Thiên Luân

Đồ Hình Âm Dương Lạc Việt ở Hội An

98 bài viết trong chủ đề này

Bài viết này có cái nhìn hay và mới lạ. Rất hay. Thank chủ biên. Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một biểu tượng Âm Dương được sơn trên thùng xe chở khách và bưu phẩm của Saigon xưa !

Posted Image

(Nguồn: Sưu tầm)

BĐG

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đồ hình Âm Dương Cao Ly trên chiếc quạt tay 1883 - Thế kỷ 19.

Posted Image

Đồ hình Âm Dương thể hiện trên lá cờ của Cao Ly qua nhiều thời kỳ. BĐG thấy 02 đồ hình trên gần giống với biểu tượng của Trung tâm ta.

Posted Image

Nguồn: http://blogs.koreanc...th-korean-flag/

BĐG - Sưu tầm

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Khi Bách Việt tan tác bởi sự xâm lược của Hán tộc phía Bắc thì những cư dân Văn Lang - (Gồm nhiều dân tộc, nhưng đông nhất và là dân tộc chủ đạo tạo dựng quốc gia Văn Lang vẫn là dân tộc Việt) di tản ra nhiều vùng đất xung quanh - Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, và các nước vùng Đông Nam Á khác như Phi Luật Tân, Thái Lan, Indo....Bởi vậy, những di sản văn hóa Việt cổ - cả vật thể lẫn phi vật thể - vẫn có thể tìm thấy ở những vùng đất này. Cuộc đàn áp khốc liệt nhất theo tôi chính là cuộc xâm lược của Mã Viện với triều đại Hai Bà Trưng. Tôi cho rằng đây là giai đoạn di tản ồ ạt của Việt tộc và các dân tộc khác trên đất Văn Lang xưa ra các đảo ngoài khơi phía Tây Thái Bình Dương.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đồ hình âm dương tại động Batu _ Thánh địa của người Ấn theo đạo Hin đu tại Malaysia

Posted Image

http://www.flickr.co...N02/7518111966/

Batu Caves - Quần thể hang động to lớn ở Malaysia

Posted Image

NTO - Batu Caves là một đồi đá vôi cách thủ đô Kuala Lumpur 12km về phía Bắc. Từ trung tâm Kuala Lapur, du khách có thể đến đây bằng taxi hoặc đón xe buýt tại trạm Puduraya (cách China Town khoảng 100km).

Posted Image

Được người Ấn Độ ở Malaysia khám phá hang động rộng lớn tại vùng rừng núi Selangor khoảng cuối thế kỷ 19. Theo Ấn giáo, điều đó có nghĩa là các thần linh đã chọn hang làm nơi linh thiêng. Kể từ ngày ấy, Động Batu nhanh chóng trở thành thánh địa hành hương của cộng đồng người Ấn sống tại đất nước Đông Nam Á.

Hệ thống động Batu bao gồm 3 hang động chính, vô số động nhỏ nằm rải rác trên rẻo núi đá vôi và đền thờ bên trong. Hang nổi tiếng nhất mang tên Đền Thờ có chiều dài khoảng 100m, trong lòng thoáng đãng, rộng rãi, có thể chứa hàng nghìn người mộ đạo.

Posted Image

Động Batu là nơi thờ phụng linh thiêng của người Hindu ở Malaysia và nơi có tượng Lord Murugan cao 42,7m. Có 272 bậc thang dẫn đến đền thờ trong động.

Cuối hang là ngôi đền thờ cổ kính, kiến trúc đặc biệt gồm bộ mái trang trí nhiều bức phù điêu sơn phết sặc sỡ, mô tả các câu chuyện truyền thuyết về thần Shiva. Phía sau đền có cửa đi vào hang tối dài gần 2 km, nơi trú ngụ của vô số đàn dơi từ bao đời nay.

Posted Image

Hằng năm, lễ hội truyền thống Thai Pusam được tổ chức trọng thể ở hang Batu vào một ngày trong tháng 10 lịch Ấn Độ giáo (khoảng giữa tháng tháng 2 dương lịch). Ngày này, mọi con đường dẫn đến Batu đều dựng cổng chào, treo đèn kết hoa, màu sắc rực rỡ. Khắp nơi vang vọng tiếng nhạc, tiếng trống, tưng bừng đón rước tượng thần từ đền Srimaha Mariamman ở Kuala Lumpur sang.

Posted Image

Theo nghi thức Ấn giáo, những người tỏ lòng sám hối mang trên người kavati (trang thờ làm bằng những que kim loại) xiên thủng da thịt tại cổ, lưỡi, mũi, môi… đi trước đám rước, vượt qua 272 bậc thang, tiến dần tới đền thờ. Chỉ khi nào vị chủ lễ vừa đọc kinh vừa tháo kavati ra khỏi da thịt, xoa thuốc cầm máu, mọi tội lỗi mới được rửa sạch.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài vị của ngôi chùa cổ Trung Hoa Cheng Hoon Teng trên đất Malaysia. ( thấy hơi hơi giống với đồ hình của Lạc Việt )

Posted Image

---

Posted Image

---

Posted Image

Nếu như văn hóa của người Baba-Nyona và Chittys hiện diện trong nền ẩm thực Malacca, văn hóa của người Ấn Độ và người Anh không thật sự đậm nét thì lại dễ dàng thấy nét văn hóa Malay, Trung Hoa, Hà Lan và Bồ Đào Nha ở hầu khắp mọi nơi trong thành phố. Gần như toàn bộ trung tâm khu phố cổ là những con đường nhỏ hẹp, các ngôi nhà nhỏ hẹp, theo lối kiến trúc Trung Hoa, đôi khi có cột, cửa ra vào theo kiểu kiến trúc Hà Lan với lồng đèn treo trước cửa. Nhưng đậm nét nhất chính là chùa Cheng Hoon Teng được xây vào năm 1685, với mái ngói, cổng vào, gian thờ chính… đặc trưng kiến trúc Trung Hoa.

Share this post


Link to post
Share on other sites

NHỮNG ĐỒ HÌNH NHƯ VẬY. MÌNH THẤY RẤT NHIỀU TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA PHÚC KIẾN, TIỀU CHÂU... VÀ TRONG ĐỀN THIÊN HẬU NƯƠNG NƯƠNG.

Share this post


Link to post
Share on other sites

NHỮNG ĐỒ HÌNH NHƯ VẬY. MÌNH THẤY RẤT NHIỀU TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA PHÚC KIẾN, TIỀU CHÂU... VÀ TRONG ĐỀN THIÊN HẬU NƯƠNG NƯƠNG.

Bởi vậy. Đây chính là điều xác định rằng:

Nền văn minh Lạc Việt trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử.

Đó là lý do tại sao những cộng đồng người Hoa có nguồn gốc Nam Dương Tử vẫn dùng đồ hình Âm Dương Lạc Việt mà không dùng đồ hình Âm Dương Hán - Vốn được coi là đồ hình Âm Dương chính thống trong Lý học Hán.

Tôi muốn nói rõ rằng:

Đồ hình Âm Dương Hán là một thứ hiểu biết khập khiễng về bản chất Thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chỉ cần một hiện tượng này cũng chứng tỏ thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về văn minh Hán.

Kết luận Âm Dương thuộc về nền văn minh Lạc Việt đã được chính những học giả Trung Quốc công nhận bởi sự chứng minh của hai học giả Việt Nam là: Trần Ngọc Thêm và Nguyễn Ngọc Thơ.

Cho nên không bàn nữa.

Còn với tôi thì không chỉ Âm Dương , mà tất cả thuyết Âm Dương Ngũ hành và các vấn đề liên quan đến Lý Học Đông phương mà gồm cả Ngũ Kinh đều thuộc về người Lạc Việt.

Bởi vì, Âm Dương đã thuộc về nền văn minh Việt thì làm gì có Ngũ Hành lại thuộc về văn minh Hán? Cái đó dành cho những kẻ có chỉ số Bo cao.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chẳng có hơi giống - mà là rất giống luôn.

Các hình chạm khắc những đám mây được cách điệu trong các đền chùa cổ Việt Nam đều có những hình giống hệt như vậy. Chỉ có đồ hình Âm Dương Việt chính thống trên đất Việt Nam hiện nay - nơi rút lui cuối cùng của giống nòi Lạc Việt - là chuẩn mực nhất. Nó phù hợp với tính minh triết của thuyết Âm Dương Ngũ hành và là biểu tượng cho những vòng xoáy có thật trong vũ trụ.

Bài vị của ngôi chùa cổ Trung Hoa Cheng Hoon Teng trên đất Malaysia. ( thấy hơi hơi giống với đồ hình của Lạc Việt )

Posted Image

---

Posted Image

---

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted Image

Trong biểu tường vòng tròn Âm Dương tương giao, thì điểm xuất phát chân của sóng Âm luôn bắt đầu tại cung Tý, bắt đầu của quẻ Phục, và sóng Dương thì ngược lại.

Đồ hình cũng là biểu tượng cho Dịch.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted Image

Hình giữa các vì sao trong lễ cúng sao, cúng trời (Nam Giao) năm 1935 nhì giống đồ hình Âm Dương Lạc Việt!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tiêu chí khoa học:

Hệ biểu hiện của một học thuyết phải phản ánh một thực tại cói thể kiểm chứng được.

Bạn có thể so sánh hình ảnh vài thiên hà trong vũ trụ với đồ hình Âm Dương Lạc Việt

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

7 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thiên Đồng chợt thấy vài hình ảnh liên quan đến âm dương Việt trên một trang "Việt Nam Heritage", đưa lên đây cho mọi người tham khảo.

===============================

More than meets the eye

(No.1, Vol.3, Jan-Feb 2013 Vietnam Heritage Magazine)

Decoration on Greek boats 450 B.C.; Decoration on Roman boats 100 B.C.; Decoration on Egyptian boats 2,700 B.C.; Yin-yang symbol decorated on boats. Photos taken by Thai A from the Blue Book of Coastal Vessels, South Vietnam, prepared by the Remote Area Conflict

Information Center, Battelle Memorial Institute,Columbus Laboratories, Ohio, published by Advanced Research Projecs Agency, US Department of Defense, 1967

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Besides their functions as a means of travel, transportation, fishing, and communication, boats are also a unique cultural product that is associated with the traditions, customs, and rituals relating to rivers and waterways. Among the more common customs is painting eyes on boats.

There are many folk beliefs about eyes on boats. Through my journeys to the countryside along the coastal regions of Vietnam, I’ve noticed that fishermen see their boats as fish, which, therefore, must have eyes to avoid danger. The book Blue Book of Coastal Vessels South Vietnam (Ohio: 1967) reveals that a legend in Nha Trang holds that painting the eyes of a sea serpent on the prow of a boat will allow it to avoid being harmed by sea monsters.

According to the book, a Vietnamese king painted eyes on his boat, because some of his subjects were eaten by whales (which people now surmise to have been sharks). The king ordered his subjects to tattoo themselves and decorate the hulls of the boats so that they would appear vicious in order to drive away the monsters.

Tran Trong Tri in his article “The Custom of Painting Eyes on Boats to Subdue Sea Monsters” in Tạp chí Xưa và Nay (Past and Present Magazine, March 2002, no.113) informs us that one theory says that the eyes on boats are the eyes of osprey, a kind of large raptor that specializes in eating sea fish and that often appears when there are blustery winds and large waves. The osprey is a fierce animal based on the saying that “First raptors, second fish, third snakes, and fourth elephants” are used for striking fear into the hearts of water demons.

In Laos, people give symbolically give eyes to boats by pretending to attach them to the boats’ prows, according to Pier Giovanni d’Ayala in “Salvific Boats” (Tạp chí Người đưa tin Unesco [unesco Herald], Aug.-Sep. 1991; the source does not indicate the time period).

Posted Image

Typical boat eyes for Vung Tau, Saigon and Phu Quoc. Photo taken by Thai A from Blue Book of Coastal Vessels, South Vietnam, prepared by the Remote Area Conflict Information Center, Battelle Memorial Institute, Columbus Laboratories, Ohio, published by Advanced Research Projects Agency, US Department of Defense, 1967

Also according to the above article, the prows of canoes in Bali (Indonesia) have the head of Makara painted on them. Makara is a sea monster in Hindu painting and sculpture which originated from the dolphin, a mythical creature that was half elephant and half fish and which was a symbol of rivers and waterways.

The boats on the islands of Hainan and Pakhoi (Guangdong, China) have large, round or oval, white eyes with carved black pupils, J.B. Pietri’s Voiliers D.Indochine (S.I.L.I., Saigon: 1949) reveals.

On the images of the decorated boats that are seen on Dao Thinh terracotta jars (terracotta jars are one of the storage vessels of the Dong Son people; they were additionally used in burial ceremonies), it is notable that large round bird eyes with black pupils were painted on the prows of the boats. This is perhaps the earliest trace in Vietnam of the custom of painting eyes on boats that is recorded on a cultural object. This is consistent with the story regarding the longstanding custom of painting eyes on boats about the first Vietnamese king mentioned above. This demonstrates that the custom was already firmly engraved as a Vietnamese cultural hallmark since the 1st century B.C.E.

I believe that the custom of painting eyes on boats is related to the Dong Son people’s custom of tattooing the body to confront sea monsters beneath the sea. Many Chinese histories record, “The Viets tattoo themselves and cut their hair in order to avoid the danger of water dragons” (Hanshu [History of Han Dynasty, Dilizhi Xia [gazetteer, later section). According to the Linh Nam chich quai (Strange Tales Taken from Linh Nam), “People who lived as fishermen, having often been harmed by water dragons, called on the Hung King, who instructed the people to take ink and tattoo their bodies in the form of water monsters. From that time on, there was no more danger of being harmed by water dragons. The custom of tattooing the body started then.”

Posted Image

A boat on Long Son Island, Baria-Vung Tau Province

Photo: Thai A

Posted Image

A boat in Long Xuyen, An Giang Province, Mekong Delta

Photo: Vu Khanh Truong

Here, water dragons may refer to sea serpents, crocodiles, or water snakes, which are also underwater creatures that frequently harm the inhabitants of riverine areas.

Thus, the custom of painting eyes on boats along with the custom of tattooing the body have both long since been practiced by the inhabitants of littoral and riverside areas in Vietnam. Today, however, only traces of the custom of painting eyes on boats remain.

According to folk belief, the inhabitants of riverine regions treat their boats as “spiritual creatures,” animals with souls. Owing to this, they believe that boats, just like people, need to have eyes.

Posted Image

A boat on Long Son Island,

Baria-Vung Tau Province. Photo: Thai A

Posted Image

A boat in An Giang Province, Mekong Delta.

Photo: Thai A

In regions of India, people “open the eyes” of sacred statues with the aim of endowing the statues with the vitality of life. In other places, people “open the eyes” of masks. In Vietnam, people “open up to the light” a new boat by carving or painting two large eyes on its prow. Jean Chevalier and Alain Gherrbriat reveal in their book A Dictionary of Symbols that fishermen always seek skilled boat crafters to attend to the eyes of their own boats so that they will be truly beautifully or, if spiteful, fishermen might imprecate the eyes of another person’s boats.

The “opening to the light and dotting the eyes” ceremony or the “eye opening” ceremony continues to be seen in some Buddhist rituals, in the lion dance, and in the customs for worshiping the God of the Earth and the God of Wealth.

According to J.B. Pietri’s project Indochinese Sailboats, Vietnam acquired this custom from the boats of Arab countries. These boats traversed from Levant (the countries along the Mediterranean Sea) to China and stopped at ports in the East China Sea. According to the gazetteer in the Xin Tangshu (A New History of the Tang Dynasty) from the seventh to tenth centuries, Chinese, Iranian, Arab, and Indonesian boats on the sea route from Guangzhou (China) to Baghdad (Iraq) always docked at the islands of Champa, Quang Nam, Qui Nhon, Nha Trang, and Phan Rang.

Pietri’s comments regarding the origin of the custom of painting eyes on boats in Vietnam may not be accurate, since from at least the 1st century B.C.E., boat eyes can already be seen on Vietnamese cultural artifacts (such as the drums of Ngoc Lu, Quang Xuong, and Co Loa, etc.). However, this does not preclude the possibility that the custom was influenced by other countries.

In Vietnam, boat eyes are painted on both sides of the prow in various diverse styles, but they share a common trait in that they all look quite benign. Based on the appearance and coloration of the boat eyes, we can tell the origin of a boat from any region as well as the range of its activities.

By corroborating the work of Pietri with my journeys to a number of waterways, I see the regional distribution of boat eyes as follows:

The boat eyes from Ba Ria-Vung Tau to the north share in common small eyes that are elongated towards the back and have black painted pupils against white eyeballs.

The junks in Ca Mau have narrow shuttle-like eyes and pupils and eyes that are pointy towards the front. They are painted more often than they are carved. Some of the eyes have triangular pupils with rounded corners, especially the narrow composite plastic motorboats.

The eyes of junks in the area of An Giang are elliptical with small pupils that lie towards the front of the eyes. The junks’ gills are painted in green.

In addition, certain taboos are associated with the custom of painting eyes on boats. When building a boat, the shipbuilding camps must perform a votive eye opening ceremony. The eye opening offering takes place after the hull is completed. The owner of the boat makes offerings to the boat in order to paint eyes on the boat with the wish that the boat will be safe on the water and that the owner’s business will go smoothly. The offerings include flowers, shrimp, pork, and duck eggs.

Fishermen in Vung Tau customarily invite a shaman to select an auspicious day on which to paint the eyes on a boat. If they are unable to, they choose an even day.

Boat owners never allow strangers to touch the two eyes of their boats for fear of it that the boat will be unable to catch shrimp and fish.

*Nguyen Thanh Loi teaches culture at The National College of Education Ho Chi Minh City

By Nguyen Thanh Loi*

http://www.vietnamhe...ts-the-eye.html

Bản dịch tiếng Việt

Hơn đáp ứng mắt(Số 1, Vol.3, Jan-tháng 2 năm 2013 Tạp chí Di sản Việt Nam)

trang trí trên những chiếc thuyền Hy Lạp 450 trước Công nguyên, trang trí cho Roman thuyền 100 trước công nguyên, trang trí trên tàu Ai Cập 2.700 trước Công nguyên, biểu tượng Yin-yang trang trí trên tàu.Hình ảnh được chụp bởi Thái Một từ Blue Book của tàu ven biển, miền Nam Việt Nam, chuẩn bị khu vực từ xa xung đột

Trung tâm Thông tin, Viện Battelle, Columbus phòng thí nghiệm, Ohio, được xuất bản bởi Nghiên cứu nâng cao Projecs Cơ quan, Bộ Quốc phòng Mỹ, 1967

Bên cạnh chức năng của mình như một phương tiện du lịch, giao thông vận tải, đánh bắt cá, và thông tin liên lạc, tàu thuyền cũng là một sản phẩm văn hóa độc đáo được kết hợp với truyền thống, phong tục và nghi lễ liên quan đến các con sông và đường thủy. Trong số các quan phổ biến hơn là vẽ mắt trên thuyền.

Có nhiều tín ngưỡng dân gian về mắt trên thuyền. Thông qua chuyến đi của tôi đến vùng nông thôn dọc theo vùng ven biển của Việt Nam, tôi đã nhận thấy rằng ngư dân thấy thuyền của họ như cá, trong đó, do đó, phải có mắt để tránh nguy hiểm. Cuốn sách Blue Book của tàu ven biển miền Nam Việt Nam (Ohio: 1967) cho thấy một huyền thoại tại Nha Trang cho rằng vẽ đôi mắt của một con rắn biển trên mũi của một chiếc thuyền sẽ cho phép nó để tránh bị thiệt hại bởi những con quái vật biển.

Theo cuốn sách, một vị vua Việt vẽ mắt trên thuyền của ông, bởi vì một số đối tượng của mình đã được ăn bởi những con cá voi (mà bây giờ người phỏng đoán đã được cá mập). Nhà vua ra lệnh cho đối tượng của mình để xăm mình và trang trí vỏ của các tàu thuyền để họ sẽ xuất hiện luẩn quẩn để xua đuổi những con quái vật.

Trần Trọng Trí trong bài viết "Các tùy chỉnh của Tranh mắt trên thuyền để phục quái vật biển" trong Tạp chí Xưa and Nay (quá khứ và hiện Tạp chí, tháng Ba năm 2002, no.113) cho chúng ta biết một lý thuyết nói rằng mắt trên thuyền là những đôi mắt của chim ưng biển, một loại chim lớn chuyên về ăn cá biển và thường xuất hiện khi có gió sự thẹn và sóng lớn. Osprey là một động vật khốc liệt dựa trên nói rằng "chim ăn thịt đầu tiên, cá thứ hai, con rắn thứ ba, thứ tư và con voi" được sử dụng vì sợ nổi bật vào trái tim của quỷ nước.

Tại Lào, người ta cho tượng trưng cho đôi mắt cho các tàu thuyền bằng cách giả vờ đính kèm chúng vào con thuyền của các tàu thuyền, theo Pier Giovanni d'Ayala trong "Thuyền cứu rỗi". (Tạp chí You give tin Unesco [unesco Herald], Tháng Tám-tháng 9 năm 1991;. nguồn không nêu rõ thời gian thời gian) tiêu biểu mắt thuyền cho Vũng Tàu, Sài Gòn và Phú Quốc. Ảnh chụp của Thái A từ Blue Book của tàu ven biển, miền Nam Việt Nam, chuẩn bị khu vực trung tâm từ xa xung đột Thông tin, Viện Battelle, Columbus phòng thí nghiệm, Ohio, được xuất bản bởi Advanced Research Projects Agency, Bộ Quốc phòng Mỹ, 1967 Cũng theo trên bài viết, các con thuyền của ca nô tại Bali (Indonesia) có người đứng đầu Makara vẽ trên chúng. Makara là một con quái vật biển trong hội họa và điêu khắc Hindu có nguồn gốc từ cá heo, một sinh vật thần thoại mà là một nửa con voi và một nửa cá và đó là một biểu tượng của sông và đường thủy. Các tàu thuyền trên các đảo Hải Nam và Pakhoi (Quảng Đông, Trung Quốc) đã lớn, tròn hoặc hình bầu dục, đôi mắt trắng với học sinh đen chạm khắc, Voiliers D.Indochine JB Pietri của (Sili, Sài Gòn: 1949) cho thấy. Trên hình ảnh của những chiếc thuyền trang trí được nhìn thấy trên Đào Thịnh nung lọ (lọ đất nung là một trong những các mạch lưu trữ của người dân Đông Sơn, họ đã được sử dụng bổ sung trong các nghi lễ chôn cất), đáng chú ý là đôi mắt chim tròn lớn với học sinh màu đen được vẽ trên các con thuyền của các tàu thuyền. Đây có lẽ là dấu vết đầu tiên tại Việt Nam của các tùy chỉnh của sơn mắt trên những chiếc thuyền được ghi lại trên một đối tượng văn hóa. Điều này phù hợp với những câu chuyện liên quan đến phong tục lâu đời của sơn mắt trên thuyền về vua Việt Nam đầu tiên đề cập ở trên. Điều này cho thấy các tùy chỉnh đã được vững chắc khắc như một dấu ấn văn hóa Việt Nam từ thế kỷ trước Công nguyên 1 tôi tin rằng phong tục vẽ mắt trên thuyền có liên quan đến các tùy chỉnh của người dân Đông Sơn xăm mình của cơ thể để đối đầu với quái vật biển dưới đáy biển. Nhiều kỷ lục lịch sử Trung Quốc, "Hình xăm người Việt mình và cắt tóc để tránh sự nguy hiểm của con rồng nước" (Hanshu [Lịch sử của nhà Hán, Dilizhi Xia [tự điển địa dư, sau phần).Theo Lĩnh Nam chich quai (Tales lạ Trích từ Lĩnh Nam), "Những người sống như ngư dân, đã thường xuyên bị tổn thương bởi con rồng nước, kêu gọi các vua Hùng, hướng dẫn nhân dân tham mực và hình xăm cơ thể của họ trong hình thức của con quái vật nước. Từ đó trở đi, không có nguy hiểm hơn bị tổn hại bởi con rồng nước. Tục xăm cơ thể bắt đầu sau đó ". Một chiếc thuyền trên đảo Long Sơn, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu Ảnh: Thái A Một chiếc thuyền tại Long Xuyên, tỉnh An Giang, Đồng bằng sông Cửu Ảnh: Vũ Khánh Trường Ở đây, con rồng nước có thể tham khảo con rắn biển, cá sấu, rắn nước, đó cũng là những sinh vật dưới nước mà thường xuyên gây tổn hại cho các cư dân của khu vực ven sông. Vì vậy, các tùy chỉnh của sơn mắt trên thuyền cùng với các tùy chỉnh về hình xăm cơ thể có cả hai từ lâu được thực hiện bởi các cư dân của khu vực ven biển và ven sông ở Việt Nam. Hôm nay, tuy nhiên, chỉ có dấu vết của tục lệ vẽ mắt trên tàu vẫn còn. Theo tín ngưỡng dân gian, các cư dân của khu vực ven sông đối xử với tàu thuyền của họ như "sinh vật tâm linh," động vật có linh hồn. Do đó, họ tin rằng tàu thuyền, giống như con người, cần phải có đôi mắt. Một chiếc thuyền trên đảo Long Sơn, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.Ảnh: Thái A Một chiếc thuyền trong tỉnh An Giang, Mekong Delta. Ảnh: Thái A Trong khu vực của Ấn Độ, người "mở mắt" của bức tượng thiêng liêng với mục đích endowing tượng với sức sống của cuộc sống. Ở những nơi khác, người "mở mắt" của mặt nạ. Ở Việt Nam, người "mở ra với ánh sáng" một chiếc thuyền mới khắc hoặc vẽ hai con mắt lớn trên mũi của nó. Jean Chevalier và Alain Gherrbriat tiết lộ trong cuốn sách Từ điển của biểu tượng mà ngư dân luôn luôn tìm kiếm người tạo thuyền có kỹ năng để tham dự cho đôi mắt của thuyền riêng của họ để họ sẽ thực sự đẹp hay, nếu đầy thù hận, ngư dân có thể nguyền rủa con mắt của thuyền của người khác . Các "mở cửa với ánh sáng và nằm rải rác trên đôi mắt" lễ hay "mắt mở" lễ tiếp tục được nhìn thấy trong một số nghi lễ Phật giáo, trong múa sư tử, và trong hải quan đối với thờ Thiên Chúa của Trái đất và Thiên Chúa của Wealth . Theo dự án Đông Dương Thuyền buồm JB Pietri, Việt Nam có được tùy chỉnh này từ các tàu thuyền của các nước Ả Rập.Các tàu thuyền đi qua từ Levant (các nước dọc theo biển Địa Trung Hải) đến Trung Quốc và dừng lại tại các cảng ở Biển Đông Trung Quốc. Theo tự điển địa dư trong Xin Tangshu (Một lịch sử mới của triều đại nhà Đường) từ thứ bảy đến thế kỷ thứ mười, tàu Trung Quốc, Iran, Ả Rập, và Indonesia trên các tuyến đường biển từ Quảng Châu (Trung Quốc) tới Baghdad (Iraq) luôn luôn cập cảng tại các đảo Chàm, Quảng Nam, Qui Nhơn, Nha Trang và Phan Rang. ý kiến Pietri của liên quan đến nguồn gốc của phong tục vẽ mắt trên tàu thuyền tại Việt Nam có thể không chính xác, vì ít nhất từ thế kỷ trước Công nguyên 1, mắt thuyền có thể đã được nhìn thấy trên các đồ tạo tác văn hóa Việt Nam (như trống Ngọc Lũ, Quảng Xương, và Cổ Loa, vv.) Tuy nhiên, điều này không loại trừ khả năng rằng các tùy chỉnh bị ảnh hưởng bởi các quốc gia khác. Ở Việt Nam, mắt thuyền được sơn trên cả hai mặt của mũi trong phong cách đa dạng khác nhau, nhưng họ chia sẻ một đặc điểm chung trong đó tất cả họ trông khá lành tính. Dựa trên sự xuất hiện và màu sắc của mắt thuyền, chúng ta có thể nói về nguồn gốc của một chiếc thuyền từ khu vực nào cũng như phạm vi hoạt động của nó. bởi corroborating công việc của Pietri với những chuyến đi của tôi đến một số tuyến đường thủy, tôi thấy các khu vực phân phối của mắt thuyền như sau: Đôi mắt thuyền từ Bà Rịa-Vũng Tàu để chia sẻ bắc trong mắt chung nhỏ được kéo dài về phía sau và có học sinh sơn màu đen chống lại nhãn cầu trắng. Các thuyền ở Cà Mau có đôi mắt thoi như hẹp và học sinh, đôi mắt là nhọn hướng về phía trước. Chúng được sơn thường xuyên hơn họ được chạm khắc. Một số mắt có học sinh hình tam giác với các góc tròn, đặc biệt là máy có gắn máy nhựa tổng hợp hẹp. Đôi mắt của chiếc thuyền trong khu vực của An Giang là hình elip với học sinh nhỏ nằm hướng về phía trước của mắt. Mang những chiếc thuyền "được sơn màu xanh lá cây. Ngoài ra, những điều cấm kỵ nhất định có liên quan đến phong tục vẽ mắt trên thuyền. Khi xây dựng một chiếc thuyền, các trại đóng tàu phải thực hiện một buổi lễ tạ ơn mở mắt. Việc mở cung cấp mắt diễn ra sau khi thân tàu được hoàn tất. Chủ sở hữu của chiếc thuyền cúng dường cho thuyền để vẽ mắt trên thuyền với mong muốn rằng thuyền sẽ được an toàn trên mặt nước và kinh doanh của chủ sở hữu sẽ diễn ra suôn sẻ. Các dịch vụ bao gồm hoa, tôm, thịt lợn và trứng vịt. ngư dân ở Vũng Tàu phong tục mời một pháp sư để chọn một ngày tốt lành mà trên đó để vẽ mắt trên một chiếc thuyền. Nếu họ không thể, họ chọn một thậm chí ngày. Chủ tàu không bao giờ cho phép người lạ chạm vào hai mắt của tàu thuyền của họ vì sợ rằng thuyền sẽ không thể bắt tôm và cá.

* Nguyễn Thành Lợi dạy văn hóa tại Trường Cao đẳng Giáo dục Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đây là một hình đồ gốm trong bộ cổ vật Việt Nam thời kỳ cổ trung đại được trưng bày tại bảo tàng Nhật Bản. Trên cổ vật này thể hiện xoáy Âm Dương Việt rất xinh động.

Posted Image

Thiên Đồng

nguồn: http://www.hoiquandisan.com/showthread.php?3724-Th%E1%BA%A5y-Vi%E1%BB%87t-Nam-%E1%BB%9F-c%C3%A1c-b%E1%BA%A3o-t%C3%A0ng-Nh%E1%BA%ADt-B%E1%BA%A3n

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

ÂM DƯƠNG LẠC VIỆT
LƯU DẤU TRÊN THẾ GIỚI


Một người bạn của Thiên Đồng, anh Cường, cũng là thành viên thân thiết của diễn đàn, kể từ khi biết đến Lý học Đông phương, tự hào và trân quý vốn văn hóa Việt, lại có cơ hội đi du lịch đó đây, tỉ mĩ ghi lại những tư liệu liên quan đến văn hóa Việt có bất cứ đâu mà anh tìm thấy, từ internet đến hình ảnh chụp được ở những chuyến đi, anh Cường đã gửi cho tôi vài hình ảnh về đồ hình Âm Dương Lạc Việt.


Xin đăng lên đây để mọi người cùng tham khảo và cũng là những hình ảnh tư liệu quý giá bỏ sung cho kho tài liệu nghiên cứu học thuật của Lyhocdongphuong.

Xin cảm ơn anh Cường.

Posted Image
Ban thờ trong Đình Ngọc Canh - Tỉnh Vĩnh Phúc

Posted Image

Posted Image

Gốm Biên Hòa có tuổi khoảng cách đây trên 30 năm.

Posted Image

Gốm Biên Hòa cách đây trên 30 năm
Posted Image
bình gốm Chu Đậu (không rõ niên đại)

Posted Image
Biểu tượng âm dương trong bánh xe luân hồi được treo trước cửa nhà của người Tây Tạng (có cả ở Nepal và Mông Cổ)

Posted Image

Biểu tượng âm dương trong bánh xe luân hồi được treo trước cửa nhà của người Tây Tạng (có cả ở Nepal và Mông Cổ)


Posted Image

Chụp tại sân vườn Thực vật (Botanical Garden) - Tiểu bang Missouri - USA
(This photo was taken on June 9, 2012 in MO Botanical Garden, St. Louis, MO, US)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted Image

Đồ hình này chụp ở Tây Tạng.

Lưu ý: 12 chi trên phù điêu không có con thỏ mà vẫn là con Mèo như Lạc Việt.

Posted Image

sông Cần Thơ năm 1968, tác giả William Ruzin (tác giả Life along the Mekong circa 1968. Photo by William Ruzin)

Posted Image

Cửa đền hay lâu đài Hwa Seong Haeng Gung tại miền Nam Hàn Quốc

Posted Image

Cửa đền hay lâu đài Hwa Seong Haeng Gung tại miền Nam Hàn Quốc

Đây là nhũng hình ảnh mà anh Cường thu thập, mong rằng sẽ có nhiều hơn những tư liệu quý như vậy.

Một lần nữa xin cảm ơn anh Cường.

Thiên Đồng

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cho tôi gửi lời cảm ơn anh Cường. Thiên Đồng nên đưa tên họ đầy đủ của anh. Tôi đang viết một cuốn sách liên quan đến đề tài này. Tôi sẽ tặng anh ấy một cuốn sách - nếu tôi viết tiếp.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thưa Sư Phụ,

đệ tử bổ sung thông tin liên quan

nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Hwaseong_Fortress

Hwaseong (Hangul: 화성; Hanja: 華城; Hán Việt: Hoa Thành) là một thành cổ tọa lạc tại Suwon, Hàn Quốc, cách Seoul 30 km. Pháo đài này được xây dựng từ 1794 đến 1796. Vua Triều Tiên Chính Tổ đã cho xây dựng pháo đài để vinh danh và chứa những di vật của cha mình là Trang Hiến Thế Tử - người đã bị vua cha là Triều Tiên Anh Tổ buộc tử. Pháo đài này được UNESCO công nhận là di sản thế giới năm 1997.

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Mặt Đông của thành, Ảnh: từ nguồn http://en.wikipedia.org/wiki/Hwaseong_Fortress

Posted Image

Đồ hình âm dương nhìn gần trước cổng. Ảnh: anh Cường cung cấp.

Thiên Đồng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tốt lắm. Đây sẽ là tự liệu bổ sung cho cuốn sách của tôi. Tất nhiên nó nhằm chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến,một thời huy hoàng ở miền nam Dương tử.

Chân lý sẽ phải sáng tỏ. Hai vấn đề nổi bật trong giai đoạn hiện nay của nền khoa học hiện đại là "Hạt của Chúa" và "đi tìm sự sống trên sao Hỏa" đã được Lý học Việt - nhân danh nền văn hiến Việt - xác định trươc kết quả và trên thực tế đã hoàn toàn chính xác. Điều này đã chứng tỏ một nền tảng tri thức vượt trôi của tổ tiên ta khi để lại cho thế hệ sau những giá trị đích thực của nền văn hóa Đông phương huyền bí.

Đấy là khoa học thứ thiệt, chứ không phải thứ khoa học của cái đám "hầu hết" và "cộng đồng" phủ nhận văn hiến Việt.

Tôi hy vọng những tư liệu của anh Cường cung cấp và được tiếp tục phát hiện bởi Thiên Đồng sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn cội nguồn văn hiến Việt.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cảm ơn vusonganh và anh chị em.

Đồ hình Âm Dương Lạc Việt và sự phổ biến của nó bao trùm khắp Đông nam Á. Điều này đã chứng tỏ một sự minh triết khác hẳn những lý luận của Hán Nho về thuyết Âm Dương Ngũ hành. Và đấy cũng không phải là bằng chứng duy nhất của một di sản văn hóa phi vật thể chứng minh cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến.

Di sản văn hóa phi vật thể đã được cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc xác định là bằng chứng khoa học trong việc chứng minh cho lịch sử từ năm 2005.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Làng gốm Bát Tràng tặng cố đô Huế 12 lư hương dâng vua Nguyễn


(Dân trí) – Sáng 27/4 tại Thế Miếu (Đại Nội Huế) đã diễn ra lễ tiếp nhận 12 lư hương theo kiểu lư hương triều Nguyễn làm từ gốm Bát Tràng do chính làng nghề nổi danh này dành tặng cho Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế nhân dịp Festival làng nghề Huế 2013.

Lư hương có kích cỡ trung bình, được làm từ gốm nguyên chất phủ men xanh do nghệ nhân ưu tú của làng là ông Trần Độ làm. Trên mỗi miệng lư hương có 2 con kỳ lân đứng châu đầu vào nhau. Bên cạnh thân có khắc hình các cặp rồng chầu mặt trời. Và có 2 dòng chữ hán là “Quý Tỵ Niên Mạnh Xuân Giáp Nhật” (nghĩa là được làm trong mùa xuân năm Quý Tỵ 2013, vào ngày tốt); và “Bát Tràng Hà Nội” là niên hiệu của tên làng gốm.

Posted Image

Lư hương vua Nguyễn mà làng Bát Tràng làm tặng Huế Theo TS. Phan Thanh Hải, GĐ Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế: “12 lư hương rất tinh xảo và đẹp được làm từ mẫu do Bảo tàng Lịch sử quốc gia cung cấp. Hiện các mẫu lư hương triều Nguyễn như thế này không còn ở Huế nữa, cho nên được đón nhận lư hương để dâng lên các tiên đế vua Nguyễn là việc làm hết sức quý của nghệ nhân Bát Tràng dành cho Huế. Trung tâm chúng tôi sẽ bàn bạc, tìm chỗ để đặt các lư hương đúng ý nghĩa của nó nhất”.

Cụ Lê Văn Cảo, Chủ tịch Hội nghề gốm Bát Tràng cho biết: “Chúng tôi rất vinh dự khi được tham gia nhiều lần Festival làng nghề Huế và đã được ban tổ chức công nhận là 1 làng nghề tiêu biểu tại Việt Nam. Bát Tràng đã nổi danh từ xa xưa với gạch. Từ Hoàng thành Thăng Long cho đến các móng thành nhà Lý-Trần đều được làm từ gạch Bát Tràng, qua gần hàng nghìn năm vẫn còn tồn tại.

Và ngay ở Kinh thành Huế, nơi Thế Miếu mà chúng ta đang đứng, gạch cũng từ Bát Tràng. Vua Tự Đức đã tặng làng chúng tôi 4 chữ “Hiếu Nghĩa Quốc Công” để ghi nhớ việc làng đã góp sức trong việc góp gạch xây Kinh thành Huế và các lăng vua. Tiếp đến là các sản phẩm gốm mà hiện nay ở Đại Nội vẫn còn rất nhiều. Thời gian tới, chúng tôi sẽ làm thêm nhiều sản phẩm, công trình để đóng góp thêm cho di tích Huế”.

Posted Image

Đại diện các nghệ nhân làng Bát Tràng (bên phải) tặng lư hương cho đại diện cố đô Huế - TS. Phan Thanh Hải, GĐ TTBTDTCĐ Huế (mặc áo dài khăn đóng xanh)

Posted Image

Các lư hương rất tinh xảo

Posted Image

Dòng chữ trên tai lư hương "Quý Tỵ Niên Mạnh Xuân Giáp Nhật". Quai ở thân lư ghi "Bát Tràng Hà Nội"
Posted Image
Rồng và lân trên miệng lư

Posted Image

Nghệ nhân Trần Độ (trái - người chế tác 12 lư hương) và "già làng" Lê Văn Cảo (giữa) bên các lư hương dâng tặng vua Nguyễn Posted Image

Nền ở Thế Miếu (ảnh) cũng như nhiều nơi khác trong Kinh thành Huế và lăng vua Nguyễn hiện vẫn lưu dấu loại gạch Bát Tràng một thời được dùng để xây dựng cho vua, quan ở Huế

Đại Dương

http://dantri.com.vn...uyen-724453.htm

Share this post


Link to post
Share on other sites

(Bài này anh Cường nhắn tin cho Thiên Đồng)
========================

Nhà cổ An Thạnh

(NTO) Với lịch sử hơn hai trăm năm lập làng, thôn An Thạnh thuộc xã An Hải (huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) còn lưu giữ 7 ngôi nhà cổ khoảng 150 năm tuổi. Trong đó có các ngôi nhà cổ của các dòng họ Hồ Hữu, Nguyễn Nhược, Nguyễn Hữu còn khá nguyên vẹn.

Các ngôi nhà cổ An Thạnh có kiến trúc mái ngói âm dương, tường xây ghè sành kết dính bằng vôi, các vĩ kèo được chạm khắc long lân quy phụng đường nét tinh xảo phản ảnh đỉnh cao của việc xây dựng nhà ở cư dân địa phương vào thế kỷ XIX. Trong nhà còn hoành phi, câu đối, liễn thờ chạm xà cừ, bàn ghế có tuổi đời trên trăm năm. Nhân dịp mùa xuân mới Quý Tỵ- 2013, Báo điện tử Ninh Thuận gởi đến quý độc giả một số hình ảnh về những ngôi nhà cổ ở làng An Thạnh:

Posted Image


Cổng vào nhà ông Nguyễn Nhược Hồng lợp ngói âm dương được xây dựng cách nay khoảng 150 năm
Posted Image


Câu đối có nội dung răn dạy đạo lý làm người của tộc họ Nguyễn Nhược được lưu giữ tại
nhà ông Nguyễn Nhược Hồng là cháu bốn đời của bà Nguyễn Nhược Thị, tác giả Hạnh Thục Ca.
Posted Image

Vĩ kèo chạm khắc hoa văn tinh xảo tại nhà cổ dòng họ Nguyễn Hữu làng An Thạnh
do ông Nguyễn Hữu Huệ quản lý. Posted Image

Bàn thờ tổ tiên vào giữa thế kỷ XIX được lưu giữ tại nhà ông Nguyễn Hữu Huệ
Posted Image
Chiếc bàn cổ trên 150 năm tuổi được ông Huệ lưu giữ.
Posted Image
Các diềm gỗ trang trí trong ngôi nhà cổ của dòng họ Nguyễn Hữu
được chạm khắc hình tượng “lưỡng long tranh châu”
Posted Image

Vĩ kèo, đòn tay đỡ mái ngói âm dương của nhà cổ Hồ Hữu
Posted Image

Ghè sành kết dính bằng vôi, vật liệu xây tường nhà cổ An Thạnh
Posted Image
Ngôi nhà cổ dòng họ Hồ Hữu khoảng 150 tuổi cần được trùng tu bảo vệ.Sơn Ngọc
2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phần dưới khung tranh của một bức chân dung vua Khải Định (1916 - 1925)

Posted Image

Đồ hình âm dương Việt được chạm trổ tinh tế uyển làm bảo châu cho song long.

Thiên Đồng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted Image

Gốm hoa lam của Việt Nam, thời Lê Sơ, thế kỷ 15.

Bảo tàng lịch sử Việt Nam.

Trưng bày trong triển lãm cổ vật Châu Á tại tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (216 Trần Quang Khải) tới hết tháng 1/2014.

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/san-khau-my-thuat/co-vat-chau-a-hoi-tu-trong-trien-lam-2895449.html

Share this post


Link to post
Share on other sites