hợp các qui luật ấy thành lịch phù hợp với sự vận hành của thiên nhiên nhằm áp dụng thẳng vào đời sống nhân dân. Bốn địa danh trên chính là bốn trạm quan trắc thiên văn cổ xưa của loài người.

Khảo cổ hiện đại ở Trung Quốc vẫn chưa thể xác định kinh đô Nghiêu – Thuấn ở đâu, dù vẫn biết nó không nằm ngoài trung lưu Hoàng Hà (thuộc ba tỉnh Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Tây). Bốn trạm thiên văn sẽ nằm về bốn hướng mà kinh đô Nghiêu – Thuấn là trung tâm. Trong một bài toán thiên văn, sai số đo đạc (ắt phải có) càng ít ảnh hưởng đến kết quả nếu khoảng cách các trạm càng xa nhau. Tuy nhiên khi các trạm quá xa thì mối liên hệ giữa các trạm lại gặp nhiều trở ngại. Theo tôi, khoảng cách giữa hai trạm Đông – Tây hoặc Nam – Bắc sẽ cỡ 10 kinh – vĩ độ là tối đa. Một vĩ độ trên mặt đất dài hơn 111 km. Do đó Nam Giao không thể xa hơn kinh đô Nghiêu – Thuấn 500 km, và lại càng không thể vượt khỏi dòng Trường Giang rộng lớn hung dữ phía nam.

Tôi xin trình bày ở đây một bài toán thiên văn đơn giản nhất để làm minh họa: Bằng các phép đo mặt trời cực kỳ thô sơ người ta có thể suy ra vĩ độ tại một vị trí bất kỳ trên trái đất. Biết vĩ độ hai điểm nào đó sẽ tính ra khoảng cách gần đúng giữa 2 điểm ấy theo đường chim bay.

Xác định vĩ độ của Hà Nội: Chọn một trong 4 ngày Xuân phân, Hạ chí, Thu phân hoặc Đông chí. Dựng một cây cột thẳng vuông góc với mặt đất. Giữa trưa, khi bóng cột đổ dài đúng hướng Bắc – Nam ta đánh dấu đầu bóng cột trên mặt đất. Dễ dàng tính được góc kẹp giữa cột và cạnh huyền của tam giác vuông tạo bởi cột, bóng cột và cạnh huyền (là cạnh ảo). Vĩ độ V của Hà Nội sẽ là:

a. Với ngày Xuân phân và Thu phân: V = Giá trị góc kẹp

b. Với ngày Đông chí: V = Giá trị góc kẹp – 23 độ 27 phút.

c. Với ngày Hạ chí: V = 23 độ 27 phút – Giá trị góc kẹp

Dù tìm V ở ngày nào, nó luôn bằng 21 độ. Với cách làm tương tự, ta tính ra vĩ độ Sài Gòn là 10 độ 30 phút. Khoảng cách theo đường chim bay Hà Nội và Sài Gòn là: D = (21 độ - 10 độ 30 phút)x 111km = 1.165,5 km. Ở trường hợp Hà Nội và Sài Gòn, chênh lệch kinh độ nhỏ không ảnh hưởng nhiều đến kết quả gần đúng. Khi kinh độ chênh lệch lớn người ta phải dùng thêm vài bài toán phụ trợ khác nữa.

Cũng với cây cột thô sơ như thế, người ta có thể tính được một cách khá chính xác số ngày trong 1 năm: đó là chu kỳ bóng cột bằng nhau trên cùng một góc nhất định. Không riêng gì ở Trung Quốc, rất nhiều nền văn minh của nhân loại tại Bắc Bán Cầu đã phát minh ra chiếc đồng hồ đo thời gian đầu tiên chỉ bằng một cây cột. Khi dựng cột thẳng đứng trên mặt đất, độ dài bóng cột và góc của nó so với phương bắc – nam luôn biến thiên theo thời gian. Vậy thì biết hai yếu tố bóng và góc sẽ suy ra thời điểm trong ngày. Đặc biệt bóng cột sẽ luôn đi từ trái sang phải trong một cung tròn nhỏ hơn 180 độ tùy thuộc vào vĩ độ của người quan sát. Điều này giải thích tại sao các thế hệ đồng hồ phức tạp hơn xưa nay phần lớn có kim quay từ trái sang phải ở cung 180 độ phía trên. Chiếc kim đồng hồ cũng chính là sự tái tạo hình ảnh xa xưa của bóng cây cột thiên văn thô sơ hôm nào.

Tóm lại Nam Giao chính là một địa danh. Sau này kiến thức thiên văn của con người sâu sắc hơn, các dụng cụ quan trắc tinh tường hơn thì không cần thiết đi quá xa để đo đạc. Đài Nam Giao có thể dựng ở ngay kinh đô vương quốc. Vua dễ dàng cúng mặt trời trên đài, lần hồi Đài Nam Giao đã biến thành Đàn Nam Giao cho nghi thức tế trời. Vai trò trạm thiên văn của Nam Giao bị che khuất bởi hành vi tín ngưỡng. Hơn nữa chỉ cần một máy đo cao độ thiên thể, cùng với việc tra các bảng tính sẵn trong sách vở, mọi bài toán thiên văn phức tạp nhất đều có thể tính ra.

2. Địa danh Nam Giao góp phần sinh ra khái niệm Giao Chỉ

Nam Giao sẽ đẻ ra khái niệm Giao Chỉ. Thật vậy, Giao Chỉ với chữ Chỉ có bộ phụ mang nghĩa là vùng đất, khu vực. Giao Chỉ là vùng đất tiếp giáp, vùng biên cương vương triều ở về phía nam của địa danh Nam Giao. Chữ Chỉ ngoài bộ phụ, còn có một chữ Chỉ nữa đồng âm nhưng bộ Túc (bàn chân). Sự nhầm lẫn giữa hai chữ Chỉ này góp phần khiến cho nhiều sử gia từ Đông Hán trở về sau có rất nhiều cách giải nghĩa Giao Chỉ. Trần Thư, một bộ sử do Diêu Tư Liêm viết năm 636 đã lần đầu tiên ghi thêm một chữ Chỉ nữa với bộ Thổ (đất) trong từ Giao Chỉ. Cổ văn Trung Hoa có qui tắc “đồng âm thông giả”, tức những chữ đồng âm đều có thể mượn và sử dụng lẫn lộn. Khi tìm nghĩa một chữ phải vận dụng ngữ cảnh đang xét chứ không thể máy móc giữ nghĩa chết của chữ ấy trong những tài liệu khác ít liên hệ.

Thượng Thư cũng là quyển sách đầu tiên nói đến Giao Chỉ, phần Đại truyện ghi: “Phía nam Giao Chỉ có Việt Thường quốc, đời Thành Vương (1063 TCN - 1026 TCN) họ qua 3 lần phiên dịch đến giao hảo và hiến tặng chim Trĩ”. Thượng thư còn được giải thích là sách trời. Đây chính là lý lẽ của bài thơ Nam Quốc Sơn Hà thời Lý:

Nam quốc sơn hà nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Người Việt không còn lưu được quyển sử nào vào thời Lý, song chỉ qua bài thơ trên cũng thấy rõ quan niệm họ cho rằng mình là hậu duệ của Việt Thường quốc phía nam Giao Chỉ. Bởi Giao Chỉ không hề được Thượng thư xem là một quốc gia. Chắc chắn Lý Thường Kiệt hiểu Giao Chỉ đơn giản là một khái niệm nên mới cho lưu truyền bài thơ đó nhằm khích lệ tinh thần vệ quốc của quân dân. Và trước đó, ông đã dụng binh như một bước thăm dò khả năng thu lại những phần đất Lạc Việt cũ đã bị Trung Quốc thôn tính. Thế kỷ 18 Quang Trung Nguyễn Huệ cũng mang tâm tư ấy. Thế kỷ 19 vua Gia Long toan đổi tên nước thành Nam Việt nhưng chẳng thành, để rồi cháu ông là Tự Đức ngậm ngùi trong Khâm Định Việt sử: “Thế mới biết việc thu hồi đất đai đã mất, từ đời trước đã là việc khó, chứ không những ngày nay mà thôi. Thật đáng thương tiếc”. Dưới đây tôi sẽ dẫn chứng minh Lạc là Nước, là quốc gia. Như thế Lạc Việt chính là Việt Thường quốc.

Từ Nghiêu – Thuấn đến đầu triều Chu lãnh thổ Trung Quốc chưa bao giờ vượt qua dòng Trường Giang. Thiên Vũ Cống của Thượng Thư nhắc đến cương vực vương quốc gồm cả bờ nam Trường Giang, nhưng nhiều nhà nghiên cứu tin rằng nội dung của Vũ Cống bị điều chỉnh rất nhiều và thậm chí có thể được viết vào thời Chiến Quốc chứ không thể xa hơn. Do đó không cần vị trí chính xác của Nam Giao vẫn biết được khái niệm Giao Chỉ mô tả vùng đất tiếp giáp Nam Giao, nằm bên bờ bắc trung lưu Trường Giang. Giả dụ có địa danh Giao Chỉ, từ Đông Chu trở đi, việc nước Sở hình thành và bành trướng về phương nam ắt phải xuyên qua Giao Chỉ và địa danh Giao Chỉ phải được nhắc đến không dưới một lần trong rất nhiều sách sử có nói về nước Sở.

Chuỗi luận này sẽ đưa ra một câu hỏi hết sức bất ngờ: Phải chăng đất Sở, mảnh đất mà Chu Thành Vương phong cho Dục Hùng chính là một phần của vùng Giao Chỉ thời ấy?. Đoạn đầu An Nam Chí Lược, Lê Tắc dẫn quyển Hán Quan Nghi của Ứng Thiện chép rằng trước tiên Trung Quốc mở mang từ Sóc (phương bắc) rồi tiến sang phương nam lấy làm Cơ Chỉ. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên cũng viết Giao Chỉ là Cơ Chỉ (cơ sở) mà Hán Vũ Đế mở mang cho con cháu (sẽ dẫn kỹ lưỡng ở bên dưới). Cơ Chỉ đồng nghĩa với Cơ Sở. Chữ Sở trong từ Cơ Sở chỉ khác tên nước Sở ở bộ Thạch nằm bên trái. Theo qui tắc “đồng âm thông giả” thì đất Sở mà Thành Vương phong cho Dục Hùng chính là Cơ Sở của nhà Chu, là Cơ Chỉ của nhà Chu và là một phần Giao Chỉ (vùng đất phía nam đang khai phá) của vương triều Chu. Dục Hùng đến Đan Dương lập quốc, nơi đó hôm nay nằm ở bờ bắc Trường Giang, thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.

Tại Nam man truyện trong Hậu Hán Thư, sau khi nhắc đến ghi chép về Việt Thường quốc ở Thượng Thư đại truyện, Phạm Việp nói tiếp: “Nhà Chu suy, đến lúc Sở xưng bá thì Bách Việt triều cống Sở”. Lôgic ở đây là Việt Thường quốc nằm trong Bách Việt. Nước Sở còn được gọi là nước Kinh. Người Sở có dòng máu Việt. Từ ngày Hùng Thông, hậu duệ của Dục Hùng tiếm đoạt vương hiệu, Trung Quốc luôn coi nước Sở là man di. Không còn trong vòng cương tỏa của triều đình Đông Chu nữa, nước Sở bành trướng ra mãi và có thời làm chủ các chư hầu phương đông. Đó là lý do khái niệm Giao Chỉ bị mất tích trong một thời gian rất dài. Và đó cũng là lý do sử sách Trung Quốc khuyết đi những mô tả chi tiết về Việt Thường quốc và nhiều vùng khác thuộc Bách Việt từ Xuân Thu đến cuối Chiến Quốc. Sử nước Sở, sử của man di không đáng gọi là chính sử để truyền bá nên hầu hết đã bị nhà Tần đốt hoặc thất truyền.

Sử Ký, chương Triệu Thế Gia, nhân việc năm 307 TCN Triệu Linh Vương cải đổi trang phục giống người Hồ để cưỡi ngựa và xây dựng lực lượng kỵ binh, viết: “Sách Dư Địa Chí nói thời Chu Giao Chỉ là Lạc Việt, thời Tần là Tây Âu, họ vẽ mình, cắt tóc ngắn để tránh giao long. Tây Âu Lạc ở về phía tây Phiên Ngô (tức Phiên Ngung). Nam Việt và Âu Lạc có rất nhiều họ (chữ Hán là thiên tính: hàng ngàn họ, khác với bách tính của người Trung Quốc là hàng trăm họ). Sách Thế Bản cũng viết người Việt nhiều họ, có cùng tổ tiên với người Sở”. Dư Địa Chí và Thế Bản là hai quyển sách đời sau chú giải Sử Ký gốc. Như vậy xung quanh thời điển 307 TCN (nửa cuối thời Chiến Quốc) trong vùng Giao Chỉ phía nam nước Sở có nhóm người Lạc Việt cùng tổ tiên với người Sở.

Khi Tần diệt Sở, nước Sở bị gộp vào Trung Nguyên, khái niệm Giao Chỉ không thấy xuất hiện. Sử Ký, Nam Việt úy Đà liệt truyện, viết: Năm 214 TCN quân Tần cướp Dương Việt đặt 3 quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng. Quế Lâm và Nam Hải khá rõ ràng, duy Tượng Quận đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực mà hai ngàn năm nay người ta chưa rõ nó ở đâu. Cũng vì nhà Tần quá ngắn ngủi, chiến tranh sau đó làm sách vở tiêu tán gần hết. An Nam chí lược của Lê Tắc bảo: “Nhà Tần lấy Giao Chỉ làm Tượng Quận”.

Một khi khái niệm Giao Chỉ bị xếp lại, hẳn nhiên phải có một khái niệm khác thay thế. Phải chăng đó là Tượng? Để mô tả thứ nào đó trừu tượng người ta hay dùng phép tượng trưng. Giai thoại “Thầy bói mù xem voi” đã mượn con voi nhằm nói về sự trừu tượng. Nghĩa của chữ Tượng rõ nhất trong môn cờ tướng, người Trung Hoa đã sáng tạo ra Tượng Kỳ chậm nhất là vào thời Chiến Quốc, khi chiến xa còn được coi như “ông kẹ” của chiến trường. Trò giải trí siêu đẳng này hình tượng hóa một trận đánh thời cổ đại vào 64 ô vuông chia đôi bởi một dòng sông. Bàn cờ có hai quân Tượng. Đây không phải loài voi như nhiều người lầm tưởng. Quân Tượng không bao giờ qua sông. Nó biểu trưng cho những yếu tố trừu tượng có ảnh hưởng nhất định đến toàn cuộc như công tác tâm lý chiến, dân vận, ý chí của con người, tinh thần xả thân hy sinh… Bình Nguyên Lộc trong quyển “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” cho biết sách Lễ Ký, chương Vương Chế ghi nhận thời Hạ, Thương, Chu, người Trung Hoa gọi phương nam là Tượng. Triều Chu đã đặt chức quan “Tượng tư” có nhiệm vụ trông nom việc bang giao với các man di phương nam.

Tượng quận có thể hiểu là một vùng đất phương nam tạm để đó, chưa đến lúc xâm lăng, chưa có dịp “khai phá” và “khai thác” theo đúng ngôn ngữ Xuân Thu – Chiến Quốc. Tượng Quận là tên gọi tượng trưng mang tính khái niệm theo cách của nhà Tần và nó tương đương với Giao Chỉ của nhà Chu. Giao Chỉ của Tần Thủy Hoàng là Tượng Quận, tiếp theo Tượng Quận là Nhật Nam sẽ hoàn toàn hợp lý với tư duy ngôn ngữ trong giới hạn kiến thức địa lý xưa kia.

Nhật Nam nghĩa là phía nam mặt trời. Sử ký viết: “Đất đai (nước Tần)… phía nam đến miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc”. Cũng như từ Giao Chỉ, Nhật Nam ban đầu chỉ là khái niệm và có liên quan đến thiên văn. Phần lớn đất nước Trung Quốc ở trên Bắc Chí Tuyến (vĩ độ 23 độ 27 phút, ngang qua thành phố Quảng Châu), do đó mặt trời với họ luôn ở về phía nam, mọc phương đông nam và lặn phương tây nam. Rõ nhất trong ngày Đông Chí đêm dài ngày ngắn, mặt trời lẩn quẩn hẳn về phía nam. Vì vậy khi tế trời (cúng mặt trời) thiên tử - con trời phải quay mặt về phương nam. Có lẽ muộn nhất là thời Tần, người Trung Quốc đã biết trái đất hình tròn và tự quay quanh trục của nó. Họ tính được quĩ đạo mặt trời (hoàng đạo) và suy luận rằng đi về phía nam đến một nơi nào đó, muốn nhìn thấy mặt trời, muốn hưởng sự ấm áp của ánh nắng, con người phải làm nhà quay mặt về hướng bắc.

Tư Mã Thiên viết câu trên chứng tỏ ngành thiên văn biết vậy nhưng sự thực người Trung Quốc chưa bao giờ đặt chân đến vùng Nhật Nam. Theo đúng nghĩa thì Nhật Nam xa lắm, vượt qua xích đạo và Nam Chí Tuyến, ở tận các đảo phía nam Indonesia, Papua New Guinea và Úc Châu hôm nay.

3. Sự lẫn lộn giữa khái niệm và địa danh

Nhà Tần bỏ khái niệm Giao Chỉ và dùng từ Tượng Quận. Nhà Hán nối tiếp nhà Tần, và cũng như trường hợp nước Sở trước kia, Nam Việt của Triệu Đà đã chặn cương thổ vương quốc Hán ở phía nam 93 năm. Nam Việt bị diệt, sự lẫn lộn trong việc dùng từ Giao Chỉ vừa là địa danh, vừa là khái niệm bắt đầu diễn ra. Điều này thể hiện khi họ đặt tên khu vực mới chiếm được năm 111 TCN.

Hán Thư của Ban Cố viết: “Nam Việt dĩ bình toại dĩ kỳ địa vi Đạm Nhĩ Chu Nhai Nam Hải Thương Ngô Uất Lâm Hợp Phố Giao Chỉ Cửu Chân Nhật Nam cửu quận”. Tức là: “Bình được Nam Việt chia làm 9 quận…”. Chu Nhai, Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam. Nam Hải, Thương Ngô thuộc Quảng Đông. Uất Lâm và phần lớn Hợp Phố thuộc Quảng Tây. Theo tôi Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tiếp tục là khái niệm, thứ khái niệm thuần thiên văn nói lên tính tự cao, tự đại, lòng tham và chủ nghĩa bành trướng của nhà Hán.

Người Trung Quốc dùng khái niệm Giao Chỉ để gọi chung cho 9 quận mới. Giao Chỉ bộ là tên gọi nửa khái niệm, nửa địa danh. Quan trông coi Giao Chỉ Bộ chỉ được đặt ra năm 106 TCN, đó là Thứ Sử Thạch Đái. Nếu các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là địa danh thì bắt buộc phải có Thái Thú trấn nhậm. Điều này chỉ xảy ra hơn 100 năm sau, vào đầu công nguyên với Tích Quang và Nhâm Diên. Hán Thư cũng nghi nhận năm 48 TCN, theo lời tấu của Giả Quyên Chi, Hán Chiêu Đế đã bỏ quận Chu Nhai vì Hán quan nơi ấy thường bị dân bản địa chống đối, nổi dậy giết hại. Trường hợp Thái Thú Tôn Hạnh cuối thời Hán Vũ Đế là ví dụ điển hình. Giả sử quận Giao Chỉ dân cư đông đúc, văn minh, từng có nước Âu Lạc, có thủ đô của nhà nước sơ khai Văn Lang thì thật quá khó hiểu. Tại sao nhân dân nơi ấy “ôn hòa” sống với ngoại bang là những ông quan ảo, chịu bị bóc lột hàng trăm năm đến tận thời Mê Linh liệt nữ!?

Đến lúc này dù Giao Chỉ nằm trong cụm Giao Chỉ Bộ hay Giao Chỉ Quận, nó vẫn là nơi liên giao phía nam nhà Hán với phương nam. Như vậy trải qua nhiều trăm năm bành trướng về phương nam của người Trung Quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển theo bước chân các đoàn quân đế quốc. Phải chăng đó là lý do để chữ Chỉ tồn tại thêm một dạng viết có bộ túc?

Rắc rối xuất hiện ở chỗ tại sao lại có Cửu Chân chen giữa Nhật Nam (khu vực mà người Hán chưa biết, chỉ đoán mò) và quận Giao Chỉ. Theo tôi Cửu Chân nghĩa là nơi ở của mặt Trời, đại khái là Xích Đạo vậy. Cửu là số chín, số chín tượng trưng cho Trời thì khỏi phải bàn cãi. Chữ Chân chắc chắn là gốc, giống như “quy chân” là trở về gốc. Chân cũng có thể mang nghĩa là Trọng, như từ Trọng Hạ (giữa mùa hạ) đã dẫn trong sách Thượng Thư ở trên. Dịch Cửu Chân qua tiếng Việt hiện đại thì ý nghĩa sẽ sáng tỏ không ngờ: Chân Trời!

Khái niệm Giao Chỉ, với chữ Giao đã đi song song cùng chữ Nam và nam tiến hàng ngàn năm, đến đây đã đứng lại. Người Hán tưởng rằng họ đã đến được Xích Đạo (Cửu Chân), cũng chẳng sai nhiều vì giữa trưa từ ngày Xuân Phân đến Thu Phân, mặt trời gần như luôn ở trên đỉnh đầu cư dân vùng Thanh Hóa Việt Nam. Việc họ đoán bên kia chân trời (Cửu Chân) mặt trời chếch về phía bắc là hợp lý. Những người Trung Quốc đến vùng biển đông thám thính hoặc giao thương xem ra khó có thể mang theo một chuyên gia thiên văn của triều đình (chỉ quen với thư phòng giữa kinh đô Hán). Dù sao ngữ nghĩa mới của từ Cửu Chân và Nhật Nam vẫn chỉ là khái niệm, thứ khái niệm sinh ra do ngành thiên văn học ngày càng chính xác hơn, thứ khái niệm cần phải có sau khi khái niệm Giao Chỉ đã hết tác dụng, đã biến thành nửa khái niệm, nửa địa danh.

Thiên văn học của người Trung Quốc thời đó cần thêm nhiều dữ kiện thực tế để xác tín lý thuyết. Mà muốn có thực tế thì phải đợi, và quả là họ đã đợi hàng trăm năm đến ngày Mã Viện nam chinh. Khoảng trống ấy đã vô tình làm tan loãng tất cả ý nghĩa thiên văn trong tên gọi Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, để rồi chúng mãi mãi mất đi tính khái niệm và đường hoàng trở thành địa danh trên bản đồ đại Hán.

Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Đồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn. Cựu Đường Thư (của Lưu Hủ hoàn thành khoảng năm 924 đến 946) viết về vấn đề này rõ nhất trong thiên Địa Lý chí thứ 4: “Mã Viện đi qua Nhật Nam, qua Lâm Ấp, đến biên giới Tượng Lâm và Tây Đồ Di dựng hai cột đồng ghi công tích toàn thịnh của nhà Hán. Có vài chục người không thể về Hán (!?) bèn lưu lại dưới chân trụ đồng, đến thời Tùy đã thành hơn 300 nhà. Người Nam Man gọi họ là Mã Lưu Nhân”.

Có hai khả năng: Một là Lưu Hủ thực sự không biết mục đích Mã Viện dựng cột đồng là để đo cao độ mặt trời, lập bảng thiên văn và tính khoảng cách từ Tượng Lâm về kinh đô Hán. Hai là Lưu Hủ biết nhưng tuân thủ triệt để nguyên tắc bảo mật các bí quyết khoa học của triều đình Trung Hoa, viết chỉ để cho người biết đọc. Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.

4. Hàng ngàn năm sa lầy của sử học Việt Nam và Trung Hoa

Thiết nghĩ không nên kể ra đây hàng lô hàng lốc những suy diễn của các sử gia Trung Hoa và Việt Nam về ý nghĩa sai lạc của các từ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam từ thời Đông Hán đến hôm nay. Ai đó từng nói chân lý không bao giờ thuộc về đám đông ở trường hợp này rất đáng tham khảo. Tôi sẽ nêu nguyên nhân của tất cả các suy diễn ngây thơ ấy.

Sử Ký (hoàn thành khoảng thập kỷ 90, TK 1 TCN) không kể tên 9 quận phía nam nhà Hán mà Lộ Bác Đức lấy được năm 111 TCN. Có thể Tư Mã Thiên chưa theo kịp các diễn biến thời sự. Chín cái tên ấy chỉ xuất hiện trong Hán Thư, một quyển sử ghi chép chuyện xảy ra từ năm 206 TCN đến năm 6 SCN của Ban Cố (sinh năm 32 – mất năm 92). Đến Hậu Hán Thư của Phạm Việp (398 – 455), chép sự việc từ năm 25 đến 190, thì bắt đầu có những giải thích không căn cứ về địa danh Giao Chỉ.

Trung Quốc từ Ân – Thương vốn đã có chức quan Thái sử ghi chép các sự kiện diễn ra từ quá khứ đến hiện tại. Ta thấy thời của Tư Mã Thiên và Ban Cố, chức Thái sử vẫn kiêm thêm việc nghiên cứu thiên văn, lịch pháp. Chẳng hạn Tư Mã Thiên đã cùng Hồ Toại sửa lịch cũ thành Hán lịch. Sử Ký và Hán Thư luôn có những chương viết về thiên văn rành mạch và kê cứu rất nhiều hiện tượng thiên văn dọc năm tháng như Thiên Thạch (Tần Thủy Hoàng bản kỷ), điểm đen trên mặt trời (Ngũ hành chí, Hán Thư). Do đó việc các sử quan góp ý với vua cách đặt địa danh và khái niệm trên cơ sở hệ thống thiên văn học là hoàn toàn dễ hiểu. Họ chưa có tư liệu thực tế về Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thì đành vọng đoán bằng thiên văn.

Cũng từ Tư Mã Thiên và Ban Cố trở về sau thiên văn học Trung Quốc phát triển rất nhanh chóng. Ví như Đổng Trọng Thư tra trong giáp cốt văn mà tính được ngày rằm tháng hai năm Võ Đinh thứ 29 có nguyệt thực. Con người hiện đại lần theo dương lịch thì đúng là ngày 23 tháng 11 năm 1311 TCN có nguyệt thực thật. Kỷ Tây Hán, các nhà thiên văn chuyên nghiệp Trung Quốc cũng đã tính được chu kỳ sao Hỏa là 584,4 ngày, so với phương pháp thiên văn vũ trụ hiện đại là 583,921 ngày, sai số nhỏ đến nỗi không thể tưởng tượng! Hồn Nghi, một dụng cụ quan trắc thiên văn khá chính xác đã được chế tạo vào thời Hán Vũ Đế, nó thể hiện đầy đủ thiên kinh tuyến, quỹ đạo mặt trời và thiên xích đạo. Đến Trương Hoành (78 – 139), thiên văn cổ đại Trung Quốc đã lên đến đỉnh cao nhân loại. Họ Trương chế ra Hồn Thiên Nghi biểu diễn sự vận hành của thiên thể, có vòng hoàng đạo và thiên xích đạo tạo thành 1 góc 24 độ trong khi thực tế nó là 23 độ 27 phút (đây chính là số hiệu chỉnh vĩ độ Hà Nội trong bài toán thiên văn tôi đã đưa ra ở mục 1).

Do sự phức tạp và đồ sộ của những kiến thức thiên văn mới, Thái sử không còn đủ sức kiêm công việc quan trắc bầu trời nữa. Tôi đoán thiên văn đã tách ra thành một ngành riêng. Phạm Việp (398 – 455) tác giả Hậu Hán Thư có lẽ ít am hiểu thiên văn nên ông ta không rõ ngôn ngữ của các sử gia như Tư Mã Thiên, Ban Cố. Chính Phạm Việp đã mở ra phong trào suy diễn các khái niệm và địa danh để lớp lớp các nhà sử học Việt – Trung sau này “tận tín thư” đi theo. Trong Nam man truyện, Hậu Hán Thư, Phạm Việp viết: “Lễ ký xưng nam phương viết man điêu đề giao chỉ. Kỳ tục nam nữ đồng xuyên nhi dục, cố viết giao chỉ”. Tạm dịch: “Sách Lễ ký bảo người phương nam là man (di). Họ xăm trán, giao chân. Tục của họ là trai gái có thể tắm chung một khúc sông nên gọi là Giao Chỉ”. Cách giải thích của Phạm Việp vừa đầy suy diễn vừa cũ kỹ, ông ta chỉ biên tập lời Giả Quyên Chi ghi ở Hán Thư mà thôi: “Lạc Việt chi nhân phụ tử đồng xuyên chi dục (người Lạc Việt cha con thường tắm chung trên một khúc sông)”. Trong tinh thần Nho Giáo Trung Hoa, Phạm Việp chẳng hiểu làm sao mà cha con Lạc Việt có thể hòa đồng như vậy, ông ta bèn thay bằng trai gái cho dễ chấp nhận. Dù sao vi phạm luật “Nam nữ thụ thụ bất thân” còn nhẹ hơn xâm hại Ngũ Luân!

Nếu nói mọi người đều lầm hết sẽ rất tùy tiện. Thỉnh thoảng trong các sách ra đời sau Hậu Hán Thư vẫn thấy từ Giao Chỉ được dùng như một khái niệm, trong ngữ nghĩa khởi thủy của nó, dù thời điểm ấy Giao Chỉ hiển nhiên đã là địa danh cố định. Lịch Đạo Nguyên viết trong Thủy Kinh Chú (hoàn thành năm 515): “…thời hựu kiến Sóc Phương minh dĩ thủy khai bắc thùy toại tịch Giao Chỉ vu nam vị tử tôn cơ chỉ dã”, tức: “Vua (Hán Vũ Đế) vừa khai phá biên thùy Sóc Phương phía bắc, vừa mở Giao Chỉ phương nam làm nền móng cho con cháu”. Người đọc tinh ý sẽ thấy ngay cặp khái niệm bắc – nam song đối Sóc Phương và Giao Chỉ, nó không khác cặp Sóc Phương và Nam Giao đã dẫn trong Thượng Thư là mấy.

Có thể có một cách giải thích khác cho vấn đề này. Người Trung Quốc không lầm, họ cố ý tung hỏa mù và diễn dịch sai lạc ý nghĩa của từ Giao Chỉ. Đây là phương diện học thuật trong tổng thể âm mưu thực dân của đế quốc Hán. Ngay cả ngôn ngữ họ cũng không chừa, bằng chứng là họ dùng chữ Việt bộ Tẩu cho quốc danh nước Việt, còn tộc danh của người Quảng Đông lại là chữ Việt bộ Mễ dù người bản địa cổ xưa ở Lưỡng Quảng và Việt Nam đều là người Lạc Việt. Chính sách phân hóa, chia nhỏ các dân tộc thuộc địa để trị luôn là con bài thâm hiểm của tất cả các đế quốc từ Á sang Âu, xuyên suốt xưa nay. Trong bối cảnh ấy mới thấy tầm vóc những cá nhân kiệt xuất của dân tộc Việt Nam như Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh… Trái lại, ngành sử học Việt Nam nên có những việc làm cần thiết tự xét lại mình.

B. Cội nguồn dân tộc Việt Nam

1. Lý thuyết địa đàng Phi châu và những cuộc di dân

Lý thuyết địa đàng Phi châu cho rằng loài người tiến hóa từ giống khỉ tại châu Phi. Những cuộc di cư sau này đã đưa con người đến khắp nơi trên mặt đất. Tôi xin dùng công trình nghiên cứu di truyền của Spencer Wells làm nền tảng cho bài viết này. [2] Mặc dù còn rất nhiều ý kiến của các nhà nhân chủng học thế giới không đồng tình với Wells, nhưng nói chung họ chỉ thắc mắc ở thời điểm di cư. Tôi sẽ dùng cách khảo nghiệm duy lý với văn hóa, khảo cổ và lịch sử để cọ sát với lý thuyết di truyền của Wells, hầu mong đưa ra một giả thuyết tham khảo.

Với kết luận của Spencer Wells, tôi tính ra: Cuộc di dân đầu tiên từ Phi châu diễn ra cách nay 60 ngàn năm. Đoàn người đi dọc vùng đồng bằng ven biển Nam Á, đến Đông Nam Á. Tại đây một nền văn minh đồ đá đã được hình thành. Từ 9 đến 12 ngàn năm trước, kiến tạo địa chất ở vành đai lửa Indonesia với sóng thần, đất sụt đã nhấn chìm trung tâm văn minh Tiền Đông Nam Á. Những cư dân còn sót lại sau thảm họa đã chia làm hai nhánh, nhánh thứ nhất đến châu Úc, nhánh thứ hai rẽ lên phía bắc, rồi dừng lại khá lâu bên bờ nam Trường Giang. Có thể trước đó văn minh Tiền Đông Nam Á cũng có những làn sóng khai phá đất mới ở hai phía bắc và nam nhưng thưa thớt và chậm chạp vì cuối kỷ băng hà càng xa xích đạo khí hậu càng lạnh. Cuộc di dân thứ hai cũng từ Phi châu cách nay 45 ngàn năm. Họ đến Trung Đông, từ Trung Đông hai phân nhóm đã hình thành tiến vào Ấn Độ và vùng tây bắc Trung Hoa. Cuộc di dân thứ ba (không sử dụng trong bài viết này) diễn ra cách nay 40 ngàn năm, đoàn người đến Trung Á và sau đó tràn qua châu Âu.

Tại sao họ ra đi? Tất cả các nền văn minh sơ khai đều thờ mặt trời. Những chữ viết đầu tiên của nhân loại ở khắp nơi tương đồng một cách đáng ngạc nhiên ở chữ “mặt trời”: một vòng tròn có chấm chính giữa. Thần mặt trời ở Ai Cập là Ra, tại Lưỡng Hà là Samat, ở Nhật là Amaterasu O Mikami (Thiên chiếu đại thần, Thái dương thần nữ). Vua của người Trung Quốc và cả người Inca tận châu Mỹ đều tin mình là con trời hoặc con của thần mặt trời. Hình ảnh mặt trời trên trống đồng Đông Sơn thì thật ấn tượng. Về góc độ khoa học, mặt trời là nguồn sống của trái đất, là năng lượng cho tiến hóa. Đi về phía đông, di cư về phương đông chính là đến gần hơn với mẹ mặt trời. Và thật không có hình ảnh nào đẹp đẽ bằng: loài người đã đi theo ánh sáng mặt trời để phủ kín trái đất.

Tại sao cuộc di cư đầu tiên của người Tiền Đông Nam Á dừng lại bên dòng Trường Giang mà không phải xa hơn về phía bắc? Trường Giang hung dữ và quá rộng lớn, đã phần nào cản bước đoàn di dân. Thêm nữa, theo ngành thủy văn, Trường Giang dưới tác động của lực coriolis, bờ bắc lở trong khi bờ nam bồi lắng. Cư dân nông nghiệp có xu hướng chọn vùng phù sa màu mỡ định cư lâu dài. [3] Họ chỉ tiến qua bờ bắc khi đối mặt với nạn nhân mãn, hoặc dưới các nguyên cớ khác.

Phân nhánh của đoàn di dân thứ hai tiến vào trung lưu Hoàng Hà bằng hành lang Cam Túc, xây dựng nền văn minh tạm gọi là Hoa Hạ. Ba di chỉ đồ đá có mối liên hệ rõ ràng tạo thành tam giác trung tâm của nền văn minh Hoa Hạ: Đại Địa Loan (hơn 8000 năm) nằm ở mạn phải dòng Thanh Thủy, Tần An, Cam Túc; Bán Pha (khoảng 6 ngàn năm) thuộc Tây An, Thiểm Tây; và Giả Hồ (cũng hơn 8000 năm) tại Hà Nam. Bán Pha và Giả Hồ đều về phía bờ nam Hoàng Hà. Ngoài ra trên bờ bắc Hoàng Hà tại làng Đào Tự, Tương Viên, Sơn Tây người ta vừa đào được 1 tường thành dài 130m, 4500 tuổi. [4] Nó cho thấy hướng phát triển ban đầu của văn minh Hoa Hạ. Di vật của Hoa Hạ chứng tỏ nó không dính dáng gì đến con người của bờ nam Trường Giang, vào thời điểm đó. Kiểu hạn canh trong sản xuất nông nghiệp và quần cư tại các khu đô thị sơ khai cũng là đặc điểm riêng biệt của văn minh Hoa Hạ. Như vậy nền văn minh Hoa Hạ hình thành quốc gia Hạ sơ khai, khoảng năm 2200 TCN phần nào đã sáng tỏ. Các nhà khảo cổ cũng tin rằng lúc này chế độ mẫu hệ của văn minh Hoa Hạ dần dần được thay bằng phụ hệ. Những truyền thuyết truyền hiền, rồi truyền ngôi cho em và cuối cùng là cho con trai trưởng của dân tộc Trung Hoa ẩn chứa quá trình biến chuyển kia. Ngay cả việc Ngu Thuấn là con rể của Đường Nghiêu và đã được Đường Nghiêu cho thừa tự ngai vàng cũng thấp thoáng nội dung mẫu hệ.

2. Sự hình thành và phân rã văn minh Thần Nông

Thời điểm dừng lại bên dòng Trường Giang, đoàn di dân Tiền Đông Nam Á đã tạo nên một không gian văn hóa và chủng tộc gần gũi khá rộng lớn: phía nam là đồng bằng sông Cả, sông Mã (Việt Nam hôm nay), phía tây cận cao nguyên Tây Tạng, phía đông giáp biển Thái Bình Dương. Tôi tạm gọi đây là văn minh Thần Nông.

Tôi đã cân nhắc hai tên gọi khác cho văn minh Thần Nông là văn minh Trường Giang và văn minh Dương Tử. Đây là cách đặt tên phổ biến trong sử học. Chẳng hạn chúng ta có văn minh Lưỡng Hà, văn minh Hoàng Hà. Tuy nhiên cái tên văn minh Thần Nông hữu lý nhất mặc dù nó có thể gây ra những tranh cãi về gốc Việt hay Hoa của từ Thần Nông. Xin hãy hiểu Thần Nông là những nhà thủy nông giỏi giang như thần thánh. Nói đến nền văn minh Thần Nông thì không gì hay hơn là nói về những con người bình dị nhưng vĩ đại của các đồng bằng chuyên canh lúa nước. Văn minh bao giờ cũng thuộc về cộng đồng người xây dựng lên nó bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu xương suốt chiều dài đằng đẵng của lịch sử.

Thổ nhưỡng và khí hậu tổng thể của khu vực quy định một số đặc điểm của nền văn minh này: sinh sống bằng nghề nông mà chủ yếu là trồng lúa nước, thuần hóa trâu bò làm sức kéo; nghiên cứu thiên văn lịch pháp phục vụ mùa màng, làm thủy lợi; dùng cây cỏ chữa bệnh và khai sinh Đông Y; sử dụng thành thạo ghe thuyền, đánh cá, khai thác thủy sản; họ ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình, cắt tóc ngắn, cài nút áo bên trái…

Văn minh Thần Nông phát triển đều đặn, có nhiều thành tựu nhưng lưu cữu hai khuyết điểm rất lớn: không tạo ra được chữ viết (hay ít ra là thứ ký tự phổ thông, tiện dụng); do đời sống tự cung tự cấp gắn chặt với lao động trên ruộng lúa nước nên bảo thủ, dẫn đến mất cơ hội đột phá chấm dứt chế độ mẫu hệ. Hệ quả là nền văn minh Thần Nông tồn tại rất lâu ở dạng thị tộc, bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc có giới hạn, chậm vươn đến hình thức nhà nước sơ khai.

Sau một thời gian phát triển tại chỗ, những con người của văn minh Thần Nông đủ sức vượt dòng Trường Giang. Họ tiến lên phía bắc, giao tiếp với văn minh Hoa Hạ cũng đang trên đường xuôi về phương nam. Xin hiểu sự giao tiếp này bao gồm cả những tranh chấp, và không thể không có xung đột. Thần thoại Trung Quốc kể chuyện Hoàng Đế đánh nhau với Suy Vưu (con cháu Thần Nông) nói lên điều đó.

Văn minh Hoa Hạ và văn minh Thần Nông tiếp xúc nhau ở khoảng giữa hai lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang, đã góp phần tạo nên một nền văn minh bắt đầu có hiến sử là văn minh Trung Nguyên – Hoa Hạ (Trung Hoa). Văn minh Hoa Hạ sẵn có phần bổ khuyết khuyết điểm của văn minh Thần Nông. Nó hấp thụ tất cả tinh túy của văn minh Thần Nông để lớn mạnh vượt bậc, rồi quay ra chèn ép chính thân sinh Thần Nông của mình. Song nó cũng thu nhận hình ảnh Thần Nông vào hệ thống huyền thoại Tam Hoàng, Ngũ Đế mô tả thời khởi thủy của mình. [5] Cái tên Trung Quốc bắt đầu sinh ra từ đây. Nguyên thủy, nó mang nghĩa quốc gia ở giữa thiên hạ vì kiến thức đương thời chỉ mới biết hai nền văn minh, hai chủng tộc lớn là Thần Nông và Hoa Hạ. Chỉ một phần đất đai của văn minh Thần Nông hòa nhập với văn minh Hoa Hạ. Phần lớn còn lại vì trải trên địa bàn quá rộng, rải rác suốt bờ Trường Giang, đặc biệt là phía nam Trường Giang, vẫn tách biệt, đây chính là vùng Bách Việt, như cách gọi của người Trung Hoa sau này.

Thành công rực rỡ nhất của cuộc liên giao Thần Nông và Hoa Hạ biểu hiện ở nhà nước Sở đông đúc, rộng lớn, giàu có và tiến bộ, từng làm bá chủ chư hầu đe dọa vương triều Thần Chu (chỉ còn là hình thức sau khi nước Sở ra đời). Sở cũng là nước kế cuối trong lục quốc bị Tần thôn tính sau này, bằng rất nhiều binh lực và xương máu, dù Sở giáp ranh với Tần. Tuy vậy, chưa đầy 13 năm sau khi mất nước, một vị anh hùng có tiền nhân đời đời làm tướng nước Sở là Hạng Vũ, đã đứng lên lấy danh nghĩa phục Sở tiêu diệt nhà Tần, chia đất cho thiên hạ và tự xưng là Tây Sở Bá Vương. Năm 202 TCN Hạng Vũ bại vong trước Lưu Bang. Cao Tổ nhà Hán cũng là người nước Sở. Lịch sử bi hùng của nước Sở tồn tại hơn 500 năm đã vĩnh viễn khép lại.

Lịch sử nước Sở bắt đầu bằng việc Thành Vương phong tước Tử của nhà Chu cho Mị Dục Hùng, [6] ở vùng biên viễn phía nam vương quốc Chu. Dục Hùng vốn từng lập công với nhà Chu. Đến đời Hùng Thông, hậu duệ của Dục Hùng (khoảng đầu thời Đông Chu, dưới ngai Hoàn Vương năm 719 đến 697 TCN), nước Sở đã tiêu diệt và sáp nhập rất nhiều lân bang và bành trướng đến vùng Trường Giang. Dù không được Hoàn Vương chấp nhận, Hùng Thông vẫn tự xưng là Sở Vũ Vương và làm chủ các nước chư hầu ở phương đông. Hùng Thông mất, con là Hùng Si nối ngôi cùng các vương triều tiếp theo mở rộng nước Sở xa dần về hướng đông nam, vượt qua dòng Trường Giang hùng vĩ.

3. Nhà nước sơ khai Văn Lang

Những biến cố lịch sử diễn ra trên mảnh đất Việt Nam tương đối rõ ràng từ thời Mê Linh liệt nữ trở về sau. Sách sử xưa nhất do chính người Việt viết còn lưu truyền đến ngày nay chỉ xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 14. Tuy nhiên có một truyền thuyết được nhắc đi nhắc lại là thủy tổ Kinh Dương Vương là cháu 4 đời của Thần Nông, Kinh Dương Vương lấy Long nữ Động Đình Hồ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân cưới Âu Cơ và đẻ 100 trứng, nở trăm con. Cuộc chia ly êm dịu diễn ra sau đó: Âu Cơ đem 50 người con lên rừng, Lạc Long Quân dẫn số còn lại xuống biển. Nước Văn Lang do Hùng Vương, người con cả của Lạc Long Quân và Âu Cơ dựng lên, đóng đô ở Phong Châu, vùng trung du tương đối bằng phẳng thuộc đồng bằng sông Hồng.

Rõ ràng đã có một cuộc di cư nằm ẩn trong chính truyền thuyết trên. Khoảng cách giữa Động Đình Hồ và Phong Châu là gần 1000 km theo đường chim bay. Sâu hơn nữa, tham khảo Bình Nguyên Lộc, tôi nghĩ có lẽ truyền thuyết 100 trứng kia nói về cuộc chia tách đại chủng tộc Thần Nông làm hai nhánh lớn: Tây Âu và Lạc Việt. Người Tây Âu đi về vùng núi non phía tây, và ít nhiều thay đổi tập quán sinh sống truyền thống của nền văn minh Thần Nông. Người Lạc Việt ở lại hoặc tản về phương đông và lưu giữ gần đủ đặc điểm cũ. Bản thân Tây Âu và Lạc Việt vẫn tiếp tục phân hóa thành nhiều nhóm nhỏ nữa. Con số 100 trứng, đáng ngạc nhiên, trùng khớp với tên Bách Việt mà người Trung Hoa đặt ra, để gọi những nhóm dân bờ nam trung và hạ lưu Trường Giang. Đây rõ ràng là dấu vết giao lưu văn hóa Thần Nông và Hoa Hạ, bởi Kinh Thi có câu “Tắc bách tư nam” (chúc có hàng trăm con trai), vậy một trăm hay bách nghĩa là nhiều.

Nếu đồng ý với không gian truyện cổ tích là Kinh Dương Vương sinh Lạc Long Quân ở Ngũ Lĩnh (rặng núi phía nam Động Đình Hồ) thì sẽ giải mã được “giặc Ân” trong một truyện cổ tích khác là “Thánh Gióng”. Thật vậy, Ân – Thương mất nước bởi dân Chu năm 1066 TCN, việc họ nam tiến trước hoặc lưu vong sau thời điểm 1066 TCN và đụng độ với Lạc Việt là hoàn toàn có cơ sở. Khảo cổ học đã xác định tương đối chính xác kinh đô Ân – Thương nằm giữa tỉnh Hà Nam hiện đại, cách Động Đình Hồ chỉ vài trăm cây số theo đường chim bay. Rất có thể liên minh thị tộc mẫu hệ Văn Lang, hạt nhân của Thần Nông và Lạc Việt, hình thành ở khu vực từ rặng núi Ngũ Lĩnh đến bờ nam Trường Giang mà trung tâm là Động Đình Hồ, sau khi nhà nước Ân – Thương ra đời (khoảng năm 1700 TCN). [7] Tôi tạm tính một đời vua Hùng trung bình 25 năm, chuyện Thánh Gióng xảy ra năm 1066 TCN, suy ra Hùng vương thứ 18 lên ngôi năm 741 TCN. Con số 741 TCN rất thuyết phục, vì nó xê dịch không nhiều với năm tháng nước Sở hình thành và bành trướng về phía nam. Đại Việt sử ký toàn thư ghi năm thứ nhất họ Hồng Bàng là năm Nhâm Tuất 2879 TCN. Theo chuỗi luận của tôi đưa ra thì kỷ nguyên Văn Lang bắt đầu cũng từ năm Nhâm Tuất nhưng là Nhâm Tuất 1199 TCN.

Văn minh Trung Hoa phát triển xuống, những con người bất khuất nhất không chịu đánh mất bản sắc và lề thói để hòa nhập với văn minh Trung Hoa đã ra đi. Kẻ ở lại cùng người mới xây dựng nên nước Sở. Là cư dân sinh sống bằng ruộng lúa nước, sử dụng thành thạo thuyền bè nên cuộc di cư hình thành hai cách lên đường chính là bộ hành và hải hành, họ chia thành nhiều nhóm thị tộc nhỏ túa về ba phương Tây – Đông – Nam hoặc xuôi Trường Giang ra biển. Mục đích đầu tiên của họ là tìm kiếm một vùng đồng bằng sông nước khác lập nghiệp. Những con người giỏi giang nhất luôn đi xa nhất, tìm được mảnh đất ưng ý nhất, và cuối cùng họ đã đến miền bắc Việt Nam ngày nay. Hiện thực thế kỷ 21 chứng minh điều đó, hậu duệ của đoàn người lưu vong kia lập nên Việt Nam, quốc gia duy nhất trong Bách Việt không bị Hán hóa và thâu nhập đất đai và con người vào nền văn minh Trung Hoa. Đường di cư trên bộ trải dài từ Động Đình Hồ, qua đồng bằng hẹp Tây Giang, Quảng Tây để đến đồng bằng sông Hồng. Có không ít cư dân Văn Lang đã trụ lại bên dòng Tây Giang này. Họ cũng lập nên phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đình Hồ với thủ lĩnh là Vua Hùng, tôi tạm gọi là Văn Lang Tây Giang.

Đồng bằng sông Hồng lúc ấy cũng có thể đã có người sinh sống, nhưng chắc chắn dân cư rất thưa thớt, đầm lầy nhiều, rừng nhiệt đới rậm rạp, mùa mưa thì ngập lụt tràn lan. Vì lẽ đó vùng định cư trung tâm được chọn là miền trung du Phong Châu cao ráo. Mang trọn bản sắc Văn Lang ra đi, những con người bất khuất, yêu chuộng hòa bình và tự do vẫn gọi quê mới là Văn Lang, lãnh tụ của họ xưng là Vua Hùng, danh chính ngôn thuận tiếp nối Vua Hùng của nước Văn Lang ở Động Đình Hồ. Hành trình tìm kiếm Phong Châu còn ít nhiều đọng lại trong truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh, ở đời vua Hùng thứ 18.

Các di chỉ khảo cổ đã khai mở ở Việt Nam không thể bác được giả thuyết di cư này: Phùng Nguyên niên đại 3500 năm (chưa có đồ đồng), Đồng Đậu niên đại trên 3000 năm (đồ đồng rất ít và nhỏ như mũi tên, rìu), Gò Mun vào cỡ thế kỷ 8 TCN, Đông Sơn thế kỷ thứ 7 TCN. Đặc biệt, mọi di chỉ đều nằm trên các khu đồi cao ráo, càng củng cố dự đoán về thổ nhưỡng đã nói.

Niên đại xa nhất của trống đồng tìm được ở Việt Nam và Trung Quốc cũng rất gần nhau: khoảng TK 7 đến TK 8 TCN. [8] Địa bàn chính đào được trống đồng rất rộng lớn, nó bao gồm bắc Việt Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quí Châu, Quảng Tây, Quảng Đông. Ba nơi nhiều trống đồng nhất là Đông Sơn (Thanh Hoá, Việt Nam), Vạn Gia Bá (Vân Nam) và Khu tự trị dân tộc Tráng (Quảng Tây). Đáng ngạc nhiên là kiểu trống đồng đẹp nhất cũng là kiểu xưa nhất. Giả thuyết của tôi lý giải được điều này: trên đỉnh cao của mình, nhà nước Văn Lang sơ khai ở Động Đình Hồ, vừa bị văn minh Trung Hoa chèn ép, vừa không vượt lên chế độ phụ hệ được, đã phân hóa thành nhiều nhóm thị tộc nhỏ trôi giạt khắp nơi. Kỹ nghệ đúc đồng tuyệt diệu của họ lan về các hướng theo đoàn di dân. Và thật đáng tiếc, từ đây nền văn minh khu biệt của từng đoàn người lưu vong lần hồi thoái trào, trống đồng ngày càng thô hơn.

Một điều rất lạ là trung lưu sông Hồng và dòng Tây Giang khá giống nhau. Tây Giang trước khi ra biển thì chảy qua thành phố Quảng Châu với tên Châu Giang. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên có viết về Diệp Du Hà với thượng nguồn thuộc tỉnh Vân Nam, chảy vào Giao Chỉ (Bộ hay Quận?) tụ thành 3 nhánh rồi xuôi hướng đông. Thật khó đoán định Diệp Du Hà là sông Hồng hay Tây Giang. Có thể đây cũng là một nguyên nhân khiến cho Văn Lang Phong Châu và Văn Lang Tây Giang ngoài yếu tố chủng tộc tương đồng, còn giống nhau ở mô tả địa lý trong sử sách và văn ngôn truyền khẩu.

Văn Lang Phong Châu ở góc độ nào đó, là bước lùi so với Văn Lang Động Đình Hồ. Con người Văn Lang mất quá nhiều thứ trên đường đến châu thổ Hồng Hà. Ràng buộc giữa các thị tộc ngày càng lỏng lẻo, dân ít, địa bàn cư trú dàn trải, lũ lụt chia cắt, dần dần thủ lĩnh tối cao mất hết quyền lực, trở thành biểu trưng tinh thần đơn thuần. Hình ảnh vua Hùng trong thực tế cuộc sống tự động biến mất, nhưng nó mãi mãi lưu truyền giữa tâm thức con người Văn Lang để hoài nhớ về một thời hoàng kim bất diệt.

4. Việt Thường Quốc, Lạc Việt, Âu Lạc, Âu Cơ, Lạc Long Quân

a. Việt

Mở đầu Việt sử tiêu án (1775), Ngô Thì Sĩ viết: “Xét theo thiên Vũ Cống, nước Việt ở về phía nam đất Dương Châu. Theo sách Thiên Quan (quan sát bầu trời) từ sao Bắc Đẩu mười một độ qua sao Khiên Ngưu đến sao Chức Nữ bảy độ là tinh kỷ. Kể về sao thì ở về ngôi Sửu, cùng một phận dã tinh truyện với nước Ngô. Cõi nam là Việt môn, có rất nhiều nước như Âu Việt, Mân Việt, Lạc Việt cho nên gọi là Bách Việt”.

Theo bản đồ thiên văn quốc tế hiện nay thì vùng Bách Việt này nằm trong khu vực giới hạn bởi thiên kinh tuyến 105 và 120 độ đông, thiên vĩ tuyến 20 đến 32 độ bắc. Ngôi Sửu và tinh kỷ bảy độ từ Khiên Ngưu (tức ngôi Anpha chòm Aquila – Thiên ưng, tên riêng là Altair) tới Chức nữ (tức ngôi Vega của chòm Lyra – Thiên Cầm) hoàn toàn thuộc vùng này. Nguyễn Duy Hinh trong quyển “Văn Minh Lạc Việt” ghi nhận thiên Luật lịch chí của Hán Thư 4 lần ghi tên một ngôi sao là Việt. Tôi tìm trên bản Hán Thư ở mạng Quốc Học của Trung Quốc thì không thấy, nên tạm nêu ra để dò hỏi thêm.

Trong chiều hướng thiên văn khởi đi từ đài quan sát Nam Giao tại Kinh Thư, đến Hán Thư và sách Thiên Quan mà Ngô Thì Sĩ đã dẫn, tôi xin đề nghị một cách hiểu mới của từ Việt: Từ “Việt” (bộ tẩu) đã có sẵn trong vốn ngữ vựng của người Hoa Hạ, đến đời Thương nó cũng đã được dùng trên các mảnh giáp cốt. Trong ngành thiên văn, “Việt” được các nhà quan sát dùng để chỉ khu vực phía nam Giao Chỉ và đặt tên cho một chòm sao xa xôi. Dùng thiên văn đoán định các vùng đất mà con người chưa có điều kiện thâm nhập là cách làm có hệ thống của văn minh Hoa Hạ - Trung Nguyên. Trường hợp từ Cửu Chân và Nhật Nam ở trên là sự liên tục của hệ thống ấy. Ở góc độ dân gian hoặc không thuần chuyên môn của ngành hẹp thiên văn, huyền bí hóa các tác nghiệp này, người ta thường xem sao để xét thịnh suy một vùng đất hoặc con người, sao sáng được ví với vượng khí, đản sinh ..v.v.. và ngược lại là khí suy, chết chóc... Năm tháng qua đi, người Hoa Hạ dần dần nâng sự hiểu biết của mình về vùng đất phía nam xa lạ bằng những cuộc thám hiểm rồi tranh chấp, xâm lấn đất đai. “Việt” được khoác thêm nghĩa “vượt qua dòng Trường Giang”. Đến đây người Hoa nhận thấy vùng đất này có rất nhiều nhóm dân tộc trong một diện mạo văn hóa rất chung như xăm mình, cắt tóc. Họ bèn khai sinh ra thuật ngữ Bách Việt để mô tả. Sau này, các nhà ngôn ngữ học tiếp tục đi xa hơn nữa bằng cách tạo ra chữ “Việt” mới bộ mễ (lúa gạo) nhằm cụ thể hóa rằng cộng đồng người phương nam có nền kinh tế trồng trọt mùa vụ với lúa nước là cây lương thực chính.

b. Âu, Lạc, Tây Âu, Lạc Việt và Âu Cơ – Lạc Long Quân

Truyền thuyết Kinh Dương vương có thể giải mã đất tổ của dòng Lạc Việt. Kinh và Dương là tên vùng đất hai bên bờ trung lưu Trường Giang được mô tả trong thiên Vũ Cống của Kinh Thư, trung tâm ngày nay của nó là hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam, Trung Quốc.

Âm Âu là âm thuần Việt. Dùng Hán tự ký âm ta có hai chữ chính: Âu bộ ngõa và Âu bộ nữ. Nguyễn Duy Hinh (sách đã dẫn) nhận định: “Trong thuyết văn có chữ Âu. “Âu tiểu bồn dã tòng Ngõa Khu thanh Ân Lâu phản”. Nghĩa là: Âu là chiếc chậu nhỏ, bộ Ngõa, âm như chữ Khu, đọc Ân Lâu phản (tức Âu). Chú ý chữ mà ngày nay đọc Khu lại đồng âm với Âu, điều đó chứng tỏ ngữ âm đã thay đổi. Chữ Âu viết bộ Ngõa chỉ đồ gốm, không hề chỉ ý người”.

Chữ Âu 甌 ghép bởi chữ Khu 區 (Khang Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngõa 瓦 là ngói. Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm Khu. Ta có mối tương quan giữa các âm như sau:

U = nhô lên = đồi, núi ~ vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ)

Vú em = dưỡng mẫu

U = mẹ

Bu = mẹ già

Khu (đất) ~ u = mẹ.

Cho nên có thể âm Âu = Khu = U = Mẹ = Đất = Núi.

Như vậy nghĩa của Âu Cơ chính là “Bà mẹ cao quý”, “Hoàng mẫu”. Người Việt Nam hay nói “Mẹ Âu Cơ” là thừa chữ mẹ vì Âu đã là mẹ. Chữ Cơ hoàn toàn là chữ Hán đã được thêm vào, ý chỉ người phụ nữ bề trên hoặc trong hoàng gia như các tên gọi nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc: Ngu cơ, Hạ cơ, Triệu cơ (mẹ Tần Thủy Hoàng)…

Về chữ Lạc, tác giả xin không nhắc lại các công trình nghiên cứu cũ đã khẳng định nghĩa gốc của từ Lạc chính là nước mà hai tác giả Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đi tiên phong từ năm 1971. Do đó Lạc Long Quân mang nghĩa là “Ông vua rồng của nước, của quốc gia”, “Hoàng phụ”. Đến đây Kinh Dương Vương sẽ là gì nếu không phải “Hoàng tổ, người chủ đầu tiên của châu Kinh, châu Dương”. Kinh ở đây là Kinh Man (nước Sở) và Dương là Dương Việt, Dương Châu (phía nam Ngũ Lĩnh, Động Đình Hồ).

Theo tôi, khía cạnh tiêu biểu của truyền thuyết Âu Cơ, Lạc Long Quân là một công trình mật mã hóa quan niệm rất xưa về quốc gia của người Lạc Việt cổ. Họ gọi nơi mình sinh sống là Đất Nước. Đất hoặc Nước cũng có thể đứng một mình mà vẫn hàm ý là Đất Nước. Ngôn ngữ Việt Nam vẫn duy trì quan niệm này cho đến ngày nay. Sử Ký và Hán Thư đã đường hoàng ghi nhận điều này bằng cách ký âm Việt ngữ trên Hán tự: Âu Lạc = đất nước, Tây Âu Lạc = Tây Âu = vùng đất phía tây Phiên Ngung. Riêng từ Lạc Việt thì được hình thành từ hai từ tố Lạc (gốc Việt) và Việt (gốc Hán chỉ các tộc người vùng Trường Giang).

Khi đi vào sự liên hệ phức tạp của các chữ, các âm này chúng ta không thể không nhận ra sự liên hệ văn hóa chằng chịt giữa Việt và Hán. Sự hòa trộn mãnh liệt hai nền văn minh Hoa Hạ và Thần Nông trên dưới 3000 năm qua đã để lại những mối tương giao cực kỳ rối rắm và không dễ phân định. Chẳng hạn từ Kim Âu mà Trần Thánh Tông và Hồ Quý Ly đã dùng. Nếu theo chiều Hán thì nó là cái chậu, cái âu bằng vàng. Ở chiều Việt nó sẽ mang nghĩa đất vàng, núi vàng. Đặt giả thuyết người Hán đã vay mượn nghĩa đất vàng, núi vàng này để thành Kim Âu chỉ sự vững bền muôn thuở thì hoàn toàn hữu lý tuy phải tìm thêm cứ liệu.

c. Việt Thường Quốc

Việt Thường Quốc xuất hiện lần đầu trong Thượng Thư: Phía nam Giao Chỉ có Việt Thường Quốc. Như đã tiền luận Giao Chỉ đầu thời Chu là vùng Đan Dương (hiện thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Phía nam Giao Chỉ tức là bờ nam Trường Giang, là Động Đình Hồ là đất tổ của người Lạc Việt. Người Lạc Việt gọi tổ quốc, gọi mảnh đất mình sống là Đất Nước, hoặc Nước. Người Trung Nguyên dùng Hán tự ký âm Đất Nước thành Âu Lạc hay dịch nghĩa Nước là Quốc. Việt Quốc có thể hiểu là Nước Việt, là Lạc Việt. Vậy thì Việt Thường Quốc có liên quan đến Lạc Việt hay không sẽ nằm trong ngữ nghĩa của từ “Thường”.

Sử cũ của người Việt rất bất nhất: An Nam chí lược của Lê Tắc (1335) xem Việt Thường thuộc Cửu Chân, tức Thanh Hóa ngày nay. Đại Việt sử lược (1388) xếp Việt Thường trong 15 bộ lạc xưa của Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư (1697) coi chữ Việt trong Việt Thường là cội rễ của tên gọi Đại Việt sau này, Giao Chỉ cũng như Việt Thường đều thuộc Bách Việt, Châu Dương. Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ (1775) cho rằng Việt Thường là 1 trong 15 bộ của Văn Lang và diễn giải nước Việt khi đến giao hảo với nhà Chu tự xưng là Việt Thường. Khâm Định Việt sử (TK 19) định vị Việt Thường thuộc Thuận Hóa, miền trung Việt Nam, cũng là 1 trong 15 bộ của nước Văn Lang.

Ai cũng biết "thường" thuộc bộ y mang nghĩa sơ khai là cái "quần". Cho nên tôi đoan nghi chữ "thường" mà cổ văn Trung Hoa gán thêm cho người Việt chính là tấm "khố" đặc trưng của văn minh Lạc Việt, của người Văn Lang (như mô tả trong truyện Chử Đồng Tử chẳng hạn) và hiện nay nó vẫn minh diện trên trống đồng. Trong chiều hướng này, "Việt Thường Quốc" là Nước Việt (Lạc Việt), nơi có những con người mặc khố và ở trần. Tục đóng khố ở trần của người Lạc Việt xưa cũng được nhắc đến trong Sử Ký, quyển 113 Nam Việt Uý Đà Liệt Truyện: “Kỳ Tây Âu Lạc lõa quốc diệc xưng vương”. Hán Thư (quyển 109) biên tập lại Sử Ký làm rõ hơn: “ Tây hữu Tây Âu kỳ chúng bán nuy nam diện xưng vương”. Chữ “Lõa” của Tư Mã Thiên đã được Ban Cố diễn giải là “Bán nuy”, tức “khỏa thân nửa người hay ở trần”. Ngoài ra với nguyên tắc "đồng âm thông giả", "thường" có thể là bình thường, nhỏ, bé... (như trong từ thường dân). Do đó "Việt Thường Quốc" cũng có thể là Nước Việt nhỏ, nước bình thường, kẻ ở chiếu dưới so với nhà Chu. Xin hiểu đây là kiểu mà sử sách Trung Hoa hay dùng để chỉ các nước phi Hán một cách tự cao tự đại. Hiển nhiên trong trường hợp này "thường quốc" khác hẳn "thuộc quốc", nó chứng tỏ sự độc lập không thể khác được từ buổi bình minh lịch sử của Lạc Việt.

5. Giải cấu truyền thuyết An Dương Vương

Gần đây, việc khám phá di chỉ Tam Tinh Đôi [9] cách Thành Đô (Tứ Xuyên) 40km đã hé mở một nước Thục cổ đại có lịch sử từ năm 3000 TCN. Văn minh Thục phát triển rực rỡ, đã hình thành lối quần cư đô thị bề thế hơn cả đỉnh cao triều đại Thương – Ân. Họ là dân tộc đầu tiên của nhân loại biết sử dụng gạch chưa nung để xây nhà cửa, thành quách. Theo nhiều nhật báo Trung Quốc mới đây, vết tích tường thành cũ niên đại trên 3000 năm ở Tam Tinh Đôi lớn hơn cổ thành thời Thương tại đất Ân rất nhiều. Phải chăng Thục là nhánh “lên ngàn” của văn minh Thần Nông (tức Tây Âu, anh em với Lạc Việt) hoặc một nhánh của đoàn di dân Tiền Đông Nam Á? Sử ký, phần “Truyện Trương Nghi” kể rằng Tần Huệ Vương đã nghe lời Tư Mã Thác đánh Thục, truất phế Thục Vương làm chức Hầu. Như vậy hoàn toàn có khả năng Thục Hầu và một bộ phận nhân dân Thục muốn tránh nhà Tần bạo ngược đã lên đường lưu vong. Đoàn người đi về phương Nam tạo nên cộng đồng Khương, sau này bị nhà Hán lấn tiếp, họ theo dòng Cửu Long đến vùng đất Campuchia ngày nay và góp phần xây dựng nên nền văn minh Khơ Me kiêu hùng. Đoàn người đi về hướng đông nam vượt dòng Trường Giang đến Quí Châu và tây bắc Quảng Tây. Việc họ thành lập một quốc gia mới là rất khả dĩ.

Á Đông cổ xưa chỉ có hai cộng đồng Hán và Thục sử dụng thành quách ở những vùng đất bằng phẳng như Trung Nguyên, Tứ Xuyên. Ngay cả Triệu Đà cũng không nghe nói đã xây thành trì vững chắc tại Phiên Ngung, một phần cũng vì Phiên Ngung đồi núi lô nhô. Chi tiết mô tả trong trận đánh giữa Phục Ba và Kiến Đức – Lữ Gia tại Sử Ký là xác chứng: quân của Kiến Đức – Lữ Gia bỏ thành ra hàng rất nhiều, họ nhận ấn Hán quan rồi lại quay vào thành để chiêu dụ người khác. Xét ra thành của Triệu Đà chẳng qua là những chiến lũy đơn giản, lấy địa thế mà lập vậy. Năm đó người Hán chỉ mới đến Phiên Ngung, công nghệ để xây thành Cổ Loa của An Dương Vương tại đồng bằng Tây Giang có gốc Thục Tứ Xuyên là hợp lý.

Sự kiện An Dương Vương là con vua Thục đến đây có thể đã sáng tỏ. Nước Thục (Quí Châu – Quảng Tây) giáp giới với Văn Lang Tây Giang. Vua Thục cho người qua hỏi con gái Hùng Vương Tây Giang làm vợ nhưng bị từ chối. Đời sau, một trong những con trai vua Thục tấn công Hùng Vương, chiếm toàn bộ đất đai của Văn Lang Tây Giang rồi thành lập nước Tây Âu Lạc. Thành Cổ Loa 9 vòng cao ráo và vững chãi trong truyền thuyết có khả năng ở đồng bằng Tây Giang chứ không thể nằm ở đồng bằng sông Hồng được. Khảo cổ hiện đại Việt Nam đã không tìm ra những di vật cần thiết tại di chỉ Cổ Loa Đông Anh để xác chứng đó là Cổ Loa của An Dương Vương là dễ hiểu. Chương “Nam Việt Úy Đà liệt truyện” của Sử Ký chép về nước Tây Âu Lạc này rất rõ, nhiều sử gia không liên hệ được sử liệu đã mạnh dạn nghĩ Tư Mã Thiên viết nhầm Âu Lạc thành Tây Âu Lạc! Sử Ký không chỉ 1 lần khẳng định về nước Tây Âu Lạc và người Âu Lạc. Thái Sử Công nói về chiến tranh biên giới giữa Nam Việt và Mân Việt: “Âu Lạc tương công Nam Việt động dao, Hán binh lâm cảnh Anh Tề nhập triều”, phải hiểu là “Người Âu Lạc (ở Nam Việt) đánh nhau (với Mân Việt) làm nước Nam Việt dao động, quân nhà Hán phải can thiệp, (mang ơn nhà Hán nên) thái tử Anh Tề vào triều đình (làm con tin)”. Chương Triệu Thế Gia được đời sau bổ chú: “Sách Dư Địa Chí nói thời Chu Giao Chỉ là Lạc Việt, thời Tần là Tây Âu, họ vẽ mình, cắt tóc ngắn để tránh giao long. Tây Âu Lạc ở về phía tây Phiên Ngô (tức Phiên Ngung). Nam Việt và Âu Lạc có rất nhiều họ (chữ Hán là thiên tính: hàng ngàn họ, khác với bách tính của người Trung Quốc là hàng trăm họ). Sách Thế Bản cũng viết người Việt nhiều họ, có cùng tổ tiên với người Sở”. Chiếu theo chuỗi luận xuyên suốt ở bài khảo cứu này thì không khó nhận ra Lạc Việt là một vùng đất rất rộng lớn bao gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông đổ về phương nam.

Sau khi gồm thâu lục quốc nhất thống Trung Nguyên, năm 214 TCN Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem 50 vạn quân và dân ô hợp vượt Ngũ Lĩnh, đánh Bách Việt chiếm lấy vùng đất phía đông nam nước Tần rồi lập ra các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng. Nước Tây Âu Lạc của Thục Phán nằm trong Tượng Quận. Văn Lang Phong Châu phía nam Tây Âu Lạc hoàn toàn không dính dáng đến cuộc chiến kia. Tượng là một quận ảo, không cần thiết tìm hiểu Văn Lang Phong Châu có thuộc Tượng Quận hay không. Nhân dân Tây Âu Lạc không chịu làm nô lệ đã vào rừng kháng chiến và kết quả là đã giết được Đồ Thư.

Sách sử Việt Nam và Trung Quốc đều ghi nhận sơ sài Triệu Đà người huyện Chân Định (nay thuộc Hà Bắc, TQ). Không ai xét sâu hơn Chân Định vốn là đất Triệu thời chiến quốc. Sử Việt chép theo sử Trung Quốc, còn sử Trung Quốc tuân thủ tư tưởng đại nhất thống của triết học Tiên Tần (khởi đi từ Khổng Tử, với nguyên ủy “Tôn Chu nhương Di, nội chư Hạ nhi ngoại Di địch”) nên xóa hẳn các tên gọi của Tam Tấn. Tần Đại Đế áp dụng thành công tinh hoa nhân đạo của triết học Tiên Tần, đã chấm dứt vĩnh viễn cảnh chiến quốc nồi da xáo thịt. Tần Thủy Hoàng ra đời tại kinh đô Hàm Đan nước Triệu. Mẹ Triệu Cơ của ông, được Sử Ký ghi nhận là con nhà tai mắt tại đấy. Khi cha ông theo Lã Bất Vi trốn về Tần, mẹ con Tần Thủy Hoàng phải ẩn mình trong dân chúng Triệu và chịu nhiều cảnh cơ cực. Sau khi Trung Nguyên nhất thống, người Triệu lại phải họa đi xây Trường Thành, họ căm tức vua Tần nên bịa chuyện dè bỉu Tần Thủy Hoàng là con hoang của Triệu Cơ và Lã Bất Vi. Dân gian còn đem cả nàng Mạnh Khương gần hai trăm năm trước từ nước Tề đến khóc bên Trường Thành để trù úm đại công nghiệp của vua Tần. [10] Sẵn ác cảm cũ, vua Tần bắt rất nhiều con dân cứng đầu cứng cổ ở Triệu xung vào đạo quân viễn chinh của Đồ Thư. Triệu Đà ở trong số đó. Sau này cháu Triệu Đà là Minh Vương Anh Tề làm con tin ở Trường An cũng thành thân cùng một người con gái nước Triệu (Sử Ký viết là người huyện Hàm Đan). Bà ta chính là Cù hậu, do làm nội ứng cho nhà Hán chiếm Nam Việt, nên đã bị thừa tướng Lữ Gia giết. Những người Triệu bị đày tập trung tại quận Nam Hải thời đó đã quần cư và tạo thành nhóm dân tộc nhỏ mang tên Triều Châu, phía đông bắc tỉnh Quảng Đông Trung Quốc hôm nay.

Năm 208 TCN Triệu Đà thành lập nước Nam Việt. Hán Cao Tổ bình định xong Trung Nguyên không còn sức giải quyết Nam Việt, nên năm 196 TCN đành phong Triệu Đà làm Nam Việt Vương, và dặn Nam Việt phải hòa hợp với Bách Việt. Khi Cao hậu tiếm quyền, Trường Sa Vương cấm vận kinh tế Nam Việt hòng làm Nam Việt suy yếu để dễ bề xâm lăng. Triệu Đà lập tức đem quân đánh Trường Sa, cắt đứt đường thông thương với nhà Hán và chốt giữ các nơi hiểm yếu. Cao Hậu sai Lâm Hi Hầu hỏi tội Triệu Đà, chiến cuộc biên cương giằng co hơn một năm rồi nhà Hán bãi binh vì đám tang Cao Hậu.

Rảnh tay với Hán, Triệu Đà dùng tiền của đút lót quý tộc Tây Âu Lạc và Mân Việt để hai nước này chịu lệ thuộc. Sự kiện Trọng Thủy kết hôn với Mỵ Châu chắc chắn ghi nhận thỏa hiệp dễ dãi của những người lãnh đạo Tây Âu Lạc trước âm mưu của Triệu Đà. Trận chiến đánh vào lòng người toàn thắng, năm 179 TCN Triệu Đà tấn công và sát nhập Tây Âu Lạc vào Nam Việt. Từ đó Nam Việt rất rộng lớn, Triệu Đà đường hoàng tự xưng Nam Việt Vũ Đế, đi xe mui lụa vàng như vua Hán. Triệu Đà người Hoa Bắc chỉ quen đánh nhau trên bộ, cho nên không thể tồn tại khả năng ông ta đã tấn công An Dương Vương tại đồng bằng sông Hồng. Mãi đến đầu công nguyên đường bộ khai thông Hoa Nam và Bắc Việt vẫn rất khó đi nên đoàn quân của Mã Viện mới phải dùng thuyền.

Một bộ phận nhân dân Tây Âu Lạc, những con người bất khuất từng giết Đồ Thư, đã đem tàn quân và bầu đàn thê tử chạy đến châu thổ Hồng Hà. Tôi nghĩ có một nhánh nhỏ người Tây Âu Lạc ra đi bằng thuyền đã ghé vào bờ biển trung bộ Việt Nam. Họ trở thành hạt nhân của nền văn minh Chàm bắt đầu khởi sắc từ thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Những liên hệ Thục – Khơ Me – Chàm trong bài viết này chỉ thuần lý thuyết, trên cơ sở nghiên cứu văn bản và hình ảnh, nhưng tôi tin đô thị sơ khai Cổ Loa, cách dùng gạch không nung của người Khơ Me và người Chàm chắc chắn có dấu ấn văn minh Thục cổ đại.

Người Tây Âu Lạc và người Lạc Việt ở Văn Lang Phong Châu rất gần gũi về chủng tộc và có thể họ vẫn còn hiểu ngôn ngữ của nhau sau gần 150 năm xa cách ( tạm tính từ năm 316 TCN Thục Vương bị Tần truất phế, đến năm 179 TCN năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc). Nhóm dân Tây Âu Lạc mất nước nhanh chóng hòa hợp cùng nhân dân bản xứ trên mảnh đất bắc Việt và gọi nơi đây là Âu Lạc. Họ nối các gò đất, đồi nhỏ thành đê bao ngăn thủy triều và nước lụt tại Cổ Loa, Đông Anh và quần cư trong ấy. Đến năm 43, Mã Viện củng cố hai vòng ngoài và xây thêm vòng thành nhỏ thứ ba ở giữa để tạo nên Kiển Thành. Độ cao của dấu vết tường thành Cổ Loa Đông Anh xấp xỉ cao độ các con đê hai bờ sông Hồng, sông Đuống xung quanh, xác tín giả thiết Cổ Loa là đê hơn là thành lũy.

Nhân dân Âu Lạc ở đồng bằng sông Hồng lúc đó đã thoát nạn xâm lăng của Triệu Đà và yên ổn sinh sống, làm ăn. Họ hấp thu tất cả bản sắc Tây Âu Lạc và những câu chuyện truyền miệng về Vua Hùng Văn Lang Tây Giang, về “Thục Vương tử” tên Phán, về thành Cổ Loa, về Nỏ Thần cùng Mị Châu và Trọng Thủy. Chính sự tương đồng như nhất của hai phiên bản Văn Lang Phong Châu và Văn Lang Tây Giang là chất keo kết dính con người và lịch sử Việt Nam cổ đại thành một khối tưởng như không có mối nối.

Chữ Tây trong Tây Âu Lạc, Tây Âu và Tây Vu ngày nay vẫn còn hiện diện trong tên gọi Quảng Tây, một tỉnh Trung Quốc giáp biên giới phía bắc Việt Nam. Người Tây Âu Lạc không di cư xuống đồng bằng sông Hồng hiện tại đã trở thành một nhóm dân tộc thiểu số lớn nhất ở Hoa Nam và Trung Quốc. Đó là người Tráng cư trú rải rác ở Vân Nam, Quảng Đông và tập trung chủ yếu tại khu tự trị Tráng Quảng Tây với thủ phủ là thành phố Nam Ninh, cách Hà Nội chưa đầy 400 km. Theo số liệu thống kê dân số năm 2000, dân tộc Tráng có trên 16 triệu 178 ngàn người. Nói chung người Tráng mang bản sắc rất riêng so với dân tộc Hán ở Hoa Nam. Họ vẫn sử dụng trống đồng trong các lễ hội đầy màu sắc. Họ cũng có hệ thống chữ viết hình thành giống cơ sở chữ Nôm Việt Nam. Nơi lưu giữ truyền thống chính yếu của dân tộc Tráng là tổ chức làng xã với câu nói bất hủ: “Thà bán ruộng đồng của cha ông để lại còn hơn bán đi ngôn ngữ riêng của cả dân tộc”. Ký ức dân gian của họ vẫn còn nguyên câu chuyện hoàng tử ở rể với bảo kiếm và nỏ thần về cơ bản rất giống chuyện Mị Châu – Trọng Thủy của Việt Nam. Trong nhiều ngữ cảnh chữ Tráng đồng nghĩa với chữ Hùng trong từ Hùng Vương, chúng cũng có thể ghép lại thành một từ hoàn hảo hơn là “Hùng Tráng”.[11]

Năm 111 TCN Nam Việt bị Lộ Bác Đức xóa tên khỏi bản đồ. Nhà Hán cho người sang thuyết phục nhân dân Tây Âu Lạc theo mình, với chính sách rất thâm độc là để quí tộc Tây Âu Lạc (những kẻ đã bị Triệu Đà mua chuộc) tiếp tục quản lý những vùng đất của họ. Sử Ký viết: “Hoàng Đồng từng là tả tướng Âu Lạc. Ông ta chém Tây Vu vương để theo nhà Hán và được phong làm Hạ Lệ Hầu năm 110 TCN”. Theo tôi Tây Vu không phải địa danh mà chỉ là khái niệm vùng đất chư hầu phía tây với gốc tọa độ là kinh đô Phiên Ngung của vua Nam Việt. Rất dễ hiểu Tây Vu chính là Tây Âu Lạc sau khi bị Triệu Đà thôn tính. Các sử gia sử dụng Tây Vu như một địa danh đã vô tình xem Tây Vu ở Tây Âu Lạc cũng là Tây Vu ở Âu Lạc thời Mã Viện (tức vùng đất phía tây đồng bằng sông Hồng). Chi tiết này rất quan trọng, nó làm cho người ta tưởng Tây Âu Lạc (Quảng Tây) và Âu Lạc (Bắc Việt Nam) là một. Hậu Hán Thư, Mã Viện liệt truyện viết: “Viện tấu ngôn Tây Vu huyện hộ hữu tam vạn nhị thiên, viễn giới khứ đình thiên dư lý, thỉnh phân vị Phong Khê, Vọng Hải nhị huyện, hứa chi. Viện sở quá triếp vi quận huyện trị thành quách, xuyên cừ quán khái, dĩ lợi kỳ dân”. Nghĩa là: “Mã Viện tâu rằng vùng đất phía tây của huyện đặt sở trị (có thể là Long Biên của Tô Định hoặc Mê Linh) có ba vạn hai ngàn hộ, từ biên giới xa đến sở trị hơn ngàn dặm, xin chia thành hai huyện Phong Khê, Vọng Hải, (vua) đồng ý. Viện nhân đó liền lập quận huyện sửa thành quách, khơi thông kênh rạch tưới tiêu, làm lợi cho dân chúng”. Trong câu Hán văn, chữ “huyện” nằm sau “Tây Vu” với chữ “đình” trong cụm “viễn giới khứ đình” có sự liên hệ ngữ cảnh. Sơ ý một li bỏ qua ngữ cảnh ấy đã khiến thành Cổ Loa truyền thuyết của An Dương Vương đi trên dưới 300 km từ Quảng Tây đến Đông Anh Hà Nội! Cho dù từ Tây Vu của Mã Viện có là tên huyện thật đi nữa, thì đến đây vẫn phải phân biệt Tây Vu của Phiên Ngung không thuộc đồng bằng sông Hồng.

Năm 110 TCN nhà Hán phong tước cho Hoàng Đồng. Sau đó Thạch Đái được cử sang làm Thứ sử Giao Chỉ bộ, phủ trị ở Quảng Tín, quận Thương Ngô. Với sự giúp sức của Hoàng Đồng, Thạch Đái ủy lạo và hợp thức hóa danh vị Lạc Hầu, Lạc Tướng bằng ấn đồng đeo cổ. Chắc chắn mục đích tối thượng của Thạch Đái là âm thầm chia rẽ các liên minh của quí tộc Tây Âu Lạc, không cho Lạc Hầu, Lạc Tướng có cơ hội đoàn kết xây dựng nhà nước chống xâm lăng.

Trong hệ thống hành chính Hán, nước Tây Âu Lạc trở thành quận Hợp Phố. Tôi cả quyết điều này vì trong 9 quận của Giao Chỉ Bộ thì Chu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam, Nam Hải tức Phiên Ngung và Uất Lâm tức Quế Lâm thuộc nam Quảng Đông và bắc Quảng Tây; Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam chỉ là khái niệm về các vùng đất phương nam; còn lại Thương Ngô và Hợp Phố để suy xét. Sử Ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyệt viết: “Thương Ngô Vương Triệu Quang là người cùng họ với Việt Vương, nghe quân nhà Hán đến, cùng quan huyện lệnh Kê Dương của Việt tên là Định tự quyết định đi theo nhà Hán; quan giám quận Quế Lâm của Nam Việt là Cư Ông dụ dân Âu Lạc đi theo nhà Hán”. Rõ ràng cái tên Thương Ngô đã có trước năm 111 TCN. Chúng ta chỉ còn mỗi chọn lựa là nhà Hán đã lấy đất Tây Âu Lạc làm quận Hợp Phố.

Đồng bằng sông Hồng giờ đây được người Hán gọi là quận Giao Chỉ, một quận ảo, một vùng đất nằm trong hệ thống khái niệm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Nền chính trị xã hội Âu Lạc chưa đủ chín để thống nhất các khu tự trị riêng biệt của tù trưởng, tộc trưởng thành quốc gia, song với kinh nghiệm xương máu ở Tây Âu Lạc, người Âu Lạc chắc cũng có những quan hệ mềm dẻo với các quận lân cận của nhà Hán. Người Thục gốc Tây Âu Lạc mang theo văn minh đô thị đến Cổ Loa Đông Anh dần dần tự đồng hóa mình với cư dân bản xứ. Đặt giả định Âu Lạc là một nhà nước hoàn thiện, con người Âu Lạc có ý thức sâu sắc về quốc gia và từng bị Triệu Đà thôn tính bằng quân sự (như quan niệm của sử sách Việt – Trung lâu nay), ta sẽ thấy diễn biến lịch sử ôn hòa từ năm 111 TCN đến năm 34 tại đồng bằng sông Hồng là không bình thường.

Thực ra những địa danh, nhân danh của khu vực phía nam Trường Giang ghi trong cổ sử Trung Quốc như Sử Ký, Hán Thư, Hậu Hán Thư rất tương đối và khập khiễng. Sử gia phải dùng Hán tự ký âm địa phương ngôn nên khá khó khăn, hậu quả là đôi khi họ bỏ qua phương ngôn để dùng chữ Hán thuần khái niệm mô tả tên đất, tên người. Cái tên Tây Âu Lạc là một ví dụ. Âu Lạc mang nghĩa đất nước, tổ quốc, nhưng khi đi vào Hán sử Tây Âu Lạc trở thành tên nước. Tuy vậy ngày nay chúng ta không thể biết An Dương Vương gọi tổ quốc, gọi “Âu Lạc” của mình là gì nên không thể dẹp bỏ cụm từ Tây Âu Lạc kia.

Một cách tiếp cận với cổ sử Việt Nam-2

Posted Image Posted Image C. Tiếng trống đồng Mê Linh <br style="background-color: white; font-family: tahoma; font-size: 15px; line-height: 24px;"><br style="background-color: white; font-family: tahoma; font-size: 15px; line-height: 24px;">1. Thời Hai Bà Trưng, mẫu hệ hay mẫu quyền?

Rất nhiều sử gia đã đồng tình rằng theo Thủy Kinh Chú, chồng bà Trưng Trắc tên Thi. Ông chẳng những không hề bị Tô Định sát hại, mà còn sát cánh bên phu nhân của mình trong cuộc nổi dậy năm 40. Khi Mã Viện tấn công, đuối sức, ông bà bỏ chạy vào Kim Khê, ba năm sau mới bị bắt. Chuyện tiếp theo như thế nào thì Thủy Kinh Chú bỏ lửng. Chỉ biết dân gian truyền tụng Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát giang. Có giả thuyết Hai Bà sau đó bị Mã Viện bắt và chém đầu rồi đem thủ cấp về Tàu báo công, cho nên trong đền thờ Hai Bà ở Hát Môn có tục kiêng màu đỏ. Hậu Hán Thư chép bà Trưng Trắc bị xử trảm. Ở đây tôi muốn trả lời câu hỏi: Tại sao sử gia phong kiến Việt Nam lại mượn tay Tô Định khai tử ông Thi?

Ý kiến phổ thông của đa số học giả trong thế kỷ 20 cho rằng các nhà Nho, khi viết sử phải “giết” ông Thi, vì nếu ông còn sống mà bà Trưng Trắc làm vua thì ngược lẽ… thánh hiền Khổng – Mạnh! Họ cũng thống nhất cư dân Việt cổ hình như theo chế độ mẫu hệ - bằng chứng là thuộc tướng của Hai Bà Trưng phái nữ rất nhiều, nào là Lê Chân (thánh chân công chúa), Ngọc Lâm (thánh thiên công chúa), Vũ Thục Nương (bát nàn công chúa), Thiều Hoa (đông quân tướng quân), Diệu Tiên v.v. Giải thích như thế chưa thuyết phục lắm. Theo tôi sự bịa đặt còn ẩn chứa hàm ý sâu xa khác, nó làm người ta không chú tâm đến địa điểm của cuộc nổi dậy.

Trưng Trắc và Trưng Nhị đã tập hợp lực lượng và tuyên chiến với Tô Định tại Mê Linh, với sự ủng hộ mạnh mẽ của mẹ mình là bà Man Thiện. Thành công, Trưng Trắc xưng vương và đóng đô cũng tại Mê Linh, nơi chôn nhau cắt rốn của bà. Giả sử Hai Bà Trưng không có em trai. Khi chồng chết, Trưng Trắc (lúc này đang ở bên chồng) về lại quê cùng giữ quyền thế tập với em gái, rồi “Hận người tham bạo, thù chồng chẳng quên… phất cờ khởi nghĩa”. Chuỗi luận thật tròn trịa, dễ ru ngủ người đời. Thật sự nó đã ru biết bao thế hệ người Việt ngủ ngon hằng ngàn năm.

Quả tình ông Thi chẳng bị ai ám hại. Ông là con Lạc tướng Châu Diên, rất “môn đăng hộ đối” với Trưng Trắc, chứ không phải một anh lực điền tứ cố vô thân được gia chủ nuôi và gửi gắm con gái rượu (theo quan điểm phụ hệ sau này). Không có ông bên cạnh Trưng Trắc đánh đuổi Tô Định, sẽ không ai thắc mắc khi lấy vợ ông đi ở rể hay rước dâu về. Nếu lúc ấy người Việt cổ đã theo chế độ phụ hệ, Trưng Trắc phải về nhà chồng. Và nếu hưng binh tất bà sẽ chọn Chu Diên chứ không phải Mê Linh. Do đó ta thấy vai trò của kẻ làm dâu trong một gia tộc danh giá thời ấy hơi khác thường.

Đến đây nên mạnh dạn kết luận khi phối ngẫu với Trưng Trắc, ông Thi phải theo vợ sang Mê Linh. Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất, thậm chí Trưng Nhị còn có thể thừa kế cả anh rể mình nữa, điều này hoàn toàn không có gì xa lạ với nhiều bộ tộc còn chậm tiến trên thế giới ở thế kỷ 20 vừa qua. Giả thuyết này có thể lấy chuyện hôn nhân của Mỵ Châu và Trọng Thủy trước đó hơn 200 năm làm một điểm tựa. Hình ảnh truyền thuyết An Dương Vương cưỡi ngựa mang Mỵ Châu bỏ chạy khỏi Cổ Loa, cũng mơ hồ cho thấy Mỵ Châu cần được bảo vệ như một “thái tử” trong cơn nguy cấp. Có thể tham khảo thêm bộ sử “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ (năm 233 – 297): “Ở hai huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ và Đô Lung của quận Cửu Chân, anh chết thì em trai lấy chị dâu”.

Tôi dám khẳng định chắc nịch rằng thời Hai Bà Trưng, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn theo chế độ mẫu hệ nếu không muốn nói là mẫu quyền. Khái niệm mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như là một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đình mang họ mẹ, chỉ các con gái mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền thì đi xa hơn, quyền hành gia đình và xã hội nằm tất ở nữ giới, lãnh tụ phải là nữ giới. Do đó việc tồn tại các nam thủ lĩnh trong những bộ tộc Việt cổ không hề mâu thuẫn với nội dung mẫu hệ. Nội dung mẫu hệ này xuyên suốt trong hầu hết các văn bản huyền sử và cổ tích Việt Nam, mặc dù nó đã bị chế độ phụ hệ nối tiếp bóp méo, biên tập khá bài bản và công phu.

Lướt qua một vài truyện cổ tích như Tiên Dung – Chử Đồng Tử (đời vua Hùng thứ 3), Trương Chi – Mỵ Nương, Ngưu Lang – Chức Nữ, không thể không nhận ra các nữ nhân “lý tưởng” đều là công chúa, con vua, con trời, giàu có; trong khi đó nam nhân lại rất nghèo. Nó ngược lại với truyện cổ tích của nhiều nền văn minh khác ở chế độ phụ hệ, thường lý tưởng hóa người nam trong khi vai nữ nghèo và luôn thuộc về tầng lớp bình dân.

Rõ nhất phải kể đến truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ với cặp khái niệm “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước”. Trong trật tự lời văn của Lĩnh Nam Chích Quái: “Long Quân nói: Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Rõ ràng mẹ Âu Cơ là Dương chứ không phải Âm. Minh chứng thêm ở đây: tết Đoan Dương (ngày nóng nhất trong năm, dương khí cực thịnh) hay còn gọi là Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm lịch cũng là ngày giỗ Âu Cơ. Chế độ phụ hệ dù có bóp méo truyền thuyết theo chiều hướng nào đi nữa vẫn không thể thay ngày giỗ mẹ bằng giỗ cha. Trong câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, cặp “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước” trong truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân đã bị chế độ phụ hệ hoán đổi trật tự một cách rất khéo thành “Mẹ - Nước” và “Cha – Núi (đất)”. Bản thân yếu tố “Thái sơn” rặt Tàu cũng cho thấy đâu là nguyên nhân của sự thay đổi ấy. Sẽ có người phản bác lập luận của tôi: xét theo cấu tạo của bộ phận sinh dục, nếu cho rằng mẹ là dương rất không ổn. Một cách tình cờ lưỡng nghi (hào dương và hào âm) của Kinh Dịch có thể tương đương với Linga và Yoni của người Chiêm Thành. Tuy nhiên khi so sánh ngực người nam và người nữ thì rõ ràng giống cái lại chứa dương tính. Vấn đề giờ đây thu hẹp về các góc nhìn mà thôi.

2. Một cách lý giải toàn cảnh

Năm 111 TCN Lộ Bác Đức diệt Nam Việt, kết thúc gần 100 năm vương triều của họ Triệu. Tượng quận, vùng đất chưa bị xâm lăng, một tên gọi tượng trưng mang tính khái niệm theo cách của nhà Tần (nó tương đương với Giao Chỉ của nhà Chu) bắt đầu được Hán Vũ Đế mở mang. Chín quận mới liệt kê ở Hán Thư là Đạm Nhĩ, Chu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tiếp tục là khái niệm, thứ khái niệm nói lên tính tự cao, tự đại, lòng tham và chủ nghĩa bành trướng của nhà Hán.

Sau hàng trăm năm dừng lại và khai phá các vùng đất phương nam đã chiếm được và đặt quan trấn nhậm (tức 6 quận trong tổng số 9 quận thuộc Giao Chỉ bộ), đầu công nguyên nhà Tây Hán bắt đầu dòm ngó xuống ba quận ảo là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lần đầu tiên ta thấy xuất hiện chức danh Thái thú của quận Giao Chỉ là Tích Quang (năm 1 đến năm thứ 5 sau Công Nguyên). Người này chắc chắn chỉ là lãnh đạo một sứ bộ có qui mô nhỏ, mang danh nghĩa “thông giao” đến đất mới thăm dò, thám thính và xem xét khả năng áp đặt kềm kẹp đô hộ. Công việc của Tích Quang còn dang dở thì Trung Nguyên hỗn loạn vì Vương Mãng cướp ngôi.

Năm 23 Lưu Tú dẹp được Vương Mãng tiếm quyền nhưng Trường An đổ nát, hoang tàn trong máu lửa, ông dời đô về phía đông đến Lạc Dương lập nên nhà Hậu Hán. Để nối lại cuộc thám sát mảnh đất Việt cổ, năm 25 Nhâm Diên được cử sang Cửu Chân. Những chính sách mị dân mà Tích Quang và Nhâm Diên áp dụng khi ấy không ngờ còn lưu truyền tới tận thế kỷ 20, với vỏ bọc hình thức khá ngây thơ. Đến tận Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim gần đây vẫn còn viết: “Người ấy (Tích Quang) hết lòng lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho nên dân trong quận có nhiều người kính phục”. Và “Dân sự quận ấy (Cửu Chân) ái mộ Nhâm Diên, làm đền thờ.”

Năm 34, có lẽ do chủ quan khi nhận định tình hình sau hai cuộc thám sát, Hán triều cử sứ đoàn do Tô Định cầm đầu xuống đồng bằng sông Hồng để tiến hành thực dân hóa quận Giao Chỉ. Nhiệm vụ của tân thái thú chắc chắn là phải xây dựng bộ máy bóc lột nhằm biến quận Giao Chỉ thành miếng bánh ngon giữa bàn tiệc thực dân, chứ không thể mãi mãi là mảnh đất ảo trang trí trên bản đồ đại Hán. Có thể Tô Định đã tiến hành vài cuộc khủng bố lẻ tẻ nhân danh thiên tử Tàu và áp Hán luật vào đời sống nhân dân sở tại. Không còn những hành động khoan hòa vờ vĩnh kiểu Tích Quang, Nhâm Diên. Tự do của người bản xứ đã bị xâm hại nghiêm trọng. Trưng Trắc, vị thủ lĩnh tự trị của vùng đất kề cận nơi Tô Định đặt bản doanh chịu sức ép thực dân nhiều nhất đã đứng lên hiệu triệu các thủ lĩnh khác cùng đoàn kết đánh đuổi thù chung.

Hai Bà Trưng nổi trống đồng khởi nghĩa năm 40, dân Việt đồng tình hưởng ứng khắp nơi. Tô Định chuồn thẳng về Nam Hải (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) mà không hề có một trận chiến ra trò nào để sử sách hoặc dân gian truyền lại. Chi tiết này thêm một lần nữa xác tín bối cảnh được xây dựng ở trên là hợp lý. Qui mô đội quân chiếm đóng của Tô Định rất nhỏ, chẳng thể đánh đấm gì được.

Cuộc hành quân về Long Biên của Hai Bà Trưng nhanh chóng thành công. Điều này là tiền đề thuận lợi cho Hai Bà tập hợp được thêm nhiều lực lượng ủng hộ, tiến tới xưng vương rồi đóng đô tại Mê Linh.

Mùa xuân năm 42 Mã Viện mang theo quân thiện chiến sang quận Giao Chỉ. Bằng kinh nghiệm lọc lõi của một tên tướng phong kiến, Mã Viện kiên nhẫn đóng quân tại Lãng Bạc và nghe ngóng tình hình. Hai Bà Trưng chủ động tấn công trước và thất bại, phải rút về Mê Linh rồi Cấm Khê (chân núi Ba Vì). Mã Viện tiếp tục truy kích và tháng giêng năm 43 đã bắt được Hai Bà Trưng. Tàn quân Việt chiến đấu được vài tháng nữa mới tan rã. Dân gian Việt Nam có hai ngày giỗ Hai Bà Trưng là 6.2.43 và 8.3.43 (năm Quý Mão, âm lịch), có lẽ ngày đầu là ngày Hai Bà Trưng bị bắt và ngày sau là ngày họ bị hành hình. Ở đây xuất hiện hai khả năng: Một là Mã Viện giữ Hai Bà để dụ hàng nhằm kêu gọi nhóm nghĩa quân chưa buông vũ khí ra trình diện. Hai là Mã Viện thuyết phục Hai Bà kêu gọi nhân dân thuần phục nhà Hán và chấp nhận luật pháp Hán. Dù sao ta cũng biết chắc một điều Hai Bà Trưng đã không chịu thỏa hiệp dù phải bỏ mình.

Sự kiện Hai Bà Trưng anh dũng tấn công Mã Viện dẫn đến một liên tưởng hơi ngoài lề: Hậu Hán Thư không ghi nhận tổng quân số của Mã Viện nhưng chỉ riêng cánh tiến đánh Cửu Chân sau đó gồm hơn hai ngàn chiến thuyền và hơn hai vạn lính. Vậy ít nhất Mã Viện phải thống lĩnh lực lượng gấp rưỡi con số này cho trận đánh với Hai Bà Trưng. Cũng theo sách ấy, Mã Viện đã giết hại cả ngàn quân của Hai Bà Trưng và bắt sống hàng vạn tại Lãng Bạc. Như thế có thể đoán quân của Hai Bà Trưng cũng tròm trèm con số vài vạn, ngang ngửa với quân Mã Viện. Với lực lượng bề thế nhường ấy, nếu Cổ Loa của An Dương Vương thực sự nằm tại đồng bằng sông Hồng (chứ không phải ở Quảng Tây như giả thuyết của tác giả bài này), thì tại sao Hai Bà Trưng không củng cố thành cũ để đương đầu với quân viễn chinh. Ngoài thực địa đền Cổ Loa Đông Anh chỉ cách Mê Linh trên dưới 20km đường chim bay, không hề bị sông lớn, suối rộng, núi cao, khe sâu ngăn trở, và Hai Bà Trưng có hơn 2 năm để chuẩn bị một cuộc kháng chiến dài lâu. Như vậy truyền thuyết An Dương Vương và Loa thành từng hiện hữu ở Việt Nam có thêm một nghi chứng phủ nhận.

Xin tạm che giấu cảm tính dân tộc và tinh thần quốc gia (những khái niệm không thể có ở thời Hai Bà Trưng), để đứng trên bình diện văn minh mà dè dặt nói: Kết cục cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và Mã Viện có thể tiên liệu trước, chế độ thị tộc mẫu hệ, hay ít ra là tàn dư của nó phải bị khuất phục trước một mô hình xã hội tân tiến hơn, để giải phóng sức sản xuất xã hội, phân công lại lao động, đưa con người và lịch sử tiến lên phía trước. Sự thật là Hai Bà Trưng đã phải đương đầu với Mã Viện, một tên tướng xâm lăng nên nguyên nhân thất bại cốt lõi của Hai Bà rất khó được chấp nhận đối với hầu hết người Việt Nam, không phân biệt trình độ nhận thức.

3. Con cháu Hai Bà Trưng ngoài đảo xa

Mùa xuân năm 43 Hai Bà Trưng bị xử trảm. Các tùy tướng của Hai Bà đem tàn quân rút chạy vào Cư Phong, thuộc Cửu Chân (Thanh Hóa). Mã Viện tiếp tục truy kích đến cuối năm 43 thì hoàn thành cuộc xâm lăng. Một bộ phận nữa phải hàng phục. Tuy nhiên có một bộ phận bất khuất không nhỏ đã lên thuyền ra khơi. Thời điểm cuối năm 43 hoàn toàn hợp lý và là chi tiết quan trọng, vì trên biển Đông bắt đầu vào đợt gió mùa Đông Bắc. Đây chính là đôi cánh tự do trời đất ban tặng cư dân Việt cổ, đẩy những con thuyền đưa họ đến eo Malacca. Cũng có khả năng nhiều người trốn chạy theo đường bộ, rồi hòa lẫn vào những bộ lạc sống dọc bờ biển trung bộ Việt Nam ngày nay. Họ đã góp phần xây dựng nên đế chế Chiêm Thành sau này.

Hiện nay có hai cộng đồng thị tộc mẫu hệ, nguồn gốc gần gũi, sống hai bên eo biển Malacca, thuộc hai quốc gia: 1. Cộng đồng thứ nhất là người Minangkabau, sống ở đảo Sumatra, Indonesia. Họ có khoảng 4 triệu người, chiếm ¼ dân số của đảo. 2. Cộng đồng thứ hai sống ở bang Negeri Sembilan, thuộc bán đảo Peninsular, Malaysia. Họ cũng là người Minangkabau. Họ vượt eo Malacca đến đây định cư khoảng từ TK 15 đến TK 16, và ngày nay sống rải rác trên một diện tích khoảng 6,645 km2, dân số hơn 722.000 (số liệu 1991). Negeri Sembilan dịch nghĩa là “Nước (số) chín”. Chữ “nước” ở đây đồng nghĩa với chữ “Nagar - nước, xứ sở” của người Chiêm Thành và chữ “Lạc – nác, nước” của người Lạc Việt xưa. Thủ phủ của Sembilan cách Kuala Lumpur khoảng 64 km.

Nền văn hóa của hai cộng đồng này mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ. Quyền thừa kế nằm hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới. Lãnh thổ chung của họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?). Người đứng đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do các trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak Undang. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, các em gái bà này nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (tiếng Bahasa Indonesia lần lượt đọc là t run ch chik và t run nhi). Ngữ âm này, sau biết bao biến đổi qua thời gian, đọc lên vẫn thấy mơ hồ hai cái tên Trưng Trắc, Trưng Nhị [12].

Về đời sống, nam giới có trách nhiệm chính với mẹ và chị em gái của họ trong thị tộc. Nhiều nơi, nam giới chỉ ở với vợ ban đêm, ban ngày trở về với chị em gái mình và những đứa cháu. Nữ giới lập gia đình thường ở lại nhà cha mẹ họ. Những người chị đã lập gia đình luôn có mối liên hệ gần gũi với các em gái chưa lập gia đình, thậm chí họ còn ở chung với nhau. Ở Indonesia hôm nay, người Minangkabau là những nhà kinh doanh giỏi. Điều này được tạo nên một phần bởi sắc thái văn hóa Minangkabau. Nam nhi Minangkabau phải rời gia đình đi tìm tương lai. Họ buộc phải thành công. Khắp Indonesia ta gặp rất nhiều các ông chủ lớn nhỏ người Minangkalau. Họ theo đạo Hồi đã vài thế kỷ. Tuy nhiên truyền thống văn hóa và tín ngưỡng đã hòa hợp một cách đáng ngạc nhiên.

Chế độ thị tộc mẫu hệ hiện tồn tại trong những cộng đồng người Minangkabau luôn lôi cuốn các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử và nhân loại học. Ngành du lịch Indonesia và Malaysia cũng khai thác triệt để tính đặc thù này để thu hút du khách. Trong rất nhiều đoạn phim quảng bá du lịch người Minangkabau đã không dưới một lần tuyên bố tổ tiên họ là người Việt và đã di cư đến Nam Dương bằng thuyền.

Kiến trúc truyền thống Minangkabau cũng khiến không ít người suy tư: “Ở Indonesia, người Minangkabau có những ngôi nhà mái cong rất đẹp, nhịp điệu bay bổng, phong phú, một mặt giống ngôi nhà sàn hình thuyền, một mặt lại giống mái cong của đình chùa Việt Nam [13]”.

Xin hãy tham khảo một giai thoại Minangkabau [14]: Ngày xưa có một mối bất hòa giữa người Minangkabau và người Java, thay vì giải quyết bất hòa đó bằng một cuộc chiến với máu đổ không cần thiết, họ thỏa thuận chọi trâu để phân định. Người Java có một con trâu khổng lồ, mạnh mẽ và hung dữ. Người Minangkabau chỉ có một con nghé con. Người Java rất tin tưởng con trâu của mình sẽ đè bẹp chú nghé kia. Vậy mà yếu đã thắng mạnh. Người Minangkabau bỏ đói con nghé nhiều ngày. Trước trận đấu họ buộc một con dao sắc vào đầu nghé. Vào trận nghé đói tưởng trâu là mẹ mình. Lập tức nó rúc vào bụng trâu để tìm vú. Con trâu kềnh càng đã bị chết vì dao đâm thủng bụng. Và người Minangkabau đã chiến thắng. Cũng theo giai thoại này Minang nghĩa là chiến thắng, kabau là trâu.

Bất kỳ người Việt nào cũng tìm thấy ở câu chuyện trên một thứ gì đó thật gần gũi với bản sắc văn hóa đồng bằng sông Hồng. Chuyện dân gian Trạng Quỳnh dùng nghé đấu Trâu của sứ Tàu với truyện trên, có lẽ là hai biến thể của một tư duy chung, một triết lẽ giản dị nhưng nhiều giá trị: Đề cao trí tuệ và lòng yêu chuộng hòa bình, hòa hợp, lấy trí thắng lực, hóa giải mâu thuẫn bằng trái tim nhân hậu. Và tôi chợt hiểu, linh vật trâu vàng cho lễ hội thể thao khu vực Đông Nam Á đầu tiên do Việt Nam tổ chức, tức Seagame 2003, đã được chọn bằng tâm thức văn hóa, lịch sử.

Phải chăng người Minangkabau ở Indonesia và Malaysia hôm nay cũng là con cháu của Hai Bà Trưng? Phải chăng cái tên mà hai ngàn năm nay người Việt tôn gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị không phải là tên riêng mà là chức danh của hai hoặc một nhóm phụ nữ Việt Nam bất khuất? Câu trả lời đang ở một tương lai rất gần.

4. Bà Trưng Trắc chính là vua Hùng?

Xưa từ Hùng ý chỉ thủ lĩnh một vùng. Tùy Thư (thế kỷ VII), thiên Địa Lý Chí Hạ còn ghi “Người man (tức người Lạc Việt) ai giàu mạnh là người hùng”. Con vua Hùng là Quan Lang cai quản địa phận trực thuộc, qui mô chắc cũng như làng xã ngày nay. Chữ “Làng” có thể xuất phát từ chữ “Lang” trong “Quan Lang”, người Mường gần đây vẫn còn Quan Lang. Vậy có thể hiểu “Hùng” là người đứng đầu thị tộc mẫu hệ. Liên minh thị tộc mẫu hệ sẽ hình thành dạng nhà nước sơ khai như Văn Lang, và Vua Hùng hẳn là lãnh tụ của nhà nước sơ khai ấy.

Khi lưu vong đến Quảng Tây, các bộ tộc Lạc Việt cổ từ Động Đình Hồ vẫn còn gắn kết ở dạng nhà nước sơ khai kia, nó thể hiện trong truyền thuyết xung đột giữa “Thục vương tử” và Vua Hùng. Tuy vậy trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc của An Dương Vương) và 111 TCN (năm Lộ Bác Đức bình định Nam Việt), những nhóm người đi tiếp xuống đồng bằng sông Hồng có lẽ đã không thể bảo tồn hình thái xã hội Văn Lang cũ. Điều này khá dễ hiểu: Địa bàn mới hoang vu (dù chắc chắn tồn tại ít nhiều nhóm chủng tộc gốc Nam Á du canh du cư với kinh tế hái lượm, săn bắn), thổ nhưỡng ẩm thấp, mùa mưa ngập lụt chia cắt, dân số ít, giao thương trở ngại… Đến đầu công nguyên, ít nhất là tình hình dân số của các bộ tộc Lạc Việt ở đồng bằng sông Hồng đã được cải thiện. Để chống lại âm mưu nô thuộc của nhà Đông Hán, Hai Bà Trưng đã liên minh các thủ lĩnh vùng lại với nhau đánh đuổi Hán quan, xưng vương. Như vậy hoàn toàn có thể xem Trưng Trắc chính là vị Vua Hùng đầu tiên của mảnh đất tiền Việt Nam.

Ở xã hội Lạc Việt cổ, trống đồng là biểu hiện quyền uy của tù trưởng, tộc trưởng. Cũng Tùy Thư nói: “Khi chiến tranh thì trống đồng được đánh, người người khắp nơi nghe lời hiệu triệu tụ họp về. Dân Lạc Việt rất phục tùng người sở hữu trống” – đây phải chăng là câu trả lời dứt khoát cho hành xử của Mã Viện với quốc bảo trống đồng. Thật vậy, Mã Viện nam chinh đã phá vỡ liên minh Văn Lang vừa được Trưng Trắc tái lập nhưng buộc phải cho phép dân Việt tự trị ở đơn vị Làng. Thế là sau khi giết hại vợ chồng bà Trưng, Mã Viện vội vàng cho quân lính đi thu gom trống đồng nhằm bẽ gãy các cuộc phản kháng tiếp theo (nếu có) từ trong trứng nước. Bản chất gốc của vấn đề xem ra rất kín kẽ, còn hiện tượng Mã Viện nấu đồng đúc ngựa cảnh để chơi và dựng trụ làm cột thiên văn quan sát bầu trời, xác định vị trí khu vực vừa chiếm được trên bản đồ đế quốc Hán, chỉ là đám lá ngọn lòa xòa che mắt sự thật lịch sử.

Tôi đã gặp rất nhiều người Việt Nam không tin tổ tiên họ là chủ sở hữu của trống đồng, hoặc cho rằng đề cao trống đồng như quốc bảo của dân tộc là thiếu chứng lý. Họ bảo không như người Tráng tại khu tự trị Quảng Tây Trung Quốc (tức hậu duệ những thần dân của An Dương Vương không di cư chạy giặc Triệu Đà xuống đồng bằng sông Hồng năm 179 TCN) vẫn còn sử dụng trống cho lễ hội, trống đồng ở Việt Nam chỉ đào được nơi các vỉa đất của quá khứ. Hy vọng nguyên nhân mang tên Mã Viện tôi vừa nêu, sẽ góp phần chứng minh người Việt xưa đã phải đành đoạn chôn trống gửi đến tương lai, mong con cháu mình mãi mãi trân trọng và giữ gìn nó

Cùng với việc hủy hoại trống đồng và làm tan rã hình thức nhà nước sơ khai trên mảnh đất Việt Nam cổ, Mã Viện đại diện cho nhà Đông Hán cũng chính thức khai sinh đơn vị hành chính tự trị là Làng, Xã. Do được tự trị, tinh thần độc lập và tự chủ của người Việt Nam đã luôn được nuôi dưỡng dưới các nếp nhà sau lũy tre làng. Từ “Làng Nước” sinh ra từ đây. Làng trở thành một đất nước độc lập tự chủ thu nhỏ của những người dân Việt bất khuất. Hơn 800 năm sau, tinh thần ấy lớn mạnh rồi bùng phát để đưa cả dân tộc thoát kiếp nô lệ. Khi người Việt có quốc gia rồi, thì làng xã lại trở về thế đối lập một cách tương đối với các chính sách chính trị tổng thể của chính quyền trung ương. Để dung hòa lợi ích nhà nước và làng xã, mỗi làng đã được chính quyền chọn ra một vị thần được ưa chuộng nhất để sắc phong làm Thành Hoàng. Như vậy mâu thuẫn đã được giải quyết ở một mức độ chấp nhận được: ông vua của làng là thánh linh (hoặc một con người có thật đã được thánh hóa), được ông vua của cả nước hợp thức hóa bằng một văn kiện.

5. Kết luận

Người Lạc Việt cổ bắt đầu gần một thiên niên kỷ lưu vong từ chiếc nôi Động Đình Hồ, từ châu Kinh, châu Dương bên bờ Trường Giang khi văn minh Hoa Hạ nam tiến và nước Sở được hình thành. Đến Trưng Trắc thì sức người có hạn, văn minh vật chất sơ sài trong khi sơn đã tận mà thủy thì mênh mông, đa số họ bắt buộc phải dừng lại, nhẫn nhục chấp nhận thêm tám trăm năm nô lệ nghiệt ngã.

Máu lưu vong trước nghịch cảnh chính trị của tiên tổ người Việt Nam đã hơn một lần bùng phát, già ngàn năm trở lại đây nơi hậu duệ của họ: Khi nhà Trần tiếm đoạt vương quyền, một nhánh họ Lý đã chạy qua Cao Ly. Lê – Mạc đấu đá rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh, bao người phải bỏ xứ xuống khai phá đồng bằng sông Cửu Long trù phú. 1954 và 1975, hàng triệu sinh linh lại lên đường vào nam, hoặc ra biển tỏa khắp năm châu. Ai đó đã có lần so sánh người Việt Nam với dân Do Thái ở góc độ lưu vong, cũng chẳng khập khiễng chút nào.

Tự đặt mình vào bối cảnh năm 40 sau Công Nguyên, tôi bỗng thấy hình ảnh sáo mòn Hai Bà Trưng “phất cờ khởi nghĩa” có vẻ không hợp lý. Nên chăng hãy hình dung những hồi trống đồng liên hoàn dưới các nếp nhà sàn hiền hòa, thôn nối thôn, làng tiếp làng, thị tộc này kêu gọi thị tộc khác cùng đoàn kết trong âm vang tự do dưới sự lãnh đạo của Vua Hùng – Trưng Trắc tiến thẳng về Long Biên, quét sạch bắc quân xâm lược.

Hai Bà Trưng ra đi khép lại thuở bán khai trên đất mảnh đất tiền Việt Nam. Thời điểm này chính là hoàng hôn trước đêm dài nô lệ. Người Việt biết chấp nhận nỗi nhục thiếu tự do để học hỏi, tự hoàn thiện mình. Thỉnh thoảng một vài ngọn đuốc lại bừng sáng mang nhiều cái tên anh hùng như Triệu Thị Trinh, Mai Thúc Loan hay Phùng Hưng. Đáng kể là hơn nửa thế kỷ độc lập của Lý Nam Đế cùng các phụ triều trong giấc mơ Vạn Xuân đầy hiện thực. Đó là những bước tiến vững chắc, không thể phủ nhận của con người và đất nước thời khởi sử, làm bệ phóng cho kỷ nguyên tự chủ bắt đầu với Khúc Thừa Dụ năm 905. Tám trăm năm tròn bắc thuộc là cái giá quá đắt nhưng không hề vô nghĩa. Dân tộc Việt Nam, văn minh Việt Nam hình thành trong gian khó và thử thách đã lớn mạnh vượt bậc. Từ đó về sau phong kiến phương bắc không lần nào hoàn toàn khống chế được họ nữa. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đại diện thực dân châu Âu là Pháp Lang Sa, với ưu thế hơn hẳn họ về sức mạnh vũ khí được sản xuất dưới một nền khoa học kỹ thuật tân kỳ, tổ chức xã hội tư bản tiến bộ, cũng chỉ áp đặt sự đô hộ không đồng bộ của chúng trên mảnh đất này tròm trèm 80 năm mà thôi.

Nếu không kể đến An Nam Chí Lược (1335) của một kẻ bán nước, từ quyển hiến sử đầu tiên còn lưu lại đến ngày này là Đại Việt Sử lược (1377 – 1388), sử gia Việt Nam vừa xem sách Tàu, vừa chấm bút lông vào nước lã để viết về ông Thi. Thậm chí họ còn sơ ý nhầm tên chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách! Năm tháng qua đi, sách sử nối nhau ra đời, Bà Trưng Trắc vẫn phải làm một quả phụ bất đắc dĩ, gồng gánh thêm bao nhiêu khái niệm không cùng thời với bà. Lối tư duy suy diễn chủ quan, nô lệ sách Tàu và kinh viện, kết hợp với truyền thống tạo dựng chính sử thiên kiến và không tôn trọng sự thật một cách có hệ thống, vô hình chung đã tô son trát phấn lên bà mẹ chân đất được Thủy Kinh Chú mô tả là “vi nhân hữu đảm dũng”. Kết quả là người mẹ vĩ đại của họ chẳng đẹp hơn tí nào. Nó chỉ khiến người đời chạnh buồn cho những đứa con vụng về, xốc nổi và đồng bóng của bà.

Mảnh đất hình chữ S có tên Việt Nam ngày nay hiện hữu khoảng 200 đền thờ Hai Bà Trưng. Đó là tuyên bố rõ ràng nhất về vai trò lớn lao của Hai Bà trên non sông này. Mọi lý thuyết học thuật cổ kim đều không thể phủ nhận bản chất anh hùng và tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng, vị Vua Hùng đầu tiên và cuối cùng của mảnh đất Việt Nam, người mẹ đáng kính của lịch sử Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.

D. Đôi nét văn hóa

1. Từ Kinh Dịch đến chữ viết của tổ tiên người Việt Nam

Trong quá khứ, không ít sử gia Việt Nam đã nghiệm rằng Kinh Dịch chứa rất nhiều yếu tố vay mượn từ văn minh Thần Nông. Gần đây một bài báo ở Việt Nam tự hào tuyên bố Kinh Dịch chính là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt. Tôi quan sát rất kỹ các tranh luận xưa nay và tự hỏi: “Ngôn ngữ điện toán hiện đại chỉ cần hai tín hiệu CÓ và KHÔNG, khi thể hiện trên giấy nó tương đương số 1 và số 0. Não điện toán dễ dàng đọc mọi văn bản chỉ toàn 0 và 1 đan xen, nối nhau thành chuỗi, vì tốc độ xử lý thông tin của nó rất cao. Nguyên lý khởi đầu của Dịch là Âm Dương sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái. Sau Bát Quái còn có thêm 64 Quẻ. Ký hiệu Dương là một vạch liền, Âm là một vạch đứt. Hoàn toàn tồn tại khả năng văn minh Trung Hoa đã mượn thứ ký hiệu này của văn minh Thần Nông và phát triển thành Kinh Dịch. Như vậy tại sao không thể đặt giả định hệ thống ký hiệu xây dựng từ hai đơn tố Âm và Dương là những chữ cái của một thứ ngôn ngữ bí hiểm nào đó trong văn minh Thần Nông”.

Đến đây thì tôi thấy cần xét lại một “khuyết điểm lưu cữu lớn” của văn minh Thần Nông là không có chữ viết, đã đề cặp ở trên. Hai đơn tố Âm và Dương rõ ràng đã đan xen, tạo thành chuỗi. Việc nó có thể dùng làm số đếm (hệ nhị phân), chữ cái hoặc chữ viết hay không, không còn phụ thuộc vào khả năng biểu đạt của hai đơn tố ấy, mà phụ thuộc vào khả năng xử lý tín hiệu của con người thời đó. Tôi đã loại bỏ được chất hoang tưởng trong giả định của mình.

Tôi đã đến viện bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh xem 1 chiếc trống đồng Đông Sơn. Trống đồng là bảo vật của dân tộc Việt Nam. Rất nhiều nhà khoa học đã đồng ý trống đồng lưu giữ dấu ấn thờ mặt trời của con người buổi bình minh lịch sử. Ở giữa mặt trống có mặt trời tỏa tia. Nửa ngoài mặt trống có 2 cặp vòng tròn đồng tâm chứa rất nhiều vạch liền xếp cạnh nhau. Theo ngôn ngữ Dịch, một vạch là Dương (trong lưỡng nghi), hai vạch là Thái Dương (trong tứ tượng), ba vạch là Càn (trong bát quái), sáu vạch là Càn Vi Thiên (trong 64 quẻ). Tất cả đều chỉ mặt trời hoặc ông trời. Nếu nói những nét liền kia nằm cạnh nhau là những chữ CÀN - CÀN – CÀN… liên tục tức TRỜI - TRỜI - TRỜI… liên tục thì khả dĩ chăng? Hay Thái Dương – Thái Dương – Thái Dương…? Đây chỉ là sự tình cờ thì thật lạ. Nhiều vạch quá, nhìn qua tủ kiếng tôi không thể đếm được bao nhiêu vạch. Nếu tổng số các vạch đó luôn chia hết cho 6, ở bất cứ chiếc trống đồng nào thì giả thuyết của tôi hữu lý nhất. Ngoài ra còn có một vòng tròn đồng tâm khác chạy những đường hoa văn hình “dấu ngã”, liên kết các “dấu ngã” này là những vòng tròn nhỏ, có chấm chính giữa. Đây cũng có thể là chữ “mặt trời” giống như chữ “mặt trời” ở nhiều nền văn minh sơ khai khác.

Giả thuyết tôi đưa ra nếu đúng sẽ dẫn đến sự xét lại: Ngôn ngữ Dịch là của văn minh Thần Nông. Dùng cơ sở “Phục Hy đặt ra bát quái” [15], Khổng Tử đắp tượng Văn Vương và Chu Công cho học thuyết của ông, bằng cách khẳng định hai người này đã viết “Thoán từ” và “Hào từ”. Khả năng “Thoán từ”, “Hào từ” và “Dịch truyện” đã được chính Khổng Tử biên soạn, là rất lớn. Cho đến lúc này, theo tôi, chỉ nên đặt câu hỏi Kinh Dịch là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt Nam chăng? Chúng ta chưa có nhiều bằng chứng thuyết phục, chưa so sánh được ngôn ngữ Dịch khởi thủy với Kinh Dịch. Lịch sử Trung Hoa vẫn tồn nghi nguồn gốc Kinh Dịch hai ngàn năm nay. Người Việt Nam hiện đại đang có niềm tin xác đáng hơn bao giờ hết để bước vào cuộc truy tìm bản quyền Kinh Dịch. “Mỏ vàng nhân văn” này hứa hẹn trữ lượng nguồn sống tinh thần vô biên cho con cháu Tiên – Rồng.

Tóm lại, tôi tạm dừng công việc của mình ở đây. Nếu có những người ủng hộ trí tưởng tượng của tôi, xin hãy tìm đến các di vật khảo cổ. Câu trả lời thật thuyết phục còn ở rất xa và có thể chẳng bao giờ ta thấy được. Tuy nhiên trò truyện với các vật tạo tác linh thiêng của tổ tiên mình không bao giờ nhàm chán và vô nghĩa. Dù rằng sẽ không ai chứng minh được tôi đúng song chứng minh tôi sai lại càng khó hơn. Cuối cùng cách giải mã ngôn ngữ trên trống đồng của tôi vẫn nên tham khảo, vì không lời khen tặng nào là quá đáng đối với trống đồng và những con người cổ xưa đã đúc nên chúng.

2. Những thông điệp nhân văn

Ngoài yếu tố lịch sử, huyền sử Việt Nam còn mang những thông điệp nhân văn luôn cần được con người Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào giải mã.

Đất nước và tổ quốc: Sử Ký Tư Mã Thiên trong chương “Khổng Tử thế gia” thuật lời Khổng Tử: “Khâu này nghe nói… Quái vật do nước sinh ra là con rồng”. Vậy ta có thể hiểu cha Lạc Long Quân là biểu tượng của “nước”. Ngôi nhà của “nước” tất phải ngoài biển, nghĩa gốc của chữ Lạc chính là “nước”. Mẹ Âu Cơ tượng trưng cho “đất”. Chữ Âu từng được Trần Thánh Tông dùng: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã – Sơn hà thiên cổ điện kim âu”. Hồ Quý Ly cũng từng cải tên núi Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) thành Kim Âu (Núi Vàng). Thành ngữ “Tấc đất tấc vàng” khá gần gũi với “kim âu”. Ngựa đá đứng trên đất vàng, thử hỏi làm sao mà non nước Việt Nam chẳng vững chãi Vạn Xuân.

Nền văn minh lúa nước được xây dựng từ “Đất” và “Nước” là điều không ai có thể phủ nhận. Người Việt Nam còn gọi tổ quốc mình là “Đất nước” có nguyên căn sâu xa như vậy. Chuỗi luận này có thể dẫn đến việc giải nghĩa từ Âu Lạc là “Đất nước”. Nếu bạn đọc thay các chữ “Âu” bằng “Đất”, “Lạc” bằng “Nước” vào toàn bộ bài viết này, tôi tin nội dung tôi muốn chuyển tải sẽ sáng tỏ hơn nhiều. Biết đâu cuộc chia ly của cha rồng mẹ tiên trong truyền thuyết lại chính là dấu ấn của một đợt hạn hán khủng khiếp nơi đồng bằng phía nam trung lưu Trường Giang.

Bài học đoàn kết: Âu Cơ và Lạc Long Quân đã chia rẽ, làm suy yếu nền văn minh Thần Nông. Hai nhánh Lạc Việt và Tây Âu, dù người xuống biển, kẻ lên rừng nhưng đều mất địa bàn sinh sống, phải bước vào hành trình ra đi, trôi giạt. Cả ngàn năm sau họ mới tìm lại được nhau trong nhà nước Âu (Cơ) – Lạc (Long Quân) sơ khai, non trẻ và yếu ớt. Cánh đồng Tương bên dòng sông Tương chảy vào Động Đình Hồ là nơi Long Quân và Âu Cơ hẹn gặp nhau. Chữ Tương cũng là một lời nhắn nhủ đoàn kết.

Bài học chiến tranh: Mỵ Châu đại diện cho nhân dân Tây Âu Lạc, Trọng Thủy đại diện cho người Nam Việt. Họ chính là nạn nhân đầu tiên và cuối cùng của chiến tranh. Nỗi đau của dân tộc này biến thành ngọc trai, rửa ở cái giếng ai oán thăm thẳm của dân tộc kia, sẽ lấp lánh vẻ đẹp vĩnh hằng của hòa bình và hòa hợp.

Bài học cảnh giác: Cảnh giác, trước tiên là cảnh giác với chính mình, cảnh giác với kẻ thù ở hàng thứ hai. Nhà cầm quyền Tây Âu Lạc đã bị vàng bạc và hôn nhân chính trị lung lạc. Ỷ thành cao, vũ khí lợi hại, An Dương Vương buông thả, ruồng bỏ nhân tài Cao Lỗ, khiến nước mất nhà tan.

Biển cả và tự do: Lạc Long Quân là vua rồng của biển cả. Ông dặn con cháu nếu nguy cấp hãy quay về phía biển gọi “Cha ơi!”. Bại trận, An Dương Vương ra bờ biển, lạnh lùng xử tử Mỵ Châu rồi lấy sừng tê rẽ nước mà đi. Thông điệp “ra với biển” đã trở thành tiềm thức trong khối óc mỗi con người Việt Nam từ đó trở đi. Sau này dân Việt Nam đã hơn một lần ra với biển đi tìm tự do: những tùy tướng của Mê Linh liệt nữ chạy vào Cư Phong rồi lên thuyền thẳng tiến đến Malacca, họ là người Minangkabau ở Maylaysia và Indonesia hôm nay; hậu duệ nhà Lý thì giong buồm đến Cao Ly; Hồ Quý Ly đáng lẽ không bị bắt làm tù binh nếu không tắp vào bờ biển bắc trung bộ… Thông điệp “ra với biển” ở thế kỷ 21 chắc chắn là mở vòng tay Việt Nam với bè bạn năm châu, từ bỏ suy nghĩ thủ cựu, chấm dứt các hình thức bế quan tỏa cảng.

3. Khuất Nguyên đã khóc cho văn minh Thần Nông

Khuất Nguyên sinh năm 343 TCN và mất năm 278 TCN. Ông bắt đầu làm quan khi mới 21 tuổi, dưới ngai vàng của Sở Hoài Vương. Vì chủ trương chính trị của Khuất Nguyên không được tôn trọng, cộng thêm dèm pha, Hoài Vương cách chức ông. Nghe lời bọn xiểm nịnh, Hoài Vương bại vong dưới đao kiếm nước Tần. Con cả Hoài Vương là Khoảnh Tương Vương lên ngôi lại tiếp tục tin nịnh thần, bắt Khuất Nguyên lưu đày xuống Giang Nam (khu vực Động Đình Hồ). Ông giải thích chuỗi sự kiện này như sau: “Tất cả đời đều nhơ đục, chỉ một mình ta trong, tất cả mọi người đều say, riêng một mình ta tỉnh, cho nên ta bị đuổi”.

Sử Ký Tư Mã Thiên viết (thực ra đoạn này của Hoài Nam Vương Lưu An, Tư Mã Thiên dẫn lại): “Ly Tao là nỗi buồn trong chia ly… Thơ Quốc Phong mê sắc mà không dâm, thơ Tiểu Nhã oán trách mà không loạn. Ly Tao thực là gồm được cả hai… Văn ông (Khuất Nguyên) ngắn gọn, kín đáo, chí ông trong sạch, nết ông thanh cao; tuy nói những điều vụn vặt, nhưng ý nghĩa rất rộng; việc nhắc đến tuy gần nhưng nghĩa thì xa… Thật là ở bùn mà trong trắng chẳng lây đen”.

Khởi dư thân chi đạn ương hề

Khủng hoảng dư chi bại tích [16]

Ly Tao là đỉnh cao, là cảm hứng và xuất phát điểm của Sở Từ. Xét trên quan niệm mới về tính đa nguồn gốc của văn minh Trung Hoa thì ảnh hưởng của Kinh Thi đến Sở Từ chính là giao lưu văn hóa. Kinh Thi khởi đi từ thơ hai chữ khắc trên giáp cốt văn đời Thương, đến thời Chiến Quốc nó hòa cùng Sở Từ và chảy qua ngũ ngôn Kiến An (Hậu Hán) rồi xuôi thời gian làm thành dòng Đường thi trác việt. Những bài Sở Từ có thể hát lên dần chuyển hóa thành Nhạc Phủ (đầu Hán), còn nhiều tác phẩm vận điệu trúc trắc là trực tổ của lối văn Phú Tụng đời sau. Trên tổng thể, Sở Từ mang bản sắc rất riêng của nước Sở (đứa con sinh ra bởi văn minh Hoa Hạ và Thần Nông). Đặt Sở Từ vào cội rễ văn minh Thần Nông (mẹ đẻ của Lạc Việt) mới thấy hết sự vĩ đại và bất hủ của Ly Tao và tác giả Khuất Nguyên.

Đọc Khuất Nguyên Liệt Truyện trong Sử Ký tôi thấy Tư Mã Thiên có sự đồng cảm thân phận cao độ với Khuất Nguyên. Song, vượt lên giao cảm cá nhân, sự nghiệp của Khuất Nguyên là tiếng nói của cả một nền văn minh độc lập, đau đớn nhìn chính mình đang vật vã trong làn sóng đồng hóa thô bạo bằng can qua. Là tinh hoa của văn minh Sở, Sở Từ đã có những đóng góp cực kỳ lớn lao cho văn minh Trung Hoa. Nghiên cứu thật kỹ Sở Từ, gạn lọc pha tạp và ảnh hưởng, tôi tin rằng người Việt Nam hiện đại sẽ bàng hoàng nhận ra ánh sáng huy hoàng bất diệt của văn minh Văn Lang hôm nào.

“Tứ ngọc cù dĩ thừa ê hề. Khạp ai phong dư thượng chinh”. Tạm dịch: cưỡi con ngựa ngọc dũng mãnh như loài rồng không sừng, ngồi xe có trang trí lông chim Trĩ, che gió bụi để bay bổng (thoát khỏi trần tục). Chiếc xe cắm lông chim Trĩ và những hình khắc trên trống đồng phải có một tương quan tất yếu. Cũng cần nhắc lại Việt Thường Quốc đã đến giao hảo và tặng Chu Thành Vương chim bạch Trĩ. Người Sở còn được gọi là người Kinh, người Việt. Sách Thuyết Uyển có dịch bài Việt nhân ca (của người Sở, viết bằng ngôn ngữ Sở) như sau: “Kim tịch hà tịch hề, khiên trung châu lưu. Kim nhật hà nhật hề, đắc dữ vương tử đồng chu”. Tức: “Chiều nay chiều nào hề nhổ sào (cắm thuyền) giữa dòng sông. Ngày nay ngày nào hề được ngồi thuyền cùng vua”.

Người Lạc Việt thờ trời và rất hay hỏi trời. Ví như câu ca “Bắc thang lên hỏi ông trời…”. Tác phẩm của Khuất Nguyên mang rất nhiều nét văn hóa Lạc Việt, đó là lý do ông có hẳn một tác phẩm “Hỏi trời – Thiên vấn” gồm đến 189 câu hỏi dành cho ông trời! Đoạn kết ông viết: “Ta báo cho các bậc tiền nhân nước Sở biết rằng nước nhà đang lúc khuynh nguy, sợ khó được trường tồn”.

Tác phẩm của Khuất Nguyên viết bằng ngôn ngữ nước Sở, muốn thưởng thức trọn vẹn cái hay cái đẹp thì phải đọc bằng giọng Hồ Nam. Đặc điểm này càng chứng tỏ Kinh Thi và Sở Từ không cùng cội rễ. Thật vậy, đọc Kinh Thi với âm Hán Việt vẫn thấy nó du dương không kém thơ Đường, nhưng nhạc tính của Sở Từ thì không thể bảo tồn nơi Hán Việt. Theo Nguyễn Tài Cẩn, [17] âm Hán Việt chủ yếu là âm Hán thời Đường, cho nên tiếp cận Sở Từ rất cần lao lực và những con đường hoàn toàn mới.

Nhạc ký của Khổng Tử nói: Phàm âm thân đều xuất phát từ tấm lòng của con người. Sự rung động của tình cảm sẽ tạo nên âm thanh, từ âm thanh sẽ tạo ra lời ca tiếng hát. Căn cứ vào âm nhạc để biết thời thế. Nếu thời thế bình yên thì âm nhạc êm dịu, còn thời thế loạn lạc thì âm nhạc ai oán, nếu chính trị đồi bại thì có lời ca ai oán vì mất nước, sẽ có sự buồn nhớ đau thương để nói lên nỗi thống khổ của người dân. Theo Đại Việt Sử Lược (1388): Mùa đông năm Nhâm tuất 1202 Lý Cao Tông đi chơi ở hành cung Hải Thanh. Ở đấy đêm nào cũng sai nhạc công khảy đàn Bà Lỗ, xướng điệu hát phỏng theo nhạc khúc Chiêm Thành, âm thanh ai oán thảm thiết buồn bã oán hờn. Những kẻ tả hữu nghe đến đều nghẹn ngào rơi lệ. Có vị tăng phó là Nguyễn Thường thưa: “Tôi thấy lời tự trong kinh Thi rằng, âm thanh lúc nước loạn thì ai oán, để tỏ ý căm giận cái chính trị bạo ngược; âm thanh hồi mất nước thì đau thương, để tỏ ý lo cho dân trong cảnh khốn cùng cơ cực. Nay chúa thượng đi tuần du không chừng mực, chế độ chính trị và việc giáo hóa thì trái ngược, dân chúng ở dưới thì sầu khổ. Sự nguy khốn đến thế thì thật là tột mức, mà ngày nay nghe cái âm thanh ai oán thì không phải đó là cái điềm loạn ly vong quốc hay sao. Tôi muốn xa giá từ đây trở về, đừng đi chơi nơi cái cung ấy nữa vậy”. Hơn 20 năm sau, điềm gở thành sự thật, nhà Lý bị nhà Trần thay thế.

Chiếu theo lý luận âm nhạc cổ điển Á Đông đã dẫn, tham khảo thêm giọng đọc Hồ Nam (không thật chuẩn) khi diễn tả Ly Tao, tôi nhận thấy rằng nhạc điệu của Ly Tao thật thê lương. Hơn nửa thế kỷ sau ngày Khuất Nguyên mất, nước Sở bị Tần tiêu diệt. Tiếng khóc của Khuất Nguyên chính là điềm báo của văn minh Sở, hoặc nói rộng ra là điềm báo thoái trào của văn minh Thần Nông. Khi Tần Thủy Hoàng đưa 500 ngàn dân – binh vượt Ngũ Lĩnh tấn công Bách Việt, những nhánh nhỏ trong Thần Nông như Mân Việt (Phúc Kiến), Âu Việt (Chiết Giang), Lạc Việt (Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam và Bắc Bộ Việt Nam) lần hồi bị sáp nhập vào Trung Quốc. Tần Thủy Hoàng là một đại đế mang tầm thế giới. Chiến công lớn nhất và cũng là tội ác lớn nhất của ông không phải là diệt Lục Quốc nhất thống Trung Nguyên, không phải là đày ải biết bao lương dân dựng lăng Ly Sơn hay xây Vạn Lý Trường Thành, mà chính là đặt nền tảng bạo lực thôn tính gần hết đất đai, văn hóa và con người của văn minh Thần Nông. Bài ca Ngu Cơ của Hạng Võ dưới làn điệu Sở là kết cuộc bi hùng của dân tộc Sở. Lưu Bang cũng hát điệu ấy, nhưng bài “Đại phong ca” đã biến thể. Văn minh Thần Nông vĩnh viễn hòa trộn cùng Hoa Hạ để tạo nên văn minh Hán. Những con người của Thần Nông từ đó trở đi đã thành con dân Hán tộc, chỉ trừ mảnh đất Bắc Bộ Việt Nam kiêu dũng, cô độc thẳng tiến đến tương lai trên con đường đầy gian nan và bất trắc.

Khuất Nguyên mang trong lòng nỗi đau của cả một nền văn minh ngỡ là bị hòa lẫn, bị nhìn nhận như man di mọi rợ hàng thiên niên kỷ, bị tước đi vị thế đặc biệt không thể chối bỏ của nó trong lịch sử Trung Hoa. Lẽ biến dịch, thắng thua của thời gian với Khuất Nguyên thật là tương đối. Tầm vóc của ông vượt lên tất cả, nghạo nghễ và phi thường, làm giá trị cho toàn bộ nhân quần đời đời vẫn còn lấn cấn những được mất, thành bại.

Đọc Khuất Nguyên, không hiểu sao tôi cứ nghĩ các thể văn riêng của người Việt (truyện, ngâm, hát nói) và Sở Từ có chung một nguồn cội. Những câu 6 chữ, 7 chữ rồi 8 chữ trong Ly Tao tải nhạc điệu rất gần gũi với Song Thất Lục Bát, Lục Bát và đặc biệt là lối Hát Nói của người Việt Nam. Chữ đệm “hề” đã từng có mặt trong ca dao đồng bằng sông Hồng:

Công anh đắp nấm, trồng chanh

Chẳng ăn được quả, vin cành cho cam

Xin đừng ra dạ bắc nam

Nhất nhật bất kiến như tam thu hề

Huống tam thu như bất kiến hề

Đường kia, nỗi nọ như chia mối sầu [18]

Điều tôi nhận định được thể hiện rõ nhất tại bài Hát Nói “Vịnh Tiền Xích Bích” của Nguyễn Công Trứ (trích đoạn phần lời ca):

Quế trạo hề lan tương

Kích không minh hề tố lưu quang

Diểu diểu hề dư hoài

Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương.

Phải chăng những tuyệt tác thơ Nôm đồ sộ của nền văn học Việt Nam như Truyện Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc vẫn còn những mạch ngầm mang dấu ấn văn minh Thần Nông? Trường thiên Ly Tao và Đoạn Trường Tân Thanh chỉ là một hình hài song đối qua tấm gương thời gian hai ngàn năm có lẻ, qua hai bờ nam bắc của Động Đình Hồ?

Có thể Khuất Nguyên đã chọn tiết Hàn Thực của văn minh Thần Nông để ra đi nhằm lôi kéo sự chú ý, cảnh tỉnh thế gian u muội. Dần dà ý nghĩa cổ sơ của Đoan Ngọ bị thay thế bởi đám tang thi hào và lòng thương cảm người đời dành cho ông [19]. Hơn hai ngàn năm sau, Tú Mỡ, một nhà thơ Việt Nam (ở góc độ nào đó cũng là một nhà văn hóa), đã bị đánh lừa nên từng viết:

Cái cụ Khuất bên Tàu

Chết từ hồi tam tổ

Có quan hệ gì ta

Mà sao phải ăn giỗ

Mồng 5 khỏe ăn càn

Mồng 6 ốm nhăn nhó

Có lỡ chết bỏ đời

Thì lại cho tại số

Gần đây hơn người Việt Nam có Trịnh Công Sơn tài hoa. Gần nửa thế kỷ, lớp lớp người Việt Nam thường quên hết mâu thuẫn, chia cách và dị biệt khi thả hồn trong những ca khúc mang họ Trịnh. Theo tôi cái tinh túy trong những tác phẩm của Trịnh Công Sơn không phải ở các nốt nhạc giản dị hoặc giữa vẻ đẹp ngôn ngữ, nó ẩn sâu nơi nhạc điệu của ca từ rất gần với Hát Nói. Truyền thuyết còn nhắc đến bản Diễm Tình u hoài, khắc khoải triền miên từ nước Sở, nay đã thất truyền. Có lẽ nhạc điệu ca từ của Trịnh Công Sơn cộng hưởng với cung bậc hiện đại, đã đánh thức những giọt máu xa xưa nhất trong trái tim mỗi con người Việt Nam, về lời ru đất nước từ thuở Văn Lang Động Đình Hồ.

Đầu thế kỷ 21, tác giả Nguyễn Hữu Liêm đã tả thực thao thức và chiêm nghiệm cá nhân bằng đoản văn “Cái âm điệu tủi thân bi đát”, [20] vô tình như thác xoáy vào tình cảm của cộng đồng Việt Nam lưu vong khắp thế giới. Phản ứng trỗi dậy ồn ào, tưởng như không đến nỗi thế, cũng chỉ vì mạch ngầm ai oán tha phương bị đụng chạm, vì lời nhận xét thuần lý của một triết gia chứ không phải một hồn thi sĩ: “Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã làm cho miền Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nuớc mắt. Cái quần chúng lau nước mắt này bị lưu đày qua đất mới và tiếp tục uống nước dừa tang thương bằng âm nhạc”.

E. Vĩ ngôn

Dù bỏ qua yếu tố chính trị, đa số sử gia Việt Nam cả ngàn năm qua vẫn luôn máy móc gắn chặt từ Giao Chỉ với Quận Giao Chỉ, như một địa danh luôn cố định tại đồng bằng sông Hồng. Họ sơ sót tính thời đại của sách Thượng Thư và quên mất bài thơ “Nam quốc sơn hà”. Nhiều khi họ còn nghĩ Việt Thường quốc thuộc vùng trung bộ Việt Nam hôm nay. Sự nhập nhằng giữa quận Giao Chỉ ảo rồi thật và bộ Giao Chỉ dẫn đến tình huống vừa đúng vừa sai của sử Việt: Tất cả sử liệu của mảnh đất Lạc Việt mênh mông bị dồn cục vào đồng bằng sông Hồng.

Hợp nhất - phân rã, lên cao - xuống thấp, chói lọi - lu mờ, thành công - thất bại, quần cư - tản mát, đến và đi… những cặp phạm trù này xoắn lấy nhau, vì nhiều nguyên nhân, liên tục đổi chỗ suốt quá trình hướng tới tương lai của bất cứ một nền văn minh nào trên thế giới. Văn minh Lạc Việt chẳng thể là ngoại lệ, song sức sống không thể phủ nhận của Lạc Việt ở chỗ nó đã không bị tuyệt diệt hoặc đồng hóa bởi Trung Hoa, một nền văn minh tầm cỡ của nhân loại.

Cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 người Việt Nam bị tách ra khỏi những trang hiến sử, dù còn nhiều sơ suất, nhưng do chính họ tự viết đã hàng ngàn năm. Ngày 17-3-1879 Pháp áp đặt chương trình giáo dục hệ Pháp – Việt nhằm loại bỏ hoàn toàn nền Hán học ở Nam Kỳ, sau đó là các ngày 27-4-1904 ở Bắc Kỳ và 30-10-1906 ở Trung Kỳ [21]. Rồi họ lại choáng nặng khi cái chương trình giáo dục kia khẳng định “Tổ tiên chúng ta là người Gauloir”! Có thể nói trong giai đoạn ấy, viết lại lịch sử Việt Nam là nhu cầu cấp thiết, là vũ khí quan trọng giác ngộ quần chúng đứng lên cởi bỏ xích xiềng nô lệ. Điển hình phải kể đến: Việt Nam vong quốc sử, Việt Nam sử khảo, Truyện Lê Thái Tổ, Tuồng Trưng Nữ Vương của Phan Bội Châu; Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim .v.v.. Cụm từ “Bốn ngàn năm lịch sử” bắt đầu cắm rễ vào trái tim và khối óc các thế hệ người Việt và trao gởi cho họ một sứ mệnh thiêng liêng nhưng luôn bàng bạc và ẩn sâu dưới nhiều biểu tượng. Chẳng hạn như ở hai câu thơ của Tản Đà: “Dân hai lăm triệu ai người lớn. Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”.

Những quyển sử viết vội ấy dù sao cũng đã thổi vào xã hội Việt Nam một năng động phi thường, một ngọn lửa yêu nước bất diệt để đuổi sạch ngoại xâm và thống nhất đất nước. Tuy nhiên vì giàu hư cấu và đầy dẫy nhu cầu nhãn tiền, nó đã để lại cho nền sử học Việt Nam hôm nay những chướng ngại vật ngoài ý muốn.

Thứ nhất nó chưa trả lời thỏa đáng câu hỏi: “Người Việt, nước Việt, chúng ta là ai?”.

Thứ hai nó có rất nhiều lỗ hổng trong phương pháp tiếp cận cổ thư. Việc đưa ra những khả năng ngữ nghĩa mới ở hàng loạt thuật ngữ liên quan đến thời tiền sử Việt Nam ở trên là điển hình cho những góc nhìn chưa được tham khảo và nghiên cứu kỹ lưỡng.

Thứ ba nó để lại tiền đề bất di bất dịch và phi thực tế về “tính bản địa” của văn hóa Đại (Lạc) Việt và văn minh Việt Nam. Về lâu dài, vấn đề Giao Chỉ vẫn còn là một chiếc phao cứu hộ cho tiền đề ấy. Các bằng chứng văn hóa và di vật (như trống đồng, bảo vật quốc gia) dàn trải trên địa bàn rất rộng lớn, không thể đóng khung trong những biên giới hành chính hoặc chính trị một thời. Đấy chính là ý nghĩa của chữ Đại trong từ Đại Việt. Càng cố chứng minh tính bản địa khu biệt của văn minh Việt Nam, sẽ càng làm nghèo đi bản sắc Việt Nam và ở góc độ nào đó, gián tiếp “nhược tiểu hóa” dân tộc Việt Nam.

Trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, cổ sử Việt Nam chắc chắn phải viết lại từ những dòng đầu tiên. Con người Việt Nam hơn bao giờ hết đang thiếu một thứ quá khứ gần với sự thật nhất, hầu mong chuộc lại những kinh nghiệm xương máu bị lãng quên, những bài học đắt giá mà tổ tiên họ đã kinh qua. Họ cần lắm niềm tin từ dĩ vãng Lạc Việt hào hùng với biết bao di sản văn hóa vô giá để ngẩng cao đầu hướng đến một tương lai sáng lạn.

Thung lũng Đa Thiện,

Đà Lạt 2004 - 2005

Thư tịch chính

Thượng Thư (http://www.guoxue.com/jinbu/13jing/shangshu/ss_ML.htm )

Sử Ký Tư Mã Thiên (http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sjml.htm )

Hán Thư (http://www.guoxue.com/shibu/24shi/hansu/hsuml.htm )

Hậu Hán Thư (http://www.guoxue.com/shibu/24shi/hhansu/hhsuml.htm )

Nam Việt Quốc Sử, Trương Vinh Phương, Quảng Đông Nhân dân xuất bản xã, 1995.

Trung Quốc Văn học sử, Dịch Quân Tả, Huỳnh Minh Đức dịch, NXB Trẻ 1992.

Chiến quốc sách, NXB Trẻ, 1989.

Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo Dục, 1999.

Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bình Nguyên Lộc, Bách Lộc xuất bản, 1971.

Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB GD, 2003.

Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim.

Khâm định Việt sử, Quốc sử quán triều Nguyễn.

An Nam Chí Lược

Văn minh Lạc Việt, Nguyễn Duy Hinh, NXB VH-TT, 2004.

Hán tự sử dụng trong bài:

Nam Giao: 南 交 ; Giao Chỉ: 交 趾 - 交 阯 - 交 址 ; Cửu Chân: 九 真 ; Nhật Nam: 日 南 ; Chữ Chỉ bộ túc: 趾 ; Chữ Chỉ bộ phụ: 阯 ; Chữ Chỉ bộ thổ: 址 ; Cơ Chỉ: 基 阯 = 基 址 ; Cơ Sở: 基 礎 ; Chữ Sở (tên nước): 楚 .

Chú thích

[1] Hệ thống những bài viết của tôi bao gồm 5 chủ đề đã được phổ biến rộng rãi trên mạng internet: 1) Bảo tàng lăng mộ Nam Việt Triệu Văn Vương tại Quảng Châu. 2) Từ Hai Bà Trưng đến những khắc khoải lịch sử. 3) Việt Nam thời bán sử và những thông điệp nhân văn. 4) Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và sự sa lầy của sử học Việt – Trung hàng ngàn năm qua. 5) Lưu vong, một nỗi niềm từ quá khứ đến tương lai.

[2]http://news.nationalgeographic.com/news/2002/12/1212_021213_journeyofman.html

[3] Bạn đọc thử xem xét các thành phố lớn ở Việt Nam: trên con đường nam tiến của những con người sinh ra từ nền văn minh lúa nước, nơi đặt đô thị dần dần chuyển vị trí từ bờ bồi (phù sa màu mỡ) sang bờ lở (thuận tiện cho thủy vận giao thương). Hà Nội và Hải Phòng gốc đều bên mạn nam sông Hồng và sông Cấm. Huế trải suốt hai bờ Hương giang. Đến Đà Nẵng và Sài Gòn thì chỉ phát triển ở bên lở của sông Hàn và sông Sài Gòn. Văn minh đô thị Việt Nam thành hình, yếu tố cần cho thương gia đã thắng yếu tố thiết yếu với nhà nông. Hai trung tâm buôn bán cổ là Phố Hiến và Hội An tọa lạc tại bờ lở, càng nhấn mạnh lập luận của tôi.

[4] Bạn đọc có thể kiểm chứng thông tin khảo cổ Trung Quốc tôi đã đề cặp tại rất nhiều trang web tiếng Anh. Phiên âm La Mã của các địa danh này như sau: Dadiwan, Gansu ( Đại Địa Loan, Cam Túc); Banpo, Shaanxi (Bán Pha, Thiểm Tây), Jiahu, Henan (Giả Hồ, Hà Nam); Taosi, Shanxi (Đào Tự, Sơn Tây). Toàn bộ những kiến thức này rất mới, nó vừa xuất hiện trên báo chí vài năm gần đây và chưa được hệ thống hóa đầy đủ vào bất cứ một quyển sách nào.

[5] Người Việt Nam hiện đại hay lầm lẫn ở đây, họ cho rằng Thần Nông là người Tàu, họ đôi lúc phản đối việc xem thủy tổ Kinh Dương Vương của mình là cháu Thần Nông. Có người góp ý với tôi: nếu Thần Nông gốc Tàu thì họ đã gọi là Nông Thần.

[6] Tiên tổ vua Sở là Mị Dục Hùng, con cháu ông ta lấy tên tiền nhân làm họ, có vẻ rất giống một vài nhóm dân tiền Đông Nam Á như Khơ Me. Con gái Vua Hùng tục gọi Mị Nương. Nước Sở còn có tên gọi khác là nước Kinh! Những cái tên chồng chéo này chắc chắn phải có mối tương giao văn hóa nào đó.

[7] Nếu khảo cổ Việt Nam tìm ra bất cứ di chỉ đồ đồng nào, niên đại trước 1700 TCN, có liên hệ rõ ràng với các di chỉ đồ đồng đã công bố như Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn; giả thuyết của tôi sẽ hoàn toàn sụp đổ.

[8] Xiaorong Han, Who invented the Bronze Drum? Nationalism, Politics, and a Sino - Vietnamese Archaeological Debate of 1970s and 1980s. Asian Perspectives, Vol.43, Spring 2004.

[9] http://www.china.org.cn/e-sanxingdui/index.htm

[10] Sách Mạnh Tử có nói “Vợ Hoa Chu và Kỷ Lương khóc chồng mình mà biến cải được phong tục trong nước”. Câu này vốn lấy từ chuyện nàng Mạnh Khương nước Tề khóc tế chồng chết trận làm thành lũy sụp mấy thước. Đây cũng là thông điệp thù oán chiến tranh, yêu chuộng hòa bình của nhân dân Trung Hoa thời chiến quốc.

[11] Dẫn luận người Tráng là hậu duệ người Tây Âu Lạc xưa là của tác giả. Các thông tin về người Tráng lấy ở http://www.china.org.cn ;http://mcel.pacificu.edu/as/resources/zhuang . Xem bản Việt ngữ “Thần cung bảo kiếm” tại: http://vny2k.com

[12] Các ngữ âm dẫn theo gợi ý của Phạm Chánh Trung – Trang web viethoc.org

[13] Văn ngọc: Từ những ngôi nhà hình thuyền,www.zdfree.free.fr/diendan/articles/u125vngoc.html

[14] Dẫn theo Dien A. Rice: “Minangkabau Life and Culture”, www.haqq.com.au

[15] Phục Hy là một nhân vật cổ tích rất phức tạp. Các yếu tố của văn minh Thần Nông và Hoa Hạ đan xen, chồng chéo và hòa lẫn vào nhau tạo nên Phục Hy. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết cụ thể này, giải mã hình tượng Phục Hy sẽ khiến mạch văn đứt gãy. Xin hẹn bạn đọc cơ hội khác.

[16] Tạm dịch: Không phải lo thân mình bị tai ương. Chỉ lo nước non khuynh đảo, tiêu tán công lao tiền nhân.

[17] Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn, NXB KHXH 1979.

[18] Thể lục bát biến thức, trích trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm, Trung tâm học liệu – Bộ giáo dục 1968, trang 9.

[19] Trường hợp này rất giống việc Ki Tô giáo chọn ngày Đông Chí làm Giáng Sinh. Đông Chí vốn là một lễ nghi cổ đại rất quan trọng của tất cả các nền văn minh ở bắc bán cầu. Người ta hay khẩn cầu mặt trời (đang nằm dưới bán cầu nam) trở lại, đem nắng ấm cho nhân sinh và mùa màng. Theo Lễ Ký, buổi tế Nam Giao lớn nhất của văn minh Trung Hoa phải được cử hành hằng năm vào ngày Đông Chí. Với lịch Julian, Đông Chí là 25 tháng 12. Khi lịch Gregorio thay thế lịch Julian thiếu chính xác, Đông Chí trở về ngày 21 tháng 12, Giáng Sinh vẫn được giữ nguyên là 25 tháng 12 như thói quen cũ.

[20] Nguyễn Hữu Liêm, Cái âm điệu tủi thân bi đát, talawas.org, 2003.

[21] Theo “Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858-1918” – Dương Kinh Quốc – NXB Giáo Dục 1999.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Quá trình hình thành quốc hiệu Việt Nam

31/12/2009

Trước và trong thời Hai Bà Trưng, tiên tổ của người Việt Nam hôm nay gọi đất nước mình là gì? Đó là một câu hỏi khó. Tuy vậy, tôi cũng tạm nêu ra từ “Âu Lạc”, trong đó Âu là Đất, Lạc là Nước. Từ ghép “Âu Lạc” mang nghĩa là đất nước hay xứ sở[1]. So sánh hơi khập khiễng thì tổ chức xã hội Âu Lạc khi ấy không khác mấy vùng đồng bào thiểu số Tây Nguyên cách đây trên dưới 100 năm. Nếu người Pháp từng kí âm “Đạ Lạch” thành Đà Lạt (nghĩa gốc là nước của người Lạch, xứ sở của người Lạch) thì người Hán cũng đã kí âm “Đất nước” thành “Âu Lạc”. Chúng ta chỉ hình dung được: dường như Âu Lạc – Đất Nước có qui mô lớn hơn Đà Lạt – Nước Lạch.

Từ Âu Lạc xuất hiện lần đầu tiên trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Song nó hàm nghĩa rất rộng, đó là một khu vực bao la gồm Quảng Tây, Quảng Đông và miền bắc Việt Nam ngày nay. Vương quốc Âu Lạc nửa hư nửa thực gắn với An Dương Vương hầu như chỉ là sự ghép nối vụng về các mảnh sử liệu rời rạc có sau Sử kí.

Trên một góc nhìn nào đấy thì nước Nam Việt của Triệu Đà cũng có thể mang tên bản địa là Âu Lạc. Sử kí viết về nước Nam Việt, nhưng luôn nêu rõ dân là dân Việt, tuồng như trong thông nghĩa Bách Việt (hàng trăm / nhiều tộc Việt khác nhau phía nam Trường Giang).

Vậy chủ nhân của mảnh đất Việt Nam hôm nay có phải người Việt không, hay Việt chỉ là một từ ngoại lai mà lịch sử trót dùng.

1. Nước Việt thời Xuân Thu – Chiến quốc.

Theo Việt vương Câu Tiễn thế gia (Sử kí thiên 41[2]): Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ vua Hạ Vũ. Con thứ vua Thiếu Khang đời Hạ được phong đất Cối Kê để thờ cúng vua Hạ Vũ. Họ khai hoang lập ấp, cắt tóc xâm mình, trải qua hai mươi đời thì đến Doãn Thường. Doãn Thường đánh nhau với vua ngô là Hạp Lư. Doãn Thường chết, Câu Tiễn được lập làm Việt vương.

Các chú giải của đoạn Sử kí trên:

  • Sách Chính Nghĩa, trích lại từ Ngô Việt xuân thu (viết vào năm 232 đến 300): Vua Hạ Vũ đi khắp thiên hạ, đến Đại Việt, lên Mao Sơn họp quần thần bốn phương phong thưởng, rồi mất và được an táng tại đó. Đến thời Thiếu Khang, vua sợ không ai tế tự tôn miếu, bèn phong con thứ là Ư Việt hiệu Vô Dư đất ấy.
  • Sách Cối Kê kí viết rằng: Con thứ của vua Thiếu Khang hiệu là Ư Việt, do đó tên nước Ư Việt xuất phát từ tên hiệu ấy.
  • Sách Chính Nghĩa viết: Sách Xuân Thu Công Dương truyện gọi Ư Việt là do vùng đất ấy chưa thông với Trung Quốc. Thông rồi thì gọi là Việt.
  • Sách Xuân Thu Tả truyện cho rằng Việt là tiếng nói của người bản địa (Cối Kê) có âm như thế, dùng từ Việt để ghi lại.
  • Sách Thích Danh của Lưu Hi (219 SCN): Việt mang nghĩa vượt, vì là nước man di khác vòng lễ nghĩa Hoa Hạ.
Sau khi Câu Tiễn diệt Ngô, quân Việt vượt sông Hoài cùng các nước Tề và Tấn hội ở Từ Châu, cung tiến vật phẩm cho triều Chu. Chu Nguyên Vương phong Câu Tiễn là Bá, trông coi các chư hầu vùng Giang Nam.

Đến đời Việt vương Vô Cương, Sở Uy Vương diệt nước Việt. Con cháu Câu Tiễn cũng như giới quí tộc Việt lưu lạc khắp miền Giang Nam, xưng tiểu vương hoặc quân trưởng và thần phục vua Sở.

Đến Tần mạt, hai quân trưởng vùng đất Mân là Dao và Vô Chư giúp Hán cao tổ đánh quân Tần. Năm 202 TCN Vô Chư được phong Mân Việt Vương cai quản vùng phía nam đất Mân (Quận Mân Trung thời Tần). Năm 192 TCN Dao lại được nhà Hán phong làm Đông Âu vương, cai quản vùng phía bắc đất Mân, ở lưu vực sông Âu.

Trong Sử Kí của Tư Mã Thiên, Ư Việt (於越) còn được viết là Vu Việt (于越 – Hóa thực liệt truyện SK 129). Sách Thuyết văn giải tự : Vu = Ư dã (là Ư vậy).

2. Dân Âu Việt là ai?

Cũng Sử Kí (Triệu Thế gia SK 43[3]) ghi nhận: 夫翦发文身,错臂左衽, 瓯越之民也 / Phu tiễn phát văn thân, thác tí tả nhẫm, Âu Việt chi dân dã / Như người Âu Việt, đàn ông cắt tóc, vẽ mình, đặt vạt áo về bên tay trái.

Sách đời sau chú đoạn Sử Kí trên khá nhiều, với mục đích trả lời câu hỏi “Âu Việt chi dân” là ai:

- Sách Ẩn nói theo Lưu Thị thì người Châu Nhai, Đạm Nhĩ (Đảo Hải Nam ngày nay) là người Âu nên có từ Âu Việt.

- Sách Chính Nghĩa cho rằng họ là người Nam Việt của Triệu Đà.

Xét trên đặc trưng văn hóa được Sử Kí ghi nhận thì người Âu Việt, người Ư Việt hay Vu Việt gần như là một. Để chứng minh Ư = Vu = Âu, cần phải có một công trình ngôn ngữ học truy nguyên các ngữ âm Hán cổ, cũng như cách kí âm phương ngữ bằng Hán tự của người Trung Quốc xưa.

Chữ Âu ở đây rất quan trọng, nó có liên quan mật thiết với cổ sử Việt Nam, vì một trong những thuật ngữ mù mờ nhất trong cổ sử Việt Nam là từ Âu Lạc. Sử Kí đã dùng những chữ Âu sau:

  • Đông Âu: Xứ sở của Đông Âu vương tên Dao. Từ này xuất hiện trong các thiên: Hiếu Vũ Bản Kỉ SK 12, SK 114, SK 22, SK 30.
  • Âu Lạc : Nói chung toàn khu vực Nam Việt, kể cả Mân Việt / SK 20, SK 113.
  • Người Đông Âu ở bên bờ sông Âu / SK 114, SK 22.
  • Âu Việt : Người Âu Việt / SK 43.
  • Âu nhân : người Đông Âu / SK 130.
  • Âu Thoát : Tên một vùng đất của Hung Nô phía bắc / SK 114.
Theo Thuyết Văn giải tự, Âu = 甌:小盆也從瓦區聲 / Tiểu bồn dã tòng Ngõa Khu thanh (Cái bồn nhỏ, bộ Ngõa, âm như chữ Khu). Chữ Âu 甌 ghép bởi chữ Khu 區 (Khang Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngõa 瓦 là ngói, đồ gốm.

Xin đề nghị một liên tưởng dân dã:

U = nhô lên = đồi, núi ~ vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ) = rú (âm Việt cổ chỉ núi, trong từ rừng rú).

Vú em = dưỡng mẫu

U = mẹ

Bu = mẹ già

Khu (đất) ~ u = mẹ.

Khu = vực = đất

Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm Khu. Ta có thể có mối tương quan giữa các âm như sau: Ư = Vu = Khu = Âu = U = Bu = Mẹ = Đất = Rú (Núi = Non).

Biến âm giữa U sang Âu được ghi nhận khá nhiều: Chu / Châu , Thu / Thâu, U / Âu ( u sầu = âu sầu) …

Như vậy, hoàn toàn tồn tại khả năng người Trung Quốc đã dùng Hán tự để kí âm phương ngữ vùng Giang Nam để nói về nước Ư Việt thời Xuân Thu – Chiến quốc. Từ nước Việt bên giòng Trường Giang ấy mà liên hệ ngôn ngữ với nước Việt Nam hôm nay là rất khó thuyết phục, tuy nhiên đặc trưng văn hóa cắt tóc xâm mình tương đồng là không thể phủ nhận. Có chăng một cuộc di cư lớn, kéo dài hàng trăm năm của cư dân và quí tộc Ư Việt sau khi nước Việt bị nước Sở sáp nhập? Nếu hậu duệ Câu Tiễn từng được ghi nhận chạy loạn xuống Mân Việt (địa bàn tỉnh Phúc Kiến ngày nay), thì không có lí do gì không có những nhánh khác đi xa hơn như đến Quảng Đông, đảo Hải Nam, bờ biển Hợp Phố (Quảng Tây) và đồng bằng sông Hồng.

3. Âu Lạc – Lạc Việt

Khi hai dân tộc, hai nền văn hóa vì những biến động lịch sử vô tình hòa vào nhau, kết hợp làm một, nó sẽ để lại dấu tích trong ngôn ngữ. Đó sẽ là những tổ hợp từ sinh ra trên cơ sở phối hợp hai từ đồng nghĩa của hai nền văn hóa riêng biệt. Từ mới nọ tất nhiên phải đồng nghĩa với hai từ cũ. Ví dụ:

Chó = Má = Chó má (Thái + Việt)

Chia = Ly = Chia ly (Việt + Hán)

Vậy phải chăng Âu Lạc chính là hợp từ sinh ra bởi Âu và Lạc. Nếu câu chuyện này thuyết phục, thì ta có thể truy ngược được nghĩa Âu.

Tại hội nghị nghiên cứu thời kì Hùng Vương năm 1971, trong tham luận “Thử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố Lạc”, Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đã giải thích Lạc nghĩa là nước. Hai ông cũng liên hệ được Lạc với Nác (tức nước) theo phương ngữ miền trung Việt Nam. Bằng các phương pháp truy nguyên ngữ âm học, các chuyên gia ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay đã đi đến kết luận chữ Giang trong Trường Giang là Hán tự kí âm phương ngữ. Thật vậy, chữ Giang ghép bởi chữ Thủy (mang nghĩa nước, sông) và chữ Công (kí âm). Công có họ hàng với Krông, tức là dòng sông, dòng suối trong ngôn ngữ của cộng đồng người Đông Nam Á cổ và hiện vẫn tồn tại trong ngôn ngữ Tây Nguyên. Trường hợp tên gọi Mêkông[4] (tiếng Thái, tức là mẹ của các dòng sông, dòng suối) cũng vậy. Ngày nay ở Tây Nguyên nhóm từ Đạ / Đak / Krông đều chỉ nước, sông, suối.

Theo tôi từ Lạc không đơn thuần chỉ là nước mà nó đôi khi còn được sử dụng với nghĩa Xứ Sở với các dẫn chứng liên hệ như Negeri (tiếng của người Mianagkabau ở Malaysia), Nưgar (tiếng của người Chiêm Thành).

Như vậy, khi xâu chuỗi các nghiên cứu trên lại với nhau ta có một nhóm từ tố mang nghĩa rất giống nhau là : Đạ / Đak / Krông / Lạc / Nác / Nước / Nưgar / Negeri.

Giả định Âu Lạc = Đất nước đến đây đã trở nên không hề hoang tưởng. Thậm chí nó có thể mở ra cách giải nghĩa một từ có liên đới là Lạc Việt: tên gọi này thể hiện sự kết hợp hai chủng tộc là bản địa (Lạc) với con dân cũ của nước Việt di cư xuống. Ở góc độ nào đó, nó là sự rút gọn của Lạc – Âu Việt.

4. Nam Việt

Mở đầu thiên Nam Việt liệt truyện (Sử kí 113[5]) đã thấy Tư Mã Thiên dùng từ Việt với hàm í dân Việt: 秦时已并天下,略定杨越 置桂林, 南海、象郡, 以谪 徙民,与越杂处十三岁 / Tần thời dĩ tính thiên hạ, lược định Dương Việt trí Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận, dĩ trích tỉ dân, dữ Việt tạp xứ thập tam tuế. Nghĩa là: Nhà Tần, sau khi chiếm cả thiên hạ bèn lấy đất Dương Việt chia thành quận Quế Lâm, quận Nam Hải và quận Tượng, bắt những người bị tội đày xuống sống chung với người Việt, việc diễn ra đã được 13 năm. Về tổng thể, thời Tây Hán sách sử Trung Quốc đều thống nhất cho rằng chủ nhân nước Nam Việt là người Việt.

Chữ Việt trong tiếng Hán: 越. Thuyết Văn tự giải của Hứa Thận thời Đông Hán định nghĩa: 度也從走戉聲 / Độ dã tòng tẩu việt thanh (Nghĩa là vượt qua, bộ tẩu, âm như chữ Việt là chiếc rìu đá). Một chữ Việt khác đồng âm, đồng nghĩa nhưng dị tự vẫn hay được các bản in xưa nay dùng là 粵.

Trong ghi chép của Tư Mã Thiên, con người bản địa nước Nam Việt do Triệu Đà dựng lên là người Việt. Tuy vậy, dường như chữ Việt này được rút từ từ ghép Bách Việt, chứ không dính dáng gì đến nước Việt thời Chiến Quốc trước đó. Bách Việt không phiếm chỉ một dân tộc, một đất nước. Nó gần như là một khái niệm và mang nặng hàm nghĩa văn hóa. Phổ quát nhất và thường được lập đi lập lại là đặc trưng “văn thân, đoạn phát / xăm mình, cắt tóc”. Theo Đông Việt liệt truyện (SK 114)[6] và Việt vương Câu Tiễn thế gia(SK 41)[7], vùng Mân Việt (Phúc Kiến) phía đông bắc Nam Việt là đất nước dưới quyền cai trị của hậu duệ Việt vương Câu Tiễn. Năn 202 TCN nhà Hán phong Vô Chư làm Mân Việt Vương, năm 192 TCN nhà Hán lại cắt một phần phía bắc Mân Việt phong cho quân trưởng Dao làm Việt vương (theo SK 41) hoặc Đông Âu vương (theo SK 114).

Thật khó khăn nếu muốn giải nghĩa Triệu Đà lấy tên Nam Việt với hàm í gì. Xét theo ngữ pháp tiếng Hán ta có Nam Việt = Đất nước phía nam nước Việt. Do đó người Việt ở nước Nam Việt có lẽ là người Bách Việt hơn là người Việt đồng chủng với cư dân Mân Việt? Điều này sẽ bị mấy câu văn vần của Thái sử công ở cuối thiên SK 113 phủ nhận, khi mô tả sự kiện Mân Việt đánh nhau với Nam Việt : Âu Lạc tương công, Nam Việt động dao / (Người, xứ) Âu Lạc đánh nhau, (Nước) Nam Việt xáo động. Hơn nữa, tục cắt tóc xăm mình cũng rất thịnh hành ở nước Việt của Câu Tiễn. Có không khả năng giai cấp lãnh đạo Mân Việt là người Việt (con cháu Câu Tiễn), trong khi đại bộ phận nhân dân là người Lạc?

5. Việt nam

Sau khi diệt Nam Việt, có một cách đoạn nhiều trăm năm cái tên Nam Việt không được cả người Hán lẫn người Âu Lạc cũ dùng tới. Sau đây là biên niên và tên gọi Việt Nam[8] ngày nay theo dòng lịch sử:

Hán: quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam

Tam quốc (thuộc Ngô) trở đi : Giao Châu

Đường : An Nam

Tống : An Nam, như việc phong Đinh Bộ Lĩnh làm An Nam quận vương. Năm 1017 nhà Tống phong Lý Công Uẩn Nam Bình Vương. Năm 1164 nhà Tống lại dùng danh xưng An Nam Quốc Vương cho vua Lý.

Minh: An Nam, năm 1428 Lê Lợi thay Trần Cao và được nhà Minh phong làm An Nam quốc vương, sau đến nhà Mạc được phong An Nam đô thống sứ.

Thanh: An Nam, như đã phong cho vua Quang Trung là An Nam Quốc vương.

Đến năm 1802, lần đầu tiên bắc triều mới chấp nhận để chữ Việt vào quốc danh để thành Việt Nam. Tai sao bắc triều tránh dùng chữ Việt, có những lí do sau:

- Sợ nhầm lẫn với nước Nam Việt thời Tây Hán hoặc nước Việt thời chiến quốc.

- Chữ Việt nhắc đến một quốc gia độc lập và tự chủ, trong khi bắc triều luôn muốn áp đặt đô hộ trực tiếp hoặc thống thuộc gián tiếp mảnh đất phương nam này như một thuộc quốc.

- Chia để trị là một đối sách mà các nước đế quốc ưa dùng. Quá trình Hán hóa các dân tộc thiểu số ở Hoa Nam bắt buộc phải thủ tiêu thuật ngữ Bách Việt. Hán hóa chính là xâm lăng văn hóa, thôn tính văn hóa, bước tiếp theo của vũ lực quân sự.

- Sau khi nước Việt thời chiến quốc và nước Nam Việt của Triệu Đà đã bị gộp vào Hán tộc, bắc triều gọi các nước phương nam là Nam cũng có thể xác nhận cách nhìn nhận phi Hán trong văn hóa, con người cũng như cương vực của khu vực này.

Ngược lại với bắc triều, các phong trào giành độc lập cũng như các vương triều của cư dân Việt Nam xưa có xu hướng chuộng chữ Việt:

Năm 544 Lý Bí tự xưng Nam Việt đế, đặt tên nước là Vạn Xuân.

Năm 549 Triệu Quang Phục xưng là Việt Vương.

Năm 939 Ngô Quyền mở nước Đại Việt.

Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh đặt tên nước là Đại Cồ Việt.

Năm 1054 Lý Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt.

Năm 1400 Hồ Quí Ly lấy tên Đại Ngu.

Năm 1427 Lê Lợi dùng lại tên Đại Việt.

Năm 1802 Nguyễn Ánh lấy tên nước là Nam Việt nhưng Thanh triều đổi thành Việt Nam.

Năm 1838 vua Minh Mạng dùng lại tên Đại Nam.

Năm 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định tên nước là Việt Nam.

Trường hợp dân tộc Tráng (Choang): Không riêng gì người Việt Nam, người Tráng ở Quảng Tây cũng có một lịch sử chống bắc thuộc dai dẳng và bền bỉ. Từ thời Đường, các lãnh tụ khởi nghĩa của họ đã xưng vương và lấy những danh xưng có liên quan đến từ Việt và từ Nam như: Trung Việt Vương, Nam Hải Vương, Nam Việt Vương. Ngang thời Lý ở Việt Nam, ‎Nùng Trí Cao xuất thân từ tỉnh Cao Bằng đã xây dựng nước Đại Lịch Quốc, sau lại đổi thành Nam Thiên Quốc với cương giới gần phủ kín hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông [9].

Có hai khuynh hướng chủ đạo thiết lập nền độc lập ở các dân tộc phía nam Hoa Hạ:

  • Lãnh đạo từ phương bắc xuống (hoặc hậu duệ nhiều đời của họ), hòa đồng với người phương nam, phát triển văn minh nhà nước tập quyền trên cơ sở thống nhất các bộ lạc tự trị, các vùng quyền lực bản xứ: Tổ tiên Câu Tiễn, Triệu Đà, Hậu duệ Câu Tiễn, Sĩ Nhiếp, Lý Bí, Trần Thủ Độ, Hồ Quí Ly…
  • Người bản xứ đứng lên tự cởi ách đô hộ, xưng vương: Hai Bà Trưng, các tù trưởng người Tráng ở thời Đường, Nùng Trí Cao, Lê Lợi…
Không kể Lê Lợi xây dựng vương triều từ nền móng chính trị sẵn có, ta thấy rõ khuynh hướng thứ nhất phổ biến hơn, thành công hơn. Trừ Hồ Quí Ly muốn ngang hàng bắc triều bằng cách đổi tên nước thành Đại Ngu (với giải thích ông là hậu duệ vua Nghiêu khai quốc Hoa Hạ), Sĩ Nhiếp tìm sự độc lập trong khuôn khổ hẹp, đa phần các lãnh tụ chọn từ Việt cho vương quốc mình. Các lí do hữu quan:

- Phần nào đó tầng lớp lãnh đạo chính trị phương nam có huyết thống phương bắc, tác động của yếu tố này sẽ khiến họ chủ động thực nghiệm văn hóa chính trị tiến bộ trong khu vực vào quốc gia họ xây dựng trên mảnh đất phương nam.

- Dư âm nước Việt tiểu bá phương nam của Câu Tiễn thời chiến quốc có thể là biểu trưng tinh thần, khích lệ các lãnh tụ tự tin và nỗ lực bồi đắp độc lập, tự chủ, thâu tóm quyền lực. Trong í nghĩa ấy, nước Việt mới, dân tộc Việt mới vẫn chứa nội dung phi Hán.

- Một cách tự nhiên, từ Việt dần dần hóa thạch vào văn hóa chính trị phương nam với í nghĩa li khai, bất khuất. Nó mang tính chính thống hiển nhiên trong đối nội và đối ngoại của bất cứ chế độ nào.

6. Kết luận

Tóm lại, Việt越 là một từ cổ, một từ bình thường trong bể từ vựng giữa đời sống văn minh Hoa Hạ. Nó được áp vào tên nước thời chiến quốc với í nghĩa[10]:

  • Sách Cối Kê kí cho rằng Ư Việt là tên của một hậu duệ vua Hạ Vũ, đến Cối kê lập nên nước Việt để tiện việc thờ tự Hạ Vũ (vốn mất và được chôn cất tại Đại Việt).
  • Sách Chính Nghĩa viết: Sách Xuân Thu Công Dương truyện gọi Ư Việt là do vùng đất ấy chưa thông với Trung Quốc. Thông rồi thì gọi là Việt.
  • Sách Xuân Thu Tả truyện cho rằng Việt là tiếng nói của người bản địa (Cối Kê) có âm như thế, dùng từ Việt để ghi lại.
  • Sách Thích Danh của Lưu Hi (219 SCN): Việt mang nghĩa vượt, vì là nước man di khác vòng lễ nghĩa Hoa Hạ.
Vì nhiều lí do (một số đã dẫn ở trên) ngày nay Việt Nam đã trở thành tên gọi chính thống của dải đất hình chữ S bên bờ Tây Thái Bình dương. Để được như thế, hai từ Việt và Nam đã trải qua một quá trình vận động bổ xung ngữ nghĩa hàng ngàn năm, với biết bao thăng trầm của lịch sử. Một lần nữa ta thấy dấu ấn của Triệu Đà ở đây, như một người gieo mầm văn minh chính trị tiến bộ phương bắc vào khu vực có đất nước Việt Nam hôm nay. Nếu có thể phân biệt được con người huyết thống (sinh học) và con người văn hóa trong tổng thể con người nói chung của nhân vật lịch sử Triệu Đà, thì rõ ràng không thể gọi ông là con người văn hóa Hán tộc. Đánh đồng con người huyết thống Hán của ông với con người văn hóa, một thứ văn hóa khởi sinh bởi sự tương tác văn hóa Tiền Hán – Tiền Việt mà ông là nhạc trưởng, là việc làm đành tình đoạn lí.

Tôi tin rằng, gần như đã đến lúc người Việt Nam đặt câu hỏi họ là người Việt, người Nam, người Việt Nam hay người Âu Lạc? Văn minh Việt Nam hôm nay đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ về nhận thức quá khứ, với chiều hướng dân trí và kinh tế đi lên, sáng sủa hơn bao giờ hết trong cuộc đời văn hiến đã khá dài của mình. Nó cần định hình và đồng thuận những giá trị mới của lịch sử, trên căn bản hài hòa xưa – nay, trước – sau và thấm đẫm tinh thần khoa học, trung trực. Chắc chắn quá trình vượt thoát, thực thi tinh hoa tự chủ, độc lập truyền thống trong bối cảnh chuyển biến thời cuộc khác trước rất nhiều, sẽ tiềm ẩn nhiều giải pháp hứa hẹn thú vị và lớn lao.

ttd, Thảo Điền 3.2007

[1] Xin xem thêm cùng một tác giả: Cổ sử Việt Nam, một cách tiếp cận vấn đề – NXB Lao Động 2007. [2] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_041.htm

[3] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_043.htm

[4] Nếu Âu là Mẹ, thì sông Âu nơi người Âu Việt sống có thể hiểu là Sông mẹ, sông lớn, tương tự Mêkong.

[5] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_113.htm

[6] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_114.htm

[7] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_041.htm

[8] Theo Việt Nam niên biểu, Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim. Bản điện tử của viethoc.com.

[9] Đoạn này tham khảo Journal of Southeast Asian Studies, Vol. XVIII, No. 2, September 1987. Người Choang các dân tộc ít người, vùng biên giới Việt – Hoa trong triều đại nhà Tống. JEFFREY G.BARLOW. Bản dịch của Ngô Bắc.

[10] Có tham khảo Văn Minh Lạc Việt – Nguyễn Duy Hinh – NXB VHTT 2004.

Share this post


Link to post
Share on other sites

huyện khởi nghĩa núi Cham .

Dòng Hùng Việt

Khởi nghĩa Lam sơn chống nhà Minh Trung quốc xâm lược được coi như khởi đầu từ hội thề ở Lũng Nhai Thanh hóa của Lê Lợi và 18 chiến hữu .

Nội dung lời thề Lũng Nhai (theo bản dịch của Hoàng Xuân Hãn)

Bui hay Duy (?).

Năm đầu niên hiệu Thiên Khánh là năm Bính Thân (1416), quá ngày sóc (mồng một) là ngày Kỹ Mão đến ngày 12 là ngày Canh Dần. Tại nước A-NAM, lộ Khả Lam, tôi là phụ đạo Lê Lợi đứng đầu, với Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn Linh, Lê Văn An, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Nanh, Lê Kiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến.

Chúng tôi kính cẩn đem lễ vật, sanh huyết mà thành khẩn dâng lời tâu, cáo cùng Vua Trời, Hậu Đất và các thần linh bậc thượng, trung, hạ, coi các cảnh đẹp sông núi tại các xứ ta . Chúng tôi cúi xin rộng lòng thương, soi xét để chứng cho việc nầy . Rằng có bạn từ xa tới kết tình vui vẻ và rất tin nhau, cho nên phải làm lễ tâu cáo .

.................

Ngay vào đầu Bản văn này đã có điểm phải xét lại :

... Năm đầu niên hiệu Thiên Khánh là năm Bính Thân (1416)...

Thiên Khánh là Niên hiệu của vua Trần Cảo mà bối cảnh và năm lên ngôi chép trong sử :

Trần Cảo tên thật là Hồ Ông , không rõ ông là người ở đâu.

Khi khởi nghĩa Lam Sơn bước vào giai đoạn thắng lợi quyết định, tướng nhà Minh là Vương Thông bị thua trận nặng ở Tuỵ Động, phải cố thủ trong thành Đông Quan. Để tìm cách kìm hãm sự phát triển của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, chia rẽ nội bộ người Việt, Thông liền viện cớ tìm lại tờ chiếu của vua Minh Thành Tổ năm 1407 khi đánh nhà Hồ, có nội dung muốn lập lại con cháu nhà Trần mà đòi thủ lĩnh quân Lam Sơn là Lê Lợi phải lập con cháu nhà Trần mới đồng ý giảng hoà và rút quân về nước.

Lê Lợi bèn sai người tìm con cháu nhà Trần. Theo sử sách, gặp lúc đó Hồ Ông lánh nạn ở châu Ngọc Ma, tự xưng là cháu nội vua Trần Nghệ Tông, được tù trưởng châu Ngọc Ma là Cầm Quý tiến cử với Lê Lợi. Để đối phó với yêu sách của Thông, muốn quân Minh nhanh chóng rút về, Lê Lợi đồng ý lập Trần Cảo làm vua, với danh nghĩa kế tục nhà Hậu Trần, đặt niên hiệu là Thiên Khánh, còn Lê Lợi tự xưng là Vệ quốc công. Lê Lợi tập trung vào chiến sự, sai quan tả bộc xạ là Bùi Quốc Hưng ở bên cạnh phò tá, nhưng thực chất là để giám sát ông.

Riêng sách Đại Việt thông sử lại chép sự kiện này xảy ra ngày 30 tháng chạp năm 1425, tức là trước khi Vương Thông sang Việt Nam.

(Trích đoạn wiki – internet bài Trần Cảo)

Năm 1425 nghĩa quân Lam sơn mới lập Trần cảo làm vua bù nhìn với niên hiệu Thiên Khánh vậy mà bản văn ghi …hội thề Lũng nhai diễn ra vào năm Thiên khánh thứ nhất Bính thân 1416 tức đi trước tới 9 năm ...? Phải chăng đây là lỗi của những người viết sách ‘Lam sơn thực lục’ ?.

Điểm đặc biệt nữa trong văn bản hội thề là quốc hiệu chưa từng nghe ...nước A NAM .

Lịch sử Việt chưa lần nào đề cập đến quốc hiệu này ...rất có thể :

*A Nam là Nam

Đây chỉ là tên nước ‘Nam’ thêm vào âm phụ theo kiểu ngôn ngữ Tai- Kadai thành ra A Nam giống như Cham thành Champa , Cau thành Kauthara...?.

*A Nam là phát âm không chuẩn của An Nam .

An Nam với chữ An là động từ thì không thể trở thành 1 quốc hiệu , phải đảo lại thành Nam An mới có nghĩa là nước phương Nam an bình , có thể có An Nam vương nhưng không thể có An Nam quốc vương như trong sử sách xưa nay đã viết vì tổ hợp chữ này không có nghĩa , thời Đường đặt ‘An nam đô hộ phủ’ tức cơ quan có nhiệm vụ giữ cho phía nam an ổn chứ không có vùng đất hay 1 đơn vị hành chánh nào gọi là phủ An Nam để rồi từ ‘phủ’ nâng cấp thành ‘nước’ để có quốc vương được , tới nay nhiều người vẫn lầm lẫn ...sở dĩ nước ta có tên An nam vì trước đó là An nam đô hộ phủ ...thực lầm lẫn qúa lớn tới nỗi làm sai lệch Việt sử ; xin hỏi Trung quốc có nước nào tên là An Đông – An Tây _ An Bắc ?.

A Nam không thể là An Nam với chữ An là yên ổn nhưng vẫn có thể là An Nam với chữ An Nghĩa khác nhưng đã bị ‘ai đó’ đánh lộn sòng .

Sự thực lịch sử Việt vẫn có thời được gọi là An Nam nhưng là chữ An nghĩa là ôn – ấm – nóng kết hợp với chữ Nam là phương Nam cũng có thể hiểu là Nước – Nậm âm cổ giống như trong ngôn ngữ Thái Lào ngày nay, An và Nam hợp thành 1 chỉnh thể theo luật Âm – dương , chữ An này mới chính là chữ trong danh hiệu ‘An Nam quốc vương’ chép trong sử (vấn đề này xin được bàn ở 1 bài viết khác) .

*Tiếp đến ta sét xem liệu A nam có thể là Hà nam ? .

A nam → Ha Nam→Hà nam về phát âm là điều hoàn toàn có thể còn về mặt ngữ nghĩa phải chăng đây là từ kép cấu thành bởi 2 thành tố chỉ dòng tộc , Nam chỉ người Nam tức người nước Nam có từ thời Khu Liên năm 192 , nước Nam là nước có thủ đô là Lâm ấp hay Nam ấp vua là Lý Nam đế ...đã ghi chép trong sử sách ; Hà chính xác là Hời – Hai số 2 của Hà thư (Hà đồ) trấn phía xích đạo ,cụ thể trong địa lý Việt chỉ tộc người sống ở Bình trị thiên trở vào nam , địa điểm cư trú cực bắc của họ gọi là Đồng hới biến âm của ‘động Hời’ tức động của người Hời ; các từ : động , trại và mường là từ cổ có thể được dùng với nghĩa là đơn vị hành chánh .

Tộc phả họ Phạm Việt nam chép :

"Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân -Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu ( gọi là xứ Lâm ấp)-tức là Nam Trung bộ ngày nay.

................

Những thông tin địa lý trong tư liệu phải hiệu chỉnh cho khớp với lịch sử – địa lý nước Việt ngày nay :

Theo ý trong bài thì Xứ Nam Hà hay Hà Nam cùng 1 nghĩa ; là từ ghép 2 thành tố Nam chỉ người Nam ở Ái châu và Hà chỉ người Hời ở Trung châu .

Ái châu là vùng Thanh Nghệ Tĩnh , Trung châu hay ‘châu Trong’là vùng Bình Trị Thiên ngày nay , với nghĩa hẹp chỉ có 2 châu này thì không thể gọi là nước A Nam mà chỉ có thể viết là Xứ A Nam – Hà Nam tức 1 phần của đất nước Nam – Hà rộng lớn hơn nhiều .

Tên gọi xứ A nam - Hà Nam đã nối kết được dòng sử xưa và nay của cộng đồng người Chăm ; cho chúng ta thấy dòng sử xuyên suốt :

Lâm ấp – (Nam – Hời) - Champa như đã khởi đầu trong Thiên nam ngữ lục ....Khu liên người nước Nam ta .

Cuộc khởi nghĩa Khu Liên gắn liền với địa danh Tượng –Lâm , huyện Tượng lâm lại ‘dính’ vào cái mớ bòng bong Tượng quận ..., sử Trung quốc tự hào là chính xác tính bằng phân bằng li , xem sét tới dấu phết dấu phẩy ... nhưng cỡ vài trăm ngàn km2 thì ....hơn 2000 năm vẫn cãi nhau không xác định được Tượng quận nằm ở đâu ...thật nực cười .

Tượng lâm ở đâu ?

Đấy là vùng đất xa nhất về phương nam của nước Đông hãn , là nơi có cột đồng Mã viện đánh dấu biên giới chôn ở động Cổ sâm – Khâm châu nay thuộc Quảng Tây , thông tin chỉ định rõ như ban ngày ... vậy sao mãi gỉa mù sa mưa thế ?.

Chỉ vì lòng người không ngay thẳng mà thôi ....

Về địa lý, vương quốc Lâm Ấp ở đâu, lãnh thổ như thế nào còn rất nhiều điểm mơ hồ. Theo sử cổ Trung Quốc thì lãnh thổ vương quốc này là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, phía nam huyện Lô Dung (Thừa Thiên-Huế ngày nay). Đường thư nói Lâm Ấp từ huyện Tây Quyển (Quảng Bình) trở xuống. Đại Nam Nhất Thống Chí nói Tượng Lâm là Bình Định và Phú Yên....

Chẳng hiểu các vị khoa bảng cả Tàu lẫn ta căn cứ vào đâu mà phán các chữ ...nay là ...nay là ‘chửi bố’ nhau như thế trong khi thông tin không phải là không có ...

Thủy Kinh chú cho biết thủ phủ Lâm Ấp lúc đầu không biết ở đâu, sau được biết đặt tại Khu Lật phía nam có sông Lô Dung chảy qua.

Xin hỏi dựa vào đâu mà khẳng định ....thành Khu Lật thủ đô của Lâm ấp quốc nay là thành phố Huế ? , sông Lô Dung là sông Hương ???, Đoán mò thì ít ra cũng phải bấu víu vào cái gì đó chứ , bằng chứng vật thể thành quách đền đài ...không , văn bia thư tịch cũng không , liên quan âm ngữ của tên gọi cũng không Khu lật thì dính dáng gì tới Huế chứ , vậy mà dám phán bừa Khu Liên lập nước Lâm ấp ở Tượng lâm nay là miền trung Việt nam ..., không hề để ý gì tới cái cột đồng Mã Viện đánh dấu biên giới cực nam của Đông Hán chôn ở Khâm châu Quảng Tây cũng như thông tin trong sử ....quân Mã viện nếu có cũng chỉ tiến tới Cư phong nay thuộc Thanh hóa rồi rút về Hán quốc thì vùng Bình trị Thiên lấy quan nhà Đông Hán đâu cho dân giết rồi tôn Khu Liên làm vua lập ra nước Lâm ấp ?.

Lô dung không phải là danh từ riêng tên con sông , dung chỉ là biến âm của giang danh từ chung đồng nghĩa với sông, Lô dung thực ra là Lô giang hay sông Lô , nó còn có nhiều cách gọi do biến âm khác như ....Lư giang , Lư dung , Lư thủy .v.v. ; hiểu như vậy thì đoạn Thủy kinh chú trở nên xác định rõ ràng không còn gì là mờ mờ ảo ảo ..., viết ‘sông Lô dung’ là do cái bệnh ...thừa chữ y như ...núi Thái sơn ....sông Hồng hà vậy ...

Nhìn vào hình :

Posted Image

Tượng lâm đất cực nam của nhà Hán nơi có cột đồng phân ranh... , nơi Khu liên lấp nước Lâm ấp mà thủ đô nằm ở bờ bắc Lô giang ...còn gì rõ hơn ?.

Giới Sử – địa học Trung quốc đã cố tình gây nhiễu , thực ra chẳng hề có huyện Tượng – Lâm cực nam của quận Nhật nam nào cả , Tượng lâm cứ trên cái nền Dịch học thì nhận ra ngay : đất Tượng lâm là đất Tây – Nam (Tượng = Tây , Lâm =Nam) , là tên gọi miền Vân nam - Quảng tây - Qúy châu Trung quốc , nơi sinh trú của đám Tây – Nam di , là đất của Điểu Man – Điểu Hử ...

Bài viết Điểu –cầm - chim đã giúp giải đáp tại sao Lâm ấp khởi đầu ở Tượng lâm – Quảng tây khúc sau tới đời các vua họ Phạm cháu dòng ngoại của Khu Liên lại lộn ngược rơi xuống châu Ái – châu Trung của đất Việt .

Vua Lê lợi xưng là Lam sơn động chủ thực ra danh xưng này chỉ là chữ nghĩa hóa tên gọi ‘Đạo Cham’ tức ông đạo Cham cụt lủn xem ra đầy sự quê mùa ..., đạo là lang đạo – phụ đạo nghĩa là người đứng đầu , Cham là vùng đất hay ‘động’ Cham nơi có làng Cham - núi Cham (Lam sơn) .

Nước hay xứ A Nam , lộ Khả Lam ...qúa rõ , Khả lam thiết Cam ...

Sinh ở kẻ Cham hay làng Cham , dựng nghiệp ở núi Cham , cham ↔chim , chim là điểu vậy .

Nơi ấy gọi là lộ Khả lam , khả lam thiết Cam ; cam ↔kiềm↔cầm .

Thông tin về Thân thế của vua khai sáng nhà Hậu Lê có đủ cả 2 yếu tố Cầm-Cam lẫn Chim-Cham thì làm sao nói khác : Triều hậu Lê là triều đại của nước A Nam-Nam vua là người Chăm và triều thần là ...Kinh – thượng hoà hợp , xét về mặt bản sắc dân tộc thì đấy là thời hỗn dung ‘Kinh – Hời’ , là đất nước của cả người Kinh lẫn người Hời .

Trong Phổ chí mới sưu tầm được của tộc Phan hai làng Đà Sơn và Đà Ly là Hoàng tộc 1 thời của Chiêm quốc có chép :

..........................

Nhớ lại, thuỷ tổ chúng ta là : vua Lạc sinh ra tộc chúng ta. Thời thượng cổ sinh sống tại động Thanh Lam (vùng Thanh hóa) , hiệu là bộ Việt Thường, thời trung cổ dời vào Lâm Châu (nay là đất Lâm Bình), thời cận cổ lại dời vào Đà Bàn (nay là đất Bình Định), đổi hiệu là nước Chiêm Thành, bao trùm cả Thanh Hà (nay là đất Thanh Hóa), về nam tới động Thạch Bi (nay là đất Thuận Thành – Phan Rang ), tiếp nối các đời làm chủ đất nước, gồm 68 thế kỷ (đất cũ thổ âm gọi là “dung anh”). Các thế hệ đều dùng chữ khoa đẩu để biên chép...

.... .........

Ông (tổ của tộc) nói: Chúng ta là nòi giống Chiêm, là cháu ngoại nhà Trần, nhờ nhà Trần mà diệt được giặc Mật, giặc Đẩu ( Trịnh giác Mật – Sạ Đẩu 2 người nước ngoải tiếm ngôi vua Chàm ), rửa được mối hận của nước nhà không dám quên ơn đức (nhờ đó mà khỏi) cam chịu mười ba châu này là bãi đất trống không chủ. Đất đai của chúng ta, nhân dân của chúng ta không phải nhờ giặc Hồ (nhà Hồ) mà có, mà chúng lại dám chiếm đoạt, phá huỷ động tháp của tổ quốc ta, dày xéo lăng tẩm tổ tiên bên ngoại ta, lẽ nào ta lại đành lòng ngồi yên mà nhìn vậy sao ?

Ta đây chờ cho binh lính giỏi, lương thực đủ, ta quyết thừa cơ thu phục đất cũ.

Tiếp đến, nghe tin vua Lê khởi nghĩa. Ông nói: dòng giống họ Lê gốc người động Thanh Lam, cùng một nòi giống Chiêm của ta, ông bèn xuất tiền của, kêu gọi các châu huyện chuẩn bị lương tiền cùng các loại thực phẩm để cống hiến cho binh lính nhà Lê.

Vua Lê trọng tạ. Đến lúc nhà Lê dựng đựoc cơ nghiệp, phong cho ông tước hầu.

................................

Dĩ nhiên phổ chí đời sau ghi lại bằng ký ức không thể chính xác hoàn toàn nhưng chí ít cũng phải đúng 1 phần ..., cái 1phần ấy đem so chiếu kết hợp với những nguồn thông tin khác ...tổng kết sẽ là sự thật : Lê Lợi là người nước Nam (Lâm ấp) sắc tộc Cham .

Xin lưu ý Cham không đồng nghĩa với Hời , Cham – Chim là dòng giống người sinh sống trải từ Qúi châu tức đất Kiềm trung , xuống Lào đất của dòng họ Cầm , xuống mãi phía nam đến miền Trung Việt là đất Cam của người Chàm hay Chiêm thành , đấy là lãnh thổ rộng lớn của nước Nam khởi dựng từ thời Khu Liên hay Khu Linh . Thời Lê Lợi khởi nghĩa đất nước rộng lớn ấy chỉ còn 1 góc gọi là xứ A Nam – Hà Nam hay xứ Nam Hà đúng như tộc phả họ Phạm viết , Nam – Hà chỉ là 1 xứ gồm 2 châu Ái và Trung còn cả nước Nam – Lâm ấp thì lãnh thổ lớn hơn nhiều .

Triều đại Lê khởi từ đất phía tây Thanh hóa , nói tây Thanh hoá thực ra là kiểu chơi chữ tránh né sự thực ....nhà Hậu Lê nổi lên ở đất Lào ; nhà nghiên cứu Tạ chí đại Tường viết ... Tập họp Lam Sơn mang tính hỗn hợp Mường Thái chứng tỏ trong liên hệ hôn nhân: mẹ Lê Lợi họ Trịnh, vợ ông cũng họ Trịnh (người Thái- Lào ?) , và họ Phạm (người Cham ?) . Ngày sau , xa cả sau khi Lê đổ, Phạm Đình Hổ còn biết trong lễ tế ở Lam Kinh có xướng bằng tiếng Thái chứng tỏ người ta đã không quên tổ...

Tại sao lại phải che đạy sự thật mà đáng lý ra phải công khai trước bàn dân thiên hạ , phải chăng là do ý nghĩ sai lầm .... ‘nước Việt thì vua người Kinh mới đúng là chính thống’ của lớp sử gia thời trước ?.

Không phải mãi tới thời hậu Lê , thời nhà Trần đã gọi dòng giống vua Chăm là Lê gia , ....Trần triều uy đức an thiên hạ – Lê gia công trạch định viêm cương ...; gia ở đây không phải là nhà hay triều đại mà là 1 họ tộc , họ Lê là họ tộc trấn giữ Viêm cương - biên cương phía Xích đạo của thiên hạ nhà Trần , Lê là biến âm của Lửa vậy .

Âm Cam – Cầm viết bằng ‘Hoả tự’ dù ký âm lại bằng mẫu tự La tinh Kampapura vẫn không mất gốc ... Cam vẫn là Kam ... dù có nối thêm papura vào thì vẫn là nước có biên giới cực bắc là Cam Môn - Hà tĩnh , cực nam là Cam ranh – Khánh hoà .

Chim dù có ký âm thảnh Champa hay Chiêm quốc Chiêm thành gì gì nữa ...thì chim cũng vẫn là chim ...

Đất xứ ‘Dừa’ thành ra ‘vijaya’ (da = dừa) , Cau thành ‘Kauthara’ vẫn y nguyên về thanh âm nơi cửa miệng ...nào có khác chi ?

Phan ranh cùng phân giới với Cam ranh viết sai thành Phan rang chuyển sang chữ Chàm rồi âm lại bằng âm Latinh là Panduranga ...qua bao cuộc ‘bể dâu’ như thế mà vẫn nhận ra âm gốc Phan và ranh-rang của tiếng Việt ...kể cũng lạ thật .

Tên vua Cham thì trừ những vị sách vở chỉ chép ‘thần hiệu’ theo Ấn độ giáo không thể nhận ra được còn lại đều là người họ Phạm mà tộc phả xác định có từ thời Hùng vương , Chế này Chế kia tưởng là Chàm ngữ ...nhìn kỹ thì chế Mân - Chế Củ chẳng qua là Chúa tên Mân , Chúa Củ thế thôi , vua họ Trà – chà có thể chỉ là biến âm của cha , như sự biến âm của 2 từ Việt quen thuộc vẫn hay bất ngờ bật ra từ cửa miệng người Việt ...ới cha→ui gia→úi chà→ối dào ... ; vua Po... thì rõ ràng là bố theo kiểu ‘bố cái đại vương – Pi lo co’ không chạy đi đâu được ...

Thực kỳ lạ khi hầu hết tên tuổi địa danh quan trọng nước Champa đều là từ gốc Việt ngữ rất ư quen thuộc thân thương .

Đọc 1 đoạn trong Chiếu thư đánh Chàm thời Lê thánh Tông khiến không khỏi giật mình...

Khi Nhân Miếu lên ngôi cả, thì giống nòi chúng đã rất đông. Nương chốn Cổ Lũy như hang cầy, cậy thành Chà Bàn như tổ kiến. Điên cuồng mất trí, nó ( Trà Toàn) xưng bừa là cha chú , gọi đức vua ta là cháu con; mất đức ra oai, ác chất chồng, giấu sao cho nổi ? Những lời lăng nhục không thể nêu tường....

Nay xét tổng thể lịch sử nước Nam có đô là Lâm ấp từ khi Khu Liên lập quốc ....dám nói thẳng ...chưa chắc Trà Toàn đã xưng bừa...khi gọi ‘vua ta’ là cháu con , lịch sử Việt và Cham còn muôn vàn khuất tất ...xưa nay nghe tên Lâm ấp thì không dám ‘nhận’ nhưng khi gọi đích danh nước NAM thì lập tức nhìn ra ngay ... .Vua Lê Lợi là người Cham thì cuộc chiến Việt - Chiêm thời ấy chỉ là nội chiến mà đã là nội chiến tương tự Chàm Dừa ‘oánh nhau’ với Chàm Cau thì làm gì có tộc thắng tộc thua ...mất nước , thắng thua là chuyện của mấy ông hoàng bà chúa mà thôi ...; Xét cho đến cùng cũng chẳng hề có cuộc Nam tiến của người Việt như xưa nay vẫn thường nghe ...không lẽ người Việt tiến chiếm đất của người nước Nam ? ...thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn ‘ta’ chẳng xưng là đại NAM đấy sao ?.

Bài viết này khẳng định bản thân từ ‘Chăm’ mang 1 nội hàm hoàn toàn khác với nghĩa đang dùng , Hời - Hà chỉ là 1 phần của cộng đồng Chăm – Chim to lớn hơn nhiều , đất Cầm – Kiềm – Cam của họ ít ra cũng gấp cỡ chục lần cái nước Kampapura ở Miền Trung Việt nam chép trong sử ngày nay .

Lịch sử là sự xuyên suốt cổ kim , tách riêng 1 đoạn nào đó dù là đầu là giữa hay cuối dòng sử mà xem sét thì chắc chắn dẫn đến 1 cái ‘biết’ méo mó lệch lạc bất toàn , đây là điều vô cùng nguy hiểm vì điều đó chính là khởi đầu của chuỗi diễn biến ....biết không đúng→nghĩ sai →làm bậy vô cùng tai hại .

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

“Giải ảo” vương triều Lý

www.thanhnien.com.vn 21/11/2009 23:06 Posted Image

Tượng đài Lý Công Uẩn dù đã được dựng tại Hà Nội nhưng vẫn còn rất nhiều tranh cãi về trang phục, tư thế, nét mặt của nhân vật - ảnh: Ngọc Thắng

Phải chăng Đình Bảng là nơi “chôn rau cắt rốn” của vị vua khai sáng một trong những vương triều thịnh trị nhất của chế độ phong kiến Việt Nam?

Những tranh luận khoa học và cả sự tôn vinh vương triều Lý đã được hơn 60 nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập ở hội thảo khoa học 1.000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long hôm qua 21.11 tại Hà Nội.

Trong lịch sử Việt Nam, có không ít vương triều và nhân vật lịch sử gây nhiều tranh cãi. Song, với vương triều Lý, những nhận định, đánh giá tổng quát về công lao của vương triều này gần như đạt tới sự đồng thuận cao. Tất cả các sử gia đều cho rằng nhà Lý đã xây dựng được một chính quyền thống nhất, củng cố và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia và độc lập dân tộc; chấn chỉnh quân đội, luật pháp; phát triển nông nghiệp và kinh tế hàng hóa với những chính sách cấp tiến..., trong đó hai điểm nhấn nổi bật là định đô ở Thăng Long và khai mở kỷ nguyên văn minh Đại Việt, mà cốt lõi là nền văn hóa Thăng Long.

Tuy nhiên, tranh cãi chủ yếu nằm ở việc nhận diện nguồn gốc, thân thế nhân vật Lý Công Uẩn. Vị vua khai sáng này rõ ràng có một sự nghiệp vĩ đại và hiển hiện, nhưng lại có một lai lịch không hề rõ ràng. Ngay cái tên Lý Công Uẩn, theo GS Nguyễn Quang Ngọc, Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển kiêm Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội, dường như cũng mang tính biểu trưng của một làng quê đầy huyền bí (hương Diên Uẩn, sau đổi thành hương Cổ Pháp), chứ khó ai có thể biết rõ tên thật của ông.

Mặt khác, các bộ sử cũ của Việt Nam, hoặc không chép đến, hoặc không xác định được ai là cha của Lý Công Uẩn. Sách Đại Việt sử ký toàn thư, dựa theo truyền thuyết dân gian, chỉ kể chuyện mẹ ông “đi chơi chùa Tiêu Sơn, cùng với người thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất, niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 (974) thời Đinh”. Nhưng cũng có tài liệu nói rằng Lý Thái Tổ là con của Thần Khỉ, con của Lão Sa Môn, Thánh tổ Hiển Tông hay thậm chí là con của thiền sư Vạn Hạnh. Lại có giả thuyết Lý Công Uẩn sở dĩ mang họ Lý là vì Vạn Hạnh đã “bố trí” cho em ruột Lý Khánh Văn nhận vua Lý làm con nuôi để hợp thức hóa tên họ Lý cho người con trai đích thực của mình.

Lý Công Uẩn không phải người gốc Mân

GS Nguyễn Quang Ngọc đã bước đầu đưa ra kết luận mới có phần đảo ngược những hiểu biết trước đây về nhân vật Lý Công Uẩn. Bằng những cứ liệu khoa học, trong đó quan trọng nhất là văn bia Lý gia linh thạch lập năm 1793 tại chùa Tiêu Sơn có ghi: “Đắc Đông Ngàn Hoa Lâm nhan Phạm Mẫu tiêu dao kỳ tự”, ông Ngọc cho rằng Dương Lôi (Từ Sơn, Bắc Ninh) là quê nội và Hoa Lâm (xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội) là quê ngoại của vua nhà Lý.

Cũng về vấn đề nguồn gốc nhà Lý, trong khi nhiều sử sách “huyền thoại hóa” và “thần thánh hóa” nhân vật Lý Công Uẩn, thì GS Nguyễn Quang Ngọc xác định thân phụ Lý Thái Tổ không phải là “thần nhân” mà là người thật, gia đình Lý Công Uẩn tuy gặp hoàn cảnh éo le nhưng Lý Công Uẩn vẫn có đầy đủ cả cha lẫn mẹ. Ông Ngọc đã “giải ảo” bằng cách xác định chính xác vị trí của ngôi mộ Hiển Khánh Vương, thân phụ Lý Thái Tổ, trong khu Rừng Miễu làng Dương Lôi, tức khu cánh đồng giáp giới giữa Đình Bảng, Đình Sấm, Đại Đình.

Câu chuyện Đình Bảng hay Dương Lôi mới đích thị là quê nội Lý Thái Tổ cũng là câu hỏi làm đau đầu không ít nhà sử học. Tất cả các bộ sử cũ đều chép Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp. Song, trên thực tế, Cổ Pháp thời Lý quy mô ra sao và làng nào là làng quê gốc của nhà Lý, thì lại không dễ trả lời. Theo GS Nguyễn Quang Ngọc, đã có một thời, hễ nói đến quê hương nhà Lý là người ta nghĩ ngay đến làng Đình Bảng (nay là phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh), mặc dù ai cũng biết hương Cổ Pháp (hay châu Cổ Pháp) thời Lý không phải chỉ có một làng Đình Bảng. Thế nhưng, nhiều người đã đơn giản đồng nhất châu (hay hương) Cổ Pháp thời Lý với làng Cổ Pháp - được cho là làng Đình Bảng, và quy tất cả những vấn đề về quê hương nhà Lý hay có liên quan đến quê hương nhà Lý vào riêng làng Đình Bảng. Trên thực tế, GS Nguyễn Quang Ngọc cho rằng làng Đình Bảng, dù đã được nghiên cứu nhiều, khảo sát nhiều, nhưng hầu như không có dấu tích đáng kể nào về gia đình (cha, mẹ), dòng họ hay sự sinh trưởng của Lý Công Uẩn. Đình Bảng cũng chưa bao giờ thờ các vị vua nhà Lý làm thành hoàng làng. Đền Đô thờ 8 vị vua nhà Lý, nhưng nguyên thủy thì không phải là đền hay miếu của làng Đình Bảng.

Cũng theo GS Ngọc, khu rừng Báng đúng là dấu tích còn lại của Thọ Lăng nhà Lý, nhưng Thọ Lăng không phải là đất của riêng làng Đình Bảng. Hơn nữa, nhiều nguồn tư liệu cho thấy bà Phạm Thị - thân mẫu Lý Công Uẩn, chỉ gắn bó với Dương Lôi và khi chết được chôn cất tại Dương Lôi, đúng như phong tục phổ biến của người Việt về cuộc đời người phụ nữ: sinh quê cha, thác làm ma quê chồng. Như vậy, theo GS Ngọc, Dương Lôi, chứ không phải Đình Bảng, mới đúng là gốc gác của Lý Thái Tổ. Bà Phạm Thị đã sinh Lý Công Uẩn tại đây. Lý Công Uẩn lớn lên ở đây, và khi làm nên công danh sự nghiệp cũng gắn chặt với nơi đây.

PGS-TSKH Nguyễn Hải Kế, Chủ nhiệm khoa Lịch sử, ĐH KHXH-NV, ĐH Quốc gia Hà Nội, và Ths Nguyễn Ngọc Phúc cũng bóc tách vấn đề “gốc người Mân” của Lý Công Uẩn và chứng minh những cứ liệu mà các sử gia Trung Quốc dựa vào để khẳng định “nguồn gốc Mân” (Phúc Kiến, Trung Quốc) của Lý Công Uẩn, như Mộng Khê bút đàm, Tốc thủy ký văn hay bức thư của Từ Bá Tường viết cho Đại Việt vào năm 1076 và cả Lý trang Chử Nội Lý thị phòng phả là không đáng tin cậy vì có rất nhiều nhầm lẫn, sai sót về số liệu, sự kiện, nhân vật.

Còn nhiều “nghi án”...

Tuy đồng thuận trong việc đề cao công lao kiến thiết đất nước của vương triều Lý, song nhiều sử gia vẫn còn tranh cãi về mô hình, thể chế chính trị của nhà nước này. Trong khi nhiều nhà sử học trong nước, như: PGS-TS Vũ Văn Quân, PGS-TS Nguyễn Thừa Hỷ (ĐH KHXH-NV, ĐH Quốc gia Hà Nội) cho rằng bộ máy nhà nước trung ương của vương triều Lý được xây dựng và kiện toàn theo hướng tập quyền nên Thăng Long ngay từ đầu đã trở thành trung tâm quyền lực với sự tập trung cao, thì GS Momoki Shiro (ĐH Quốc gia Osaka, Nhật Bản) lại khẳng định các triều đại cho đến nhà Trần chưa cai trị theo mô hình quan liêu trung ương tập quyền. Mặt khác, dù chế độ phụ hệ được coi trọng, nhưng vai trò của các bà hoàng hậu và hoàng thái hậu thời Lý trong việc củng cố vương triều cũng không nhỏ. GS Momoki Shiro dẫn chứng bằng việc Lý Thái Tổ sau khi lên ngôi không những truy phong thân phụ làm Hiển Khánh vương mà còn truy phong thân mẫu làm Minh Đức thái hậu. GS Sakurai Yumio (ĐH Quốc gia Tokyo, Nhật Bản) cũng cho rằng chỉ có khu vực Thăng Long và vùng đất phía tây nam của nó là do nhà Lý trực tiếp quản lý. Theo ông Sakurai, toàn bộ khu vực phía ngoài châu thổ đều nằm dưới quyền kiểm soát của dòng họ địa phương có thế lực mạnh, còn các khu vực miền núi hẻo lánh, dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh các nhóm tộc người thiểu số vẫn duy trì mối quan hệ có tính chất nửa độc lập với chính quyền trung ương.

Posted Image Nhiều phát hiện khảo cổ học về dấu tích vương triều Lý nhưng vẫn còn nhiều ẩn số chưa thể giải đáp - ảnh do Viện Khảo cổ học Việt Nam cung cấp

Thật ra, không phải đến bây giờ, mà hơn 20 năm nay, những hội thảo lớn nhỏ, những chương trình nghiên cứu về vương triều Lý và vai trò của vương triều này trong tiến trình lịch sử Việt Nam cũng đã được bàn thảo. Song, đến nay, khi Đại lễ 1.000 năm Thăng Long sắp cận kề, “hiểu biết về nguồn gốc Lý Thái Tổ, về quê hương nhà Lý và kinh thành Thăng Long xem ra vẫn còn mơ hồ và quá nhiều mâu thuẫn”, GS Nguyễn Quang Ngọc nói.

Y Nguyên

Tôi sẽ cố gắng giải bí ẩn này - vì mục đích vương triều Lý là bảo vệ bí mật tích vua Lý Công Uẩn qua bài thơ sau:

Việt sử lược, bộ sử cổ nhất Việt Nam, chép nội dung bài thơ chỉ có 8 câu[5]:

樹根杳杳木表青青禾刀木落十八子成震宮見日兑宮隠星六七年間天下太平 Phiên âm: Thụ căn diểu diểuMộc biểu thanh thanhHòa đao mộc lạcThập bát tử thànhChấn cung kiến nhậtĐoài cung ẩn tinhLục thất niên gianThiên hạ thái bình Các sách sử đời sau như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép thêm 2 câu nữa:

東阿入地 (Đông a nhập địa)木異再生 (Mộc dị tái sinh) vào trước câu “Chấn cung kiến nhật”, thành bài thơ gồm 10 câu. Dịch nghĩa bài thơ như sau:

Gốc rễ thăm thẳm

Ngọn cây xanh xanh

Dao chặt cây rụng

Mười tám hạt thành

Cành đâm xuống đất

Cây khác lại sinh

Đông mặt trời mọc

Tây sao náu mình

Khoảng sáu, bảy năm

Thiên hạ thái bình

Bài thơ có 2 ý chính, ý chính thứ nhất trong toàn bài nói họ Lý là tiếp nối của 18 vua Hùng vương sau chu kỳ vận động âm dương ngũ hành mà suy thoái từ thời Nam Việt.

Kết nối phân tích về Lý Ông Trọng là Lý Thân hay chính là Trọng Thủy mà sau này, con trai Trọng Thủy và Mỵ Châu là vua thứ hai kế tục vua Triệu Đà ở Quảng Đông chứ không phải là Trọng Thủy. Thời kỳ này tướng Lữ Gia nước ta làm tể tướng. Đấy là lý do phong phanh về gốc Quảng Đông.

Cho nên, tính toán của An Dương Vương là tuyệt thế, đồng thời Triệu Đà và Trọng Thủy cũng hiểu rất rõ lịch sử nước Văn Lang cũng như Bắc Dương Tử do thời đó tư liệu sử chắc chắn còn nhiều nên đã cùng đồng lòng xây dựng một Nam Việt thống nhất.

Cho nên, công chúa Mỵ Châu chính là viên Ngọc trai quý của nước Âu Lạc qua câu chuyện Nỏ thần An Dương Vương.

Triệu Đà được toàn bộ Văn Lang tôn sùng và được suy tôn là Thần hộ pháp.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động (6) Posted ImagePosted ImagePosted Image

Thiền sư Lê Mạnh Thát

Ảnh: Ngọc Hải

"Giả như người nước ta không ghi lại những sự việc của Lê Hoàn (hoàng đế Đại Hành) và chúng ta phải nghiên cứu qua tư liệu của người Trung Quốc, thì một đoán án đương nhiên phải xảy ra, đó là Lê Hoàn không xưng đế xưng vương hay đặt quốc hiệu lập xã tắc gì hết, ngược lại chỉ là một tiết độ sứ, một quan chức của nhà Tống" (thiền sư Lê Mạnh Thát).

Sỹ Nhiếp là ai?

Có thể có ai đó trong giới sử học "ý kiến ra ý kiến vào" về những phát hiện của giáo sư Lê Mạnh Thát mà chúng tôi đang giới thiệu một phần hết sức tóm lược. Mong rằng những người quan tâm có thể tìm đọc các công trình của ông để trao đổi học thuật. Chúng tôi xin lưu ý, những gì mà chúng tôi giới thiệu ở đây, giáo sư Lê Mạnh Thát đã công bố từ cách đây trên dưới 40 năm, nay được in lại trong hai bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam (tập 1) và Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1), đều do NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành năm 2006, ngoài sách Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta mà chúng tôi đã dẫn. Trong những công trình này, mỗi một vấn đề đưa ra ông đều dẫn kèm theo tất cả các tài liệu có liên quan bằng những ngôn ngữ gốc. Những tài liệu đó được ông giới thiệu cụ thể, chỉ rõ số trang, số tờ, nơi ấn hành hoặc lưu trữ, nếu ai nghi ngờ thì có thể tra tận gốc, bằng tiếng Việt, chữ Hán cổ và chữ Trung Quốc hiện nay, cùng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, chữ Phạn cổ... Ông dẫn việc nhà Tống với Lê Hoàn như trên để nói rằng những sử liệu từ Trung Quốc là "không hoàn toàn đáng tin cậy", ví dụ như chính sử Trung Quốc ghi nhiều thứ sử Giao Châu (nước ta) nhưng thực tế những người đó chỉ được "phong khống" chứ chưa bao giờ bước chân qua nước ta. Việc nghiên cứu lịch sử nước nhà phải sử dụng tất cả những tài liệu của tổ tiên ta để lại, rồi đối chiếu với chính sử Trung Quốc để thẩm định, xác minh tìm ra sự thật. Cho nên, mỗi một cuộc truy tìm, mỗi một phát hiện được tài liệu của tổ tiên đều khiến cho lịch sử nước nhà trở nên sáng rõ.

Ông bảo nói "một ngàn năm đô hộ giặc Tàu" như lời bài hát của Trịnh Công Sơn là cách nói đau buồn mà không chính xác. Cuộc đấu tranh của dân tộc ta từ sau khi cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng thất bại chưa bao giờ ngưng nghỉ. Bởi chưa đầy 60 năm sau, cuộc khởi nghĩa Tượng Lâm lần thứ nhất đã nổ ra vào năm 100, dẫn tới việc người anh hùng Khu Liên lập khu tự do vào năm 138, làm hậu phương cho các cuộc khởi nghĩa về sau, cho đến thời Chu Phù, Sỹ Nhiếp. Thực chất trong hơn 150 năm bị các thái thú Trung Quốc đến đô hộ, chúng ta "mất nước chứ không mất hạnh", nghĩa là dân tộc vẫn còn, nền văn hóa dân tộc được xây dựng từ thời Hùng Vương vẫn được bảo tồn và phát triển. Sự quật cường của dân tộc chính người Trung Quốc cũng phải thừa nhận: "Trưởng lại đặt ra, tuy có cũng như không".

Có một nhân vật lạ lùng trong lịch sử nước ta, đó là Sỹ Nhiếp. Cả sử Trung Quốc và sử ta đều nói ông là thái thú Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Tuy là một "thái thú" đến cai trị, nhưng các sử gia Việt Nam đều dành những lời lẽ mến mộ khi nói về Sỹ Nhiếp. Lê Văn Hưu viết: "Sỹ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ sĩ, được người thân yêu mà đạt đến thịnh một thời". Ngô Sỹ Liên cũng vậy. Trần Trọng Kim thì viết: "Sỹ Nhiếp trị dân có phép tắc, và lại chăm sự dạy bảo dân cho nên lòng người cảm mộ công đức, mới gọi tên là Sỹ Vương". Khi nhân dân gọi Sỹ Nhiếp là "Sỹ Vương", tức là vua của mình, còn có lý do nào nữa không?

Phần trước chúng tôi có nêu sự "nổi giận" của giáo sư Lê Mạnh Thát khi trích lời Ngô Sỹ Liên "Nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương", cần nói rõ là ông bất bình với việc cho rằng nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc mới thành ra nước văn hiến, chứ hoàn toàn không xem thường Sỹ Nhiếp. Cũng như Trần Trọng Kim viết: "Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là khởi đầu từ Sỹ Nhiếp. Cái ý kiến ấy có lẽ không phải" (Việt Nam sử lược).

Đưa ra nhiều tài liệu dẫn chứng, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, trong thực tế chính quyền Sỹ Nhiếp (từ 187), cũng như trước đó là Chu Phù (khoảng 180), là "chính quyền Việt Nam độc lập". Sử Trung Quốc chép rõ Chu Phù "vứt điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia". Còn đối với Sỹ Nhiếp, sử Trung Quốc (Ngô chí) viết rằng: "(Sỹ Nhiếp) tổ tiên vốn người Mấn Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời". Ông cho rằng một người có tổ tiên 6 đời ở Việt Nam thì đã "Việt Nam hóa", trở thành người Việt Nam rồi. Cũng theo Ngô chí: "Sỹ phủ quân (Sỹ Nhiếp) của Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại thành công về chính trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20 năm, cương trường vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ thuộc đều được nhờ ân"; "Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm tướng một châu, riêng ở vạn lý, uy tôn vô thượng. Ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy, xe ngựa đầy đường. Người Hồ theo sát đốt hương, thường có mấy mươi. Thê thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ. Đương thời quý trọng, chấn phục trăm mọi. Úy Đà cũng không đủ hơn". Từ tài liệu trên, theo giáo sư Lê Mạnh Thát: "Sỹ Nhiếp dẫu được đào tạo trong khuôn mẫu Trung Quốc, đã có những hành vi xa lạ với phong tục tập quán Trung Quốc. Nói rõ ra, ông đã được Việt hóa. Việc Ngô chí so sánh Sỹ Nhiếp với Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời bấy giờ độc lập tới mức nào. Thực tế có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau chính quyền Hai Bà Trưng là chính quyền Chu Phù - Sỹ Nhiếp". Theo ông, dưới thời Sỹ Nhiếp, nước ta đã có một nền nông nghiệp rất phát triển. "Lúa Giao Chỉ mùa hè chín, nông dân một năm trồng hai lần" (theo Kinh Dương dĩ nam dị vật chí). "Một năm tám lứa kén tằm đến từ Nhật Nam" (Văn tuyển 5 tờ 9b4). "Nhiếp mỗi khi sai sứ đến Quyền đều dâng tạp hương, vải mỏng thường tới số ngàn. Món quý minh châu, sò lớn, lưu ly, lông thú, đồi mồi, sừng tê, ngà voi, các thứ vật lạ quả kỳ như chuối, dừa, long nhãn, không năm nào không đưa đến" (Ngô chí 4 tờ 8b1-3 nói về những cống vật mà Sỹ Nhiếp gửi đến Tôn Quyền).

Giáo sư Lê Mạnh Thát dẫn giải tiếp: Sau khi Sỹ Nhiếp chết (226), lúc ấy Tôn Quyền đã chiếm cứ phía Nam Trung Quốc để tranh hùng với Tào Tháo và Lưu Bị, nên nhân cái chết của Sỹ Nhiếp tiến hành thôn tính nước ta, lúc đó "là một nước độc lập dựa trên điển huấn và pháp luật của người Việt". Con Sỹ Nhiếp là Sỹ Huy nối nghiệp cha, chống lại Tôn Quyền, tuy nhiên do mất cảnh giác, nên đã thất bại, Sỹ Huy bị bắt và bị giết, Tôn Quyền chiếm nước ta. Nhưng do bị chống đối quyết liệt, nền cai trị của Tôn Quyền không bền vững và không lâu dài, vì chỉ 18 năm sau, Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt nổi lên khởi nghĩa giành lại chính quyền.

Về sự kiện Bà Triệu khởi nghĩa, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng đây là cuộc "khởi nghĩa thành công". Ông viết: "Tôn Quyền sai Lục Dận làm An nam hiệu úy và thương thảo với quân khởi nghĩa bằng ấn tín và tiền của. Đây là lối đánh dẹp khá lạ kỳ, hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc đối với nước ta. Và cuối cùng Lục Dận cũng có thể báo cáo là đã "dẹp yên được giặc Giao Chỉ" và được phong làm thứ sử Giao Châu. Nhưng châu trị của Giao Châu lần này không phải ở nước ta, mà phải ở Quảng Châu, vì nó ngó ra biển (lâm hải), như bài biểu của Hoa Thạch trong Ngô chí tờ 10b3 đã ghi nhận. Nói cách khác, nước ta từ năm 248 tiếp tục là một nước độc lập và Bà Triệu tiếp tục đứng đầu đất nước, cho đến khi Tôn Hựu sai Đặng Tuân (Ngụy chí 4 tờ 27a3 viết là Đặng Cú) đến Giao Chỉ vào năm 257, ra lịnh cho thái thú Giao Chỉ bắt dân đưa lên Kiến Nghiệp làm lính. Và như Thiên Nam ngữ lục đã ghi nhận là Bà Triệu đã bị tử trận trong một cuộc chiến đấu với chính Đặng Tuân sau khi đã tiêu diệt Lục Dận (...). Những mô tả này (trong Thiên Nam ngữ lục) hoàn toàn phù hợp với tư liệu của Ngụy chí 4 tờ 27a2-27b5, đặc biệt là tờ chiếu năm Hàm Hi thứ nhất (264) của Tào Hoán..." (Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang 385-386)...

Đại Việt sử ký toàn thư rõ ràng có nguồn gốc từ thời Lý Trần, trong thời kỳ này có nhiều sử gia hết sức siêu tuyệt mà chúng ta chưa rõ đó thôi.

Sử gia Ngô Sĩ Liên khi bình luận trong Đại Việt sử ký toàn thư hoàn toàn hạ thấp uy thế Đại Việt mà nâng uy thế Trung Hoa, do vậy khiển trách cực nặng của vua Lê đối với Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ là hoàn toàn chính xác (tôi chỉ phát hiện ra trong Đại Việt sử ký khi đọc được đoạn nội dung này của vua Lê).

Lê Thánh Tông làm vua lúc 19 tuổi. Một năm sau, khi trách lỗi cựu thần Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ, vị hoàng đế 20 tuổi bảo họ: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là ngươi theo đường chết, mang lòng không vua". Đó là tiếng nói của một ý chí tự cường dân tộc, động lực mãnh liệt đưa Lê Thánh Tông đạt tới vinh quang trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hồi thế kỷ 15.

Sửa sử nâng cao uy thế Sĩ Nhiếp, có ý tôn vinh Sĩ Nhiếp, Cao Biền... qua cả truyền thuyết Cao Biền gặp tướng quân Cao Lỗ...

Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn như tôi đã phân tích, chắc chắn đã bị thêm vào nội dung, hạ uy thế vua Đinh, Lê mà nâng uy thế Cao Biền... thế mà các nhà nghiên cứu Việt không hề nghi ngờ về nội dung.

Không ghi rõ những mốc son trong lịch sử như chiến tranh nhà Lý phạt Tống, bình thời Trần quá kém, không ghi rõ cuộc triệt hạ văn hóa của quân Minh là khủng khiếp nhất và gần nhất thời Ngô Sĩ Liên...

... và còn nhiều vấn đề khác.

Biết trước tương lai, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã viết:

Chính sử điên đảo già chân.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Việt Điện U Linh tập (dẫn nhập)

Posted ImagePosted ImagePosted Image

Last Updated on Thứ Ba, 17 Tháng Năm 2011 21:59 Thứ Tư, 16 Tháng Giêng 2008 03:10

Từ khi được hoàn thành đến nay, Việt Điện U Linh Tập đã gây một tiếng vang không nhỏ trong giới văn học Việt Nam, mặc dầu chưa được khắc in một cách chính thức, tác phẩm đã được sao đi chép lại nhiều lần, đã được các học giả tiếm bình, tăng bổ, tùng biên, trùng bổ, đã trở thành những bản thần tích của nhiều thần từ miền trung châu và nhất là đã cung cấp nhiều tài liệu cho lịch sử. Một tác phẩm như vậy là một tác phẩm đã có nhiều người đọc, có ảnh hưởng lớn và cần phải được chúng ta chú trọng đến hơn. Phần dẫn nhập này sẽ đề cập đến soạn niên của tác phẩm, tác giả và những bản chép tay, nội dung, giá trị và ảnh hưởng của Việt Điện U Linh Tập.

I. Soạn niên của tác phẩm

Soạn niên của tác phẩm đã được ghi rõ ở cuối bài Tựa của Lý Tế Xuyên. Đó là năm Kỷ Tị, Khai Hựu nguyên niên, tức là năm 1329. Nhưng có nhiều học giả hoài nghi sự xác thực của soạn niên này cũng như họ đã không đồng ý mà cho rằng Lý Tế Xuyên là một nhân vật đời Trần. Ý kiến của các học giả ấy không phải là không có căn cứ lịch sử và bởi vậy chúng tội sẽ trình bày dưới đây hai quan niệm khác nhau về soạn niên của tác phẩm.

A. Tác phẩm và tác giả thuộc vào đời Lý

Hai học giả đã chủ trương Việt Điện U Linh Tập và Lý Tế Xuyên không thuộc vào đời Trần là Chư Cát Thị và Hoàng Xuân Hãn.

Trong bài tựa đề năm Giáp Ngọ (1774) khi kiểm lại Việt Điện U Linh Tập, Chư Cát Thị, người Hồng Đô (Hải Dương), Biên Tu bộ Lễ đời của Lê Văn Hưu và cho rằng Lý Tế Xuyên chỉ chép phần tiếp theo mà thôi(1). Như vậy, theo Chư Cát Thị thì Việt Điện U Linh Tập là một tác phẩm được viết vào đời Lý nhưng Lý Tế Xuyên là một văn sỹ đời Trần. Lý Tế Xuyên không phải là một tác giả đầu tiên và duy nhất của Việt Điện U Linh Tập. Ông chỉ là một trong những người đã tăng bổ tác phẩm. Lý do của Chư Cát Thị đã căn cứ trên nhiều văn liệu có thể tin cậy được, đó là những tác phẩm mà chính Lý Tế Xuyên đã nhiều lần dẫn chứng, tỉ dụ Giao Châu Ký của Triệu Xương, Giao Chỉ Ký của Tăng Cổn, Sử Ký hoặc còn gọi là Đại Việt Sử Ký và Ngoại Sử Ký của Đỗ Thiện v.v… Chuyện Sỹ Nhiếp là chuyện đầu tiên của Việt Điện U Linh Tập gần như là một bản sao lại chuyện Sỹ Nhiếp của Tam Quốc Chí(2) ; ngoài ra, Lý Tế Xuyên còn nghiên cứu dã sử, tục truyền, nhất là những thần tích của các làng v.v… và như vậy, nói rằng sách của ông đã có từ đời Lý cũng không phải là vô lý hẳn. Tuy nhiên, nếu đứng trong quan điểm tôn trọng tiền nhân của các nhà văn xưa, ta có thể một phần nào hiểu được rằng sự sử dụng tài liệu, và làm ngược lại sẽ là đi ngược với tinh thần ấy, đi ngược lại tập quán và phong trào. Như chính Lý Tế Xuyên đã tuyên bố trong bài Tựa, ông có thể là một người đầu tiên đã chép lại sự thực “tuỳ thiển kiến ti văn chép thành bộ U Linh này”. Những tài liệu đã dẫn chứng một cách minh bạch dĩ nhiên xác nhận sự hiện diện của những tác phẩm đã có trước nhưng không phải vì thế mà phủ nhận phần sáng tác của Lý Tế Xuyên. Những tác phẩm đã dẫn chứng ở đầu các chuyện, theo Lê Quý Đôn (3) đến nay đều thất truyền, do đấy, ta không có đủ bằng chứng để biện biệt chỗ nào là của Lý Tế Xuyên, phần nào là của những sách đã dẫn, nhưng ít nhất phần sắp đặt các tình tiết trong chuyện, cách bố cục tác phẩm, sự duy nhất trong lời văn cũng như tính cách nhất trí của câu khẳng định một phần sáng tạo mà người đọc kỹ có thể nhận ra ngay. Việc xét sách này sách kia không làm giảm bớt phần độc sáng của Lý Tế Xuyên mà chỉ biểu lộ sự khiêm tốn, tinh thần trung thực có thể nói được là khoa học (4) của ông mà thôi.

Trong cuốn Lý Thường Kiệt xuất bản tại Hà Nội năm 1949, trong lời chú số 1 trang 20, sau khi cho rằng những tài liệu mà Lý Tế Xuyên dùng có thể có từ đời Lý, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết: “Tựa sách Việt Điện U Linh có niên hiệu “Hoàng Triều Khai Hữu nguyên niên” tức là đời Trần Hiến Tông (1329). Nhưng họ tác giả là họ Lý. Biết rằng tất cả họ Lý bấy giờ đã phải đổi ra Nguyễn, ta có thể nghĩ rằng Lý Tế Xuyên ở đời Lý. Chức của Lý Tế Xuyên (giữ kinh Đại Tạng, thư hỏa chính chưởng, trung phẩm phụng ngự, chuyển vận sứ ở An Tiêm lộ) rất có thể là chức đời Lý. Nếu thật như vậy thì đến đời Trần có kẻ sao lại, thêm và chữa sách Việt Điện U Linh”. Theo như trên, giáo sư Hoàng Xuân Hãn còn đi xa hơn Chư Cát Thị nữa và phỏng đoán Lý Tế Xuyên là một nhân vật đời Lý; nhận xét của giáo sư căn cứ trên sự kiêng huý của đời Trần.

Trong An Nam Chí Lược (5), Lê Trắc viết: “Họ Trần thay lập tất cả tông tộc nhà Lý và dân chúng có họ Lý đều bắt đổi ra họ Nguyễn để dứt lòng mong mỏi của dân”. Trong Việt Sử Lược và Thiền Uyển Tập Anh, tất cả họ Lý đều viết thành họ Nguyễn; phần 2 của Việt Sử Lược đáng lẽ đề là nhà Lý, đã đề là nhà Nguyễn (6), Lý Đạo Kỷ viết là Nguyễn Đạo Kỷ, Lý Triệt viết là Nguyễn Triệt v.v… (7) Lý Tế Xuyên không thể nào dám đề rõ ràng tên họ của ông trên đầu tác phẩm nếu tác phẩm được làm vào đời Trần và nếu Lý Tế Xuyên là người đời Trần, như vậy Lý Tế Xuyên sống vào đời Lý và Việt Điện U Linh Tập trong tình trạng hiện nay là tình trạng của một tác phẩm đời Lý đựơc tăng bổ và hiệu đính dưới đời Trần. Nhưng theo chỗ nghiên cứu của chúng tôi, lý luận của giáo sư Hoàng Xuân Hãn có thể bổ sung được. Trước hết, sự kiêng huý tuy có thực nhưng không phải lúc nào cũng tuyệt đối. Trong cuốn Lý Thường Kiệt trang 451, giáo sư cho biết “tên Lý Đạo Thành trong Việt Sử Lược (1073) đã đổi ra Nguyễn Nhật Thành”, họ Nguyễn huý tên Trần Lý, ông tổ của nhà Trần, chữ đệm bị đổi thành Nhật để tránh tên huý của Trần Hưng Đạo. Xem Việt Sử Lược, quyển II, tờ 15a, ta thấy rõ điều ấy, nhưng cũng chính trong Việt Sử Lược, quyển II, tờ 10a, tên của Lý Đạo Thành chỉ phải việt là Nguyễn đạo Thành. Lại nữa, nếu Lý Tế Xuyên là một nhân vật đời Trần thì tên họ của ông cũng đã phải đổi ra họ Nguyễn rồi, không cần phải là một nhân vật đời Lý mới phải đổi tên. Vả lại, trường hợp của Việt Điện U Linh Tập có lẽ không thể so sánh với một cuốn như Việt Sử Lược được. Nhờ một sự tình cờ của lịch sử, cuốn Việt Sử đã bị thất truyền ở Việt Nam nhưng đến thế kỷ thứ 18, đời Càn Long nhà Thanh đã được ấn hành và được Tiền Hi Tộ, tự là Tích Chi, người Kim Sơn (Giang Tô), hiệu đính. Như vậy, Việt Sử Lược không bị cái nạn tam sao thất bản làm cho sai lạc đi; ngược lại, Việt Điện U Linh Tập vì một sử rủi ro, đã bị sửa chữa rất nhiều; ngay ở thế kỷ XV, Nguyễn Văn Chất đã viết Việt Điện U Linh Tập Bổ Tục, rồi đến thế kỷ thứ XVIII, Độn Phủ Lê Hữu Hỉ, năm 1712, trong bài Bạt Việt Điện U Linh Tập (8) đã phải than phiền rằng “đời truyền Việt Điện U Linh đã lâu, nhưng đều lầm lẫn khó đọc”. So sánh những bản chép tay hiện còn giữ được như bản A47, A75, A1919, A1879, ta đủ thấy sự sai biệt trầm trọng như thế nào (9). Do đấy, trong những thời kỳ mà sự sửa chữa là cái quyền riêng của người sao, khi mà sự kiêng huý không còn lý do tồn tại nữa thì cái tên Nguyễn Tế Xuyên được đổi ra là Lý Tế Xuyên không có khó khăn gì. Sau cùng, giáo sư Hoàng Xuân Hãn còn cho biết chức vụ của Lý Tế Xuyên là một chức vụ đời Lý. Đã đành, kinh Đại Tạng (10) đã được Minh Sưởng và chưởng thư ký là Hoàng Thành Nhã mang từ Trung Hoa về từ mùa xuân năm Đinh Mùi (1007). Nhà Lý càng trân trọng hơn đối với kinh điển của nhà Phật nhưng trong Toàn Thư cũng như trong Cương Mục, ta không thấy một đoạn nào nhắc nhở đến chức vụ của Lý Tế Xuyên; ngược lại (11), Toàn Thư đã hai lần nói tới; một lần vào đời Trần Nhân Tông (12) và một lần vào đời Trần Minh Tông (13); như vậy Thư Hỏa Chính Chưởng là một chức vụ đời Trần, có lẽ không phải là một chức vụ đời Lý; lại nữa, Lý Tế Xuyên còn kiêm chức Chuyển Vận Sứ An Tiêm Lộ. Theo Aurousseau, An Tiêm Lộ dưới đời Trần thuộc vào tỉnh Nam Định hiện nay (14). Từ năm 1916, Maspéro đã căn cứ vào chuyện Lý Phục Man trong Việt Điện U Linh Tập để quả quyết có một Đỗ Thiện (15) là tác giả một cuốn Sử Ký viết vào khoảng 1287-1329; Gaspardone (16) trong Bibliographie Annamite ấn hành năm 1934, đã công nhận chức vụ của Lý Tế Xuyên là những chức vụ đời Trần. Đó cũng là ý kiến của Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục (17) viết năm 1777.

B. Tác giả và tác phẩm thuộc vào đời Trần

Trừ Chư Cát Thị và Hoàng Xuân Hãn, tất cả những nhà học giả đã nghiên cứu về Việt Điện U Linh Tập đều khẳng định tác phẩm này là một sáng tác đời Trần. Chúng tôi đã trình bày những ý kiến của Lê Quý Đôn, Maspéro, Gaspardone, Durand trong đó lập luận của hai giáo sư Gaspardone và Durand tỏ ra vô cùng vững vàng. Đối với một tác phẩm vừa có tính cách sử học vừa có tính cách văn học như Việt Điện U Linh Tập, sự khảo sát về soạn niên cần phải được đặt trên những căn bản khác; căn bản ấy có thể là kinh tế, phong tục, xã hội, luân lý, nhưng trước hết và quan trọng hơn tất cả là vấn đề quan điểm, vấn đề ý thức hệ. Định đoạt được vấn đề này tức là một phần nào giải quyết được vấn đề soạn niên. Vậy ý thức hệ được trình bày trong tác phẩm là ý thức hệ gì? Nói một cách, cái tư tưởng nào đã điều động tinh thần của các nhân vật trong tác phẩm? Họ đã nghĩ những gì? Đã hành động ra làm sao? Đời sống của họ có được đặt theo một tiêu chuẩn nào không?

Trước hết Lý Tế Xuyên đã tuyên bố ngay trong bài Tựa năm 1329: “Thông minh chính trực đủ để xưng thần, trừ dâm thần, tà quái, yêu ma, vọng quỷ thời không được lạm xưng như thế”. Thông minh chính trực, theo tác giả, là những “vị biểu dương được vĩ tích, âm phù được sinh linh”, là những người “đương thời thì khí thế lừng lẫy, lai diệp thì anh linh chói lọi”. Thần của tác giả không có gì là mê tín, dị đoan. Trong truyện Lý Thường Kiệt, tác giả viết: “Người dân nào ham chuộng ma quỷ, đồng bóng huyễn hoặc dân chúng thì bị ông (Lý Thường Kiệt) trừng phạt sa thải để khử trừ ô phong, cho nên lúc bấy giờ có cái dâm từ nào thì đều biến ra làm hương hỏa của các vị phúc thần cả”. Như vậy, thần của Lý Tế Xuyên chỉ là một người, nhưng người ấy đã sống với tất cả sức mạnh của một con người, và bởi đó đã trở thành như một nhân vật linh thiêng và vẫn có liên lạc mật thiết với loài người một khi đã quá cố. Thần ở đây rõ ràng là những người đã “tận kỳ tính”, những con người đã “thành”, nghĩa là những con người hoàn toàn theo kiểu mẫu của nho phong. Cái tính cách nho phong hiển hiện trong từng cử chỉ của nhân vật, trong từng ngôn ngữ của họ. Lòng trung quân của Lê Phụng Hiểu, sĩ khí của Lý Thường Kiệt, tinh thần khảng khái của Trương Hống và Trương Hát, sự trinh liệt của Mỵ Ê, tinh thần tề gia lấy sự hiếu đễ làm trọng của Tô Lịch, đó là tất cả cái hình nhi hạ của nhà nho, ăn khớp với cái nhân sinh quan rất cao của họ về con người. Lòng sùng thượng nho học rõ rệt trong việc sắp đặt Sĩ Nhiếp làm đề tài đầu tiên của tác phẩm trong bố cục của tác phẩm được chia ra làm lịch đại đế vương, lịch đại phụ thần, hạo khí anh linh. Như vậy, ý thức hệ điều động tác phẩm của Lý Tế Xuyên là ý thức hệ nho giáo. Thời đại của tác giả là một thời đại bắt đầu ghi những năm thinh vượng đầu tiên của nho giáo, khác hẳn cái không khí êm đềm, thanh tịnh nhưng cũng đầy rẫy những chuyện mê tín dị đoan của nhà Lý. Cái tinh thần nho học mạnh mẽ sáng sủa của nhà Trần không phải một phút một chốc mà được hình thành; nó đã du nhập đầu tiên vào Việt Nam cùng với Phật giáo, nó đã được triều đình nhà Lý ủng hộ chính thức năm 1070 khi Lý Thánh Tông trùng tu Văn miếu ở Thăng Long; năm 1195 nó đã được coi là bình đẳng với Phật giáo; có những vị thiền sư như Quảng Nghiêm (1122-1190), sư Tĩnh Giới (?-1354) Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) Chu An (?-1370), Phạm Sư Mạnh, Lê Quát v.v… lãnh đạo. Năm 1329, Lý Tế Xuyên đang sống giữa cái xôn xao ấy của thời đại ông; ông đã mạnh bạo đứng trong hàng ngũ của “phái mới” tức là phái Nho học; tác phẩm của ông là một nhân chứng của một thời đại đang nỗ lực thanh toán với những cái “cũ” để hoàn toàn theo mới không một chút do dự. Đã đành, còn một đôi bóng dáng của cái tinh thần thần thoại đời Lý, tỉ dụ sự biến hiện của một nhân vật và dù sao đi nữa, năm 1329 vẫn chưa là năm thắng lợi hoàn toàn của Nho họ, chứng cớ là trong Việt Sử Lược hoàn thành năm 1377, sau Việt Điện U Linh Tập gần nửa thế kỷ, tính chất hoang đường quái đản đời Lý vẫn còn bộc lộ rõ ràng. Như vậy, theo tinh thần tổng quát của tác phẩm ta có thể tin rằng năm 1329 là soạn niên của Việt Điện U Linh Tập và Lý Tế Xuyên là một văn sĩ đời nhà Trần, mặc dầu các chứng cứ chưa được minh bạch như ta mong muốn.

II. Tác giả

Tất cả những bản Việt Điện U Linh Tập chép tay nếu có chua tên tác giả thì đều đề là Lý Tế Xuyên. Ngay những học giả không cho tác phẩm vào đời Trần cũng không phủ nhận quyền tác giả của Lý Tế Xuyên, nhưng về thân thế và sự nghiệp của ông, hiện nay ta chưa có tài liệu gì rõ rệt. Lịch sử cũng như những văn bản chính thức như Đăng Khoa Lục không thấy nhắc nhở đến tên ông. Phan Huy Chú trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Lê Quý Đôn trong Nghệ Văn Chí chỉ nói đến ông một cách sơ sài. Ta chỉ có thể căn cứ trên chức vụ và trên tác phẩm để tìm kiếm một đôi nét về thân thế và sự nghiệp của Lý Tế Xuyên.

Về chức vụ, mỗi bản chép tay đều chép mỗi khác. Theo 4 bản chép tay của trường Viễn Đông Bác Cổ hiện còn giữ được (18), chức vụ của Lý Tế Xuyên đã được đề như sau:

Bản A.2879 ghi: Thủ Đại-Tạng Kinh Trung-Phẩm Phụng-Ngự

Bản A.751 ghi: Thủ Đại-Tạng Kinh Thư-Hỏa Chính-Chưởng Trung-Phẩm Phụng-Ngự An Tiêm Lộ Chuyển-Vận-Sứ.

Bản A.1919 ghi: Thủ Đại-Tạng Thư-Văn Chính-Chưởng Trung-Phẩm Phụng-Ngự An -Tiêm Lộ Chuyển-Vận-Sứ.

Bản A.47 ghi: Thủ Đại-Tạng Thư-Văn Chính-Chưởng Trung-Phẩm Phụng-Ngự An-Tiêm Lộ Chuyển-Vận-Sứ.

Trong cuốn Lý Thường Kiệt, khi nói về chức vụ của Lý Tế Xuyên giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết là “giữ kinh Đại Tạng, thư hỏa chính chưởng, trung phẩm phụng ngự, chuyển vận sứ An Tiêm lộ”, như thế giáo sư đã nói đến chức vụ của Lý Tế Xuyên ghi trong bản chép tay A.751; bản A.751 là một trong bốn bản đã ghi chữ hỏa thay vào chữ văn trong hai bản A.47 và bản A.1919, lại là một bản mới chép gần đây (19), do đấy, Durand kết luận rằng người phụng sao sau này đã lầm chữ hỏa với chữ văn và như vậy, giáo sư Durand xác nhận chức Thư Văn Chính Chưởng đúng hơn nếu đề là Thư Hỏa Chính Chưởng và công nhận bản A.47 là hợp lý nhất. Nhưng nếu đã kết luận như vậy thì chúng tôi thiết tưởng những nỗ lực của giáo sư Durand để xác định chức Thư Hỏa Chính Chưởng vào đời Trần không còn lý do tồn tại nữa, do đấy, ta có thể nói rằng viết như bản A.751 là phù hợp với sự thực lịch sử đời Trần; chức Thư Hỏa Chính Chưởng rõ rệt là một chức phụng vụ vừa giữ sách vừa giữ lửa ở nơi đã để kinh Đại Tạng; nếu đề là Thư Văn thì chức vụ tỏ ra tầm thường, không có gì đặc biệt đối với một người đã viết một cuốn sách về thần thánh như Việt Điện U Linh Tập. Có thể nói rằng chính cái ngọn lửa leo lét ở nơi để kinh Đại Tạng kia, dù ở nghĩa đen hay nghĩa bóng, đã gây cảm hứng cho nhà văn Lý Tế Xuyên, cho nên không trong một chuyện nào là tác giả không nhắc đến từ ngữ “hương hỏa bất tuyệt”. Cái ánh sáng trong tác phẩm là ánh sáng mà bình minh của nho học đang bành trướng không làm cho phai mờ. Giá trị của tác phẩm là ở trong sự thực hiện được cái mâu thuẫn biểu kiến ấy. Những lý luận trên nhằm vào mục đích tìm hiểu chức vụ của Lý Tế Xuyên, để từ đấy tìm hiểu thân thế của nhà văn. Qua chức vụ ấy, Lý Tế Xuyên xuất hiện như một nhà tu hành, âm thầm sống ở một nơi bảo tồn kinh Phật, mà nhiệm vụ là giữ sách như một người quản thủ thư viện ngày nay. Trong thời gian ấy, xa sự náo nhiệt của đô thành, trong một nơi có cây già bóng cả, giữa một không khí yên lặng trang nghiêm, Lý Tế Xuyên có đầy đủ thì giờ để đọc sách, viết văn, sưu tầm tài liệu, nhất là suy nghĩ về người xưa. Ông luôn luôn đi về cái thế giới cổ sơ ấy; ông sống với những nhân vật của ông, thấm nhuần cái không khí bao quanh họ, thấu triệt tinh thần họ. Khoa cử của triều đình đã không cám dỗ được nhà văn. Tên tuổi của ông không được ghi trên bằng cấp nhưng những ngày âm thầm tự học cũng như những sáng tác kia đã làm cho tên tuổi của ông lừng lẫy. Ngoài ra, xét theo nội dung tư tưởng của tác phẩm, Lý Tế Xuyên còn tỏ ra là một nhà văn chẳng những thấu hiểu sâu xa Phật giáo mà còn là một nhà nho say mê. Ngay trong bài Tựa, ông đã trình bày phương pháp của ông khi viết sách, cái phương châm mà ông đã theo. Thận trọng, khiêm tốn, biết phân biệt kỹ càng, có óc thẩm mỹ, vừa thích cái tinh thần tích cực của nhà nho vừa ưa cái vẻ huyền bí thiêng liêng của quá khứ, Lý Tế Xuyên bất cứ ở chỗ nào đã biểu lộ được sự chừng mực, sự giản dị, sự sáng sủa và cân đối. Một con người như vậy phải được sự hâm mộ của đương thời và của hậu lai.

III. Nội dung tác phẩm

Năm 1777, Lê Quý Đôn đã đếm được hơn hai mươi chuyện trong Việt Điện U Linh Tâp. Ông viết: “Đầu niên hiệu Khai Hựu nhà Trần, Lý Tế Xuyên phụng ngự chỉ soạn quyển Việt Điện U Linh Tập, chép các việc thần dị, đền miếu, lịch đại đế vương 8 truyện, nhân thần 12 truyện, hạo khí, linh tích” (20). Như vậy, ngoài 20 truyện về đế vương và nhân thần còn có những truyện về hạo khí anh linh mà Lê Quý Đôn không nói rõ là bao nhiêu. Phan Huy Chú (21) cho là tác phẩm có 28 truyện. Vào đời Lê, tác phẩm được Nguyễn Văn Chất (22) bổ tục thêm 3 hay 4 chuyện thần thoại tuỳ theo các bản chép tay. Đó là những truyện:

1. Sóc Thiên Vương

2. Tam Đảo Thần

3. Nam Tống Công Chúa ở đền Kiền Hải

4. Trịnh Gia và các em.

Ngoài ra theo Gaspardone, còn có nhiều bản phụ lục có tiểu sử của Tứ Vị Thánh Lang đền Kiền Hải do Lê Tự Chi viết và đề Hồng Đức năm thứ 5 (1513); bản Trùng Bổ và 1 bản Dẫn đề ngày 7-7 năm Kỷ Vị và ký là Tam Thanh Quán đạo nhân… Những bản khác (A.2879, A.1919 có chỉ một vị An Lục tên là Kim Miễn Muội và gồm có những lời chú bình, tiếm bình của Cao Huy Diệu khi còn làm Giám Tu (23); một bài tựa của Lê Độn Phủ, tức là Lê Hữu Hỉ (24). Bản A.335 chép lại năm 1774 gọi là bản Tân Đính, Hiệu Bình có bổ sung đến 41 truyện, đồng thời, vẫn theo Gaspardone, những truyện chính như Sĩ Vương, Hai Bà Trưng vì đã chuyển sang Lĩnh Nam Chích Quái nên đã bị bỏ đi, do đấy, ở trạng thái cuối cùng này, hai tác phẩm có nhiều điểm giống nhau (25). Các tước hiệu sau khi chết được kể đến năm 1821, năm Minh Mạng thứ 2 (xem chuyện Triệu Xương và phu nhân ở cuối sách).

Như vậy, theo bản A.751 mà chúng tôi đã dịch đây, phần Tục Bổ của Nguyễn Văn Hiền (tức Nguyễn Văn Chất theo Gaspardone (26)), phần Trùng Bổ và Phụ Lục của đạo nhân quán Tam Thanh đều không được kể vào phần nội dung Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên. Phầm tiếm bình của Cao Huy Diệu, phần phụ lục sự tích đền thờ thần xã An Sở cũng thế; nội dung của Việt Điện U Linh chỉ gồm 27 chuyện chia ra 3 phần như sau:

A. Lịch Đại Đế Vương (6 chuyện)

1. Sĩ Nhiếp

2. Phùng Hưng

3. Triệu Việt Vương, Lý Nam Đế

4. Thần xã tắc

5. Hai Bà Trưng

6. Mỵ Ê

B. Lịch Đại Phụ Thần (11 chuyện)

Lý Hoảng

Lý Ông Trọng

Lý Thường Kiệt

Tô Lịch

Phạm Cự Lượng

Lê Phụng Hiểu

Mục Thận

Trương Hống và Trương Hát

Lý Phục Man

Lý Đô Uý

Cao Lỗ

C. Hạo Khí Anh Linh (10 chuyện)

Hậu Thổ Phu nhân

Thần Đồng Cổ

Thần Long Độ

Thần Khai Nguyên

Thần Phù Đổng

Sơn Tinh Và Thuỷ Tinh

Thần Đằng Châu

Thần Bạch Hạc

Thần Hải Thanh

Nam Hải Long Vương Quân

Theo bố cục trên, nội dung của tác phẩm rất rõ rệt. Trước hết, tác giả biểu dương vĩ tích của những bậc đế vương đã thấu triệt nhiệm vụ của mình và đã hy sinh thân thế để mang lại hạnh phúc cho dân Việt. Danh từ dân Việt ở đây được hiểu theo nghĩa rộng rãi bởi vì chữ … bao hàm tất cả những dân tộc phía Nam Ngũ Lĩnh; Sĩ Vương cũng là một người Việt theo nghĩa này và chính vì thế tác giả đã kể lại chuyện của Sĩ Nhiếp đầu tiên như là một ông vua tinh thần của người Việt Nam. Việc đặt Sĩ Nhiếp lên đầu chuyện chứng tỏ mục đích của Lý Tế Xuyên khi sáng tác không có tính cách chính trị mà chỉ muốn soi văn hóa như một món ăn tinh thần bổ ích. Trong viễn tượng ấy, Sĩ Nhiếp là một bậc đế vương trên cả Bố Cái Đại Vương, trên cả Triệu Việt Vương và Lý Nam Đế. Nhưng Phùng Hưng cũng đã là một bậc đế vương có một giá trị cao. Nếu Sĩ Nhiếp tượng trưng cho lực lượng văn hóa phương Nam thì Phùng Hưng cũng đã từng là một bậc cha mẹ dân tượng trưng cho tinh thần bất khuất của người Việt. Triệu Việt Vương và Lý Nam Đế cũng thế, mặc dầu chính trị đối lập nhau, vẫn tỏ ra xứng đáng là những vị lãnh đạo thời ly loạn. Người đến thứ tư là thần xã tắc, người mang lại sự no ấm cho nhân dân, người đảm bảo cho đời sống của nhân dân về phương diện vật chất. Sự hiện diện của thần xã tắc chứng tỏ rằng cùng với văn hóa, cùng với chính trị và quân sự, một đời sống ấm no là một điều kiện tất yếu mà các bậc đế vương phải chú ý. Với tinh thần ấy, dù là một nhi nữ như Nhị Trưng cũng có thể liên kết được hào kiệt bốn phương, đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, mang lại độc lập và hòa bình cho nước nhà. Nhị Trưng đã thất bại về quân sự nhưng Nhị Trưng đã thắng lợi về phương diện nâng cao tinh thần quốc gia; việc Nhị Trưng được Thượng đế sai xuống trần làm mưa chứng tỏ Nhị Trưng vẫn tiếp tục sứ mệnh thiêng liêng của mình đối với dân với nước. Cái chết của Mỵ Ê là một cái chết vẻ vang của một liệt nữ. Giữa lúc mất nước nhà tan, giữa lúc phải làm tù binh nhà Lý, Mỵ Ê đã cho đoàn người chiến thắng một bài học sâu xa. Nàng chết đi mà bảo vệ được sự trinh liệt, còn hơn vua tôi nhà Lý sống mà bị hối hận giày vò. Cách kể lại câu chuyện của tác giả chứng tỏ rằng lòng trung quân ái quốc của ông không làm sai lạc óc phê phán. Đối với tác giả, chỉ có đạo đức là có một giá trị trên hết mọi giá trị.

Sau 6 chuyện nói về đề vương là 11 chuyện kể lại hoạt động của những lịch đại phụ thần. Tất cả là những bậc anh hùng tuấn kiệt của Việt Nam. Các vị ấy đã có đại công bảo vệ triều đình, bảo vệ quyền lợi của vua chúa như Lê Phụng Hiểu, nhưng đa số các vị là những người đã hết lòng vì nứơc vì dân, hoặc lo cho dân chúng được có ruộng cày như Lý Hoàng, hết lòng bảo vệ quyền lợi cho dân như Tô Lịch khi chết đã hiện về nói với quan Đô Hộ Lý Nguyên Hỷ: “Nếu sứ quân có giáo hóa cư dân trong thành cho hết lòng hết sức thì mới song được nhiệm vụ của một quan thú mục, mới xứng với trách nhiệm của bậc tùân lương”; Lý Thường Kiệt đã từng làm rung động triều đình nhà Tống; Lý Ông Trọng đã trở thành một vị anh hùng bảo vệ cho nhà Tống chống Hung Nô. Lý Ông Trọng khi còn thanh niên đã nói một câu bất hủ: “Tráng chí của đời người nên như chim Loan chim Phụng, nhất cử vạn lý, đâu lại để cho người thóa mạ, làm nô lệ cho người?” Trương Hống Trương Hát là bộ tướng của Triệu Việt Vương, đã vì Triệu Việt Vương mà thà chết không thà cộng tác với Lý Nam Đế; Lý Phục Man là thuộc tướng của Lý Nam Đế, chết đi vẫn tiếp tục ủng hộ Lý Thái Tổ, phù trợ cho dân gian. Việc sắp đặt các vị anh hùng này bên cạnh nhau biểu lộ lập trường của Lý Tế Xuyên. Ông muốn ở trên mọi đảng phái, ở ngoài mọi triều đại; ông chỉ muốn nhắm đến một điểm là sự phú cường của quốc gia, tinh thần mạnh mẽ của dân tộc. Dù tướng của Triệu Việt Vương có đối lập với tướng của Lý Nam Đế về chính trị chăng nữa, sau khi chết đi là họ chỉ nghĩ đến làm thế nào ích lợi cho nhân dân. Mục Thận sau khi thành thần, mỗi lần sóc vọng có kỳ tế lễ là hiện thành một con rắn nằm tròn ở cột đền, người nào uế tạp thì lập tức bị cắn chết. Chuyện Cao Lỗ cũng rất cảm động. Lòng trung trinh của Cao Lỗ đối với An Dương Vương rất hiếm có.

Sau cùng là những bậc hạo khí anh linh. Đây là 10 chuyện thần có nguồn gốc thần thoại như Hậu Thổ phu nhân, thần Đồng Cổ, thần Long Độ, thần Khai Nguyên, thần Phù Đổng, Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, v.v… Các thần đều một lòng sốt sắng cứu khổ phò nguy, thường sẵn sàng hiển linh báo mộng cho vua chúa biết đường lành phải theo, điềm dữ phải tránh; các thần lúc nào cũng tìm cơ hội để tham dự vào việc của triều đình, giúp cho nhà vua tránh được những bước khó khăn, cho dân chúng được ấm no sung sướng.

Nói tóm lại, nội dung của tác phẩm rất rõ ràng; nội dung ấy đã được tóm lược ngay trong bài Tựa của tác giả. Nội dung ấy có một giá trị mà ta phải cân nhắc và bình luận.

IV. Giá trị của tác phẩm

Việt Điện U Linh Tập có một giá trị rõ rệt về nội dung và hình thức.

A. Giá trị nội dung.

1. Giá trị tôn giáo

Trước hết, tác phẩm có một giá trị tôn giáo không thể phủ nhận được. Tin tưởng vào sự bất diệt của linh hồn, tin tưởng vào sự tương quan giữa đời sống bên này và đời sống bên kia, tác giả phô diễn một nếp sống hoàn toàn kiểu mẫu. Theo tác giả thì thần thánh có ai là xa lạ đâu? Đó là những người trần mắt thịt như chúng ta, chỉ khác một điều là các người ấy đã sống một đời sống siêu phàm, trong sự cần lao kham khổ, trong sự phục vụ tích cực, trong nỗ lực chống lại sự quyến dũ của vật chất; thần thánh là những người đã sống hết tất cả kích thước của người, tận cùng biên giới nhân loại. Đến trình độ ấy, giá trị của con người tự nhiên được gia tăng; con người có thể tham dự vào đời sống linh thiêng để tiếp tục quảng bá ơn cương thường như trước; đến giai đoạn này, các vị anh hùng xứng đáng được lòng ngưỡng mộ sùng kính của nhân dân. Việc có đền miếu phụng tự trở thành như một điều kiện phải có. Ta không lạ gì khi thấy có nhiều vị thần hiển linh như muốn được hưởng tế tự lâu dài.

Tính cách tôn giáo còn được thể hiện trong tinh thần sùng bái anh hùng liệt nữ. Từ vua chúa đến nhân dân, mọi người đều kính cẩn sự thần, suy tôn các vị thần, công nhận sự tối linh của thần như một nguyên lý. Thần thánh là kiểu mẫu lý tưởng của nhân dân; họ cần được sự phụ trợ của thần, nhưng hơn hết cả, họ mong muốn được nên giống như thần thánh, có can đảm chống lại dục vọng của họ để đi lên cao hơn.

Ta có thể nói dân tộc Việt Nam trong căn bản là một dân tộc tôn giáo. Quan niệm người hùng rực rõ trong sử sách chứng tỏ sự thiết tha của người Việt Nam được sống như một siêu nhân, tuấn kiệt và uy dũng. Phản hồi được bầu không khí tôn giáo này, tác phẩm của Lý Tế Xuyên có một giá trị rất đặc sắc.

2. Giá trị luân lý

Từ một lòng tin vào một quan niệm luân lý phổ biến, Lý Tế Xuyên trình bày nhiều mẫu người với quan niệm sống rất mãnh liệt. Mỗi người có một cách sống riêng tuỳ theo hoàn cảnh của họ nhưng lúc nào cũng đặt giá trị của tinh thần lên trên hết. Đầu tiên, Sỹ Nhiếp mở đầu cho quyển truyện là một người khoan hậu, khiêm hư đãi kẻ sĩ, hiếu khách và ưu bác về học vấn. Nền chính trị của ông ở Giao Châu rất khôn khéo mềm dẻo; chú trọng về văn hóa và giáo dục, đặt vấn đề trách nhiệm cá nhân lên rất cao, Sĩ Nhiếp không bao giờ xử sự như một người tự bạo tự khí. Nhân cách của ông nổi bật bên cạnh những con người tầm thường đồng thời với ông như Lưu Biểu. Giữ vững được nhân cách của mình, mặc dầu qua những cơn thử thách nghiêng ngửa, đó là biểu hiện của một tâm hồn vững vàng, ý chí mạnh mẽ, ưa tự do một cách say mê. Nhị Trưng phẫn nộ trước những hành động sắp bị xâm phạm. Chưa bao giờ giá trị cá nhân được đề cao như bao giờ. Con người cảm thấy được tôn trọng, được kính nể, đựơc công nhận như một giá trị bất khả xâm. Nhưng được tôn trọng không phải chỉ biết có mình là được tôn trọng; giá trị ấy là một giá trị phổ quát và cá nhân tranh đấu cho giá trị phổ quát ấy tức là tranh đấu cho mình và cho nhân loại. Đến đây, ta thấy sự tương quan chặt chẽ giữa cá nhân và gia đình, giữa cá nhân và xã hội, quốc gia. Từ ngàn xưa, Lý Tế Xuyên đã quan niệm sống là sống với người khác, sống cho người khác, sống vì người khác. Không bao giờ ta thấy nhân vật của ông cô độc; họ luôn luôn hy sinh tận tuỵ vì hạnh phúc của tha nhân; họ lo cái lo của mọi người, đau khổ cái đau khổ của mọi người, lúc nào cũng vượt khỏi cái phạm vi nhỏ bé của bản thân để sống cho người khác. Đối với Lý Tế Xuyên, không bao giờ người khác là hỏa ngục, ngược lại, người khác là một dịp quý báu để cho con người gần người hơn, người khác là một giá trị làm cho giá trị nhân loại được tăng cường. Đẹp biết bao cái vẻ hào hùng của Lý Thường Kiệt, mà cuộc đời là đấu tranh để đề cao lòng tự hào của dân tộc. Cao quý thay cái tinh thần bất khuất của Trương Hống và Trương Hát mà danh vọng cũng không làm cho ngả nghiêng, mà phú quý cũng không làm cho thay đổi, mà uy vũ cũng không làm cho sợ hãi. Luôn luôn trong Việt Điện U Linh Tập, ta bắt gặp những tâm hồn cao quý ấy, ngay thẳng, vững vàng, trong sạch, mạnh mẽ, nghĩa là tất cả những sắc thái của một nền luân lý cao siêu bắt nguồn từ một nhận định cụ thể về giá trị con người.

3. Giá trị lịch sử

Mặc dầu Maspéro không công nhận cho Việt Điện U Linh Tập có một giá trị lịch sử (27) nhưng chính Maspéro đã sử dụng tác phẩm của Lý Tế Xuyên để bổ sung những khuyết điểm của lịch sử Trung Hoa về Việt Nam, có lẽ phải nói như Lê Quý Đôn đã nói trong Kiến Văn Tiểu Lục: Lương sử tài dã, tức là khen Lý Tế Xuyên là một sử gia có thực tài. Ta thử xem phương pháp sáng tác của Lý Tế Xuyên, cách sử dụng tài liệu lịch sử của tác giả, sự góp phần của cuốn sách vào sự hiểu biết xã hội đời Lý Trần.

Phuơng pháp của tác giả đã được tuyên bộ trong bài Tựa. Tác giả bắt đầu bằng một đinh nghĩa về thần, sau đấy phân biệt ba loại thần và liệt kê những thuộc tính của các vị thần ấy, sau cùng tác giả tuyên bố chép lại sự thực để “phân biệt màu đỏ với màu tía”. Trong các tác phẩm Việt Nam, ít khi ta thấy tác giả trình bày quan điểm của mình một cách minh bạch như Lý Tế Xuyên; ta cũng ít gặp những tác phẩm biết dung hòa tinh thần tôn trọng cổ nhân với tinh thần sáng tác một cách chừng mực vừa phải như Lý Tế Xuyên đã làm. Trong 27 chuyện được coi là của ông, 8 chuyện đã không ghi xuất xứ, và ta có thể chắc rằng 8 chuyện ấy là do sự tìm kiếm riêng của tác giả; 19 chuyện còn lại đã được ghi xuất xứ rõ ràng như sau:

a) Theo tục truyền: chuyện 20 và 27

B) Theo Tam Quốc Chí: chuyện 1

c) Theo Giao Châu Ký của Triệu Xương: chuyện 2, 10, 25.

d) Giao Châu Ký của Tăng Cổn: chuyện 23

đ) Sử Ký: chuyện 5, 10, 11, 13

e) Sử Ký của Đỗ Thiện: chuyện 14, 15, 17, 24

g) Báo Cực Truyện: chuyện 1, 10, 18, 19, 22

h) Giao Chỉ Ký:chuyên 17 (dẫn trong Sử Ký của Đỗ Thiện)

Để có một ý niệm rõ ràng về cách dùng tài liệu của Lý Tế Xuyên ta thử duyệt qua những tác phẩm lịch sử mà tác giả đã dẫn chứng. Cuốn Tam Quốc Chí đã được dùng để viết chuyện Sĩ Nhiếp; cuốn này được viết vào khoảng thế kỷ thứ III sau Thiên chúa giáng sinh và được ấn hành năm 1002; Lý Tế Xuyên đã gần như trích hẳn đoạn nói về Sĩ Nhiếp (28); đoạn nói về sự hiển linh của Sĩ Nhiếp lại được lấy trong Báo Cực Truyện; như vậy, Lý Tế Xuyên cho ta biết rõ ràng rằng chuyện Sĩ Nhiếp của ông là do hai nguồn tài liệu tạo nên; sự thẳng thắn ấy làm cho chúng ta không hoài nghi sự trung thực của ông, bởi vậy, gán cho tác giả là “đạo văn” thì thực là hơi quá đáng (29). Chính giáo sư Durand rất khe khắt với Lý Tế Xuyên cũng đã công nhận bản văn của tác giả là bản Ngô Chí được sao lại và biến chế thay đổi đi (30); như thế, ta có thể thẳng thắn công nhận rằng Lý Tế Xuyên đã sáng tác trong khuôn khổ của bản Ngô Chí, đã triệt để tôn trọng tài liệu và chỉ thêm bớt khi nào cảm thấy cần thiết; cách sử dụng tài liệu theo lối này nằm trong tập quán chung của các nhà văn xưa; năm 1333, Lê Trắc viết về Sĩ Nhiếp trong An Nam Chí Lược (q.VII tờ 4) năm 1377, một tác giả vô danh cũng viết về Sĩ Nhiếp trong Việt Sử Lược (q.I, 4b-5a) ngay cả đến những tác giả của Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục khi viết về Sĩ Nhiếp (Tiền Biên, II, 29, 30, 31, III, 1, 2, 3) cũng không có những sáng kiến gì khác Lý Tế Xuyên; sự chỉ định xuất xứ ở đầu chuyện (phần này không có trong bản A.47) và những phần sáng tác của Lý Tế Xuyên chứng tỏ sự dè dặt của ông khi viết văn, sự tôn trọng những tài liệu của cổ nhân vốn là một đặc tính cổ điển, cái thiện chí của ông sử dụng lịch sử để ghi lại cho hậu thế một bài học kinh nghiệm.

Sau Tam Quốc Chí, Lý Tế Xuyên còn dùng tài liệu của Báo Cực Truyện. Theo Gaspardone, sách này còn được gọi là Báo Đức Truyện; ngay năm 1777, Lê Quý Đôn cho biết Báo Cực Truyện đã thất truyền. Trong Cương Mục sự hiển linh của Sĩ Nhiếp sau khi chết là do tục truyền kể lại chứ không phải Báo Cực Truyện (31). Trong Việt Điện U Linh Tập, xuất xứ của truyện Tô Lịch và Lý Nguyên Hỉ, truyện Phù Đổng là ở trong Báo Cực Truyện; trong Cương Mục xuất xứ của truyện Tô Lịch lấy ở An Nam Kỷ Yếu (32), như vậy, Báo Cực Truyện đã dẫn trong Việt Điện U Linh Tập cũng như trong Lĩnh Nam Chích Quái, Đạo Giáo Nguyên Lưu, Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hành Ngữ là một tác phẩm ghi chép những truyền thuyết trong dân gian, những thành tích của các làng, những dã sử mà dân chúng truyền tụng. Việc trích dẫn tên sách trong những chuyện Sĩ Nhiếp, thần Tô Lịch, chuyện Hậu Thổ phu nhân, chuyện thần Đồng Cổ tiết lộ căn bản của Báo Cực Truyện là một cuốn sao lục thần tích. So sánh cách bố cục của những chuyện này trong Việt Điện U Linh Tập và trong Cương Mục, ta nhận thấy cách viết của Lý Tế Xuyên vẫn là triệt để căn cứ trên tài liệu để sắp đặt câu chuyện theo kỹ thuật riêng của ông.

Loại tài liệu thứ ba là cuốn Giao Châu Ký của Triệu Xương và Tăng Cổn.

Theo An Nam Kỷ Yếu, dẫn trong Cương Mục (33), tháng 7 mùa thu năm Tân Mùi (791) Triệu Xương sang Giao Châu làm đô hộ, dụ Phùng An mang quân ra hàng, rồi đi du lịch, xem xét các đền đài miếu vũ chép làm sách Phủ Chí, sau 10 năm hoạt động, vì đau chân nên được đổi về Bắc làm tế tửu; Bùi Thái sang thay Triệu Xương nhưng vì chính trị thấp kém nên bị bộ tướng Giao Châu đánh đuổi; Triệu Xương lại sang Giao Châu lần thứ 2, khoảng tháng 12 năm Quý Mùi (803); quân làm phản liền yên ngay. Như thế, Triệu Xương là một ông quan tốt lại thành thạo về chính trị; có thể nói ông là một chuyên viên về các vấn đề Giao Châu; nhưng cuốn Phủ Chí còn gọi là Giao Châu Ký thường truyền là của ông không thấy được nói tới trong Cựu Đường Thư (34), như vậy Giao Châu Ký (hay Giao Châu Chí) chưa chắc là một tác phẩm đã được ấn hành, có lẽ đấy chỉ là một vài nhận xét rời rạc mà Triệu Xương đã ghi chú một cách vội vàng khi còn ở Giao Châu. Lý Tế Xuyên đã dẫn chứng Triệu Xương để nói về Phùng Hưng và Phùng An bởi vì không có một người nào hiểu hết chuyện này hơn Triệu Xương; Lý Tế Xuyên đã tỏ ra rất hợp lý khi sử dụng những kinh nghiệm bản thân của một chuyên viên duy nhất về vấn đề chính trị Giao Châu năm 791. Sự dẫn chứng Triệu Xương làm cho sự xác thực của câu truyện được hoàn toàn bảo đảm.

Sau cùng, ta nhắc đến tài liệu lịch sử cuối cùng của Việt Điện U Linh Tập, đó là cuốn Sử Ký và nhất là Sử Ký của Đỗ Thiện. Hiểu được phương pháp của Lý Tế Xuyên đã sắp đặt tài liệu của Đỗ Thiện như thế nào tức là định đoạt được giá trị lịch sử của tác phẩm. Trước hết, theo Maspéro (35) khi Lý Tế Xuyên dẫn Sử Ký, hay Sử Ký của Đỗ Thiện tức là ta phải hiểu đó là một cuốn Sử: cuốn sử ký của Đỗ Thiện. Như thế, Đỗ Thiện đã được nhắc đến tất cả 8 lần trong những chuyện Hai Bà Trưng, thần Tô Lịch, Phạm Cự Lượng, Mục Thận, Trương Hống và Trương Hát, Lý Phục Man, Cao Lỗ, thần Đằng Châu. Riêng chuyện Lý Phục Man đã làm cho Maspéro chú ý. Đầu tiên, chuyện căn cứ vào Sử Ký của Đỗ Thiện kể lại việc tuần phương của Lý Thái Tổ, sự hiển linh của Lý Phục Man trước kia là thuộc tướng của Lý Nam Đế, sau đấy là việc lập đền theo lời đề nghị của Ngự sử Đại Phu Lương Văn Nhậm. Đến đây câu chuyện được chuyển từ đời Lý đến đời Nguyên Phong nhà Trần (1251-1258) nhắc đến việc thần hiển linh phù trợ cho vua tôi nhà Trần chống Thát Đát. Theo sử, Maspéro chỉ có biết một Đỗ Thiện, Đỗ Thiện mà vào khoảng tháng 2-1127 trước ngày Lý Nhân Tông băng hà đã đến nhà Sùng Hiền Hầu để báo cho Hầu biết con của Hầu lên ngôi vua. Maspéro nhận thấy năm 1127 cách năm 1257 quá xa, do đó giả định có một Đỗ Thiện khác sống vào đầu thế kỉ XIV. Giả định của Maspéro đã bị Gaspardone bắt bẻ năm 1934, trong Bibliographie Annamite. Gaspardone viết: “Phải nhận rằng giai thoại về việc Thát Đát nhập khấu dẫn ra ở đó cũng như ở truyện tiếp theo sau là ở ngoài truyện Lý Phục Man”. Như thế nghĩa là một đàng không thể có một Đỗ Thiện khác ngoài Đỗ Thiện đời Lý, một đàng phải nhận rằng khi Lý Tế Xuyên dẫn chứng một tác giả ở đầu chuyện là không bắt buộc phải hiểu rằng cả chuyện ấy thuộc về tác giả hay tác phẩm đã dẫn. Mỗi khi Lý Tế Xuyên nhắc đến tên một tác phẩm, bao giờ ông cũng dùng chữ An nghĩa là xét, và như vậy, án không nghĩa là trích, là lấy cả đoạn văn của tác phẩm dẫn chứng làm của mình. Phương pháp của Lý Tế Xuyên là một phương pháp cổ truyền, dẫn một tác giả để tăng thêm uy lực của bằng chứng mà thôi, chẳng khác gì như La Bruyère khi viết cuốn Les Caractère đã phải nhân đề tác phẩm là: “Les Caractères de Théopraste trraduits du grec v.v…” (36). Nếu không hiểu như thế, làm thế nào ta có thể giải thích được ý định của Lý Tế Xuyên khi ông dẫn 2 hay 3 tác phẩm cùng một lúc ở đầu chuyện, tỉ dụ trong chuyện Tô Lịch, tác giả đã xét Sử, Giao Châu Ký và Báo Cực Truyện. Có lẽ lại phải tạo ra một Đỗ Thiện nữa cũng không biết chừng!

Như vậy, phương pháp sử dụng tài liệu lịch sử của Lý Tế Xuyên rất đúng quy tắc, nhờ đấy giá trị lịch sử của tác phẩm rất cao. Giá trị lịch sử của Việt Điện U Linh Tập không phải chỉ cốt yếu trong tính cách ấy mà thôi. Đọc Lý Tế Xuyên, ta đã hiểu cái tôn giáo của người Việt xưa như thế nào, cái luân lý nào đã điều động tinh thần của người Việt Nam; ta còn thấy trong tác phẩm ấy phong tục của người xưa, những nét tâm lý của một hạng người, những màu sắc của một chế độ. Ta thấy trong truyện Bố Cái Đại Vương và trong truyện Lê Phụng Hiểu sự kính phục của nhân dân đối với những bậc nam tử có sức mạnh hơn người, sự cạnh tranh về ảnh hưởng rõ rệt trong truyện Triệu Việt Vương, Lý Nam Đế, sự bạc tình tàn nhẫn của Nhã Lang trở thành độc địa trước sự ngây thơ tin chồng của Cảo Nương rồi tục gửi rể cũng trong truyện này, nỗi lo âu của một người cha khi chỉ có một con gái mà có những hai chàng trai tài như nhau đến xin cưới (chuyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh), rồi tục ăn hỏi, sự đau đớn khi người yêu của mình bị rơi vào tay người khác, đó là những sắc thái của một thời đại lịch sử đã rất xa nhưng vẫn còn nhiều điểm tương đồng với xã hội ta bây giờ.

IV. Kỹ thuật của tác giả

1. Kỹ thuật hành văn

Tác giả đã viết văn phẩm của mình bằng chữ Hán, đó là một khuyết điểm, nhưng ta cũng không trách được ông, bởi vì đến năm 1329, chữ nôm mới được hình thành từ năm 1282 có lẽ chưa đủ từ ngữ để diễn đạt những tình tiết của một câu chuyện. Lại nữa, cách viết của Lý Tế Xuyên rất đơn giản, không có những câu dài với những vế đối nhau, không có những điển tích xa xôi phải giải thích; tác giả toàn dùng những từ ngữ hiện nay đã trở thành phổ thông; có nhiều câu chỉ cần phiên âm ra quốc ngữ là đã trở thành một câu văn Việt. Bản dịch của chúng tôi theo sát nguyên văn có thể gợi cho độc giả một ý niệm đúng về cách hành văn của Lý Tế Xuyên.

2. Kỹ thuật mô tả và tự sự

Đáng chú ý hơn hết là kỹ thuật mô tả và tự sự của tác giả. Một phong cảnh đẹp, một ngôi đền ẩn trong đám lá xanh, một dòng sông quanh co hay bóng dáng e ấp của một thiếu nữ, vẻ bệ vệ của một tiên ông, cách đi đứng hùng hổ của một võ tướng, lý Tế Xuyên đều ghi chú trong một vài nét tinh tế.

a) Tả cảnh

Cảnh thường có công dụng làm khung cho câu chuyện được xảy ra một cách tự nhiên. Lý Tế Xuyên có một kỹ thuật tả cảnh rất nhịp nhàng. Đây là cảnh Dâm Đàm (Hồ Tây), nơi đã xảy ra câu chuyện Lê Văn Thịnh hóa cọp định hãm hại Lý Nhân Tông: “Một hôm vua Nhân Tông ngự ra Tây Hồ xem cá; thuyền bồng thung dung, mái chèo khoan nhặt lượn chơi trên hồ rất vui vẻ; hốt nhiên thấy mây mù kéo đến trên mặt hồ mù mịt, đối diện không trông thấy nhau, vẳng nghe tiếng cọc chèo vùn vụt lướt mù tiến đến, thấp thoáng có một con hổ lớn đang hé mồm nhe răng như muốn cắn” (Chuyện Mục Thận). Đây là ngôi dã thự của Lý Thường Minh, tọa lạc giữa cảnh trời cao sông rộng: “Lý Thường Minh qua làm Đô Đốc Giao Châu thấy đất đai bằng phẳng nghìn dặm, núi sông bao bọc đến ngã ba sông Bạch Đằng, liên tiếp đến ngã ba sông Bạch Hạc, mới dựng quán Thông Linh, đặt tượng Tam Thanh, mở riêng ở trước một ngôi nhà gọi là tiền mạc” (Chuyện thần Bạch Hạc). Cảnh hoang phế đã được Lý Tế Xuyên mô tả với một niềm ngậm ngùi làm cho người đọc phải bâng khuâng. Đây là ngôi nhà đổ nát của Lý Ông Trọng: “Nhân đó Triệu Xương mới hỏi thăm nhà cũ của Vương hồi xưa, chỉ thấy mù khói ngang trời; sông nước mênh mông, rêu phong đường đá, xanh rơi cụm hoang, một mảnh nhàn vân phất phơ trên đám cỏ thôn hoa rụng” (Chuyện Lý Ông Trọng). Cảnh gió bão nổi lên làm cho Cao Biền cũng phải kinh hoảng. “Hốt nhiên gió mưa ào đến làm cho bay cát đổ cây, sập nhà lở đất, lôi cả đồng sắt lên mà nghiền tan như tro bụi” (Chuyện thần Long Độ). Những cảnh tráng lệ của đền đài miếu vũ cũng đã được mô tả một cách sắc bén; đây là thành Đại La do Lý Nguyên Hỷ xây: “Cửa kép tường đòi, bốn hướng vây tròn, nhà cửa san sát” (Chuyện Tô Lịch).

B) Tả người

Giữa những khung cảnh ấy, ta thấy nhiều bóng người linh động với những bộ điệu, những ngôn ngữ riêng. Đây là vẻ tiên cốt của thần Tô Lịch: “Đêm ấy, Nguyên Hỉ đang yên lặng nằm bên cửa sổ, hốt nhiên một trận thanh phong ào ào thổi đến, bụi cuốn cát bay, rèm lay án động, có một người cỡi một con hươu trắng từ trên không chạy xuống, mày râu bạc phơ, áo xiêm sặc sỡ…” (Chuyện Tô Lịch) Y phục của thần bao giờ cũng giàu màu sắc: “Một người tác chừng 60, đội mão giải trại, bận áo tử hà, thắt lưng, tay cầm đao Thăng Long Yển Nguyệt đến trước mặt vài chào” (Chuyện Lý Hoằng). Những thần kỳ dị được phô diễn một cách hết sức tả chân; đây là thần Cao Lỗ: “Một dị nhân thân dài chín thước, y quan chỉnh túc, ngôn mạo lăng tằng, lấy dùi búi tóc, gài dao làm trâm, lưng giắt gậy đỏ, bạch vua…” (Chuyện Cao Lỗ). Đây là Đồng Cổ, dáng dấp cổ lỗ không kém gì Cao Lỗ: “Một người kì dị, thân dài tám thước, tu mi như kích, y quan nghiêm nhã, mình mặc nhung phục, tay cầm binh khí, cúi đầu…” (Chuyện thần Đồng Cổ). Những lúc nói đến thanh niên, ngòi bút của Lý Tế Xuyên sắc sảo vô cùng. Đây là hình ảnh oai hùng của Phùng Hưng và Phùng Hãi: “Vương gia tư hào hữu, sức lực dũng mãnh, đánh được hổ, vật được trâu; người em tên là Hãi cũng có sức mạnh kỳ dị, vác được tảng đá nặng mười nghìn cân hay một chiếc thuyền con chở nhìn hộc mà đi hơn mười dặm” (Chuyện Bố Cái Đại Vương). Đây là Lê Phụng Hiểu: “Vương thân hình cao đại kỳ dị, mày râu dài và rậm, sức mạnh hơn người… Vương lấy tay nhổ cả khóm trúc mà đánh, không một người nào dám chống cự” (Chuyện Lê Phụng Hiểu). Bên cạnh những chàng trai uy dũng kia, nổi bật xiêm áo của những thiếu nữ sắc đẹp mê hồn. Đây là Hậu Thổ Phu nhân: “Giữa lúc đang bàng hoàng, vua thấy một người con gái ước độ hai mươi tuổi, mặt tựa hoa đào, mày đậm màu dương liễu, mắt sáng như sao, miệng cười như hoa nở; nàng mặc áo trắng, quần lục, lưng mang đai, dịu dàng bước đến” (Chuyện Hậu Thổ Phu nhân). Cách ăn mặc của hai chị em bà Trưng lại khác hẳn mặc dầu vẻ mặt cũng gần tương tự. “Vua mừng liền qua xem, hốt nhiên ngủ mộng thấy hai thiếu nữ mặt hoa mày liễu, áo lục quần hồng, mão đỏ, thắt lưng cỡi ngựa sắt mà đi qua” (Nhị Trưng Phu nhân). Nhiều khi tác giả không cần mô tả nữa; ông chỉ gợi lên cho ta một hình ảnh bằng cách mô tả phản ừng của những người chung quanh, tỉ dụ trong chuyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, Mỵ Nương không cần xuất hiện mà qua sự tha thiết của hai chàng thanh niên, ta có thể biết được rằng nàng đẹp lắm.

c) Tả tình

Nghệ thuật tả tình của Lý Tế Xuyên có nhiều điểm đặc sắc. tác giả chú trọng đến sự tương quan giữa thể chất và tâm hồn, sự thuần nhất của tình cảm trong thời gian, sự biểu hiệu của tình cảm qua cử chỉ và ngôn ngữ. Cảnh tả tình của ông liên hệ chặt chẽ với cách tả người. ta còn thấy Lý Tế Xuyên chú trọng đến việc sắp đặt tình tiết của câu chuyện cho phù hợp với sự phát lộ của tình cảm; tỉ dụ trong chuyện Triệu Việt Vương và Lý Nam Đế, sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa hai vương hữu giữa lúc đang kịch liệt tự nhiên đi đến một sự thỉnh hòa. Cảo Nương đang bơi lội trong hạnh phúc không thấy sự giả tạo của mối tình hờ, thêm vào đấy vẻ đẹp trai của Nhã Lang, ngôn ngữ dịu dàng của chàng làm cho Cảo Nương càng sung sướng hơn nữa trong duyên mới. Thế rồi cái phải xảy ra đã xảy ra. Cảo Nương ngay khi chết vẫn không nghi ngờ dã tâm của chồng. Sự yên lặng của nàng trước sau khi chết mang rất nhiều ý nghĩa. Lý Tế Xuyên đã chuẩn bị mọi chi tiết để cho tình cảm được phát biểu một cách tuần tự, hồn nhiên, sâu sắc và cảm động. Nghệ thuật tả tình còn già giặn hơn nữa trong chuyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh. Tác giả cho biết hai chàng là một đôi bạn thân; đó là một điểm quan trọng để cho ta thấy tất cả những ngang trái, những đau khổ trong sự thù hằn mà nhan sắc của một thiếu nữ đã mang đến để chia rẽ hai người bạn. Thêm vào đấy sự nhu nhược của nhà vua, sự khéo léo của Lạc hầu, bằng ấy tình tiết để làm cho câu chuyện rắc rối hơn, cho sự căm thù giữa hai người bạn thêm kịch liệt tàn nhẫn. Mỗi lần mùa thu đến, cùng với gió lạnh trở về khơi nhớ nhung, Thuỷ Tinh lại dâng nước lên như muốn làm cho Sơn Tinh chết đuối trong cơn phẫn nộ của chàng.

3. Kỹ thuật đối thoại

Phần đối thoại là một trong những phần quan trọng trong kỹ thuật sáng tác. Lý Tế Xuyên đã biết sử dụng đối thoại để làm cho nhân vật linh động, suy nghĩ và nói năng hoạt bát. Ta thử theo dõi cuộc nói chuyện giữa Nhã Lang và Cảo Nương mà xem; lời nói của Nhã Lang dịu dàng, êm ái, đầy yêu đương; chàng cố ý hạ thấp giọng xuống để cho lời nói trầm trầm; chàng dùng những câu dài, những từ ngữ rất kêu như “thiên duyên tác hợp, tao ngộ kỳ duyên… chẳng lẽ cứu lưu luyến tình chiếu chăn riêng tư mà bỏ khuyết việc thần hôn phụng dưỡng… Nhưng mà đường sá xa xôi, đi về cách trở, không dễ một hồm một mai mà trở lại được, sum họp ít mà chia phôi nhiều, anh thật ân hận quá v.v…” Cảo Nương im lặng ngồi nghe; có lẽ nàng cảm động lắm khi nghe lời nói như ru của Nhã Lang; nàng có biết đâu chính những lời ngon ngọt ấy sẽ làm cho nàng phải chết.

Cuộc đàm thoại giữa Lê Ngọa Triều khi còn là Khai Minh Vương với thôn dân Đằng Châu cũng rất tự nhiên và phù hợp với tính tình của nhân vật. Tính độc ác, hung hãn và tự phụ, Lê Ngọa Triều có một giọng nói gắt gỏng, xẵng, ngược lại, người trong thôn hiền lành thì giọng nói dài hơn, lễ phép hơn. “Thấy trên bờ cao có đền thờ mới hỏi người trong thôn rằng:

- Đền ấy thờ thần gì?

Thôn dân thưa:

- Ấy là đền cổ thờ thần Thổ địa của Đằng Châu.

Vua hỏi:

- Có linh không?

Thôn dân thưa:

- Dân trong châu này nương nhờ vị thần ấy, cầu mưa đảo tạnh lập tức thấy linh ứng.

Vua mới lớn tiếng gọi rằng…”

(Chuyện thần Đằng Châu)

Nhưng linh động và hồn nhiên nhất là cuộc đàm thoại giữa Hùng Vương và Lạc Hầu trong chuyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh. Hùng Vương trong chuyện này là một ông vua nhu nhược, ba phải, không có phán đoán; Lạc Hầu ngược lại là một ông vua thông minh, có mưu kế, nói lời nào là nhà vua “cho là phải” ngay; bởi vậy, tác giả không để cho nhà vua nói nhiều; những câu vắn tắt “vua muốn gả, vua sợ, vua bảo, Hùng Vương cả mừng, Hùng Vương cho là phải, Hùng Vương mừng lắm v.v…” giữa những lời nói khôn ngoan của Lạc Hầu làm nổi bật hai cá tính khác hẳn nhau. Tài viết chuyện của Lý Tế Xuyên là ở đấy. Ông làm cho độc giả say mê theo dõi câu chuyện trong từng chi tiết nhỏ nhặt. Độc giả sung sướng đọc từ chuyện này sang chuyện kia, mỗi chuyện có một kỹ thuật riêng, càng đọc càng thấy thích thú.

V. Kết luận

Nói tóm lại, Lý Tế Xuyên là một bản chất phong phú, đặc sắc. Đó là một con người hiếu kỳ lúc nào cũng hoạt động, cái gì cũng mới đối với ông. Lý Tế Xuyên đã nhìn tất cả, ngạc nhiên với tất cả và đã nói được hết cả. Hình như quá khứ chỉ được gây dựng cho một mình ông, hình như đó là cái nhìn đầu tiên của người Việt trên thế giới hình thức đầy sắc màu và vận động. Lý Tế Xuyên có một năng khiếu tưởng tượng rất mãnh liệt và những giác quan luôn luôn tỉnh táo. Những gì ông đã đọc được khi làm Thủ Đại Tạng Kinh Thư Hỏa Chính Chưởng, ông trông thấy và làm cho người khác trông thấy. Ông là người có mắt, tất cả những gì đã qua mắt ông đều để lại một hình ảnh xác định không bao giờ phai. Chính nhờ ở sự tưởng tượng tự nhiên mãnh liệt mà Lý Tế Xuyên có một lối kể chuyện duyên dáng với một kỹ thuật sắc sảo không bao giờ tầm thường. Lý Tế Xuyên còn có sự thiện cảm làm cho ông cảm thấy như khi ông trông thấy, những hình ảnh chồng chất trong kỷ niệm sống dậy cùng với những âm thanh làm rộn rã tâm hồn ông. Bao nhiêu thế kỷ đã qua, từ Sĩ Nhiếp đến Trần Thái Tông, từ Trưng Vương đến Mỵ Ê, ông vẫn tìm thấy những tình cảm phức tạp của một ngày loạn ly, sự hoan hỉ khi có tin đại tiệp, sự lo âu khi ngoại địch nhập khấu, rồi sự tiếc thương, lòng hối hận tất cả những gì người ta biết mà người ta phải bỏ, người ta không biết mà phải đi tới, tất cả có thể thấy lại và pha trộn với những sự xao động tinh thần cùng những ấn tượng sinh lý của tai và của mắt. Suốt trong tác phẩm của Lý Tế Xuyên, không đâu có những tình cảm suy nhược, mơ hồ, buồn bã bâng khuâng; một niềm bao quát tất cả là sự hãnh diện quốc gia, một sự lạc quan, một tinh thần lành mạnh, một tâm hồn trong sạch mà một văn tài như Lý Tế Xuyên dễ dàng cảm thấy và mô tả được.

Đọc xong Việt Điện U Linh Tập, ta xôn xao vì bóng dáng hùng vĩ của những vị anh hùng liệt nữ ngày hôm qua, ngày hôm nay còn đủ uy lực để làm phấn khởi cả một đoàn người hăm hở vì lý tưởng quốc gia đang rực rỡ trong đầu óc. Ta nhận thấy phải làm một cái gì như người xưa; dòng máu anh hùng bừng bừng sôi trong huyết quản. Ta không thể không thấy lòng mình dũng liệt hơn, hăng hái hơn trên đường phụng sự quốc gia dân tộc, thông dự vào một đời sống cụ thể để thực hiện cái bản chất đầy tiềm lực của con người.

Huế, ngày 24-11-1959

LÊ HỮU MỤC

-------------------------

Chú thích:

(1) Xem Bibliographie Annamite của E.Gaspardone

(2) Xem M.Durand trong Dân Việt Nam, số 3 trang 11

(3) Xem Kiến Văn Tiểu Lục, quyển 4. Thiên chương, tờ 42 (đã dịch và sắp xuất bản)

(4) Xem Durand, Sđd, trang 6: Respecteux des Anciens et d’une modestie conforme aux règles morales du sage, il aime une information sincère, je n’oserais dire scientifique.

(5) Q.12 “Thế gia họ Lý”

(6) Xem Việt Sử Lược, II, 1a

(7) Xem dưới

(8) Xem M.Durand trong Dân Việt Nam, số 3 trang 39-44

(9) Xem Cương Mục, chính biên, I,43a

(10) Xem M.Durand trong Dân Việt Nam, số 3 trang 6

(11) Xem Toàn Thư, V, 35b

(12) Xem Toàn Thư, VI, 43b

(13) Xem Exposé de Géographie historique du pays d’Annam traduit du Cương Mục (B.E.F.E.O XXII, 1922)

(14) II (ouvrage Đỗ Thiện) remonte certainement aux première années du 14e siècle (Maspéro, trong Etudes d’Histoire d’Annam, B.E.F.E.O, XVI, 1916)

(15) B.E.F.E.O, XXXIV,1934

(16) IV, 4a

(17) Xem Durand, Sđd, trang 6. Chúng tôi đã kiểm điểm lại nhận xét của Durand, căn cứ trên những bản đã chụp lại những bản chép tay của trường Viễn Đông Bác Cổ.

(18) Theo Duran, Sđd, trang 6

(19) Kiến Văn Tiểu Lục, q.IV, thiên Chương, tờ 4a.

(20) Trong Hiến Chương, q.45

(21) Nguyễn Văn Chất người làng Vũ Di, huyện Bạch Hạc (Vĩnh Yên), tiến sĩ năm 1448, hồi 27 tuổi, Tư Nghiệp Quốc Tử Giám năm 1466, Đô Sát Viện, đi sứ Tàu năm 1480 (Toàn Thư XIII, tờ 29), tác giả Tục Việt Điện U Linh Tập (Đăng Khoa Lục I, 7) (Nhận xét của Gaspardone, trong Bibliographie Annamite).

(22) Theo Gaspardone dẫn trong Bibliographie Annamite, Cao Huy Diệu trước là Cao Dương Diệu làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, Bắc Ninh, Tiến Sĩ năm 1715, hồi 35 tuổi, Thượng thư bộ Lại năm 1739 (xem Đăng Khoa Lục, III, 44; Bị Khảo, phần Kinh Bắc, Gia Lâm).

(23) Lê Hữu Hỉ, tên hiệu là Độn Phủ, tiến sĩ năm 1700 (xem Đăng Khoa Lục, III, 38b)

(24) xem Bibliographie Annamite.

(25) Chữ Hiền dễ bị lầm với chữ Chất.

(26) Xem bài “Le protectorat général d’Annam vers la T’ang “ (BEFEO X, tr.539)

(27) Tam Quốc Chí, Q.III

(28) Xem Durand, Dân Việt Nam, số 3, trang 12

(29) … La biographie dite de Che Sie était tout simplement une copie, modifiée et altérée du texte de l’Histoire de Wou (Sđd, tr.11).

(30) Tiền Biên, III, 2 (lời bàn của Ngô Sĩ Liên)

(31) Tiền Biên, IV, 31

(32) Tiền Biên, IV, 27, 28

(33) Tiểu sử 161, tờ 5-6

(34) Xem Maspéro, Etudes d’Histoire d’Annam 1) La dynastie des Lý Antérieurs (543-601) trong BEFEO, XVI, 1916.

(35) Théophraste là một triết gia Hy Lạp thế kỷ thứ IV trước công nguyên. Phần dịch của La Bruyère là phần phụ thuộc như để cầu sự che chở của nhà văn xưa.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Triệu Đà

Phát tích

Họ tộc Triệu là một họ tộc phát triển sớm ở trung lưu sông Hoàng Hà. Từ thời Xuân Thu, khi nhà Chu khởi nghiệp Thiên tử, Triệu tộc là một trong số các chư hầu hùng mạnh. Liên minh Triệu, Nguỵ, Hàn nổi tiếng trong thời Chiến Quốc vốn dĩ là dư ảnh của một liên minh bộ lạc trước thời lập quốc cua ba dòng tộc lớn mà tộc danh sau đó đã trở thành quốc danh.

Cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, nước Triệu là một tiểu quốc láng giềng hùng mạnh của nước Tần, đã từng giữ thái tử nhà Tần – cha của Tần Thuỷ Hoàng làm con tin. Khi Tần Thuỷ hoàng thống nhất Trung Hoa, Triệu tộc hoàng thất gần như bị tuyệt diệt. Con dân nước Triệu tuân theo chính thể mới của đế chế Trung Hoa đầu tiên. Nhiều người họ Triệu làm quan cho nhà Tần (Triệu Cao chẳng hạn). Triệu Đà vốn là một con dân tộc Triệu của nước Tần thống nhất, đã tham gia đội quân chinh phục vùng đất Việt phương nam. Sử ký, một cuốn sách do Tư Mã Thiên, người sinh sau Triệu Đà khoảng 100 năm cho biết, quê Triệu Đà ở Chân Định (Hà Bắc, Trung Quốc). Sự việc này đáng tin, bởi vì sau khi Triệu Đà xưng đế cát cứ ở Phiên Ngung Posted Imagequận Nam Hải (Quảng Châu), nhà Hán đã cho người phá mồ mả tổ tiên Triệu Đà ở quê, sau này, qua bức thư của Hán Văn Đế phủ dụ Triệu Đà có nói đến việc Hán Văn Đế cho người sửa sang trông nom mồ mả và họ hàng Triệu Đà. Đây là sự kiện lớn được nhiều sử sách đương thời và sau này ghi nhận. Như vậy ông là người Hoa Hạ chính gốc. Có mấy sự kiện giúp xác định thời điểm Triệu Đà sống cùng với người Việt. Hán thư có một dòng cho biết Triệu Đà tham gia nam chinh năm 20 tuổi, trước khi Lưu Bang lập nhà Tây Hán 13 năm , tức Tần Thuỷ Hoàng năm 28 ( năm 219 trước Công nguyên). Như vậy, theo những nghiên cứu mới nhất, Triệu Đà sinh vào khoảng 239 trước Công nguyên, mất vào năm Kiến Nguyên tứ niên (137 trước Công nguyên), thọ 102 tuổi.

Tuy là người Hoa Hạ, nhưng theo Sử ký cũng như ghi chép trong Hán thư, ông sớm cùng chủ tướng của mình là Nhâm Ngao có ý định cát cứ. Nhất là sau khi Tần Thuỷ Hoàng bị Lưu Bang, Hạng Vũ tiêu diệt lập ra nhà Hán, tư tưởng lập quốc gia riêng chống Hán của Triệu Đà thể hiện rất rõ. Lực lượng quân Tần do ông chỉ huy trở thành đám tướng lĩnh lưu vong. Hoặc phải đầu hàng nhà Hán, hoặc tiếp tục chống lại nhà Hán. Ông đã chọn con đường chống Hán. Chỗ dựa chính để Triệu Đà chống Hán chính là địa danh nhân kiệt Bách Việt. Nên nhớ rằng, Nhâm Ngao, Triệu Đà cùng quân đội Tần mới chỉ cai trị ở một vùng đất mới lạ này trong vòng 13 năm thì nhà Tần xụp đổ (từ 219 đến 207 trước Công nguyên) . 13 năm thời gian là quá ngắn ngủi để tạo dựng một thể chế hoàn chỉnh và một nền văn hoá mới. Vì vậy, đội quân Tần không hàng Hán muốn tồn tại được ở đất Bách Việt phải trở thành đội quân Bách Việt. Đó là lý do tại sao Triệu Đà không thể lập lại một nước Triệu của nhà Triệu theo họ của mình mà phải chọn tên nước là Nam Việt. Bản thân ông lấy vợ người Việt, đền thờ một trong số phu nhân người Việt của ông hiện ở Đồng (Đường) Xâm (Kiến Xương, Thái Bình). Trọng Thuỷ là con Triệu Đà cũng gửi rể Âu Lạc. Những nghiên cứu về đồ tuỳ táng chôn trong các khu mộ táng Nam Việt cũng như xương cốt và ADN cổ phản ánh rõ ràng ưu thế Việt tộc trong quốc gia Nam Việt của Triệu Đà. Trong mộ vua Nam Việt cũng như mộ các quan thứ sử, huyện lệnh Nam Việt đều chôn theo những bảo vật của người Việt thuộc nhóm văn hoá Đông Sơn, như trống đồng, thạp đồng, rìu Posted Imagechiến và nỏ...Gần đây, chúng tôi nhận thấy chiếc thạp đồng Đông Sơn số 2505-29 thuộc Bảo tàng Barbier-Mueller ở Geneve rất giống chiếc thạp chôn trong mộ của Nam Việt Văn đế Triệu Muội, cháu ruột Triệu Đà và là vị vua thứ hai của Nam Việt . Chiếc thạp mới phát hiện này có khắc 22 chữ Hán theo phong cách Nam Việt, trong đó hai chữ đầu ghi địa danh có thể đọc được là Long Xoang. Theo chúng tôi rất có thể đây là một biến âm của chữ Long Xuyên, nơi Triệu Đà làm huyện lệnh trước khi lập nước Nam Việt. Như vậy, có thể đây chính là chiếc thạp liên quan đến Triệu Đà. Chiếc thạp trong mộ Triệu Muội có thể là do Triệu Đà ban tặng lại.

Nước Nam Việt do Triệu Đà lập ra rõ ràng là một quốc gia của người Việt. Một nhà nước chống laị sự bành chướng của văn hoá Hán. Dưới sức ép của nhà Hán, cũng như Nam Việt, một loạt tiểu quốc Bách Việt khác ra đời : Đông Âu, Tây Âu, Lạc Việt. Sự cọ sát giữa các tiểu quốc này có lẽ cũng tương tự như tình trạng các nước chư hầu dưới thời Chu Thiên tử. Tây Âu đã xát nhập được với Lạc Việt, trở thành Âu Lạc, thủ phủ ở Cổ Loa. Nam Việt gây hấn với Đông Âu rồi cuối cùng thôn tính Âu Lạc trở thành một tiểu quốc hùng mạnh ở khoảng giữa thế kỷ 2 trước Công nguyên. Sau khi Triệu Đà mất, nước Nam Việt bị chia rẽ và suy yếu, bị sát nhập vào nhà Hán sau Đông Âu vài chục năm (111 trước Công nguyên) .

Triệu Đà trong chính sử Việt Nam

Giao tiếp Hoa Hạ và Bách Việt vào khoảng nửa sau thiên niên kỷ I trước Công nguyên.

Các nhà nghiên cứu trên thế giới đều thừa nhận cuộc vận động nông nghiệp, tụ cư, văn minh và nhà nước sớm ở vùng sông Hoàng và sau đó lan xuống lưu vực sông Hoài, Hán và sông Trường Giang. Với sự hình thành các trung tâm kinh tế chính trị mạnh dưới thời Thương, Chu, thế giới người Hoa Hạ sông Hoàng đã tạo ra một cơn lốc xoáy văn hoá lan rộng ra xung quanh. Về phía nam, cơn lốc văn hoá đó nhanh chóng kích thích các trung tâm văn hoá tiền sử muộn ở trung và hạ lưu sông Trường Giang. Kết quả là sự hình thành một loạt quốc gia mới ở khu vực phương nam, lớn nhất phải kể đến : Sở, Ngô và Việt. Cục diện chiến tranh thời Chiến Quốc đã tao ra một làn sóng di dân hoà bình từ khu vực Hán hoá sớm ở lưu vực Trường Giang (Thục, Sở, Ngô, Việt…) xuống các trung tâm văn hoá Bách Việt thuộc Vân Nam (Điền), Tứ Xuyên (Trung Sơn, Dạ Lang), Ngũ Lĩnh (Quế Lâm, Tượng, Tây Âu ), Đông Hải (Mân, Đông Âu), Nam Hải (Lạc Việt). Đương thời đó là những vùng chịu ảnh hưởng của ba nền văn hoá đồng thau bản địa : Điền (Vân Nam), Ba Thục (Tứ Xuyên) và Đông Sơn (Bắc Việt Nam, Lưỡng Quảng). Bên cạnh các nhóm tộc người Bách Việt bản địa bắt đầu xuất hiện ở Hoa Nam những dòng tộc hoa hạ mới. Sự đan xen văn hoá Hoa Việt đầu tiên giúp thành tạo một hệ thống đồ đồng mới mang tên Hoài thức ở trung và hạ lưu Trường Giang. Cuộc đan xen lần này phức tạp hơn bởi địa hình phương nam bị chia cắt bời nhiều hệ núi cao, sông dày đặc. Vào khoảng cuối thiên niên kỷ I trước công nguyên ở toàn vùng Hoa Nam đã xuất hiện một số vùng văn hoá khác Hán lớn : Điền (Vân Nam), Dạ Lang (Tứ Xuyên, Quý Châu), Đông Âu (Triết Giang), Mân Việt (Phúc Kiến), Tây Âu (Quảng Tây), Nam Việt (Quảng Đông, Quảng Tây), Lạc Việt (Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc Việt Nam). Trong khi đó văn hoá Đông Sơn còn khá nguyên dạng. Sự biến đổi mới chỉ xuất hiện ở các tỉnh miền núi phía bắc và dọc ven biển miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Tại những nơi này, bộ tuỳ táng Đông Sơn được bổ sung bởi những yếu tố mới mang phong cách phương Bắc, như một số đồ đựng dùng trong lễ nghi, ăn uống và đồ gỗ sơn then. Điển hình nhất là các mộ Đông Sơn chôn trong quan tài thân cây khoét rỗng, như mộ Việt Khê, La Đôi, Kiệt Thượng, Châu Can, Châu Sơn, Phú Lương, Ngoại Độ, Động Xá, Yên Bắc …Khi khai quật các mộ gạch đầu công nguyên tại Việt Nam, nhà khảo cổ học Thuỵ Điển Olop Janse đã mạnh dạn đề xuất khái niệm văn hoá Lạch Trường nhằm diễn tả sự biến đổi của văn hoá Đông Sơn bản địa dưới tác động của các yếu tố văn hoá phương bắc. Trong Hội nghị 100 năm Khảo cổ học Việt Nam (Hà Nội, 12.2001) tôi đã đề xuất mở rông khái niệm văn hoá Lạch Trường với nội dung là sự tham gia của các yếu tố văn hoá phương bắc vào văn hoá Đông Sơn lên đến tận thế kỷ 4,5 trước Công nguyên, tức là với làn sóng nam tiến tránh nạn binh đao từ thời Chiến Quốc, mà Việt Khê là hiện tượng mở đầu tiêu biểu.

Hình ảnh phiên chợ đa tộc được mô tả bằng tượng khối trên mặt một trống đồng trong văn hoá Điền khắc hoạ bức tranh sinh động nhất cho hiện tượng giao thoa hội nhập thời Chiến Quốc và hậu Chiến Quốc ở khu vực Hoa Nam này. Trong khung cảnh đó phải thừa nhận ý thức tộc người mặc dầu đã hình thành nhưng chưa xuất hiện ý thức đối kháng và hằn thù dân tộc như sau này. Đó là môi trường mà sử sách đã ghi nhận sự tham gia của cá tộc người phương nam vào dòng chảy văn hoá phương bắc cũng như ngược lại vai trò của các dòng tộc phương bắc trong các thành tựu văn hoá phương nam. Sự tích hình thành Lạc Long Quân, Âu Cơ tạo sinh ra trăm trứng nở thành trăm con trai trong đó có Hùng Vương đầu tiên gắn với chuyến nam du của Kinh Dương vương từ Hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung Quốc), Lý Ông Trọng ở đền Chèm.

Cuộc chinh phục mang tính quân sự đầu tiên của văn minh Hoa Hạ xuống vùng Bách Việt diễn ra vào đời nhà Tần (cuối thế kỷ 3 trước Công nguyên). Sau nhiều lần bị người Việt đánh bại, đến năm 219 nhà Tần mới khai thông con đường xuống phía nam, lập ra quận huyện ở Nam Hải (vùng Lạc Việt ở Quảng Đông, Quảng Tây và Dương Việt ở Hồ Nam) cũng như ở vùng núi Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên. Đây là lần đầu tiên chính quyền Hoa Hạ xác lập được ở Bách Việt Lĩnh Nam. Cuối đời Tần, quan lại Hoa Hạ của nhà Tần ở cả hai khu vực này đều cát cứ, lập quốc gia riêng cắt đứt quan hệ với Trung Nguyên. Ở Nam Hải, Triệu Đà giết các Trưởng lại người Hoa Hạ, liên kết với người Việt lập ra nước Nam Việt.

Nước Nam Việt của người Việt hay người Hoa Hạ

Cương vực

Địa bàn đầu tiên của nước Nam Việt là quận Nam Hải, gồm vùng núi Hồ Nam (bắc Ngũ Lĩnh) Posted Imageđến Trường Sa (thư Hán Văn đế gửi Triệu Đà), toàn bộ Quảng Đông và một phần Quảng Tây phía ven biển đông nam (mộ Quý huyện La Bạc Loan). Đô thành đóng ở quận lỵ Nam Hải có tê là Phiên Ngung (nay là Quảng Châu). Để cai trị nước mới này, việc đầu tiên, Triệu Đà thay thế tướng lĩnh Hoa Hạ không trung thành với mình bằng thủ lĩnh người Việt (Sử ký, Hán thư, Toàn thư). Cùng một phản ứng như Triệu Đà, nhiều thủ lĩnh bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc các nhóm Bách Việt khác có lãnh thổ giáp ranh với nhà Hán đều xưng vương dưới dạng thần phục hoặc chống lại nhà Hán, như Đông Âu Vương, Mân Việt vương, Dạ Lang vương, Tây Âu vương, Điền vương (và có thể cả Hùng vương nữa). Trong giai đoạn đầu, chưa đủ sức chinh phục, nhà Tây Hán thực hiện chính sách phong vương cho các thủ lĩnh bộ lạc hay tiểu quốc cát cứ vùng biên trấn (thư của Hoài Nam Vương Lưu An, Toàn Posted Imagethư, tr.147). Các tiểu quốc biên trấn quan hệ với Tây Hán dưới dạng thiên tử chư hầu. Nhà Triệu đã từng bước mở rộng lãnh thổ Nam Việt trong phạm vi bang giao hoà bình và quân sự với các tiểu quốc Việt láng giềng. Từ năm 185 trước Công nguyên, sau khi Lã Hậu nhiếp chính đã thực hiện một loạt biện pháp cứng rắn với các tiểu quốc phiên trấn. Đặc biệt là chính sách cấm giao thương biên ải với Nam Việt ở vùng Trường Sa (Hồ Nam). Phản ứng trước chính sách của Lã Cao Hậu, năm 182 trước công nguyên Triệu Đà xưng Đế , tấn công Trường Sa, công khai chống lại nhà Tây Hán. Năm 181 trước công nguyên, nước Nam Việt được mở rộng gần như toàn bộ phần đông của Hoa Nam nhờ việc đã thần phục được cả Đông Việt (Triết Giang), Mân Việt (Phúc Kiến), Âu Lạc (Quảng Tây và Bắc Việt Nam). Có hai viên quan dưới thời Triệu Đà đã sang quản lý Giao Chỉ và Cửu Chân, sau khi nước Nam Việt mất, nhờ việc đem nộp sổ hộ khẩu hai quận này mà cả hai được nhà Tây Hán cho tiếp tục làm quan coi đất cũ. Điều này cho thấy việc ghi nhận Kỷ Nhà Triệu tính từ năm 181 trước Công nguyên của Việt Sử lược là xuất phát từ khi Âu Lạc (Giao Chỉ, Cửu Chân) xát nhập vào Nam Việt là có cơ sở.

Triều đình và hoàng thất

Triều đình Nam Việt còn mang nặng màu sắc chế độ thủ lĩnh bộ lạc. Điều này được sứ giả nhà Hán là Lục Giả mô tả lại rất rõ qua hai lần đi sứ sang Phiên Ngung (“vua ngồi xổm tiếp sứ giả”). Văn tự Hán ở Nam Việt rất kém phát triển. Có thể nhận thấy thông qua những minh văn chữ Hán được khắc rất xấu và mắc nhiều lỗi chính tả trên cả những đồ ngự dụng dành riêng cho Hoàng Đế và phu nhân trong mộ Nam Việt Văn Đế Triệu Muội. Nước Nam Việt tuy của một ông vua Hoa Hạ nhưng duy trì nhiều phong tục và luật lệ hoàn toàn khác Hán. Dường như ông cháu Triệu Đà đã cố tình duy trì như vậy để khắc hoạ tính khác Hán của triều đình Nam Việt của người Việt. Bản thân Triệu Đà lấy vợ Việt . Đến đời con là Trọng Thuỷ tương truyền cũng gửi rể Âu Lạc. Vị vua thứ năm (Thuật Dương Vương) cũng lấy vợ người Việt. Có lẽ chỉ có Anh Tề (vua thứ ba) lấy vợ họ Cù người Hán khi làm Thái tử con tin sống trên đất Hán. Năm 111 nước Nam Việt mất vào tay nhà Tây Hán sau 93 năm tồn tại, trong đó riêng Triệu Đà đã ở ngôi điều hành đất nước tới 71 năm. Hoàng thất họ Triệu đã là thành tố chính hình thành một dòng tộc Triệu lớn mạnh hiện còn phổ biến trong số người Choang, Tày Nùng ở Quảng Tây và các tỉnh biên giới miền bắc nước ta như Cao Bàng, Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn… Khảo cổ học Việt Nam đã khai quật được những gương đồng ghi rõ minh văn “Triệu thị tác kính” thuộc những thế kỷ đầu công nguyên. Họ Triệu cũng từng hai lần phục quốc thành công trong thời bắc thuộc với Triệu Quốc Đạt cùng em gái là Triệu Thị Trinh (Triệu Ẩu) vào thế kỷ thứ 2, và Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương) vào thế kỷ thứ 6.

Triệu Đà trong chính sử Việt Nam

Thái độ của sử gia Việt Nam qua các đời đối với Triệu Đà

Triệu Đà và nước Nam Việt được ghi chép rất sớm trong chính sử Trung Quốc. Chính sử Việt Nam được xây dựng chính thức dưới triều đại nhà Lý, nhưng sách sử còn lại hiện chỉ có ở đời nhà Trần. Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đời Trần hiện còn lưu lại trong Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) đời Lê rồi sau đó được biên dẫn lại trong Việt sử Thông giám cương mục đời Nguyễn. Ngay từ những cuốn sử chính thống đầu tiên đó, nền sử học chính thống của nước ta đã ghi nhận vai trò của những nhân vật lịch sử đã có công trong việc tạo dựng và dành lại độc lập dân tộc. Lời than của Lê Văn Hưu được ghi lại trong Toàn thư (tập 1, tr.160) khi nhận định về tình trạng đất nước dưới quyền thống trị của các thứ sử, thái thú nhà Hán phản ánh tâm trạng của nhân dân, triều đình và sử gia Việt Nam đương thời :”Xem sử đến thời nước Việt ta không có vua, bị bọn thứ sử người Bắc tham tàn làm khổ, Bắc kinh đường xa không biết kêu vào đâu, bất giác xen lẫn cảm thương hổ thẹn, muốn tỏ lòng thành như Minh Tông nhà Hậu đường, thường thắp hương khấn trời : Xin trời vì nước Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà, để khỏi bị người phương Bắc cướp vét”. Vì vậy, phàm bất kể nhân vật thuộc gốc tích thế nào mà có ý tưởng và hành động đem lại độc lập cho nước Việt đều được nhà nước Lý, Trần và các sử gia tôn vinh. Đó là lý do tại sao Kỷ Nhà Triệu và Kỷ Sĩ Vương đã tồn tại suốt trong chính sử phong kiến Việt Nam. Việc “Bình Ngô Đại cáo” do Nguyễn Trãi soạn đã tuyên nhà Triệu lên mở đầu cho chuỗi triều đại độc lập của Việt Nam (“Trải qua Triệu, Đinh, Lê, Lý, Trần…”) cũng nằm trong hệ tư tưởng chung đó. Có thể nói, Lê Văn Hưu là người đã thiết lập nền nếp đó, khi ông nhận xét về Triệu Đà :” Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là “lão phu”, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân tâm, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương bắc không thể lại ngấp nghé được”.

Tuy nhiên, nếu chúng ta so sánh kỹ về kỷ nhà Triệu trong Đại Việt sử ký toàn thư và Việt Sử lược ta thấy Việt Sử lược chỉ tính nhà Triệu có 74 năm thôi chứ không phải 93 năm như Toàn thư. Do đâu mà có sự sai khác đó ? Đó là tác giả Việt Sử lược chỉ tính thời gian nhà Triệu từ khi sát nhập Âu Lạc vào Nam Việt mà thôi, trong khi Toàn thư tính toàn bộ thời gian tồn tại của Nam Việt.

Triệu Đà và nước Nam Việt bắt đầu bị phê phán để đưa ra khỏi chính sử Việt Nam từ Ngô Thì Sĩ khi ông viết Việt sử Tiêu án dưới thời Tây Sơn cuối thế kỷ 18. Đây là thời kỳ dân tộc ta vừa trải những biến động xã hội lớn, trong đó xuất hiện những tư tưởng chống xâm lược, phục hưng dân tộc phi thường của Quang Trung Nguyễn Huệ đồng thời xuất hiện tư tưởng bán nước, cõng rắn cắn gà nhà của Gia Long Nguyễn Ánh và Lê Chiêu Thống. Trong hoàn cảnh đó xuất hiện ý thức bài ngoại trong hệ tư tưởng một số sử gia Việt Nam. Với hệ tư tưởng đó, Triệu Đà, Sĩ Nhiếp là những người gốc Hoa Hạ đương nhiên không thể được tôn vinh như trước nữa.

Quốc Sử quán triều Nguyễn sau đó đã tôn trọng quan niệm của những người viết sử thời Trần, Lê về Triệu Đà và Sĩ Nhiếp. Thậm chí, để tôn vinh lại quốc hiệu Việt, triều đình nhà Nguyễn đã Posted Imagetừng tái sử dụng quốc hiệu “Nam Việt” và danh xưng “Hoàng Đế” của Triệu Đà nhằm đối chọi với mưu đồ bành chướng của nhà Thanh. Hai ngôi đền thờ Triệu Đà hiện còn ở Xuân Quan (Văn Giang, Hưng Yên) và Đồng Xâm (Kiến Xương, Thái Bình) đều nhận được sắc phong ca tụng công đức và kinh phí tu sửa của các đời vua Lê, Nguyễn. Đó cũng chính là ý nguyện của những người dân trong vùng.

Trong thời đại chúng ta, Lãnh tụ Hồ Chí Minh khi sử dụng lịch sử như một vũ khí động viên tinh thần yêu nước của nhân dân, đã tiếp thu tư tưởng làm sử truyền thống đó khi Người cũng mở đầu chuỗi các triều đại Việt Nam độc lập bằng nhà Triệu . Cho đến ngày hôm nay, không phải mọi nhà sử học đều có cùng quan điểm đánh giá tích cực về Triệu Đà và nước Nam Việt, trong đó tiêu biểu nhất là ý kiến có phần cực đoan của ông Lê Mạnh Thát trong tác phẩm : “Lục độ tập kinh và Lịch sử khởi nguyên dân tộc Việt”.

Một số tư liệu khảo cổ

có liên quan đến Triệu Đà và nước Nam Việt

1- Mộ táng thời Nam Việt ở Quảng Đông, Quảng Tây

Nam Việt tồn tại 93 năm (207 đến 111 trước Công nguyên). Về mặt khảo cổ học chúng ta có một hệ thống mộ táng thuộc thế kỷ 2 trước Công nguyên ở Quảng Đông, Quảng Tây làm chuẩn so sánh cho khái niệm khảo cổ học Nam Việt. Tiêu biểu nhất là mộ Nam Việt Văn Đế Triệu Muội Quảng Châu, Quảng Đông, mộ một viên quan thuộc hàng huyện lệnh ở La Bạc Loan, Quý Huyện, Quảng Tây và hệ thống mộ Quảng Châu, Hợp Phố được xếp vào niên đại Tây Hán sớm. Thoạt đầu, các nhà khảo cổ học Trung Quốc xếp các mộ này vào văn hoá Tây Hán nói chung. Nhưng càng ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng như quốc tế ưa dùng thuật ngữ Nam Việt hay Giao Chỉ để hàm chỉ sự khác biệt mang tính địa phương của văn hoá khảo cổ dưới tác động của nước Nam Việt tương tự như hiện tượng nền văn hoá vào thời Tây Hán nhưng rất khác Hán ở Vân Nam (văn hoá Điền). Nền tảng của nền văn hoá này là văn hoá đồng thau Bách Việt, trong đó yếu tố Đông Sơn khá đậm nét.

Như phần trên đã nói, trước khi đoàn quân Tần nam chinh Bách Việt vào cuối thế kỷ 3 trước Công nguyên, do những biến động chính trị ở lưu vực sông Hoàng Hà, Dương Tử, nhiều quý tộc, thương nhân và bại tướng người Sở, Ngô, Việt (Câu Tiễn) đã di chuyển xuống phía nam hoà nhập với các nhóm Bạch Việt còn lại ở Hoa Nam. Họ có thể là những người gốc Hoa Hạ hoặc là người Bách Việt đã Hoa Hạ hoá trong quá trình dăm bảy trăn năm gia nhập khối chư hầu của nhà Chu, từ thời Xuân Thu qua Chiến Quốc. Sự tham gia của làn sóng này thể hiện ở ba hướng : A - Hướng qua Tứ Xuyên đi vào tây nam đến khu vực Điền Trì mang nặng màu sắc văn hoá Sở. B- Hướng qua Tứ Xuyên, Quế Châu đi vào tây nam Ngũ Lĩnh (Quảng Tây, huyện Văn Sơn thuộc Vân Nam) nơi đầu nguồn của các dòng sông chính đi về phía Đông vào Quảng Đông – sông Tây Giang và vào Việt Nam, sông Hồng, Lô, Chảy. C- Hướng ven biển, từ vùng nước Việt cũ của Câu Tiễn, cửa sông Trường Giang, lưu vực sông Hoài, xuống Đông Âu (Triết Giang), Mân Việt (Phúc Kiến) và Lạc Việt ở Quảng Đông (Trung Quốc), Quảng Ninh (Việt Nam), đồng bằng ven biển Việt Nam. Chính làn sóng này đã tham gia làm biến đổi màu sắc các nền văn hoá khảo cổ bản địa ở khu vực này, nền tảng cho sự ra đời một loạt tiểu quốc mang màu sắc chế độ thủ lĩnh phương nam, như Điền, Dạ Lang, Tây Âu, Nam Việt, Đông Âu, Mân Việt, Lạc Việt. Ngoài những yếu tố rất chung của Trung Nguyên, mỗi hướng mang theo tính địa phương của mình hoà nhập vào những nhóm Bách Việt phương nam lớn bị chia cắt nhiều bởi địa hình sông núi phương nam.

Văn hoá Nam Việt thoạt đầu chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hàng vạn quân tướng người Hoa Hạ nước Tần đồn trú, đặc biệt ở các khu vực quận huyện (Phiên Ngung, Hợp Phố, Quý Châu). Sau khi Nhà Hán thành lập, chỉ trừ không đày 5 năm dưới thời Lữ Hậu cấm giao thương, nền văn hoá Nam Việt có quan hệ trao đổi mạnh với Trung Nguyên thông qua Trường Sa (Hồ Nam). Posted ImageĐiều đó giải thích tồn tại nhiều dấu ấn văn hoá Tây Hán trong bộ di vật Nam Việt bên cạnh những đồ Đông Sơn bản địa và đồ đã từng ảnh hưởng Hoa Hạ thời Chiến Quốc. Việc so sánh với các ngôi mộ cùng thời ở Trường Sa, như mộ Mã Vương Đôi, mộ Vương Quang sẽ giúp thấy tính khác biệt của bộ đồ Nam Việt chính là ở khối lượng đồ gốm và đồ đồng phong cách Đông Sơn, Nam Hải.

2- Mộ táng niên đại tương đương Nam Việt phát hiện trên lãnh thổ Việt Nam

Những mộ Đông Sơn chôn trong quan tài thân cây khoét rỗng tìm được phổ biến ở dồng bằng miền bắc nước ta sẽ cho chúng ta những tư liệu so sánh tốt nhất với những biến đổi văn hoá nói ở phần trên. Ngôi mộ sớm nhất thuộc loại này vẫn là mộ số 1 ở Việt Khê. Niên đại hợp lý cho mộ này là khoảng thế kỷ 3-4 trước Công nguyên, tức thuộc niên đại Chiến Quốc, thời điểm trước khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc và cử đoàn quân nam chinh Bách Việt. Nhóm mộ cùng loại ở Châu Can (Hà Tây) cũng nằm ở khung niên đại này. Họ là những người sử dụng gốm Đường Cồ thuần tuý. Công cụ, vũ khí bằng đồng mang đậm nét phong cách Đông Sơn. Đồ gỗ sơn then xuất hiện sớm, mới chỉ dừng ở đồ uống (nhĩ bôi), đĩa, khay, cán giáo. Đồ đựng đồng ảnh hưởng kiểu dáng phương bắc nhưng được chế bằng nghệ thuật đúc và trang trí Đông Sơn.

Mộ Nam Việt muộn hơn. Nhờ so sánh với đồ tuỳ táng trong mộ La Bạc Loan và mộ Nam Việt Văn Đế Triệu Muội chúng ta có thể nhận ra niên đại và tính chất Nam Việt trong bộ đồ tuỳ táng chủ nhân mộ thân cây khoét rỗng ở Kiệt Thượng thuộc Chí Linh (Hải Dương) và loạt mộ cùng loại khai đào ở vùng trũng dọc sông Đáy thuộc hai huyện Phú Xuyên, Ứng Hoà (Hà Tây). Đồ đựng dùng trong ăn uống tiêu biểu là đĩa có vành dạng chậu, quai hổ phù, vật rót rượu dạng “Di”, các nạo đồng mỏng đi cùng bộ đồ Đông Sơn điển hình.

Hà Nội, 30.5.2008

Nguyễn Việt

Thạp đồng Đông Sơn của huyện lệnh Long Xoang (Xuyên) Triệu Đà [10/26/2008]

Có thể phát hiện chiếc thạp đồng Đông Sơn của Triệu Đà (with english abstract)

Nguyễn Việt

Chúng tôi đã theo đuổi chiếc thạp đẹp này từ gần chục năm nay. Người sưu tầm được chúng là bà Phạm Lan Hương, một nhà sưu tầm Việt kiều Pháp. Hiện tại chiếc thạp thuộc về Bảo tàng Barbier-Mueller (Geneva - Thuỵ Sĩ). Tôi được bà Mattet, Giám đốc Bảo tàng này mời sang thăm Bảo tàng năm 2001 và hân hạnh được ông Jean-Paul Barbier-Mueller, một nhà nhân học đồng thời là chủ nhân Bảo tàng trực tiếp giới thiệu sưu tập thạp đồng quý giá của ông. Xin mở ngoặc để giới thiệu, chính ông cũng là người đã sưu tầm chiếc trống Đông Sơn vào loại lớn nhất (đường kính mặt 158 cm) tại Indonesia và khi Bảo tàng Nhân học ở Quai Brandy (Paris) thành lập, ông đã tặng nó cho Bảo tàng này, và hiện nó được trưng bầy ở vị trí trang trọng nhất mở đầu cho phần trưng bày về Đông Nam Á.

Posted ImageChiếc thạp tôi muốn nói tới mang ký hiệu BMM-2505-29, cao 42cm, nặng 11,500 kg (không kể phần nắp đã mất), thuộc loại thạp có vành gờ miệng đạy nắp đồng. Thạp có đôi quai hình chữ U ngược trang trí bện thừng và hoa văn nổi hình chữ S rất tinh tế. Ở giữa mỗi quai hình chữ U ngược là một quai vành khuyên bốn ngấn. Cụm quai này tạo bởi khuôn rời nên đã làm hỏng phần băng hoa văn phức hợp gồm hai băng chấm rải, hai băng răng cưa bạc lấy đồ án chính là băng hình chữ S nằm biến thể thành dạng ô trám.

Chính giữa thân thạp là băng gồm 4 hình thuyền chiến với kiểu tạo hoa văn in chìm rất giống thạp Hợp Minh (Yên Bái) và mộ Việt Vương (Văn Đế Triệu Muội) ở Quảng Châu. Đây là những thuyền chiến chở chiến binh mang rìu chiến kiểu gót hài, có lầu với người đứng bắn cung nỏ ở trên và đồ đồng lớn bên dưới, có trống trụ ở giữa thuyền, nơi thường trói một tù binh quay mặt ngược với chiến binh. Điều đáng nói nhất là sự thể hiện rất rõ nét hình tượng tù binh bị trói gập cánh khuỷu và chiến binh Đông Sơn tay cầm đầu lâu cũng như đầu lâu treo trước mũi thuyền – cái mà một số nhà nghiên cứu đã từng lầm tưởng là mái chèo mũi thuyền trên một số trống đồng.

Gần sát đáy là băng phức hợp được tạo bởi năm băng gồm hai chấm rải, hai vòng tròn tiếp tuyến có chấm giữa bọc lấy băng rộng trơn không có hình.

Posted ImageGiá trị nhất của chiếc thạp còn là một dòng gồm 22 chữ Hán chạy song song ở phần trống gần sát gờ miệng. Chính đây là cơ sở để chúng tôi nêu giả thuyết về chủ nhân chiếc thạp có thể là Triệu Đà. Tôi đã từng công bố và dịch những dòng chữ này[1], tuy nhiên chữ thứ hai trong số 22 chữ này vẫn còn để trống. Gần đây, trong khi tiếp tục theo đuổi giải nghĩa chữ này, tôi đã nhận thấy tự dạng chữ này khá gần với chữ „Xoang“, và hai chữ đầu chỉ địa danh của 22 chữ trên miệng thạp có thể đọc là „Long Xoang“.

龍 xoang / 重 六 (衡) / 名 曰 果 / 第 未 五 十 二 / 容 一 廿 一 斗 七 升 半 升

Dưới đây tôi trình bày một số cơ sở làm chỗ dựa cho việc dự đoán mối quan hệ giữa chiếc thạp này với Triệu Đà. -Thứ nhất là sự gần gũi giữa chiếc thạp này với chiếc thạp trong mộ Việt vương Văn đế Triệu Muội ở Quảng Châu. Triệu Muội là cháu ruột Triệu Đà, lên ngôi khi Triệu Đà mất năm 138 tr.Cn. Triệu Muội mất vào năm 122 tr.Cn. Vì lý do nào đó, hai tai quai hình chữ U lộn ngược của thạp Triệu Muội bị cắt cụt một nửa đều nhau[2]. Về kích thước, trang trí và cấu trúc có thể thấy hai thạp này như hai anh em sinh đôi (cao 42cm và 41 cm). Sự giống nhau ở cả những chi tiết cấu trúc các vành hoa văn và nhất là ở nội dung và kiểu thể hiện băng thuyền người ở giữa thân thạp. Khác biệt chỉ là tiểu tiết. Sự giống nhau này cho phép nghĩ rằng chúng được làm ra từ hai khuôn đúc khác nhau nhưng cùng một lúc trong cùng một xưởng bởi cùng một người thợ cả.

-Thứ hai, chữ Long Xoang trên thạp BMM-2505-29có thể là cách ghi âm của huyện Long Xuyên, nơi Triệu Đà làm huyện lệnh trước khi thay Nhâm Ngao làm Hiệu Uý quản Nam Hải rồi lập nước Nam Việt. Nhiều khả năng chiếc thạp này (cũng như thạp Triệu Muội) được đúc trong những năm đầu khi Triệu Đà mới cùng quân Tần xuống cai quản vùng huyện Long Xuyên quận Nam Hải (trong khoảng từ 214 tr.Cn, khi nhà Tần bình xong Dương Việt đến 209 tr.Cn, khi Triệu Đà rời Long Xuyên về Phiên Ngung thay Nhâm Ngao). Khoảng thời gian này Triệu Đà là người Hoa Hạ vừa mới xuống vùng Bách Việt nên mới có dòng chữ :“Danh Viết Quả“ ( 名 曰 果 ). – Tên (thạp) gọi là Quả nhằm ghi tiếng địa phương dùng để gọi chiếc thạp.Chiếc thạp trong mộ Triệu Muội có thể là do Triệu Đà ban tặng.

-Đơn vị đo lường thạch, thăng, đấu ... trên thạp BMM 2505-29 hoàn toàn giống đơn vị đo lường Nam Việt thể hiện trên minh văn trong mộ La Bạc Loan[3] và mộ Nam Việt Vương Triệu Muội. -Chủ nhân chiếc thạp BMM 2505-29 phải là người rất giàu có. Chiếc thạp này có dòng ghi số hiệu :“Đệ vị ngũ thập nhị“( 第 未 五 十 二 ), tức là đồ vật đứng thứ 52. Cách ghi này tương tự cách thống kê đồ vật tuỳ táng trong mộ một huyện lệnh người Hán khác đương thời ở Quý Huyện – La Bạc Loan và mộ Nam Việt Văn Đế Triệu Muội.

-Triệu Đà và quan lại người Hán ở nước Nam Việt chịu rất nhiều ảnh hưởng của văn hoá Việt. Bản thân ông lấy vợ người Việt (hiện có đền thờ phu nhân người Việt của Triệu Vũ Đế ở Đồng Xâm, Kiến Xương, Thái Bình). Các con, cháu, chắt của ông cũng đa phần lấy vợ người Việt. Trống đồng, thạp đồng là những báu vật Đông Sơn được chôn theo trong mộ vua quan nước Nam Việt. Có một vấn đề đặt ra là nơi phát hiện chiếc thạp này. Theo bà Phạm Lan Hương, chiếc thạp được bà sưu tầm có nguồn gốc Thanh Hoá. Ở Thanh Hoá hiện mới có một chiếc thạp cùng cỡ và cũng có hoa văn thuyền người phát hiện được ở Xuân Lập. Chúng ta chưa rõ Triệu Đà khi mất chôn ở đâu. Hiện tại mới biết hai nơi thờ vị hoàng đế Nam Việt đầu tiên này trên đất nước ta : Long Hưng Điện (Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên) và Đồng Xâm (Kiến Xương, Thái Bình). Khu vực phát hiện những chiếc thạp lớn có trang trí đẹp cùng thời hai chiếc thạp kể trên là vùng trung lưu Hồng Hà, từ Việt Trì đến Lào Cai (Vạn Thắng, Đào Thịnh, Hợp Minh, Lào Cai). Chúng tôi ngờ rằng chiếc thạp BMM 2505-29 có thể khai quật được ở vùng các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn... là nơi nằm trong phạm vi ảnh hưởng trực tiếp của nước Nam Việt sau khi Triệu Đà thu phục được Âu Lạc, sau một hồi lưu lạc đã đến tay những người sưu tầm cổ vật xứ Thanh rồi từ đó đến tay nhà sưu tâm Việt kiều họ Phạm. Vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã sau khi thuộc Nam Việt do ở xa đã được Triệu Đà giao cho hai viên quan đại sứ cai quản. Hai viên quan này đã đầu hàng nộp hộ khẩu hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân cho Phục Ba đại tướng quân nhà Tây Hán Lộ Bác Đức vào năm 111 tr.Cn, khi nhà Tây Hán thôn tính Nam Việt (Hậu Hán thư). Vì vậy ít có khả năng mộ Triệu Đà chôn cất ở Giao Chỉ, Cửu Chân. Phối hợp với những người sưu tầm cổ vật chúng ta có hy vọng lần tìm ra nơi đã phát hiện ra chiếc thạp này, từ đó lần tìm mối liên hệ với chủ nhân của nó mà như đã trình bày ở trên có nhiều khả năng là của Triệu Đà.

Hình minh hoạ :

1- Thạp đồng BMM 2505 – 29 và chi tiết trang chí 2- Thạp đồng B59 trong mộ Nam Việt Vương Triệu Muội (Hồ) và chi tiết trang trí

3- Những chữ khắc trên thạp đồng BMM 2505-29<br clear="all">

English Abstract

This bronze situlae belongs to the Barbier-Mueller Museum in Geneva (Swissland) and cares registered number BMM 2505-29. It’s seemly the twin sister of one, which was discovered from Nanyue King Zhao Mei in Kwangzhou under registed number B59. As reported, the bronze situlae of Nanyue King B59 is ca 40cm high. The Geneva situlae BMM 2505-29 is one centimeter higher (ca 41 cm). Both have so similar decorative bande on the body part that they muss be made by same metallurgic master.

The dicided evidence to hypothese that the situlae BMM 2505-29 might belong to Zhao Dou is 22 chinese letters carved on the margin of situlae’s rim. These letter are carved directly on the outside of situlae wall after complet casting. They look like as ones carved on many Nanyue bronze objects, which man found in Lobouwan and Nanyue King’s tombes. That mean the letter aren’t in quatrangle but much longer uniform. The carving isn’t professional. Because that occures many dictional erros. However, the formula of letter containe is same as comtemporary carved bronze containing objects. Thank such formula, the bad carved or loss letters could be identified. The translation and explaination of these letter are published by the author in vietnamese journal Khao Co Hoc (Archaeology), vol. 5-2007. They could be read as following : “ 龍 xoang / 重 六 (衡) / 名 曰 果 / 第 未 五 十 二 / 容 一 廿 一 斗 七 升 半 升“

The second letter could be read XOANG. It might be change for XUYEN of Long Xuyen, district name, where Zhao Dou reigned in first years after Chin’s conqueration in Nan Hai (214 – 208 BC).

The owner of this sitular muss be very rich man. The sitular stand in the rang “wei” of 52th nummeration ( 第 未 五 十 二 ). The owner might be foreigner of Yue tribes. It is evidenced by carved letters :” the situlae is called as Quo” ( 名 曰 果 ). Every weights and measures of this situlae are similar to Nanyue collected from inscriftions of Lobouwan and Nanyue King funeral objects.

The situlae BMM 2505-29 is collected in non-archaeological context from Vietnam. It’s studied and laboratorialy analysed very details. I believe that it related to Nanyue first King Zhao Dou, who had a clear trend basing on Yue tribes again to Han. He maried Yue ladies, sent his son (Thuy) to marie with Au Lac King’s prinsess (My Chau). The last generations of Nanyue Kings maried also with Yue ladies. The King Zhao Mei and the Nanyue mandarin of Lobouwan brough Dongsonian bronze drums and situlaes with to underworld. The situlae B59 might be the gift, which Zhao Dou sent to his grand-son Zhao Mei.

Acknowledge

Dr. Jean-Paul Barbier, the owner and Dr. Mattet, the director of the Barbier-Mueller Museum in Geneva let me to visit and to study this situlae. They help me to publish my paper about Dongsonian situlae in their Museum Journal "Art&Culture". Hereby I would thank deeply them.

[1] Nguyễn Việt, 2006, The Dongsonian Situlas, trong Arts and Cultures, Geneva . Nguyễn Việt, 2007, Minh văn trên đồ đồng Đông Sơn, trong Khảo cổ học, 5-2007. [2] Tây Hán Nam Việt Vương mộ, NXB Văn Vật, Bắc Kinh, 1991.

[3] Quảng Tây Quý Huyện La Bạc Loan Tây Hán Mộ, NXB Văn Vật, Bắc Kinh, 1984

Âu Lạc và Giao Chỉ - một số vấn đề ngữ âm học lịch sử [10/20/2008]

„Âu Lạc“, „Giao Chỉ“ - Một số vấn đề từ ngữ âm học lịch sử

Nguyễn Việt

Văn tự Hoa Hạ được xem xét hệ thống từ văn giáp cốt ( khắc chữ trên xương) đời Ân Thương. Trước đó, trên gốm màu thời đại đá mới Ngưỡng Thiều đã xuất hiện khá nhiều ký tự được coi như một trong những cội nguồn sâu xa của chữ Trung Quốc sau này. Tuy nhiên chúng tôi không xếp những ký tự đó vào hệ thống văn tự Hoa Hạ. Hệ thống văn tự Hoa Hạ phát triển dưới nhu cầu mở rộng giao lưu chính trị, xã hội của nhà nước sớm Trung Hoa mà khởi đỉnh có thể nói là thời kỳ Ân Thương. Tiếp sau giáp cốt, hệ thống văn tự này được phát triển dưới dạng minh văn ( văn khắc trên đồ đồng, đồ đá, gốm ). Minh văn đời Chu được coi như là đỉnh cao phát triển hệ thống văn tự Hoa Hạ. Chính trong khoảng này, minh văn Hoa Hạ lan xuống vùng văn hoá phía nam, thuộc lưu vực sông Trường Giang và đặc biệt phát triển trong thời Chiến Quốc. Lúc này, ngoài minh văn người ta còn phát hiện kiểu viết văn tự Hoa Hạ trên lụa, trên thẻ tre, gỗ và in trên gạch xây mộ.

Tuyến phát triển văn tự Hoa Hạ từ giáp cốt đến minh văn rồi đến cách viết trên lụa, tre, gỗ và sau cùng là trên giấy được coi như tuyến phát triển văn tự chủ đạo và chính thống ở toàn vùng Đông Á. Không loại trừ, trong quá trình phát triển xã hội dạng tiền nhà nước và nhà nước, nhiều tiểu quốc khác ở xung quanh văn minh Hoa Hạ đã hình thành văn tự riêng của mình. Trong quá trình hòa nhập, phát triển, ngôn ngữ văn tự Hoa Hạ đã được làm phong phú thêm ở các hệ thống phương ngữ, phương tự đó. Các nhà nghiên cứu cổ Hán tự đã chỉ ra nhiều ví dụ điển hình như vậy, như trường hợp chữ Giang (sông), Đạo (lúa gạo), Nỗ (nỏ)...khi ngôn ngữ này lan toả xuống phương Nam. Cũng tương tự như vậy, người ta cũng tìm thấy những phát triển và biến đổi ngôn ngữ Hoa Hạ khi nó lan sang phía Đông (Di), đọng lại trong Hán tự cổ của ngôn ngữ Triều Tiên, Nhật Bản, hay lên phía Bắc (Hồ) với ngôn ngữ của người Mông Cổ và phía Tây (Khương) với ngôn ngữ Tây Tạng, phía Nam (Việt) với ngôn ngữ các nhóm trong Bách Việt cổ đại.

Cụm từ „Âu Lạc“ mà chúng ta sẽ thảo luận dưới đây được tiếp nhận chính từ các thư tịch cổ Trung Hoa, được ghi lại bằng văn tự Hán khi văn tự này lan toả xuống phương Nam (Bách Việt). Trong bài viết này, việc phân tích lịch sử và ngữ nghĩa của tên gọi „Âu Lạc“ sẽ đi theo tuyến phục dựng so sánh ngôn ngữ học lịch sử.

1- Chữ „Âu“ trong Âu Lạc 甌 駱

Từ „Âu“ 甌 bắt đầu xuất hiện sớm nhất trong thư tịch Trung Quốc từ thời Chiến Quốc, Tần - Hán, tức là khi ảnh hưởng của ngôn ngữ và văn tự Hoa Hạ đã bắt đầu phổ biến ở vùng Giang Thuỷ (Trường Giang, Dương Tử ) . Chính sự tham gia vào chính trị Trung Nguyên dưới dạng tiểu quốc (liệt quốc) của Chu thiên tử đã đưa các tiểu quốc Trường Giang, trong đó tiêu biểu nhất là Sở, Ngô, Việt hoà nhập vào thế giới ngôn ngữ văn tự Hoa Hạ. Khi đã ổn định thành một thế lực chính trị dưới dạng chư hầu nhà Chu, tầng lớp trí thức của văn hoá Sở, Ngô, Việt bắt đầu sử dụng Hán tự đề ghi chép mô tả về các hiện tượng địa lý tộc người ở phía nam. Âu Việt, Mân Việt và sau đó Lạc Việt là ba cụm từ xuất hiện vào loại sớm nhất trong khái niệm Bách Việt để chỉ những nhóm Việt chưa tham gia vào chính trị Trung Nguyên và để phân biệt với nhóm Việt đã lập quốc của Việt Vương Câu Tiễn. Theo chỉ dẫn của giáo sư Hidenori Okamura ở Đại học Kyoto, một trong những chuyên gia Nhật Bản hàng đầu trong nghiên cứu cổ Hán tự, thì người ta bắt đầu ghi nhận sự phổ biển của từ này trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, người sống ở Trung Quốc trong thế kỷ 2 trước Công nguyên. Chữ Âu xuất hiện trong sách của ông tồn tại dưới dạng địa danh : Đông Âu, Tây Âu, Tây Âu Lạc và Âu Lạc . Chữ Âu được thể hiện bằng hai phần, bên trái là bộ Khu ( Ou ) trong nghĩa „Khu Vực“ và bên phải thể hiện nghĩa bộ Ngoã ( Oa ) với ngữ nghĩa một đồ đất nung có thể che đậy (ngói) hoặc chứa đựng....

Trong các sách công cụ giải thích văn tự Hán cổ ( Nhĩ Nhã, Từ Nguyên, Từ Hải...), chữ Âu như vậy bao hàm nghĩa một đồ đựng tương tự như cách chúng ta hiện vẫn dùng : âu đựng cơm canh. Chữ „Kim Âu“ đôi khi xuất hiện trong sách sử, cũng vì thế còn được hiểu theo nghĩa đen là „âu đựng làm bằng vàng“ và nghĩa bóng là „ biểu tượng sự toàn vẹn và vững chắc của lãnh thổ một nước“ .

Khi đi sâu nghiên cứu địa danh và ngôn ngữ cổ nước ta thời dựng nước, tôi đã để ý đến hai cụm từ mà Tư Mã Thiên ở những chỗ khác nhau đã sử dụng. Đó là Đông Âu, địa danh và cũng là tộc người trong nhóm Bách Việt tồn tại trong thời Chiến Quốc ở vùng nam Triết Giang, bắc Phúc Kiến hiện nay và Tây Âu, địa danh, cũng là tên tộc người ở vùng Quảng Tây. Nhờ có sự phân biệt Đông, Tây (Âu) mà ta có thể nhận ra từ Âu cũng là từ chỉ địa danh, địa vực (làng xóm, sông hồ, núi non, tộc người...). Đông Âu dịnh hình từ Chiến Quốc và tham dự sớm hơn vào chính trị Trung Nguyên. Khi nhà Tần thống lĩnh Trung Quốc, cũng như Nam Hải, đất Đông Âu và đất Mân cũng đã thành quận huyện của đế quốc Tần, nhưng Tây Âu thì chưa. Sang đời Tây Hán, dưới thời Cao Tổ, Lữ Hậu, đất Đông Âu còn tương đối tự trị, có Đông Âu vương cai quản tương tự như tình trạng và tước phong của Nam Việt vương Triệu Đà. Đến năm 138 trước Công nguyên, Đông Âu mới thuộc Hán. Trong một chiếu thư của Triệu Đà viết gửi Hán Vũ đế, cũng được chép trong Sử Ký, thì Đông Âu, Mân Việt trùng với Đông Việt, thuộc phạm vi Phúc Kiến, Giang Tô, được mô tả là phía Đông của nước Nam Việt và Tây Âu ở phía Tây của Nam Việt ( thủ phủ Nam Việt là Phiên Ngung, tức Quảng Châu hiện nay) . Trên bản đồ, khoảng ở giữa Tây Âu và Đông Âu chính là hệ núi Ngũ Lĩnh. Nam Việt là quốc gia vốn xuất phát điểm từ quận Nam Hải, nơi Nhâm Ngao và Triệu Đà làm quan nhà Tần, sau đó mở rộng lên cả bắc Ngũ Lĩnh, thậm chí đến tận giáp Trường Sa. Dãy núi Ngũ Lĩnh vì thế có thể hiểu là „Âu“. Cư dân Việt sống ở vùng Ngũ Lĩnh được người Hoa Hạ đời Chiến Quốc gọi là Âu Việt. Người Việt ở về phía đông (thực ra là đông bắc) của Ngũ Lĩnh được gọi là Đông Âu (địa danh Đông Âu đời Tần chính là trấn thành Ôn Châu từ đời Tuỳ đến đời Thanh). Người Việt sống ở phía Tây (thực ra là Tây Nam) Ngũ Lĩnh được gọi là Tây Âu.

Từ những dự kiện lịch sử trên tôi cho rằng Âu là một từ cổ bản địa được dùng để ám chỉ khối núi Ngũ Lĩnh nằm giữa vùng cư trú của người Việt. Âu Việt là chỉ nhóm Việt sống quanh vùng Ngũ Lĩnh, trước hết là chỉ nhóm Việt sống ở vùng bắc và đông bắc Ngũ Lĩnh – tức là nhóm Âu Việt tiếp xúc sớm nhất với văn hoá Hoa Hạ. Khi văn hoá Hoa Hạ đặt được cơ tầng chính trị của mình ở phía nam Ngũ Lĩnh vào đời Tần thì mới xuất hiện khái niệm và thuật từ Tây Âu, chỉ nhóm Âu Việt ở phía tây nam Ngũ Lĩnh. Chúng ta cũng có thể gặp dạng chữ mang ý nghĩa tương tự tình trạng Đông Tây Âu như Đông Lĩnh - Tây Lĩnh, Đông Cương - Tây Cương, Đông Sơn - Tây Sơn... sau này. Hướng suy đoán của chúng tôi cho rằng : „Âu“ (Ou ) thuộc ngôn ngữ cổ phương nam, hàm nghĩa một vùng núi cao. Suy đoán này có chút cơ sở, khi mà sau này chúng ta bắt gặp từ Âu Cơ - người đàn bà vùng núi , một thành phần hợp thành của Âu Lạc - nguồn cội thần thoại của người Việt Nam ta hiện nay.

Trong một nghiên cứu gần đây (13.7.2005) được giới thiệu trên trang Web „China History Forum“ (chinahistoryforum.com), Trương Thái Du (Zhang Taiyou) đã gợi ý giải thích ngữ âm chữ Âu với nghĩa cổ của từ „U“ trong tiếng Việt – gò cao, u biếu, ụ đất, sau đó trở thành hàm nghĩa vú của người phụ nữ , u già, thày u...- người mẹ. Kiểu vận hành ngôn ngữ này giống như cách người Việt Mường gọi mấm – vú, măm - trẻ em bú tý, mớm – cho trẻ em ăn, bầm - mẹ, chăm bẵm – nuôi trẻ...Gợi ý này cần được các chuyên gia ngữ âm học lịch sử kiểm chứng thêm. Trong phạm vi logic mà chúng tôi đang theo đuổi thì có thể xác nhận phần nào tính hợp lý của gợi ý đó. Chữ Âu bao hàm cả nghĩa nổi cao lẫn nghĩa người mẹ. Âu Cơ trở thành Người mẹ ở vùng núi, ở phía Tây. Khu vực địa lý từ Triết Giang, Phúc Kiến trở xuống nước ta mới có hiện tượng rõ ràng núi ở phía tây và biển ở phía đông. Quan niệm gắn phía tây với núi ( mặt trời khuất núi) có vẻ là một quan niệm phương nam. Chữ Âu trong ngôn ngữ Hán sau này cũng hàm chỉ vùng núi phía Tây, như trường hợp Âu Dương Phong – Tây độc. Hình tượng Âu Cơ – Lạc Long Quân rất liên quan đến quan niệm Tây Vương Mẫu – Đông Vương Phụ phổ biến vào thời Đông Hán, đặc biệt trong phạm vi văn hoá Ngô Việt. Chữ Âu, từ nghĩa đen chỉ hiện tượng nhô cao được dùng để gọi những vùng núi – như hiện tượng Ngũ Lĩnh. Trong nghĩa „Kim Âu“ chính chữ Âu ám chỉ một khối Núi hàm nghĩa Đất Nước tương tự cách dùng „vững như núi Thái Sơn“, „vững như bàn thạch“. Kim Âu vì vậy có thể hiểu là Đất nước yêu quý (như vàng).

2- Chữ „Lạc“ trong“ Âu Lạc“ 甌 駱

Trong khung cảnh nghiên cứu về ngữ nghĩa Lạc Việt, Âu Lạc thì chữ „Lạc“ được giải thích hợp lý nhất cho đến nay, theo chúng tôi, vẫn là của Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc . Theo đó Lạc là ghi âm bằng chữ Hán của âm Rặc, Rạc, Đắc, Đác, Nác, Lác đều chỉ nước, sông...thuộc ngôn ngữ cổ Việt Mường, Nam Á, Môn – Khơ me. Chữ Lạc có khá sớm và khá đa dạng trong ngôn ngữ Hoa Hạ và Hán tự. Nó trở thành một từ khá nổi tiếng đương thời khi mà Lạc Thuỷ, tên nhánh sông quan trọng ở trung lưu Hoàng Hà, tham gia vào các sự kiện chính trị quân sự Trung Nguyên thời Chu (Xuân Thu), rồi Lạc Dương một thời gian dài trở thành thủ phủ của Đế quốc Đông Hán. Đã có rất nhiều thảo luận xoay quanh chữ Lạc khi mà sử sách ghi chép về thời cổ đại Việt Nam luôn gắn với từ này. Thoạt đầu, chữ Lạc trong Lạc Thuỷ gồm bộ ghi âm là „các“ và bộ ghi nghĩa là „thuỷ“. Đến khi nhà Đông Hán chọn Lạc Dương làm kinh đô thì chữ „Lạc“ sử dụng bộ „các“ ghi âm nhưng lại dùng bộ „duy“ để ghi nghĩa. Sang thời Tam Quốc, khi Tào Tháo dùng Lạc Dương làm thủ phủ của nước Nguỵ thì chữ „Lạc“ lại xuất hiện trở lại với nghĩa bộ „thuỷ“ . Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên chúng tôi đặc biệt chú ý đến cách ghi chữ Lạc gắn với Âu Lạc. Chưa thấy trường hợp nào Tư Mã Thiên viết chữ Lạc Việt độc lập. Tuy nhiên „Lạc Việt“ lại là một vùng tộc danh hàm chỉ về phía đông nam ven biển xa xăm được biết đến từ thời Chiến Quốc . Tư Mã Thiên đã dùng chữ Lạc (Việt) trong cụm từ Tây Âu Lạc, Âu Lạc tới ba lần trong phần Nam Việt Uý đà Liệt truyện. Chữ „Lạc“ này vẫn giữ âm chữ „các“ nhưng dùng bộ „mã“ ghi nghĩa. Trong một chuyên khảo của Hoa Bằng ông đã chỉ ra thêm cách viết chữ „Lạc“ trong „Lạc Việt“, „Lạc Hầu“, „Lạc Tướng“ của sách Giao Châu ngoại vực, Thuỷ Kinh chú... đều dùng bộ „trãi“ thay bộ „mã“. Sự phong phú của cách ghi hình chữ „Lạc“ trong „Lạc Việt“ thường phản ánh đó là lối dùng chữ ghi âm hơn là ghi nghĩa. Chữ „Lạc“ đã được dùng để ghi âm NƯỚC trong ngôn ngữ cổ Việt Mường.

Dõi theo cách ghi chép của Tư Mã Thiên và các sách khác muộn hơn vài ba thế kỷ, ta có thể hiểu rằng song song tồn tại với nước Nam Việt của Triệu Đà giai đoạn đầu (thời Tần) là Tây Âu và Đông Âu, sau đó xuất hiện Tây Âu Lạc rồi Âu Lạc. Điều này phản ánh tiến trình lịch sử : Tây Âu sau đó đã hoà nhập với Lạc Việt để tạo ra Tây Âu Lạc hay Âu Lạc của Thục Phán An Dương Vương. Trong quá trình phát triển sau đó, nước Nam Việt của Triệu Đà đã bao gồm cả Âu Lạc sau năm 179 tr.Cn. Các sách sử sau Tư Mã Thiên mấy thế kỷ như Hán Thư, Hậu Hán Thư, Thuỷ Kinh Chú... đều chép nhiều về người Lạc Việt, như một tộc danh lớn ở vùng ven biển Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Việt Nam, tộc danh này trùng với khái niệm là cư dân bản địa của Giao Chỉ, Giao Châu . Đến tận đời Tống, khi Chu Khứ Phi mô tả về Phương Nam, thì Lạc Việt vẫn là một tộc danh lớn ở Quảng Đông. Xem ra, Lạc trong Lạc Việt rồi Lạc Long Quân gắn với nước rất nhiều. Lạc Việt, người Việt ở vùng sông nước thấp ven biển, Lạc Long Quân là vị vua Rồng Nước. Hình tượng Rồng Nước - Lạc Long được đối hợp sau này với Âu Cơ – chim núi tạo nên thể lưỡng hợp thấp - cao, đất - biển, núi - đồng bằng. Biểu trưng Cha Rồng mẹ Chim (Mẹ tiên trên núi là quan niệm chỉ xuất hiện sau khi đạo Lão phát triển ở Việt Nam từ Thế kỷ 2 sau Cn) được khảo cổ học phát hiện hàng loạt trên các đồ đồng từ thế kỷ 1 tr. Cn đến thế kỷ 2 sau Cn (hình ). Quan niệm Rồng, Phượng tượng trưng cho Vua, Hoàng Hậu có nguồn gốc sâu xa từ đây.

Như vậy, „ Âu Lạc“ là địa danh, tộc danh và cả quốc danh Việt cổ, bao hàm lãnh thổ và cư dân thuộc văn hoá Đông Sơn (trồng lúa nước, dùng trống đồng, rìu xéo...) phân bố ở một phần Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc) và Bắc Việt Nam. Âu Lạc tồn tại thực sự và có lẽ ra đời vào khoảng đầu thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên, là sự phối hợp hoà bình của Tây Âu và Lạc Việt – hai nhóm Việt cổ lớn nhất còn lại trong vùng chưa bị Hán hoá, một ở vùng cao miền núi và một ở vùng thấp ven biển . Sự phối hợp Âu Lạc đó nhằm chống lại sức ép thôn tính của nước Nam Việt láng giềng của Triệu Đà. Biểu tượng thần thoại của Âu Lạc là Rồng Nước ( Lạc Long, Giao Long) và Chim Núi (Âu Cơ). Biểu tượng này được thể hiện vào đời thuộc Hán bằng hình rồng bốn chân và chim công. Trước đó, hình ảnh Đông Sơn kết tụ của hai biểu tượng này chính là loài chim nước phổ biến trên trống đồng (chim Lạc mỏ dài bắt cá).

Trong suốt thời Hán, khái niệm người Lạc Việt luôn trùng với địa danh hành chính Giao Chỉ, Giao Châu.

3- Chữ Giao trong địa danh Giao Chỉ, Giao Châu

Chữ Giao trong văn tự tượng hình Hoa Hạ xuất hiện từ rất sớm, biểu trưng cho hiện tượng tiếp xúc, giao cắt. Truy nguyên chữ Giao, một số nhà nghiên cứu đã có xu hướng giải thích Giao Chỉ, Giao Châu theo hướng đó, tức là chỉ vùng đất có sự giao tiếp giữa nước (biển) và đất do ảnh hưởng của thuỷ triều . Chúng tôi lại có ý định truy tìm nguồn gốc chữ Giao trong Giao Chỉ, Giao Châu theo hướng ngôn ngữ học lịch sử, bắt nguồn từ địa danh Keo (chùa Keo) ở Thái Bình, Nam Định và Bắc Ninh và Keo, Kẹo nhằm chỉ người ở vùng thấp trong ngôn ngữ cổ Đông Nam Á. Trong một buổi trao đổi học thuật ở đại học Kyoto năm 2006, khi được hỏi chữ Giao trong Giao Chỉ, Giao Châu xuất hiện thế nào và từ bao giờ trong thư tịch cổ Trung Hoa, giáo sư Hidenori Okamura đã nói ngay rằng Tư Mã Thiên là người đầu tiên đã sử dụng chữ Giao với hàm ý chỉ vùng thấp ngập nước ven biển khi ông gắn chữ Giao với Giao Long nhằm chỉ một loại rồng ở vùng ngập nước, ảnh hưởng mạnh của thuỷ triều phía đông nam Trung Hoa cổ đại . Thực ra, khi kiểm định kỹ lại Sử Ký của Tư Mã Thiên, thời Hán Cao Tổ đã từng có chức Giao hầu ( tước Hầu của vùng đất Giao ) do Lữ Sản em trai của Lữ Hậu đảm trách. Lữ Sản sau này được Lữ Hậu phong làm Lữ vương (tước Vương của vùng đất Lữ - nơi phát tích của tổ tiên Lữ Hậu). Trước khi chết, Lữ Hậu chia quân đội nhà Hán làm hai khối lớn, chính Lữ Sản được kiêm quản quân phương Nam. Điều này khiến ta có thể phỏng đoán đất Giao mà Lữ sản từng được phong hầu ở phương Nam, gắn với Giao Chỉ, Giao Châu chăng ? Đào Duy Anh và Nguyễn Đổng Chi dẫn nhiều sách sử Trung Hoa viết từ thời Xuân Thu, Chiến Quốc, như Kinh Thư, Mặc Tử, Hoài Nam tử, Hàn Phi tử, Thiếu vi thông giám để chứng minh từ trước thời Hán, trong quan niệm của người Hoa Hạ thì phía nam, thấp, ẩm ướt đã là vùng Giao mà sau này tương ứng với Giao Chỉ, Giao Châu.

Theo Thẩm Đính Bản trong “Trung Quốc Lịch sử Địa lý Khái thuật” thì phải đến tận sau khi nhà Tây Hán thôn tính nước Nam Việt ( năm 111 tr. Cn) mới xuất hiện địa danh Giao Chỉ, tên một vùng bao gồm những quận hành chính như Thương Ngô, Uất Lâm, Nam Hải, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Tượng Quận. Sang thời Đông Hán, Giao Chỉ đổi thành Giao Châu vẫn bao gồm các quận như cũ, trong đó quận Giao Chỉ vẫn ở khu vực hạ lưu sông Hồng hiện nay. Tên Giao Chỉ quận thay bằng Giao Châu trong thời Đông Tấn, lại được dùng trong thời Tuỳ, đến thời Đường lại trở lại Giao Châu nằm trong An Nam Đô hộ phủ của Lĩnh Nam Đạo. Sử sách nhà Tống, Nguyên sau này vẫn dùng thuật từ “Giao nhân” (người Giao) để chỉ quân dân nhà Lý, Trần.

Chúng tôi nhận thấy có sự trùng hợp giữa cách gọi Lạc Việt ( tộc danh thời Chiến Quốc ) với Giao Chỉ, Giao Châu (địa danh hành chính từ Tây Hán về sau) cho cùng một vùng đất bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây, đồng bằng và trung du sông Hồng ở bắc Việt Nam. Theo chúng tôi, đó không phải là hệ thống tộc danh tự xưng mà là tộc danh, địa danh ước đặt xuất hiện trong văn tự Trung Hoa cổ đại. Người Việt thuộc Văn hoá Đông Sơn không tự xưng mình là Việt Nước ( Việt Rặc ) mà là những nhóm người Bách Việt khác ở vùng cao xung quanh gọi những người Việt ở vùng thấp nhiều đầm hồ là (Việt) Rặc và những người Bách Việt ở vùng thấp đã gọi những người ở vùng cao là (Việt) Âu. Tương tự như vậy là sự phân định giữa Lục Chân lạp và Thuỷ Chân Lạp sau này ở vùng nam Đông Dương thời cổ đại. Chắc hẳn trước đó đã có sự phân biệt giữa Phù Nam cạn và Phù Nam nước (văn hoá Óc Eo). Sự kiện Âu Lạc cũng phản ánh tình trạng đó. Đặt tên phân định tộc người dựa trên những đặc trưng địa lý cư trú là một hình thức phổ biến trên toàn thế giới, trong đó cao - thấp, núi - biển, cao khô - thấp ướt... là dạng hiện tượng thuộc loại phổ biến nhất. Việc nhất trí với quan điểm giải thích của Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc dẫn đến sự đồng nghĩa của Lạc (nước, thấp) với Giao. Theo tôi, cách lý giải Giao là vùng giao tiếp của đất ngập - cạn do ảnh hưởng của thuỷ triều cũng không mâu thuẫn với những dữ kiện Giao Long, Giao Chỉ, Giao Châu. Tuy nhiên, nếu thừa nhận đó là cách đặt tên theo nghĩa của ngôn ngữ Hán thì phải giải thích tại sao những vùng như vậy ở khắp ven biển đông bắc và đông Trung Quốc cổ đại lại không có địa danh Giao lớn như vậy. Trong thời kỳ chữ Hán còn mới phát triển, chưa đủ mô tả những khái niệm và hiện tượng mới, thì khi người xưa muốn dùng Hán tự để ghi tộc danh, địa danh mới lạ họ thường dùng Hán tự để ghi lại âm mà người dân bản địa thường dùng. Người dân bản địa ở đây không phải là người dân tự xưng danh, mà thường là họ dùng để phân định những tộc láng giềng. Sự chuyển hoá cách gọi người ở vùng thấp ngập nước đông nam Trung Quốc và bắc Việt Nam từ Rặc (Lạc) sang Keo (Giao) có thể phản ánh sự biến đổi trong thành phần cư dân tộc người ở vùng Ngũ Lĩnh vào đời Hán. Những người này đã gọi người Lạc Việt cũ bằng cách gọi mới là Keo (thấp) song song tồn tại với cách gọi Rặc (nước) trước đó. Và chữ Giao đã được sử dụng để ghi âm lại cách phân định này . Theo nghiên cứu ban đầu, âm Keo có nhiều yếu tố ngôn ngữ Tày Thái. Sự thay thế cư dân dùng Keo thay cho Rặc có thể phản ánh xu hướng nam tiến của nhóm cư dân nói ngôn ngữ Tày Thái cổ và sự vắng bóng dần ở vùng bắc Đông Dương các nhóm cư dân Nam Á, Môn Khơ me.

Chỉ và Châu trong Giao Chỉ và Giao Châu đều cùng một nghĩa chỉ địa danh cư trú lớn, tương tự nghĩa của chữ “vùng” . Có lẽ cũng không cần nhắc lại suy diễn thiếu cơ sở khoa học của nhiều học giả trước đây cho rằng “chỉ” là ngón chân choạc ra của người Việt hay đi trên thuyền. Khảo sát nguồn gốc thay đổi Chỉ và Châu từ Hán đến Đường có thể lần tìm ngữ nghĩa chính xác của chữ Chỉ trong Giao Chỉ.

4- Hùng Vương và Văn Lang

Hùng Vương : Nhiều nhà nghiên cứu đã từng đề xuất khả năng nhầm lẫn tự dạng giữa chữ Lạc và chữ Hùng . Bởi lẽ có nhiều thư tịch cổ dùng Lạc vương, Lạc tướng, Lạc hầu trong thời Hùng Vương. Tuy nhiên trong dân gian không ai thay Hùng vương bằng Lạc Vương cả. Điều đó chứng tỏ sự tồn tại thực của cách gọi Hùng Vương trong lịch sử. Giáo sư Hoàng Thị Châu và Trần Quốc Vượng từng gợi ý truy tìm chữ Hùng từ chữ Khun, Cun trong ngôn ngữ cổ Đông Nam Á hàm nghĩa to lớn, người đứng đầu . Người xưa đã dùng chữ Hán để ghi nhận lại cách gọi của người Việt với thủ lĩnh của mình bằng chữ Hùng. Tuy nhiên phải xác nhận rằng, khác với trường hợp Âu Lạc, Lạc Việt, Giao Chỉ, Giao Châu, trong các thư tịch đương thời và gần đương thời của Trung Quốc hầu như không có tài liệu nào nói đến Hùng Vương và nước Văn Lang. Những điều tìm thấy trong sử sách về Hùng Vương và Văn Lang đều có niên đại muộn hơn sự đương tồn của các sự kiện này nhiều trăm năm về sau. Điều đó chứng rỏ những khái niệm này đã từng tồn tại dưới dạng trường ca, sử thi hay mo then Việt cổ trước khi được ghi chép lại bằng văn tự Hán. Theo logic đó, tôi ủng hộ cách truy tìm như các giáo sư Hoàng Thị Châu và Trần Quốc Vượng đã làm.

Văn Lang : Cụm từ này đã thấy được chép lại trong Thuỷ Kinh chú (Lâm Ấp ký) , nhưng chủ yếu xuất hiện trong các văn liệu chữ Hán ở Việt Nam, sớm nhất hiện biết là từ đời Lý, Trần như trong những sách chính sử Việt Sử Lược, Đại Việt sử ký (toàn thư) và dã sử Lĩnh nam trích quái, Việt điện u linh tập. Nguồn tư liệu để các tác giả viết về thời Hùng Vương, Văn Lang trong các sách đó chủ yếu là từ truyền miệng hoặc chép lại từ những sách của các tác giả trước đó mà nay đã thất truyền. Những sách được chép lại đó, cho dù có lãng mạn lắm cũng khó sớm hơn được Tư Mã Thiên, đa phần từ thế kỷ thứ 3 AD trở về sau. Có nghĩa rằng, nguồn tư liệu của những tác giả trước, nếu có cũng duy nhất là truyền miệng dưới dạng Sử thi, Mo, Then như cách lưu sử của nhiều dân tộc thiểu số hiện nay.

Khi diễn giải về chữ Văn Lang với tư cách một tộc danh, quốc danh dưới thời Hùng Vương nhiều sử gia phong kiến nước ta cũng làm theo lối triết tự : Văn Lang là tục xăm vẽ chàm hình giao long ở trên người để tránh thuỷ quái xâm hại . Việt sử lược có kể ra tên 15 bộ tồn tại dưới thời Hùng Vương, trong đó, thủ lĩnh bộ Văn Lang có tài pháp thuật đã áp chế thống lĩnh các bộ khác, trở thành Hùng Vương vào thời Chu Trang vương . Tên một số bộ này tiếp tục tồn tại dưới thời thuộc Hán, nhưng tên Văn Lang thì không thấy nữa. Nhiều nhà nghiên cứu đã thử phục nguyên một cách khá thuyết phục tên các bộ này bằng phương pháp ngôn ngữ học lịch sử, như Câu Lậu là bộ lạc thờ Trâu (C’lâu) phát âm theo tiếng Việt Mường cổ tương tự như trường hợp quả Trám được ghi âm Hán là Cảm Lãm (C’lám), Từ Liêm (Chèm)…Hy vọng bằng cách này chúng ta có thể sẽ suy tìm được tên thật và ý nghĩa thật của “Văn Lang”.

5- Chữ “Thường” trong Việt Thường Thị và chữ “Tượng” trong Tượng Quận

Sử gia các đời thường lúng túng với hai địa danh còn khá lờ mờ này vốn được xuất hiện khá sớm trong thư tịch Trung Hoa lẫn Việt Nam. Cả hai địa danh này (Việt Thường Thị và Tượng Quận) đều gắn với những ghi chép vào loại đầu tiên của học giả sử dụng văn tự Hoa Hạ ghi chép về vùng đất Hoa Nam, như Sử Ký (Tư Mã Thiên), Thuỷ Kinh Chú, Giao Châu Ngoại vực ký…. Các sách sử Việt Nam sau này sớm nhất vào khoảng Lý Trần đều dẫn lại từ các nguồn sách trước sau công nguyên vài thế kỷ đó.

Hiện tại, trong một số sách chuyên khảo về địa lý, địa danh cổ Trung Quốc, các nhà nghiên cứu Trung Quốc đa phần nghiêng về hướng quy tụ địa bàn gốc của “Việt Thường Thị” và “Tượng Quận” vào khu vực Nam – Tây Nam Ngũ Lĩnh, tức vùng đất Quảng Tây và lân bang (một phần đông nam Vân Nam, một phần tây nam Quý Châu) ngày nay . Theo sử sách, Việt Thường Thị có quan hệ chính thức với thế giới Hoa Hạ dưới thời Chu thông qua việc dâng chim trĩ, nhiều lần thông dịch (tức phải đi qua nhiều tộc người khác Hoa Hạ). Địa danh Tượng quận xuất hiện vào thời Tần, trước đó, thời Chiến Quốc, đơn vị “quận” mới chỉ xuất hiện ở vùng bắc Ngũ Lĩnh, thuộc tỉnh Hồ Nam (Trường Sa Quận, Cửu Giang Quận). Đó là phạm vi nhóm Bách Việt mới tham gia vào cục diện chiến quốc dưới ảnh hưởng của văn hoá Ngô, Sở, trùng với cái gọi là Dương Việt (Yang Yue) trước đó. Trước khi nhà Tần đặt quận huyện ở vùng Dương Việt và Nam Hải (214 tr.Cn) vùng Tượng Quận có tên gọi là Thương Ngô (Shang Wou).

Lần theo trật từ cách người Hoa Hạ gọi và ghi chép về vùng đất Hoa Nam, nơi các nhóm Bách Việt ngự trị chúng ta thấy có sự lan dần về phía nam theo trục Hồ Nam (Trường Sa, Cửu Giang) với những tên gọi đều khá gần gũi với những âm Yang (Dương Việt), Shang (Thương Ngô), Chang ( Việt Thường), Siang (Tượng Quận). Theo chúng tôi, những chữ ghi âm Hoa Hạ thoạt đầu không hẳn luôn mang ngữ NGHĨA, tức là nó chưa hẳn đã xuất phát từ nhu cầu ám nghĩa ( ví dụ Trường Giang – sông dài, Hoàng Hà – sông có nước phù sa đất vàng – hoàng thổ, Hồng Hà – sông có phù sa màu đỏ …) mà nặng về ghi âm. Vì thế một âm có thể có nhiều cách ghi khác nhau. Những âm tương tự như trên được ghi bằng những chữ khác nhau, nhưng dường như đều có một mẫu số chung là mô tả một cộng đồng tộc người nằm trong một khối tộc lớn hơn (Việt, Ngô). Mẫu số chung đó gần với khối tộc mà từ sau công nguyên mới dần định hình trong địa bàn này : Cháng hay Choang (Zhang, Zhuang). Thoạt đầu họ được phân định với những nhóm Bách Việt khác bằng âm Yang (Dương Việt) rồi Shang (Thương Ngô ). Vì thế, Việt Thường thị (Chang Yue) có thể hiểu ám chỉ thủ lĩnh một khối họ tộc (thị) tổ tiên người Choang miền núi trong nhóm Bách Việt, có thể là nhóm cư dân phân bố ở miền tây Quảng Tây, đông nam Vân Nam (huyện Văn Sơn), cực bắc Việt Nam (Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang…) hiện nay - một bộ phận quan trọng của Tây Âu sau này. Vào đời Chu, từ vùng này đến lưu vực sông Hoàng, nơi Chu Thiên tử ở còn rất xa và phải qua nhiều vùng tộc người và tiểu quốc khác nhau.

Tượng Quận xuất hiện sau nữa, vào đời Tần, khi người Hoa Hạ dùng đơn vị quận để chỉ những vùng đất mà họ đã chinh phục hoặc đã đặt được quan hệ thần thuộc. Cuộc hành quân của Đồ Thư đã khai phá tuyến Trường Sa, Cửu Giang vượt Ngũ Lĩnh vào sâu đất Việt. Tuy nhiên đoàn quân Tần Hoa Hạ này chỉ đến được Nam Hải (Quảng Đông) và lân bang. Một trong những đất lân bang đó là Tượng Quận. Theo chúng tôi, Tượng quận là khối vùng tổ tiên người Choang (khi này vẫn được gọi là Yuê) đã bị lệ thuộc quân Tần. Các nhóm Choang Việt còn lại thuộc vào Tây Âu. Việc người Hoa Hạ gọi tên vùng là Tượng Quân bắt đầu ghi nhận cách đặt tên ghi âm ám nghiã vào thời Tần Hán. Chữ “Tượng” được chọn hàm chủ ý gắn liền phiên âm Shiang với ngữ nghĩa liên quan đến hiện tượng phân bố voi và sử dụng voi trong vùng này. Đối với người phương bắc thời đó, thì đây là thế giới phổ biến của voi .

6- Cổ Loa, Khả Lũ

Chúng ta có thể bắt đầu với phát hiện mối liên quan của “Cửa Lò” với ngữ âm malayo – Kuala. Tôi được nghe gợi ý này lần đầu từ giáo sư Trần Quốc Vượng từ cách nay gần 20 năm. Tôi tán thành gợi ý này và bắt đầu thu thập những bằng chứng dấu vết ngữ âm học lịch sử mang dấu vết malayo song hành với việc tìm những chứng cứ khảo cổ của văn hoá Sa Huỳnh, Mã Lai-Đa Đảo, Nam Đảo (Malayo-Polinesien hay Austronesien) trên đất nước ta. Bài này tập trung vào vấn đề văn hoá xã hội ở thời điểm bản lề trước sau Công nguyên, bản lề Tiền sử - Sơ sử và Lịch sử nhà nước sớm, bản lề hoà nhập dân tộc huyết thống và văn hoá ở miền bắc Việt Nam – cái nôi của dân tộc. Vì vậy, trước mắt giới hạn ở “Cổ Loa”.

Kuala có nghĩa chỉ một cửa sông. Ngôn ngữ Malay là một bộ phận quan trọng của ngôn ngữ Nam Á. Hiện tượng tồn tại một số ngôn ngữ khác trong hệ ngôn ngữ Việt là rất bình thường. Điều khó khăn là lần tìm ra con đường vận hành nguyên thuỷ của nó. Điều này có một điểm hạn chế lớn ở nước ta đó là ngành ngôn ngữ học lịch sử cỏn kém phát triển. Những nghiên cứu thí điểm của các nhà ngôn ngữ tiền bối như Maspero, Audricour, Nguyễn Thị Châu, Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn, Phạm Đức Dương và những nhà ngôn ngữ học lịch sử nghiệp dư khác trước đây đã hé mở một hướng tiếp cận có tính thuyết phục cao, trong đó việc giải mã lớp phủ Hán văn lên một số hiện tượng ngôn ngữ cổ bản địa.

Gần đây, TS Phạm Văn Đấu có thông báo và hỏi tôi về hiện tượng hệ thống địa danh “Cua”, “Khùa”…mà ông mới phát hiện khi điền dã khảo sát một cụm làng cổ tương truyền là nơi giam giữ tù binh thợ người Chiêm Thành trong các cuộc hành quân nam tiến từ Lý Thường Kiệt đến Lê Thánh Tông. Điều này gợi lại cho tôi giả thiết công tác từ lâu về cuộc thảo luận được sới lên từ đầu thế kỷ 20, khi Maspero bắt tay nghiên cứu “Royal de Van Lang” (Nhà nước Văn Lang), đó là vấn đề thành Cổ Loa và thành Khả Lũ.

Chúng ta có thể khảo sát nhiều hiện tượng địa danh gắn với cách Hán hoá các ngữ âm cổ tương tự như các loại hình địa danh K... và L như Cổ Loa, Kẻ Loa, Khả Lũ. Vấn đề này đã từng được Đào Duy Anh để ý khi ông viết "Đất nước Việt Nam qua các đời". Theo hướng này, cần tìm nghĩa Cổ Loa, Khả Lũ theo hướng Kuala, Cửa Lò, tức một vùng ngã ba sông hay dạng bến cửa sông, có liên quan đến cư dân chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ Mã Lai - Đa đảo vào khoảng thiên kỷ I trước Công nguyên. Hiện tại, ngoại trừ những công cụ kiểu Sơn Vi phát hiện ở một số nơi vùng Cổ Loa (Gò Đường Cấm) thì những cư dân lập làng sớm nhất ở Cổ Loa là những người Đồng Vông, dùng gốm xốp nặng và nhiều viên đá làm chì lưới đánh cá gần gũi với lối sống của cư dân biển từ cách nay khoảng 4000 năm.

Trên đây chỉ là những gợi ý cách tiếp cận. Để chứng thực hay chứng không thực vấn đề, rõ ràng cần nhiều công sức nghiên cứu hơn nữa.

Yên Giang, 10.12.2007

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguyễn Việt

* Từ gương đồng họ Lý ở Giao châu

Họ Lý được coi như một trong số ít dòng họ xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Việt Nam. Bằng chứng khảo cổ đã phát hiện được từ thế kỷ 2 sau CN, họ Lý đúc gương đồng (Lý thị tác kính).

Thảo luận về những gương Lý thị tác kính, có người phản biện rằng liệu những gương đó được đúc ở Trung Nguyên rồi đem lưu hành ở Việt Nam, chứ chưa chắc họ Lý đã thực sự ở Việt Nam từ thời đó. Tôi có dịp vào năm 2006 đi Nhật thảo luận về vấn đề gương đồng với những chuyên gia hàng đầu thế giới tại Nhật Bản và đều đi đến nhất trí dự đoán khả năng có một trung tâm đúc gương riêng ở Giao Châu. Gương Lĩnh Nam đào được khá nhiều ở Giao Châu. So với những sưu tập gương ở Lạc Dương, Hồ Nam, Triết Giang, Sơn Đông... đều không thấp kém hơn, đặc biệt ở giai đoạn gương đồng phát triển nhất, từ thế kỷ 1 tr.CN đến thế kỷ 3 sau CN.

Hơn nữa, Lý thị không chỉ đúc gương mà còn làm gốm, đúc các đồ đồng thông dụng khác.

Trên một đồ đựng bằng đồng khai quật tại Quảng Đông còn nguyên dòng minh văn : “ Nguyên Sơ ngũ niên thất nguyệt trung Tây Vu Lý Văn Sơn trị xạ trước (chú) hữu”. Tạm dịch : Vào trung tuần tháng bảy năm thứ năm đời Nguyên Sơ ( năm 143 sau Công nguyên) Lý Văn Sơn người Tây Vu điều hành việc đúc đồng. Huyện Tây Vu khi này đã là huyện nhỏ do Mã Viện tách ra từ huyện Tây Vu cũ thành ba huyện : Tây Vu, Phong Châu và Vọng Hải. Huyện Tây Vu đời Nguyên Sơ bao gồm cả vùng đất Bắc Ninh, Bắc Giang trọng tâm là các vùng Quế Võ, Phả Lại, Thiên Thai...

Trên một chiếc vò sành đời Hán được Clemant Huet sưu tầm tại Thanh Hóa trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, hiện trưng bày tại gian Việt Nam của Bảo tàng Hoàng gia Bỉ về Nghệ thuật và Lịch sử (Brussel) có khắc dòng chữ :”Kiến hòa tam niên nhuận nguyệt trấp nhật Lý thị tác”. Tạm dịch: Họ Lý sản xuất ngày hai mươi tháng nhuận năm thứ ba đời Kiến Hòa (năm 149 sau Công nguyên).

Chúng ta sẽ không sa đà đi quá sâu về vấn đề gương đồng ở đây. Hiện tượng gương họ Lý xuất hiện ở Việt Nam không thể tách rời sự hiện diện của dòng họ đó. Các gương minh văn ghi họ đều không phải là hàng thương mại. Chúng gắn với từng dòng họ cụ thể, dùng để vinh tôn chủ nhân dòng họ hoặc làm quà tặng những nhân vật quyền quý trong xã hội. Kết hợp với các nguồn tài liệu khác, chúng ta có thể xác nhận sự hiện diện của một dòng họ Lý có tiềm lực về kinh tế, chính trị trong thời kỳ đầu lịch sử Bắc thuộc ở Việt Nam.

*Họ Lý Việt Nam và họ Lý Trung Quốc

Nhân vật lịch sử họ Lý người Giao Châu làm quan đời Hán được ghi nhận sớm nhất là Lý Tiến, tự là Đăng Cao ( năm 137sau CN). Niên đại này rất phù hợp với những gương đồng Lý thị tác kính và những hiện vật khảo cổ học có minh văn “Lý thị” đã phát hiện ở Việt Nam.

Trước đó, truyền thuyết dân gian ghi nhận nhân vật họ Lý người Việt làm tướng đời nhà Tần là Lý Ông Trọng, đền thờ rất linh thiêng ở Chèm, huyện Từ Liêm, phía bắc Hà Nội. Theo thần tích Đền Chèm, Lý Ông Trọng tên thật là Lý Thân (Thận) - chú ý Thận mang hành là Thủy, người làng Chèm, sống ở thời Hùng Duệ Vương (Hùng Vương thứ 18) và thời An Dương Vương. Ông có sức vóc to lớn, giỏi võ nghệ, giúp nhà Tần đánh đuổi giặc Hung Nô. Sau khi Lý Ông Trọng về quê, quân Tần làm tượng đồng giả hình nhân khổng lồ của ông để dọa đánh quân Hung Nô. Truyện Lý Ông Trọng trong Việt Điện U Linh nhưng trong chính sử Trung Quốc - sử ký Tư Mã Thiên lại không nói về Lý Ông Trọng.

Một ông thành hoàng họ Lý khác hiện được thờ ở đền Bạch Mã (phố hàng Buồm, Hà Nội) là Lý Tiến đã giúp vua Hùng đánh giặc Ân cùng thời thánh Gióng.

Thống kê những nhân vật lịch sử có liên quan đến thời Bắc thuộc, ta nhận thấy hàng chục thứ sử, thái thú hay hào trưởng, quan lại mang danh họ Lý. Người họ Lý là Lý Thiện, người Nam Dương (Hồ Nam) là quan sớm nhất với chức Thái Thú Nhật Nam và Cửu Chân đời Hán Hiển Tông. Tuy nhiên, trong số các nhân vật họ Lý được lưu danh không phải ai cũng có nguồn gốc Giao Chỉ.

Khi phân tích về Sĩ Nhiếp và Lý Bí, các sử gia đều nhắc đến nguồn gốc bao nhiêu đời đến và sống ở Giao Chỉ. Điều đó có nghĩa rằng số dân từ vùng khác đến ngụ cư ở đồng bằng sông Hồng hồi đầu Công nguyên rất lớn. Tổ Lý Bí cũng từ phía bắc sang đất Việt sớm hơn, từ thời Tây Hán, qua bảy đời thành người Việt. Đến thời Lý Bí tính ra cũng trải hơn 20 đời.

Dòng họ Lý, theo thống kê gần đây nhất, đứng đầu Bách Tính của Trung Quốc về số lượng người. Tình hình có lẽ cũng tương tự ở Việt Nam nếu tính một số lượng lớn dòng họ Nguyễn chuyển sang từ họ Lý trong đời nhà Trần. Có hai lý do giải thích hiện tượng này và đều liên quan đến các họ Lý thời bắc thuộc.

Thứ nhất, trong khối Bách Việt vùng Lĩnh Nam có một khối lượng lớn các tộc Lý - Lão (Lee, Liao). Dưới tác động của Trung Nguyên thời nhà Chu (Xuân Thu - Chiến Quốc), nhiều nhóm tộc đã tham gia chính sự Trung Nguyên hoặc tự hình thành các mô hình tổ chức xã hội kiểu Chiefdom ( thủ lĩnh). Theo cách đặt tên, họ truyền thống, thì địa danh, tộc danh sẽ được dùng cho tính danh, quốc danh. Vì vậy, tùy mức độ phát triển mà những cư dân của các chiefdom, tiểu quốc Lý, Lão vùng Lĩnh Nam chuyển mang họ Lý. Sau này, chúng ta sẽ lấy làm dễ hiểu tại sao trong chiến cuộc chống quân Lương, Lý Bí, Lý Thiên Bảo, Lý Phật Tử lại thường hay rút về các động Lão, Ai Lao... Khối họ Lý lớn nhất xuất hiện vào khoảng Chiến Quốc - Tần Hán, mang đậm màu sắc bản địa Lĩnh Nam gắn bó chặt chẽ với văn hóa Yue (Việt) .

Trong quá trình Hán hóa, một bộ phận các tộc danh Lý ở Lĩnh Nam đã dần biến thành họ Hoa, một bộ phận ở Giao Châu trở thành họ Việt. Rất có thể họ Lê ở Việt Nam cũng bắt nguồn sâu sắc từ một nhánh Lý Lão nào đó giống như họ Lý.

Thứ hai, họ Lý trong quá trình phát triển ở Trung Nguyên đã mở ra một triều đại rực rỡ vào loại nhất trong lịch sử Trung Hoa, đó là nhà Đường với vị hoàng đế đầu tiên là Lý Thế Dân. Hào quang của nhà Đường đã lôi cuốn tiếp các tộc người nhỏ ở Giang Nam, Tây Tạng, Sơn Đông, Mãn Châu còn trong tình trạng cộng đồng nguyên thủy nhận họ Lý. Đó là lớp họ Lý thứ hai mang đậm màu sắc ảnh hưởng của họ Lý Hoa Hạ thời Đường.

* Tạo lập vương triều

Chúng ta cần nhấn mạnh vai trò họ Lý thời bắc thuộc, bởi trong thời kỳ này có nhiều danh nhân họ Lý là sợi dây gìn giữ và phát triển bản chất cát cứ, độc lập của Giao Chỉ và cuối cùng đã góp phần tạo lập vương Triều Lý, nền tảng Đại Việt vững vàng với kinh đô ngàn năm Thăng Long. Thống kê danh sách hàng ngũ quan lại hàng đầu đã cai trị Giao Châu trong thời bắc thuộc (Thứ sử, Thái thú, Đô Úy, Tiết độ sứ…) có thể nhận thấy trung bình mỗi thế kỷ xuất hiện vài ba người họ Lý, trong đó có những thứ sử họ Lý đã từng chủ chương cát cứ độc lập. Tiêu biểu nhất là cuộc nổi dậy của Lý Bí lập nước Vạn Xuân giữa thế kỷ 6. Điều đó chứng tỏ họ Lý ở Giao Châu chẳng những tiếp tục tồn tại và phát triển, hình thành một nhóm tộc hùng mạnh ở vùng đất Tây Vu, Phong Khê, Long Biên cũ mà còn mở rộng ra nhiều địa bàn của Giao Châu. Trong thời loạn 12 sứ quân, đó là lực lượng nòng cốt của sứ quân Lý Khuê (Lãng Công). Sứ quân này trấn trị vùng Siêu Loại, tức vùng văn hóa lịch sử sông Dâu, sông Đuống, Luy Lâu thời Hán. Thế hệ tiên tổ của Lý Công Uẩn tương truyền từ đất Mân trở về hẳn đã bắt rễ với nhóm tộc Lý này. Sau ngày lập quốc, chính đây trở thành vùng “đất tổ” của dòng vương thất Lý.

Ảnh : Gương đồng thời Lý Tiến, Lý Cầm (cuối TK 2 sau CN) phát hiện ở vùng Kinh Môn (Hải Dương). Chữ Lý bắt đầu sau hai chấm nổi ở góc tây nam gương.

Sau khi nhà Trần diệt nhà Lý đã chủ chương làm tuyệt dòng họ Lý bằng cách đổi toàn bộ họ Lý ra họ Nguyễn. Chữ Lý trở thành một chữ cấm kỵ trong mấy trăm năm đời Trần. Vì vậy, họ Lý trở nên ít ỏi như ngày nay, thay vào đó là vô số họ Nguyễn. Vì thế không nên quên rằng Lý Công Uẩn đã có thể thực hiện được các ý tưởng chính trị của mình, trong đó có việc quyết định dời đô, là có nhờ vào lực lượng đông đảo các dòng tộc Lý ở Giao Châu đương thời./.

Tài liệu tham khảo :

Ueno Yoshifumi, 2003, The Lines of Pan Long Jing Mirrors, trong Bulletin of the National Museum of Japanese History, vol. 100, March 2003, tr.10.

Quảng Châu Hán mộ, Bắc kinh, 1984.

Gương đồng ở Quảng Tây, NXB Văn Vật, Bắc kinh, 2004, tr. 91.

Quảng Đông tỉnh Bác vật quán, 1981, Quảng Đông tỉnh Đức Khánh Đại Diệu Sơn Thạc Kiến Đông Hán văn vật, trong Khảo cổ, số 4-1981.

Schotsmans, Janine, 1986, Clemant Huet and the origins of the Vietnamese Collection of the Musées Royaux d’Art et d’Histoire, Brussels. Trong Southeast Asian Archaeology 1986, I. and E. Glover biên tập, BAR International Series, tr. 241-250.

Người trao chìa khóa thành Đại La cho Lý Công Uẩn [1/11/2010]

Ai là người trao “sổ đỏ”thành Đại La cho Lý Công Uẩn ?

Nguyễn Việt

Thành Đại La bản chất là tòa thành thuộc Tùy Đường khi trở thành kinh đô Thăng Long vào tháng 7 năm 1010 đã là một kinh đô Đại Việt được chuẩn bị hoàn tất. Thời gian chuẩn bị ngắn ngủi chỉ vài tháng trời không thể đủ nếu phải xây dựng một kinh đô mới. Vậy nền tảng vật chất cho kinh đô mới Thăng Long đã được chuẩn bị như thế nào? Bài viết sau đây của TS Nguyễn Việt sẽ đưa ra một cách lý giải về điều này.

* Chuẩn bị dời đô chỉ trong 5 tháng

Tháng 7 âm lịch năm 1010, thuyền rồng đưa triều đình nhà Lý từ Hoa Lư cập bến dưới chân thành Đại La. Theo biên niên sử, ý tưởng dời đô có thể hình thành thực sự từ mùa xuân năm đó. Vốn là, sau khi lên ngôi cuối năm 1009, Lý Công Uẩn thu xếp việc triều chính, làm lễ lên ngôi, ăn Tết ở Hoa Lư rồi tháng hai năm 1010 về thăm quê Cổ Pháp (Bắc Ninh). Đối với Lý Công Uẩn, ý tưởng tái lập nơi đặt bộ máy điều hành đất nước ở vị trí trung tâm đồng bằng sông Hồng – là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của đất nước đương thời hẳn đã hình thành từ lâu, nhưng thời điểm mang tính quyết định rời đô từ Hoa Lư về Đại La hẳn đã xuất phát từ cuộc thăm quê mùa xuân năm 1010.

Chúng ta đều biết, Lý Công Uẩn người gốc Giao Châu, được giới thiệu xung cấm vệ quân từ hơn mười năm trước, dưới triều nhà Tiền Lê. Từ đó, cuộc sống của viên tướng cấm vệ, rồi lấy vợ, sinh con đã gắn liền ông với kinh đô Hoa Lư. Nhưng ngay sau khi lên ngôi, ông đã về thăm quê và hình thành rất nhanh quyết định dời đô. Chỉ ba tháng sau khi thăm quê, tức vào tháng năm năm ấy, ông đã hoàn chỉnh kế hoạch dời đô và chính thức tuyên bố trước triều đình bằng Chiếu Dời đô. Như vậy công cuộc thực sự chuẩn bị cho Dời đô chỉ diễn ra trong vòng năm tháng trời (từ tháng hai đến tháng bảy năm 1010).

Sử sách ghi nhận, ngay khi chuyển về kinh đô Thăng Long, triều đình đã ổn định được ngay. Các ghi chép sau đó về việc xây dựng thêm các cung điện chỉ là để mở rộng các hoạt động của triều đình. Điều đó chứng tỏ tòa thành Đại La khi trở thành kinh đô Thăng Long vào tháng 7 năm 1010 đã là một kinh đô Việt được chuẩn bị hoàn tất. Sự chuẩn bị này có thể được tăng cường từ tháng 5, tức sau Chiếu Dời đô. Nhưng rõ ràng thời gian ngắn ngủi chưa đày 2 tháng trời không thể đủ nếu phải xây dựng một kinh đô mới. Vậy nền tảng vật chất cho kinh đô mới Thăng Long đã được chuẩn bị như thế nào?.

* Thời Lý Bí đã từng lập thành bên sông Tô và lược sử thành Đại La

Lịch sử chọn mảnh đất Thăng Long làm trung tâm đất nước sớm nhất có thể bắt đầu với lũy thành Tô Lịch của Lý Bí trong cuộc chiến chống quân Lương thế kỷ 6. Đây là lũy thành quân sự được Lý Nam Đế xây dựng từ trước. Sau khi thất trận ở Chu Diên (vùng Hưng Yên, Hà Nam), quân đội nước Vạn Xuân đã rút về cố thủ tại đây.

Chúng ta chưa có nhiều bằng chứng để khẳng định lũy thành này là kinh đô của nước Vạn Xuân đương thời. Nhưng dường như do hoạt động của triều đình nước Vạn Xuân dày đặc ở vùng quanh Hà Nội ngày nay như Long Biên, Ô Diên, Dạ Trạch... nên sau khi bình định lại Giao Châu, xuất hiện tên một huyện mới là Tống Bình, tương truyền do nhà sơ Tống (một trong số Lục Triều – sáu triều đại thay nhau trị vì Trung Quốc sau thời Tam Quốc, thế kỷ 4-6) đặt ra, trong đó có một phần Hà Nội ngày nay. Đầu thế kỷ 7, thứ sử nhà Tùy là Khâu Hòa đã đặt thủ phủ Đô hộ Giao Châu ở Tống Bình và xây thành lũy đô hộ phủ đầu tiên ở kề sông Tô Lịch vào khoảng thời gian đó. Tòa thành của Khâu Hòa có tên là “Tử thành”. Tử thành (hay Tử Cấm thành) là cách gọi những vòng thành trung tâm trong cùng để bảo vệ vua và hoàng thất. Ở Giao Châu, đó là nơi che chở cho bộ máy đô hộ cao nhất, nơi ở và điều hành của Thứ sử. Chúng tôi cho rằng vị trí “Tử thành” hẳn đã được chọn tâm điểm ở ngay trên gò Nùng nay là vị trí điện Kính Thiên. Các đời về sau, đã đều duy trì điểm cao tâm linh đắc địa này. Dấu vết gạch ngói, giếng nước có niên đại Tùy Đường khai quật được ở khu vực Hoàng Thành gần đây đã xác nhận sự có mặt của kiến trúc Tùy Đường trong Hoàng Thành.

Thành La rồi Đại La sau này được nhiều đời thứ sử tu bổ, mở rộng, trong đó chủ yếu tập trung vào việc xây dựng vòng thành bao bên ngoài Tử thành, tức vòng thành hiện nay còn lại dấu vết, trên đó có những đoạn trùng với tòa thành vô băng xây dựng vào đời Nguyễn và vòng đê thành bao dọc theo sông Tô Lịch và sông Hồng mở rộng hơn về phía tây và phía nam Hoàng thành. Tiêu biểu nhất đối với thành Đại La là công cuộc hoàn thiện của Cao Biền cuối thế kỷ 8 đầu thế kỷ 9.

* Người sửa tòa thành hướng Bắc thành hướng Nam

Tuy nhiên, cần ghi nhớ rằng tòa thành Đại La bắt đầu từ Khâu Hòa đến Cao Biền đều xây dựng theo thể chế thành trì địa phương của đế chế Tùy, Đường. Có nghĩa rằng các mặt chính của tòa thành và dinh thự hành chính đều ngảnh về phía nơi Hoàng Đế nhà Tùy, Đường ngự trị.

Thành Đại La cũng như thành Luy Lâu do Sĩ Nhiếp đắp trước đó đều mang bản chất là thành hướng bắc. Dựa vào ghi chép trong An Nam chí lược Việt Sử lược (sách viết vào khoảng đời Trần) thì tòa thành Đại La do Trương Bá Nghi và Cao Biền đắp đều có bốn mặt hướng đông, tây, nam, bắc. Ghi chép của An Nam chí lược về tòa thành do Trương Bá Nghi đắp cho biết rõ mặt thành phía bắc là mặt chính, mở ba cửa và trên đó đều có lầu che. Hai mặt đông tây cũng có ba cửa không lầu che. Riêng mặt nam là mặt thông với khu dân cư mở tới 5 cửa trên đặt trống, loa. Như vậy, cũng giống như Luy Lâu, mặt nam thành tuy là mặt phụ nhưng lại dành cho các hoạt dộng dân cư, còn mặt chính mang tính nghi lễ ngảnh về phía bắc.

Vậy tòa thành vốn hướng bắc này trở thành tòa thành hướng nam từ bao giờ ?

Trong lịch sử Việt Nam, chắc chắn “sự hướng bắc” của thành Đại La gắn liền với bộ máy thần phục ở Giao Châu với nhà Đường. Đời Tiết độ sứ cuối cùng không phải người Giao Châu là Chu Toàn Dục (905), sau đó do Nhà Đường sụp đổ, Trung Quốc rơi vào tình trạng rối loạn, Nam Bắc triều, Ngũ Đại - Thập Quốc, các thế lực hào trưởng Giao Châu nổi lên chiếm quyền Tiết độ sứ ở, như cha con họ Khúc (Thừa Dụ, Thừa Mỹ), họ Kiều (Công Tiễn), họ Dương (Đình Nghệ). Các Tiết độ sứ này tuy là người Giao cát cứ nhưng trên danh nghĩa vẫn thụ phong và thần phục các triều đình Trung Hoa, vì vậy đến tận khi Ngô Quyền xưng vương (939) tòa thành Đại La vẫn là một tòa Đô hộ phủ hướng bắc. Có lẽ, đó là lý do Ngô Quyền không chọn Đại La làm kinh đô mà chọn Cổ Loa, một tòa thành bản chất hướng Nam.

Thành Đại La gần như bỏ hoang từ những năm 939 đến khi Đinh Tiên Hoàng thống lĩnh thiên hạ lập nước Đại Cồ Việt. Tuy nhiên, kinh đô Nhà Tiền Lê lại được chọn đặt ở nơi hiểm yếu Hoa Lư đất Trường Châu (Ninh Bình hiện nay). Thành Đại La với cương vị trung tâm quản lý, điều hành mọi sự ở Giao Châu được giao cho Đô hộ phủ Thái sư Lưu Cơ, người đồng hương và cũng là tên đứng đầu trong hàng quan được danh xưng trong buổi lễ lên ngôi Hoàng đế của Đinh Tiên Hoàng. Vai trò của Lưu Cơ vì thế có thể sánh ngang hàng Phó Vương giúp Đinh Tiên Hoàng cai quản phần đất trọng yếu và nhiều tiềm năng kinh tế nhất của đất nước đương thời, đó là toàn bộ miền Bắc nước ta từ Ninh Bình hất trở lên.

Lưu Cơ là ai ? Chúng tôi sẽ dành một bài dành riêng viết về nhân vật lịch sử kín đáo này. Ở đây chỉ giới thiệu tóm tắt. Theo thần tích và ghi chép trong sử sách thì Lưu Cơ người Ái Châu (vùng đất có lúc bao gồm cả khu vực Thanh Hóa và Ninh Bình hiện nay), quê ở Bồ Bát, Bạch Liên, Yên Mô tức thuộc đất Ninh Bình, là đồng hương gần với Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn. Lớn lên theo học Tri Hối tiên sinh ở Gia Viễn. Sau khi cha mẹ mất, ngoài 20 tuổi ông theo Đinh Bộ Lĩnh đánh giặc, trực tiếp dẹp sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại. Trong buổi thiết triều xưng danh quan tước đầu tiên của triều đình nhà Đinh, theo Việt sử lược, ông đứng tên đầu và được trao chức Thái sư Đô hộ phủ, cai quản toàn bộ Giao Châu, đóng đại bản doanh ở Phủ Đô hộ cũ, tức thành Đại La. Khi đó ông chừng 30 tuổi. Ông làm quan đến gần 70 tuổi thì cáo lão về hưu trí ở quê nhà, ba năm sau thì mất, thọ 73 tuổi. Hiện đền thờ ông còn ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên (đất Siêu Loại cũ). Tương truyền là nơi ông đóng quân dẹp loạn sứ quân Lý Khuê năm xưa.

Như vậy có lẽ chính Lưu Cơ là người đầu tiên biến tòa thành Đại La thuộc địa hướng bắc trở thành một tòa thành hướng nam độc lập tự chủ. Vì khi đó, Hoàng Đế Đại Việt ở Hoa Lư, tức ở về phía nam tòa thành Đại La. Vì vậy, chắc chắn mọi hướng nhìn của cổng thành và dinh thự đời các Tiết độ sứ cũ phải được sửa đổi. Ðó chính là điều lý giải hợp lý nhất cho sự có mặt phong phú di tích kiến trúc Hoa Lư tại các cuộc khai quật Hoàng Thành Thăng Long gần đây.

*Không thể quên vai trò của Lưu Cơ dịp 1000 năm Thăng Long

Theo ghi chép của thần phả, thần tích thì có lẽ Lưu Cơ trông coi tòa thành này cho đến khi cáo quan về hưu năm gần 70 tuổi.

Như vậy, chẳng những Lưu Cơ là người đã cai quản và tu sửa thành Đại La của An Nam Đô hộ Phủ nhà Đường trở nên một tòa thành Đại Việt, mà ông còn là người chuẩn bị mọi điều kiện cơ sở hạ tầng cho cuộc rời đô của Lý Công Uẩn. Chính điều này giải thích tại sao chỉ trong một thời gian rất ngắn, triều đình nhà Lý đã có thể di chuyển từ Hoa Lư ra Thăng Long.

Vậy là chúng ta đã tìm ra chính Lưu Cơ là người đã trao chìa khóa và “sổ đỏ” tòa La thành Đại Việt cho Lý Công Uẩn sau hơn 40 năm trông coi tu tạo tòa thành này. Với ý nghĩa đó, kỷ niệm 1000 năm Thăng Long không thể quên vai trò của vị Thái sư người Ái châu đáng kính này./.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguyễn Việt

...

Lưu Cơ là ai ? Chúng tôi sẽ dành một bài dành riêng viết về nhân vật lịch sử kín đáo này. Ở đây chỉ giới thiệu tóm tắt. Theo thần tích và ghi chép trong sử sách thì Lưu Cơ người Ái Châu (vùng đất có lúc bao gồm cả khu vực Thanh Hóa và Ninh Bình hiện nay), quê ở Bồ Bát, Bạch Liên, Yên Mô tức thuộc đất Ninh Bình, là đồng hương gần với Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn. Lớn lên theo học Tri Hối tiên sinh ở Gia Viễn. Sau khi cha mẹ mất, ngoài 20 tuổi ông theo Đinh Bộ Lĩnh đánh giặc, trực tiếp dẹp sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại. Trong buổi thiết triều xưng danh quan tước đầu tiên của triều đình nhà Đinh, theo Việt sử lược, ông đứng tên đầu và được trao chức Thái sư Đô hộ phủ, cai quản toàn bộ Giao Châu, đóng đại bản doanh ở Phủ Đô hộ cũ, tức thành Đại La. Khi đó ông chừng 30 tuổi. Ông làm quan đến gần 70 tuổi thì cáo lão về hưu trí ở quê nhà, ba năm sau thì mất, thọ 73 tuổi. Hiện đền thờ ông còn ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên (đất Siêu Loại cũ). Tương truyền là nơi ông đóng quân dẹp loạn sứ quân Lý Khuê năm xưa.

Như vậy có lẽ chính Lưu Cơ là người đầu tiên biến tòa thành Đại La thuộc địa hướng bắc trở thành một tòa thành hướng nam độc lập tự chủ. Vì khi đó, Hoàng Đế Đại Việt ở Hoa Lư, tức ở về phía nam tòa thành Đại La. Vì vậy, chắc chắn mọi hướng nhìn của cổng thành và dinh thự đời các Tiết độ sứ cũ phải được sửa đổi. Ðó chính là điều lý giải hợp lý nhất cho sự có mặt phong phú di tích kiến trúc Hoa Lư tại các cuộc khai quật Hoàng Thành Thăng Long gần đây.

...

Hóa ra ở ngay gần nhà mình! Vậy quê mình gần nhiều nơi quá: Luy Lâu, Siêu Loại ... Ở đây cũng chính là nơi có ngôi chùa Nôm, cách nhau 1 con sông đào thôi mà xưa mình không biết!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chung quanh truyện Nam Chiếu .

Dòng Hùng Việt

Trích tộc phả họ Phạm Việt nam :

"Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân -Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu ( gọi là xứ Lâm ấp)-tức là Nam Trung bộ ngày nay.

Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trc CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Viêt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay). Đến đời vua họ Phạm thứ 19 là Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa, vơ vét của cải , châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua họ Phạm, khiến Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh về cùng Mai Thúc Loan và cha con Phùng Hưng, Phùng An , diệt được quan quân nhà Đường và lập Mai Thúc Loan làm Bố Cái Đại vương, tức Mai Hắc đế (766).

………………………

Đối chiếu với thông tin trong sử sách chỉnh sửa thành :

"Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân -Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là ái châu (Thanh Ngệ Tĩnh ) và Trung châu (Bình Trị Thiên ) gọi là xứ Lâm ấp - tức Trung bộ ngày nay.

Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Hiếu -Tây Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trc CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà - Nam Hời (xứ Lâm ấp). Chỉ đến khi nhà Hiếu - Tây Hán chiếm lại Nam Viêt, nhà Triệu diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương lập nước Nam – kinh đô là Lâm ấp vua đầu là Lý khu Kiên sử Việt gọi là Lý Nam đế . Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa - Vijaya ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay). Đến đời vua Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa , vơ vét của cải , châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua tổ họ Phạm (chính là 18 Hùng vương ) , khiến Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh (Sri Vijaya – Qua oa ) về hợp cùng Mai Thúc Loan tức Mai Hắc đế (766) chống lại quân nhà Đường , về sau Phùng Hưng con của Phùng Tói Cái trước là tướng của Mai Hắc đế đánh lui quan quân nhà Đường phục hưng nước Nam , Phùng Hưng được tôn là Bố Cái Đại vương (Pi lô cô- Bì la Cáp) chúa nước Nam hay Nam chúa viết sai đi thành Nam Chiếu .

Lấy phần Tộc phả họ Phạm đã chỉnh sửa và chính sử Việt đối chiếu với truyện Nam Chiếu – Lĩnh nam trích quái nhận ra :

Thông tin trong truyện Nam Chiếu là những dòng sử bị bỏ sót của lịch sử Việt nam .

2 chữ Nam Chiếu nghĩa là chúa nước Nam tạo thành xương sống của câu chuyện có chiều dài thời gian sấp xỉ 1200 năm .

Nam chiếu nghĩa là chúa nước Nam chính là :

- Nam Việt vũ – Triệu Đà ; Triệu không phải họ mà là biến âm của Chậu – Chiếu –chuá , chuá Nam Việt gọi tắt là Nam chúa .

- Lý Nam đế (hậu) Lý Bí ; Nam đế là vua nước Nam cũng là Nam chiếu -Nam chúa .

- Mai Hắc đế , Hắc là màu đen sắc của phương nam tương tự Huyền thiên , Mai hắc đế là ông vua nước Nam họ Mai hay My .

- và cuối cùng là Phùng Hưng –Bố cái đại vương ; câu đối nơi đền thờ ....Phong thành phủ lỵ thái Nam bang ...chỉ ra nơi đóng đô là Phong thành , nước là nước Nam ...vua nước Nam đương nhiên là Nam chiếu - Nam chúa .

Đặc biệt Khu Liên được dân chúng tôn làm vua nước Lâm Ấp năm 192 , Thực ra không có nước Lâm Ấp , Lâm ấp là lối viết tắt của đại ấp Lâm nghĩa là thủ đô nước Lâm- nước Nam , Nam →Lam→Lâm ... rõ ràng Khu Liên là Nam Chiếu – Nam chúa , Khu Liên trong tộc phả họ Phạm biến thành Lý khu Kiên (Khu Liên thiết Kiên) ..., có nhà nghiên cứu nghi ngờ khu Liên không phải là nhân vật mà là tộc danh vì năm 137 cũng đã có 1 cuộc nổi loạn của Khu Liên ...không lẽ 2 cuộc binh biến cách nhau 55 năm cùng do 1 người cầm đầu ?, Thiên Nam ngữ lục làm sáng tỏ thêm vấn đề với câu ...Khu Linh người nước Nam ta ..; đầu tiên câu thơ này đã minh định nước ta tức nước của tiền nhân người Việt nam xưa tên là nước Nam , thông tin thứ 2 quan trọng không kém ....không phải là ‘Khu Liên’ mà là ‘Khu Linh’ , Khu Linh thiết Kinh ...phải chăng đây chính là tên của tộc người đa số đã tạo nên cộng đồng người nước Nam tức dân Nam ? .

Khu Linh thiết Kinh ; từ Kinh nghĩa là gì ?

-Kinh cũng là Canh chỉ hướng ngược với La , La – Canh là 2 đầu của La bàn còn gọi là kim chỉ Nam dùng xác định phương hướng như thế La - Canh đồng nghĩa với Bắc – Nam , Kim chỉ Nam 1 trong những phát minh lớn lao đã làm thay đổi lịch sử nhân loại .

-Kinh – Canh là sợi dệt ngang dùng chỉ đường kẻ ngang – trục nằm nói chung đối phản với Tung – tưng –tâng chỉ đường thẳng đứng- trục đứng , Canh ↔cánh ↔cành ....ngang cành bứa ...(Canh =hoành) , trong Thập can thì can canh là số 6 đối lập với can Tân –tưng là số 7, chu kỳ Thập can là đi hết 1 vòng trở về trung tâm là số 5 ở giữa Hà thư ; Canh và Tân bắt đầu cho vòng sau vì thế ta có từ kép ‘Canh-Tân’ nghĩa là đổi mới ...

-Kinh – Canh nghĩa là cô đặc lại ; là ý niệm cơ bản của âm – dương ...phần khí nhẹ bốc lên thành trời ...phần nặng chìm xuống cô –đặc lại thành ra đất ...

Xét như thế thì Thiên Nam ngữ lục đã trực tiếp chỉ ra ...tộc Kinh đã tạo nên nước Nam .

Chuyện Nam Chiếu chưa đầy trang giấy mà gói trọn 1200 năm lịch sử người họ Hùng thực là 1 tuyệt phẩm về lịch sử chỉ tại xưa nay người ta chưa nhìn thấu , chưa nắm bắt được vấn đề do lượng tin chứa trong vài hàng chữ ...vớ vẩn lớn qúa sức tưởng tượng nên đã có người cho ‘Lĩnh Nam trích quái’ là chuyện ... trâu ma rắn thần .. .

Cạnh chữ Việt , chữ Nam đã gắn bó với con cháu nhà Hùng từ thời thượng cổ ,không phải chỉ có hơn ngàn năm ngự trị của Nam chúa viết ở truyện Nam chiếu – Lĩnh Nam trích qúai mà từ thời Đế Nghiêu đã ....mệnh Hy Thúc trạch Nam Giao , tới thời Lý ở cận kim thời đại còn viết ...Nam quốc sơn hà Nam đế cư ..., thời Nguyễn đã có những năm tháng chữ NAM độc quyền trong quốc hiệu của con cháu nhà Hùng ( nước Đại Nam thời vua Minh Mạng ).

Có người cho quốc hiệu Việt nam ngày nay là ghép từ 2 thành phần An Nam – Việt Thường mà thành ... điều này không ổn vì tự thân người Việt chưa bao giờ nhận mình là An Nam , đấy là cái tên do vua quan con nhà ‘giời’ đặt ra chỉ 1 cộng đồng người mà họ tự cho là chư hầu của họ , thậm chí ‘nó’ có thể chỉ là sản phẩm do bọn bồi bút gia nô dốt nát tưởng tượng ra rồi chép vào sử ...vì An Nam quốc gốc là An Nam đô hộ phủ với chữ An là vỗ yên , làm cho yên ổn ...thì cụm từ ‘An Nam quốc’ thành ra chẳng nghĩa ngọn gì , sử liệu Trung quốc trước nhà Tống từng có chúa Chăm được phong là An Nam tướng quân Lâm Ấp vương chứ không hề có An Nam quốc vương .

Truyện Nam chiếu gói ghém thông tin lịch sử ngàn năm qúa sức dài , diễn tiến trước sau dựa vào phân kỳ lịch sử Trung quốc mà danh xưng các triều đại Trung quốc thì đầy những cái bẫy chữ nghĩa , Hán thì nào Tây Hán Đông Hán Bắc hán Nam Hán rồi hậu Hán , Hán triệu ...lu bù Hán ; Tấn cũng tương tự thế ...có cả đống Tấn , xin lưu ý những chữ nam bắc tây đông tiền hậu đều là do đời sau viết sử tự ý thêm vào chứ bản thân các triều đại ấy chỉ có mỗi chữ Hán hay Tấn trần trụi ...như thế hỏi làm sao tránh khỏi lầm lẫn ...râu ông này cắm cằm bà kia ...chính việc ‘cắm lộn’ râu này đã khiến truyện trong sách lĩnh Nam trích qúai trở nên ...trâu ma rắn thần ...vì khi đối chiếu với những tư liệu lịch sử khác ...thấy chẳng ra đâu vào với đâu ...

Nếu bình tâm Phân tích và hiệu chỉnh truyện Nam Chiếu ... vẫn có thể lắng lọc tìm được những Thông tin qúy gía của lịch sử Việt .

Thời Hiếu Vũ Đế, Thừa tướng của Triệu Đà là Lữ Gia không thần phục nhà Hiếu, giết sứ Hán là bọn An Quốc và Thiếu Quý. Hiếu Vũ sai Lộ Bác Đức và Dương Phác đem quân chinh phạt, bắt được Vệ Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia, thôn tính cả nước , phân đất đặt quan cai trị.

Họ Triệu mất nước, con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau hội họp nhau ở phía Tây và Bắc Giao chỉ giết các quan lệnh cai trị của nước Đông hãn , xưng là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu , Triệu hay Chiếu cũng nghĩa là chủ – chúa .

Cuối đời nước Đông hãn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là Triệu Ông Lý tức Lý Bí cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều nể phục, cùng hợp lại với quân Nam Chiếu, được hơn hai vạn người,bèn xưng đế lập nước NAM , kinh đô là Lâm ấp có đất đai phía đông tới biển ,phía tây tới Ba Thục ,phía nam giáp nước Bà Dạ,phía bắc giáp Cửu Chân , Triệu ông Lý – Lý Bí xưng là Lý Nam đế nghĩa là vua nước Nam .

Posted Image

Nhà Tấn sai tướng là Tư Mã ...? ( Tư mã là họ của vua nhà Tấn) đem quân sang đánh ; Nam Chiếu thua to chạy về đất Ai lao gọi là nước Đầu Mô (Đạo Minh - Đinh ?) . Quân Nam Chiếu lùi về phía nam ở cả một vùng từ núi Thiên Cầm tới các vùng Hà Hoa, Cao Hoàng, Hoành Sơn, Ô Đặc, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Đổ, Vọng Án và Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở, không có một vết chân người. Ông Lý mai phục ở rừng núi hiểm trở nơi đầu nguồn sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở núi Liên Vị, địch tới thì mình đi, địch đi thì mình tới, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5 năm trời, không hề đối đầu. Quân nhà Tấn không chịu nổi lam chướng, chết hơn quá nửa, bèn rút quân về không chiếm được đất phía Nam của Nam chúa .

Đời Tam Quốc, Tôn Quyền nhà Ngô sai Đái Lương, Lữ Đại đánh diệt anh em Sĩ Huy phong họ làm Thái Thú Giao chỉ để đánh dẹp Nam Chiếu cũng không thể đánh nổi .

Đời Tùy tướng Lưu Phương tiến quân chiếm mất phần đất bờ biển của Nam Chiếu nay là Thanh Nghệ tĩnh .

Sang đời Đường Nam Chiếu thần phục nhà Đường cả 1 giải đất Tây và Bắc Giao chỉ được tự trị gọi là châu KI Mi hay CƠ MY.

Năm Nhâm Tuất (722) là năm Khai Nguyên thứ 10 về đời vua Huyền Tông nhà Đường, ở Hoan Châu có một người tên là Mai Thúc Loan nổi lên chống cự với quân nhà Đường. Mai Thúc Loan là người huyện Thiên Lộc, tức là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, mặt mũi đen sì, sức vóc khỏe mạnh, thấy quan nhà Đường làm nhiều điều tàn bạo, dân gian khổ sở, lại nhân lúc bấy giờ lắm giặc giã,ông ấy bèn chiêu mộ những người nghĩa dũng, rồi chiếm giữ lấy một chỗ ở đất Hoan Châu (nay thuộc huyện Nam Đường tỉnh Nghệ An) rồi xây thành đắp lũy, xưng hoàng đế, tục gọi là Hắc Đế”.

Hắc đế tức Nam Chúa – Nam Chiếu (Hắc – màu đen chỉ phương Nam theo Dịch học nay lộn ngược thành phương Bắc) đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ (Chân Lạp hay Sri vijaya ?), xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển. Khi ấy nước Tây Bà Dạ chia đều đất ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Cầm châu dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Lâm An (?) giao cho Mai Hắc đế ., từ Hoan Châu (Hà Tĩnh hay Quảng Bình ?) đổ về phía nam gọi là lộ Già la hay vijaya sau gọi là Chàm Dừa, trung tâm là vùng Bình định ngày nay .

Lộ Già la – Vijaya sau tách khỏi liên bang Sri vijaya – Tây bà Gia và hợp nhất với đất Cau ở vùng Khánh hoà ngày nay , năm 757 trung tâm chính trị ‘Dừa – Cau’ chuyển về đất Khánh hoà thuộc Chàm Cau từ đó gọi là nước Hoàn vương , năm 875 đổi thành nước Chiêm thành – Chămpa .

Cầm châu ở tây – bắc Nghệ An nay là tỉnh Xiêng khoảng nước Lào , xưa là đất đông Mường Xwa và đã có thời là phủ Trấn Ninh thuộc lãnh thổ Đại Việt đây cũng chính là đất Bồn Man trong Chuyện Nam Chiếu này .

Sử sách Trung Quốc cũng ghi chép về liên minh quân sự này: “An Nam có Mai Thúc Loan làm phản, xưng Hắc Đế, dấy dân chúng 32 châu, bên ngoài liên kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân, chiếm giữ vùng Hải Nam, quân chúng có 40 vạn” (Tân Đường thư).

Sau nhà Đường cho quân đánh Mai hắc đế , Mai hắc đế chống không nổi thua chạy.. . lui quân về xứ Bồn Man xưng là Đầu hoành Mô quốc Bồn Mang ...

Khoảng niên hiệu Đại Lịch 791 (VNSL), chưa rõ đích xác vào năm nào, nhân lòng căm phẫn của nhân dân, Phùng Hưng và em là Phùng Hải đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền nhà Đường.

Phùng Hưng nghĩa là người đất Phong tên gọi là Hưng ...hoặc giả cũng có thể là danh hiệu chỉ người đã làm hưng khởi đất Phong ...chứ không phải họ và tên , Theo Sử thì Phùng Hưng về sau được xưng tụng là ‘Bố cái’ đại vương đặt tên nước là nước Nam như trong câu đối ở đền thờ ông ....Phong thành phủ lỵ thái Nam bang

Posted Image

Việt nam sử lược viết :

Ở phía Tây Bắc đất Giao Châu, tức là ở phía Tây tỉnh Vân Nam bây một xứ người nòi Thái ở. Người xứ ấy gọi vua là chiếu. Trước có 6 chiếu là Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng, Mông Xá. Chiếu Mông Xá ở về phía Nam nên gọi là Nam Chiếu.

Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời vua Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi.

Bì La Cáp mới đút lót cho quan Tiết Độ Sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Qui Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn (Tây Tạng) rồi dời đô lên đóng ở thành Thái Hòa (thành Đại Lý bây giờ).

Nhưng theo nhà nghiên cứu Bách Việt 18 :

.........Sách Lịch sử Thái Lan chép (Wyatt, David K.):

Năm Khai Nguyên thứ 26 (738), Bì La Các cầu Đường trợ giúp đánh bại La Quân Chiếu Điên Chi Thác, Lãng Khung Chiếu Chí La Quân, Thi Lãng Chiếu Bàng La Điên, Việt Tích Chiếu Vu Tặng, Mông Hề Chiếu Nguyên La, sách nhập ngũ chiếu. Nhà Đường phong cho Bì La Các làm Vân Nam Vương, ban danh là Mông Quy Nghĩa. Bì La Các lấy vùng tây Nhị Hà (tức Nhĩ Hải) làm cơ sở kiến lập nên Nam Chiếu Quốc. Năm sau, dời đô về thành Thái Hòa (tức thành cổ Đại Lý ngày nay).

Khun Borom được các sử gia Thái Lào xác định là vua Bì La Các (Piloko), người khởi đầu nước Nam Chiếu vào đầu thế kỷ 8 dưới triều Đường. Bì La (Pilo) thiết Bố. Bì Lô Các cũng là Bố Cái. Như vậy có thể thấy Khun Borom của người Lào Thái chính là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng của Việt Nam, người đã khởi nghĩa chống nhà Đường vào thế kỷ 8:

Thanh chấn Lý Đường, Thuận Đức niên gian uy Bắc khấu

Vận thừa Mai Đế, Phong thành phủ lỵ thái Nam Bang.

Niên hiệu của Khun Borom – Bố Cái được câu đối trên chép là Thuận Đức, đóng đô tại Phong Thành, lập nước là Nam Bang. Có thể thấy Phong thành đây chính là Mường Then – Điện Biên, nằm ngay cạnh tỉnh Phong Xa Lỳ của Lào. Nam Bang là nước phía Nam hay Nan Chao (theo tiếng Thái nghĩa là nước của người phương Nam). Nan Chao là Nam Chiếu.

..............

Truyện Nam chiếu – chúa nước Nam chính là dòng sử liên tục sấp sỉ 1200 năm Khởi từ thời Triệu Đà hay Chúa Đầu dựng nước Nam Việt truyền cho tới Phùng Hưng – Bì la Cáp xưng vương , niên hiệu Thuận Đức quốc hiệu Nam bang – nước Nam đã không được thể hiện đầy đủ trong lịch sử Việt nam đây là sự thiếu sót vô cùng lớn .

Nước Việt nam ngày nay không chỉ kế thừa lịch sử nước Đại Việt mà còn kế thừa cả lịch sử nước Nam Chao oai hùng từng 1 thời thống nhất Đông nam Á lục địa . ; Rất có thể quốc hiệu “Việt – Nam” hiện nay chính là “Đại Việt – Nam Châu” vậy .

Share this post


Link to post
Share on other sites

LÃO TỬ với

TÂY THĂNG KINH HÓA HỒ KINH

Lê Anh Minh

Tóm tắt: Khi một tôn giáo mới mẻ được du nhập vào một quốc gia thì ít nhiều sẽ phát sinh xung đột với một tôn giáo bản địa. Đó là trường hợp của Phật giáo trong giai đoạn bản địa hoá (localization) tại Trung Quốc. Tây Thăng Kinh Hoá Hồ Kinh là hai tác phẩm của Đạo giáo Trung Quốc nhằm tự đề cao tôn giáo mình, cho rằng Lão Tử sau khi truyền bộ Đạo Đức Kinh cho quan lệnh Doãn Hỉ trấn giữ Hàm Cốc quan thì ngài đã cỡi trâu đi sang hướng Tây để hoá độ người Hồ (tức người Ấn Độ) và đã truyền đạo cho Phật Thích Ca và 28 thiền tổ Ấn Độ. Bên Phật giáo cũng soạn sách phản bác lại. Hoá Hồ Kinh từ lâu đã bị xem là nguỵ thư và bị đốt bỏ từ đời Đường. Tuy vậy, sau khi Phật giáo đã được bản địa hoá (thậm chí Phật giáo còn vay mượn thuật ngữ của Đạo giáo trong việc phiên dịch kinh Phật sang Hán văn), vào đời Minh và đời Thanh đã nổi lên tinh thần «Tam giáo (Nho-Thích-Đạo) hợp nhất», chủ trương «Tam giáo đồng nguyên» (Tam giáo cùng nguồn gốc). Bài viết này nằm giở lại trang sử cũ, đọc lại một sự kiện trong lịch sử tôn giáo: một cuộc đại tranh luận non 1000 năm giữa Phật giáo và Đạo giáo trong quá trình phát triển của Phật giáo Trung Quốc kể từ khi du nhập, tức là từ đời Hán cho đến nay.

Hành trạng của Lão Tử sau khi rời đất Chu được ghi chép trong Tây Thăng Kinh 西昇經. Tây Thăng Kinh diễn giải yếu nghĩa của Đạo Đức Kinh. Tác phẩm này được đưa vào Động Thần bộ 洞神部 của Chính Thống Đạo Tạng 正統道藏. Tác giả và thời gian hình thành tác phẩm chưa rõ. Livia Kohn cho rằng Tây Thăng Kinh xuất hiện khoảng thế kỷ V cn nhưng không biết cụ thể niên đại và tác giả.[1]

Posted Image
Lão Tử kỵ ngưu 老子騎牛
(Lão Tử cưỡi trâu), tranh của Triều Bổ Chi 晁補之
(Triều Vô Cữu 晁無咎
, 1053-1110) đời Bắc Tống.

Theo Khanh Hy Thái, tác giả Tây Thăng Kinh mượn danh quan đại phu nhà Chu là Quan Lệnh Doãn Hỉ 關令尹喜 và căn cứ vào Lão Tử Đạo Đức Kinh mà soạn thành sách. Tên Tây Thăng Kinh lần đầu xuất hiện trong Thần Tiên Truyện 神仙傳 của Cát Hồng葛洪, như vậy khoảng đời Ngụy-Tấn, một đạo sĩ nào đó sáng tác ra. Hiện tồn bản Tây Thăng Kinh do Tống Huy Tông [tại vị 1101-1126] ngự chú 宋徽宗御注西昇經 (3 quyển, nhưng trong quyển chót của Đạo Tạng Tập Yếu 道藏集要 thì chép là một quyển) và bản Tây Thăng Kinh Tập Chú 西昇經集注 của đạo sĩ Trần Cảnh Nguyên 陳景元 (tức Bích Hư Tử 碧虛子, 1025-1094) đời Tống kết tập thành 6 quyển. Cả hai bản đều có 39 chương nhưng văn tự nhiều chỗ bất đồng.[2]

Theo Livia Kohn, ngoài hai bản trên, gần đây xuất hiện bản Tây Thăng Kinh do đạo sĩ Lý Vinh 李榮 (sơ Đường) chú. Bản này do Fujiwara Takao (Đằng Nguyên Cao Nam 藤原高男) công bố năm 1983.[3] Theo bản Tây Thăng Kinh do nữ giáo sư Livia Kohn (Đại học Boston) sưu tầm,[4] ngay chương đầu thuật lại việc Lão Tử đi sang Ấn Độ truyền đạo: «Lão Tử tây thăng, khai đạo Trúc Càn, hiệu Cổ tiên sinh, thiện nhập vô vi, bất chung bất thủy, vĩnh tồn miên miên. Thị dĩ, thăng tựu đạo kinh lịch quan. Quan Lịnh Doãn Hỉ kiến khí, trai đãi ngộ tân. Vị thuyết đạo đức, liệt dĩ nhị thiên.» (Chương 1: Tây thăng) 老子西昇,開道竺乾,號古先生,善入無為,不終不始永存綿綿.是以昇就道經歷關.關令尹喜見氣,齋待遇賓,為說道德,列以二篇 [1.西昇] (Lão Tử bay về hướng tây để mở đạo tại Trúc Càn (tức Ấn Độ). Ngài được gọi là Cổ tiên sinh, rất giỏi nhập vào vô vi, [nên ngài trở nên] vô thủy vô chung, miên miên trường tồn. Vì thế, ngài bay [về hướng tây] đem đạo đến ải quan. Quan lệnh ở đó là Doãn Hỉ trông thấy khí [đỏ tía] của ngài, bèn trai giới đón tiếp. [Lão Tử] vì quan lệnh mà thuyết hai chương đạo kinh và đức kinh.

Ấn Độ ngày xưa cũng gọi là Thiên Trúc 天竺, Tây Trúc 西竺, trong Tây Thăng Kinh gọi là Trúc Càn 竺乾. Chữ kiến khí 見氣 trong chương này ứng với câu rất nổi tiếng tử khí đông lai 紫氣東來 (làn khí đỏ tía từ hướng đông bay tới). Rõ ràng «tây thăng» là bay về hướng tây, tức là sang Ấn Độ.

Câu chuyện trên rất gần với những gì chép trong Thần Tiên Truyện 神仙傳 của Cát Hồng (khoảng đầu thế kỷ IV cn). Nhưng Cát Hồng 葛洪 ghi chép nhiều chi tiết ly kỳ ở Hàm Cốc quan 函谷關 thuộc núi Chung Nam 鐘南: «Lão Tử thuê một tiểu đồng tên Từ Giáp 徐甲 phục vụ với giá 100 tiền một ngày. Đến nay đã nợ Từ Giáp bảy triệu hai. Khi thấy Lão Tử sắp rời bỏ Trung Quốc, Từ Giáp bèn đòi tiền. Lão Tử không chịu trả. Một tên tôi tớ nơi Hàm Cốc quan biết chuyện bèn xúi Từ Giáp đi kiện nơi quan lệnh (Doãn Hỉ), nhưng hắn không biết rằng Từ Giáp theo hầu Lão Tử được trên 200 năm rồi. Hắn chỉ biết Từ Giáp sẽ có một món tiền lớn nên ngỏ ý gả con gái cho Từ Giáp. Thấy ả ta xinh gái, Từ Giáp rất bằng lòng. Họ rủ nhau đến gặp quan lệnh Doãn Hỉ. Ngài cực kỳ kinh ngạc. Bấy giờ Lão Tử nói với Từ Giáp rằng: ‘Mi lẽ ra đã chết từ lâu. Lần đầu gặp và thuê mi, mi là tên nô lệ nghèo mạt. Nhưng vì ta không có tiểu đồng nên mới thuê mi và cho mi sống lâu nhờ Thái Huyền thanh mệnh phù. Vì thế mà mi mới thấy ngày nay. Mi còn than phiền nỗi gì? Ta đã bảo khi nào đến Côn Lôn sẽ trả vàng cho mi, sao mi không chờ nổi?’ Lão Tử buộc Từ Giáp há mồm và bảo mọi người nhìn xuống mặt đất. Chiếc phù phóng ra khỏi miệng Từ Giáp, cắm thẳng xuống đất, trên đó có chữ đan 丹 đọc còn rõ. Ngay tức khắc Từ Giáp biến thành bộ xương. Quan lệnh từ bi, xin Lão Tử cứu Từ Giáp sống lại. Từ Giáp sống lại, Lão Tử trả tiền công và đuổi hắn đi. Từ đó Doãn Hỉ rất sùng bái Lão Tử và xin ngài truyền bí thuật trường sinh. Lão Tử truyền lại Đạo Đức Kinh, Doãn Hỉ theo đó mà tu luyện thành tiên.» [5]

Thần Tiên Truyện cho rằng Lão Tử đi về núi Côn Lôn và Tây Thăng Kinh cho rằng Lão Tử bay về hướng tây truyền đạo ở Ấn Độ (Hóa Hồ). Thuyết Lão Tử Hóa Hồ (the conversion of the barbarians) thực sự bắt đầu xuất hiện từ đời Đông Hán thời vua Hoàn Đế 桓帝. Bấy giờ quan thượng thư Tương Khải 襄楷 [6] (năm 116 cn) trình tấu với Hán Hoàn Đế rằng: «Hoặc ngôn Lão Tử nhập di địch vi Phù Đồ,[7] Phù Đồ bất tam túc tang hạ, bất dục cửu sinh ân ái, tinh chi chí dã. Thiên thần di dĩ hảo nữ, Phù Đồ viết: Thử đản cách nang thịnh huyết, toại bất phán chi. Kỳ thủ nhất như thử, nãi năng thành đạo.» 或言老子入夷狄為浮屠,浮屠不三宿桑下,不欲久生恩愛精之至也.天神遺以好女,浮屠曰此但革囊盛血,遂不盼之.其守一如此,乃能成道. (Có người bảo rằng Lão Tử vào xứ của bọn rợ mà thành Phật. Phật không nghỉ đêm dưới cây dâu ba lần,[8] không muốn sinh lòng ân ái lâu dài, tinh chuyên một mực như vậy. Thiên thần tặng cho gái đẹp, Phật nói đó là túi da đầy máu nên không nhìn. Cứ gìn giữ một lòng như thế là có thể thành đạo).

Liệt Tiên Truyện 列仙傳 (xuất hiện từ thế kỷ II cn, nhưng thường bị gán nhầm do Lưu Hướng 劉向 sáng tác khoảng năm 77-76 tcn) ghi chép tiểu truyện của Quan Lệnh Doãn 關令尹 rằng sau khi nhận Đạo Đức Kinh từ Lão Tử, Doãn Hỉ tháp tùng Lão Tử sang Lưu Sa để hóa độ rợ Hồ (Ấn Độ): «Dữ Lão Tử câu du Lưu Sa Hóa Hồ.» 與老子俱遊流沙化胡 (Cùng với Lão Tử đi sang vùng sa mạc ‘Cát Trôi' để hóa độ rợ Hồ).[9]

Lời bình của Bùi Tùng Chi 裴松之 về bộ Tam Quốc Chí 三國志 (phần Ngụy Thư 魏書; xuất bản năm 429 cn) có chú dẫn Ngụy Lược 魏略- Tây Nhung Truyện 西戎傳 (do Ngư Hoạn 魚豢 soạn khoảng giữa thế kỷ III cn) cung cấp thêm cho ta về sự kiện Hóa Hồ này: «Phù Đồ sở tái dữ Trung Quốc Lão Tử Kinh tương xuất nhập, cái dĩ vi Lão Tử tây xuất quan, quá Tây Vực chi Thiên Trúc, giáo Hồ. Phù Đồ thuộc đệ tử biệt hiệu, hợp hữu nhị thập cửu.» 浮屠所載與中國老子經相出入蓋以為老子西出關過西域之天竺教胡浮屠屬弟子別號合有二十九. (Những gì ghi trong kinh Phật tương tự với [nội dung] Lão Tử Đạo Đức Kinh của Trung Quốc. Người ta cho rằng Lão Tử đi về hướng tây, ra khỏi ải quan, vượt qua nước Thiên Trúc ở Tây Vực, giáo Hóa rợ Hồ ...) Đoạn chót câu này, Zürcher bảo nên đọc là: «... Hóa Hồ vi Phù Đồ, thuộc đệ tử biệt hiệu, hợp hữu nhị thập cửu.» 化胡為浮屠屬弟子別號合有二十九 (... giáo Hóa rợ Hồ thành Phật, đó là biệt hiệu dành cho cả thảy 29 đệ tử). Theo trên, Phật Thích Ca cùng với 28 thiền tổ Ấn Độ [10] là 29 đệ tử của Lão Tử. Dựa trên cơ sở này, đạo sĩ Vương Phù 王浮 (tức Cơ Công Thứ 基公次) đời Tây Tấn (265-316) [11] soạn Lão Tử Hóa Hồ Kinh. Nhưng tác phẩm này ra đời do một động lực khác. Năm cuối triều vua Huệ Đế 惠帝 (tại vị 290-306) đời Tây Tấn, một danh tăng tên là Bạch Viễn 帛遠 (tự là Pháp Tổ 法祖) đã bác bỏ thuyết Lão Tử Hóa Hồ. Bạch Viễn và Vương Phù tranh luận nhau. Vương Phù thua bèn sáng tác quyển Lão Tử Hóa Hồ Kinh để bênh vực quan điểm của mình. Sự việc này được ghi chép trong vài tư liệu như:

1.Cao Tăng Truyện 高僧傳 của Huệ Kiểu 慧皎 (497-554) sáng tác khoảng năm 530 cn, chép rằng: «Sau khi Bạch Viễn mất không lâu, có người tên Lý Thông chết đi sống lại. Lý Thông nói đã gặp Pháp Tổ (tức Bạch Viễn) nơi âm phủ đang giảng kinh Śūramgama-samādhi (Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội 首楞嚴三昧) cho vua Yāma (Diêm Ma Vương 閻魔王) nghe... Đồng thời Lý Thông cũng thấy tên tế tửu [12] Vương Phù tức đạo sĩ Cơ Công Thứ mang gông cùm xiềng xích một mực van xin Pháp Tổ thương xót hắn. Trước đây, lúc sinh bình, Pháp Tổ đã luôn tranh luận với Vương Phù về chuyện chính tà. Vương Phù cãi thua Pháp Tổ, uất ức không nhịn được bèn sáng tác Lão Tử Hóa Hồ Kinh để hủy báng đạo Phật.»

2.Tấn Thế Tạp Lục 晉世雜錄 (khoảng đầu thế kỷ V cn) chép: «Đạo sĩ Vương Phù đã từng tranh luận với sa môn Bạch Viễn và cãi thua. Sau đó họ Vương mới cải biên Tây Vực Truyện 西域傳 thành Hóa Hồ Kinh, nói rằng Doãn Hỉ đi theo Lão Tử sang Tây Vực giáo hóa rợ Hồ và thành Phật. Đạo Phật bắt đầu từ đó.»

3.Cao Tăng Truyện 高僧傳 (cũng gọi Chúng Tăng Truyện 眾僧傳) của Bùi Tử Dã 裴子野 (467-528) chép rằng: «Dưới triều Tấn Huệ Đế, sa môn Bạch Viễn tự Pháp Tổ đã từng tranh luận với tên tế tửu Vương Phù (tức đạo sĩ Cơ Công Thứ) về vấn đề chính tà. Vương thua, uất ức mới phỏng theo Tây Vực Truyện mà sáng tác Hóa Hồ Kinh để hủy báng đạo Phật. Quyển sách này đã lưu truyền khắp nơi.»

4.U Minh Lục 幽明錄 của Lưu Nghĩa Khánh 劉義慶 (403-444) cũng viết như Cao Tăng Truyện của Huệ Kiểu, nhưng thêm chi tiết là Lý Thông quê ở Bồ Thành 蒲城 Thiểm Tây 陝西.[13]

Lão Tử Hóa Hồ Kinh chỉ có một quyển, người đời sau tăng bổ thành 10 quyển. Thông Chí 通志 - Nghệ Văn Lược 藝文略 ghi là 10 quyển, Quận Trai Độc Thư Chí 郡齋讀書志 (của Triều Công Vũ 晁公武) quyển 16, ghi là 10 quyển, Văn Hiến Thông Khảo 文獻通考 quyển 224 cũng ghi là có 10 quyển. Tất cả đều chú dẫn Tam Quốc Chí Chú 三國志注 (của Bùi Tùng Chi 裴松之), Tân Đường Thư 新唐書 - Nghệ Văn Chí 藝文志, v.v... nói về nguyên nhân phát sinh cố sự Hóa Hồ thành Phật và cuộc tranh luận về sự chân ngụy của Hóa Hồ Kinh. Bản Đôn Hoàng Lão Tử Hóa Hồ Kinh 10 quyển bị hư hoại, chỉ còn giữ được quyển 2, 8, và 10. Nội dung chủ yếu của Hóa Hồ Kinh là kể lại câu chuyện dẫn Quan Lệnh Doãn Hỉ đi sang hướng tây, vào nước Thiên Trúc (Ấn Độ), Hóa thành Phật Đà, lập ra Phù Đồ giáo (tức Phật giáo).

Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra đời, làm nảy sinh một đại công án tôn giáo kéo dài gần 1000 năm. Bên Đạo giáo cố gắng chứng minh rằng Đạo giáo có trước Phật giáo, và Lão Tử hóa thành Phật rồi mở đạo Phật tại Ấn Độ. Họ sáng tác thêm một số tác phẩm để bênh vực quan điểm như: Huyền Diệu Nội Thiên 玄妙內篇, Xuất Tái Ký 出塞記, Quan Lệnh Doãn Hỉ Truyện 關令尹喜傳, Văn Thủy Nội Truyện 文始內傳, Lão Quân Thiên Khai Kinh 老君天開經, v.v... Bên Phật giáo ngoài việc chứng minh sự việc Hóa Hồ là hư ngụy, họ còn sáng tác những quyển như Chu Thư Dị Ký 周書異記, Hán Pháp Bản Nội Truyện 漢法本內傳, v.v. chứng minh rằng Phật Thích Ca là sư phụ của Khổng Tử và Lão Tử.[14] Đến đời Đường Cao Tông 唐高宗, và sau là thời Vũ Chu 武周 (thời Vũ Tắc Thiên 武則天 xưng đế, bà đổi quốc hiệu là Chu 周), chư tăng xin triều đình cấm và hủy bỏ Hóa Hồ Kinh. Mặc dù bát đại học sĩ tâu rằng kinh này không có gì tà ngụy nhưng triều đình cũng hai lần hạ lệnh đốt bỏ (dưới triều Cao Tông và dưới triều Vũ Hậu). Nhưng bấy giờ mệnh lệnh không nghiêm, Hóa Hồ Kinh vẫn tiếp tục lưu hành. Đến đời Nguyên, dưới triều vua Hiến Tông 憲宗 (tại vị 1251-1260) và Thế Tổ 世祖 (tại vị 1260-1295), Toàn Chân đạo 全真道 xâm chiếm chùa miếu và điền sản của Phật giáo. Phật giáo lại đem Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra tố cáo là ngụy kinh. Thêm một lần nữa Phật giáo và Đạo giáo lại tranh luận kịch liệt. Năm thứ 8 (tức 1259) vua Hiến Tông và năm Chí Nguyên 至元 18 (tức 1282) vua Thế Tổ, Toàn Chân đạo hai lần biện luận đại bại, và triều đình nhà Nguyên hai lần hạ lệnh đốt bỏ đạo kinh. Lão Tử Hóa Hồ Kinh từ đó bị đốt mất. Chính Thống Đạo Tạng 正統道藏 và Vạn Lịch Tục Đạo Tạng 萬歷續道藏 đời Minh đều không ghi chép Hóa Hồ Kinh.[15]

Lão Tử Hóa Hồ Kinh mang nội dung hư cấu về hành trạng Lão Tử sau khi để lại cho Doãn Hỉ bộ Đạo Đức Kinh. Điều mà con người hiện nay quan tâm không phải là nội dung Hóa Hồ Kinh mà chính là ôn lại một cuộc đại tranh luận non 1000 năm giữa Phật giáo và Đạo giáo trong lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc kể từ khi du nhập, tức là từ thời Lưỡng Hán cho đến nay.

LÊ ANH MINH

Xem tiếp: Lão Tử Tây Thăng Kinh - Lê Anh Minh phiên dịch & chú giải

CHÚ THÍCH

[1] Livia Kohn, Taoist Mystical Philosophy: The Scripture of Western Ascension, State University of New York Press, 1991, tr. 4.

[2] Khanh Hy Thái 卿希泰 chủ biên, Trung Quốc Đạo Giáo 中國道教, Thượng Hải, 1996, quyển 2, tr. 66.

[3] Livia Kohn, sđd., tr. 23. Fujiwara Takao (Đằng Nguyên Cao Nam 藤原高男), Tây Thăng Kinh Lý Vinh chú 西昇經李榮注 (Saishōkyō ri ei chū), Hương Xuyên Đại Học Nhất Ban Giáo Dục Nghiên Cứu 香川大學一般教育研究 (Kagawa daigaku kokubun kenkyū), 1983.

[4] Livia Kohn, sđd., tr. 323.

[5] Livia Kohn dịch sang tiếng Anh, sđd., tr. 62-64.

[6] Livia Kohn ghi là Hoài Khải 欀楷 (sđd., tr. 65), Khanh Hy Thái (sđd, quyển 2, tr. 64) và Zürcher (The Buddhist Conquest of China, Taiwan, 1970, tr. 291) ghi là Tương Khải 襄楷.

[7] Chữ Buddha (Phật) được phiên sang Hán âm bằng nhiều chữ như: Phật Đà 佛陀, Phù Đà 浮陀, Phù Đồ 浮圖 (hoặc 浮屠), Phù Đầu 浮頭, Bột Đà 勃陀 (hoặc 浮馱), Bộ Đa 部多, Bộ Đà 部陀, Vô Đà 毋陀 hoặc 毋馱, Một Đà 沒馱 (hoặc 沒陀), Phật Đà 佛陀, Bộ Tha 步他, Phục Đậu 复豆, Phật Đồ 佛圖, Phật 佛, Bộ Đà 步陀, Vật tha 物他, v.v. Xem bài «Phù Đồ dữ Phật» 浮屠與佛 (Phù Đồ và Phật) in trong tập tiểu luận Trung Ấn Văn Hóa Quan Hệ Sử Luận Tùng 中印文化關係史論叢 (Luận về mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc và Ấn Độ) của Quí Tiện Lâm 季羨林 (Bắc Kinh, 1957, tr. 9).

[8] Tại sao gọi là nghỉ đêm dưới cây dâu? Có lẽ đây là sự hiểu nhầm từ chữ tang môn 桑門. Nó không có nghĩa là nhà dâu để rồi bị suy diễn là nghỉ đêm dưới cây dâu. Thời Hán đã có thuật ngữ này, đồng nghĩa với sa môn 沙門. Cả hai đều là phiên âm từ tiếng Phạn: Śramaņa. Ngữ căn Śram có nghĩa là nỗ lực. Śramaņa còn phiên âm là bà môn 婆門, tang môn 喪門, sa môn na 沙門那, xá la ma nã 舍羅摩拿, thất ma ná nã 室摩那拿. Thuật ngữ này chỉ bậc xuất gia tu đạo.

[9] E. Zürcher, The Buddhist Conquest of China, Taiwan, 1970, tr. 291.
Trong kinh cúng tứ thời của Cao Đài giáo (bài Tiên giáo 仙教) có câu «Tử khí đông lai, quảng truyền đạo đức; lưu sa tây độ, pháp hóa tướng tông» 紫氣東來廣傳道德流沙西度法化相宗 có lẽ bắt nguồn từ thuyết «du Lưu Sa Hóa Hồ» 遊流沙化胡 này.

[10] Tây thiên nhị thập bát tổ 西天二十八祖 (saiten-nijūhasso): 1. Ma-ha-ca-diếp (diệp) 摩訶迦葉 (Mahākā-śyapa), 2. A-nan 阿難 (Ānanda), 3. Thương-na-hoà-tu 商那和修 (Śāņakavāsa), 4. Ưu-bà-cấp-đa 優婆笈多 (Upagupta), 5. Đề-đa-ca (già) 提多迦 (Dhrtaka), 6. Di-ca (già)-ca 彌遮迦 (Mikkaka), 7. Bà-tu-mật 婆須蜜 (Vasumitra), 8. Phật-đà-nan-đề 佛陀難提 (Buddhanandi), 9. Phục-đà-mật-đa 伏馱密多 (Buddhamitra), 10. Hiếp-tôn-giả 脅尊者 (Pārśvika), 11. Phú-na-da-xá 富那耶舍 (Puņyayaśas), 12. Mã-minh-đại-sĩ 馬鳴大士 (Aśvaghosa), 13. Ca-bì-ma-la 迦毗摩羅 (Kapimala), 14. Long Thụ 龍樹 (Nāgārjuna), 15. Ca-na-đề-bà 迦那提婆 (Kãnïadeva), 16. La-hầu-la-đa 羅候羅多 (Rāhūlata), 17. Tăng-già-nan-đề 僧迦難提 (Sanghanan-di), 18. Già-da-xá-đa 迦耶舍多 (Gayāśata), 19. Cưu-ma-la-đa 鳩摩羅多 (Kumārata), 20. Đồ-dạ-đa 闍夜多 (Yajata), 21. Bà-tu-bàn-đầu 婆修盤頭 (Vasubandhu), 22. Ma-nã-la 摩拿羅 (Manorhita), 23. Hạc-lặc-na 鶴勒那 (Haklena), 24. Sư-tử-tôn-giả 獅子尊者 (Āryasimha), 25. Bà-xá-tư-đa 婆舍斯多 (Basiasita), 26. Bất-như-mật-đa 不如密多 (Puņyamitra), 27. Bát-nhã-đa-la 般若多羅 (Prajñātāra), 28. Bồ-đề-đạt-ma 菩提達磨 (Bodhidharma). Trích dẫn: Trung Anh Phật Học Từ Điển 中英佛學辭典, Đài Bắc, 1962, tr. 22; và Nhật Anh Phật Giáo Từ Điển 日英佛教辭典 (mục từ saiten-nijūhasso), Tōkyō, 1965, tr. 247.

[11] Zürcher cho rằng Vương Phù viết quyển này vào đầu thế kỷ V công nguyên (sđd., tr. 293).
Khanh Hy Thái chép Vương Phù sống vào đời Tây Tấn (sđd., quyển 2, tr. 64).
Vương Hữu Tam cũng chép Vương Phù sống vào đời Tây Tấn: «Nói chung Phật giáo du nhập vào Trung Quốc khoảng thời Lưỡng Hán. [...] Năm du nhập chính xác là bao nhiêu thì lịch sử còn phân vân. Không ít tín đồ Phật giáo đời sau đã cùng nhau xuyên tạc [thời gian du nhập] nên không đủ tin cậy. Đặc biệt là Phật giáo và Đạo giáo đời Ngụy Tấn đã tranh nhau cao thấp nên rất nhiều tín đồ đã đưa ra nhiều giả thuyết tranh giành thời gian xuất hiện trước sau. Đạo sĩ đời Tây Tấn là Vương Phù từng ngụy tạo Lão Tử Hóa Hồ Kinh, nói Lão Tử đi sang Lưu Sa hướng tây, vào Thiên Trúc thành Phật, giáo hóa Hồ nhân, Thích Ca Mâu Ni là đệ tử của Lão Tử. Tín đồ Phật giáo cũng công kích lại, đưa ra nhiều thuyết, cho rằng Phật giáo có trước Đạo giáo, du nhập vào Trung Quốc rất sớm.» (Vương Hữu Tam 王友三, Trung Quốc Tôn Giáo Sử 中國宗教史, quyển I, Tề Lỗ xuất bản xã 齊魯出版社, Tế Nam 濟南, 1991, tr. 353)

[12] Tế tửu 祭酒: Đạo sĩ có nhiệm vụ rót rượu tế lễ. Từ Hải giảng: «Tế tửu là nghi lễ cổ, trong yến tiệc lớn thì vị khách có tuổi tác cao sẽ rót rượu dâng cúng. Từ đó tế tửu là danh xưng tôn kính, ý nói một vị tuổi cao hơn và phẩm hạnh trội hơn những người khác trong nhóm. Về sau, tế tửu là tên một chức quan. Như quan thị trung 侍中 (đời Hán) và quan tản kỵ thường thị 散騎常侍 (đời Ngụy) nếu có công trạng lớn thì được thăng làm quan tế tửu. Ngoài ra, trong các quan bác sĩ đời Hán, vị nào thông minh uy trọng thì được cử làm tế tửu. Từ đời Ngụy về sau có chức quan Quốc tử tế tửu 國子祭酒. Đến cuối đời Thanh thì chức quan này mới bị bỏ đi.» (Sđd., tr. 928, mục từ Tế tửu).
Charles O. Hucker (A Dictionary of Official Titles in Imperial China, Taipei, 1995, trang 130), dịch chức tế tửu là «Libationer» và giảng đại khái: đời Hán đó là chức danh tôn quý giành cho các lão quan ưu tú. Ngoài ra, cũng có thể dịch chức này là «Chancellor»: Từ đời Hán đến đời Thanh, đó là chức quan cao nhất, phụ trách về giáo dục nơi Nhà Thái Học 太學 (từ đời Tùy gọi là Quốc Tử Giám 國子監). Chức danh này bắt nguồn từ chức Bác Sĩ nơi nhà Thái Học đời Tiền Hán. Đời Thanh có hai người được bổ nhiệm làm tế tửu: một là người Hán, một là người Mãn. Thường gọi là Quốc Tử Tế Tửu 國子祭酒.
Theo Trương Chí Triết, trong hệ thống cấp bậc của Đạo giáo, cuối đời Hán, Ngũ Đấu Mễ Đạo 五斗米道 hưng thịnh, Trương Lỗ 張魯 tự xưng là Sư Quân 師君. Kẻ mới nhập đạo gọi là Quỷ tốt 鬼卒; đạo đồ cốt cán gọi là Tế tửu. Về sau tín đồ gia tăng, có chức Đại tế tửu 大祭酒 là chức đứng đầu một Trị 治. Trị là một đạo trường hay giáo xứ, coi như một đơn vị hành chánh của Ngũ Đấu Mễ Đạo; mục đích mỗi trị trước là trấn giữ nhân tâm, sau là lập đài quan sát tinh tú. Lúc đầu có 24 trị, sau tăng lên thành 48 trị, lấy Dương Bình trị 陽平治 làm trung tâm. (Xem: Trương Chí Triết 張志哲, Đạo giáo văn hóa từ điển 道教文化辭典, Giang Tô Cổ Tịch xbx, 1994, tr. 860, 881).

[13] Zürcher, sđd., tr. 294.

[14] Khanh Hy Thái, sđd., quyển 2, tr. 64.

[15] Khanh Hy Thái, sđd., quyển 2, tr. 65.

Share this post


Link to post
Share on other sites

NHÂN XEM LẠI LÃO TỬ HÓA HỒ KINH 03/03/2008 Lão Tử Hóa Hồ Kinh là một tác phẩm của đạo sĩ Vương Phù (Cơ Công Thứ), đời Tây Tấn (265-316) ở Trung Quốc. Nội dung chủ yếu kể lại câu chuyện dẫn Quan Lệnh Doãn Hỉ đi sang hướng Tây, vào nước Thiên Trúc (Ấn Độ), Hóa thành Phật Đà, lập ra Phù Đồ giáo (tức Phật giáo).

Tấn Thế Tạp Lục (khoảng đầu thế kỷ 5) chép: "Đạo sĩ Vương Phù đã từng tranh luận với sa môn Bạch Viễn và cãi thua. Sau đó họ Vương mới cải biến Tây Vực Truyện thành Hóa Hồ Kinh, nói rằng Doãn Hỉ đi theo Lão Tử sang Tây Vực giáo hóa rợ Hồ và thành Phật. Đạo Phật bắt đầu từ đó." Thuyết Lão Tử Hóa Hồ thực sự bắt đầu xuất hiện từ đời Đông Hán thời vua Hoàn Đế. Bạch Viễn và Vương Phù tranh luận nhau. Vương Phù thua bèn sáng tác quyển Lão Tử Hóa Hồ Kinh để bênh vực quan điểm của mình.

Năm cuối triều vua Huệ Đế (290-306) đời Tây Tấn, một danh tăng tên là Bạch Viễn (tự là Pháp Tổ) đã bác bỏ thuyết Lão Tử Hóa Hồ. Thần Tiên Truyện cho rằng Lão Tử đi về núi Côn Lôn và Tây Thăng Kinh cho rằng Lão Tử bay về hướng tây truyền đạo ở Ấn Độ (Hóa Hồ).

Lão Tử Hóa Hồ Kinh chỉ có một quyển, người đời sau tăng bổ thành 10 quyển. Thông Chí Nghệ Văn Lược ghi là 10 quyển, Quận Trai Độc Thư Chí (của Triều Công Vũ) quyển 16, ghi là 10 quyển, Văn Hiến Thông Khảo quyển 224 cũng ghi là có 10 quyển. Tất cả đều chú dẫn Tam Quốc Chí Chú (của Bùi Tùng Chi), Tân Đường Thư Nghệ Văn Chí, v.v. nói về nguyên nhân phát sinh cố sự Hóa Hồ thành Phật và cuộc tranh luận về sự chân ngụy của Hóa Hồ Kinh. Bản Đôn Hoàng Lão Tử Hóa Hồ Kinh 10 quyển bị hư hoại, chỉ còn giữ được quyển 2, 8, và 10.

Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra đời, tạo thành một cuộc tranh luận về tôn giáo kéo dài gần 10 thế kỷ. Đạo giáo cố gắng chứng minh rằng Đạo giáo có trước Phật giáo, và Lão Tử hóa thành Phật mở đạo Phật tại Ấn Độ. Các Đạo sĩ cố sáng tác một số tác phẩm để bênh vực quan điểm như: Huyền Diệu Nội Thiên, Xuất Tái Ký, Quan Lệnh Doãn Hỉ Truyện, Văn Thủy Nội Truyện, Lão Quân Thiên Khai Kinh, v.v. Bên Phật giáo ngoài việc chứng minh sự việc Hóa Hồ Kinh là hư ngụy, họ cũng ra sức sáng tác những quyển như Chu Thư Dị Ký, Hán Pháp Bản Nội Truyện, v.v. chứng minh rằng Phật Thích Ca là sư phụ của Khổng Tử và Lão Tử. Đến đời Đường Cao Tông, và sau là thời Vũ Chu (thời Vũ Tắc Thiên xưng đế, đổi quốc hiệu là Chu), chư tăng xin triều đình cấm và hủy bỏ Hóa Hồ Kinh. Mặc dù bát đại học sĩ tâu rằng kinh này không có gì tà ngụy nhưng triều đình cũng hai lần hạ lệnh đốt bỏ nó (Dưới triều Cao Tông và dưới triều Vũ Hậu). Nhưng bấy giờ do pháp luật không nghiêm, Hóa Hồ Kinh vẫn tiếp tục lưu hành. Đến đời Nguyên, dưới triều vua Hiến Tông (tại vị 1251-1260) và Thế Tổ (tại vị 1260-1295), Toàn Chân đạo xâm chiếm chùa miếu và điền sản của Phật giáo. Phật giáo lại đem Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra tố cáo là ngụy kinh. Thêm một lần nữa Phật giáo và Đạo giáo lại tranh luận kịch liệt. Năm thứ 8 (tức 1259) vua Hiến Tông và năm Chí Nguyên 18 (tức 1282) vua Thế Tổ, Toàn Chân đạo hai lần biện luận đại bại, và Nguyên triều hai lần hạ lệnh đốt bỏ đạo kinh. Lão Tử Hóa Hồ Kinh từ đó bị đốt mất. Chính Thống Đạo Tạng và Vạn Lịch Tục Đạo Tạng đời nhà Minh đều không ghi chép Hóa Hồ Kinh.

Đến nay, mỗi lần sang xứ sở Trung Hoa, chứng kiến những tàn tích còn sót lại của Tam Giáo trên đất nước vĩ đại này, lòng tôi lại bồi hồi nhớ lại những trang lịch sử văn hiến đầy biến động và huy hoàng của văn minh Hoa Hạ.

Nguyễn Hạnh

Tánh Không Luận Là gì ?

Tuệ Sỹ

-- o0o --

(I)

Wenn am Sommertag der Falter sich auf die Blume nieder lasst und, die Fluegel geschlossen, mit ihr Wiesenwind schwing… (Martin HEIDEGGER, Aus der Erfahrung des Denkens) Có thể vay mượn những lời như vậy để khởi đầu cho sự chờ đợi tiếng vọng đáp ứng của những gì đó đang ẩn mình trong bóng tối. Những lời được vay mượn ấy không nhất thiết phải là đồng thanh với những cái sắp đáp ứng. Sự tựu thành của những cái đáp ứng này sẽ không xuất hiện trong những tiếng động náo nhiệt. Đây là sự tựu thành của một cơn mưa như thác lũ, khi con bướm mùa hè đã chịu khép lại đôi cánh mỏng để lắng nghe trong thầm lặng hơi thở của cỏ nội. Chờ đợi; kiên trì và dừng lại trong sụ bế tắc của một thời chỉ có ánh sáng vĩnh cửu của mặt trời. Kiên trì và dừng lại để chờ đợi trong sự bế tắc là liều lĩnh thác mình cho một cuộc chơi ngoạn mục của thiên diễn, là liều lĩnh đứng lại giữa lòng thác đổ của vạn hữu. Đó là một thái độ bướng bĩnh, không chịu tiệm tiến từng bước vững chắc như những đợt nhảy của con chim hồng: nhảy bên bờ nước, nhảy đến tảng đá, nhảy trên đất cạn, nhảy lên cành cây, nhảy lên gò cao và cuối cùng bay trong thương khung để lông cánh làm đẹp cho bầu trời.(1) Chờ đợi trong sự bế tắc là những bước thụt lùi của con chim hồng, từ trên cành cây rơi trở xuống đất cạn(2). Từ trên cành cây rơi trở xuống đất cạn để chập chững như cưu mang một cái gì đó có vẻ ngược ngạo; đó là sự tiến tới bằng những bước thụt lùi, bởi vì thuận theo sự bế tắc. (3)

Mượn một kinh nghiệm tư tưởng để nói về một kinh nghiệm tư tưởng, đó là một sự vay mượn nghịch lý ngang ngược; vay mượn đã là một điều bất khả, mà nói về lại cũng là điều bất khả. Bất khả cho nên bế tắc. Bế tắc cho nên không tìm thấy một lối trung chính để vào tư tưởng(4).

Như thế là đã khởi đầu bằng một sự bất chính. Đằng sau sự bất chính này không có che dấu một ẩn nghĩa nào hết để biện minh cho nó. Nhưng, Tánh Không luận là gì? "Khi con bướm mùa hè dừng lại trên đóa hoa, khép lại đôi cánh, và đong đưa theo cơn gió của cỏ nội hoa ngàn…"

(II)

Im Denken Wird jeglich Ding einsam und langsam.

(M. HEIDEGGER)

Từ khi Nagàrjuna (Long Thọ) xuất hiện ở miền Nam Ấn độ, đến nay đã 18 thế kỷ qua, và suốt một vòng cung ba phần tư của toàn bộ Á châu, Tánh Không luận (Sùnyavàda) đã trở thành một thứ khí giới vô cùng sắc bén được trang bị cho một nền triết lý chuyên môn phá hoại. Với những kẻ chống đối nó, phá hoại là phá hoại. Nhưng những kẻ tán thưởng nó thì nói phá hoại tức là thiết lập. Với cả h ai, phá hoại là điều đáng sợ và nên tránh. Chính thực, Nagàrjuna đã cố ý binh vực cho một chân lý nào bằng khí giới Tánh Không luận? Người ta đã từng nghĩ, chính Tánh Không (Sùnyatà) là chân ly đó. Bởi vì người ta có thể tìm thấy, với bằng chứng vô cùng xác thực của vãn nghĩa, rằng chính Nagàrjuna đã coi phương tiện và cứu cánh là một. Nói cách khác, chính chân lý của Tánh Không tự bảo vệ lấy nó, tự binh vực cho chính nó, không một cái gì khác.

Những học giả hiện đại chuyên môn về Tánh Không luận với những đại biểu có thẩm quyền như T. R. V. MURTI, Ed. CONZE, J. MAY, và có thể kể thêm những vị ở ngoài lãnh vực chuyên môn này nhưng cũng được coi như là có thẩm quyền như STCHERBATSKY, J.TAKAKUSU, vân vân, đều đồng thanh công nhận Tánh Không luận như là Biện chứng pháp (dialectique). Những người đi sau, bám chặc vào danh từ này – Biện chứng pháp – để hiểu Tánh Không luận. Đó quả là một sự vay mượn vô cùng thận trọng. Người ta đã tìm được cho Tánh Không luận một sự đồng thanh tương ứng. Như vậy là "Nghìn tầm gởi bóng tùng quân,(5) tuyết sương che chở cho thân cát đằng".

Ed. Conze nói đến sự táo bạo của những hiền triết Đông phương là tư tưởng bằng mâu thuẫn. Bởi vì, chính luật mâu thuẫn cho phép người ta nói: phương tiện là cứu cánh, cứu cánh là phương tiện. Phá hủy trong phương tiện, nhưng lại là thiết lập trong cứu cánh. Phá hủy và thiết lập là mộ. Như thế hình như mâu thuẫn đối chọi với đồng nhất. Đây là lý lẽ mà ngươi ta hay dựa vào đó để phân biệt tính cách dị biệt của tư tưởng Đông phương và tư tưởng Tây phương. Người ta thường lý luận theo một tiêu thức điển hình nhất như sau: với Tây phương, ce qui est est, ce qui n'est pas n'est pas (của Parménid), đó là tư tưởng trên nguyên tắc đồng nhất; với Đông phương thì, Đạo khả đạo phi thường Đạo, danh khả danh phi thường danh (của Lão Tử), đó là tư tưởng trên nguyên tắc mâu thuẫn. Bởi vì, nguyên tắc mâu thuẫn như thế là dung nạp tất cả mọi tương phản, tất cả mọi cái không phải là nó, cho nên người ta nghĩ nếu công nhận rằng Đông phương luôn luôn tư tưởng trên nguyên tắc này thì tư tưởng Đông phương lúc nào cũng có thể dung nạp được tư tưởng Tây phương với tất cả nhũng dị biệt của chính nó. Và ngược lại; vì nguyên tắc đồng nhất không dung nạp những tương phản. Nguyên tắc đồng nhất đưa đến chỗ đòi hỏi sự nghiêm xác của khái niệm. MerleauPonty: "Có cái gì đó không thể thay thế trong tư tưởng Tây phương: (…) sự nghiêm xác của khái niệm,…"(6)

Hình như chúng ta vừa đưa ra một tràng, ngắn, những lý luận có vẻ rất mạch lạc. Nếu nói cho chí lý, thì kiểu lý luận này là điều tối k của các nhà Tánh Không luận, kể từ Aryadeva, xuống Buddhapalita, qua Bhavaviveka cho đến Candrakìrti (những truyền nhân của Nagàrjuna). Nhưng nói vậy cũng không được. Vì đó cũng chỉ một cách nói áp dụng luật mâu thuẫn một cách mạch lạc. Như vậy, chính mâu thuẫn đã phối trí thành một trật tự mạch lạc để cho mâu thuẫn là mâu thuẫn. Tức là, mâu thuẫn chỉ được thừa nhận như là mâu thuẫn thực sự khi người ta có thể tìm được mạch lạc của nó trong một trật tự nào đó. Bởi vì, nếu không có sự mạhc lạc giữa hững mâu thuẫn và không mâu thuẫn, làm thế nào ta nhận biết đó là mâu thuẫn?

Vậy thì, Tánh Không luận là gì? "trong tư tưởng, mọi sự trở thành cô liêu và lững thững."

(III)

Những vay mượn đã không thể tránh và những thành kiến nặng như chì cũng chưa thể từ bỏ được. "Những con cá lớn trong hồ nước nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới nhỏ này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ nơi đây."(7) Người học về Tánh Không cũng như kẻ học bắt rắn bằng hai tay không.

Nagàrjuna là ai?

Những thiên tài lớn đều xuất hiện trong cơn thịnh nộ. Héraclite trong bình minh của Hy lạp với cơn thịnh nộ như những ngọn lửa tàn bạo; ông đã muốn tống cổ Homère ra khỏi những cuộc chơi chung bởi vì lời cầu nguyện của Homère muốn cho mối bất hòa giữa các thần linh và loài người hãy chấm dứt. Zarathoustra xuống núi,cùng với sự xuất hiện của Siêu nhân, sau khi đã nổi cơn thịnh nộ với mặt trời. Những con sâu con ngủ suốt cả một nùa đông để chờ đợi hững tiếng sấm đầu tiên của tiết kinh trập thánh hai. Nhưng, "Một khi sinh ra, họ muốn sống để rồi chịu đựng sự chết, hay để rồi đi tìm sự yên nghỉ. Và họ để lại những con cháu cùng chia xẻ số phận như vậy." (Héraclite) Những con sâu con chỉ trở mình trong giấc ngủ triền miên, còn phải đợi bao giờ cỏ cây nứt vỏ sau tiếng sấm của kinh trập rồi mới trổi dậy: giải chi thời đại hỉ tai! "Thiên địa giải nhi lôi vũ tác. Lôi vũ tác nhi bách quả thảo mộc giai giáp tích. Giải chi thời đại hỉ tai!" (quẻ Lôi Thủy Giải, Kinh Dịch).

Nagàrjuna xuất hiện như một con voi dữ trong truyền thống Phật học và tư tưởng triết học Ấn độ. Đương thời, đối với các nhà hiền triết Ấn Nagàrjuna được xếp vào hàng những tư tưởng gia Phật học lỗi lạc bậc nhất. Nhưng ngay trong hàng ngũ này. Nagàrjuna lại được kính trọng như một tên phá hoại đáng sợ. Người sợ đầu tiên có lẽ chính cao đệ của ông là Aryadeva. Ngay trong tên gọi đã có sự trái ngược. Cái tên Nagàrjuna ám chỉ cho một thứ rắn dữ. Bởi vì Nagà có nghĩa là rắn dữ. Nhưng Aryadeva lại hàm ý là một thiên thần thánh thiện. Hai thầy trò này, một con khủng long và một vị thiên thần, phải chãng là hai nếp gấp tư tưởng: Huyền chi hựu huyền.

Nhiều huyền thoại đã được dựng lên chứng tỏ rằng đã có nhiều phép lạ hiện ra để hạ bớt thái độ ngông cuồng của Nagàrjuna, khi ông quyết định bỏ cả núi cao, cả rừng rậm và cả đất liền để xuống biển cư ngụ cùng loại rắn dữ(8) . Như vậy người ta mới có đủ lý do để xác nhận rằng ông quả là một tư tưởng gia Phật học khi ông chịu nghe theo lời khuyến cáo của vua rắn mà trở lại đất liền. O? quả thực là một tư tưởng gia Phật học chính thống. – bởi vì chính thống cũng hảm ý là ngoan ngoãn mặc dù lối xử sự của ông đôi khi có vẻ ngược ngạo.

Từ lúc mà Nagàrjuna trở lại đất liền, nhiều vấn đề trong truyền thống Phật học và nền minh triết Ấn Độ được đặt lại: Tánh Không luận là gì?

Dường như có một sự lửng lơ và bất khả nào đó; lửng lơ như chính đời sống và bất khả như chính tư tưởng, Nagàrjuna từ sương mù của bình minh và nắng quái.

Yathà màyà tathà svapno gandharva-nagaram yathà tathospàda tathà sthànam tathà bhanga udàhritah.

Như quáng nắng, như giấc mộng, như thành phố giữa sa mạc: tất cả sự hiện khởi, tồn tục và biến mất đều như vậy.(9)

(IV)

Trong Đại tạng kinh Trung hoa, được ấn hành dưới sự điều khiển của J. TAKAKUSU, một học giả Phật học người Nhật, có một tác phẩm dứt đoạn mang tựa đề là Lão tử hóa Hồ kinh, được xếp vào loại những tác phẩm ở bên ngoài Phật học (Ngoại giáo bộ, DTK. 2139; tập 54; tr. 1266 và tiếp). Tác phẩm đứt đoạn này nói Lão tử cưỡi trâu bỏ xứ Trung hoa đi về phía Tây bắc và giao hóa cho những giống dân man di ở phương này. Môn đệ lớn nhất của ông là Thích ca. Đó là một sự lửng lơ của huyền sử và cũng là một điều bất khả của tư tưởng. Nhưng, mười thế kỷ sau, một người vì kính trọng Nagàrjuna mà phải từ bỏ quê hương của mình để sang cư ngụ và chết ở Trung hoa. Đó là Kumarajiva. Cái tên này lại ám chỉ cho sự trường thọ của trẻ thơ.(10) Có lẽ Nagàrjuna hóa thân làm Lão Tử tại đất Tàu để nói cho một phân nữa Á châu nghe lại cái diệu chỉ "huyền chi hựu huyền" trong câu hỏi "Tánh Không Luận là gì?"

Và như thế, trước câu hỏi "Tánh Không luận là gì?", nhưng vay mượn đã không dễ gì tránh khỏi và những thành kiến cũng chưa dễ gì từ bỏ được:

"Cũng ví như một người đánh cá lành nghề hay người học đánh cá vung lưới trên mặt hồ nước nhỏ này với một tấm lưới có mắc lưới sít sao. Người ấy nghĩ: Những con cá lớn trong hồ nước nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ nơi đây."

Đó là những lời kết luận của kinhBrahmajàla-sutta. Và kinh chấm dứt như thế này:

Imasmim ca pana veyyàkaranasmim bhannamane sahasi loka-dhàtu akampitthàti. "Trong khi kinh này được truyền thuyết, một ngàn thế giới đều rung động,"

chú thích

1) Thứ tự của sáu hào trong quẻ Phong Sơn Tiệm của Kinh Dịch: sơ lục, hồng tiệm vu can; lục nhị, hồng tiệm vu bàn; cửu tam, hồng tiệm vu lục; lục tứ, hồng tiệm vu mộc; cửu ngũ, hồng tiệm vu lãng; thượng cửu, hồng tiệm vu quì.

2 ) Hào cửu tam và hào lục tứ của quẻ Phong Sơn Tiệm đảo ngược thành hào lục tam và cửu tứ của Thiên Địa Bĩ.

3 ) Quẻ Thiên Địa Bĩ: lục tam, bao tu; cửu tứ, hữu mệnh.

4 ) Quẻ Thiên Địa Bĩ: Bĩ chi phỉ nhân (…) Thiên địa bất giao nhi vạn bất thông dã.

5 ) Và đây cũng là một đồng thanh tương ứng: "Đời vốn như thế. Ban đầu vào cuộc sống, chúng ta giàu, giàu nhiều, giàu nữa; trong bao nãm, chúng ta trồng cây tỉa hột, nhưng ngày tháng trôi, nãm sầu lại: thời gian phá vỡ mất công trình; cây rừng bị chặt; bạn hữu từng người rơi rụng xuống. Bóng tùng quân nghìn tầm xiêu đổ, cái con người trơ trụi sẽ còn nghe rõ trong hoang liêu mối ngậm ngùi xuân xanh xa mất." (Saint-Exupéry, Cõi Người Ta, Bùi Giáng dịch).

6 ) "II y a quelque chose irremplacable dans la pensée occidentale: (…), la rigueur du concept,…" (MP. Signes, Gallimard, p. 174)

7 ) Trường bộ kinh, kinh phạm võng (Brahmajàle. Sutt); T.T. Minh Châu dịch.

8 ) Viết phỏng theo "Long Thọ Bồ Tát truyện" của Kumarajiva D.T.K. 2047; tập 50, tr. 184 và tiếp.

9 ) Nagàrjuna, Madhyamika – Kàrikà, VII, 34.

10 ) Đồng Thọ, cũng mường tượng như chữ Lão Tử.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đền Chèm, Lý Ông Trọng và tục thờ thần khổng lồ

Xem tin gốc

Vietnam Plus - 33 tháng trước 138 lượt xem

Posted Image

Đã từ rất lâu, đền Chèm gắn với một nhân vật huyền thoại cuối thời Hùng Vương - Lý Thân, hay còn gọi là Lý Ông Trọng.

Facebook Twitter 0 bình chọn Viết bình luận Lưu bài này

Thần phả Đền Chèm ghi rằng Lý Ông Trọng sống trong khoảng thời Hùng Duệ Vương (Hùng Vương thứ 18) và thời An Dương Vương.

Tương truyền xưa kia ở làng Chèm có một thanh niên vóc người to lớn tên là Lý Thân. Ông tham gia quân đội Tần chống giặc Hung Nô phía Bắc. Sự kiện này nếu có thật thì phải xảy ra ở thế kỷ thứ 4, thứ 3 trước Công Nguyên, tức khi nước Tần bắt đầu nổi lên vào cuối thời Chiến Quốc và trở thành đế chế nhà Tần ở nửa sau thế kỷ 3 trước Công nguyên.

Theo khảo sát gần đây nhất về dòng họ Lý thì có khả năng dòng họ Lý Thân thuộc tộc Tây Âu, sau này là nòng cốt của bộ Tây Vu thời Tây Hán.Dòng tộc Lý này di chuyển từ vùng các tiểu quốc người Việt ở Lĩnh Nam (như Điền, Dạ Lang, Ai Lao, Tây Âu…) chạy về phía nam sau khi bị Sở rồi Tần o ép giành đất.

Trong khung cảnh đó, câu chuyện Lý Thân tham gia quân Tần đánh Hung Nô chỉ có thể xảy ra khi nhà Tần đã thống nhất thiên hạ (cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên).

Lý Thân sau khi tham gia quân đội nhà Tần đã chạy xuống phía nam, tới vùng đất Âu Lạc. Đây cũng là thời điểm xảy ra cuộc sáp nhập Tây Âu-Lạc Việt với vai trò nổi lên của Thục Phán An Dương Vương.

Việc Lý Thân không tham gia quân Tần nữa khiến nhà Tần phải làm tượng hình nhân đóng giả ông để dọa quân Hung Nô chứng tỏ mối bất hòa đã diễn ra gay gắt giữa quân Tần ở Lĩnh Nam với khối tộc Tây Âu (diễn ra trong khoảng từ năm 219 đến năm 208 trước Công nguyên).

Điều đáng chú ý là hành trạng của Lý Thân không ghi lại công đức giống như các vị thần hay thành hoàng khác ở nước ta (như có công đánh giặc giữ nước, khai khẩn lập làng hay dạy nghề…) nhưng ông lại được coi như một biểu trưng đối kháng trong tâm linh người Việt. Giới nghiên cứu đặt câu hỏi, vì sao Lý Thân được nhân dân tôn kính và thờ phụng?

Tài liệu trong các sách sử cung cấp hai dữ liệu có thể lý giải điều này. Một là Lý Thân có cơ thể khổng lồ phi thường và chữ "Thân" mang tên ông có thể ám chỉ điều đó. Người Tần làm tượng khổng lồ của ông là để dọa quân Hung Nô.

Hai, tên thờ phụng của Lý Thân là "Ông Trọng". Trọng là chữ Hán ghi âm Việt “Đùng” hay “Tùng” trong nghĩa “to đùng to đoàng”. Thờ Ông Trọng tức là thờ Ông Đùng. Đó là hiện tượng rất phổ biến trong xã hội Mường cổ truyền.

Những hòn núi đá to lớn đứng một mình sừng sững thường được người Mường gọi là Ông Đùng và thờ cúng như một thần linh khổng lồ. Ông Đùng - Ông Trọng chính là ông Khổng Lồ , một biểu trưng được thờ cúng trong thần thoại Việt Nam.

Những thông tin trên cho ta thấy có sự kết hợp giữa hiện tượng một nhân vật lịch sử có thân thể to lớn khác thường với tục thờ thần khổng lồ của người Việt cổ.

Đền Chèm thờ Lý Ông Trọng được ghi nhận là tàn tích phong tục thờ cúng rất cổ xưa của người Việt - tục thờ thần khổng lồ hay còn gọi thần đá, thần núi (Sơn Thần). Và việc thờ phụng Lý Ông Trọng có thể là hiện tượng thu nhỏ của việc thờ thần Sơn Tinh ở Núi Tản (Ba Vì) trong tâm linh Việt Cổ./.

Tiến sĩ Nguyễn Việt-Nguyễn Mạnh (Vietnam+)

Như quáng nắng, như giấc mộng, như thành phố giữa sa mạc: tất cả sự hiện khởi, tồn tục và biến mất đều như vậy.(9)

(IV)

Trong Đại tạng kinh Trung hoa, được ấn hành dưới sự điều khiển của J. TAKAKUSU, một học giả Phật học người Nhật, có một tác phẩm dứt đoạn mang tựa đề là Lão tử hóa Hồ kinh, được xếp vào loại những tác phẩm ở bên ngoài Phật học (Ngoại giáo bộ, DTK. 2139; tập 54; tr. 1266 và tiếp). Tác phẩm đứt đoạn này nói Lão tử cưỡi trâu bỏ xứ Trung hoa đi về phía Tây bắc và giao hóa cho những giống dân man di ở phương này. Môn đệ lớn nhất của ông là Thích ca. Đó là một sự lửng lơ của huyền sử và cũng là một điều bất khả của tư tưởng. Nhưng, mười thế kỷ sau, một người vì kính trọng Nagàrjuna mà phải từ bỏ quê hương của mình để sang cư ngụ và chết ở Trung hoa. Đó là Kumarajiva. Cái tên này lại ám chỉ cho sự trường thọ của trẻ thơ.(10) Có lẽ Nagàrjuna hóa thân làm Lão Tử tại đất Tàu để nói cho một phân nữa Á châu nghe lại cái diệu chỉ "huyền chi hựu huyền" trong câu hỏi "Tánh Không Luận là gì?"

Và như thế, trước câu hỏi "Tánh Không luận là gì?", nhưng vay mượn đã không dễ gì tránh khỏi và những thành kiến cũng chưa dễ gì từ bỏ được:

"Cũng ví như một người đánh cá lành nghề hay người học đánh cá vung lưới trên mặt hồ nước nhỏ này với một tấm lưới có mắc lưới sít sao. Người ấy nghĩ: Những con cá lớn trong hồ nước nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ nơi đây."

Đó là những lời kết luận của kinhBrahmajàla-sutta. Và kinh chấm dứt như thế này:

Imasmim ca pana veyyàkaranasmim bhannamane sahasi loka-dhàtu akampitthàti. "Trong khi kinh này được truyền thuyết, một ngàn thế giới đều rung động,"

chú thích

1) Thứ tự của sáu hào trong quẻ Phong Sơn Tiệm của Kinh Dịch: sơ lục, hồng tiệm vu can; lục nhị, hồng tiệm vu bàn; cửu tam, hồng tiệm vu lục; lục tứ, hồng tiệm vu mộc; cửu ngũ, hồng tiệm vu lãng; thượng cửu, hồng tiệm vu quì.

2 ) Hào cửu tam và hào lục tứ của quẻ Phong Sơn Tiệm đảo ngược thành hào lục tam và cửu tứ của Thiên Địa Bĩ.

3 ) Quẻ Thiên Địa Bĩ: lục tam, bao tu; cửu tứ, hữu mệnh.

4 ) Quẻ Thiên Địa Bĩ: Bĩ chi phỉ nhân (…) Thiên địa bất giao nhi vạn bất thông dã.

5 ) Và đây cũng là một đồng thanh tương ứng: "Đời vốn như thế. Ban đầu vào cuộc sống, chúng ta giàu, giàu nhiều, giàu nữa; trong bao nãm, chúng ta trồng cây tỉa hột, nhưng ngày tháng trôi, nãm sầu lại: thời gian phá vỡ mất công trình; cây rừng bị chặt; bạn hữu từng người rơi rụng xuống. Bóng tùng quân nghìn tầm xiêu đổ, cái con người trơ trụi sẽ còn nghe rõ trong hoang liêu mối ngậm ngùi xuân xanh xa mất." (Saint-Exupéry, Cõi Người Ta, Bùi Giáng dịch).

6 ) "II y a quelque chose irremplacable dans la pensée occidentale: (…), la rigueur du concept,…" (MP. Signes, Gallimard, p. 174)

7 ) Trường bộ kinh, kinh phạm võng (Brahmajàle. Sutt); T.T. Minh Châu dịch.

8 ) Viết phỏng theo "Long Thọ Bồ Tát truyện" của Kumarajiva D.T.K. 2047; tập 50, tr. 184 và tiếp.

9 ) Nagàrjuna, Madhyamika – Kàrikà, VII, 34.

10 ) Đồng Thọ, cũng mường tượng như chữ Lão Tử.

Hội Đền Chèm (ngày 16 tháng 6, tức ngày 15 tháng 5 âm lịch)

Ngôi đền kỳ lạ cứ mở hội là trời mưa Cập nhật lúc :2:54 PM, 30/05/2012

Trong chuyến công tác vừa rồi, tôi đã được người dân kể cho nghe câu chuyện về ngôi đền cứ trước ngày mở hội là trời nổi mưa to gió lớn, song trong những ngày diễn ra lễ hội lại khô ráo.

Bán tín bán nghi với câu chuyện hư hư thực thực ấy, tôi tìm đến ngôi đền những mong được xác thực. Đó là đền Đồng Xâm, xã Hồng Thái, Kiến Xương, Thái Bình.

Dòng họ đời nào cũng có người... tự học chữ Hán

Đền Đồng Xâm thờ Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), nằm giữa thôn Thượng Gia. Không khó để nhận ra ngôi đền bởi vẻ bề thế của nó. Phía trước đền là con sông Vông êm đềm. Ngay lối vào là lục lăng ba tầng sừng sững án ngữ phía cổng, ba cây si cổ thụ có đường kính chừng 3 - 4 người ôm tỏa bóng sum suê. Điều đặc biệt là bức tường thành trước cửa đền được tạo hình hai con rồng uốn lượn. Ngôi đền hiện lên đầy vẻ cổ kính, trang nghiêm.

Ông Nguyễn Ngận năm nay 73 tuổi, làm thủ từ ở đền từ hai chục năm nay. Dáng người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, ông vừa phe phẩy chiếc chổi lông để lau bụi trên những pho tượng trong đền vừa tiếp chuyện tôi.

Posted Image Đền Đồng Xâm cứ mở hội là trời mưa. Ông bảo, tính ra, ông là đời thứ bảy trong dòng họ làm công việc trông coi ngôi đền. "Thuở trước, cụ tổ nhà tôi sống trên mảnh đất ngay cạnh đền. Cụ lại là người am hiểu chữ nghĩa nên được cử ra trông coi đền. Mảnh đất hương hỏa ấy được truyền từ đời này qua đời khác và cái chức thủ từ cũng "gia truyền" theo", ông Ngận không giấu được vẻ tự hào.

Thế nhưng, theo ông Ngận, việc trông coi đền cũng là "cái duyên, cái nghiệp". Ngay như ông vốn là giáo viên. "Trước đó, chẳng bao giờ tôi nghĩ sẽ trông coi đền, vì công việc ấy có vẻ nhàm chán. Thế nhưng, chẳng hiểu sao, một dạo tôi lại quay sang thích chữ Hán, chữ Nho rồi mày mò học, học thêm từ bố, từ những người cao tuổi.

Bố tôi bảo "đó là nhờ tôi được ăn phúc lộc của Ngài nên tôi sẽ nối tiếp bố trông coi ngôi đền. Và trùng hợp ngẫu nhiên khi đời nào trong dòng họ cũng có người "đốc chứng" quay sang mê học chữ Hán, chữ Nho như thế. Bây giờ, con trai tôi ngoài 30 tuổi cũng đang ra Hà Nội học để kế tiếp công việc cha ông", ông kể.

Không hội nào không có mưa!

Tôi đã thoáng chưng hửng khi dò hỏi xem ngôi đền có gì lạ vào ngày lễ hội, ông Ngận thẳng thừng: "Chẳng có gì. Hội nào mà chả có phần tế, lễ, vui chơi. Có chăng thì đặc biệt ở chỗ, đây là đền thờ Triệu Vũ Đế".

Posted Image Bức tường thành trước cửa đền hình rồng uốn lượn độc đáo. Tưởng như câu chuyện tôi nghe kia chỉ là lời đồn đại cho vui miệng, được người ta thêu dệt để tăng thêm phần linh thiêng cho ngôi đền. Nhưng thật may, khi tôi vừa nhắc đến chuyện mưa gió ngày khai hội, ông Ngận "à" lên một tiếng. "Cái đó năm nào chả như thế, quen rồi nên đâu còn gì là lạ nữa". Ra vậy!

"Thực tế đã có những hiện tượng mưa gió tương tự. Ví như trước hội đền Hùng (vào ngày 9/3) hay trước ngày Phật Đản (7/4) thường có mưa. Lâu dần, người ta thần thánh hóa sự việc đó lên để tăng thêm sự linh thiêng cho ngôi đền, chùa, lễ hội ấy, coi việc có mưa là mang lại điềm may mắn. Cái đó không có ai kiểm chứng, chỉ là kinh nghiệm dân gian mà thôi".

Cư sĩ Lương Gia Tĩnh (Viện phó Học viện Phật giáo Việt Nam)

"Tôi là người gốc trong xã, sống cũng ngót 60 tuổi rồi. Đúng là có chuyện mỗi khi mở hội đền Đồng Xâm là trời đổ mưa, thậm chí cũng thường có mưa cả sau ngày tan hội. Hồi trước, dân trong xã thường đợi đến cuối tháng ba âm lịch là lại lắng bể nước để "đón mưa hội Đồng Xâm". Mưa ngày đó thường lớn lắm. Tôi cũng chưa nghe ai lý giải vì sao, chỉ biết rằng theo quan niệm đó là điều may mắn".

Ông Tạ Quang Thảnh (Phó Chủ tịch UBND xã Hồng Thái, Kiến Xương, Thái Bình)

Ông xác nhận: "Chẳng riêng gì tôi chứng kiến mà trước đó người ta đã lưu truyền điều ấy rồi. Không năm nào là hội không có mưa. Hội đền diễn ra từ ngày 1/4 - 3/4 âm lịch, thường sẽ mưa trước đó một ngày. Mưa to lắm, gió Bấc thổi ầm ầm. Hôm sau, trời quang mây tạnh. Đến khi hết hội cũng thường mưa gió nhưng nhẹ hơn. Người ta cho rằng, trước hội mà mưa là điềm lành. Trong hội có hàng nghìn người từ các nơi đổ về tế lễ, gây ô nhiễm, bụi bặm. Vì thế, giã hội trời lại đổ mưa để rửa sạch những bụi bặm ấy".

Đổ nước điếu vào mật mía

Ngôi đền lập từ bao giờ, chính dòng họ ông Ngận cũng không biết, chỉ phỏng đoán nó có từ rất lâu, "có thể trước Công nguyên". Ngôi đền ấy, tục truyền rằng nằm trên chính trán con rồng nước. Thân rồng ôm lấy chùa phía sau đền, bởi nhìn xung quanh làng là rãnh nước bao quanh, chùa nổi lên trên. Cái giếng trong chùa chính là rốn rồng.

Ngày trước, đền nhỏ chứ không to đẹp như bây giờ. Cuối thời Nguyễn, ngôi đền đã được trùng tu lại. Ông Nguyễn Xuân Biên, 68 tuổi, người làng Xuân Cước kể: "Trước, bố tôi cũng tham gia nhóm thợ xây đền thời Pháp thuộc. Cụ kể rằng, mặt ngoài đền xây bằng đá, mặt trong ốp gạch. Chất kết dính lấy từ mật mía trộn muối và vôi chứ không dùng xi măng như sau này. Đá được chở từ Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An... ra, gỗ lim cũng lấy từ trong đó.

Hồi ấy, ông Hào Khang làm nhiệm vụ trông nom, quản lý cả đám thợ. "Dân mình đói kém, thế nên có người nghĩ ra cách đục thùng gỗ để lấy mật mía ra... ăn vụng. Để tránh bị mất bớt nguyên liệu, ông Hào Khang đã cho đổ nước điếu vào từng thùng để có mùi, không ai dám ăn nữa".

Với những người dân quanh vùng, ngôi đền ấy thật sự linh thiêng. Bây giờ, người ta vẫn truyền tụng câu chuyện từ thời phong kiến. "Chuyện rằng, có ông giám mục nọ cưỡi ngựa đến thăm bạn là chánh tổng ở làng. Đi qua cửa đền, ông giám mục vẫn ung dung ngồi trên yên ngựa.

Thế nhưng, lạ kỳ thay, con ngựa như bị ai kìm chân, cứ nhảy dựng lên rồi không thể tiến thêm bước nào, dù ông giám mục có làm nhiều cách. Sau, ông để ngựa lại, đi bộ vào thăm bạn. Ông phàn nàn chuyện con ngựa "giở chứng", bạn liền giải thích đó là vì đi qua cửa đền mà không xuống ngựa. Sau ông giám mục quay ra, dắt ngựa thì nó ngoan ngoãn bước theo", ông Ngận kể.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Về An Dương Vương (phần I)

Những tài liệu xưa nhất của Việt Nam còn lại là Việt điện u linh, Việt sử lược, Lĩnh Nam chích quái và Đại Việt sử ký toàn thư đều ghi chép về sự tồn tại của thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc trong giai đoạn đầu của lịch sử

Về An Dương Vương

Trần Quốc Vượng, Đỗ Văn Ninh

Những tài liệu xưa nhất của Việt Nam còn lại là Việt điện u linh, Việt sử lược, Lĩnh Nam chích quáiĐại Việt sử ký toàn thư đều ghi chép về sự tồn tại của thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc trong giai đoạn đầu của lịch sử Việt Nam. Tiếp những tập sách trên, Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú,... cũng có ghi chép về An Dương Vương và nước Âu Lạc với nội dung tương tự.

VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU

Sơ qua về tình hình nghiên cứu trước đây:

Qua những tài liệu này chúng ta thường hiểu An Dương Vương họ Thục, tên Phán, người đất Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay), con của vua Thục, nhân vì không mãn ý trong việc cầu hôn của tổ phụ với con gái Hùng Vương là Mỵ Nương mà mang quân đánh đổ Hùng Vương, lập nước Âu Lạc, làm vua xưng là An Dương Vương, xây thành Cổ Loa...

Cho tới cuối thế kỷ XIX, một số sử thần nhà Nguyễn mới tỏ ý hoài nghi những ghi chép trên. Họ cho là Âu Lạc "hoặc giả ở ngoài cõi tây bắc giáp liền với nước Văn Lang" và Thục Vương không phải là người Ba Thục. Tiếp đó Nguyễn Văn Siêu trong một bài thơ chữ Hán đã phủ quyết những điều ghi chép của sử cũ, không công nhận có thành vua Thục ở đất quận Giao Chỉ. Dưới thời thuộc Pháp, Ngô Tất Tố cho rằng: "Nước Nam không có ông An Dương Vương nhà Thục". Tràn Trọng Kim cũng lặp lại các ý kiến của sử thần nhà Nguyễn. Một số học giả Pháp như H. Maxpêrô, trong bài Vương quốc Văn Lang, cho An Dương Vương chỉ là một "nhà vua thần thoại", hoặc như A.G. Ôđricua đã kết luận: "Trước nhà Hán thì không có lịch sử An Nam"[1]. Một vài học giả khác như G. Đuymuchiê và R.Đêpie thì chỉ mô tả sơ sài bề ngoài thành Cổ Loa, mô tả ngày lễ đền Thượng và lịch sử cũ hay văn bia nói về An Dương Vương...

Đối với nhân dân, đặc biệt nhân dân quanh vùng Cổ Loa thì trước sau như một có một lòng tin vững chắc hơn nữa không còn đặt vấn đề có hay không có - vào giai đoạn lịch sử này. Một khi truyền thuyết phong phú gắn chặt với từng địa danh, từng di tích lịch sử, từng phong tục tập quán thành một khối thống nhất gợi lại một thời kỳ lịch sử xem ra như vừa đầy đủ, vừa chặt chẽ, vừa hợp lý thì khó có ai tỏ nổi một nỗi hoài nghi. Đền thờ An Dương Vương và tượng vua Thục, am thờ Mỵ Châu với pho tượng đá cụt đầu cùng giếng Trọng Thủy như chứng minh sự có thật của những nhân vật quen thuộc của thời kỳ lịch sử này với những chi tiết khá lý thú khiến khách tham quan phải tin rằng: Có một vị vua An Dương Vương, có một người con gái của vị vua đó tên là Mỵ Châu đã nhẹ dạ lấy nỏ thần của vua cha cho chồng xem, có người chồng của Mỵ Châu tên là Trọng Thủy đã lấy trộm chiếc lẫy nỏ thần để rồi bi kịch được kết thúc bằng vua Thục thua trận, mất thành, Mỵ Châu bị cha chém cụt đầu và Trọng Thủy tự tử tại "giếng ngọc" trước cửa đền An Dương Vương. Ba vòng thành cổ Loa với chiều dài hơn 16.000m quanh co bao bọc lẫn nhau như hình xoáy ốc, miếu thờ thần Rùa trên bờ giếng Rùa mang tên Loa khẩu, hàng loạt gò đống từng đôi, từng đôi, phân bố dọc con đường từ làng Tiên Hội tới Cổ Loa... là chứng cứ cho truyền thuyết đắp thành. Truyền thuyết kể rằng tiên Hội là nơi các nàng tiên đêm đêm tụ họp tại đó để gánh đất giúp vua đắp thành, những hòn đất lọt từ sọt rơi xuống chất thành gò đống. Mỗi cặp gò đống thường bên nhỏ bên to - và thật vô cùng chặt chẽ - truyền thuyết kể rằng ở bên nhỏ nàng tiên còn móc thêm cái cuốc, như vậy hai bên vẫn nặng đều nhau. Di tích và truyền thuyết còn cho biết cả những hoạt động của vua Thục như việc thiết triều ở ngôi đình "Ngự triều di quy", xem thử nỏ thần ở gò "Ngự xạ đài". Truyền thuyết cũng không quên kể lại cả triều đình vua Thục với những tướng tài như Cao Lỗ, người đã sáng chế ra nỏ thần, có công luyện tập binh sĩ và từng dược vua Thục sai làm trấn tướng phía Bắc nơi xung yếu bậc nhất của Loa Thành: như Nồi Hầu, người đã huy động dân làng tổ chức dân binh giúp vua chống Triệu và khi mất nước cả 3 cha con đã tự tử không chịu để cho giặc bắt.

Nhiều phong tục, kiêng kỵ có quan hệ chặt chẽ với truyền thuyết củng cố thêm mức độ đáng tin cậy cho truyền thuyết như tục rước vua sống hàng năm, tục kiêng nuôi gà trắng[2], tục đãi dâu không đãi rể[3], tục kiêng tên Phán gọi chệch thành Phớn hoặc nồi gọi chệch thành niêu[4]. Những phong tục địa phương còn mang nặng thái độ về luân lý đạo đức. Người dân địa phương biểu lộ thái độ khinh bỉ sự phản phúc của Trọng Thủy trong tục đãi dâu không đãi rể; biểu lộ lòng kính trọng người tướng có công Nồi Hầu, không dám chạm tên húy; biểu lộ sự tôn trọng dân làng Quậy, mời ngồi chiếu trên mỗi khi mở hội chính vì dân Quậy vốn là người lập nghiệp cũ trên đất Cổ Loa, bởi lẽ lấy đất đắp thành mới phải dời về Quậy.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu của chúng ta:

"Uống nước nhớ nguồn" là một trong những đặc điểm cao quý của con người Việt Nam đạo đức. Dân xã Cổ Loa và 7 xã khác chung quanh hàng năm vẫn mở hội vào ngày mồng 6 tháng giêng âm lịch để tưởng nhớ vua Thục xưa. Tình cảm gắn bó với tổ tiên sâu sắc tới mức:

Chết thì bỏ con bỏ cháu

Sống thì không bỏ mồng sáu tháng giêng

Vấn đề An Dương Vương, một bộ phận của cả vấn đề lớn "thời đại bắt đầu dựng nước và giữ nước", liên quan đến nguồn gốc của nhân dân ta, liên quan đến sự diễn biến của lịch sử Việt Nam ta, đến lịch sử nước ta trong mấy chục năm nay và đến cả tương lai của dân tộc ta.

Tình cảm dân tộc thôi thúc, yêu cầu của khoa học đòi hỏi, chúng ta thấy bức thiết phải đặt vấn đề nghiên cứu.

Vấn đề đã được nghiên cứu từ hàng chục năm nay, từ nhỏ bé tới quy mô, từ từng cơ quan riêng lẻ tới việc cộng tác của nhiều cơ quan. Đầu năm 1968, khi mà đề tài "Thời kỳ lịch sử Hùng Vương - An Dương Vương" của Viện Khảo cổ học được Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam duyệt và Nhà nước thông qua coi là đề tài nghiên cứu trong kế hoạch 3 năm 1968-1970, thì công tác nghiên cứu bước vào thời kỳ mới, thời kỳ hợp tác xã hội chủ nghĩa chặt chẽ và rộng rãi của nhiều người, nhiều cơ quan và nhiều ngành có liên quan và tất nhiên kết quả tuy chưa dứt điểm nhưng đã tương đối khả quan[5].

Sau gần 2 năm nghiên cứu, mọi vấn đề, mọi khía cạnh của đề tài Hùng Vương đã được nhiều người xới lên, thì mọi người lại thấy phải quy tụ vào một số chuyên đề để tập trung đi sâu giải quyết. Vấn đề An Dương Vương tự nó, qua yêu cầu khách quan của việc nghiên cứu, qua thực tế diễn biến lịch sử của thời kỳ Hùng Vương, đã trở thành một vấn đề đóng khung, chấm dứt cho thời kỳ lịch sử Hùng Vương. Dự định đưa vấn đề An Dương Vương thành một trọng tâm nghiên cứu riêng biệt tiếp sau vấn đề Hùng Vương với tất cả các mặt kinh tế, xã hội, chính trị,... được thay đổi cho hợp với khả năng về thời gian và yêu cầu thực hiện phương châm tập trung dứt điểm trong việc nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương, đồng thời, quan trọng hơn, là phù hợp với thực tế khách quan của lịch sử. Tháng 9-1969, nhóm nghiên cứu thứ 6 được thành lập với tên gọi Nhóm An Dương Vương và quan hệ với thời kỳ Hùng Vương. Tên đặt cho nhóm nghiên cứu này tự nó đã giải thích nhiệm vụ của nhóm là điều tra, sưu tầm tư liệu các mặt, khai quật khảo cổ học, nghiên cứu rút ra kết luận mấu chốt nhất tức là quan hệ giữa thời kỳ An Dương Vương với thời kỳ Hùng Vương trước nó. Có được kết luận có tính chất chỉ đạo này rồi, tương lai chúng ta có thể tách riêng vấn đề An Dương Vương và nước Âu Lạc để đi sâu nghiên cứu mọi mặt một cách rất thuận lợi và đúng hướng.

Thành viên chính thức của nhóm gồm: Nhóm trưởng Trần Quốc Vượng (trường Đại học Tổng hợp), ủy viên thường trực Đỗ Văn Ninh (Viện Khảo cổ học), và các ủy viên Trương Hoàng Châu (Viện bảo tàng Lịch sử), Đặng Nghiêm Vạn (Viện Dân tộc học), Hoàng Hưng (Viện Sử học), Đỗ Đình Truật, Nguyễn Duy Chiếm, Phạm Như Hồ (Viện Khảo cổ học). Ngoài ra, nhóm còn được sự cộng tác của các nhà nghiên cứu ở nhiều ngành, nhiều cơ quan như: Nguyễn Khắc Xương (ty Văn hóa Vĩnh Phúc), Vương Hoàng Tuyên (trường Đại học Tổng hợp), Trần Huy Bá, Phùng Bảo Khuê, Nguyễn Ngọc Chương (Vụ Bảo tồn bảo tàng), Vũ Tuấn Sán (Sở Văn hóa Hà Nội), Trần Ngọc (trường Đại học Sư phạm Việt Bắc), Nguyễn Bá Tiệu, Lê Khôi (trường đại học Sư phạm Hà Nội 1), Bùi Huy Hồng (cán bộ nghiên cứu khí tượng đã về hưu), Đào Duy Anh (cán bộ Viện Sử học đã về hưu), Nguyễn Ngọc Ngoạn (kiến trúc sư Cục Xây dựng Hà Nội), Dương Tất Từ (Viện Văn học), v.v...

Từ khi thành lập nhóm, công tác nghiên cứu lại càng được đẩy mạnh hơn. Công việc khai quật với diện tích và quy mô khá lớn đã cung cấp thêm nhiều tư liệu quý. Việc sưu tầm truyền thuyết, địa danh và phong tục tập quán ở Cổ Loa và những vùng khác cũng bổ sung được nhiều tài liệu có ích. Trên cơ sở của khối tư liệu khá phong phú đó công việc nghiên cứu cũng có nhiều tiến bộ. Nhiều ý kiến nghiên cứu phát biểu trong các buổi sinh hoạt học thuật do nhóm tổ chức hàng tháng hoặc chính thức viết thành bài đăng trong các tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Khảo cổ học hoặc các báo khác, mặc dù còn những điều chưa nhất trí, đã nói lên nhiều hứa hẹn trong việc giải quyết vấn đề.

ĐÃ NHẤT TRÍ

1. Khẳng định thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc là có thật

Vấn đề An Dương Vương và nước Âu Lạc là một bộ phận hữu cơ của cả vấn đề lớn thời kỳ lịch sử Hùng Vương - An Dương Vương, vì vậy những kết quả của việc nghiên cứu thời kỳ lịch sử Hùng Vương đã góp phần quan trọng soi sáng thời kỳ lịch sử An Dương Vương.

Hai hội nghị 1 và 2 nghiên cứu thời kỳ lịch sử Hùng Vương tháng 12-1968 và tháng 4-1969 đã rút ra được mấy kết luận căn bản, là: "Thời kỳ Hùng Vương là có thật". "Nền văn hóa Hùng vương là một nền văn hóa đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, từ thấp lên cao". "Đó là một nền văn hóa bản địa... nảy sinh tại chỗ, tiến lên dần, do chính ông cha ta sáng tạo ra và xây dựng nên". "Nền văn hóa Hùng Vương tỏ ra có những nét đặc sắc, độc đáo, đỉnh cao của sự phát triển đó phải nói là ở một trình độ cao"[6].

Những kết luận trên được rút ra từ những cơ sở khoa học chắc chắn. Những văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn gần như được mọi người nhất trí nhận rằng đó là những văn hóa có niên đại kế tiếp nhau từ thời đại đồng sớm tới thời đại sắt sớm. Như vậy, trước hết ta có cơ sở khoa học để nói rằng có một thời kỳ rất dài có dấu vết hoạt động liên tục của con người trên một phần đất Việt Nam ta hiện nay.

Kết quả chính thức phân tích C14 than tro lấy ở hai di chỉ Đồng Đậu và Vinh Quang cho biết các niên đại: Đồng Đậu ở độ sâu 4m: 3328 ± 100 năm, và Vinh Quang ở độ sâu 1m80: 3046 ± 120 năm cách ngày nay (kể từ năm 1950 trở về trước). Đồng Đậu chưa phải là di chỉ sớm nhất của thời đại đồng (và cũng không phải là di chỉ sớm nhất của thời kỳ lịch sử Hùng Vương). Như vậy, con số 4000 năm của lịch sử Việt Nam trong thư tịch cũng như trong truyền thuyết đã có thể được chấp nhận như một điều hợp lý. Đáp số của khoa học tự nhiên phù hợp với đa số ý kiến đoán định niên đại bằng phương pháp so sánh loại hình khảo cổ học.

Những hiện vật khảo cổ đồ gốm, đồ đồng mà ta đã phát hiện, xét từ hình dáng, hoa văn tới kỹ thuật làm, nhìn lên phía bắc, nhìn sang phía tây và nhìn xuống phía nam, chúng ta không thể nào tìm thấy những vật nào đủ tiêu chuẩn là nguồn gốc từ đó phát triển ra chúng. Rõ ràng đây là những hiện vật phát sinh từ bản địa và phát triển cũng trên bản địa. Những đồ án hoa văn cân đối, sinh động do những đường cong, đường tròn chấm dải của văn hóa Phùng Nguyên vẫn còn được giữ gìn khá trọn vẹn ở những mô típ chủ đạo của những đồ án hình học của văn hóa Gò Mun và rồi lại phản ánh đầy đủ trên hoa văn đồ đồng Đông Sơn. Những hiện vật trang sức bằng đá của Phùng Nguyên, những hiện vật bằng đồng Đông Sơn không thua kém bất cứ hiện vật nào của một nền văn hóa khác cùng thời trên thế giới. Vậy nói rằng ở thời Hùng Vương tổ tiên ta đã sáng tạo ra một nền văn hóa ở một trình độ cao là phù hợp thực tế và vẫn rất khiêm tốn.

Những kết luận khoa học nói trên về thời kỳ lịch sử Hùng Vương, một thời kỳ còn xưa hơn và mơ hồ hơn rất nhiều so với thời kỳ lịch sử An Dương Vương, rõ ràng là cơ sở để khẳng định sự có thật của thời kỳ An Dương Vương và nước Âu Lạc ngắn ngủi nối tiếp ngay sau nó mà có người gọi vui, nhưng xem ra cũng hợp lý ở góc độ nào đó, là thời "Hùng Vương thứ 19".

Thư tịch, truyền thuyết, phong tục, địa danh và những di tích lịch sử về thời kỳ An Dương Vương và nước Âu Lạc ở những điểm cơ bản rất là nhất trí. Ở phần trên chúng tôi đã kể một số trong rất nhiều tư liệu đã thu lượm được trong thời gian qua. Ở đây, thiết tưởng cũng không cần cử thêm ví dụ, điều cần thiết phải bàn, là: cái lõi của trí nhớ chất phác của nhân dân là điều có thật trong lịch sử. Với sự thận trọng, "cảnh giác" với quá trình "lịch sử hóa" truyền thuyết và "truyền thuyết hóa" lịch sử, qua rất nhiều truyền thuyết ta rút ra được cái lõi gì? Một nhân vật Thục Phán thay thế vua Hùng cai quản đất nước, rồi có họa xâm lăng của Triệu Đà từ phương Bắc tới, ông vua này tổ chức kháng chiến nhưng rốt cuộc bị thua. Từ đó đất nước của Thục Phán chịu sự thống trị của họ Triệu. Nhân vật Triệu Đà cùng cuộc xâm lược phương Nam đã được lịch sử Trung Quốc xác minh. Thời kỳ lịch sử Hùng vương cũng đã được chúng ta khẳng định bằng những căn cứ khoa học chính xác và phong phú. Vậy không còn nghi ngờ gì nữa, một thời kỳ nối tiếp thời kỳ các vua Hùng, thời kỳ An Dương Vương tiếp tục dựng nước và tổ chức chống Triệu giữ nước, phải là điều có thật. Từ cái lõi có thật này, chúng ta thoát khỏi ảnh hưởng của thái độ hoài nghi, đi tìm những bằng cớ khoa học để giải thích những điều tưởng như hoàn toàn hoang đường trong truyền thuyết như chuyện Rùa vàng, chuyện Nỏ thần, chuyện Mỵ Châu - Trọng Thủy, v.v... và tới nay nhiều cách giải thích đã có thể chấp nhận được.

Di chỉ khảo cổ học Đường Mây có tầng văn hóa dày từ 30 đến 60cm, là một di chỉ nằm sâu dưới chân thành ngoài Cổ Loa, ở khu Trại Xóm Vang ngày nay. Trong di chỉ này, ngoài nhiều mảnh gốm thô (có đồ gốm kiểu Đường Cổ), rìu đá, bàn mài, bàn "dập gốm" kiểu Phùng Nguyên và nhiều xương thú, đã tìm thấy một số mũi tên đồng (hình lá, hình tam giác bẹt 2 cánh, có chuôi, 3 cạnh sắc, tiết diện tam giác...), nhiều cục sắt và mảnh hiện vật bằng sắt được tạm định thuộc sơ kỳ thời đại sắt"[7]. Di chỉ Đường Mây có niên đại gần với niên đại của tường thành (trong chứa gạch, ngói ống, ngói bản). Về niên đại của tường thành, tới nay còn có những ý kiến khác nhau. Có người cho rằng tường thành thuộc thời An Dương Vương, và di chỉ Đường Mây thuộc về một thời kỳ lịch sử trước An Dương Vương. Điều đó phù hợp với truyền thuyết dân gian nói rằng An Dương Vương đã đuổi dân bản địa ở Cổ Loa xuống vùng Đại Vĩ (Quậy Cả, Quậy Con, Quậy Rào) để lấy đất đắp lũy xây thành[8]. Có ý kiến cho rằng tường thành có niên đại thời thuộc Hán và suy nghĩ (chưa khẳng định) rằng di chỉ Đường Mây là thuộc cuối thời Hùng Vương - An Dương Vương. Tuy có phần khác nhau, nhưng một điểm thống nhất có thể rút ra được ở cả hai ý kiến trên, là những di vật Đường Mây là sản phẩm của cư dân vùng Cổ Loa trong khoảng thời gian hôm trước là thành viên của nước Văn Lang và hôm sau là thành viên của nước Âu Lạc. Từ điểm này, dễ có thể đi tới kết luận thống nhất, rằng những hiện vật Đường Mây, nếu không phải là tất cả; ít nhất cũng là bộ phận quan trọng của văn hóa Âu Lạc, vì người dân Cổ Loa khi dời sang Quậy vẫn tiếp tục làm ra những sản phẩm hôm trước họ đã làm ở Cổ Loa (sự khác nhau chắc chẳng là bao), theo truyền thống ông cha từ hàng nghìn năm trước. Tại thôn Lỗ Khê, gần Quậy và hiện nay cùng thuộc chung một xã Liên Hà với Quậy, đã tìm thấy dấu vết văn hóa của một thời đại tương đương với địa điểm Đồng Vông, Bãi Mèn (lớp dưới). Ở đây, còn có mỏ than bùn (có ý kiến cho rằng ngói gạch Cổ Loa được nung bằng loại than này). Những vết tích khảo cổ học nơi đây chứng nhận một sự gắn bó hữu cơ của cả vùng Cổ Loa nói chung. Tuy rằng chúng ta chưa tìm thấy tại đây những di vật kiểu Đường Mây để có thể, không chút ngập ngừng, giải thích một cách khẳng định truyền thuyết dời dân đắp thành, nhưng chưa thấy chưa hẳn đã là không có. Ở Đình Chàng (Dục Tú) - cạnh làng Quậy, đã tìm thấy những mộ táng chứa đồ gốm kiểu Đường Cồ.

Như vậy, đã có những bằng cớ khoa học để khẳng định sự có mặt của thời kỳ An Dương Vương và nước Âu Lạc trong lịch sử.

2. Khẳng định thời kỳ lịch sử này là bước nối tiếp của thời kỳ Hùng Vương

Trong khi đi tìm nguồn gốc tộc Thục, những người nghiên cứu đã đi theo những hướng khác nhau, nhưng trong giả thuyết công tác thì mọi người đều lại thấy thống nhất ở điểm tìm tộc Thục trên cơ sở tìm "láng giềng" của tộc Hùng. Người "láng giềng" này phải có sự gần gũi về đất đai, về văn hóa, và chủng tộc, v.v... nghĩa là có nhiều quan hệ với nhau trong quá trình phát triển. Có người còn dự đoán tộc Thục có thể chính là một bộ trong 15 bộ thuộc quyền cai quản của vua Hùng; có người nghĩ rằng đây là một tộc ở xen kẽ ngay trong miền đất đai của 15 bộ của nước Văn Lang. tóm lại, ít nhất tộc Thục phải là thành phần trong dòng Bách Việt.

Bắt đầu điểm từ ý kiến "An Dương Vương là người Lạc Việt cho nên việc ông chiếm Văn Lang dựng nước Âu Lạc chỉ là việc nội bộ người Lạc Việt". Do An Dương Vương là người Lạc Việt cho nên chúng ta thấy xã hội Văn Lang và Âu Lạc không có thay đổi gì do văn hóa của một ngoại tộc đến thống trị gây ra[9]. Tác giả đã căn cứ vào ghi chép của Sử kýHán thư để giải thích Tây Âu, Tây Âu Lạc và Âu Lạc chỉ là một, chữ "Tây" chỉ là chữ chỉ phương hướng để phân biệt với chữ "Đông", và để củng cố cho ý kiến đó tác giả đã căn cứ thêm vào các sách Hoài Nam tử, Cựu Đường thư, Thái Bình hoàn vũ ký xác định Tây Âu, Tây Âu Lạc và Âu Lạc đều ở khu vực quận Quế Lâm thời Tần, và "địa bàn Lạc Việt bao gồm toàn bộ khu vực các quận Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Tường Kha, Giao Chỉ, Cửu Chân thời Hán, tức là bao gồm một vùng rộng lớn từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực Tây Giang ngày nay... Từ Tây Âu hay Tây Âu Lạc là để chỉ tên một nước ở trong khu vực này".

Ý kiến dựa vào truyền thuyết về "bộ Nam Cương" của đồng bào Tày - ở Cao Bằng thì "suy đoán rằng tộc đảng Thục Vương đó đã định cư ở miền gần phía nam Tả Giang, lưu vực Hữu Giang cùng miền thượng lưu các sông Lô, sông Gâm, sông Cầu, mà thành nước Nam Cương, là một bộ lạc liên hiệp thuộc giống Tây Âu"[10]. Căn cứ vào "sự ghi chép của truyền thuyết của sử cũ (Đại Việt sử ký toàn thư)... không thấy nêu lên sự tình một cuộc chinh phục", căn cứ vào sự suy luận rằng "xưa nay không ai xem An Dương Vương là một kẻ chinh phục đã đặt ách thống trị ngoại tộc lên cổ nhân dân hay là một kẻ thù đã gây họa diệt tộc", tác giả kết luận: "Sự hợp nhất giữa nước Nam Cương và nước Văn Lang, cái tên Âu Lạc lại càng nêu rõ sự hợp nhất bình đảng giữa hai thành phần Tây Âu (Nam Cương) và Lạc Việt (Văn Lang)". Từ đó, tác giả "tán thành... hợp thời An Dương Vương với thời Hùng Vương làm một,... thời An Dương Vương là giai đoạn cuối cùng của một thời kỳ văn hóa chung..."[11].

Thuyết Ai Lao Di[12] gợi ý một nước Tây Thục mà cư dân là giống người Bộc, người Lào ở sát nước ta về phía Tây Bắc nay thuộc châu tự trị Đức Hoằng, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).

Nhiều ý kiến đề cập việc nghiên cứu cả vùng Bách Việt, gợi ý nên lưu ý cả khung cảnh chung vùng Đông Nam Á rộng lớn, đề ra phương hướng đáng chú ý là thoát khỏi sự ám ảnh của biên giới hiện tại. Những ý kiến nghiên cứu về mặt dân tộc học đã rút ra quy luật ở xen kẽ của các dân tộc ở Việt Nam và cả vùng Lưỡng Quảng, từ đấy suy luận về sự phân bố xen kẽ của người Âu Lạc và người Lạc.

Tóm lại, tất cả các ý kiến đều toát lên một điểm chung là tìm một cái gần gũi giữa Thục và Hùng và đã phần nào nói lên được rằng việc mất ngôi thủ lĩnh của Hùng Vương không phải là kết quả sự mất nước của Hùng Vương.

Lịch sử tất cả các vua Hùng và vua Thục đều được chép cùng trong "thời đại bắt đầu dựng nước và giữ nước".

3. Khẳng định có cuộc kháng chiến chống Tần và chống Triệu Đà

Các nhà viết sử xưa nay đều nhất trí về cuộc chinh phục của nhà Tần vào đất Bách Việt và đều nói về việc nhà Tần lập 3 quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng. Tuy vậy chưa ai đi sâu hẳn vào cuộc kháng chiến chống Tần của người Việt. Trong quá trình nghiên cứu đề tài An Dương Vương, những người nghiên cứu chúng ta đã tiến thêm một bước trong việc khẳng định cuộc kháng chiến chống Tần của tổ tiên xảy ra vào cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên.

Dựa vào điều ghi chép "(Người Việt) cùng nhau đặt người tuấn kiệt làm tướng, để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá Tần và giết được Đỗ Thư" trong Hoài Nam tử, và điều ghi chép: "Người Việt bỏ trốn. (Quân Tần) trì cửu lâu ngày. Lương thực bị tuyệt và thiếu. Người Việt ra đánh. Quân Tần đại bại" của Sử ký và đối chiếu với những sách khác, có ý kiến phân tích rằng: quân Tần bị khốn đốn ở miền Nam đất Quảng Tây, miền ấy hẳn là thượng lưu Tả Giang và Hữu Giang. Cư dân miền ấy thuộc giống Tây Âu. Miền ấy tương đương với nước Nam Cương của truyền thuyết mà quân trưởng chính là Thục Phán. Việc "cùng nhau đặt người kiệt tuấn" lãnh đạo kháng chiến chứng tỏ có hội nghị của Nam Cương và Văn Lang, cả hai đều chưa bị Tần đặt làm quận huyện, bầu con người có tài năng độc đáo về cung nỏ lên lãnh đạo cuộc kháng chiến chung. Người đó là Thục Phán. Sau sáu bảy năm, cuộc kháng chiến đã kết thúc thắng lợi.

Cuộc kháng chiến chống Tần đã rèn đúc sự đoàn kết giữa hai khối Tây Âu và Lạc Việt. Thắng lợi của kháng chiến đã nâng cao uy thế của Thục Phán để tiến tới "phục các Lạc tướng" mà hợp nhất nước Nam Cương và Văn Lang, lập thành nước Âu Lạc.

Thần tích đền Chèm ghi An Dương Vương đánh nhau với Tần Thủy Hoàng, muốn "cầu hòa" nên đem Lý Ông Trọng mà hiến để xin bãi binh. Điều thống nhất là có cuộc chống Tần của An Dương Vương.

Cuộc kháng chiến chống Tần được những người nghiên cứu về "truyền thống đánh giặc thời dựng nước" của ông cha ta[13] khẳng định và từ đó khai thác những nguyên nhân thắng lợi như cách đánh du kích: "Người Việt vào rừng ở với cầm thú... ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá Tần và giết được Đồ Thư"; hoặc như phương pháp đánh lâu dài: "Người Việt bỏ trốn, trì cửu lâu ngày. Lương thực bị tuyệt và thiếu (nói quân Tần), người Việt ra đánh. Quân Tần đại bại".

Cuộc kháng chiến chống Triệu được nghiên cứu sâu sắc hơn ở nhiều góc độ khác nhau. Nước Âu Lạc thành lập sau lần đoàn kết kháng chiến chống Tần của các bộ lạc Tây Âu và các bộ lạc Lạc Việt, đã trở thành một nước mạnh có quân đội hùng cường "giỏi cung nỏ, thạo thủy chiến". Kho mũi tên đồng Cầu Vực vô cùng lớn về số lượng, những mũi tên tương đối lớn về kích thước (và có những điểm đặc biệt về hình dáng), phát hiện năm 1959, đã là cơ sở tốt để giải thích câu chuyện nỏ thần. Nhiều người chấp thuận ý kiến cho rằng chuyện nỏ thần phản ảnh sự xuất hiện, hoặc ít nhất là cải tiến, một thứ vũ khí mới lợi hại trong chiến đấu, có tác dụng sát thương cao. Chúng ta cũng không loại trừ khả năng một thứ nỏ máy thô sơ có thể một lúc bắn hàng loạt mũi tên, truyền thuyết đã cường điệu thành loại nỏ "nhất phát sát vạn nhân".

Sự xuất hiện thành Cổ Loa mà di tích ngày nay vẫn còn, kiến trúc rất quy mô, độc đáo, thế đất chọn hiểm trở[14] phù hợp với truyền thuyết "thần tiên giúp xây thành", lại phù hợp với sử sách ghi là "Côn Lôn thành", "tam trùng thành quách", "thành 9 vòng chu vi 9 lý", v.v... chứng minh một trình độ cao về tổ chức xã hội và cả về văn hóa vật chất, đủ sức chặn đứng những cuộc tiến công quân sự của quân Triệu Đà, làm cho họ Triệu phải nhờ tới âm mưu nội gián mới chiếm được Âu Lạc.

Sử sách cũng như truyền thuyết có ghi về cuộc chiến tranh Thục - Hùng, nhưng chỉ ghi như một sự kiện nội bộ bình thường. Chúng ta không những không thấy gì nói tới hằn thù dân tộc mà ngược lại. Phong tục tế lễ đền Cổ Loa bổ sung cho nội dung câu chuyện dời dân xây thành, phản ánh một cái gì có tính chất anh em một nhà giữa người dân Âu và người dân Lạc...

Tham gia tế lễ đền Cổ Loa có tất cả 8 làng quanh Cổ Loa. Dân Quậy (nay là Hà Vĩ) bao giờ cũng được dân làng Cổ Loa nhường lễ chiếu trên. Khi ra về, bao giờ dân Cổ Loa cũng biếu dân Quậy khuôn "bỏng hiến" (gọi là bỏng Chủ - Chủ là tên nôm của Cổ Loa) để về chia cho 8 "giáp" trong làng. Truyền thuyết kể rằng dân làng Quậy vốn ở Cổ Loa, vì nhường đất xây thành nên đã dời đến làm ăn ở Quậy, chính vì lẽ đó mà được dân Cổ Loa đời đời kính trọng. Sự thật chắc đúng là như vậy, bởi vì chẳng bao lâu sau trong lần thử thách của cuộc chống Triệu Đà xâm lược, người dân Âu Lạc - không hề phân biệt Âu Lạc hay Lạc - đã kề vai sát cánh chiến đấu tới cùng cho một mục đích chung giữ gìn đất nước.

4. Về niên đại

Về tuổi thọ của nước Âu Lạc, trước nay có một số ý kiến chính như sau:

- Từ năm 257 đến năm 208 trước Công nguyên: 50 năm[15].(1)

- Từ năm 210 đến năm 207 trước Công nguyên: 4 hoặc 5 năm[16].(2)

- Từ năm 208 đến năm 179 (hoặc năm 180) trước Công nguyên: 30 năm[17].(3)

Lấy năm 179 (hay năm 180) làm mốc cuối cùng ngược lên trước dăm chục năm: nửa sau thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Ý kiến thứ 3 được nhiều người nghiên cứu chấp thuận. Căn cứ sử liệu của ý kiến này là lấy việc Tần Thủy Hoàng chết, Tần Nhị Thế bãi binh, cuộc đoàn kết kháng chiến của người Tây Âu và Lạc Việt kết thúc và từ đó nước Âu Lạc ra đời - năm 208 trước Công nguyên. Niên điểm kết thúc cũng bằng vào sự kiện "Cao Hậu chết tức bãi binh. Triệu Đà nhân lúc đó uy hiếp biên cảnh và lấy của cải đút lót khiến Âu Lạc thần phục"[18], để lấy năm 180 trước Công nguyên làm năm nước Âu Lạc bị Triệu Đà kiêm tính.

Và như vậy thì nước Âu Lạc chỉ tồn tại được khoảng 28-30 năm.

Từ niên đại này có người lại rút ra được một điều đáng chú ý, là thời kỳ lịch sử An Dương Vương có hơn 20 năm, trùng với thời Tây Hán. Thời gian tồn tại song song này còn có thể cho phép giải thích rằng những hiện vật có đặc điểm Tây Hán có mặt ở khu di chỉ Cổ Loa của An Dương Vương là điều hợp lý.

(Còn nữa)

Nguon theo hoinhavanvn

VỀ AN DƯƠNG VƯƠNG (PHẦN II)

Sau khi bác bỏ thuyết Ba Thục (thuộc vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc), mọi người đã đi tìm hầu như gần khắp các hướng Bắc, Đông Bắc và Tây Bắc của vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ mà ý kiến chung đã nhất trí coi là khu vực thuộc nước Văn Lang của Hùng Vương.

VỀ AN DƯƠNG VƯƠNG (PHẦN II)

CHƯA NHẤT TRÍ

1. Về nguồn gốc tộc Thục

Sau khi bác bỏ thuyết Ba Thục (thuộc vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc), mọi người đã đi tìm hầu như gần khắp các hướng Bắc, Đông Bắc và Tây Bắc của vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ mà ý kiến chung đã nhất trí coi là khu vực thuộc nước Văn Lang của Hùng Vương.

a. Thuyết nước Nam Cương và người Tày Cao Bằng

Thuyết này lấy căn cứ chủ yếu là truyền thuyết "Chín chúa tranh vua" của đồng bào Tày ở Cao Bằng. Truyền thuyết này đã được Rômanê đuy Caiô nêu từ năm 1880, nhưng trong tay chúng ta không còn tài liệu đó của học giả người Pháp này. Câu chuyện được Lã Văn Lô dịch thành thơ tiếng Việt đăng lại trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 50 và số 51 năm 1963 là tài liệu thu thập được của Sở Văn hóa Việt Bắc. Từ khi truyền thuyết được công bố, một số người nghiên cứu đã hướng về Cao Bằng để tìm quê hương vua Thục. Truyền thuyết áo lông chim của người Tày - Nùng, tục thờ rùa, truyền thuyết rùa dạy làm nhà, phù hộ người, chống ma quỷ của người Tày - Thái, một vài địa danh tiếng Tày bắt gặp ở khu gần Cổ Loa như làng Viềng (tức Thành) càng tiếp sức cho thuyết vua Thục vốn người Tày làm chúa nước Nam Cương mà trung tâm là huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng ngày nay.

Tới nay, vẫn có người tiếp tục đi sâu nghiên cứu và "suy đoán rằng tộc đảng Thục Vương đó đã định cư miền gần phía nam Tả Giang, lưu vực Hữu Giang cùng miền thượng lưu các sông Lô, sông Gâm, sông Cầu".

Sau cuộc điều tra ở Cao Bằng hồi tháng 7 và 8-1969, các đồng chí Đỗ Đình Truật và Phạm Như Hồ, viện Khảo cổ học, đã cung cấp những tư liệu có phần khác. Người sưu tầm và viết lại truyền thuyết này là ông Lê Bỉnh Sư (còn có tên là Lê Đình Sự), người Kinh vốn ở Nghĩa Lộ, sau năm 1947 mới dời về ở tại huyện Hòa An (Cao Bằng). Chính ông Lê Bỉnh Sư kể lại rằng chuyện do ông sắp xếp lại, có sửa ít nhiều cho các chi tiết được hợp lý. Gốc chuyện là do ông chú ngày trước kể, nay nhớ lại mà viết để dự cuộc thi văn nghệ do Sở Văn hóa Việt Bắc tổ chức.

Cái gốc chân thật của truyền thuyết dân gian là những phần nào, chi tiết nào là thuộc phần sửa chữa của ông Sư, chưa có dịp làm sáng tỏ. Đỗ Đình Truật và Phạm Như Hồ đã tìm gặp một số cụ già địa phương để xác minh truyền thuyết, nhưng không một ai biết chút nào. Vấn đề còn ở tình trạng chưa được sáng tỏ. Như vậy, truyền thuyết này không thể đã được coi là căn cứ đáng tin cho một kết luận khoa học, và công việc phải tiến hành tức là tiếp tục điều tra lại để xác minh truyền thuyết.

b. Thuyết Ai Lao Di[19]

Người chủ trương thuyết này không tán thành thuyết trên vì những lẽ:

- Theo truyền thuyết thì nước Nam Cương không nằm trong phạm vi Tây Vu được chỉ định theo tài liệu Trung Quốc. Những địa danh trong truyền thuyết phần lớn bắt đầu có từ đời Nguyễn.

- Truyền thuyết bị "người đời sau dường như đã thêm thắt vào nhiều thậm chí đã tiểu thuyết hóa đi". Cần phải thẩm tra lại.

Tác giả đã căn cứ vào truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh, nghiên cứu một khối lượng khá lớn thần phả, ngọc phả, tục hèm có liên quan, thấy rằng Sơn Tinh (tức Thánh Tản viên) là một nhân thần, là người đã có công giúp vua Hùng đánh Thục trong cuộc chiến tranh chống Thục, đã "được phản ánh một cách rất đậm nét, rất cụ thể trong những truyền thuyết về thời Hùng Vương", và "giặc Thục ở đây còn được gọi là giặc Ai Lao, Thục Phán đã từ Ai Lao đến xâm lược Văn Lang".

Từ truyền thuyết đối chiếu qua thư tịch, đặc biệt Nam Man Tây Nam di truyện trong bộ Hậu hán thưThuật dị ký, tác giả đã tìm ra Tây Thục tức Ai Lao Di, tức nước Thục của thục Phán. "Đó là một nước đã tồn tại thật sự trong lịch sử: nước Tây Thục (tức Ai Lao)... ở phía Tây Bắc nước ta ngày nay". "Cuối đời vua Hùng, Thục Phán đã từ đây mà xuống xâm lược nước ta. Đó là một cuộc chiến tranh dai dẳng và khốc liệt, cuối cùng nước Văn Lang bị diệt". "Nước Tây Thục (Ai Lao) ở sát nước ta về phía tây bắc, nó nằm trên trục giao thông chủ yếu của nước ta với miền Tây Nam Di là thung lũng sông Hồng, sông Lô; Tây Thục cũng là một trạm trung gian trên con đường giao thông quốc tế thời cổ giữa Trung Quốc với các nước phía tây như Ấn Độ cổ đại". Tác giả còn có phần chỉ cụ thể: "Đến đời Hán Minh Đế (58), Ai Lao thuộc hẳn nhà Hán, Hán lấy đất đó phân làm hai huyện Ai Lao và Bắc Nam, sau đổi thành Vĩnh Xương, nay là châu tự trị Đức Hoằng thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) hiện nay".

c. Thuyết người Lạc Việt nói chung[20]

Từ chỗ chứng minh rằng chữ "Tây" trong Tây Âu hay Tây Âu Lạc chỉ là chữ chỉ phương hướng, tác giả đã chủ trương Tây Âu, Tây Âu Lạc và Âu lạc chỉ là tên của một nước.

Từ chỗ chứng minh rằng Tây Âu, Tây Âu Lạc hay Âu Lạc là một nước có địa bàn chủ yếu nằm ở lưu vực sông Hồng ngày nay, trùng với bộ phận của địa bàn rộng lớn của Lạc Việt gồm từ lưu vực sông Hồng tới lưu vực Tây Giang ngày nay, tác giả chủ trương nước Tây Âu của người Lạc Việt, "trong Lạc Việt có nhiều dân tộc (theo đúng nghĩa dân tộc học ngày nay) có quan hệ lịch sử, huyết thống nào đó với nhau".

Đối với thuyết Ai Lao Di, tác giả cho rằng "những thần tích ghi về việc Thục Phán cai trị ở Ai Lao là những tài liệu do người sau viết". Về việc giao lưu giữa Giao Châu và Ích Châu thì "chỉ hạn chế đến Điền, không vượt qua khỏi Điền đến Ai Lao Di bao giờ. Ai Lao Di cũng chưa từng trở thành một nước hùng mạnh và có xu thế phát triển về phía Giao Châu bao giờ". "Văn hóa phương Bắc vào Giao Chỉ không phải qua con đường Ai Lao Di. Con đường qua Ai Lao Di là một con đường đi Thân Độc Quốc (Ấn Độ), nhưng con đường cũng chỉ đánh thông được rất muộn về sau. Thời Tần - Hán, Điền là bức thành chắn ngang đường giao lưu giữa Trung Quốc và Miến Điện, Ấn Độ ngày nay.

Tất cả những điều nghiên cứu trên dẫn tới việc không công nhận tên trước Âu lạc hình thành do sự sáp nhập của hai tộc Âu lạc và tộc Lạc, mà tên nước này đã xuất hiện ngay từ trước khi thời Hùng Vương kết thúc.

2. Âu Lạc đã là một nhà nước thật sự

Thời gian nghiên cứu gần đây, vấn đề này chưa được bàn tới nhiều. Những ý kiến đã chính thức công bố nêu ra đây không phải khác nhau về điểm Âu Lạc đã là một nhà nước thật sự, mà khác nhau ở chỗ Nhà nước Âu Lạc đã xuất hiện trên cơ sở trình độ sản xuất của thời đại đồng hay thời đại sắt.

Những mũi tên đồng Cầu Vực được coi là vật tiêu biểu của "văn hóa đồ đồng ở giai đoạn Âu Lạc" và "văn hóa vật chất của tổ tiên ta ở thời An Dương Vương vẫn chưa khác văn hóa vật chất ở thời Hùng Vương bao nhiêu, căn bản vẫn là văn hóa đồ đồng". Đây là một trong những lập luận cho rằng nước Âu Lạc là một nhà nước của thời đại đồng[21].

Một ý kiến khác[22] cho rằng "những di tích văn hóa vật chất thời An Dương Vương còn để lại trên khu di tích Cổ Loa đã được tìm thấy một số, như những lưỡi cày đồng ở xóm Nhồi, kho mũi tên đồng với hàng vạn chiếc mà chúng ta đều biết và có thể là lớp dưới của tầng văn hóa ở di chỉ Bãi Mèn"[23]. Tuy rằng người viết không nói rõ, nhưng ta hiểu ý đó nói rằng thời kỳ lịch sử An Dương Vương thuộc thời đại đồng thau.

Di chỉ Đường Mây được phát hiện và khai quật 2 lần vào năm 1970. Nhiều cục sắt và mảnh hiện vật bằng sắt được tìm thấy, trên cơ sở đó di chỉ được tạm định thuộc sơ kỳ thời đại sắt[24]. Đặc biệt, di chỉ Đường Mây nằm trên một doi đất cao tự nhiên ven sông Hoàng và ven bờ đầm cả và ngay dưới chân thành ngoài của thành Cổ Loa. Từ lẽ đó, người khai quật di chỉ này quả quyết rằng "nó (Đường Mây) thuộc về một thời đại trực tiếp trước thời đại của thành Cổ Loa. Khi tiến hành xây thành, người ta đã đắp lũy (thành ngoài) phủ lên trên khu di chỉ này, biến quả gò trên đó trước đây có cư dân sinh sống thành một bộ phận của thành ngoài. Vì di chỉ ấy thuộc về sơ kỳ thời đạt sắt cho nên thời hạn niên đại dưới của thành Cổ Loa không thể xưa hơn sơ kỳ thời đại sắt. Thành Cổ Loa là một công trình của thời đại sắt Việt Nam, điều đó bác bỏ luận điểm cũ của nhiều nhà sử học và khảo cổ học nói rằng thành Cổ Loa thuộc về thời đại đồng thau phát đạt của Việt Nam". Nghiên cứu sâu hơn nữa về nước Âu Lạc, tác giả của ý kiến Cổ Loa chỉ có thể là kinh thành của một nhà nước Việt Nam thời cổ có trước đời Hán... Nhà nước đó, theo sử cũ là Nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương". Từ đó tác giả còn rút ra kết luận: "Nước Âu lạc do An Dương Vương lập đã là một nhà nước thật sự". Sự phân hóa giai cấp là rõ rệt. "Tầng lớp vua chúa quý tộc ở nhà ngói sân gạch". Xã hội này đã có trình độ phát triển kinh tế cao, có quyền lực xã hội mạnh mẽ, kỹ thuật xây dựng cao, trình độ tổ chức cao, và có mức phát triển cao, của trí tuệ và tài năng sáng tạo, có trình độ nghệ thuật quân sự rất cao.

Một ý kiến khác cho rằng "văn hóa Âu Lạc" tồn tại chừng 100 năm trước khi nước Âu Lạc bị tiêu diệt, nghĩa là "văn hóa Âu Lạc" có hơn nửa thế kỷ song song tồn tại với "văn hóa Văn Lang" và thuộc thời đại sắt[25].

3. Vấn đề thành Cổ Loa

Về tòa thành cổ nhất của giai đoạn lịch sử này, ngày nay về cơ bản vẫn còn nhận thấy dấu vết các vòng tường thành, nhưng cũng dễ dàng nhận thấy có sự đổi thay theo yêu cầu về chính trị, quân sự, kinh tế hoặc văn hóa của mỗi thời.

Con đường ôtô lớn chạy từ cửa Nam qua cửa Bắc (?) xuyên qua hai vòng thành giữa và ngoài, và cửa Bắc ở vòng thành ngoài, chắc là sản phẩm của việc làm con đường này ngay trong thời đại chúng ta.

Trên tường thành ở quãng xóm Nhồi, trên tường thành gần ở giữa xóm Mít trên gò Ông Trưng, dấu vết những lò gạch ngói chứng minh một sự phá hoại khác của những thời trước đây vài trăm năm.

Đền An Dương Vương, một kiến trúc thời Lê, đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của góc tây thành trong. Một đoạn tường thành cũ đã biến thành nền đền và một tay ngai ngoài của đền được đắp thêm để tạo dáng cân đối.

Những đổi thay mà ta đã biết rất nhiều, những đổi thay chưa biết còn gấp bội. Chính vì vậy, điều nhất trí trong yêu cầu công tác của chúng ta là đi tìm bộ mặt ban đầu của thành cũ An Dương Vương.

Do sự nhất trí nhận định rằng khu di chỉ Cổ Loa nói chung, thành Cổ Loa nói riêng, là một trọng điểm của đề tài nghiên cứu về "thời kỳ lịch sử An Dương Vương và quan hệ với thời kỳ Hùng Vương", nên mấy năm nay chúng ta đã đầu tư nhiều công sức, tiền của vào đây. Khối lượng tư liệu đã thu được khá lớn, những ý kiến khác nhau cũng dần dần nhích lại gần nhau.

Tồn tại chủ yếu hiện nay là vấn đề niên đại của những di vật tìm thấy nhiều nhất, phổ biến nhất tại khu vực Cổ Loa là gạch, ngói ống, ngói bản. Sự khác nhau trong việc đoán định niên đại cho những di vật loại này dẫn tới những giải thích khác nhau về nhiều mặt khác.

a. Về gạch, ngói ống, ngói bản tìm thấy trong các tường thành và những vật cùng loại ở ngoài tường thành

Đây là loại di vật tìm thấy nhiều nhất và cũng có thể nói là quan trọng nhất. Xác định được niên đại của chúng, ta có thể không những xác định được niên đại của các vòng thành còn lại, mà từ đó còn rút ra những kết luận chính xác về trình độ sản xuất, tổ chức xã hội, trình độ kỹ thuật quân sự, quan hệ giao lưu văn hóa với các miền khác chung quanh, đặc biệt là với phương Bắc, v.v...

Trong khi tiến hành đoán định niên đại cho loại di vật này, bất kỳ ai với kết luận gì, người nào cũng dùng phương pháp so sánh chúng với các hiện vật tìm thấy tại Trung Quốc, quê hương của loại sản phẩm này. Ở Trung quốc, người ta đã có kết luận về quy luật phát triển và diễn biến hoa văn trên các loại hiện vật này, do đó có thuận lợi cho ta trong việc so sánh tìm hiểu niên đại. Tuy nhiên, thời gian tồn tại của mỗi loại hoa văn có khi kéo dài hàng trăm năm, mặt khác Cổ Loa cách rất xa trung tâm của quê hương những loại hiện vật này, và hiện vật Cổ Loa lại được sản xuất tại chỗ rất có thể có những điều ngoại lệ. Do đó, việc so sánh để tìm niên đại cho những hiện vật gạch ngói trong thời kỳ lịch sử An Dương Vương ngắn ngủi cũng có khó khăn nhất định, đặc biệt là trong trường hợp chúng ta hầu như chỉ tìm thấy gạch ngói mà không có thêm những vật khác cùng thời để hỗ trợ cho sự đoán định.

1. Người cho rằng "Cổ Loa - với loại hình to, có lỗ để đóng đinh ngói, vách mỏng, văn thừng, tương đối thô - cũng giống ngói Đông Chu và Tần Hán", thì cũng kết luận rằng những vòng thành còn lại ngày nay căn bản là đắp từ thời An Dương vương, đồng thời, trước những sản phẩm mang đậm nét văn hóa Hán đó, đã đưa ra cách giải thích "tầng lớp quý tộc thời đó đã hấp thụ ảnh hưởng văn minh Trung Hoa thời Chiến Quốc". "Việc hấp thụ ảnh hưởng văn hóa bên ngoài của tầng lớp quý tộc và của đông đảo nhân dân lao động rất khác nhau. Tầng lớp quý tộc có thể chịu ảnh hưởng sâu xa phong cách nước ngoài (tổ chức hành chính, tổ chức triều đình, quan lại, lề lối ăn mặc, nhà cửa, chữ viết, v.v...); trong khi nhân dân lao động hấp thụ rất thận trọng, có sáng tạo, biết "dân tộc hóa" những yếu tố vay mượn từ bên ngoài và kiên trì bảo tồn cái vốn tinh túy của nền văn hóa dân tộc"[26].

2. Người khác lại sắp xếp cho những đầu ngói tìm thấy ở Cổ Loa một niên đại "không thể sớm hơn vãn kỳ Tần Hán" với những lý do:

- Hoa văn mây cuốn của những đầu ngói Cổ Loa tương tự như đầu ngói Tây Hán ở Trung Quốc.

- Hoa văn thừng thô và thừng nhuyễn trên thân ngói bản Cổ Loa là đặc điểm của đồng loại bên Trung Quốc vào văn kỳ Tây Hán.

- Cũng có đầu ngói văn mây cuốn kiểu Đông Hán sơ kỳ.

- Thời Tây Hán sơ kỳ còn có loại đầu ngói nửa hình tròn nhưng ở Cổ Loa không có.

- Ngói Cổ Loa có nhiều mảnh có độ nung cao rắn như sành, vượt xa độ nung của ngói thời Đông Chu.

Cách tính tuổi cho đầu ngói như thế, tất nhiên dẫn tới kết luận: "Lớp đất đắp thành có chứa những mảnh ngói nói trên được đắp vào thời Mã Viện, sau khi tên tướng xâm lược này đàn áp cuộc khởi nghĩa lừng danh của Hai Bà Trưng". Tuy nhiên, tác giả ý kiến này còn đưa thêm giả thuyết "đáng suy nghĩ hơn cả" rằng lớp đất đắp thành có chứa đựng ngói cổ có thể do Lý Phật Tử thi công[27].

3. Ngôi mộ cổ tại Mạch Tràng khai quật vào tháng 1-1970 đã cung cấp một số tư liệu đáng chú ý:

- Những viên gạch xây mộ phần nhiều có in chữ Hán và cho biết 3 niên đại tuyệt đối:

Năm 99 sau công nguyên (Vĩnh Nguyên thứ 11).

Năm 105 sau Công nguyên (Vĩnh Nguyên thứ 17).

Năm 111 sau Công nguyên (Vĩnh Sơ thứ 5).

- Những đồ gốm, đồ sứ chôn trong mộ đều mang đặc điểm thời Đông Hán muộn.

- Những viên gạch xây mộ được chèn bằng các mảnh ngói cùng loại với ngói tìm thấy phổ biến trong và ngoài tường thành Cổ Loa.

Người phụ trách khai quật ngôi mộ này đã đưa ra một số ý kiến như sau:

- Giới hạn niên đại sớm nhất của ngôi mộ là năm 111 sau Công nguyên. Giới hạn muộn không thể đoán cụ thể, nhưng cũng không thể vượt khỏi thời Đông Hán.

- Ngói Cổ Loa có niên đại tương đương với ngôi mộ. Theo quy luật phổ biến (chưa thấy có ngoại lệ) thì những vật chèn trong gạch mộ thường là những phế phẩm gốm sứ đương thời. Khó có thể nghĩ rằng người ta đã đi vào tìm những mảnh ngói cách đó 3 thế kỷ để chèn mộ. Một lẽ khác là cho tới nay chưa có người nghiên cứu nào nghĩ tới việc tách những ngói Cổ Loa, loại này đã tìm thấy trong cùng một tầng văn hóa, phân bố phổ biến biến trên khu vực Cổ Loa, ra nhiều niên đại khác nhau tới 3 thế kỷ.

- Lớp đất đắp thành chứa ngói Cổ Loa chỉ có cùng niên đại với ngói hoặc muộn hơn và như vậy việc đi tìm dấu thành cũ của An Dương Vương còn phải tiếp tục tiến hành.

- Một khi trong tay có những hiện vật không còn nghi ngờ gì nữa là thuộc thời An Dương Vương, mới có thể rút ra kết luận chính xác về bộ mặt xã hội thời đó[28].

4. Những hiện vật tìm thấy tại lớp đất cuối cùng (sau 5 đến 6m tính từ mặt thành) của đoạn thành xóm Mít, một đoạn thành nguyên vẹn nhất và cao nhất của vòng thành ngoài, vẫn là những mảnh ngói Cổ Loa, một mảnh trôn và vài mảnh miệng của một cái chõ, một số mảnh gạch in văn thừng thành đồ án những hình chữ chi, hoặc văn ô trám lồng... Người phụ trách cắt đoạn thành này quy định cho những hiện vật này một tuổi tương đương với thời Đông Hán và cũng đưa ra ý kiến cho rằng không thể coi tất cả những tường thành còn lại trên mặt đất hiện nay là thuộc thời An Dương Vương[29].

b. Về kỹ thuật xây thành

Từ kết luận "thành Cổ Loa hiện tại không thể có sau thời Hán, cũng không thể là một huyện thành đời Hán..., chỉ có thể là kinh thành của một nhà nước Việt Nam thời cổ trước đời Hán... theo sử cũ, đó là nước Âu Lạc của An Dương vương", tác giả ý kiến này đã đi sâu nghiên cứu và rút ra một số nhận xét về tòa thành:

- Khi đắp thành, điều kiện địa hình ở khu vực Cổ Loa đã được nghiên cứu và vận dụng phù hợp sáng tạo. Sông được lợi dụng làm hào thiên nhiên và cung cấp nước cho hệ thống hào, gò đống được đắp nổi thành tường thành.

- Người xưa đã sáng tạo ra kỹ thuật kè đá tảng và rải gốm ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở.

- Thành Cổ Loa là một công trình lao động quy mô lớn.

- Thành Cổ Loa là một công trình phòng vệ kiên cố và lợi hại, vừa là một căn cứ bộ binh, vừa là một căn cứ thủy quân quan trọng. Nó là sự chung đúc truyền thống quý báu của người Âu - người Lạc tổ tiên chúng ta[30].

Những người còn hoài nghi về dấu vết thành còn lại, hay nói cho đúng hơn, hoài nghi những lớp đất đắp thành trong có chứa những gạch ngói mà họ cho là có tuổi Đông Hán, thì tất nhiên chưa phát biểu gì về kỹ thuật đắp thành, về tổ chức ăn ở và bố trí phòng vệ trong và ngoài thành thời Thục... Họ chủ trương tiếp tục đi tìm dấu vết còn lại của tòa thành Cổ Loa của An Dương Vương mà họ cho rằng có chỗ không còn chút nào, có chỗ bị thành Hán trùm lên và có chỗ chìm trong lòng đất ngoài phạm vi chân thành hiện tại. Họ cũng nhất trí suy luận rằng ngay trên mảnh đất Cổ Loa lịch sử này có khả năng tìm thấy không những dấu vết thành Cổ Loa của An Dương Vương mà còn tìm thấy cả những di vật các loại đương thời, không chỉ là những di vật kiến trúc[31].

Cho tới nay, trừ di chỉ Đường Mây, thì trong phạm vi tường thành và những nơi khác trong khu vực ba vòng thành, người ta tìm thấy nhiều nhất là gạch, ngói ống, ngói bản (đây là nói những di vật trước, sau công nguyên một vài thế kỷ). Gạch ngói tất nhiên không phải là tất cả những di vật thời An Dương vương, nhưng cho tới nay nó gần như là tất cả những di vật đã được tìm thấy mà có ý kiến xếp vào niên đại thời kỳ An Dương Vương. Những người chưa đồng ý như vậy, về mặt nghiên cứu hiện vật chưa chấp nhận đây là những di vật sớm hơn thời thuộc Hán, về mặt suy lý chưa thỏa mãn rằng bộ mặt văn hóa vật chất của một thời kỳ lịch sử tiếp liền ngay sau thời kỳ Hùng Vương mà tính chất bản địa, độc đáo, sáng tạo, có trình độ cao của nền văn hóa đã được chứng minh khá đầy đủ bằng những hiện vật khảo cổ, lại bỗng chốc chịu ảnh hưởng quá đậm nét đặc điểm văn hóa phương bắc.

Đối với những hiện vật tìm thấy tại di chỉ Đường Mây, nên nhìn thấy trong đó những đặc điểm của thời kỳ lịch sử này (có thể không có đặc điểm riêng trong văn hóa vật chất của thời kỳ này). Di chỉ Đường Mây có niên đại gần kề với niên đại của tường thành Cổ Loa. Gốm thô Đường Mây tương tự gốm Đường Cồ mà nhiều người cho là có niên đại từ cuối Chiến Quốc tới Đông Hán, và có tính chất bản địa. Những đầu mũi tên đồng hình lá, hình tam giác bẹt 2 cánh, hình 3 cạnh sắc, tiết diện tam giác, v.v... gần gũi rất nhiều với những đầu mũi tên tìm thấy ở những di chỉ sớm hơn. Những bàn "dập gốm" có dáng dấp Phùng Nguyên. Những dấu vết sắt của sơ kỳ thời đại sắt dễ phù hợp với thời gian khoảng 2-3 thế kỷ trước Công nguyên. Tất cả những điểm kể trên có nhiều gợi ý cho việc đi sâu nghiên cứu hiện vật di chỉ Đường Mây và từ đó có hy vọng giải thích rõ bộ mặt văn hóa vật chất của thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc.

*

* *

Kết hợp nhận xét về cách thức xây thành với sự có mặt của gạch ngói trong tường thành, có một loại giả thuyết được đề ra, bị phản bác, nhưng trong tình hình khai quật và nghiên cứu hiện nay, chưa thể được thật sự đánh giá đúng sai, cũng như mọi giả thuyết khác. Cho nên, trong tinh thần thật sự cầu thị, muốn phản ánh mọi hướng suy nghĩ để tiện đường tìm tòi, cũng xin nêu: hai vòng thành ngoài, dựa vào đồi gò thiên nhiên, có thể là được xây dựng từ trước thời Bắc thuộc, sở dĩ có gạch ngói muộn bên trong tường là do có sửa chữa về sau; còn vòng bên trong có hình chữ nhật cân xứng, có nhiều hỏa hồi, cấu trúc khác hẳn hai vòng ngoài, có thể là xây dựng về sau.

Những việc cần tiếp tục làm

Vấn đề An Dương Vương tự bản thân nó và trong mối quan hệ gốc gác và tiếp nối với thời kỳ Hùng Vương nói chung và vấn đề thành Cổ Loa nói riêng, đối với những người nghiên cứu khảo cổ học, sử học và cả các ngành có liên quan, ai cũng thấy là vấn đề phong phú, lớn nhưng phức tạp, khó khăn. Hầu như tất cả mọi người, trong ý kiến phát biểu cũng như trong bài viết đều đánh giá kết quả những công việc đã làm mới chỉ là "bước đầu", mới chỉ là "những giả thuyết nghèo nàn so với thực tế vô cùng sinh động và phong phú, mới chỉ là "phát biểu trên cơ sở một tình hình nghiên cứu chưa đầy đủ".

Vì vậy đặt vấn đề tiếp tục đi sâu nghiên cứu là một điều hợp lý.

Căn cứ vào tình hình nghiên cứu đã qua, nhóm nghiên cứu thời kỳ An Dương Vương và quan hệ với thời kỳ Hùng Vương thấy cần phải tiếp tục làm một số việc trong thời gian tới như sau:

Về mặt tư liệu khảo cổ học

- Phấn đấu để tìm ra những di vật các loại thuộc thời kỳ lịch sử này

Đi tìm một cái gì riêng của thời kỳ An Dương Vương là một việc làm khó khăn vì thời gian tồn tại của thời kỳ lịch sử này quá ngắn ngủi. Tuy nhiên không đặt ra trong giả thuyết công tác lại là một thiếu sót. Tìm được một cái gì đã có tính riêng của thời đại, một cái gì đã có thể ít nhất giải thích được sự kế tục của văn hóa thời kỳ Hùng Vương có yếu tố văn hóa mới hoặc của tộc Thục anh em, hoặc của phương Bắc, tất nhiên đó là điều lý tưởng. Nhưng địa bàn tìm ra cái đó, quan trọng nhất, vẫn là khu vực Cổ Loa lịch sử, bởi vì nơi đây thư tịch, truyền thuyết... đã hỗ trợ đắc lực cho chúng ta kết luận quyền sở hữu các di vật thời đó thuộc về An Dương Vương. Một khi đã làm được điều nói trên, chúng ta sẽ có cơ sở để so sánh với những di chỉ đó đây, trả lại cho An Dương Vương những cái mà trước đây ta thường nói là thuộc thời "Hùng Vương muộn". Và phải chăng cũng từ đó chúng ta lần tìm được cương vực (tất nhiên không đơn giản) của nước Âu Lạc xưa?

Nếu không tìm được cái gì riêng của thời An Dương Vương, nếu chúng ta chỉ gặp những hiện vật đồng loại với thời Hùng vương cuối mà có niên đại gần kề thời thuộc Triệu hay thuộc Hán thì cũng là điều hợp lý, chúng ta lại có cơ sở để xác minh những dự đoán bấy lâu nay là "văn hóa vật chất thời kỳ An Dương Vương về cơ bản là văn hóa thời kỳ Hùng Vương".

Những tài liệu truyền thuyết ở Cao Bằng cần xác minh chu đáo. Những ghi chép của Rômanê đuy Caiô từ năm 1880 chắc giữ được nhiều phần nguyên thủy hơn. Việc kiếm lại tài liệu này là một công việc rất cần. Đồng thời việc cùng tác giả bản Chín chúa tranh vua lọc tìm cái cốt cũ của truyền thuyết cũng cần làm ngay.

Vùng Tĩnh Gia (Thanh Hóa) và Diễn Châu (Nghệ An) ít nhiều đã cung cấp cho ta một số tư liệu có ích nhưng tới nay "trữ lượng" tư liệu các vùng này vẫn chưa được khai thác hết. Trong kế hoạch sưu tầm tư liệu thì vùng này tất không thể bỏ qua.

Tóm lại trong kho tư liệu các loại về thời kỳ lịch sử An Dương Vương hiện nay, tư liệu khảo cổ học còn quá ít cả về số lượng lẫn loại hình. Thực tế này yêu cầu chúng ta phải bổ khuyết kịp thời.

Về mặt nghiên cứu

- Nguồn gốc tộc Thục và quan hệ Thục - Hùng tới nay vẫn còn nhiều bí ẩn. Giải quyết tốt vấn đề nguồn gốc tộc Thục chúng ta sẽ giải quyết tốt vấn đề quan hệ với Hùng Vương, đồng thời sẽ thoải mái trong việc đưa thời kỳ lịch sử An Dương Vương vào thời đại bắt đầu "dựng nước và giữ nước". Trong việc giải quyết vấn đề này, tài liệu thư tịch và dân tộc học sẽ phát huy nhiều tác dụng.

- Vấn đề thành Cổ Loa. Phần trên đã nói tới vị trí quan trọng của thành Cổ Loa trong việc nghiên cứu thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc. Nhưng một tòa thành cổ, trải qua mấy nghìn năm đầy biến động của lịch sử dân tộc, không dễ gì xác định. Chính sự sụt lở do mưa nắng, thời gian, chính sự tu sửa bồi đắp và cả sự phá hoại của con người thời sau đã gây ra những điều chưa nhất trí trong các ý kiến khoa học hiện nay. Nhưng sự chưa nhất trí còn có nguyên nhân quan trọng là công việc của chúng ta làm còn quá ít nên chưa gần được chân lý. Tòa thành I-lion "thần thoại"[32] phải sau 20 năm đào bới, những người làm công tác khảo cổ học mới tìm thấy vết tích thật của nó.

Trong vấn đề này chẳng bàn cũng có thể dễ dàng thống nhất rằng khảo cổ học đóng vai trò chủ yếu.

Kết quả khả quan của một thời gian ngắn ngủi nghiên cứu trên tinh thần đoàn kết hợp tác xã hội chủ nghĩa vừa qua là bảo đảm vững chắc cho việc giải quyết tốt vấn đề lịch sử phức tạp, khó khăn nhưng có ý nghĩa rất quan trọng này.

Nguồn: Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm/khoalichsu.edu.vn

Nxb. Văn học, 2003, tr.615-649.

[1]A.G. Ôđricua, "Người An Nam trước triều đại nhà Hán của Trung Hoa", Tạp chí Đông Dương, tháng 7-12/1923, tr.229.

[2]Trong truyền thuyết, gà trắng (Bạch kê tinh) là quỷ tinh phá thành vua Thục.

[3]Ở Cổ Loa người con rể không được tự do ăn nằm với vợ ở nhà bố mẹ vợ, người ta sợ rằng như vậy sẽ làm ăn xúi quẩy vì quan niệm rằng chính vua Thục xưa quá tin Trọng Thủy cho ở rể nên sau này mất nước.

[4]Phán là tên Thục Phán, Nồi là tên của Nồi Hầu.

[5]Công tác điều tra khai quật phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài "Thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc" tính từ khi phát hiện kho mũi tên đồng Cầu Vực năm 1959 gồm những đợt lớn như sau:

- Phát hiện kho mũi tên đồng Cầu Vực 1959.

- Lai Quý Hộ (Đội Khảo cổ, Bộ Văn hóa. Điều tra khảo cổ học khu Cổ Loa, 1959.

- Trần Hương Văn, Nguyễn Văn Cự (Đội Khảo cổ, Bộ Văn Hóa). Đào thám sát Đống Chuông, Đống Dáo, 1964.

- Hà Nguyên Điểm, Lê Xuân Diệm (Đội Khảo cổ, Bộ Văn hóa). Đào khu mộ cổ Mả Cơ - Cầu Cả, 1966.

- Đỗ Đình Truật, Nguyễn Thành Trai (Đội Khảo cổ, Bộ Văn hóa). Điều tra cơ bản khu Cổ Loa, 1966.

- Đoàn điều tra cổ sử trưởng ĐHTH. Điều tra sưu tầm truyền thuyết, địa danh, các vòng thành Cổ Loa, 1966.

- Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp. Điều tra, khai quật Đồng Vông, Bãi Mèn, Trại Xóm Vang, cắt thành trong, đào khu mộ cổ Mả Cơ, 1967.

- Nguyễn Duy Tỷ (Viện Khảo cổ học). Khai quật Bãi Mèn, 1968.

- Nguyễn Duy Chiếm, Phạm Như Hồ (Viện Khảo cổ học). Điều tra sưu tầm truyền thuyết, 1969.

- Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp. Khai quật Đồng Vông - Đường Mây, 1969.

- Đỗ Đình Truật, Phạm Như Hồ (Viện Khảo cổ học). Điều tra khảo cổ học Cao Bằng 7-1969.

- Đỗ Đình Truật, Phạm Như Hồ, Trần Đình Luyện (Viện Khảo cổ học). Cắt thành Luy Lâu, Hà Bắc 12-1969.

- Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp. Khai quật Đường Mây, Đình Chàng 1-1970.

- Nguyễn Duy Chiếm, Đỗ Đình Truật, Phạm Như Hồ, Trần Đình Luyện (Viện Khảo cổ học). Khai quật Đồng Vông, mộ Mạch Tràng, cắt thành ngoài Cổ Loa, 1-1970.

- Nhóm sinh viên Dân tộc học trường Đại học Tổng hợp. Điều tra dân tộc học vùng Cổ Loa, 2-1970.

- Đỗ Đình Truật (Viện Khảo cổ học). Điều tra khảo cổ học Thanh Hóa, Nghệ An 4-1970.

[6] Phạm Huy Thông, "Tiến đến đưa thời kỳ Hùng Vương vào chính sử", Tạp chí Khảo cổ học, Hà Nội, số 1, tháng 6/1969, tr.60.

[7] Trần Quốc Vượng, "Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới", Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, tháng 12/1969, tr.112-113.

[8] Trần Quốc Vượng, "Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới", bài đã dẫn, tr.112-113.

[9] Nguyễn Duy Hinh, "Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương", Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, tháng 12/1969, tr.154.

[10] Đào Duy Anh, "Góp ý kiến về vấn đề An Dương Vương", Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, tháng 12/1969, tr.138.

[11] Đào Duy Anh, "Góp ý kiến về vấn đề An Dương Vương", bài đã dẫn, tr.138.

[12] Nguyễn Linh, "Bàn về nước Thục của Thục Phán", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 124, tháng 7/1969, tr.45-50.

[13] Nguyễn Văn Huyên, ý kiến trao đổi trong buổi sinh hoạt học thuật tại viện Khảo cổ học, ngày 5-5-1970.

[14] Phần còn lại của các tường thành trên mặt đất hiện nay còn có ý kiến khác nhau về niên đại, nhưng điểm thống nhất là khẳng định có một ngôi thành An Dương Vương trên miền đất Cổ Loa hiện tại.

[15] Đại Việt sử ký toàn thư.

[16] L. Ôruxô.

[17] Đào Duy Anh.

[18] Xem Sử ký của Tư Mã Thiên.

[19] Nguyễn Linh, "Bàn về nước Thục của Thục Phán", bài đã dẫn, tr.45-50.

[20] Nguyễn Duy Hinh, "Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương", bài đã dẫn, tr.150, 152-153.

[21] Đào Duy Anh, "Góp ý kiến về vấn đề An Dương Vương", bài đã dẫn, tr.143.

[22] Trương Hoàng Châu, "Tòa thành đất cổ trên đất Cổ Loa", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 129, tháng 12/1969.

[23] Theo ý kiến của Nguyễn Duy Tỳ thì lớp dưới của di chỉ Bãi Mèn là thuộc thời đại đồng thau.

[24] Trần Quốc Vượng, "Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới", Bài đã dẫn, tr.113-126.

[25] Diệp Đình Hoa, Sơ kỳ thời đại sắt ở nước ta và vấn đề Hùng Vương - An Dương Vương, Báo cáo tại Hội nghị lần thứ hai nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương (bản đánh máy), lưu tại Phòng tư liệu Viện Khảo cổ học.

[26] Trần Quốc Vượng, "Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới", bài đã dẫn, tr.120,126.

[27] Trương Hoàng Châu, "Tòa thành đất cổ trên đất Cổ Loa", bài đã dẫn,.

[28] Nguyễn Duy Chiếm, Báo cáo khai quật ngôi mộ Mạch Tràng (bản đánh máy), lưu tại Phòng tư liệu Viện Khảo cổ học.

[29] Đỗ Đình Truật, Báo cáo cắt thành Cổ Loa ở xóm Mít (bản đánh máy) lưu tại phòng Tư liệu Viện Khảo cổ học.

Đoạn thành này được cắt tháng 1-1970, chân thành rộng 20m.

[30] Trần Quốc Vượng, "Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới", bài đã dẫn, tr.126.

[31] Tổ nghiên cứu 3, Viện Khảo cổ học.

[32] Theo tiếng Pháp quen gọi là Tơroa.

Nguon theo Hoinhavanvn

Share this post


Link to post
Share on other sites

OAN NGHIỆT LÂU ĐỜI GIỮ MỴ CHÂU VÀ TRỌNG THỦY

Mỵ Châu xưa ngây thơ và trong trắng

Tin yêu chàng Trọng Thủy hết lòng

Trao lẫy nỏ khiến Cổ Loa Thành thất thủ:

Ân oán chất chồng muôn kiếp âm u

Hại cha chết và muôn dân tang tốc

Tội sâu dày nhưng nàng có tội gì đâu.

Oan khiên hỡi trời cao không kêu thấu

Tội gì đây? Mỵ Châu tội chung tình

Phút chiến chinh không muốn thất lạc với chồng mình

Áo lông rải chỉ đường, thành phản tặc

Bởi quá yêu thương đã biến thành oan trái

Ôm mối hận trong lòng, Mỵ Châu chìm đắm mãi

Oan khiên kia ai hóa giải cho nàng

Không thể ngờ người tin yêu phản bội

Tâm trong sạch oán hận thành u tối

Mang trong tâm mối oán hận đời đời

Không năng lực nào có thể đổi dời

Chìm đắm mãi muôn đời không thể giải

Càng tin yêu, càng hận thù nhau mãi…

Đến hôm nay, được hóa giải mới tỉnh bừng

Thần, tướng, vua, muôn dân không thể diễn tả nỗi mừng

Năng lực ngài năng lực của tái sanh

Năng lực của ngoài càn khôn vũ trụ

Ngài cứu độ cho hồn con thoáng chốc

Hiểu ngọn ngành xóa ân oán chất chồng

Một sát na vâng phục, nhẹ tênh lòng

Xóa sạch hết muôn vàn lời trách móc

Xin nhận lại sự sáng trong của bản lai diện mục

Lập tức siêu thăng bỏ oán hận chất chồng

Vua cha nay cũng được hưởng ân hồng

Cùng với muôn dân thời chiến chinh tàn sát

Với muôn vạn sinh linh hàng tỷ năm đọa lạc

Cùng đoàn viên, ngỡ ngàng vui hoang lạc

Cất tiếng ca vang dậy cả địa đàng

Năng lực ngài – lệnh ân điển phá buộc ràng

Cho giải thoát về cội nguồn nguyên thủy

Bởi u mê nên đời đời chìm đắm

Nay hiểu rồi, tay lại nắm tay

Thù hận oán ân xưa xóa sạch ngay

“Bừng tỉnh dậy” trở về nơi cao đẹp

Nguyên thủy tánh từ nay sanh bất diệt

Không âm u trong đọa lạc mê lầm

Chúng ta sinh ra đâu phải để thù hằn

Lợi dụng tình yêu mưu lợi mặc dù

Như thế ta cũng nên cởi niềm oán hận

Mỵ Châu xin chàng cũng nên vâng lệnh

Theo năng lực ngài ban ân điển thăng hoa

Cùng xóa hận thù trở nên thương mến

Chúng ta sinh ra đâu phải để hận thù

Hãy vui vẻ trở về

Nơi nguyên thủy cội nguồn không tranh chấp

Và muôn đời mình không phải thiếu nhau.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Triệu Việt Vương đi theo 'vết xe đổ' của An Dương Vương?

(ĐVO) Dù sống cách xa nhau về thời gian, nhưng ở An Dương Vương Thục Phán và Triệu Việt Vương Triệu Quang Phục, chúng ta nhìn thấy nhiều điểm trùng hợp đến ngẫu nhiên giữa hai tiền nhân này. Hãy cùng điểm qua điều đó.

Nắm quyền bằng chuyển giao quyền lực

Thục Phán theo sử cũ chép, vốn dòng dõi Thục Vương, vì đời tiền nhân của Thục Phán cầu hôn con gái Hùng Vương không được nên sinh cừu hận. Nhân khi Hùng Vương không phòng bị, Thục Phán cướp nước Văn Lang lập nên nhà nước mới.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Hùng Vương bỏ không sửa sang võ bị, chỉ ham ăn uống vui chơi. Quân Thục kéo sát đến nơi, hãy còn say mềm chưa tỉnh, rồi thổ huyết nhảy xuống giếng chết, quân lính quay giáo đầu hàng Thục Vương”.

Posted Image Tranh Minh Họa vua An Dương Vương trước lúc tự tận. Đại Việt sử lược (khuyết danh) thì chép ngắn gọn: “Cuối đời nhà Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi rồi lên thay.” Lên ngôi rồi, An Dương Vương đặt tên nước là Âu Lạc. Tên gọi này theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép lại theo Dư địa chí của Cổ Hi Phùng “Giao Chỉ về đời Chu gọi là Lạc Việt, về đời Tần gọi là Tây Âu”. Như vậy tên Âu Lạc là cách gọi kết hợp về cùng một địa danh. Tây Âu - Tâu Vu - Quảng Châu (nơi được quyền chế tác trống đồng sau Phong Châu) theo thiển ý của tôi.

Nếu An Dương Vương nắm quyền lực sau khi truất ngôi Hùng Vương thì Triệu Quang Phục cũng nắm quyền từ một cuộc chuyển giao quyền lực, nhưng mang tính chất hòa bình.

Sau khi lập nên nước Vạn Xuân năm Giáp Tý (544), Lý Nam đế - Lý Bí lại phải chống quân Lương do Trần Bá Tiên dẫn đầu sang xâm lược. Tháng 8 năm Bính Dần (546) bị thua ở hồ Điển Triệt (huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay), “phải lui giữ ở trong động Khuất Lão để sửa binh đánh lại, ủy cho đại tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước” (Đại Việt sử ký toàn thư). Năm 548, Lý Bí bị bệnh chết ở động Khuất Lão, Triệu Quang Phục lên nắm quyền, tức là Triệu Việt Vương.

Hai vị vua tài

An Dương Vương từng đánh Hùng Vương, rồi đuổi quân xâm lược Triệu Đà. Nhưng bằng chứng hùng hồn nhất cho tài thao lược của ông phải kể đến đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc quân sự thời Âu Lạc, đó là thành Cổ Loa (vì thành có hình xoáy ốc, lại có tên là Trung Qui thành, thời Đường gọi là Côn Lôn thành, có ý nói là thành rất cao) với ba vòng thành Nội, thành Trung, thành ngoại, phối kết hợp với hào lũy từ dòng nước tự nhiên của sông Hoàng làm nên công trình quân sự kiên cố chống giặc xâm lược.

Posted Image Tranh minh họa vua Triệu Quang Phục ở Đàm Dạ Trạch. Bên cạnh đó, nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương còn có thứ vũ khí đáng sợ là nỏ liên châu, hay Linh Quang thần trảo mà dân gian gọi là nỏ thần, một lúc có thể bắn được nhiều mũi tên.

Đối với Triệu Việt Vương, tài năng của ông thể hiện rõ qua việc được Lý Nam đế Lý Bí tin cẩn giao cho quyền bính, và hiện thực hóa qua kế đánh “trì cửu” (cầm cự lâu dài) với việc lấy đầm Dạ Trạch (tức đầm Một Đêm, thuộc Khoái Châu, Hưng Yên) làm đại bản doanh chống giặc Lương: “Ngày ngày, quân sĩ thay phiên nhau vừa luyện tập, vừa phát bờ, cuốc ruộng, trồng lúa, trồng khoai để tự túc binh lương. Ban ngày tắt hết khói lửa, im hơi lặng tiếng như không có người, đến đêm nghĩa quân mới kéo thuyền ra đánh úp các trại giặc, cướp được nhiều lương thực” (Việt sử tiêu án – Ngô Thì Sỹ). Nhờ cách đánh “trì cữu” đó năm Canh Ngọ (550), Triệu Quang Phục đánh đuổi quân Lương lấy lại được nước.

Được thần giúp vũ khí

An Dương Vương đắp thành Cổ Loa vừa làm kinh đô, vừa làm căn cứ chống giặc phương Bắc. Nhưng thành cứ đắp lại đổ, sau nhờ có thần Kim Quy giúp mới đắp không quá nửa tháng thì xong. Lại được thần “trút chiếc móng trao cho vua và nói: “Nước nhà yên hay nguy đều do số trời, nhưng người cũng nên phòng bị; nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này làm lẫy nỏ, nhằm vào giặc mà bắn thì không phải lo gì”.

Vua sai bề tôi là Cao Lỗ làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo thần nỏ” (Đại Việt sử ký toàn thư). Nhờ có nỏ thần đó, quân Nam Việt năm lần bảy lượt xâm lược Âu Lạc đều thất bại.

Còn Triệu Việt Vương khi đóng quân ở đầm Dạ Trạch, cũng là đầm nơi trước kia hai vợ chồng Tiên Dung – Chử Đồng Tử theo truyền thuyết đã bay lên trời. Quang Phục thấy quân Lương không rút lui, bèn đốt hương khấn trời thì có điềm tốt là được móng rồng để đính lên mũ đâu mâu, dùng để uy hiếp quân giặc. Đại Việt sử ký toàn thư chép lại việc này: “tục truyền rằng thần nhân trong đầm là Chử Đồng Tử bấy giờ cưỡi rồng vàng từ trên trời rơi xuống, rút móng rồng trao cho vua, bảo gài lên mũ đâu mâu mà đánh giặc. Từ đó thanh thế quân đội lừng lẫy, đánh đâu được đấy”.

Như vậy, An Dương Vương và Triệu Việt Vương đều được thần giúp. Có một điều rất hay nữa là, vũ khí thần ở đây đều là của hai con vật thần thoại nằm trong bộ “Tứ linh” (long, lân, quy, phụng) và đều là chiếc móng. Rùa và rồng là hai con vật gắn liền với cư dân nông nghiệp lúa nước Việt Nam (rồng được thần thánh hóa từ hình tượng có thật là con rắn).

Thông gia và kết cục - Hai kịch bản, một nội dung?

An Dương Vương - Triệu Đà - Trọng Thủy - Mỵ Châu: Không xâm lược được nước Âu Lạc, Nam Việt Vương Triệu Đà giả thác hòa thân, dùng con bài hôn nhân chính trị để cướp nước. Trọng Thuỷ con Triệu Đà kết hôn với công chúa Mỵ Châu của An Dương Vương. An Dương Vương vì trọng hòa bình, hữu hảo mà tác thành, lại cho Trọng Thuỷ theo cái tục “Chuế tế” - gửi rể chỉ ở Trung Quốc đời Tần mới có (con trai không có tiền nộp sính lễ, lấy thân ở gửi nhà vợ nên gọi là chuế tế (ở gửi rể). Để rồi từ đây, Mỵ Châu với tình yêu dành cho chồng đã tiết lộ hết bí mật quân sự (móng rùa thần), quốc gia cho Trọng Thuỷ, An Dương Vương mất nước.

Triệu Việt Vương - Lý Phật Tử - Nhã Lang - Cảo Nương: Vết xe đổ xảy ra ở thế kỷ 2 TCN của An Dương Vương còn đó, nhưng Triệu Việt Vương vẫn dẫm vào. Sau khi đánh đuổi quân Lương, Triệu Việt Vương giao tranh với Lý Phật Tử (vốn là bộ tướng của Lý Thiên Bảo là anh của Lý Bí) rồi vạch đôi sơn hà cai trị. Lý Phật Tử cũng như Triệu Đà, cho con trai mình Nhã Lang kết hôn với công chúa Cảo Nương của Triệu Việt Vương rồi đánh cắp bí mật quân sự (móng rồng) để rồi cướp nước. Năm Canh Dần, (570), Triệu Việt Vương mất nước về tay Lý Phật Tử.

Dù ở hai thời khác nhau, nhưng An Dương Vương và Triệu Việt Vương đều bị kẻ thù lừa cùng một kịch bản: Hôn nhân, gửi rể - vợ tiết lộ bí mật quân sự cho chồng - thông gia cướp nước. Bí mật quân sự ở được nói tới là móng rùa thần, móng rồng, nhưng thực tế đó chính là việc Trọng Thuỷ, Nhã Lang phá vỡ sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ triều đình An Dương Vương, Triệu Việt Vương. Mất đi điều đó, dù có thành cao, hào sâu, vũ khí lợi hại bao nhiêu đi chăng nữa cũng mất nước.

Mất nước, cả An Dương Vương, Triệu Việt Vương đều đem theo con gái yêu chạy về nam và cùng tìm đến biển làm nơi tự tận. An Dương Vương “xuống biển” ở xã Cao Xá ở Diễn Châu, Nghệ An. Còn Triệu Việt Vương chết ở cửa biển Đại Nha, nay thuộc Nghĩa Hưng, Nam Định. Cái chết của An Dương Vương cùng việc mất nước Âu Lạc mở đầu cho thời kỳ hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Còn Triệu Việt Vương mất nước, chỉ thời gian ngắn sau, với việc Lý Phật Tử hàng Tuỳ, nước ta lại rơi vào thân phận nô lệ.

Theo BAODATVIET.VN

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đằng sau những ước lệ ngôn từ của Thiên đô chiếu...

Đã có rất nhiều bài viết, lời bình về tác phẩm đặc biệt này. Tôi vẫn muốn “chắp nhặt” bằng một vài suy tư tản mạn.

1. Những gì quan sát được từ bản văn

1.1. Một chút đáng tò mò: “Thiên đô chiếu”, tính cả tiêu đề, có 217 chữ (tự). Nhà Lý, từ năm 1009 cho tới năm 1225, tính theo thế đại, trải hơn 8 đời vua - hơn 8, nhưng không phải là 9 - , tính vòng quay nhật nguyệt (tức thời gian vũ trụ), thì cũng là 217 năm (không tròn). Theo một trong những nguyên tắc đọc hiểu của chữ Hán là đồng âm thông nghĩa, thì tự chữ cũng có lúc thông nghĩa với tựlớp lang, là nối tiếp. Ngạc nhiên chưa?

Vài điều còn khiến lăn tăn ngay từ khoảng khắc sơ kiến này: Bản văn (chứ không phải văn bản) của Thiên đô chiếu truyền đến nay được bắt gặp sớm nhất hẳn là từ trong Đại Việt sử ký toàn thư. Bản thân pho Quốc sử này được chính thức thành hình lần đầu vào năm 1479, nhưng được nối tiếp, bổ sung rồi in chính thức trọn vẹn và lưu truyền được tới nay là bản in Nội các quan bản - mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Kinh qua mấy triều đại, dăm bảy sử gia chuẩn nhuận, bản văn có bị can thiệp nhiều ít gì không, hiện thời ta không biết. Nhưng nếu nguyên văn được tồn lưu nguyên vẹn - khả năng này, dù sao, là lớn nhất - thì còn có việc phải làm cho các nhà ngoại cảm và cho giới huyền học. Không thấy có một dạng văn bản nào in riêng, tách bạch ra thành văn bản độc lập, nên tuy chính sử nói là “thủ chiếu”, nhưng cũng không tránh được chỗ “nhòe, mờ”.

1.2.Nội dung bản văn trên thực tế là khá giản dị, đặc biệt là nếu đặt trong văn cảnh của người đọc, người xem, người nghe thời bấy giờ, hay nói chung thời Hán học còn thịnh. Lắng thấy như lời thì thầm, thân mật:

昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億万世子孫之計。上謹天命,下因民志。苟有便輒改。故國祚延長。風俗富阜。

而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。算數短促。百姓耗損。萬物失宜。朕甚痛之。不得不徙。

况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。萬物極繁阜之豐。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要會。爲萬世帝王之上都。

朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。

Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ.

Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.

Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.

Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?

Lời dịch (có thêm thắt):

“Xưa nhà Thương đến Bàn Canh năm lần thiên đô, nhà Chu tới Thành Vương cũng dời chỗ ba lượt. Há rằng mấy vị vua thời Tam Đại ấy làm theo ý riêng, di dời tùy tiện? Hẳn làm thế là để mưu việc lớn, chọn chỗ giữa, tính kế dài lâu cho con cháu muôn đời. (Làm thế tức là) trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy tiện thì dời đổi. (Nhờ thế) nên vận nước bền lâu, đời sống dồi dào.

Vậy mà hai nhà Đinh, Lê cứ theo ý riêng, lơ đễnh với mệnh trời, dửng dưng với kinh nghiệm Thương Chu xưa, đóng mãi một nơi này, dẫn đến chỗ đời nối không dài, số riêng ngắn ngủi, trăm họ chịu hao tổn, vạn vật không thích nghi. Trẫm thật đau lòng, không dời đi không đặng.

Huống chi thành Đại La, nơi đô cũ của Cao Vương ấy, lại là khu vực ở vào khoảng giữa của trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đấy là chỗ gặp nhau của Đông Tây Nam Bắc, thuận trước sau sông núi đi về. Đất ấy rộng mà bằng phẳng, xứ đó cao mà sáng sủa, dân cư không có cái khổ thấp trũng tối tăm, vạn vật được nơi nảy nở cực kỳ phồn thịnh. Xem khắp nước Việt ta, đó quả là thắng địa. Thật là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương, đáng làm nơi định đô cho đế vương vạn thế.

Trẫm muốn theo địa lợi ấy mà định nơi ở, ý các ngươi thế nào?”.

Cứ như thiển ý của người viết bài này, thì giọng điệu của văn bản không hẳn đã là giọng điệu của một văn bản hành chính quan phương, phải mang tính pháp định (lạnh lùng) ở mức cao nhất, như yêu cầu của thể loại đòi hỏi. Không thể nào một văn bản “xin ý kiến” lại là một văn bản pháp lý ở cung bậc cao nhất được!

Từ một góc nhìn khác, những người nghiên cứu có cổ Hán học sẽ không mấy khó khăn để nhận ra rằng văn bản đang được đề cập về hình thức cũng không mang cấu trúc của một đạo chiếu. Chỉ dấu dễ nhận thấy nhất nằm ở cả hai phần mở đầukết thúc.Cũng có thể nghĩ rằng sử gia khi truyền thụ lại văn bản đã tỉnh lược “đầu, đuôi”, nhưng dễ chấp nhận hơn, nếu coi đây là một đạo dụ. Tính quy phạm của dụ co giãn hơn nhiều so với chiếu, chế, cáo, tấu, biểu. Thậm chí, nhà vua có thể ban ra những “khẩu dụ”.

Vậy nên, có phần chắc là ba chữ lấy làm tiêu đề: thiên đô chiếu, không nằm trong thủ bút của Thái Tổ nhà Lý. Tiêu đề của văn bản này (có thật) này là gì? Xin chịu!

1.3. Những ý tưởng hiển ngôn

Kinh nghiệm lịch sử đối với mọi quốc gia, từ cổ chí kim, cho thấy rằng việc định đô, hay việc dời đô, là vô cùng hệ trọng. Không phải ngẫu nhiên mà vào đầu cái văn bản “trưng cầu quan ý” này, Lý Thái Tổ lại mở lời bằng chuyện thời… Tam Đại: chỉ ở mấy triều đại sớm nhất của lịch sử Trung Quốc mà tín sử ghi lại được (nên người Việt biết chữ Hán có thể đọc), mới có chuyện liên tục thay đổi nơi định đô. Việc dời đô ở các triều đại này thường gắn với những yêu cầu ổn định và phát triển hơn trước. Vào thời kỳ muộn hơn, dời đổi kinh đô là chuyện hy hữu. Tần chỉ có một kinh đô, (Lưỡng) Hán với vận số bốn trăm năm cũng chỉ dời đô vài lần, nhà Tống đôi lần, mà mỗi lần dời đi bao giờ cũng gắn với một hay những biến cố tai họa (catastropes) đang làm chao đảo triều đại. Không thấy chép việc nhà Đường dời đô trong ngót ba trăm năm tồn tại. Chuyện dời đô để mở ra vận hội mới cho quốc gia rõ ràng là chuyện ở những thời điểm các quốc gia đang nằm trong tiến trình quy hoạch và kiến tạo, trong đà đi lên. Còn lấy “tích” đâu cho phù hợp hơn “tích” thời Tam Đại nữa?

Ở trên, tôi mạo muội dịch lại một đôi chỗ trong bản văn này. Chẳng dám tự coi mình là hay hớm chữ nghĩa gì, chẳng qua vì việc cảm nhận đúng các sắc thái ngôn từ trong trường hợp này có ý nghĩa thực sự quan trọng.

Đang ngồi trong cung điện cũ của nhà Tiền Lê, lại có được ngôi vua dường như êm ả, Lý Thái Tổ dù sao chăng nữa không thể thống trách “Đinh Lê nhị gia” quá lời. Trên thực tế, các vua của hai triều Đinh, Lê đều có những giới hạn rõ ràng trong tầm nhìn, trong vốn văn hóa và viễn kiến chính trị. Vị Thái Tổ nhà Lý hẳn từ sớm đã âm thầm nhận ra và khắc phục ở chính mình những hạn chế ấy.[1]

Theo cách nhìn của Lý Thái Tổ, vị trí của kinh đô quan hệ mật thiết, chi phối trực tiếp đến số phận cá nhân người làm vua, đến thịnh suy của triều đại, đến sự thăng trầm của “quốc tộ”, rộng hơn và toàn diện hơn, đến bi hoan ưu lạc của trăm họ, cảnh phồn thịnh hay hư hao của đời sống nói chung. Ngài đã nói ra cái điều mà bá quan hẳn cũng từng lờ mờ cảm thấy, nhưng giờ đây thì phải tự giác tri nhận. Theo cách đó, dễ dàng tìm được sự đồng thuận, tìm ra tiếng nói chung ở hầu hết các thành viên của triều đình.

Trình bày xong cái lý buộc phải rời đất này mà đi, Thái Tổ dĩ nhiên tiếp đó phải trưng ra cái lẽ của việc lựa chọn nơi cần đến.

Không ít người mang thể thức và thói quen làm văn nghị luận thời nay ra để đòi Lý Thái Tổ phải đáp ứng yêu cầu và tuân thủ tiêu chí[2]. E rằng làm như vậy, một lối “yêu sách” thoát ly khỏi hoàn cảnh cụ thể - lịch sử, là vô tình hay hữu ý cấm cản chính mình hiểu đúng được người xưa!

Định quốc đô ở Hoa Lư là sự lựa chọn của người sáng lập nên vương triều nhà Đinh - vị thủ lĩnh xuất thân trong một hoàn cảnh thiệt thòi hơn nhiều người bình thường khác, nhưng đã trải qua một thời trai trẻ tự trưởng thành vượt bậc, từ địa vị một gia tướng, lên địa vị một chủ tướng, rồi “bay trên đầu thế kỷ nhân gian” thành Vạn Thắng Vương, để “chốt lại” ở danh xưng Tiên Hoàng đế. Lên đến “cửu tiêu” như vậy rồi, nhưng những năm tháng sau buổi thiết triều định đô, ngài còn vẫn phải tiếp tục xông pha hòn đạn mũi tên, nam chinh bắc chiến. Quán tính của lực ly tâm, cát cứ, vốn được nuôi dưỡng lâu bền từ trong sự bảo lưu dằng dặc của làng xã tự trị, được những người thuộc tầng lớp hào trưởng (khá đông đảo trên mọi vùng miền) không chỉ kế tục mà còn chực chờ cơ hội để “phát huy” chống lại quyền lực tập trung về triều đình trung ương. Ngoài võ công lưu vào sử sách chính danh trong những cuộc tranh đấu hướng ngoại “phá Tống bình Chiêm”, vị vua khai cơ của nhà Tiền Lê còn phải “liền năm đánh dẹp” hàng loạt những cuộc “nội loạn”[3].

Việc tranh chấp quyền lực giữa các phe phái và thế lực như thế diễn ra thậm chí ở mức độ khốc liệt hơn nhiều ngay trong và sau cái chết của Lê Hoàn, đến nỗi “trong nước 8 tháng không vua”, việc mai táng nhà vua không được thực hiện đầy đủ lễ nghi tối thiểu, thậm chí không có nổi cả tên thụy và tôn hiệu.

Tận mắt chứng kiến, và thậm chí tham gia vào những biến cố đó, vị Thái Tổ tương lai của nhà Lý chắc chắn đã không chỉ nảy sinh những ý đồ mà còn trù tính cả một kế hoạch dài hơi cho bản thân mình. Việc ngài ôm xác Trung Tông Long Việt khóc ngay giữa triều đình của kẻ giết anh đoạt ngôi chắc chắn là một phép thử mang ý nghĩa sinh tử. Vậy mà kẻ bạo quân đó (Ngọa Triều Long Đĩnh) lại tỏ một thái độ mà ở một góc nhìn nào đó cũng nên được đánh giá là ít nhiều có “văn hóa chính trị”: “Vua lên ngôi được ba ngày thì bị Long Đĩnh giết. Bầy tôi đều chạy trốn, duy có Điện tiền quân là Lý Công Uẩn ôm xác mà khóc. Long Đĩnh lên ngôi, truy đặt thụy cho vua là Trung Tông Hoàng Đế, cho Công Uẩn làm Tứ sương quân Phó chỉ huy sứ[4]. Ba năm sau thời điểm ấy, Ngọa Triều băng khi mới 24 tuổi. Chính sử chép mơ hồ về nguyên nhân cái chết, bằng cách “kể” rằng vua mắc trĩ, từng phải “nằm coi chầu” nên mới có “uế danh” là Ngọa Triều, nhưng dã sử thì “đồn vụng đồn trộm”, ghi chép úp mở rằng cái chết ấy hình như có liên quan đến đôi tay của người từng ôm xác vua anh khóc mấy năm trước đó! Kém tuổi hẳn một giáp, dù có thể cũng là người thông minh cơ trí và lắm tham vọng, Lê Long Đĩnh vẫn chưa thể là đối thủ thực sự của viên Điện tiền chỉ huy sứ của mình.

Chắc chắn rằng sau khi đã được tôn lập, một trong những việc cần làm ngay được nhà vua xác định và nhanh chóng thực hiện, là việc dời đô. Như đã nói ở trên, ngài khẳng quyết tường minh rằng, việc dời đô cùng một lúc có quan hệ mật thiết và trực tiếp đến an ninh cá nhân, dòng dõi hoàng tộc, nhu cầu an cư lạc nghiệp của cư dân nơi đế đô, điều kiện nắm quyền trị nước và lớn nhất, xa nhất là vận mệnh vương triều - vận mệnh quốc gia. Nhà vua không hề giấu giếm, ngược lại, thẳng thắn bộc bạch nỗi niềm canh cánh ấy. Nội dung chủ yếu của bản “chiếu” này chính là một sự giãi bày cùng những lý lẽ thuyết phục quần thần về quyết định quan trọng đó.

Việc dời đô diễn ra tuy không quá vội vàng, mà được trù hoạch cẩn thận, nhưng cũng có thể nói là khẩn trương, gấp gáp.

Nửa sau của lời “chiếu”, như đã biết, ít nhiều làm dấy lên những sự phân vân, những lời “phản biện”, nhất là đối với độc giả thời nay. Nhưng trước khi thể hiện “lập trường”, hãy tĩnh trí quan chiêm đôi dòng lịch sử.

Cũng nên dừng lại bàn đôi lời về cách nhìn nhận, đánh giá đối với các “yếu nhân nhập cư” trong cả một thời gian khá lâu dài trong lịch sử, để hiểu hơn cách thế ứng xử từng được tỏ ra ở các tác giả, tác phẩm của “người Nam” về sau, trong đó có Lý Thái Tổ.

Giữa các nhân vật từng là quan lại người Trung Quốc đô hộ ở nước ta, có một số tên tuổi để lại những dấu ấn đậm nét. Không mấy ai chỉ để lại “tiếng thơm”, nhưng sẽ là không công bằng nếu nhìn nhận nhất loạt những người này chỉ đơn giản là thuộc vào “bè lũ xâm lược và đô hộ tàn bạo, khát máu”, chỉ là những kẻ thù “không đội trời chung”. Cao Biền là một người cần được xét đoán nhiều chiều như thế. Cả chính sử lẫn dã sử đều có không ít những truyện tích cùng rất nhiều những ý kiến đánh giá, bình nghị trái chiều. Do chỗ hành trạng, năng lực, quan hệ và tính cách phức tạp, những người như Cao Biền hay Hoàng Phúc thuộc vào loại quan cao cấp để lại trong ký ức của người Việt những “kỷ niệm” đa nghĩa, thậm chí được huyền thoại hóa, truyền thuyết hóa. Họ, trong cảm quan người Việt, là những “phức cảm lịch sử”. Dù sao mặc lòng, không thể chối rằng các sử gia chính thống của các triều đại quân chủ Việt Nam, dù nuôi trong tâm khảm một lòng yêu nước sâu sắc, cũng từng viết về những người này bằng không ít những lời lẽ trọng thị, thậm chí kính phục. Thái độ đó của các sử gia xưa, ở một mức độ đại diện khá tiêu biểu, cũng phản ánh thái độ của cộng đồng cư dân Việt và các chính thể đại diện dân tộc đối với nền văn hóa, văn minh Trung Quốc, thể hiện thế ứng xử đa trị, đa chiều của người Việt đối với phức thể khổng lồ thường xuyên có quan hệ phức tạp với quốc gia - dân tộc mình, với cộng đồng cư dân mình. Xét cho cùng, sự tiếp cận đa chiều ấy về những mối liên hệ giữa hai cộng đồng, hai thực thể quyền lực là một tất yếu lịch sử.

Cao Biền, như chính sử Việt chép, sau hơn mười năm chinh phạt ở nhiều nơi, sang Giao Châu với chức quan Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ “giữ phủ xưng vương, đắp La Thành…[5]. Theo ghi nhận của các sử gia, trong thời gian trị nhậm nơi này, Biền làm được nhiều việc mang lại ích lợi lớn cho cộng đồng Việt. Ngoài tài trị nước cầm quân của một nho tướng, nhờ vào những kiến thức “ngoài luồng” như tri thức về Đạo giáo và phương kỹ, Biền cũng làm khá nhiều việc “khó hiểu”, có nhiều hành xử “không giống ai” nhưng xét về kết quả là hữu ích. Ngô Sĩ Liên từng bình luận : “Việc Cao Biền đào kênh sao mà kỳ dị thế? Đó là vì việc làm hợp lẽ, cho nên được trời giúp. Trời là lẽ phải. Đất có chỗ hiểm, chỗ bằng, đó là lẽ thường. Nếu hiểm mà không vượt được thì trời phải nhờ đến tay người làm gì? …Xem như lời của Biền nói “Nay khai đường biển để giúp sinh dân, nếu không theo lòng riêng thì có gì khó”. Lòng thành phát ra từ lời nói, thì lời nói ấy há chẳng là thuận ư?Lòng tin thành thực cảm thông đến cả vàng đá, huống nữa là trời?Việc gì trời đã giúp sức là thuận…”[6]. Các bộ sử Trung Quốc, cả những bộ sử chép kỹ chuyện ông này, như Tân Đường thư - Cao Biền truyện đều không thấy nói việc Cao Biền “xưng vương”, nhưng có điều chắc chắn là với một ông quan đa mưu túc trí lắm kế nhiều mưu, văn võ toàn tài và tham vọng không hề nhỏ như Cao Biền, triều đình trung ương của nhà Đường không thể mảy may “lơ là cảnh giác”. Không để viên quan này “mọc rễ” ở nơi biên viễn vốn thường trực một khả năng ly khai khỏi thiên triều, vào năm 875 vua Đường gọi ông ta về Bắc, đổi làm Tây Xuyên Tiết độ sứ.

Không thể nói rằng lịch đại sử gia của Việt Nam đã “hữu khuynh” hay vì lịch sử quan Nho giáo đã làm sai lạc cách nhìn ở họ. Công bằng và khách quan bao giờ cũng là dấu hiệu của một nền văn hóa ứng xử ở một cộng đồng đã phát triển tới độ trưởng thành.

Vậy thì, với hình tích như thế, việc Cao Biền (dù trên thực tế có “tiếm hiệu” hay không) được nhiều người Việt, cả đương thời lẫn về sau, gọi là Cao Vương, coi nơi ông ta trị nhậm là “đô”, tưởng không có gì là lạ. Dù đang ngự trên đỉnh cao của quyền uy, Lý Thái Tổ vẫn cứ là “đứa con của thời đại mình”, hạ bút viết một bổ ngữ “Đại La, đô cũ của Cao Vương” có lẽ không phải là điều đáng gây thắc mắc? Cao Biền vốn nổi danh là một bậc thầy lớn về phong thủy, một đạo sĩ “khét tiếng” có tài hô sấm gọi chớp, hô gió gọi mưa, cũng từng xuất hiện cả truyền thuyết về việc chọn đất đắp thành công thành Đại La (một thách thức lớn đối với nhiều nhân vật “tiền nhiệm”) của ông này, nên chắc chắn việc mô tả vùng đất mà về sau sẽ là Thăng Long của Thái Tổ nhà Lý với lý do đấy là đất do Cao Biền lựa chọn sẽ làm tăng thêm sức thuyết phục đối với triều thần. Bằng vào câu chữ, thì ngoài mệnh đề “đắc long bàn hổ cứ chi thế” (được cái thế rồng cuộn hổ ngồi) - vốn là một nhận xét “đầu lưỡi” vào thời đại bấy giờ đối với một vùng linh địa, thậm chí cả ở người thường - không còn câu chữ nào khiến ta chê trách ngài là đã không “phản ánh thực tế”! “Người ta” cũng lạ thật, định danh là Thăng Long thì hân hoan ngợi ca, mà mô tả thế đất “rồng cuộn hổ ngồi” thì xét nét, cho là dị đoan, là mê tín[7]!

2. … và những “chuyện nghìn năm” ẩn tàng sau câu chữ

2.1. Vận nước đến lúc rồi

Sông Hồng tới tận đầu Công nguyên là một dòng chảy khổng lồ lấy thế năng từ một vùng đất cao nguyên rộng lớn đưa phù sa về vùng hạ lưu giao thoa với những dòng chảy lớn nhỏ khác tạo nên một “mạng lưới sông rạch”, hình thành nên những gò, những ụ, những bãi, những đầm. Giữa vô số những sự lắng đọng, trầm tích ngẫu nhiên vẫn dần dần hình thành nên những thế, những mạch đất “có tính khuynh hướng”, được tổ chức và bị điều chỉnh theo hoạt động của dòng sông mẹ. Vùng đất nào được bồi cao sớm, lại gần với những vùng cư trú cũ, tự nhiên dễ dàng được cư dân sống gần nơi đó nống thêm, khoanh lại, bao lấy, nhập vào. Thuở xa xưa ấy, theo cách hình dung của K. Marx, “việc chiếm hữu từng mảnh trên mặt địa cầu làm của riêng vốn có tính ngẫu nhiên”, nên giản dị như cách nói và làm của dân gian, ai “xí” trước thì người ấy được. Mùa này nối mùa khác, năm này liền năm khác, thập niên, thế kỷ này đến thập niên, thế kỷ khác, các cộng đồng thoạt đầu chỉ ở quy mô công xã thị tộc cứ thế đông đúc lên, lớn mạnh dần, khôn ngoan ra, kiên nhẫn mở đất, kiên nhẫn canh tác. Ở quy mô công xã thị tộc, rồi thành làng thành họ, thành chòm thành xóm, các cộng đồng ấy tự làm hình thành nên những mối liên kết nội tại phức tạp hoá dần dà, để đến lúc xuất hiện những lệ, những tục, những quy, những định, những khoán, những ước...Mọi cá thể - thành viên cộng đồng vừa có những nhu cầu, ham muốn, lợi ích... riêng phải cố mà đạt tới, vừa hiểu dần cái lẽ “Một cây làm chẳng nên non”, “Lụt thì lút cả làng”, nhận thức dần ra tính tất yếu phải tương thân, tương ái, tương trợ, khi cần thậm chí phải biết nhịn, phải chịu thiệt. Trong mọi nỗi lo, nỗi lo âu phổ biến hình thành sớm nhất ở các cá thể của những cộng đồng như vậy hẳn phải là nỗi lo “bật bãi”. Nỗi lo ấy lớn đến mức đã có lúc người ta khuyên nhau hoặc thậm chí tự nhủ “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “Thà chết một đống hơn sống một người”.

So với nhiều vùng bình nguyên trên thế giới do các con sông lớn tạo dựng, thì đồng bằng sông Hồng được xếp vào loại đồng bằng trẻ. Không có sẵn một bình nguyên mênh mông mà ruột đất đã hình thành đâu đó từ “muôn năm cũ”, người Việt cổ hướng dần ra cái khoảng trời đất nước đang sôi sục tự nhào nặn để định hình kia những mong giành được, đoạt lấy hay gom thêm những khoảnh những vạt những rẻo những doi ... mới. Không chỉ thụ động chờ đợi cho đến lúc “Sông kia rày đã nên đồng”, họ cũng tận dụng cả những hiểu biết dẫu còn khá thô sơ về thiên văn thời vụ, “chớp cơ hội” tranh với các nhiên thần quyền đổ mồ hôi để thu về hoa lợi trên những mảnh đất còn đỏng đảnh chơi vơi giữa hai bờ sở hữu. Cứ thế, cứ thế, người Việt xuôi về hạ lưu của con sông dữ.

Thành Cổ Loa là bằng chứng rõ ràng đầu tiên của sự tồn tại của một cộng đồng đã được tổ chức tới quy mô nhà nước. Nhưng chỉ An Dương Vương nửa thực nửa huyền là được khẳng định từng đóng đô ở đấy. Triệu Đà, người cho đến nay vẫn phải chịu tình trạng chân trong chân ngoài giữa những dòng lịch sử Việt Nam, thì lại định đô ở Phiên Ngung, tít tận Quảng Châu (Trung Quốc), chứ không phải ở hữu ngạn sông Hồng như “đồng nghiệp” bị ông thôn tính. Trong kỷ thuộc Tây Hán, trị sở của quan lại đô hộ được sử chép là đặt tại Long Biên, nhưng thành Long Biên ấy ở đâu thì nói rằng chưa kê cứu được (có thuyết từ xưa nói rằng Long Biên là Liên Lâu, cũng tức Luy Lâu, trên đất huyện Thuận Thành nay), còn đến thời Đông Hán, thì lị sở là ở Mê Linh (Vĩnh Phúc ngày nay), tức trở lại “vùng đất cao và chắc, vùng đất an toàn”! Cha con ông cháu Sĩ Nhiếp thì “định đô” ở Long Biên (vẫn là thành Long Biên chưa kê cứu được kia), cho tới tận Lý Bí, tức Lý Nam Đế, đô vẫn lại được đặt ở đất Long Biên ấy!

Cần chú ý rằng lúc yếu thế, Lý Bí tránh vào động Khuất Lạo, mà theo kê cứu đời sau, là động thuộc đất Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Người anh hùng cứu quốc tiếp theo, Triệu Quang Phục, đô ở Long Biên, rồi dời sang Vũ Ninh (Quế Võ ngày nay), khi bị thất thế, lấy vùng đất sông rạch đầm phá là Dạ Trạch làm căn cứ địa kháng chiến. Hậu Lý Nam Đế thì đóng đô ở Phong Châu.

Nhà Đường cậy là đại đế chế, sức dài vai rộng, mới đắp La Thành làm phủ trị của An Nam đô hộ phủ. Nhưng rồi qua mấy lần bị người Nam Chiếu tranh chấp, La Thành chịu cảnh trống không. Như đã biết, mãi tận khi viên kiêu tướng Cao Biền trấn giữ xứ này, La Thành mới có được một chặng ngắn lâm thời sinh sắc và trở nên “hoành tráng”.

Ngoái nhìn sử cũ, từ Hai Bà Trưng cho tới tận Lê Ngoạ Triều, các vị quân chủ người Việt chưa mấy ai đủ điều kiện và/ hoặc đủ can đảm để chọn vùng đất Hà Nội làm nơi định đô.

Nguyên nhân chủ yếu hẳn là do không thể “cãi giời”: cả vùng đất ấy vẫn đang trong quá trình thành tạo tưng bừng, mang sẵn trong mình độ rủi ro cực lớn cho những ai hăm hở sớm đóng gông nó lại!

Nhưng tới đầu thế kỷ XI thì cục diện địa chất của đồng bằng sông Hồng nói chung và vùng đất mà Thái Tổ nhà Lý chọn để đặt “thượng đô” nói riêng đã nhiều phần khác xưa.Tuy vẫn là miền lắm sông nhiều bến, nhằng nhịt kênh rạch, nhưng với một thiên niên kỷ phù sa, thềm địa chất của đoạn trung lưu này đã kịp ổn định về cơ bản. Huống chi thành Đại La, nơi đô cũ của Cao Vương ấy, lại là khu vực ở vào khoảng giữa của trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đấy là chỗ gặp nhau của Đông Tây Nam Bắc, thuận trước sau sông núi đi về. Đất ấy rộng mà bằng phẳng, xứ đó cao mà sáng sủa, dân cư không có cái khổ thấp trũng tối tăm, vạn vật được nơi nảy nở cực kỳ phồn thịnh. Xem khắp nước Việt ta, đó quả là thắng địa. Thật là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương, đáng làm nơi định đô cho đế vương vạn thế. Lý Thái Tổ hân hoan khẳng định. Đó cũng là niềm hân hoan của hàng triệu cư dân từ đây có một quốc gia hùng mạnh để ổn định lâu dài, có một miền “thản địa” để cày sâu cuốc bẫm có một vùng đất đủ “rộng và thoáng” cho đấng vương chủ định đô.

Nhưng dù sao, đã dời đến rồi định đô ở vùng trung thổ, miền đất vẫn chưa hoàn toàn ổn định về kết cấu tự nhiên, gần bốn thế kỷ thời đại Lý - Trần buộc phải có lắm việc phải làm với môi trường sông nước. Quân đội của hai triều đều rất mạnh thuỷ binh, thạo thuỷ chiến, có nhiều chiến công lẫy lừng gắn với môi trường và những địa danh sông nước. Nhưng nhiều sự kiện trái khoáy, nhiều biến cố bất tường cũng sẽ bởi môi trường sông nước mà ra[8].

2.2.Đọc giữa những dòng văn

Thành phố nào, thủ đô nào mà chẳng “có những vấn đề đặc thù” của nó, và tuổi thành phố, thủ đô càng lớn, thì vấn đề phát sinh lại càng nhiều.

Như nhiều nhà nghiên cứu đã cùng ghi nhận, việc dời đô của Lý Thái Tổ là một quyết định sáng suốt, thể hiện một tầm viễn kiến trên nhiều góc độ, có tác động lâu dài đến sự phát triển, gần thì của chính vương triều, xa thì đến vận mệnh của toàn bộ lịch sử phát triển tiếp theo của toàn cộng đồng, của quốc gia - dân tộc. Ta sẽ cùng nối thêm đôi lời theo hướng đó.

Bằng vào những gì mà sử liệu cung cấp, có thể nhận định rằng những mối liên hệ của Lý Công Uẩn với cộng đồng thân tộc của cá nhân ngài cho tới nay chưa thể nói là đã tường minh. Những nỗ lực “bạch hóa” lý lịch của người sáng lập nên vương triều Lý vào mấy thập niên gần đây xem ra không có tiến triển đột xuất[9]. Hãy bàn sâu hơn trên những gì đã có, đã biết.

Từ thời điểm An Dương Vương làm mất nước cho tới trước thời điểm Lý Công Uẩn lên ngôi, nếu xét cội nguồn của những nhân vật lịch sử từng để lại dấu ấn của mình trên quỹ đạo đấu tranh giành độc lập, kiến tạo quốc gia trên cơ sở cộng đồng Việt, không khó nhận ra hai thành phần xuất thân chính: các nhân vật gốc thuần Việt và các nhân vật người Việt gốc… phương Bắc.[10] Xếp hàng đầu của “danh sách” những vị anh hùng dân tộc thuần Việt là Hai Bà Trưng - điều này khỏi cần nghi vấn, phản biện. Do chỗ nước Nam Việt của Triệu Đà không được kiến tạo chủ yếu trên cơ sở cộng đồng Việt, nên có thể coi người có vinh dự đứng đầu “nhóm đối đẳng” ấy là Sĩ Nhiếp.

Phải đề cập tới chủ đề này, bởi đây từng và hãy còn là một ám ảnh, một phức cảm khác của lịch sử. Nơi quy chiếu ngắn gọn nhưng xác đáng nhất phải là: cộng đồng cư dân Việt đã chấp nhận ai, từng coi ai là “bề trên tự nhiên” của mình.

Do có lịch sử thành tạo đặc thù, vùng đất Thăng Long xưa, Hà Nội (cũ) nay vốn không là “thuộc địa” của bất cứ vị hào trưởng hay sứ quân nào. Lại thêm một điều may mắn quan trọng: đất ấy khá gần với “quê mẹ” (thì làm sao dám chắc về “quê cha” của ngài, khi đến pho quốc sử hàng đầu mà cũng đành chép “đài” lên rằng “mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiên Sơn, cùng với người thần giao hợp rồi có chửa”? [11]) của Lý Công Uẩn. Với cư dân nông nghiệp trồng trọt định cư xưa, một cô gái trẻ đi chơi chùa rồi mang bầu, có thể “từ đó suy ra”, rằng vậy “quê cha” của “cái bụng bầu” cũng “loanh quanh đâu đấy”! Người ngoài không biết, chứ “người trong cuộc” thì chắc chắn phải biết!

Trước Lý Công Uẩn, từng không ít những “yếu nhân” có bản khai lý lịch không rõ ràng. Sau ngài, cũng không phải không còn ai với cái trích yếu thiếu mạch lạc vẫn được thừa nhận tới tận hàng quốc chủ. “Chủ nghĩa lý lịch” không nằm trong nền tảng tinh thần của người Việt, dẫu rằng lại cũng không nên dửng dưng với “quá khứ” của bất kỳ ai.

Sự thật là, trừ trường hợp Ngô Quyền, mấy vị vua khai sáng nên hai triều Đinh, Tiền Lê đều có bản lý lịch với mục “họ và tên cha” … để trống.

Từ thuở bé, bởi rất nhiều lý do, Lý Công Uẩn đã phải chịu cảnh “ly hương”, nhưng tới thời điểm không chỉ “lập thân” mà là “lập quốc” này rồi, sao chẳng phải nghĩ đến việc tìm (thêm) một điểm tựa tự nhiên thật chắc chắn? Dời đô về Thăng Long, cũng tức là thoát ra khỏi vùng “triền miên binh hỏa”, lại cầm chắc có được sự trợ giúp của ít ra là những “thế lực đồng hương”.

Tôi không suy diễn về điều này. Quốc sử chép việc lên ngôi của Lý Công Uẩn ở Hoa Lư vào tháng 10, ngày Quý Sửu (1009). Sau khi chép lại hàng loạt những truyền thuyết, giai thoại, sấm ngữ xung quanh việc lên ngôi ấy, sử gia không chép bất kỳ sự kiện lịch sử đích thực nào xen thêm vào trước sự kiện này: “Thuận Thiên, năm thứ nhất (1010), (Tống, Đại Trung Tường Phù năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, xa giá về châu Cổ Pháp, ban tiền lụa cho các bô lão trong làng theo thứ bậc khác nhau.

Sai Viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống để kết hảo[12]. Tiếp liền theo đó, sử gia chép tới chuyện vua muốn dời đô.

Rõ rằng chuyện “kết nối” với quê nhà là điều tối quan trọng, được ưu tiên hơn cả việc “nối mạng với máy chủ” Thiên triều! Việc đi sứ thì sai người làm (gia dĩ, người đi sứ có quan hàm khá khiêm tốn!), nhưng việc “hồi hương” thì phải tự mình, kết hợp thăm dò việc đại sự dời đô trong ý định. Đích thân nhà vua “đi tiền trạm”, “đạo đạt dân tình”.

Quyết định dời đô còn bị chi phối bởi một lý do quan trọng khác, thậm chí là lý do quan trọng nhất: kiến tạo và cai quản cho bằng được một quốc gia có lãnh thổ đã khá rộng lớn nhưng chưa đạt tới sự thống nhất bền vững.Có lẽ, câu quan trọng nhất trong bản chiếu này là “Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội, vi vạn thế đế vương chi thượng đô[13]. (Thật là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương, đáng làm nơi định đô cho đế vương vạn thế).

Với bạn đọc không có điều kiện biết sâu Hán ngữ, cần có lời giải thích ngắn gọn: “bức thấu chi yếu hội” nghĩa là cái moay - ơ đối với bánh xe!

Như đã sơ bộ đề cập, ở thời điểm Thái Tổ nhà Lý lên ngôi, sông Hồng đang tiếp tục quá trình “đẻ đất”.

Sử liệu chính thức từ thời Lý ngược lên trước ít thấy chép về công việc đê điều, cũng thấy ít những “đại sự kiện” liên quan đến lũ lụt nói riêng, thuỷ tai nói chung. Nhưng đến thập kỷ thứ hai của triều Trần thì sử gia không thể cứ dửng dưng với thuỷ thần mãi được nữa. Mậu Tuất, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 7 (1238), mùa thu, tháng 7, nước to, vỡ tràn vào cung Thưởng Xuân; Canh Tý, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 9 (1240), tháng 7, gió lớn, mưa to, động đất; năm sau, 1241, mùa hạ, tháng tư, hạn hán, núi lở, đất toác; tháng 5 tháng 6/1242, lại hạn hán; mùa thu, tháng 8/ 1243 nước to, vỡ thành Đại La; Ất Tỵ, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 14 (1245) mùa thu, tháng 8, vỡ đê Thanh Đàm, tiếp đến mùa đông, tháng 12, gió to mưa lớn 3 ngày, nước sông tràn ngập, thuỷ tộc chết nhiều. Dẫu rằng vào thời đoạn ấy “quốc gia vô sự, nhân dân yên vui, người làm quan giữ mãi một chức, người ở quán, các 10 năm mới được xuất thân, người ở sảnh, cục 15 năm mới được xuất thân”, thì đến năm 1248, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17, lịch sử ngành thuỷ lợi Việt Nam đã có được một mốc lớn đáng lấy làm ngày kỷ niệm: “Tháng 3, lệnh các lộ đắp đê phòng lụt, gọi là đê quai vạc, từ đầu nguồn đến bờ biển, để ngăn nước lũ tràn ngập. Đặt chức quan hà đê chánh phó sứ để quản đốc.Chỗ đắp thì đo xem mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền. Đắp đê quai vạc là bắt đầu từ đó (tôi nhấn mạnh – TNV)”[14].

Có thể hình dung rằng vào thời điểm ấy, cả lưu vực ngày nay là vùng châu thổ Bắc Bộ vẫn còn là một vùng đất thấp đang được thành tạo nham nhở. Ngoài dòng chảy lớn, chính yếu là sông Hồng, còn có sự góp nước, góp phù sa của nhiều con sông lớn nhỏ khác, xuất phát từ những triền núi khác, hướng dòng chảy có thể gọi là “châu tuần”. Từ sơn hệ đá vôi thuộc địa phận Hoà Bình đến Ninh Bình, Bắc và Tây Bắc Thanh Hoá ngày nay, hướng dòng chảy của các sông là hướng Đông Bắc. Từ vòng cung Sông Gâm - Đông Triều, hướng dòng chảy của các sông chủ yếu là hướng Đông Nam. Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tây Bắc tỉnh Sơn Tây, Bắc Giang và phần lớn Bắc Ninh về cơ bản đã ổn định “mặt bằng” từ thời gian xuất hiện Cổ Loa thành trở về trước. Nhưng tình trạng địa chất của cả dải đất từ trung xuống hạ lưu sông Hồng, nghĩa là từ Hát Môn về xuôi, nhất là phía bờ Nam, thì chưa đạt tới sự ổn định cả nền lẫn thềm như thế. Bộ phận thuộc văn minh sông Hồng có sự ổn định sớm hơn cả là phía bờ Bắc - cũng chính là phía “quê nhà” của Lý Thái Tổ. Phải rằng vì thế, mà từ đây trở đi, trong tứ nội trấn, duy phía Bắc này gắn với kinh đô để thành “Kinh Bắc”?

Tuy lời chiếu dời đô khẳng định vùng đất chọn để định đô đã đạt tới tiêu chí “thản bình, sảng khải” (bằng phẳng, sáng sủa), ta cũng cần biết thêm rằng sông Hồng ngày nay đoạn chảy qua Hà Nội đang là một “con nước trên cao”, việc hộ đê càng năm càng tăng thêm mức báo động. Ngoài tuyến đê chính là tuyến đê sông Hồng, lần lượt hình thành các tuyến đê dọc theo các con sông khác cả trong lẫn ngoài phạm vi đồng bằng Bắc Bộ. Khi các tuyến đê hình thành thành mạng lưới liên thông và khép kín một cách tương đối, cũng là khi quá trình thành tạo tự nhiên của vùng châu thổ Bắc Bộ chấm dứt. Thuộc về hay chủ yếu thuộc về vùng châu thổ ấy là các tỉnh / thành phố Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội (gồm cả Hà Tây cũ), Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng và Thái Bình ngày nay. Trong các tỉnh, thành ấy, Hưng Yên và Thái Bình là hai tỉnh chẳng đào đâu ra cảnh quan “sơn kỳ thuỷ tú”, bởi đơn giản là hai tỉnh này không có núi. Các nhà địa mạo học mô tả hình thế của tam giác châu Bắc Bộ nghiêng từ Tây Bắc xuống Đông Nam, bề mặt giống chiếc phễu bổ đôi, còn mặt cắt ngang thì giống như cái võng. Cái “võng” ấy lại không chỉ lộ ra trên bề mặt, mà “võng từ nền”, từ cấu trúc “móng”: lớp trầm tích của phù sa chỗ “đáy võng” dày tới 30 – 40 km! Và “vùng đáy võng” ấy chính là Hà Nội.[15] Hà Nội “trũng cả trên lẫn dưới”. Nhà địa lý nhân chủng học Pierre Gourou đã diễn đạt thật hay toàn trạng ấy: “Châu thổ sông Hồng đã chết trong tuổi vị thành niên của nó”[16].Dĩ nhiên, đó là cái chết về mặt kiến tạo địa chất tự nhiên.

Điều mà Lý Thái Tổ, dẫu có biết, cũng không thể nói ra trong lời chiếu này, chính là sự trạng ấy.

Lời kết

Hơn tám mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Ngô Quyền phục quốc tới ngày Lý Công Uẩn lên ngôi. Nếu quan sát kỹ những điều chính sử ghi chép về khoảng thời gian này, sẽ chợt nhận ra rằng trải qua gần một thế kỷ có độc lập ấy giới lãnh đạo quốc gia dường như rất ít những hoạt động “tác nghiệp” ở cả một vùng rộng lớn của đất nước. Nếu lấy Thăng Long làm điểm quy chiếu, thì vùng dường bị quên ấy nằm cả ở phía Viễn Tây, phía Bắc và Đông Bắc. Nếu cứ ở vùng thung lũng đá vôi Hoa Lư, triều đình vươn tay thế nào để nắm lấy những vùng đất vô cùng quan yếu ấy? Ngẫm cho kỹ, mới thấu cái lẽ sâu xa nhưng cũng là niềm uẩn khúc mà đấng khai cơ của nhà Lý ngụ vào trong lời ngắn gọn của mình: “khoảng giữa của trời đất”, “chỗ gặp nhau của Đông Tây Nam Bắc, thuận trước sau sông núi đi về”.

Việc dời đô của Lý Thái Tổ ghi dấu một bước ngoặt, phản ánh một nhận định chính trị mang tầm vóc thời đại: giai đoạn thủ hiểm nhất thiết phải được vượt qua và về cơ bản đã được vượt qua. Đã đến thời phải tạo dựng một quốc gia “đàng hoàng, to đẹp”.

Dĩ nhiên, Lý Thái Tổ cũng đã lường đến những thách thức, những trở ngại, những nguy cơ nữa. Mười bảy năm trị vì tiếp theo của ngài là để đối diện, và ngài đã đối diện thành công mỹ mãn với những thách thức, trở ngại, nguy cơ ấy.

[1]Hốt thiên mệnh”, vì thế, chẳng nên dịch là coi thường mệnh trời, thiển nghĩ, chỉ là lơ đễnh với mệnh trời (có thể là vì không biết tới ý niệm đó!) thôi vậy.“Chểnh mảng, lơ là, sao nhãng. Như: sơ hốt sao nhãng, hốt lược nhãng qua” http://www.vietnamtudien.org/hanviet/. Trong từ điển này, “sao nhãng” là nghĩa thứ nhất, “coi thường” là nét nghĩa thứ hai.

[2] Chẳng hạn, trên Wikipedia tiếng Việt, mục từ Chiếu dời đô, ta đọc thấy: “…bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng chiếu dời đô lại nổi bật những nhược điểm khiến nó không thể trở thành một áng văn tiêu biểu của dân tộc Việt Nam”, thể hiện ở các yếu tố : thiếu tinh thần dân tộc …(“là văn bản khai sinh ra một thủ đô Hà Nội nhưng chiếu dời đô không đề cập đến truyền thống đấu tranh giành độc lập mà các triều vua Việt Nam trước đó đã gây dựng. Bản chiếu cũng không nêu vai trò của kinh đô Hoa Lư và các kinh đô trước đó như Phong Châu, Mê Linh, Long Biên. Lý Thái Tổ lấy việc làm của các triều đại của cường quyền đế quốc Trung Hoa để noi gương. Ông gọi đô hộ Cao Biền là “Cao Vương”, gọi thành Đại La là “đô cũ”. Điều này khiến chiếu dời đô chưa toát nên được tinh thần dân tộc chủ đạo mà các áng văn khác như Nam quốc sơn hà (“sông núi nước Nam vua Nam ở”) và Bình Ngô đại cáo (“từ… Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập”) đã có. Chiếu dời đô chỉ có ý nghĩa trong nội bộ quốc gia mà không thể ảnh hưởng ở tầm quốc tế”), …mang màu sắc dị đoan phong thủy (“Chiếu dời đô được viết với nội dung mang đượm màu sắc đầy dị đoan, phong thủy. Sự phát triển của một thủ đô so với các vùng đất khác hoàn toàn không bị ảnh hưởng nhiều vào yếu tố phong thủy. …Lý Thái Tổ ám chỉ các triều vua nhà Đinh, nhà Tiền Lê tự theo ý riêng mình mà vận mệnh ngắn ngủi trong khi chính ông là người thừa hưởng nền tảng độc lập mà các triều đại này để lại. Quan điểm này không phù hợp với đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt. Thực tế rất nhiều anh hùng đã hy sinh như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Quang Trung…mà triều đại do họ gây dựng tồn tại rất ngắn nhưng lịch sử luôn đánh giá công bằng. Bản chiếu dời đô cũng không thấy sự xuất hiện của vị vua Việt Nam nào được vua Lý nêu tới”).

Chính xác đã bị sửa

[3] Không kể tới vụ “cần vương” của các đại thần nhà Đinh Nguyễn Bặc - Đinh Điền - Phạm Hạp, thì Lê Hoàn vẫn phải nhiều lần đối phó với những dư đảng của “thập nhị sứ quân” hay thậm chí chính một trong những “sứ quân” là Ngô Nhật Khánh, hậu duệ của Ngô Quyền, người vì khát vọng “đồ phục” mà không từ cả những hành vi tội lỗi như rước quân Chiêm vào cướp phá đất nước.Liên tục trong hàng chục năm sau khi lên ngôi, Lê Hoàn còn phải động binh đánh dẹp những “sứ quân mới” nhăm nhe trở thành “anh hùng nhất khoảnh” như Lưu Kế Tông (983), Dương Tiến Lộc (989), thổ tù châu Ma Hoàng (Thái - 996), Đỗ Động Giang (997), nhóm Trịnh Hoàng, Trần Lệ, Đan Trường Ôn ở châu Phong (1000), giặc Cử Long (Mường – 1001)…

[4] Đại Việt sử ký toàn thư, t.1 (gồm 3 tập). Nxb Văn hóa – Thông tin H., 2000, tr.342.

[5] Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 284

[6] Sđd, tr. 286 - 287.

[7] Lại gần đây có nhà sử học chiết tự chữ Hán, và phân tích hùng hồn trên truyền hình rằng long bàn hổ cứ là “địa bàn của rồng, căn cứ của hổ”.

[8] Xem thêm: Trần Ngọc Vương – Con đê và vết hằn lên tính cách người Việt. T/c Di sản văn hóa – Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch số 6/2009.

[9] Tôi đơn giản là không tin cuốn “ngụy gia phả” mà người Trung Quốc đã “chế” ra sau khi Lý Công Uẩn trở thành vua nước Việt. Xin xem thêm Kỷ yếu Về quê hương nhà Lý, Nxb Thế giới 2009.

[10] Có thể coi Mai Thúc Loan như “trường hợp nghi vấn”, một ngoại lệ duy nhất. Căn cứ vào đặc điểm nhân chủng học, vào vùng “quê”, vào thời điểm nổ ra cuộc khởi nghĩa và vài dữ kiện phụ trợ khác, một số nhà nghiên cứu, trong đó có tôi, ngờ rằng vị “vua Đen” này gốc Chăm (tức “người Việt gốc … phương Nam”). Lưu ý rằng tôi dùng cụm từ “người Việt gốc phương Bắc” cho một số nhân vật lịch sử mà không dùng định ngữ “gốc Hán”, bởi không ít người trong số đó chắc chắn là “gốc phương Bắc”(quy chiếu với “Nam Việt”) nhưng lại không phải, hoặc không chắc, là người “Hán tộc”, từ Sĩ Nhiếp, Lý Bôn, Triệu Quang Phục cho tới tổ tiên của hai triều Trần, Hồ.Về chủng tộc, chắc chắn nhiều người trong số họ thuộc “Bách Việt”.

[11] Đại Việt sử ký toàn thư Sđd, t.1, tr.356.

[12] Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr.357 -358.

[13] Chỗ cần khảo dị duy nhất trong văn bản chính nằm ở câu này. Phần lớn các bản văn Chiếu dời đô hiện lưu hành có lời lẽ như chúng tôi đang trích dẫn, nhưng cũng có một số bản văn, ngay cả mộc bản vừa được phát hiện ở Thư khố lưu trữ quốc gia Đà Lạt được loan báo trên báo chí cuối tháng Tám vừa rồi (mà chúng tôi đã có được ảnh chụp trực tiếp), thì câu này là “Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội, vi vạn thế kinh sư chi thượng đô”. Ý nghĩa của sự dị biệt này cần được bàn riêng.

[14] Xem thêm Trần Ngọc Vương, bài đã dẫn.

[15] Xem thêm, chẳng hạn, các công trình của Lê Bá Thảo, Trần Nghi, Nguyễn Quang Mỹ, Đào Đình Bắc, Huỳnh Ngọc Hương ... về địa chất và địa mạo Bắc Bộ.

[16] Pierre Gourou.- Les paysans du delta tonkinois. EFEO. Paris, 1936.

Share this post


Link to post
Share on other sites