Rubi

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.161
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    3

Everything posted by Rubi

  1. Khổ là Nghiệp Quả . Tập là đang Vô Minh, đang Ái, Nghiệp Nhân. Diệt là Vô Minh đã Diệt, Ái đã Diệt, Phật Tử, Giải Thoát. Đạo là Thánh Thai,Giác Ngộ. Như vậy tức là do Tập mà có Khổ, do Đạo mà có Diệt Thấy hiệu quả bên ngoài tức là thấy Phật thấy Tổ rồi đến thấy huynh đệ tự tại sinh tử.Thấy hiệu quả ngay nơi mình thì tự thắp đuốc nên mà đi. Nếu không y giáo phụng hành thì tức là đạng nấu cát mà muốn thành cơm.
  2. Có lẽ phải trở lại bàn đến Khổ Tập Diệt Đạo để đi đến kết luận rằng liệu có một phương pháp nào hay hơn hay là không. Rubi nghĩ là không thể tìm được một phương pháp nào hay hơn những gì đã có, vấn đề là chúng ta không khai thác thấu triệt để cương quyết thực hiện cho bằng được hay không mà thôi. Cương quyết là yếu tố đơn giản nhất để diệt khổ. Phật từ bi cứu độ, chúng sinh cương quyết thực hiện đó chẳng phải là một âm một dương gọi là đạo hay sao. Từ bi là làm cho chúng sinh kiên quyết thực hiện cho bằng được con đường giải thoát. Bồ Tát thì dũng mãnh thị hiện trong sinh tử, còn chúng sinh thì dũng mãnh phát nguyện chuyên tu, pháp đã có Phật nói rồi, bầy giờ Bồ tát nói lại còn chúng sinh thì nghe theo rồi cứ thế mà y giáo phụng hành.
  3. Rubi e là khi nói như vậy thì anh Vo Truoc đã dính mắc vào ADNH rồi. Và chúng sinh có một hiện tượng là Phật bảo ăn chay, giữ giới thì chúng sinh rất khó thực hiện, nhưng đến khi ngoại đạo tà sư bảo chúng sinh ăn chay giữ giới thì chúng sinh một lòng một giả kiên quyết thực hiện. Đây chính là lý do vì sao người tu hành theo Phật Giáo ít có hiệu quả như anh Vo Truoc nhận định.
  4. Vấn đề ở chỗ hiện nay học thuyết ADNH đang có nhiều sự sai lệch đồng thời dù có chỉnh lý được nhưng chưa được phổ biến. Do đó dùng ngôn ngữ của ADNH để nhẩy sang khai sáng Phật Giáo là một sự từ tối đi vào tối. Đúng như vậy, khi mà ADNH còn chưa được chỉnh lý và phổ biến đồng thời chưa thuyết phục được từ giới các học giả cho đến những tầng lớp người dân có nhu cầu ứng dụng thì ý tưởng của anh Vo Truoc có phần quá vội vàng là dùng ánh sáng yếu ớt của sự phục hồi lý thuyết ADNH để làm sáng tỏ pháp môn nào đó trong Phật Giáo.
  5. Trường hợp của anh Vo Truoc không phải là xuất gia tu chứng nhưng cũng có học vị và tuổi tác, tuy thế anh có thể mắc phải hai điều sai lầm. -Một là chê bai kinh sách hay chê những người lấy kinh sách làm bản đồ Phật Pháp. -Hai là có câu "Đức chúng như hải", tức là cái đức của số đông lớn như biển. Môi trường Phật Tử xuất gia và cả tại gia tu hành đúng chánh pháp là một môi trường có thể nói rằng họ là những người có căn lành sâu dày. Nếu mà phủ nhận hình thức tu hành của họ thì e rằng giống như là 'mở miệng mắng Phật, chuốc lấy tai ương. Thứ nữa, hiện tại thế gian cũng có rất nhiều người thuộc mọi tầng lớp trong đó có nhiều các vị có học vị đang bị các giáo chủ ngoại đạo dẫn dắt vào con đường thực hành được coi là tà giáo có ý chống đối Phật Giáo. Trước thì có Thanh Hải, rồi gần đây thì có Lý Hồng Chí, cả hai vị này đều có chỗ tu chứng cảnh giới rồi tự xưng đắc, buông lời chỉ dạy mọi người thu thập tín chúng đông đến hàng trăm triệu người trên thế giới. Vấn đề là các vị đó đều lấy uy tín của Phật Giáo để thâu tín đồ nhưng lại một mặt bài bác Phật Giáo, chê bai kinh sách và thiền tông, mạnh miệng bạo gan nói rằng thời này chẳng có ai có thể làm được những điều mà các bậc cao tăng ngày trước làm được, và thay vào đó các vị giáo chủ mới này lại đề ra một lối thực hành không rõ xuất xứ nhưng tự xưng đó là Phật Pháp nằm ngoài Kinh điển và Thiền Tông, cũng là Trực chỉ nhân tâm, nhưng lại bài bác thiền tông, cũng là Phật Pháp nhưng bài bác kinh điển, cũng là tu hành nhưng quái đản đến độ kẻ Thế Tục làm thầy người Xuất Gia. Có nhiều người xuất gia, kiến giải không vững vàng đã quy y những giáo chủ thế tục mà vẫn để đầu tròn áo vuông của Phật Giáo, ấu đó cũng là chưa thấu đạt và coi trọng Kinh Điển của Nhà Phật.
  6. Ý kiến của anh Vo Truoc như trên có thể song song với ý kiến sau để có được một sự khách quan, Rubi chỉ trích dẫn chứ không bình luận thêm vào.
  7. Vậy thì có thể nói một cách thế này, Rubi sẽ không gọi là bắt bẻ anh Vo Truoc về khác nhau hay không hai giữa giác ngộ giải thoát và diệt khổ. Thống nhất ở một điểm giác ngộ giải thoát và diệt khổ là không hai. Trong trường hợp nếu diệt khổ mà không có sự giải thoát thì đó là một sự lệch đường chân lý, Rubi sẽ phản biện phản đối bằng khẳ năng và kiến thức theo sức của Rubi. Ngoài ra có một vấn đề xuất hiện là việc anh Vo Truoc cho rằng có hiện tượng chấp vào Kinh Sách, Giáo Điều. Đây là một nhận định nếu không khéo sẽ có những sai lầm nghiêm trọng. Kinh và Sử của Phật Giáo càng ngày càng có vai trò không thể thiếu, ngoài nội dung mở bày chân lý nó còn có tác dụng khẳng định đâu là Phật Giáo, đâu là ngoại đạo. Nếu lìa Kinh Sách thì khi tu chứng, sẽ không biết mình đang chứng đến đâu và trong khi tu chứng cần phải thấy rõ tiếp theo như thế nào là lệch đường như thế nào là đúng đường. Không những thế, Kinh và Sử còn có vai trò thay thế Y(áo Cà Sa) và Bát để làm điểm nương tựa của niềm tin. Dù là Phật Tử tại gia hay là Cao Tăng, muốn tu học và hoằng dương Phật Pháp thì đều phải dựa vào Kinh và Sử làm căn cứ. Thiền Tông tuy truyền ngoài giáo lý nhưng giáo lý và Thiền Tông vẫn đồng một yếu chỉ có tác dụng bổ trợ cho nhau trong mỗi thời kỳ Tượng Pháp và Mạt Pháp. Có nhiều trường hợp các hành giả tu chứng mắc phải lỗi Tăng Thượng Mạn, tức là chưa chứng mà tự cho là đã chứng, chưa đắc mà tự cho là đã đắc và dẫn đến sinh ra tà kiến bài bác Kinh Điển chỗ này sai chỗ kia sai và tự mình đặt ra một con đường riêng dẫn dắt tín đồ cùng tu hành rồi nói và làm những điều mà ngày càng sai lạc với chính pháp. Một chân sư, nhìn chung khi giáo hóa chúng sinh không có vị nào lìa xa kinh điển, ngay cả các vị Tổ Sư Thiền cũng vậy. Nếu mà giờ đây, buông lời dù chỉ một câu nói có ý lìa xa kinh điển để giống như là giải thoát tri kiến thì chắc chắn về sau ngẫm lại thấy mình đã có ý sai lầm. Nếu không nhìn thấy trước việc này bằng sự dứt khoát thì tâm bình thương đây cũng là tâm ma. Trở lại vấn đề mà anh Vo Truoc đã có ý sáng kiến để đơn giản cách thực hành diệt khổ, nếu anh đã có ý tạo thành chủ đề thảo luận thì Rubi cũng mong rằng anh vẫn có thể tiếp tục vấn đề.
  8. Bàn đến Đạo Phật mà không nói giải thoát ấy là một sai lầm căn bản. Lại nói rằng chỉ cần hết khổ không cần giải thoát điều này tất nhiên là có sự khác nhau rõ ràng giữa giải thoát và hết khổ. Vạn vật thì sinh trụ dị diệt, con người thì sinh già bệnh chết, vũ trụ thì thành trụ hoại không cho nên nếu không cầu giải thoát thì sẽ mãi chịu khổ. Do đó nói rằng "nếu hết khổ thì cần gì giải thoát ?" là một định hướng sai lầm. Bởi vì đó vẫn là mục tiêu phục vụ cho cái Ta, cái Ngã trái với tinh thần Phật Giáo là Phá Ngã, Phá Chấp. Và lại xét về nguyên lý, do Ý quên Tâm cho nên mới sinh ra thế giới và chúng sinh. Ý quên Tâm thì đó chính là nhận lầm có cái Ta, mà đã lầm thì tự nhiên bị nghiệp chuyển. Trong khi bị nghiệp chuyển, vậy thì thử hỏi rằng con người có thể không cần giác ngộ mà vẫn làm chủ được mọi thứ để không bị khổ. Thật sự thì vẫn có một thế giới rất ít khổ đau nhưng không có ai giác ngộ cả. Nhưng có lẽ để xây dựng một thế giới như thế sẽ tốn thời gian và công lực gấp nhiều lần so với việc thực hiện giác ngộ giải thoát. Liệu con người có thể thực hiện được điều này khi mà thế giới chúng sinh vẫn bị Thiên Ma cái quản. Khi không còn ai cầu giải thoát nữa thì tức là Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm sẽ bị Thiên Ma tiêu diệt. Theo Phật Giáo, hiện nay do vẫn còn người trì tụng kinh Lăng Nghiêm và thực hiện Thiền Đinh giải thoát cho nên mới chấn giữ được Thiên Ma ở 5 phương Đông Tây Nam Bắc và Trung Ương. Khi không còn ai thực hiện trí trù và Thiền Định nữa thì đó cũng là lúc Thiên Ma giải thoát khỏi sự trấn giữ ấy. Liệu lúc đó, con người có chấp nhận được một sự kiện như vậy để mà thực hiện mục tiếu không khổ như ý tưởng của anh Vo Truoc. Ví dụ cụ thể về một đoạn kinh sau: "Có một thời, khi đức Thích Tôn khai diễn Đại hội trên đỉnh Kên Kên, để khẳng định những giá trị phổ quát của các chúng sinh trong thế giới Sahà vốn đang bị đè nặng dưới muôn vàn thống khổ này; bấy giờ có vô số Thượng khách từ nhiều phương trong vô tận thế giới về tham dự. Nhìn thấy thế giới Sahà này quả thực vô cùng xấu xa, ô trược và uế tạp, với những dấu hiệu của bịnh tật, nghèo đói, chiến tranh và áp bức; một thế giới bị bao trùm trong bóng tối, bị cách ly hoàn toàn với phần còn lại của Đại dương Vũ trụ bao la; họ bị chấn động cho đến tận cùng bản thể tồn tại. Toàn thể Thượng khách ấy đồng loạt đứng dậy trước đức Thích Tôn, phát nguyện sẽ ở lại trong Cõi Trần đau khổ này, để trợ giáo đức Thích Tôn kiến thiết một Thế giới thanh tịnh vi diệu, như là Thế giới Quê hương của các Ngài. Thế nhưng, không phải thế. Sahà không phải chỉ là thế giới của những chúng sinh bé nhỏ, thấp kém, như được nhìn từ ngoại hiện, từ góc độ quyền năng hung bạo của Thiên ma Ba tuần đang liên tục quậy hư không thành dông bão, góp mây trời làm lũ lụt. Bên dưới muôn triệu lớp sóng gào thét kinh hoàng của đại dương nước mắt ấy, là một cõi trầm mặc, tưởng chừng như sa mạc hoang vu. Nhưng trong cõi tịch mịch hoang vu ấy, sự sống vẫn không ngừng triển nở. Cho đến một lúc nào đó, khi âm thanh sư tử hống của Đấng Đại hùng cất lên, thì từ trong lòng đất vọt lên, xuất hiện những người con của Đất Mẹ, từ lâu vẫn im lặng. Thân hình của họ ngời sáng bởi ánh sáng của hùng lực và trí tuệ. Ánh sáng từ họ sẽ rọi sáng Thế giới Sahà, sáng cho đến vô tận Thế giới."
  9. Vậy Rubi xin bàn đến trong giới hạn này.Diệt khổ cá nhân: Cá nhân thì xét đến chỉ có hai bình diện là Thân và Ý, tất cả số đông cũng chỉ có thể khổ thân và khổ ý. Ý có 3 cái khổ: Cầu mà không được thì khổ. Yêu mà phải xa nhau là khổ. Ghét mà phải đối diện là khổ. Thân có 4 cái khổ: Sinh già bệnh chết là khổ. Nói về Thân thì không thể trường sinh, nếu mà có đạo lý trường sinh thì lại chẳng hợp với quảng đại chúng sinh. Như vậy dù khổ ít hay nhiều thì Khổ Thân là phải chấp nhận như là định nghiệp. Nói về Ý thì 'ít muốn biết đủ' thì sẽ diệt được một cái khổ 'muốn mà không được'. Yêu xa nhau là khổ, thế nên chớ vấn vương, người dứt niệm ghét thương, là thoát vòng trói buộc. Như vậy, xét về Ý thì đạo Phật đã có những phân tích về nhân quả khổ và diệt khổ. Hoặc là nhìn trên phương diện ngũ dục là năm thứ đảm bảo cho một người cảm thấy hạnh phúc: Tài sản, hình tướng, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ. Chẳng lẽ lại bảo vì Đạo Phật không đem đến cho mỗi chung sinh có được ngũ dục mà do đó Đạo Phật có sự hạn chế hiệu quả. Vậy anh Vo Truoc có thể khái quát các đại lượng X và Y với những sự hạnh phúc và đau khổ ở trên. Nếu chỉ nói chung chung đến Khổ và Vui mà không biết cụ thể nó là gì thì e rằng hai đại lượng X và Y không giải quyết được bài toán tìm ra một cách diệt khổ cho cá nhân và cho số đông áp dụng. Diệt khổ mà không có con đường sinh tử tự tại thì bao giờ hết khổ cho được. Mà cứ nói là làm sao tìm ra cách hết khổ thì cũng chỉ là hết khổ cho cái thân mấy chục ký này, và hết khổ cho cái tâm thức đang quên mất vai trò thực sự của nó. Dù cho hết khổ thân tâm mà Tánh giác chẳng ngộ thì còn gì là chân lý, thế thì làm gì cần có Đạo Phật để mà nói rằng Đạo có sự hạn chế. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ Giải Thoát, nếu không cần giải thoát thì bàn đến Đạo Phật e rằng chính đó là mặt hạn chế của giả thuyết cho bài toán của anh Vo Truoc.
  10. Xem bài của bạn này Rubi cũng có ý kiến. Xét câu nói "một âm một dương gọi là đạo" Nhưng phải hiểu sâu hơn, đạo cũng có nhiều thứ lắm, thôi thì lấy số để ví dụ các loại âm dương mà có thể hình dung ra bấy nhiều thứ đạo. Thiên nhất sinh thủy Địa lục thành chi, từ là 6 là âm thuỷ, 1 là dương thuỷ. Đó là âm dương theo đạo sinh khí. Hoặc lấy số 1 với số 3, ấy cũng coi là âm dương theo nghĩa âm nhỏ dương lớn, nhưng lại chẳng giống sinh khí. Hoặc lấy số 1 với số 7, cũng là thủy hỏa âm dương theo một đạo lý khác. Lại nữa, số 1 với số 9, cũng là âm dương đấy. Như vậy xem ra từ "đạo" trong câu nói trên có nhiều thứ đạo chỉ ra tập hợp các luân lý của xã hội. Như vậy lấy mèo và chuột để nói đến đạo, nhưng Rubi thấy chưa xác định được nó là đạo lý gì. Và không thể ví nó với việc quan hệ tình duyên nam nữ được.
  11. Thưa anh Vô Trước,Có một vấn đề cần bàn là Tham Sân Si là khả năng hay là ý muốn. Ví dụ, một người có khả năng sinh lý dồi dào, thì cũng mau chứng được quả vị nếu chuyên tâm tu hành. Như vậy thì manh nha một điều, ý muốn tương đồng với chánh kiến và/hoặc tà kiến, còn khả năng tương ứng với Tham Sân Si và/hoặc chứng quả vị.
  12. Vấn đề chung là như thế này, anh Vô Trước ạ. Anh cho rằng cái khổ là do ý muốn vượt quá khả năng. Còn Rubi thì biết rằng cái khổ rốt ráo là do không chịu thực hiện những điều nên làm. Giống như bàn đến vấn đề đói nghèo: -Có ý kiến cho rằng nghèo là vì không làm được những việc muốn làm. -Có ý kiến cho rằng nghèo là vì không làm những việc nằm trong khả năng. Xem ra ý kiến thứ hai hoàn toàn có lý hơn. Còn vấn đề phương pháp diệt khổ của Phật Giáo thì như thế này, thưa anh Vo Truoc. Người trí, đã triệt ngộ thì nói không sợ sai. Do đó dù nói thế nào thì họ cũng có cách nói phù hợp với từng đối tượng từng căn cơ. Thật thế, Phật là Bậc Toàn Giác, khi độ người ngu thì Phật chỉ khuyên họ làm bà điều là không tham lam, không nóng giận và không si mê, khi độ kẻ trí thì chắc là anh Vo Truoc cũng có thể tự hiểu. Ví dụ cụ thể cho vấn đề nhiếp hóa kẻ trí người ngu của Phật giáo thì có câu chuyện về anh em Bàn Đặc. Anh có thể tìm trên mạng để hiểu thêm về câu chuyện này, nhưng đại khái như sau: Hai anh em Bàn Đặc, một kẻ trí một người ngu cùng xuất gia theo Phật. Người anh rất giỏi và học đâu thuộc đấy mau chóng được làm vị Quảng Chúng trong giáo đoàn, còn người em rất ngu độn, học câu trước quên câu sau. Sau nhiều lần khuyên bảo và huấn luyện người em nhưng không tài nào khiến cậu em Bàn Đặc tiến bộ trong việc tiếp thu Lý Luận của Giáo Pháp người anh đã quyết định bắt người em phái rời khỏi giáo đoàn. Rốt cục thì người em cũng phải nghe theo. Nhưng Phật quan sát thấy toàn bộ sự việc và đã đến gặp vị Bàn Đặc ngu dốt kia và chỉ cho Bàn Đặc một phương pháp thực hành. Tức là hàng ngày thì chỉ làm công việc quét dọn và không tham, sân, si. Trong khoảng thời gian thực hành quét bụi, người em Bàn Đặc chỉ một việc không tham sân si đối với hoàn cảnh bên ngoài, cho đến khi đang quét dọn thì nhập định chứng thánh quả. Như vậy thôi, Rubi không giải thích thêm câu chuyện. Hoặc dù cho anh Vo Truoc có tìm ra được một công thức diệt khổ nào đi chăng nữa, nhưng nếu người ta không chịu thực hành theo cách của anh thì nghĩa là công thức đó không phù hợp với quảng đại quần chúng. Chẳng có công thức nào để khiến tất cả mọi người xem và hiểu rồi thực hành để diệt khổ. Chúng sinh vô biên, Phiền não vô tận, Pháp môn vô lượng, Phật Đạo vô thượng thế thì chỉ có công đức tu hành nhiều kiếp với lòng từ bi vô biên mới có thể là sự kiện khiến cho tất cả cùng hướng về chân lý thực hành giải thoát. Công thức để giải quyết vấn đề khổ đau của chúng sinh là: Tâm ngộ thật tướng Duyên khởi tánh không Tự giác giác tha Từ bi hỉ xả Như luận điểm của anh Vo Truoc thì có thê tổng quat Min và Max như thế này: Người chánh tâm không thành được Phật Đạo thì sẽ khổ Kẻ tà tâm không thành được Ma Đạo cũng sẽ khổ. Vậy thì công thức của anh rất tổng hợp.
  13. Đức Phật có dạy, cái khổ nhất của con người là biết được đạo giải thoát nhưng không thực hiện sự giải thoát. Tức là đường sang bến giác đã có thầy soi đuốc, nhưng người trò lại bỏ rơi cơ hội ngàn năm. Hoặc không có thầy chỉ đường nhưng trong tay nắm được bản đồ chỉ đường, người đó lại không thực hiện theo những gì đã nằm trong khả năng của họ thì đó là cái khổ lớn nhất của họ. Cái khổ lớn nhất này hoàn toàn không nằm trong luận điểm then chốt của anh Vo Truoc.Sự khổ không có sự bắt đầu nhưng tất cả chúng sinh bỗng nhiên khổ, cái khổ cũng chỉ là huyễn hoá. Cho nên Phật dạy: Các chúng sinh đời sau Hằng nên viễn ly huyễn Các huyễn hay viễn ly Như cọ gỗ lấy lửa Lửa cháy gỗ tiêu tan Tro tàn khói bốc hết Giác, không cần tiệm tiến Phương tiện cũng chẳng dùng. Lìa huyễn là một pháp dành cho tất cả các chúng sinh, ai cũng có thể lìa huyễn. Như vậy thì không cần một phương pháp nào để tu từ từ cả, không cần phương tiện nào hết mà vẫn có nhân Giác và quả Giác.Sự khổ vô biên nhưng vô thỉ vô chung tức là cái khổ nó không có sự bắt đầu cũng không có sự chấm dứt chỉ bỗng nhiên sinh ra. Nếu chấp rằng cái khổ là thật có thì chẳng có một phương pháp nào có thể diệt khổ cả. Chỉ Vô Trước thì lập tức hết khổ, hết khổ là do phá mê, phá chấp chứ không phải là tiêu diệt đi cái khổ. "Tất cả các chúng sinh Vô thỉ huyễn vô minh Như hoa đốm trong không Từ hư không huyễn có Hoa đốm dù diệt hết Hư không vẫn y nhiên" Cũng như thế "Huyễn từ giác tâm sanh Huyễn diệt giác bất động"
  14. Bát Quái Tiên Thiên Rubi Hôm qua Rubi mới xác định lại về ký hiệu chấm Âm Dương cho nên cũng chỉnh lý lại về hình vẽ, thông báo thông báo.
  15. Rubi xin được đối thoại với anh Vo Truoc. Theo Nho Giáo có nói "người quân tử phải biết đợi thời". Theo Phật Giáo, có vị nói "người tu hành không nên làm những việc quá sức mình". Theo anh Vo Truoc thì: ""Giả sử gọi X là đại lượng đặc trưng cho khả năng của một con người, Y là đại lượng đặc trưng cho ý muốn của người đó"..."Thực ra, để diệt Khổ không nhất thiết phải làm cho Y = 0 mà chỉ cần sao cho Y <= X là đủ"" Nhưng mà có một vấn đề, nếu nói rằng Phật Giáo có sự hạn chế thì chúng ta phải xem cách "chúng ta" lý luận cho vấn đề đưa ra có mặt hạn chế nào không. Có thể lấy một câu kệ làm ví dụ, qua ví dụ mà hiểu được vấn đề: "Nếu lấy tâm luân hồi Tư duy viên giác Phật Chỉ quanh quẩn luân hồi Không thể vào biển giác" Lý luận bằng Ý Thức có mặt hạn chế nhất định, nếu Ý chưa chuyển thành Trí thì đó chính là Ý Thức làm một việc tư duy vượt qua sức của nó. Ngoài lề, theo Rubi: Ý Thức là Thức Đại mà Phật Giáo nói đến. Ý Thức ứng với hành Thổ mà Nho Giáo nói đến, Tứ Tượng là Kim Mộc Thủy Hỏa ứng với Tinh Thần Hồn Phách. Hành Thổ sinh ra Tứ Tượng thì nghĩa là Ý Thức sinh ra Tinh Thần Hồn Phách. Nếu bảo rằng Ý Thức đã giác ngộ chân lý thì việc dùng Ý Thức để bảo rằng Phật Giáo có mặt hạn chế, ngay đó là một sai lầm vi tế nghiêm trọng, chưa triệt tiêu được kiến giải về Minh và Vô Minh.
  16. Tiểu Đề-Biểu tượng và ký hiệu Âm Dương Hôm nay Rubi đang có một chút chút phải xác định về một ký hiệu, tiện thể đang nói đến vấn đề Phủ Tạng trong Đông Y cho nên phải tư duy để tìm xét xem Biểu tượng và Ký hiệu Âm Dương cụ thể là như thế nào. Cho nên kết quả suy nghĩ cũng cảm hứng viết ra để làm tài liệu. Ký hiệu thông thường về Hào thì: -Vạch liền là ký hiệu của Dương -Vạch đứt là ký hiệu của Âm Đó là một yếu tố. -Chấm đặc là ký hiệu của Dương -Chấm rỗng là ký hiệu của Âm Đây là yếu tố thứ hai, Rubi tự xác định, nhưng không biết trong sách hiện nay có khác gì không. Nội là bên trong Ngoại là bên ngoài Tạng là cái kho Phủ là cái hàng rào :D bao quanh kho Vậy nếu xác định: Nội Tạng là Dương Ngoại Phủ là Âm Vậy thì có tương đồng với ký hiệu Vạch Âm Dương Không ? Có. Bên trong mà có chứa đồ, có vật thì tức là bên trong đặc. Nội Tạng là cái kho có chứa đồ bên trong và cũng là cái kho bên trong hàng rào điều này đồng nghĩa với việc xác định Vạch liền là Dương hay Chấm đặc là Dương. Bên trong mà rỗng thì đối tượng đó là thành, là hàng rào bao quanh bảo vệ điều này đồng nghĩa với việc xác định Vạch đứt là Âm hay Chấm rỗng là Âm. Trong Đông Y, việc xác định tính chất Kinh là Âm hay Dương cũng căn cứ vào yếu tố trong ngoài. Kinh nằm mé bên trong cách tay thì đó là Kinh Âm, Kinh nằm bên mé ngoài cách tay đó là Kinh Dương, yếu tố trực tiếp như vậy thì có vẻ mâu thuẫn với việc thống nhất về ký hiệu cho Âm Dương. Cứ theo sự thống nhất như trình bày trên thì việc xác định chỉnh lý tính chất Âm Dương của các đường Kinh không hề khó: -Vì Kinh nằm bên mé trong cách tay nên gọi nó là Kinh Dương, đồng thời các kinh đó liên quan trực tiếp đến một bộ phận nhất định của cơ thể nên gọi cơ quan đó là Tạng. -Vì Kinh nằn bên mé ngoài cách tay nên gọi nó là Kinh Âm, đồng thời các kinh đó liên quan trực tiếp đến một bộ phận nhất định của cơ thể nên gọi cơ quan đó là Phủ.
  17. Rubi thấy nhận định này của Vo Truoc có phần "tà kiến". Cái khổ của thế gian ấy là do chúng sinh Đồng Nghiệp mà thành sự khổ lớn. Nay muốn hết khổ, ấy là Biệt Nghiệp của mỗi người. Rời bỏ Đồng Nghiệp thì chẳng gì hay bằng xuất gia cầu đạo giải thoát, ấy là xuất thế tục gia tìm cách xuất phiền não gia và đi đến phát nguyện xuất tam giới gia. Nói rằng Phật giáo cao siêu ấy là đếm của báu cho người chẳng phải của báu nơi chính mình, nếu không tự mình thực hành mà nói rằng Phật giáo tuy cao siêu mà không hiệu quả thì đó chính à tà kiến. Cũng có thể có người cho rằng họ đã nhọc công tạo của báu cho chính mình trong Phật Pháp nhưng mãi chẳng thấy kết quả gì biến chuyển lạ thường và đi đến kết luận Phật Pháp kém hiệu quả, cái này thì Phật nói rằng: Người độn căn tiểu trí Sám hối nghiệp lâu xưa Các chướng rứt hết rồi Cảnh Phật bèn hiển hiện.
  18. Hello :D Tuy là thế nhưng cũng không sao đâu. Quả thật Rubi thấy nhiều sách về Dịch Học rất hiếm quyển có thiết kế chất lượng. Nhưng mà để có những hình ảnh có nội dung mang tính chính xác và thẩm mỹ thì cũng phải có chuyên môn sâu và đa dạng một chút. Nhưng khi đã thiết kế được đẹp rồi thì họ lại chẳng làm vị trí thiết kế nữa, thường là thế.
  19. Đính Chính Thưa các học giả và các anh chị, Rubi xin đính chính một chút vì có một sự nhầm lẫn từ trước tới nay. Rubi nhận ra sự nhầm lẫn này khi xem lại bài viết này của chính mình. Tức là nhầm lẫn về tính chất tạng phủ của 4 đường kinh thuộc hành thổ trong 12 đường kinh. Từ trước đến nay Rubi vẫn nghĩ rằng Kinh Tâm Bào và Kinh Tỳ là Kinh ứng với Phủ, và Kinh Tam Tiêu và Kinh Vị là kinh ứng với Tạng. Nhưng cho đến bây giờ, xem đến phần Tý Ngọ Lưu Chú, Rubi mới phát hiện ra là nhầm. Vậy xin đính chính lại như sau: -Kinh Tỳ và Kinh Tâm Bào Lạc là Kinh ứng với Tạng -Kinh Vị và Kinh Tam Tiêu là Kinh ứng với Phủ Do đó, Rubi xin đính chính nội dụng trong bài viết này như sau. Về hình ảnh thì không có gì sai, tức là số 5 ứng với Kinh Tỳ, số 10 ứng với Kinh Vị, hình ảnh không sai là nó nằm ngoài kiểm soát của Rubi vì căn cứ theo sách mà vẽ chứ không suy nghĩ để xác định tính chất. Còn về nội dung thì do viết theo kiến thức nên có sự sai. Nội dung có chỗ sai trong 2 đoạn viết sau : 1: Số 6, Kinh Bàng Quang cùng có tính chất là Âm Thuỷ Số 1, Kinh Thận cùng có tính chất là Dương Thuỷ Thủy sinh Mộc Số 8, Kinh Đởm cùng có tính chất là Âm Mộc Số 3, Kinh Can cùng có tính chất là Dương Mộc Mộc sinh Hoả Số 2, Kinh Tiểu Tràng cùng có tính chất là Âm Hoả Số 7, Kinh Tâm cùng có tính chất là Dương Hoả Hỏa sinh Thổ Số 5, Kinh Vị cùng có tính chất là Dương Thổ Số 10, Kinh Tỳ cùng có tính chất là Âm Thổ Thổ sinh Kim Số 4, Kinh Đại Tràng cùng có tính chất là Âm Kim Số 9, Kinh Phế cùng có tính chất là Dương Kim 2: Ngày đường kinh Thận chủ đạo-từ giờ 120=00 đến hết giờ thứ 10 nạp vào cung số 1 Hà Đồ: -Huyệt Dũng Tuyền của Kinh Thận (01 Dương Thuỷ-Hà Đồ) được mở tại giờ 120 (00-Quý Hợi) của chu kỳ 120 giờ cổ -Hai giờ sau, giờ 02 (Ất Sửu), huyệt Hành Gian của Kinh Can (03 Dương Mộc-Hà Đồ) được mở. -Hai giờ sau, giờ 04 (Đinh Mão), huyệt Thần Môn của Kinh Tâm (07 Dương Hỏa-Hà Đồ) được mở, và xảy ra hiện tượng Phản Bổn Hoàn Nguyên tức là có sự huyệt nguyên Thái Khê của Kinh Chủ Đạo (Kinh Thận) cũng mở. Riêng ngày đường kinh Thận chủ đạo thì hiện tượng Phản Bổn Hoàn Nguyên lại phức tạp hơn, có mặt cả huyệt nguyên Đại Lăng của Kinh Tâm Bào cũng mở. Ở ngày đường kinh Bàng Quang chủ đạo, hiện tượng Phàn Bổn Hoàn Nguyên cũng phức tạp tương đương, chi tiết sẽ nói đến sau. -Hai giờ sau, giờ 06 (Kỷ Tị), huyệt Thương Khâu của Kinh Vị (05 Dương Thổ-Hà Đồ) được mở. -Hai giờ sau, giờ 08 (Tân Mùi), huyệt Xích Trạch của Kinh Phế (09 Dương Kim-Hà Đồ) được mở. -Cuối cùng, giờ thứ 10 (Quý Dậu), Huyết được trút vào huyệt Trung Xung của Kinh Tâm Bào. Nội dung chỉnh lại đúng là: 1: Số 6, Kinh Bàng Quang cùng có tính chất là Âm Thuỷ Số 1, Kinh Thận cùng có tính chất là Dương Thuỷ Thủy sinh Mộc Số 8, Kinh Đởm cùng có tính chất là Âm Mộc Số 3, Kinh Can cùng có tính chất là Dương Mộc Mộc sinh Hoả Số 2, Kinh Tiểu Tràng cùng có tính chất là Âm Hoả Số 7, Kinh Tâm cùng có tính chất là Dương Hoả Hỏa sinh Thổ Số 5, Kinh Tỳ cùng có tính chất là Dương Thổ Số 10, Kinh Vị cùng có tính chất là Âm Thổ Thổ sinh Kim Số 4, Kinh Đại Tràng cùng có tính chất là Âm Kim Số 9, Kinh Phế cùng có tính chất là Dương Kim 2: Ngày đường kinh Thận chủ đạo-từ giờ 120=00 đến hết giờ thứ 10 nạp vào cung số 1 Hà Đồ: -Huyệt Dũng Tuyền của Kinh Thận (01 Dương Thuỷ-Hà Đồ) được mở tại giờ 120 (00-Quý Hợi) của chu kỳ 120 giờ cổ -Hai giờ sau, giờ 02 (Ất Sửu), huyệt Hành Gian của Kinh Can (03 Dương Mộc-Hà Đồ) được mở. -Hai giờ sau, giờ 04 (Đinh Mão), huyệt Thần Môn của Kinh Tâm (07 Dương Hỏa-Hà Đồ) được mở, và xảy ra hiện tượng Phản Bổn Hoàn Nguyên tức là có sự huyệt nguyên Thái Khê của Kinh Chủ Đạo (Kinh Thận) cũng mở. Riêng ngày đường kinh Thận chủ đạo thì hiện tượng Phản Bổn Hoàn Nguyên lại phức tạp hơn, có mặt cả huyệt nguyên Đại Lăng của Kinh Tâm Bào cũng mở. Ở ngày đường kinh Bàng Quang chủ đạo, hiện tượng Phàn Bổn Hoàn Nguyên cũng phức tạp tương đương, chi tiết sẽ nói đến sau. -Hai giờ sau, giờ 06 (Kỷ Tị), huyệt Thương Khâu của Kinh Tỳ (05 Dương Thổ-Hà Đồ) được mở. -Hai giờ sau, giờ 08 (Tân Mùi), huyệt Xích Trạch của Kinh Phế (09 Dương Kim-Hà Đồ) được mở. -Cuối cùng, giờ thứ 10 (Quý Dậu), Huyết được trút vào huyệt Trung Xung của Kinh Tâm Bào. Có thể có những bài viết khác trước đây Rubi sẽ nhầm như vậy, Rubi xin thông báo với đọc giả quan tâm.
  20. Cơ sở Đông Y-Cấu trúc Tý Ngọ Lưu Chú Phần I-phụ đề Thưa các học giả và các anh chị, Rubi có vài lời nói về Đông Y và về phần trình bày nội dung trong đoạn viết này. Cấu Trúc Tý Ngọ Lưu Chú và Cấu Trúc Linh Quy Bát Pháp là hai cấu trúc quan trọng của Đông Y, đặc biệt là Châm Cứu Đông Y. Cấu Trúc Linh Quy Bát Pháp có sự tương đồng với Quy Đằng Bát Pháp, nhưng chắc có một số điểm khác nhau nho nhỏ. Căn bản, ở đây Rubi nói khái quát về Tý Ngọ Lưu Chú và Linh Quy Bát Pháp. Tý Ngọ Lưu Chú thì liên quan đến sự hoạt động của 12 đường Kinh, còn Linh Quy Bát Pháp liên quan đến sự hoạt động của 8 Kinh Kỳ (Kỳ Kinh Bát Mạch). Kỳ Kinh có tám đường, trong đó có hai mạnh gọi là Thần Kinh Trung Ương là mạch Nhâm và mạch Đốc, hai mạch có huyệt riêng còn 6 mạch còn lại không có huyệt riêng, mà nó giao với các Kinh chính và chung huyệt với các Kinh đó. Linh Quy Bát Pháp là nói đến tám huyệt giao hội của Bát Mạch Kinh Kỳ với tám đường kinh của 12 kinh Chính. Tám đường kinh chính trong 12 đường kinh nói trên không đồng bộ với Tứ Tượng là Âm Dương Kim Hỏa Thủy Mộc (tức là 12 kinh chính có hai bộ là 4+8, 4 kinh có tính chất là hành thổ, 8 kinh còn lại là ứng với Âm Dương Kim Hỏa Thủy Mộc). Đây cũng là Lý thuyết tiền đề của Linh Quy Bát Pháp và cũng là nguyên nhân phức tạp khi nghiên cứu về cấu trúc này. Nhưng khái quát về hai cấu trúc nói trên thì Rubi thấy Cấu Trúc Tý Ngọ Lưu Chú ứng với quy luật Âm Dương Ngũ Hành Tương Sinh do đó có thể đưa cấu trúc này vào thể hiện trong đồ hình Hà Đồ. Còn Cấu Trúc Linh Quy Bát Pháp thì theo như hiện này ứng với đồ hình Lạc Thư. Điều Rubi nghi ngờ là hiện này trong Cấu Trúc Tý Ngọ Lưu Chú của Đông Y thiếu một điểm quan trọng là Cấu Trúc này lấy đồ hình Hà Đồ làm bí kíp. Sự việc hiện này ngành Đông Y thiếu đồ hình bí kíp nói trên cũng dễ hiểu bởi vì tính chất Âm Dương của 12 đường Kinh bị ngược với Hà Đồ. Sở dĩ như vậy vì Đông Y cho rằng Nội Tạng thuộc tính là Âm, còn Ngoại Phủ thuộc tính là Dương. Nhưng Rubi nghĩ xác định như vậy là bị sai, đúng ra Nội Tạng phải có thuộc tính là Dương và Ngoại Phủ có thuộc tính là Âm. Có thể lấy ví dụ để gián tiếp chứng minh điều này, tức là: -Trong văn hóa xã hội vẫn coi Họ Nội là Dương, Họ Ngoại là Âm. -Xét về cấu tạo trái đất có Lõi bên trong là Kim và Hỏa mang tính là Dương, vỏ bên ngoài có Nước và Đất ứng với Thủy và Mộc là Âm. Từ hai yếu tố xác định bên trong là Dương Tính, bên ngoài là Âm Tính chính là các yếu tố gián tiếp để xác định Kinh ứng với Tạng có thuộc tính là Dương, Kinh ứng với Phủ có thuộc tính là Âm. Sau khi chỉnh lý tính chất Âm Dương của 12 đường Kinh như vậy thì có thể thực hiện một nguyên lý sau: -Trong 12 đường Kinh, loại bỏ hai đường Kinh là Tâm Bào và Tam Tiêu thì còn lại 10 đường kinh với tính chất xác định ứng với Hà Đồ là: Số 6, Kinh Bàng Quang cùng có tính chất là Âm Thuỷ Số 1, Kinh Thận cùng có tính chất là Dương Thuỷ Thủy sinh Mộc Số 8, Kinh Đởm cùng có tính chất là Âm Mộc Số 3, Kinh Can cùng có tính chất là Dương Mộc Mộc sinh Hoả Số 2, Kinh Tiểu Tràng cùng có tính chất là Âm Hoả Số 7, Kinh Tâm cùng có tính chất là Dương Hoả Hỏa sinh Thổ Số 5, Kinh Vị cùng có tính chất là Dương Thổ Số 10, Kinh Tỳ cùng có tính chất là Âm Thổ Thổ sinh Kim Số 4, Kinh Đại Tràng cùng có tính chất là Âm Kim Số 9, Kinh Phế cùng có tính chất là Dương Kim Với quy tắc nạp 10 đường kinh vào Hà Đồ theo sự Âm Dương Ngũ Hành tương ứng như trên chính là yếu tố mang tính vĩ mô của Cấu Trúc Tý Ngọ Lưu Chú. Sau đây thì Rubi bắt đầu nói đến Tý Ngọ Lưu Chú. Tuy nhiên về hình ảnh minh họa và nội dung thì chưa được chuẩn bị cẩn thận và chi tiết, nhưng vẫn có thể nói được những phần quan trong của Tý Ngọ Lưu Chú. Phần II-chính đề A-Thời gian trong Cấu Trúc Tý Ngọ Lưu Chú Thời gian ngày và giờ theo lịch âm là yếu tố căn bản của Tý Ngọ Lưu Chú (TNLC): -Về yếu tố Ngày thì khoảng thời gian là 10 ngày đêm, từ ngày Giáp đến ngày Quý theo lich âm thông thường, và cần nhấn mạnh là chu kỳ của TNLC theo thứ tự bắt đầu từ ngày can Giáp đến ngày cuối là can Quý. -Về yếu tố Giờ thì trong chu kỳ 10 ngày chia ra có 120 giờ bằng 240 tiếng( trong TNLG thì sử dụng 120 giờ tức là giờ cổ). Giờ Giáp Tý của Ngày Giáp là giờ thứ nhất-01. Trong khoảng thời gian 5 ngày, từ ngày Giáp đến hết ngày Mậu thì có được 60 giờ cổ, tức là từ giờ Giáp Tý 01 đến giờ Quý Hợi 60 là một nửa của Chu kỳ TNLC. Một nửa chu kỳ TNLC tiếp theo là 5 ngày, từ ngày Kỷ đến hết ngày Quý thì có được 60 giờ cổ, tức là từ giờ Giáp Tý 61 đến giờ Quý Hợi 120. Bang1-Bán chu kỳ I Bảng 2-Bán chu kỳ II Thời gian ngày đường kinh chủ đạo là yếu tố căn bản tiếp theo của Tý Ngọ Lưu Chú: -120 giờ cổ (10 ngày lịch âm) nói trên được chia thành 11 phần. 11 phần được xác định như sau: 01-Ngày đường kinh Thận chủ đạo-từ giờ 120=00 đến hết giờ thứ 10 02-Ngày đường kinh Đởm chủ đạo-từ giờ 11 đến hết giờ thứ 21 03-Ngày đường kinh Can chủ đạo-từ giờ 22 đến hết giờ 32 04-Ngày đường kinh Tiểu Tràng chủ đạo-từ giờ 33 đến hết giờ 43 05-Ngày đường kinh Tâm Chủ đạo-từ giờ 44 đến hết giờ 54 06-Ngày đường kinh Vị chủ đạo-từ giờ 55 đến hết giờ 65 07-Ngày đường kinh Tỳ chủ đạo-từ giờ 66 đến hết giờ 76 08-Ngày đường kinh Đại Tràng chủ đạo-từ giờ 77 đến hết giờ 87 09-Ngày đường kinh Phế Chủ đạo-từ giờ 88 đến hết giờ 98 10-Ngày đường kinh Bàng Quang chủ đạo-từ giờ 99 đến hết giờ 109 11-Khoảng thời gian bế huyệt-từ giờ 110 đến hết giờ 119, không có đường kinh nào chủ đạo. Trên đây là hai yếu tố về thời gian trong TNLC. B-Kinh, Huyệt, Khí, Huyết trong TNLC -Kinh: Cần nhắc lại là tính chất Âm Dương của các đường kinh như sau: Kinh ứng với Tạng có tính chất xác định là Dương, Kinh ứng với Phủ có tính chất xác định là Âm. Thực hiện nguyên lý vĩ mô, nạp 10 ngày đường kinh chủ đạo vào Hà Đồ theo quy tắc Âm Dương Ngũ Hành tương ứng thì sẽ được mô hình thứ tự 120 giờ hoạt động của Kinh, Huyệt, Khí, Huyết đúng theo quy luật tương sinh của Hà Đồ (Hình 1): Thuỷ 01-Ngày đường kinh Thận chủ đạo-từ giờ 120=00 đến hết giờ thứ 10 nạp vào cung số 1 Hà Đồ Thủy sinh Mộc 02-Ngày đường kinh Đởm chủ đạo-từ giờ 11 đến hết giờ thứ 21 nạp vào cung số 8 Hà Đồ 03-Ngày đường kinh Can chủ đạo-từ giờ 22 đến hết giờ 32 nạp vào cung số 3 Hà Đồ Mộc sinh Hoả 04-Ngày đường kinh Tiểu Tràng chủ đạo-từ giờ 33 đến hết giờ 43 nạp vào cung số 2 Hà Đồ 05-Ngày đường kinh Tâm Chủ đạo-từ giờ 44 đến hết giờ 54 nạp vào cung số 7 Hà Đồ Hỏa sinh Thổ 06-Ngày đường kinh Vị chủ đạo-từ giờ 55 đến hết giờ 65 nạp vào cung số 5 Hà Đồ 07-Ngày đường kinh Tỳ chủ đạo-từ giờ 66 đến hết giờ 76 nạp vào cung số 10 Hà Đồ Thổ sinh Kim 08-Ngày đường kinh Đại Tràng chủ đạo-từ giờ 77 đến hết giờ 87 nạp vào cung số 4 Hà Đồ 09-Ngày đường kinh Phế Chủ đạo-từ giờ 88 đến hết giờ 98 nạp vào cung số 9 Hà Đồ Kim sinh Thuỷ 10-Ngày đường kinh Bàng Quang chủ đạo-từ giờ 99 đến hết giờ 109 nạp vào cung số 6 Hà Đồ Khoảng thời gian đóng huyệt trong không gian của hành Thủy trên Hà Đồ: 11-Khoảng thời gian bế huyệt-từ giờ 110 đến hết giờ 119, không có đường kinh nào chủ đạo. Hình 1: Hinh minh họa cấu trúc hoạt động vĩ mô và vi mô của Tý Ngọ Lưu Chú (hình tạm thời-chỉ có số) -Huyệt -Cơ bản TNLC có 72 huyệt của 12 kinh chính. 72 huyệt có thể chia ra 3 dạng, là 72=60+10+2. Con số 10+2=12 là số huyệt tham gia trong sự Phản Bổn Hoàn Nguyên, xét về khái niệm vĩ mô của Hà Đồ thì chưa cần nói đến ở đây, các đọc giả có thể thảm khảo chi tiết trong Cơ Sở Đông Y-Cấu Trúc Tý Ngọ Lưu Chú trong các chuyên đề. Con số 60 được chia ra 10 phần bằng nhau, mỗi phần có 6 huyệt ứng với 6 kinh Phủ hoặc 6 kinh Tạng. Đây là các huyệt hoạt động đúng theo chu kỳ tương sinh của Hà Đồ. Về phần huyệt thì Rubi nói nôm na vậy, và sẽ nói chi tiết hơn ngay sau đây. -Khí, Huyêt -Trong cơ chế của TNLC thì Khí truyền trong các Kinh Phủ và Huyết chảy theo sau, còn Huyết thì truyền trong các Kinh Tạng và Khí chạy theo sau. -Theo tư liệu cổ thì chức năng của ngày đường Kinh Chủ đạo là: Dấn Khí Huyết từ Kinh này sang Kinh khác, sau đó trút các Khí, Huyết đó vào các Kinh cha hoặc mẹ là Kinh Tâm Bào hay Tam Tiêu C-Sự vận hành của Khí Huyết và sự mở Huyệt của các đường Kinh trong Tý Ngọ Lưu Chú theo quy luật ngũ hành tương sinh -Sự vận hành Vĩ Mô Trên phương diện vĩ mô thì thứ tự 10 Ngày Chủ Đạo đã trình bày như trên. -Sự vận hành Vi Mô Sự vận hành vi mô là nói đến sự hoạt động của các Kinh và các Huyệt( tương ứng với Kinh đó) trong khoảng thời gian Ngày Chủ Đạo. Trong mỗi Ngày Chủ Đạo sẽ có 6 Kinh và 6 Huyệt tương ứng tham gia vận hành Khí Huyết. Ngày Đường Kinh Tạng Chủ Đạo thì có sự tham gia của 6 Kinh Tạng, Ngày Đường Kinh Phủ Chủ Đạo thì có sự tham gia của 6 Kinh Phủ. Theo thứ tự 6 kinh thì 5 kinh đầu hoạt động liên tiếp theo quy luật ngũ hành tương sinh và khí huyết được trút vào kinh thứ 6. Kinh thứ 6 sẽ là Kinh Tâm Bào nếu đó là các Ngày Đường Kinh Tạng Chủ Đạo, hoặc sẽ là Kinh Tam Tiêu nếu đó là các Ngày Đường Kinh Phủ Chủ Đạo. Trở lại xét đến yếu tố hoạt động của 5 kinh đầu trong 6 kinh có đặc điểm sau: -Kinh đầu tiên trong 5 kinh chính là kinh Chủ Đạo -Kinh thứ ba trong 5 kinh sẽ có sự tham gia của cả kinh Chủ Đạo, đây là sự Phản Bổn Hoàn Nguyên. Trong sự Phản Bổn Hoàn Nguyên của Ngày Đường Kinh Thận Chủ Đạo có mặt cả Kinh Tâm Bào. Trong sự Phản Bổn Hoàn Nguyên của Ngày Đường Kinh Bàng Quang Chủ Đạo có mặt cả Kinh Tam Tiêu. Hình 1: Hinh minh họa cấu trúc hoạt động vĩ mô và vi mô của Tý Ngọ Lưu Chú (hình tạm thời-chỉ có số) Ngày đường kinh Thận chủ đạo-từ giờ 120=00 đến hết giờ thứ 10 nạp vào cung số 1 Hà Đồ: -Huyệt Dũng Tuyền của Kinh Thận (01 Dương Thuỷ-Hà Đồ) được mở tại giờ 120 (00-Quý Hợi) của chu kỳ 120 giờ cổ -Hai giờ sau, giờ 02 (Ất Sửu), huyệt Hành Gian của Kinh Can (03 Dương Mộc-Hà Đồ) được mở. -Hai giờ sau, giờ 04 (Đinh Mão), huyệt Thần Môn của Kinh Tâm (07 Dương Hỏa-Hà Đồ) được mở, và xảy ra hiện tượng Phản Bổn Hoàn Nguyên tức là có sự huyệt nguyên Thái Khê của Kinh Chủ Đạo (Kinh Thận) cũng mở. Riêng ngày đường kinh Thận chủ đạo thì hiện tượng Phản Bổn Hoàn Nguyên lại phức tạp hơn, có mặt cả huyệt nguyên Đại Lăng của Kinh Tâm Bào cũng mở. Ở ngày đường kinh Bàng Quang chủ đạo, hiện tượng Phàn Bổn Hoàn Nguyên cũng phức tạp tương đương, chi tiết sẽ nói đến sau. -Hai giờ sau, giờ 06 (Kỷ Tị), huyệt Thương Khâu của Kinh Vị (05 Dương Thổ-Hà Đồ) được mở. -Hai giờ sau, giờ 08 (Tân Mùi), huyệt Xích Trạch của Kinh Phế (09 Dương Kim-Hà Đồ) được mở. -Cuối cùng, giờ thứ 10 (Quý Dậu), Huyết được trút vào huyệt Trung Xung của Kinh Tâm Bào. Tiếp theo, các ngày đường kinh chủ đạo khác cũng có quy luật ngũ hành tương sinh tương tự và tương ứng. Trên đây chỉ là một ví dụ cụ thể về quy luật ngũ hành tương sinh trong khuổn khổ vi mô.
  21. Hình Bát Quái Tiên Thiên Rubi Ngoài lề: Hồm rồi Rubi dạo mấy hiệu sách ở Tràng Tiền và các hiệu sách quanh Hà Nội, thấy có khoảng gần 10 đầu sách về Đông Y và Tượng Số có bìa được thiết kế với những hình ảnh do Rubi thiết kế và đăng trên các diễn đàn cũng như blog. Chắc các vị chuyên thiết kế bìa sách đã tìm những hình ảnh của Rubi qua mạng và đã sử dụng để cho vào bìa sách. Ví dụ như các hình Tiên Thiên Bát Quái ở trên, hình Trung Thiên Bát Quái nạp vào Hà Đồ, hình Tứ Tượng. Cụ thể là cuốn Lý Thuyết Tượng Số của Giám Đốc Bệnh Viện 19-8 Hoàng Tuấn đã lấy hình Tiên Thiên Bát Quái ở trên làm hình bìa do nhà sách Minh Lâm thiết kế. Vô tình thế nào, ngay hôm biết được chuyện này thì Rubi cũng dạo bộ qua nhà sách Minh Lâm gần đường Lê Duẩn. Trong sách ghi là NS MinhLam, Rubi xem cứ nghĩ là nghệ sỹ Minh Lam, nhưng khi vô tình nhìn thấy nhà sách Minh Lâm thì Rubi mới ngộ ra nội dung thông tin về tác giả thiết kế bìa sách. Hình Trung Thiên Bát Quái nạp vào Hà Đồ in trên sách Tử Bình Nhấp Môn của Nguyễn Ngọc Hải thì chữ ký điện tử trên tài liệu ảnh gốc cũng bị xóa đi để làm hình ảnh chủ đạo minh hoạ. Vấn đề như vậy có một yếu tố là nội dung của hình ảnh ngoài bìa và nội dung trong sách hoàn toàn chẳng ăn nhập gì với nhau mà người ta hay gọi là "râu ông nọ cắm cằm bà kia" :D
  22. Tiểu Đề-Tên của Bát Quái gọi theo tính chất Âm Dương Ngũ Hành: Dương Thiếu Âm Thủy là Quái Khảm Âm Thiếu Âm Thủy là Quái Tốn Dương Thiếu Dương Hỏa là Quái Ly Âm Thiếu Dương Hỏa là Quái Chấn Dương Thái Âm Mộc là Quái Khôn Âm Thái Âm Mộc là Quái Cấn Dương Thái Dương Kim là Quái Càn Âm Thái Dương Kim là Quái Đoài Phải thêm hai tên nữa thì mới đủ bộ của Âm Dương Ngũ Hành, đó là: Dương Thái Cực Thổ là Nghi Dương Âm Thái Cực Thổ là Nghi Âm :(
  23. Tiểu Đề-Dương Giáng Âm Thăng Thưa các học giả và các anh chị, tiểu đề này Rubi nói đến yếu tố Dương Giáng Âm Thăng. Hiện tại, Rubi thấy có hai sự Dương Giáng Âm Thăng trong Hà Đồ. Thứ nhất là sự Dương Giáng Âm Thăng trong Cực Âm và Cực Dương trong không gian Ngũ Hành Tương Sinh của Hà Đồ. Thứ hai là sự Dương Giáng Âm Thăng tác động giữa hai Cực Âm và Dương. Trước hết phải nói đến một yếu tố khái quát là: Lý luận về Âm Dương Ngũ Hành vẫn phải có, đồng thời lời nói không nói hết được ý nghĩa của Âm Dương Ngũ Hành nên phải đặt ra Tượng và Số để nói hết ý nghĩa cơ bản của Âm Dương Ngũ Hành. Hay nói một cách khác, Tượng và Số là những nguyên lý cốt tủy của Âm Dương Ngũ Hành vì vậy những quy luật và hiện tượng biểu hiện trong Tượng và Số thì đó đều là những nguyên lý cơ bản biểu hiện đặc tính của Âm Dương Ngũ Hành. Trở lại chủ đề Dương Giáng Âm Thăng, nội dung này sẽ dẫn đến kết quả xác định vị trí trên dưới phải trái trong không gian Ngũ Hành Tương Sinh của Hà Đồ. Hợp nhất Tượng và Số theo quy tắc Âm Dương Ngũ Hành tương ứng trong không gian Âm Dương Ngũ Hành tương sinh của Hà Đồ, và xác định các hệ cực trong không gian này. Có hai hệ cực trong không gian Âm Dương Ngũ Hành tương sinh, đó là: -Hệ phân cực thứ nhất là Kim và Thủy tạo thành một cực, đối lập có Mộc và Hỏa tạo thành một cực. Hệ phân cực này khác với hệ phân cực Âm Dương. -Hệ phân cực thứ hai là Cực Âm có Thủy và Mộc, Cực Dương có Hỏa và Kim. Đối với hệ phân cực thứ nhất, Kim sinh Thủy là nguyên lý Âm Thăng theo quỹ đạo Ngũ Hành tương sinh, đối tượng Âm là Hành Thuỷ, Hành Thủy đã Thăng được lên trên; Mộc sinh Hỏa là nguyên lý Dương Giáng theo quỹ đạo Ngũ Hành tương sinh, đối tượng Dương là Hành Hoả, Hành Hỏa đã Giáng được xuống dưới. Đối với hệ phân cực thứ hai là Cực Âm và Cực Dương của Ngũ Hành, ở Cực Âm thứ tự 6,1,8,3 hay Tốn, Khảm, Cấn, Khôn là chiều Dương Tiêu Âm Trưởng của Cực Âm cũng là chiều Âm Thăng theo quỹ đạo của Đại Chu Thiên trong nhân thể; ở Cực Dương thứ tự 9,4,7,2 hay Càn, Đoài, Ly, Chấn là quỹ đạo của Đại Chu Thiên trong nhân thể, chiều này ngược chiều với sự Âm Tiêu Dương Trưởng của chính Cực Dương và đó chính là hiện tượng Khí Dương đi xuống, giáng xuống. Trên đây là hai hiện tượng Dương Giáng Âm Thăng trong không gian Âm Dương Ngũ Hành tương sinh. Đối với hệ phân cực thứ nhất, biểu hiện sự Dương đã Giáng được và Âm đã Thăng được. Đối với hệ phân cực thứ hai, biểu hiện khí Dương giáng trong cực Dương và khí Âm thăng trong cực Âm. Từ hệ phân cực thứ nhất tức là Kim sinh Thủy đối với Mộc sinh Hoả, nguyên lý Dương Giáng Âm Thăng cũng là yếu tố xác định đối tượng Âm có vị trí ở trên, đối tượng Dương có vị trí ở dưới, cụ thể tức là Thủy ở trên ứng với phương Bắc, Hỏa ở dưới ứng với phương Nam. Tiểu đề này Rubi thiếu phần xác định phải trái cho Kim và Mộc.
  24. Rubi xin phát biểu một ý. Nếu nói về than xỉ, thì có lẽ Rubi cũng đã vô tình bị ảnh hưởng, có lẽ là ảnh hưởng tích cực. Không tiện kể ra đây, nhưng có thể góp ý kiến về sử dụng than hoạt tính để độn vào sàn phòng ngủ. Tức là trong xây dựng, có nhiều chỗ người ta muốn có một mặt trần không lộ dầm cho nên kiến trúc sư đã thiết kế theo kiểu đổ mái nhưng dầm nổi lên trên chứ không lộ ra ở dưới trần. Trần của tầng 1 tức là sàn của tầng 2, khi thiết kế theo kiểu dầm nổi lên trên mái thì người ta phải dùng vật liệu để lót sàn cao đến độ cao với dầm, tức là sàn tầng 2 phải lót vật liệu cao khoảng 25cm thì mới che được hết phần dầm nổi, sau đó mới lát gạch. Trong trường hợp như vậy, nếu dùng vật liệu lót sàn bằng than hoạt tính có lẽ sẽ tốt về mặt phong thuỷ. Nhưng trong thiết kế, rất ít khi người ta làm sàn dưới dầm, chỉ làm một số chỗ như phòng khách. Nếu làm toàn bộ các tầng sàn dưới dầm e rằng nhà sẽ bị yếu. Rubi có đôi lời thiển kiến, các chuyên gia có kinh nghiệm thực tế, biết thì góp ý thêm cho Rubi.
  25. TIỂU ĐỀ-LÝ GIẢI THỨ TỰ SỐ CỦA LẠC THƯ Thưa các học giả và các anh chi, Hà Đồ và Lạc Thư là hai đồ hình của Triết học ADNH. Nhưng cách tính thứ tự liên tiếp 1-2-3-4-5-6-7-8-9 hoặc ngược lại 9-8-7-6-5-4-3-2-1 của Lạc Thư, Rubi thấy cũng rất có lý đồng thời cũng thắc mắc thứ tự liên tiếp như vậy còn dựa trên nguyên lý nào ? Dưới đây là cách lý giải của Rubi về thứ tự liên tiếp của 9 số trong Lạc Thư. Xin cảm ơn đọc giả đã theo dõi tiểu đề này. Phần I-Nguyên lý liên quan Nội dung bài viết dó có liên quan đến hệ thống các nguyên lý chung, nên Rubi sẽ nêu ngắn gọn phần nguyên lý liên quan (trong phần này đã có sự chỉnh lý của Rubi). Nội dung nguyên lý: Hà Đồ, Bát Quái Tiên Thiên(Rubi), và 12 đường Kinh -Số 9, Quái Càn, Kinh Phế cùng có tính chất xác định là Dương Kim -Số 4, Quái Đoài, Kinh Đại Tràng cùng có tính chất xác định là Âm Kim -Số 7, Quái Ly, Kinh Tâm cùng có tính chất xác định là Dương Hoả -Số 2, Quái Chấn, Kinh Tiểu Tràng cùng có tính chất xác định là Âm Hoả -Số 6, Quái Tốn, Kinh Bàng Quang cùng có tính chất xác định là Âm Thuỷ -Số 1, Quái Khảm, Kinh Thận cùng có tính chất xác định là Dương Thuỷ -Số 8, Quái Cấn, Kinh Đởm cùng có tính chất xác định là Âm Mộc -Số 3, Quái Khôn, Kinh Can cùng có tính chất xác định là Dương Mộc Phần II-Chu kỳ số 8 trên vòng tròn Âm Dương Ngũ Hành tương sinh của Hà Đồ Khí huyết vận hành theo 12 đường Kinh của Nhân thể có chu kỳ như sau: =>Phế > Đại Tràng > Vị > Tỳ > Tâm > Tiểu Tràng > Bàng Quang => <=Phế < Can < Đởm < Tam Tiêu < Tâm Bào < Thận < Bàng Quang <= Loại bỏ 4 đường kinh thuộc hành thổ là Vị, Tỳ, Tâm Bào và Tam Tiêu thì chu kỳ của Tám đường kinh còn lại là =>Phế > Đại Tràng > Tâm > Tiểu Tràng => <= Can < Đởm < Thận < Bàng Quang <= Tương ứng theo tính chất ADNH, thứ tự tám quái của Bát quái Tiên thiên tạo thành chu kỳ như sau: Càn > Đoài > Ly > Chấn > Tốn > Khảm > Cấn > Khôn > Càn... Tương ứng theo tính chất ADNH, thứ tự tám số của Hà Đồ tạo thành chu kỳ như sau: 9 > 4 > 7 > 2 > 6 > 1 > 8 > 3 > 9... Như vậy thì có thể thấy, khi vị trí các đường kinh được sắp xếp thành hình tròn theo quy luật ADNH tương sinh trên Hà Đồ, thì chu kỳ khí huyết vận hành theo 8 (12) đường kinh tạo thành con đường số 8. Khí huyết từ Bàng quang và Thận vận hành đến Tâm Bào, Tam Tiêu rồi đến Đởm và Can, khi loại bỏ hai đường kinh Tâm Bào và Tam Tiêu thì tính chất tương tác gián tiếp ứng với quy luật Tương sinh, Thủy sinh Mộc. Tiếp theo, khí huyết từ Đởm và Can vận hành đến Phế và Đại Tràng ứng với quy luật Tương Vũ, Mộc vũ Kim. Tiếp theo, khí huyết từ Phế và Đại Tràng vận hành đến Vị, Tỳ rồi đến Tâm và Tiểu Tràng, khi loại bỏ hai kinh Vị và Tỳ thì tính chất tương tác gián tiếp cũng là quy luật Tương Vũ, Kim vũ Hoả. Tiếp theo, khí huyết từ Tâm và Tiểu Tràng vận hành đến Bàng Quang và Thận ứng với quy luật Tương Vũ, Hỏa vũ Thuỷ. Từ hiện tượng tự nhiên khí huyết vận hành theo quy luật tương sinh và tương vũ theo từng giai đoạn đã tạo nên con đường số 8 trong môi trường ADNH tương sinh của Hà Đồ. Con đường số 8 này tương ứng theo Bát Quái Tiên Thiên(Rubi) là thứ tự tám quái Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Và, con đường số 8 đó tương ứng theo Hà Đồ là thứ tự tám số 9,4,7,2,6,1,8,3. Một kết luận quan trọng cần nêu ra là: Có một con đường số 8 trong môi trường ADNH tương sinh của Hà Đồ. Vậy thì, trong môi trường ADNH tương khắc của Lạc Thư, có con đường số 8 nào không và con đường số 8 ấy phản ánh quy luật gì ? Phần III-Chu kỳ số 8 trên vòng tròn Âm Dương Ngũ Hành tương khắc của Lạc Thư Có thể nhận xét trước rằng trong môi trường ADNH tương khắc của Lạc Thư, có hai con đường số 8 kết hợp với nhau tạo thành thứ tự dãy số 1,2,3,4,5,6,7,8,9. Trong 9 số của Lạc Thư, chia ra hai nhóm và sắp xếp theo thứ tự từ nhỏ đến lớn như sau: Nhóm các số dương: 1-3-5-7-9 Nhóm các số âm: 2-4-6-8 Nhóm các số dương 1-3-5-7-9 chính là một con đường số 8 thứ nhất trong môi trường ADNH tương khắc của Lạc Thư. Và, nhóm các số âm 2-4-6-8 chính là một con đường số 8 thứ hai trong môi trường ADNH tương khắc của Lạc Thư. Nhóm các số dương, Rubi gọi là Lạc Thư Dương Cục; nhóm các số âm, Rubi gọi là Lạc Thư Âm Cục. Như vậy, thứ tự Dương Cục và Âm Cục của Lạc Thư tạo thành thứ tự 9 số trong môi trường ADNH tương khắc của Lạc Thư.