Rubi

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.161
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    3

Everything posted by Rubi

  1. Vị Phong đó hả Âu Dương Phong ham hố bí kíp, tìm mọi cách để ăn trộm bí kíp, chẳng nhìn nhận được đúng sai theo đạo quân tử, giang hồ trọng nghĩa khinh tài. Đến mức Phong còn phải nấu cơm cho Quách Tĩnh đề cầu học được Cửu Âm Chân Kinh. Hi vọng rằng cậu giao lưu nhiều hơn, sẽ còn nhiều người để cậu bình chọn họ là chủng tử của Tây Độc. Chiến cũng có nghĩa là Tâm Ngay Thẳng tác dụng, điều này chỉ có đối với Hành Gỉa Thiền Tông. Người ngu, dầu trọn đời Thân cận người có trí, Không biết được Chính pháp Như muỗng với vị canh. Người trí, dù một khắc, thân cận người có trí, Biết ngay chân diệu pháp, Như lưỡi với vị canh.
  2. Độc giả hãy tự đánh giá ai đó theo chính sự hiểu của độc giả về người đó, đừng đánh giá theo sự đánh giá của người khác về đối tượng. Nếu có hứng, Rubi sẽ đối thoại với anh Thiên Đồng trong một topic nào đó. PS: Ban sáng, Rubi định tham gia topic nhưng nhìn đồng hồ đã đến giờ làm việc, nếu ngồi năm, mười phút để viết thì muộn cho nên có lời như thế. Không có vấn đề tỉnh hay mê ở đó đâu ạ. Nói chung, muốn nhận định Rubi qua ngôn từ mà Rubi viết thi dễ không chính xác. Bởi vì Rubi đối thoại chứ không phải độc thoại, cho nên cần phải xem Rubi đối thoại với ai, lời người đó nói gì sau đó sẽ nhất thời nhân định văn nói của Rubi. Được như thế thì người tham gia cũng có ảnh hưởng tích cực tới chính họ.
  3. Rubi giơ tay phát biểu ạ! Đến giờ đi làm rồi, đi làm thôi
  4. Nick Rubi hot cho nên phải làm lạnh. Ai "đút lót" coi chừng
  5. Áp đâu mà áp, tôi nói có điểm tựa đường hoàng. Câu chưa thấy tới đó cho nên thấy đó là áp là đặt thì đó là do cậu. Phải khôn lên.Chúng sinh là bạn, thấy bạn dở mà mình lại ngu ngu nữa thì còn gì là bạn.
  6. Bạn có chỗ nào không hiểu, rubi sẽ vì bạn lý giải rõ ràng. Ngoài ra, ai đó nói mà người khác không thiểu thì mọi người đều biết cả.
  7. Linh tinh của tôi để ứng với cái linh tinh của bạn. He he, nhiều người mà trong đó có một số kẻ cũng bám theo các bài viết của Rubi để mần đại sự linh tinh.
  8. Thiện Trí Thức nói gọn là Trí Thức.Thức là ý thức, sự phân biệt, thuộc cấp Hạ. Trí là kết quả rèn luyện chuyển đổi ý thức, thuộc cấp Trung. Thiện là thiện tâm, sự phát tâm đem Trí thức ứng dụng làm lợi ích cho xã hội, thuộc cấp Thượng. Sự chuyển Thức thành Trí, chuyển Trí thành Thiện, người thể nghiệm và nội chứng thì tự nhiên trở thành Thiện Trí Thức, cũng gọi là Trí Thức. Nói đến chửi, người khen ta không đúng thì tức là họ đang chửi ta đó, ta khen ta không đúng thì tức là tự chửi . (Những cái này là cảnh giới cục bộ của thế giới mà ở đó chúng nó tự diệt lẫn nhau). Trở lại chủ đề : Thiện Trí Thức chẳng phải là Thiện Trí Thức cho nên là Thiện Trí Thức.
  9. Bà cụ dùng hành động tội lỗi ấy là Người chính dùng Tà pháp. Thẩm phán dùng pháp luật ấy là Người sử dụng Chính pháp. Chính pháp sẽ chuyển thành Tà pháp nếu Thẩm phán thuộc hạng Người tà. Nhưng Thẩm phán là Người chính cho nên hành động của vị này khiến tất cả pháp đều Chính. Người Tà dùng Chính Pháp thì Pháp ấy cũng biến thành Tà. Người Chính dùng Tà Pháp thì Pháp ấy cũng biến thành Chính. (Thượng Toạ-Thiền Sư Thích Thông Phương)
  10. Uí rời, các học giả lý số hay bị mắc bệnh sĩ diện mãn tính lắm. Sĩ một cái thì trở thành tâm tà ngay, tâm tà thì trở thành người tà ngay. Người tà dùng chính pháp thì pháp ấy cũng thành tà, Người tà mà dùng pháp tà thì khỏi nói. Không nên hạ thấp người khác một cách cục bộ. Phong Thuỷ và Minh đường Tụ thuỷ: Phong Thuỷ Hoả gọi tắt là Phong thuỷ, thuộc về Địa Lý. Địa lý thuộc hệ thống Thiên Địa Nhân. Thiên có ba vật báu là Nhật Nguyệt Tinh Địa có ba vật báu là Hoả Thuỷ Phong Nhân có ba vật báu là Thần Tinh Khí. Nhìn theo cách trên thì thấy được sự cục bộ của Phong Thuỷ ngay, dễ dàng định nghĩa định lý. Thấy được Địa lý Phong thuỷ cục bộ thì phải thấy được tổng quan Thiên Địa Nhân trước. Đại ý về phong thuỷ Rubi tự thấy như vậy, hôm qua định viết nhưng lại thôi, hôm này thấy độc giả bàn nên lại hứng viết lại. Minh đường Tụ thuỷ: Nơi sáng sủa bằng phẳng có thế chứa đựng được số lượng lớn thì đó là Minh đường Tụ thuỷ. Đại khái thế. Rubi dơ tay phát biếu, xin hết.
  11. Nick Nguoiduatin nghe quen ghê. Các sách dầy dầy, bìa cứng giờ thấy nổi trội trong các cửa hàng sách ở khắp Hà Nội. Nội dung coi như là, toàn liên quan đến thuyết Âm Dương. Cũng không có gì là lạ, nhưng có sự khá trùng hợp thế này: Trong vòng cả tháng 5 năm 2011 Rubi chụp ảnh được khoảng Mười Hai Ngàn (12.000) trang sách về Đạo Phật và Thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Do là Rubi vớ được một chiếc máy ảnh cấu hình cũng khá khá nên nảy ra ý tưởng vào Thư Viên Quốc Gia chụp ảnh sách. Trong thư viện có nhà sách Minh Lâm, có lẽ nhà sách này cũng khảo sát tình hình độc giả vào thư viện chuộng sách gì thì phát hành sách ấy. Sau đợt đó vài ba tháng, nửa năm, một năm trên thị trường thấy xuất hiện thêm rất nhiều các sách do nhà sách này Phát hành, nôi dung chính là thuyết Âm Dương Ngũ Hành (Đông y, Phong thuỷ, Tướng pháp vv) Một bình nước, một máy ảnh, chọn một ví trí gần cửa sổ để có ánh sáng tốt, rồi chụp và chụp. Ngoái ra cửa sổ là thấy Nhà sách Minh Lâm ở dưới tầng một đối diện (25 Hai Bà Trưng-1/2 cổng sau của Thư Viện Quốc Gia) PS: Một hôm, đang chụp ảnh trong Thư Viện bỗng Rubi nghe thấy tiếng chim kêu (giống như tiếng chim lợn), nhìn ra cử sổ thấy phía trên mái thư viện phần đối diện có một con chim đang đậu. Sau đó chiều về, Rubi không về ngay mà ra lầu Bát giác vườn hoa Lý Thái Tổ để xem biểu diễn đàn bầu. Xem xong thì về, về gần đến đầu đường giải phóng, đoạn Bách khoa, thấy mọi người xúm đông xem Người chết-tai nạn tầu hoả.
  12. Làm nô lệ của cái gì đó thì không cần biết ra sao, còn được làm nô lệ cho Phật giáo thì có Phúc đức nhớn. Sử dụng Tử vi không dễ đâu, nói được vài câu cũng chỉ là cưỡi ngựa xem hoa lại dễ bị tâm nhiễm tà. Cần phải làm "nô lệ" Phật giáo sau đó mới tham khảo tử vi thì an toàn hơn cho Tự và Tha. "Cái gì quá cũng không tốt" thì cũng tương đối đúng, chưa phải tuyệt đối. KHÔNG làm nô lệ cho cái gì cả lại bị rơi vào KHÔNG, thấy không ?
  13. Đối thoại với các học viên Pháp Luân Công hay đấy chứ. Tuy nhiên không dễ dàng đâu. Để chuyển được tình thế đối thoại thì cũng phải có đủ nhân duyên, chứ không phải từ trên trời rơi xuống, muốn phản bác là bác được ngay đâu. Khi tình thế đã chuyển được rồi thì độc giả có thể vui theo. Khi độc giả vui theo rồi thì cũng không cần xua đuổi các học viên Pháp Luân Công làm gì. Họ, các học viên PLC cũng là một phen phải trả giá đấy chứ. Túm lại, có thể khởi niệm từ bi được rồi. Trước là hiện trí tuệ, ẩn từ bi, sau là ẩn trí tuệ, hiện từ bi. Từ bi và Trí tuệ không hai. Trí tuệ để phá tà hiển chân, Từ bi cũng có phần phục hồi khí lực sau khi dùng kiếm Trí tuệ.
  14. Nếu không có đàn bà mê tín thì sẽ không sinh ra đàn ông tà kiến, nếu không có đàn ông tà kiến thì sẽ không ai đầu độc đàn bà rơi vô sự mê tín. Không mê tín, không tà kiến thì tức là có đức, có đức thì mặc sức mà ăn. Nhưng để không mê tín và tà kiến thì lại phải chính tín và chính kiến. Để có được chính kiến chính tín thì phải có được chính nhân của chính quả. Động đến chính quả thì phải xem đến chính nhân, cái nhân để thành Phật là gì, cái nhân để thành Người là gì, cái nhân để thành Qủi là gì. Người đứng đắn thì trọng Nhân hơn trọng Qủa. Có chính nhân làm gốc thì sẽ có chính kiến và chính tín. Chính kiến và chính tín nuôi lớn chính nhân trở thành chính quả. Lại nói: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc", phận sự của hành giả là xoay lại chính mình, đừng có tìm cầu bên ngoài. Bên ngoài thành tiên hay không, thành Phật hay không, mạt sát nhau hay không thì kệ bên ngoài, phận sự của hành giả chẳng có ở chỗ đó để ngóng để nghe để tham gia. Nhưng dẫu sao, muốn kiểm chứng được có ai tu hành đắc đạo hay không thì bản thân mình cũng phải có trình độ dấn thân tầm sư cầu đạo. Nghi lớn thì ngộ lớn, nghi nhỏ thì ngộ nhỏ. Bạn nghi có chút xíu thì ngộ chút xíu như thế, nếu nâng cao cái nghi ấy lên nữa thì sẽ thấy biết khá hơn đó. Người ta nghi: con người từ đâu đến, đến đây để làm gì, sau khi chết còn hay mất, nếu còn thì đi về đâu ? Nghi quá là triệt cho nên khi ngộ cũng là triệt ngộ, khi chứng cũng là triệt chứng. Độc giả có thể tiếp cận vấn đề ở một điểm chốt: Triệt Ngộ (gợi ý: Chỉ thẳng tâm người, thấy tính thành Phật). Cứ lo tu lo ngộ đi, dưới chân sẽ đạp khắp người trong thiên hạ. Trong sự bạn gọi là mạt sát thì cũng có người có tâm bồ tát ở trong đó, vấn đề là bạn có nhìn ra hay không thôi.
  15. Muốn thấm được thiền ngữ Cư Trần Lạc Đạo Phú này thì độc giả có thể phải tìm nghe tài liệu Pháp âm do Thiền Sư Thượng Thanh Hạ Từ giảng giải. Nếu có dịp thăm quan Thiền viện Trúc Lâm ở núi Phụng Hoàng-Lâm Đồng-Đà Lạt, độc giả có thể tìm tới Nhà Trưng Bày ở khu vực ngoại viện để thỉnh tài liệu Pháp âm. Từ khoảng năm 2000, sự Khôi phục tinh thần Thiền phái Trúc Lâm đời Nhà Trần bắt đầu được mở rộng, từ Đà Lạt tới Hà Nội, Yên Tử, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá; từ Việt Nam tới Mỹ, Pháp, Canada, Đức vv... Nếu không có sự mở rộng này thì Rubi có thể vẫn còn tu trong Thiền Viện Trúc Lâm-Đà Lạt. PS: Nhớ lại, Thầy Thích Thông Lưu hỏi Rubi: 'muốn ở lại Thiền Viện Trúc Lâm-Đà Lạt hay muốn ra Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử' ? Rubi trả lời Thầy, ý là: 'Sư Ông (Hoà Thượng Thích Thanh Từ) bảo đi thì Rubi đi, Sư Ông không bảo thì Rubi ở. Đến Yên Tử được khoảng tháng thứ 2, Rubi xin xả giới nhập thế, trở về gia đình. Trở về khoảng năm thứ 2 thì bắt đầu chỉnh lý thuyết Âm dương Ngũ hành. Sự diễn biến của vấn đề chỉnh lý thuyết Âm dương Ngũ hành có một lối đi rất triển vọng, chỉ riêng Rubi thấy được. Mọi sự diễn biến về tình hình chung quanh thuyết Âm Dương Ngũ Hành ở đất Hà Nội, Rubi vẫn bám sát, nói chung không có chướng ngại nào mà không có tác dụng của nó. Chướng ngại lớn lại xuất hiện tác dụng lớn, thật là ngộ. PS thì chỉ nên ngắn gọn thế.
  16. Chủ đề về anh Bờm này cháu thấy cũng hay. Tác giả có thể là một Nhà Nho dùng thuật Bút Kiếm. Bút là để truyền thế dài lâu, Kiếm là để vạch ra sự thật. Cũng là sự Ẩn thật Thị quyền, cái Thật ý bên trong được bảo bọc bởi hình thức Chữ nghĩa quyền biến. Người sáng ý sẽ thấu qua được sự chữ nghĩa quyền biến ấy để hiểu được ý thật của Bút Kiếm kia. Nói chung, Phú ông có tất cả những thứ thuộc Âm tính, còn anh Bờm thì có mỗi một thứ nhưng thuộc Dương tính. Ba bò chín trâu là có cả ruộng đất trong đó, Ao sâu cá mè là có cả ao hồ trong đó, Một bè gỗ lim là có nhà cao cửa rộng trong đó, Con chim đồi mồi kể như là có sự thưởng ngoạn trong đó, nhưng tất cả những thứ này đều thuộc về sự nặng của Đất. Đối lại, anh Bờm có mỗi cái quạt mo nhưng lại ứng với tài sản lớn vô cùng, là gió mát là trời trong là tự do là an lạc. Phú ông lại dùng những miếng mồi quá to để câu một con cá quá bé, sự đối lập này nói lên lối sống đầy dã tâm của ông ta. Những hành động tiếp theo của Phú ông lại làm lộ ra dã tâm ẩn trong hành động trước đó của Phú ông. Đến nắm xôi, đó là vẽ xong nội tâm dã ý của Phú ông, Bờm cười cũng đúng. Phân tích như vậy cũng được đấy, mọi người nhỉ.
  17. Nói đến Di Lặc Từ Thị Bồ Tát thì tức là nói đến cảnh giới Trời Đâu Xuất. Trong Kinh: "Bồ Tát Di Lặc Thượng Sinh" có nói đến sự Thượng Sinh và Hạ Sinh. Ai muốn Thượng Sinh (sinh lên) cõi trời Đâu Xuất của Bồ Tát Di Lặc thì phải thực hành đúng theo lời Đức Phật Thích Ca thuyết trong Kinh này. Đây là hình thức tu mà đi trong sinh tử, không cầu giải thoát sinh tử. Hạ Sinh, cũng trong Kinh này, nội dung có nói đến đời tương lai, Bồ Tát Di Lặc sẽ Hạ Sinh (sinh xuống) Trái đất (Ta bà thế giới, uế độ-đất bẩn) này. Bồ Tát sẽ Thiền Định, ngồi dưới gốc cây Long Thọ chứng đắc Phật Quả thành hiệu Đức Phật Di Lặc. Nhiều người xem Kinh, biết được vấn đề này nhưng thường hay mắc bệnh thọ ký thời Phật Di Lặc đã đến rồi, đang đến. Sự tự thọ ký này là bệnh của một số người trong giới tham học về Tôn giáo, Tâm linh. Và rất nhiều học viên Pháp Luân Công cũng mắc bệnh này. "Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực lòng là Di lặc": Sơ lược tiểu sử Đệ Nhất Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông VUA TRẦN NHÂN TÔNG, ĐỆ NHẤT TỔ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ (1258 – 1308) Vua tên là Khâm, đản sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu ngọ, niên hiệu Nguyên Phong thứ VIII (1258), con trưởng thượng hoàng Thánh Tông và hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Năm 16 tuổi, được lập làm Thái tử, vua có ý từ chối, xin nhường cho em nhưng không được vua cha chấp thuận. Vua bản tính thông minh, học rộng, đa tài, đọc hết các sách sử thế gian; về Phật học, cũng rất tinh tường, thường cùng các vị tôn đức trong thiền gia giảng cứu Thiền học; nhất là được sự giáo huấn của ngài Tuệ Trung Thượng sĩ, nên vua am hiểu Phật pháp đến chỗ uyên áo. Năm vua 21 tuổi, được thượng hoàng truyền ngôi và lấy hiệu là Thiệu Bảo Nguyên Niên (1279). Tuy ở ngôi chí tôn, vua vẫn giữ mình thanh tịnh, ban ngày làm việc triều chính, đêm về nghỉ ở chùa Tư Phúc trong nội thành. Vua trị vì mười lăm năm (1279 – 1293). Quốc sử ghi: "Vua giáng sinh có được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung (tức hai bà phi) đều cho là lạ, gọi là "Kim Tiên đồng tử" (sách Tam Tổ Thực Lục gọi là "Kim Phật"); ở vai bên trái có một nốt ruồi đen, cho nên cố thể cáng đáng được việc lớn. Vua lên ngôi năm 21 tuổi, trị vì 14 năm, đến niên hiệu Trùng Hưng thứ IX (năm Quí Tị) thì nhường ngôi cho con là Anh Tông. Cách mấy năm sau vua xuất gia ở hành cung Vũ Lâm, rồi sau ra tu ở núi Yên Tử và băng ở am Ngọa Vân. Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng làm vẻ vang đời trước. thực là vị vua hiền của nhà Trần…" Đại Việt Sử Ký Toàn Thư – Niên hiệu Trùng Hưng thứ IX (1293), vua truyền ngôi cho con là thái tử Thuyên (tức vua Trần Anh Tông), rồi về Thiên Trường làm thái thượng hoàng 6 năm, để dạy con cách quản trị việc nước. Niên hiệu Hưng Long thứ III (1295) vua dời đến ở hành cung Vũ Lâm, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình. Đây là năm đầu tiên khởi sự "thực tập xuất gia", vua có làm bài tgơ Vũ Lâm Thu Vãn: "Hoa kiều đảo ảnh trám khê hành Nhất mạt tà dương thủy ngoại minh. Tịch tịch thiên sơn, hồng diệp lạc, Thấp vân hòa lộ tống chung thanh" CUỐI THU Ở HÀNH CUNG VŨ LÂM Con khe dìn ngược bóng cầu Hắt lên một vết sáng màu tà dương. Núi non lặng trút là hường, Móc dầm mây ướt đưa đường tiếng chuông. Bản dịch Giản Chi- Vua chỉ ở hành cung Vũ Lâm trong thời gian ngắn, rồi trở lại quê hương ở Thiên Trường (Nam Định), mở Vô Lượng Pháp Hội tại chùa Phổ Minh "bố thí tiền của, vải vóc, vật thực và trợ cấp cho những nơi mất mùa nghèo đói…" Niên hiệu Hưng Long thứ VII (1299(, vua cho dựng thảo am ở ngọn Tử Tiêu, núi Yên Tử, lấy pháp danh là Hương Vân Đại Đầu Đà, hiệu là Đại Hương Hải Ấn Thiền Sư. Vua là người sáng lập pháo thiền Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, hoàn toàn mang trái tim, khối óc và hơi thở Việt nam, và cho lập chùa Long Động (ở bên nuí) để độ tăng và giảng dạy Chính Pháp. Số học chúng tới xin thụ giáo đông có hàng ngàn.[131] Cũng trong năm 1299, vua Anh Tông sắc cho ấn hành cuốn "Phật Giáo Pháp Sự Đạo Tràng Công Văn Nghi Thức" để phổ biến trong toàn quốc, ghi dấu ngày thượng hoàng Nhân Tông xuất gia. Niên hiệu Hưng Long thứ XII (1304), vua lấy đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà Điều Ngự Giác Hoàng, rồi cùng với đệ tử là tôn giả Pháp Loa và mười đồ đệ đi khắp nẻo thôn quê giảng pháp, khuyên dân bỏ mê tín, hủy dâm từ, thực hành giáo lý Thập Thiện,[132] với mục đích xây dựng một xã hội đạo đức "nhân gian tịnh độ". Sau đó Giác Hoàng trở về chùa Sùng nghiêm, ở Linh Sơn, mở khoá dạy thiền: Mở đầu Pháp hội, ngài nói: Đức Thích Ca Văn Phật, vì một đại sự nhânn duyên, thị hiện xuống cõi đời, ròng rã ngót nửa thế kỷ "hoằng pháp độ sinh", nhưng Phật vẫn tự nhận là "chưa hề nói một chữ…" Nay ta lên ngôi tòa này, chẳng biết phải nói gì với các ngươi? Một vị tăng đứng dậy, chắp tay bạch: - Thế nào là Phật? Ngài đáp: - Chấp theo lối cũ là không đúng. Lại nói tiếp: - Thế nào là Pháp? Ngài đáp: - Chấp theo lối cũ là không đúng. Hỏi tiếp: - Thế nào là tăng? Ngài đáp: - Chấp theo lối cũ là không đúng. Lại hỏi: - Cứu cánh sẽ ra sao? Ngài đáp: - Tám chữ [133] Cuối năm 1304, vua Anh Tông cung thỉnh Giác Hoàng về kinh đô Thăng Long xin thụ Bồ Tát Giới Tại Gia. Năm 1306, Giác Hoàng vào tu trong am Ngọc Vân, lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ. Niên hiệu Hưng Long thứ XVI (1308), ngày 1 tháng giêng năm Mậu Thân, Giác Hoàng chính thức ủy cử tôn giả PHÁP LOA, đảm nhận chức trụ trì chùa báo Ân, ở Siêu Loại (Bắc Ninh).[134] Tháng 4 Giác Hoàng đích thân tới chùa Vĩnh nghiêm ở Lạng Giang (Bắc Giang) chủ trì và giảng Truyền Đăng Lục và bảo quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho chư tăng kiết hạ tại đây. Sau ngày làm lễ "tự tứ", kết thúc ba tháng hạ, Giác Hoàng trở lại núi Yên Tử, và cho hết những tịnh nhân xuống núi, chỉ giữ lại mười vị thị giả theo ngài lên ở trên am Tử Tiêu và giảng riêng Truyền Đăng Lục cho tôn giả Pháp Loa. Giác Hoàng dạo khắp các hang động, lúc quá mệt, vào nghỉ ở Thạch Thất. Bảo Sát bạch: - "Tôn Đức xuân thu đã cao, mà xông pha mưa nắng lỡ khi nóng, lạnh bất thường thi mệnh mạch Phật pháp biết nương tựa vào đâu?" Giác Hoàng bảo: - "Thời tiết đã đến, ta chỉ còn đợi ngày viên tịch nữa thôi". Ngày 5 tháng 10, bỗng có gia đồng của chị là công chúa Thiên Thụy lên tâu rằng: - "Công chúa bị đau nặng, chỉ mong được diện kiến Tôn Đức trước khi nhắm mắt". Giác Hoàng bùi ngùi than: - "Thời tiết mà thôi vậy!" rồi xuống núi cùng với một thị giả đi hầu. Ngày mồng mười thì tới kinh, thăm chị xong, ngày rằm lên đường về núi, đêm nghỉ ở chùa Siêu Loại. Sáng dậy đi bộ ghé ngang qua chùa làng Cổ Châu, và đề bài thơ: "Thế số nhất tức mặc, thời tình lưỡng hải ngân. Ma cung hồn quản thậm, Phật quốc bất thăng xuân". Dịch: Kiếp người một hơi thở! Tình đời đôi mắt buồn… Cung ma nhiều rối rắm Cõi phật vui nào hơn. Ngày 17, nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm, núi Linh Sơn, hoàng thái hậu Tuyên Từ thỉnh về am Bình Dương phó trai. Giác Hoàng vui vẻ nói: "Đây là buổi cúng dường cuối cùng"! Ngày 18 lại lên đường, tới chùa Tú Lâm, ở ngọn An Sinh, Giác Hoàng bị nhức đầu, bảo hai vị tỳ khưu Tử Doanh và Hoàn Trung rằng: "Ta muốn lên đỉnh Ngọa Vân mà chân yếu quá, không thể lên nổi, phải làm sao?" -Hai vị tỳ khưu bạch: "Hai chúng con xin đỡ ngài đi". Vừa đến am Ngọa Vân, Giác Hoàng cãm ơn hai vị và nói: "quí vị xuống núi tu hành đi, chớ coi thường sinh tử". Ngày 19, Giác Hoàng bảo thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu, núi Yên Tử, gọi Bảo Sát đên gấp. Ngày 20, Bảo Sát đeo tay nải ra đi, đến Doanh Tuyền bỗng thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua núi Lỗi thì dừng lại. Bỗng nhiên nước dâng lai láng, cao đến vài trượng, khi nước rút xuống, thấy hiện hai con rồng, đầu như đầu ngựa, ngóa cao hơn một trượng, hai mắt sáng như sao, chỉ trong khoảnh khắc, rồi biến mất. Chiều tối, Bảo Sát phải nghỉ lại ở sườn núi, đêm chiêm bao thấy hiện những điềm bất thường. Ngày 21, Bảo Sát đến am Ngọa Vân. Giác Hoàng trông thấy cười và nói: "Ngươi sao đến chậm thế? Ta sắp đi đây. Trong Phật Pháp có điều nào còn ngờ thì hãy nói gấp đi". Bảo Sát thưa: "Khi đại sư Mã Tổ bệnh, vị viện chủ hỏi: Những ngày gần đây Tôn Đức thế nào?" Mã Tổ bảo: "Ngày thấy Phật, đêm thấy Phật. Vậy ý ấy thế nào?" Giác Hoàng lớn tiếng: "Ngu đế và Tam hoàng là vật gì?" Bảo Sát nói: "Hoa nở sum suê màu rực rỡ, tre phương nam với gỗ phương bắc phải hiểu thế nào?" Giác Hoàng nói: "Ngươi là kẻ ngu". Bảo Sát liền thôi. Suốt mấy hôm trời đất mù mịt tối tăm, gió bảo nổi lên, mưa tuyết làm ướt đẫm cây cỏ; vượn, khỉ liệng quanh am gào khóc thê thảm, chim núi cùng hót giọng buồn rầu… Ngày 1 tháng 11, vào lúc nửa đêm, tự nhiên trời quang mây tạnh, sao sáng đầy trời. Giác Hoàng gọi Bảo Sát: "-Bây giờ là giờ gì?" Bảo Sát thưa: "Giờ tý". Giác Hoàng đưa tay vén màn nhìn ra ngoài và nói: "Đã đến giờ ta đi đây". Bảo Sát hỏi: "Tôn Đức đi đâu bây giờ?" Giác Hoàng nói bài kệ: "Nhất thiết pháp bất sinh, Nhất thiết pháp bất diệt. Nhược năng như thị giải, Chư Phật thường hiện tiền Hà khứ lai chi hữu dã". (Các pháp vốn không sinh Các pháp vốn không diệt Nếu hiểu rõ như thế Chư Phật thường hiện tiền… Chẳng đi đâu mà cũng chẳng lại đâu cả). Bảo Sát hỏi thêm: "Còn khi bất sinh bất diệt thì sao?" Giác Hoàng bỗng nhiên xoè bàn tay và nói:"Đừng có ngủ mơ". Nói xong ngài nằm trên tòa sư tử mà hóa, trụ thế 51 năm[135] Tôn giả Pháp Loa rước ngọc thể lên hỏa đàn. Tương truyền: "Khi đó có hương thơm tỏa ra và thấy những tiếng nhạc ở trên trời, mây ngũ sắc tụ lại thành hình cái tàn để che nơi hỏa thiêu Thượng hoàng Nhân Tông. Tôn giả Pháp Loa thu nhặt ngọc cốt: ngoài xương (ngọc cốt) còn thấy những xá lợi ngũ sắc. Sách Tam Tổ Thực Lục ghi là sau khi hỏa thiêu có thu nhập được 3.000 xá lợi. Nhưng sách Tam Tổ Hành Trạng ghi là có 1.000 xá lợi. Sau lúc đó thì vua Trần Anh Tông và đình thần đến núi Yên Tử để chịu tang. Theo sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược HT Mật Thể ghi: vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về an thổ ở Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, lấy tên là "Huệ Quang Kim Tháp" và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật". trong sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép: tên thụy hiệu của Thượng hoàng Nhân Tông là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hoá Dân Long Từ Hiển Huệ Thánh Văn Thần Vũ nguyên Minh Huệ Hiếu Hoàng Đế". Louis BEZACIER trong bài "Le Stupa du Phổ Minh Tự" nghiên cứu những tài liệu Tam Tổ Thực Lục, Tam Tổ hành Trang, Trúc lâm Tông Chỉ, Nam ông Mộng Lục và Tan Tổ Hành Trạng thì lễ táng của Trần Nhân Tông được tổ chức tại Hà Nội. Nhưng theo sách Nam ông Mộng Lục thì lễ hỏa táng ngọc thể của Trần Nhân Tông được tổ chức ở gần am Ngọa Vân. "Trong lễ tang có hoàng tử Oanh (cũng gọi là Mạnh), lên 9 tuổi, đứng ở gần vua Anh Tông. Sách Nam Ông Mộng Lục chép là xá lợi của Thượng hoàng Nhân Tông đã bay đến ẩn trong áo của một hoàng tử con vua Trần Anh Tông và chiếu sáng lên. Vua Anh Tông quỳ lạy xin tuân lệnh, sau khi đó thì ánh sáng của xá lợi biến đi. Vua Anh Tông đã chọn vị hoàng tử đó làm đông cung thái tử. Sách Tam Tổ Thực Lục cũng kể sự việc này và có ghi là vua Trần Anh Tông đã khóc và không còn nghi ngờ các xá lợi. Vua Anh Tông truyền để ngọc cốt trong bảo tháp xây trên lăng của Thượng hoàng Nhân Tông và những xá lợi chia làm hai phần đựng trong bình đựng di cốt. Sau lễ tang, ngọc cốt được đem chôn ở Đức Lăng, một phần xá lợi đặt ở tháp trong lăng (nhưng đặt ở kim tháp trong chùa Vân Yên trên núi Yên Tử). "Các tài liệu trên đều không ghi ngày tháng cử hành lễ tang, Thượng hoàng Nhân Tông, nhưng trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, tập VI, có ghi tháng 9 âm lịch, mùa thu năm 1310, an táng linh cửu Nhân Tông ở Đức Lăng, phủ Long Hưng, tỉnh Hưng Yên ngày nay. "Như vậy theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì Thượng Hoàng Nhân Tông mất ở chùa núi Yên Tử vào tháng mười một âm lịch năm Mậu Thân (1308) và mãi tới tháng chín âm lịch năm Canh Tuất (1310) mới làm lễ an táng linh cữu ở Đức Lăng, nghĩa là linh cữu của Thượng hoàng Nhân Tông được an táng. "Trong sách Tam Tổ Thực Lục chỉ ghi có hai nơi chôn ngọc cốt và xá lợi Thượng hoàng Nhân Tông là tháp Đức Lăng và tháp ở chùa Vân Yên, mà không nói phần xá lợi thứ hai được để ở đâu. Theo L. BEZACIER thì phần xá lợi này phải để ở tháp[136] xây ở trước chùa Phổ Minh, làng Tức Mặc, tỉnh Nam Định"[137] Theo Việt Sử Tiêu Án: "Khi rước di hài vua Nhân Tông về táng ở Đức Lăng, lúc tử cung (quan tài của vua gọi là tử cung) sắp đưa ra, người xem đông chật cả cung, phải dùng đến lính ngự lâm để mởi lối đi cũng không được. Vua (Anh Tông) sai Trịnh Trọng Tử dẹp mở đường. Trọng Tử đến sân rồng gọi đạo quân Long Dực hát khúc long ngâm, dân chúng kéo đến đó xem; cung điện mới rộng chỗ đi được, lại lấy những câu hát ở dọc đường, phổ vào khúc hát, làm cho có tiếng hát liền mãi, không cần phải truyền bảo gì, mà khi đi lên, đi xuống, quanh chuyển, không có lo nghiêng lệch nữa. người đời bấy giờ khen là có xảo tứ. "Xá lợi của vua Nhân Tông chia làm hai phần: một đưa về táng ở Đức lăng, một để ở tháp Yên Tử. Có thầy Tăng chùa siêu Loại là Trí Không đốt tay cháy từ bàn tay đến cánh tay, cứ ngồi nghiễm nhiên, không đổi sắc mặt. Vua Anh Tông hỏi, trả lời rằng: "Thần đốt đèn đó". Lửa tắt, thầy về tăng viện ngủ kỹ, đến khi thức dậy chỗ phỏng lên đều khỏi cả. Đến lúc xá lợi vua Nhân Tông đưa để ở bảo tháp, thầy liền lên núi hầu hạ" (Sđd trang 225, 226). Những tác phẩm do Giác Hoàng sáng tác gồm có: Chữ Hán: Tăng Già Toái Sự. Thạch Thất Mị Ngữ. Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục. Trúc Lâm Hậu Lục. Đại Hương Hải Ấn thi Tập. Chữ Nôm: Cự Trần Lạc Đào Phú[138] và Đắc Thú Lâm Tuyền Thánh Đạo Ca. Ngoài ra, ngài còn là tác giả bài Thượng sỉ Hành Trạng (viết về cuộc đời của Tuệ Trung Thượng sĩ) in ở sáchTuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục. Dưới đây, chúng tôi xin trích dẫn ít bài thơ của ngài làm điển hình: Thiên Trường Vãn Vọng Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên, Bán vô, bán hữu tịch dương biên. Mục đồng địch lý qui ngưu tận, Bạch lộ song song phi hạ điền. Cảnh Chiều Ở Thiên Trường Mờ mờ thôn trước, thôn sau, Như không, như có trong bầu tịch dương, Trâu theo sáo mục về chuồng, Ruộng bên, từng cặp trắng buông cánh cò… Bản dịch Giản Chi. Lạng Châu Vãn cảnh Cổ tự thê lương thu ái ngoại Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ. Nguyệt minh sơn tĩnh bạch điểu quá, Phong định vân nhàn hồng thụ sơ. Cảnh Chiều Châu Lạng Lạnh lẽo chùa quê bóng mịt mờ Thuyền ngư lẽo đẽo, tiếng chuông đưa. Nước quanh, non tĩnh, con cò liệng, Gió tạnh, mây in, lá đỏ thưa. Ngô Tất Tố dịch XUÂN HIỂU Thụy khởi khải song phi Bất tri xuân dĩ qui Nhất song bạch hồ điệp Phách phách sấn hoa phi. BUỔI SỚM MÙA XUÂN Thức dậy nhìn ra cửa A, xuân đã đến kìa! Có đôi bươm bướm trắng Đậu cành hoa phất phơ… Tạm dịch XUÂN VÃN Niên thiếu hà tằng liễu sắc không, Nhất xuân tâm tại bách hoa trung. Như kim kham phá đông hoàng diện, Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng. XUÂN MUỘN Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không, Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng. Chúa xuân nay đã thành quen mặt, Nệm cỏ ngồi yên, ngó rụng hồng. Ngô Tất Tố (TVLT tập II, q. th, trang 464) NGUYỆT Bán song đăng ảnh mãn sàng thư, Lộ trích thu đình dạ khí hư. Thụy khởi hâm thanh vô mịch xứ, Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ. TRĂNG Đèn song chếch bóng, sách đầy giường, Đêm vắng sân thu lác đác sương. Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết, Trên cành hoa quế nguyệt lồng gương Đào Phương Bình (TVLT, t.2, q. thg) ĐẠI LÃM THẦN QUANG TỰ Thần quang tự liểu hứng thiên u, Sanh thỏ phi ô thiên thượng du Thập nhị lâu đài khai họa trục, Tam thiên thế giới nhập thi mâu. Tục đa biến thái vân thương cẩu, Tùng bất tri niên tăng bạch đầu. Trừ khước trụ hương tham Phật sự, Tá dư niệm liễu tổng hưu hưu. CHÙA THẦN QUANG TRÊN NÚI ĐẠI LÃM Chùa vắng Thần Quang, hầu nhã hứng, Chơi mây, thỏ ngọc, quạ vàng đưa. Lâu đài chín cõi bày tranh vẽ, Thế giới ba ngàn lọt mắt thơ. Biển hóa thành dâu buồn thói tục, Tùng không biết tuổi bạc đầu sư. Ngoài câu cúng Phật, tuần nhang thắp, Lo nghĩ bao điều, mấy cũng ngơ! Khương Hữu Dụng (TVLT t.2 q thg. Tr 481) ĐỀ PHỔ MINH TỰ THỦY TẠ Huân tận thiên đầu mãn tọa hương Thủy lưu sơ khởi bất đa lương Lão dung ảnh lý tăng quan bế Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường. ĐỀ NHÀ THỦY TẠ CHÙA PHỔ MINH Nghìn hương thắp hết ngát đầy nhà Làn nước hiu hiu gió lạnh qua Dưới bóng đa già chùa vắng vẻ Tiếng ve khơi động tứ thu xa. Theo ngô Tất Tố (VHĐT) ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN Địa tích đài du cổ, Thời lai xuân vị thâm. Vân sơn tương viễn cận, Hoa kính bán tình âm Vạn sự thủy lưu thủy, Bách niên tâm ngự (ngữ) tâm. Yû lan hoành ngọc địch, Minh nguyệt mãn hung khâm. LÊN NÚI BẢO ĐÀI Nghĩa là: Đất hẻo lánh làm cho đài tăng vẻ cổ kính Tuy xuân đến nhưng màu chưa muộn Mây phủ kín núi đồi, ngọn như gần, ngọn như xa. Đường đầy những hoa chỗ hừng chỗ râm Muôn việc ở đời có khác gì dòng nước chảy trôi. Cuộc trăm năm riêng lòng nhủ với lòng Tựa lan can, cầm ngang ống sáo thổi Trăng sáng tràn đầy cả ngực, bụng. LÊN NÚI BẢO ĐÀI Cảnh vắng, đài thêm cổ, Xuân sang, màu chửa già. Gần, xa, mây tiếp núi; Nắng, rợp, bóng xen hoa. Muôn việc: nước cuốn nước, Trăm năm: ta nhủ ta. Tựa lan, nâng sáo ngọc, Tâm sự ánh trăng ngà… Bản dịch Giản Chi Hai câu PHÁ, THỪA tả cảnh cô tịch của ngôi tháp đứng chơ vơ trên ngọn núi, nơi xưa nay ít có ai tới được; có lẽ tác giả là người duy nhất đã lên chơi núi Bảo Đài, nhìn ra chung quanh cảnh vật (lúc ấy) mùa xuân bắt đầu chuyển hiện, tuy chưa rực rỡ lắm, nhưng cũng gợi cho khách du quan cảm thức được vẻ đẹp huyền bí của thiên nhiên. Hai câu THỰC ghi hiện trạng cảnh núi đồi trùng điệp với những bóng mây ngũ sắc bay là là trên không, xen kẽ trong các hang hốc bên sườn núi có những bông hoa nở lúc đậm lúc lợt; thỉnh thoảng nghe điểm những tiếng chim kêu, vượn hót, hổ gầm đến rợn người… Đứng trên đài cao, ngắm bầu trời mặt đất mênh mông, huyền ảo đủ để tác giả lý hội trọn vẹn lẽ Sắc, Không mầu nhiệm – "cuộc đời là như thế đó" –để rồi dẫn đến hai câu LUẬN: "Vạn sự thủy lưu thủy, Bách niên tâm ngự tâm". Cảnh vật là vô thường biến đổi. Tất cả hiện tượng chỉ như dòng nước chảy trôi không bao giờ dừng nghỉ – Họa chăng còn rớt lại trên vết thời gian một chút dư âm "trăm năm: lòng nhủ lòng". Nói theo thi hào Nguyễn Du: "…Của TIN gọi một chút này làm ghi". Hai câu KẾT: Tác giả đứng cô đơn bên bức lan can, lấy ống sáo ra thổi để cho quên hết mọi suy tư…Nhưng kìa! Trăng đã mọc tự lúc nào? Rồi (bỗng nhiên) vầng trăng sáng ùa vào lồng ngực khiến khắp người cảm thấy thanh thoát nhẹ nhàng như hòa mình (tiểu ngã) vào với đại – ngã – thể – rộng – lớn – của – vũ – trụ – vô – biên. Vầng trăng là biểu tượng của CHÂN TÂM tồn tại trên sự sinh thành, hủy diệt của vạn pháp… Phải nói đây là bài thơ lẫm liệt có sức cuốn hút lạ lùng nên mỗi chữ, mỗi câu là những viên ngọc tỏa ánh sáng lung linh… Có lần, Lý bạch (thời Thịnh Đường 715 –766) đến chơi lầu Hoàng Hạc, nhìn lên thấy bài thơ của Thôi Hiệu đề ở vách tường, không phải nhà thơ kém tài… nhưng bao nhiêu ý sâu, lời đẹp Thôi Hiệu đã nói cả rồi (!) đành cắn bút thở dài, ngượng ngùng viết hai câu: "Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc, Thôi Hiệu đề thi tại thượng đài". (Có cảnh đẹp trước mắt mà không sao nói đựợc, vì trên lầu Thôi Hiệu đã có đề thơ quá hay). Nguyên tác bài HOÀNG HẠC LÂU: "Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ? Thử địa không dư hoàng hạc lâu! Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản; Bạch vân thiên tải không du du. Tình xuyên lịch lịch Hán dương thụ; Hoang thảo thê thê Anh Vũ châu. Nhật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu". GÁC HOÀNG HẠC: Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng hạc riêng lầu còn trơ! Hạc vàng đi mất từ xưa, Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay. Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non. Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai! Tản Đà dịch. LẦU HOÀNG HẠC: Người cưỡi hạc vàng xưa vắng bóng Riêng lầu Hoàng Hạc cảnh chơ vơ Hạc vàng, một thoáng đi biền biệt Mây trắng bao đời vẫn nhởn nhơ. Bén tạnh Hán Dương cây bát ngát Bãi hoang Anh Vũ cỏ lưa thưa Chiều tà, gợi nhớ đâu quê quán? Khói sóng trên sông khách ngẩn ngơ! Nếu đem bài Hoàng Hạc Lâu so với bài "Đăng Bảo Đài Sơn" ta thấy mỗi bài có những vẻ đẹp dị thường… CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ (1) (Thập hồi dụng diễn ca quốc ngữ phú)[139] Đệ Nhất Hội Mình ngồi thành thị, Nết dụng[140] sơn lâm. Muôn nghiệp lắng,[141] an nhàn thể tính[142]; Nửa ngày rỗi, tự tại thân tâm.[143] Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí; Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm. Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý; Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm[144] Nguyệt bạc vầng xanh, soi mọi chỗ thiền hà[145] lai láng; Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm[146] Lừa hoán cốt[147], ước phi thăng, đan thần mới phục[148]; Nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc quí còn đam[149]. Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu ngọc; Kinh nhàn đọc sách, trọng lòng rồi trọng nớ[150] hoàng kim. Đệ Nhị Hội Biết vậy: Miễn được lòng rồi, Chẳng còn phép khác. Gìn tính sáng, tính mới hầu an; Nén niềm vọng; niềm đành chẳng thác [151]. Dứt trừ nhân ngã [152], thì ra tướng thực kim cương[153]; Dừng hết tham sân[154], mới láu lòng mầu viên giáo[155]. Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương[156]; Di Đà là tính sáng soi, mựa[157] phải nhọc tìm về Cực Lạc. Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe; Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán giác[158]. Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiếm thửa đắng cay; Vận giẻ vận sui[159], thân căn có ngại chi đen bạc. Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quí nớ[160] thiên cung; Dầu hay mến thửa nghĩa nhân, ba phiến ngói yêu hơn lầu các. Đệ Tam Hội Nếu mà cốc[161] Tội ắt đã không, phép học lại thông. Gìn tính sáng mựa[162] lạc tà đạo; Sửa mình học cho phải chính tông. Chỉn Bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ[163] Vong tài đối sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng Công[164]. Áng tư tài[165]tính sáng chẳng tham, há vì ở canh diều Yên Tử; Răn thanh sắc niềm đành chẳng chuyển, lo chi ngồi am Sạn[166] non Đông. Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu[167] hết sức; Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả[168] uổng công; Nguyện mong thân cận minh sự, quả bồ đề[169] một đêm mà chín; Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa ưu đàm[170] mấy kiếp đơm bông. Đệ Tứ Hội Tin xem: Miền cốc[171] một lòng, Thời rồi mọi hoặc. Chuyển tam độc[172] mới chứng tam thân[173]; Đoạn lục căn[174] nên trừ lục tặc[175] Tìm đường hoán cốt, chỉn xá hay phục được luyện đan; Hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc[176] Biết Chân như[177] tin Bát nhã[178] chớ còn tìm Phật tổ tây đông; Chứng thực tướng[179] ngộ vô vi[180], nào nhọc hỏi kinh thiền nam bắc. Xem Tam tạng[181], giáo, ắt học đòi thiền uyển thanh qui[182]; Đốt ngũ phần hương, chẳng tốn đến chiên đàn chiên bặc[183]. Tích nhân nghĩa, tụ đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca;[184] Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực lòng là Di lặc[185]. Đệ Ngũ Hội Vậy mới hay: Bụt ở cung nhà[186], chẳng phải tìm xa. Nhân khuy bản[187] nên ta tìm Bụt; Đến cốc hay chỉn Bụt là ta. Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng[188] trong quê Hà Hữu[189]. Kinh xem ba bận, ngồi nghe với quốc Tân La[190] Trong đạo nghĩa, khoáng cơ quan [191] đà đột lần trường kinh cửa Tổ; Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa. Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyện cho thân cận; Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đà xa[192]. Áo miễn[193] chăn đầm ấm qua mùa, hoặc kim hoặc chỉ; Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dù bạc dù thoa[194]. Ngăn bát thức[195], nén bát phong[196] càng đè càng bội[197]; Rẽ tam huyền[198], nong tam yếu[199], một cắt một ma[200]. Cầm vốn thiếu huyền, sá đàn dấu xoang vô sinh khúc[201]; Địch nguyên chẳng lỗ, cũng phím chơi xướng thái bình ca[202]. Rẽ cỗi tìm cành, còn khá tiếc. Câu Chi trưởng lão[203]; Khuấy đầu chớp bóng, ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa[204]. Lột quyển kim cương, há mặt hầu thông nên nóng[205]; Nuốt bồng lật cức, nào tay phải xước tượng da[206]. Đệ Lục Hội Thực thay: Hễ xá vô tâm, Tự nhiên hợp đạo. Dừng tam nghiệp[207] mới sáng thân tâm; Đạt một lòng thời thông tổ giáo, Nhận văn giải nghĩa, lạc loài nên thiền khách bơ vơ; Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo[208] Han hữu lậu, han vô lậu, bảo cho hay: the lọt, thược sàng[209]; Hỏi đại thừa, hỏi tiểu thừa, thưa thảng tắt: lòi tiền, tơ gáo[210]. Nhận biết lầu lầu lòng bản, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên[211]; Chùi cho vằng vặc tính gương, nào có nhiễm căn trần huyên náo. Vàng chửa hết quặng, xá tua chín phen đúc, chín phen rèn; Lộc chẳng còn tham, miễn được một thời chay, một thời cháo. Sạch giới lòng, chùi giới tướng[212] nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm; Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu. Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân; Học đạo thờ thầy, dọi xương óc chửa thông của báo[213] Đệ Thất Hội Vậy mới hay: Phép Bụt trọng thay, Rèn mới cốc hay. Vô minh hết, bồ đề thêm sáng; Phiền não rồi, đạo đức càng say. Xem phỏng lòng kinh, lời Bụt thuyết dễ cho thấy dấu; Học đòi cơ tổ, sá thiền không khôn xét biết hay[214]. Cùng căn bản, tả trần duyên, mà để mỗ hào ly dương mắt[215]; Ngã thắng chàng, viên tri kiến, chửa cho còn họa giữ cong tay[216]. Vung lửa giác ngộ, đốt hoại bỏ rừng tà ngày trước; Cầm kiếm trí tuệ, quét cho không tính thức thủa nay[217] Vâng ơn thánh, lọt mẹ cha[218], thờ thầy học đạo; Mến đức Cồ[219], kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay. Cảm đức từ bi, để nhiều kiếp nguyện cho thân cận; Đội ơn cứu độ, nát muôn thân thà chịu đắng cay. Nghĩa hãy nhớ, đạo chẳng quên, hương hoa cúng xem còn nên thảo; Miệng rằng tin, lòng lại lỗi, vàng ngọc thờ coi chửa hết ngay[220] Đệ bát Hội Chưng ấy: Chỉn xá tua rèn[221], Chớ nên tuyệt học. Lơi ý thức chớ chấp trừng trừng[222]; Nén niềm vọng mà còn xông xốc[223]. Công danh màng đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ; Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc. Dựng cầu đò, xây chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu; Cương hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc[224]. Rèn lòng làm bụt, chỉn xá tua một sức dùi mài; Đãi cát thấy vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc Xem kinh đọc lục[225], làm cho bằng thửa thấy thửa hay; Trọng Bụt tu thân, dụng mà lỗi một tơ một tóc[226]. Cũng nơi ngôn cú[227], chỉn chẳng hề một phút ngại lo; Lật thửa cơ quan[228], mà còn để tăm hơi dột lọc[229]. Đệ Cửu Hội Vậy cho hay: Cơ quan tổ giáo, Tuy khác nhiều đường, Chẳng cách mấy gang[230]. Chỉn xá nói tự sau Mã Tổ; Ắt đã quên thửa trước Tiêu Hoàng[231]. Công đức toàn vô, tính chấp si, càng thêm lỗi; Khuếch nhiên bất thức, nghe ngu mắng, ắt còn vang[232]. Sinh Thiên trúc, chết Thiếu lâm, chôn dối chân non Hùng Nhĩ[233]; Thân bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang[234]. Vương lão chém mèo, lại lẫy lòng ngừa thủ tọa[235]; Thầy Hồ xua chó, trỏ xem trí nhẹ côn sàng[236]. Chợ Lư Lăng, gạo mát quá ư, chẳng cho mà cả[237]; Sở Thạch đầu, đá trơn hết sức, khôn đến thừa đương[238]. Phả táo cất cờ[239], đạp xuống dấu linh thần vật; Câu Chi dời ngón, dùng đôi dép cũ ông ang [240] Lưỡi gươm Lâm Tế , nạng Bí ma[241], trước nạp Tăng no dầu tự tại; Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt lượm xá nghênh ngang[242] Giơ phiến tử, cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẫn[243] Xô hòn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hòa chước móc khoe khoang[244]. Thuyền tử gia chèo dòng xanh, chửa cho tiễn tẩy[245]; Đạo Ngô múa hốt càn ma, hoang thấy quái quàng[246]. Rồng Yển lão[247] nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ; Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt giương. Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái bạch; Bính đinh thuộc hỏa, lại lỡ sau lỗi hướng thiên cương[248]. Trà Triệu lão, bánh Thiều Dương[249], bầy thiền tử hãy còn đói khát; Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu thất, chúng nạp Tăng những để lưu hoang[250] Gieo bó củi,[251] nảy bông đèn, nhân mang mới nát; Đào hoa, nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang. Đệ Thập Hội Tượng chúng ấy: Cốc một chân không, Dụng đòi căn khí. Nhân lòng ta vướng chấp không thông; Há cơ tổ nay còn thừa bí[252]. Chúng tiểu thửa cốc hay chửa đến, Bụt xá ngăn bảo sở hóa thành; Đấng thượng sĩ, chứng thực mà nên, ai chia có sơn lâm thành thị[253]. Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dât sĩ tiêu dao; Chiền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí. Ngựa cao tán cả, diêm vương nào kể đứa nghênh ngang; Gác ngọc lầu vàng, ngục tối thiểu chi người yêu quí[254]. Chẳng công danh, luông[255] nhân ngã, thực ấy phàm ngu; Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí. Mày ngang, mũi dọc, tướng tuy lạ, xem ắt bằng nhiều; Mặt thánh, lòng phàm, thực cách nhẫn muôn muôn thiên lý[256]. Kệ Vân[257] Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Cơ tắc san hề, khốn tắc miên Gia trung hữu bảo, hưu tầm mịch Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền. (*) (Cõi trần vui đạo, hãy tùy duyên, đói cứ ăn no, mệt ngủ yên. Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm. Vô tâm trước cảnh, hỏi gì Thiền) - Huệ Chi dịch- (*) Bản phiên âm và chú thích dẫn theo sách Hợp Tuyển Thơ Văn Việt nam, thế kỷ X – thế kỷ XVII. [131] "Vua Anh Tông thấy thượng hoàng tu khổ hạnh, trèo đèo leo núi vất vả, trong lòng không yên, thường kiếm cớ ngăn trở, nhưng ngài cương quyết không bỏ. Tháng 8 năm Hưng Long thứ 9 (1301) Anh Tông sai ngự sử Đoàn Nhữ Hài lên núi Yên Tử đón thượng hoàng về Tức Mặc dự lễ giỗ đầu đức Hưng Đạo Đại Vương. Giỗ xong, vua tâu xin ngài đi chơi nước Chiêm Thành xem chỗ Đức Phật Nam Hải Quán Âm giáng sinh và phong cảnh nước Chiêm. Ngài bằng lòng. Tương truyền: "Cách đây khoảng 1.200 năm, đời vua Thuận Đế nhà Đông Hán, Đức Phật Nam Hải Quán Âm giáng sinh làm con gái vua Trang Vương nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), di tích còn lưu lại ở thành Phật Thệ. Tháng 9 năm ấy, vua sai nhân huệ vương Trần Khánh Dư, ngự sử trung tán Đoàn Nhữ Hài, tướng quân Phạm Ngũ Lão đem ba nghìn quân ngự lâm hộ giá thượng hoàng sang du ngoạn nước Chiêm. Vua Chiêm Thành Chế mân tiếp được sắc thư vua ta, sai các quan văn võ đưa binh sĩ nghi tượng ra giáp giới đón. Còn vua Chiêm thân đón ở thành Phật Thệ. Thượng hoàng đi gần hai tháng đến thành Trà Kiệu, vua Chiêm nghinh tiếp hết sức cung kính tôn nghiêm. Hơn hai tháng ở nước Chiêm, thượng hoàng đi xem khắp mọi chùa chiền, nơi cổ tích Phật Nam Hải Quán Âm, các tháp cổ và phong cảnh kinh đô. Ngài đi từ Trà Kiệu tới Trà Bàn, qua xem tháp Mỹ Sơn, tháp Chùa, tháp Chợ và khảo cứu Phật tích suốt 72 tháp Đông Dương. Thành Đồ Bàn dựng từ thế kỷ thứ 9, chu vi tám dặm, ra vào có 9 cửa, chung quanh xây bao thành gạch. Ở trong có những cung điện hùng vĩ đều quay mặt hướng Nam. Lại có tám ngôi chùa rất lớn và những tháp cao chót vót. Chùa chính có tượng Đức Phật Nam Hải Quán Âm nghìn mắt nghìn tay, tượng Văn Thù cưỡi sư tử xanh, tượng Phổ Hiền cưỡi voi trắng tạc bằng đá quý. Phía sau kinh thành có sông bao bọc chảy thông ra biển. Khi thượng hoàng từ biệt Chiêm Thành, cảm lòng người Chiêm tiếp đón long trọng, ngài hứa gả công chúa Huyền Trân là con gái út cho Chế Mân để tình ban giao hai nước thêm bền hặt. Chế Mân lạy tạ cảm ơn, sai các quan đi tiễn đến tận biên giới." (Sự Tích Trúc Lâm Tam Tổ, Đỗ Trọng Huề, Tạp chí vạn Hạnh số 19, 20). [132] Trong kinh "Những Điều Phật Dạy", nguyên bản chữ Hán: Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh. Điều thứ ba. Đức Phật dạy rằng: Chúng sinh có mười (10) việc Thiện và mười (10) việc ác. Những gì là mười? Đó là: Ba thuộc về Thân, bốn thuộc về khẩu, ba thuộc về ý. Ba việc thuộc về thân là: giết hại, trộm cắp, tà dâm. Bốn việc thuộc về khẩu là: nói lời chia rẽ, nói độc ác, nói giận dữ, nói thêu dệt. Ba việc thuộc về ý là: Tham lam, giận dữ, si mê. Mười việc làm ấy không thuận theo thánh đạo nên gọi là ác. Mười việc làm ấy chấm dứt, gọi là Thiện. [133] Tám chữ: "Sinh diệt diệt dĩ, Tịch diệt vi lạc" (Sinh và diệt đã chấm dứt, đó là sự vắng lặng an vui của Niết Bàn). Kinh Đại Niết Bàn, phẩm Thanh Hạnh, dẫn tích Bồ Tát Tuyết Sơn hy sinh tính mạng cho quỷ la Sát ăn thịt để xin được gnhe hai câu sau của bài kệ, tức hai câu "Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc". Trong bộ Thủy Lục Toàn Khoa có câu "Trượng bán ngôn nhi tam chướng tiêu trừ, bằng tứ cú nhi lục trần thanh tịnh". Dưới đây là toàn bài kệ (4 câu): "Chư hành vô thường Thị sinh diệt pháp Sinh diệt diệt dĩ Tịch diệt vi lạc". [134] Sách Tam Tổ Thực Lục chép: "Năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 16, vào ngày mồng một tháng giêng, tôn giả Pháp Loa phụng mệnh làm người nối pháp trụ trì chùa Siêu Loại ở giảng đường Cam Lộ. Bắt đầu buổi lễ, mọi người làm lễ ở Tổ đường; đại nhạc được tấu lên, các loại danh hương được xông đốt… Điều ngự Giác Hoàng đưa Pháp Loa vào lạy ở Tổ đường, xong cùng xuống trai đường để ăn điểm tâm sáng. Xong buổi tiểu thực, nhạc tấu lên, trống lớn nổi dậy, đại chúng chư tăng được triệu tập cùng lên pháp đường: lúc đó vua Anh Tông đã ngự giá tới chùa; ngôi chủ khách phân xong, mọi người cùng ngồi. Vua Anh Tông lúc đó đóng vai một vị đàn việt lớn của Phật Pháp, ngồi vào ghế khách ở pháp đường; quốc phụ Thượng Tổ (tức huệ võ vương Quốc Chấn) cùng với các quan cùng đứng dưới sân. Điều Ngự thăng đường thuyết pháp. Thuyết pháp xong Điều ngự rời pháp tòa, dắt Pháp Loa cho ngồi trên pháp tòa ấy, rồi đứng chắp tay đối diện Pháp Loa làm lễ thăm hỏi. Sau khi Pháp Loa đáp bái lại. Điều Ngự trao pháp y cho Pháp Loa khoác vào. Bấy giờ Điều Ngự ngồi xuống ghế khúc lục (1) một bên để nghe Pháp Loa thuyết pháp. Xong rồi, Điều Ngự đem Sơn Môn (Giáo Hội) Yên Tử, và chùa Siêu Loại ủy cho Tôn giả Pháp Loa kế thế trụ trì, làm vị tổ thứ hai phái Trúc Lâm" (dẫn theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Tập I, trang 342, 343). Sách Tam Tổ Thực Lục chép: "Năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 16, vào ngày mồng một tháng giêng, tôn giả Pháp Loa phụng mệnh làm người nối pháp trụ trì chùa Siêu Loại ở giảng đường Cam Lộ. Bắt đầu buổi lễ, mọi người làm lễ ở Tổ đường; đại nhạc được tấu lên, các loại danh hương được xông đốt… Điều ngự Giác Hoàng đưa Pháp Loa vào lạy ở Tổ đường, xong cùng xuống trai đường để ăn điểm tâm sáng. Xong buổi tiểu thực, nhạc tấu lên, trống lớn nổi dậy, đại chúng chư tăng được triệu tập cùng lên pháp đường: lúc đó vua Anh Tông đã ngự giá tới chùa; ngôi chủ khách phân xong, mọi người cùng ngồi. Vua Anh Tông lúc đó đóng vai một vị đàn việt lớn của Phật Pháp, ngồi vào ghế khách ở pháp đường; quốc phụ Thượng Tổ (tức huệ võ vương Quốc Chấn) cùng với các quan cùng đứng dưới sân. Điều Ngự thăng đường thuyết pháp. Thuyết pháp xong Điều ngự rời pháp tòa, dắt Pháp Loa cho ngồi trên pháp tòa ấy, rồi đứng chắp tay đối diện Pháp Loa làm lễ thăm hỏi. Sau khi Pháp Loa đáp bái lại. Điều Ngự trao pháp y cho Pháp Loa khoác vào. Bấy giờ Điều Ngự ngồi xuống ghế khúc lục (1) một bên để nghe Pháp Loa thuyết pháp. Xong rồi, Điều Ngự đem Sơn Môn (Giáo Hội) Yên Tử, và chùa Siêu Loại ủy cho Tôn giả Pháp Loa kế thế trụ trì, làm vị tổ thứ hai phái Trúc Lâm" (dẫn theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Tập I, trang 342, 343). [135] Giác Hoàng tịch cùng một ngày với Công chúa Thiên Thụy. [136] Tháp chùa Phổ Minh xây năm 1310 theo lệnh của vua Trần Anh Tông (1293 – 1314) để chứa một phần tro xương của Trần Nhân Tông. Tháp này rất đáng được nghiên cứu về phương diện kiến trúc và về mục đích của kiến trúc tôn giáo, vì đó là tháp duy nhất tại Việt Nam được xây cất để chứa tro xương của một vị đế vương. Chắc là vì khi Thượng hoàng Nhân Tông băng thì vì ngài không là vua nữa mà chỉ là một tu sĩ nên mới dựng tháp của Phật giáo để làm lăng một vị vua. [137] Nghiêm Thẩm, Tháp Chùa Phổ Minh, Vạn Hạnh số đặc biệt về thành đạo và xuân đinh vị – 1967. [138] Cư Trần Lạc Đạo Phú: bài phú về cảnh sống ở cõi bụi mà vẫn vui vì lẽ đạo. Bài phú này được lưu hành ở nhà chùa và trải qua nhiều lần sao đi in lại, chắc là không còn giữ được đúng nguyên bản đời Trần. Trong bản in năm Bảo Đại thứ bảy (1932), bài phú này để liền sau bài Thiền Tông Bản Hạnh. [139] Thập Hội Dụng Diễn ra quốc Ngữ Phú: bài phú gồm mười đoạn, dùng tiếng nước nhà diễn thành lời ca. [140] Nết Dụng Sơn Lâm: dụng là công dụng, tác dụng; nết dụng sơn lâm nghĩa là tính nết như là chịu tác dụng của cảnh an tĩnh của núi rừng. [141] Nghiệp: từ ngữ trong Phật học, chỉ nguyên nhân tạo nên thiện và ác. [142] Thể tính: thể là thân thể, tính là tinh thần bản nhiên vốn có. [143] Thân tâm: thân là thân thể, tâm là tinh thần. [144] Năng mấy chủ tri âm: có được mấy người làm chủ cảnh đẹp đào hồng, liễu lục mà hiểu được cảnh đẹp ấy. [145] Lỗ Thiên Hà: lỗ (bây giờ có địa phương còn đọc là lỗ) là âm cổ của chỗ, thiên hà là sông Thiền, sông nhà Phật; lỗ thiên hà là cõi nhà Phật. [146] Tuệ Phật: mặt trời trí tuệ (của phật), sâm lâm không có nghĩa rập rạp như rừng (nghĩa Hán tự) mà có nghĩa là nhiều lắm ở khắp nơi (nghĩa nôm) [147] Lừa Hoán Cốt: lừa hoặc lựa có nghĩa là cố gắng sắp xếp, tìm mọi cách; hoán cốt, đổi xương, là phép của Đạo gia tìm cách đổi xương thịt nặng nề của người đời thành cốt cách trong nhẹ của tiên để có thể phi thăng, bay lên cao vào cõi tiên. [148] Đan Thần: thuốc thiêng của thần linh, thuốc tiên Phục là uống thuốc. [149] Nhắm Trường Sinh: nhằm theo mục đích được vào cõi trường sinh. Thuốc quí: quí ở đây có nghĩa là thần linh như ở trong danh từ quỉ thần. Thuốc quí cũng có nghĩa như đan thần. [150] Nơ: tiếng cổ, có nghĩa là bằng, là. [151] Võng, Thác: đều có nghĩa là bậy bạ sai lầm. Cả câu này có ý nói tìm cách kiềm chế sự lầm lẫn thì tất là bớt được sự lầm lẫn. [152] Dứt trừ Nhân Ngã: trừ bỏ được sự phân biệt, kỳ thị giữa người khác với bản thân mình. [153] Kim Cương: chất cứng rắn nhất, tượng trưng cho bản lĩnh vững chắc của kẻ tu hành đắc đạo; Nhà Phật có kinh Kim Cương. Tướng thực có nghĩa là sự biểu hiện (tướng) chân thực (của bản lĩnh kim cương). [154] Tham, Sân: tham lam và giận dữ. [155] Làu: tiếng cổ có nghĩa là thông suốt (ta còn nói thuộc làu làu, thuộc lau lảu); lòng mầu là tấm lòng thấu suốt lẽ mầu nhiệm của đạo; viên giác là sự giác ngộ đầy đủ trọn vẹn. [156] Tịnh Thồ (Cũng đọc là Tịnh Độ): đất thanh sạch, chỉ cõi Phật, Tây phương; chỉ cõi Phật, theo Tịnh độ tông thì Phật quá khứ là Phật A Di Đà ở cõi Tây phương cực lạc. [157] Mựa: tiếng cổ, có nghĩa là chớ nên, đừng. Cả câu này có nghĩa là kẻ tu hành chân chính chẳng cần phải truy cầu Tĩnh thổ, Tây phương, A Di Đà, Cực Lạc ở đâu cả, mà tìm lẽ đạo ở trong tấm lòng trong sạch của mình, ỡ trong trí tuệ trong sáng của mình. [158] Cầm Giới Hạnh: giới là điều răn giới, giới luật của nhà chùa; hạnh là đạo đức kẻ tu hành, giữ gìn theo đúng giới luật của nhà chùa và đạo đức của kẻ tu hành. Địch vô thường: chống lại cái vô thường tức là mọi sự ảo hóa khôn lường của pháp tướng, của các hiện tượng trong trần thế, giữ được sự an nhiên tự tại của tâm, của bản ngã, của Phật tính vốn có trong mọi người. Bán giác: nửa hào, ý nói món tiền rất nhỏ. Nào có sá cầu danh bán giác: nào có cầu đi tìm danh vọng một chút nào đâu. [159] Vận Giẻ Vận Xui: đồ mặc, quần áo thì dùng giẻ, vải xấu, hoặc vỏ cây xui, ý nói giản dị, thô sơ. [160] Nớ: Xem lời chú số 13. [161] Cốc: hoặc đọc là cộc, tiếng cổ có nghĩa là hiểu biết [162] Mở: xem lời chú số 20. [163] Mã Tổ Một Vị Tổ Của thiền Tông, họ Mã, pháp danh là Đạo Nhất, đệ tử của thiền sư Hoàn Nhượng ở Tào Khê (Thiều châu), sống vào đời Đường. Cơ là then máy. Cả vế này ý nói cứ tu dưỡng lòng mình thì khắc có Phật tính ở trong, há phải đi tìm phép tắc, then máy của Mã Tổ. [164] Bàng Công: tức cư sĩ Bàng Uẩn, học trò Mã Tổ. Khi giác ngộ rồi, ông đem khuân hết của cải quẳng xuống hồ Động Đình. Cả vế câu này ý nói cứ tu dưỡng nghiêm chỉnh ắt là thoát được sự ràng buộc của tài sản (vọng tài) xua đuổi được mọi ham muốn vật chất, hình sắc (đuổi sắc) chẳng cần phải có hành động quyết liệt đem tài sản quẳng xuống hồ như Bàng Công. [165] Áng Tư Tài: áng là tiếng cổ, có nghĩa là đám, chốn đông. Áng tư tài là của cải, tài sản. [166] Am Sạn: am bắc bằng sàn gỗ thô sơ (sạn là sàn gỗ) [167] Yêu: tiếng cổ, có nghĩa là quí báu. [168] Cả: lớn, rất. [169] Bồ Đề: giác ngộ. [170] Ưu Đàm: một thứ cây thuộc loài cây sung, có quả mà không có hoa. Hoa ưu đàm được kinh Phật dùng để gọi cái gì quí hiếm. Khi hoa ấy mà nở thì phúc to lắm. [171] Cốc: xem chú số 24. [172] Tam Độc: Ba cái độc là tham, sân, si (tham lam, giận dữ, ngu muội). [173] Tam Thân: ba thân của Phật, một là pháp thân tức chân thân, hia là báo thân tức trí, ba là ứng thân tức hành. [174] Lục Căn: sáu cái rễ khiến người đời bám vào trần tục; đó là nhãn căn (mắt), nhĩ căn (tai), tỵ căn (mũi) thiệt căn (lưỡi), thân căn (mình), ý căn (ý thức). Đoạn lục căn: chặt đức sáu cái rễ ấy. [175] Lục tặc: sáu tên giặc làm hại người ta. Lục tặc là do lục căn mà sinh ra: do nhãn căn mà có sắc, do nhĩ căn mà có thanh, do tỵ căn mà có hương, do thiệt căn mà có vị, do thân căn mà có xúc, do ý căn mà có pháp làm cho người ta bị chìm đắm [176] Chân Không: hoàn toàn không có gì, ý nói vượt ra ngoài sắc tướng và ý thức. Có tuệ quang chiếu thấu mọi sắc, mọi tướng (hình dáng) giả dối, ảo hóa, và thấy tất cả đều là không. Ngại thanh: vướng vào thanh, chấp sắc: bám lấy sắc.ù [177] Chân Như: thực thể, thực tính không bao giờ thay đổi, vượt lên trên sự biến hoá vô thường của sắc tướng, của hiện tượng. [178] Bát Nhã: trí tuệ. [179] Thực Tướng: thực tính, thực thể của vũ trụ, tức chân như. [180] Vô Vi: theo nghĩa nhà Phật, thì vô vi là chân lý. Chân lý không phải do nhân duyên tạo ra cho nên gọi là vô vi. [181] Tam Tạng: Ba kho kinh điển của Phật giáo là kinh tạng, luật tạng, luận tạng. [182] Thanh qui: qui chế của nhà chùa. [183] Chiên Đàn hay đàn hương là loại cây gỗ thơm rất quí, chiêm bặc là giống cây ở Tây vực, hoa rất thơm. [184] Thích Ca: tức Phật hiện tại, là thủy tổ của Phật giáo, người Ấn Độ, sống vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch kỷ nguyên. [185] Di Lặc: tên một vị Bồ tát, tức là Phật vị lai. [186] Cung nhà: vua Trần tu ở ngay trong cung [187] Khuy Bản: thiếu gốc. [188] Nằm Nhãng: nằm khễnh lơ đãng, nằm mà quên nhãng đi. [189] Quê Hà Hữu: Hà hữu hương, chữ trong sách Trang Tử, nghĩa là "quê có đâu", tức là một cõi vu vơ không có thực. Ở đây ý nói nằm trong cõi đời vốn chỉ là ảo hóa, không có thực. [190] Tân La: tên một nước cổ ở bán đảo Triều Tiên, bị diệt vào cuối đời Đường. Có ý nói một nước không còn nữa. [191] Khoáng cơ quan: then máy lỏng rộng, ý nói không câu nệ, gò bó [192] Bô: là bỏ trốn, chểnh mảng bô việc là bỏ trốn công việc. Cả vế này có ý nói chính sách của nhà vua rộng rãi, dân có thể trút bỏ mọi ràng buộc trốn bỏ việc đời, mà đi theo Đạo Phật. [193] Miễn: cũng như lẫn, có nghĩa như là với. [194] Thoa: cũng như thô, hẫm. [195] Bát Thức: tám điều biết. Đó là nhãn thức (biết bằng mắt), nhĩ thức (biết bằng tai), tỵ thức (biết bằng mũi), thiệt thức (biết bằng lưỡi), thân thức (biết bằng thân mình), ý thức (biết bằng ý), mạt na thức (biết bằng sự suy lường), a lại da thức (biết bằng tâm thức). [196] Bát Phong: tám gió, chỉ tám thứ có thể lay động lòng người như gió vậy; đó là lợi, suy, hủy (hủy báng), dự (vinh dự), xưng (khen), cơ (chê), khổ, lạc. [197] Càng Đè Càng Bội: càng đè xuống càng tăng lên, nở ra. Ý nói bát thức, bát phong nếu dùng cách khiên cưỡng, gò bó, đè nén thì không thể trừ bỏ được, mà phải thoải mái, an nhiên thì mới khắc phục được. [198] [199] [200] Tam Huyền Và Tam Yếu: tam huyền là ba điều sâu kín. Đó là huyền ở tron thể, huyền ở trong câu và huyền ở trong huyền, tất cả gọi là tam huyền môn. Mỗi huyền lại gồm tam yếu lý (ba điều chủ yếu), là lý, trí và phương tiện. Cả vế này nghĩa là: chia rành rọt ra làm tam huyền, trong mỗi huyền lại lấy tam yếu làm nòng cốt. Cắt là gọt tỉ, ma là mài giũa. [201] Đàn Sách: sách, tiếng cổ có nghĩa là rong chơi, chơi dỡn (Ngày nay ta còn nói, hút sách, rướt sách); đàn sách là gảy đàn chơi. Xoang là khúc nhạc. Phật giáo nêu nghĩa vô sinh vô diệt. Vô sinh khúc là khúc nhạc của nhà chùa. Nhà chùa có câu kệ: "Vô duyên cầm thương tấu dương xuân, thiên cổ vạn cổ thánh bất tuyệt" (trên đàn không có giây đánh khúc nhạc xuân đầm ấm, nghìn năm vạn năm tiếng không dứt). [202] Phím: thổi sáo, thổi địch. Nhà chùa có câu kệ: "Tranh tự nhất chi vô không địch, vi quân suy khởi thái bình ca" (sao giống một cây sáo khổng lồ, vì người thổi lên khúc ca thái bình). [203] Câu Chi Trưởng lão: tức là hòa thượng Câu Chi, đời Đường, tu ở núi Kim Hoa. Một lần hòa thượng Câu Chi có điều chưa hiểu đem ra hỏi hòa thượng Thiền Long. Thiền Long giơ một ngón tay để bảo, Câu Chi bèn giác ngộ. Câu Chi thường nói: ta được phép Thiền ở đầu ngón tay của Thiền Long, ăn suốt đời không hết. Và hễ có đệ tử đến tham Thiền, Câu Chi chỉ giơ một ngón tay ra, không nói gì cả. [204] Diễn Nhã Đạt ma: tức Yajedatta. Theo kinh Lăng Nghiêm thì đây là một nhân vật trong một truyện do Phật tổ kể ra để thuyết pháp. Diễn Nhã Đạt Đa lấy gương soi mặt, thì mặt mày có thể thấy, quay đầu đi thì bóng trong gương chớp đi không thấy nữa, cho là ma quỉ, sợ quá bỏ chạy. [205] ,69) Khuyên Kim Cương, Bồng lật Cức: Thiền sư Dương Kỳ có hai câu kệ rằng: thấu đắc kim cương khuyên thôn đắc lật cức bồng Nghĩa là: Lọt được cái lỗ khuyên kim cương Nuốt được quả gai lật cứ . Dù nói khi đã giác ngộ lẽ đạo thì có thể bao quát vũ trụ, vạn vật trong khóe mắt của mình, lọt được qua cái lỗ nhỏ của vành khuyên bằng kim cương, có thể thông suốt mọi việc không còn gì vướng mắc, dầu có nuốt quả cức có gai góc tua tủa thì cũng trơn tuột không làm xước được da của mình. Tượng da: có lẽ ý nói da dầy như da voi, không có thể bị cào xước. [206] [207] Tam nghiệp: gồm có nghiệp về thân, nghiệp vầ miệng, nghiệp về ý. Xem thêm lời chú số 4. [208] Ý nói Câu Nệ Về Văn Về nghĩa Trong Kinh Điển thì chẳng qua chỉ làm cho kẻ thiền khách thêm bơ vơ lạc loài (Thiền khách là người cư sĩ tin theo Đạo Phật, tuy chưa đi tu). Còn nếu biết giác ngộ cái lý sâu xa của đạo, hiểu thấu cái then máy huyền vi của đạo thì mới có thể trở thành người tu hành (nạp Tăng, nhà sư) đắc đạo. [209] Thược Là Cái Gáo Múc Chất Lỏng, Sàng Là Dụng Cụ Để Phân Tách Những Hạt To Nhỏ. Lậu Là Thấm Nước, Thiền sư Lệnh Tuân đến gặp Tăng Đại Thông. Tăng hỏi: "Đại thừa là thế nào?. Đáp: "Là cái dây kéo ở giếng". Hỏi: "Tiểu thừa là thế nào?. Đáp: "Là cái dây sắt". Hỏi: "Hữu lậu là thế nào?". Đáp: "Là cái sàng, cái rây". Hỏi: "Vô lậu là thế nào?". Đáp: "Là cái mộc thược, cái gáo gỗ". The lọt: chưa hiểu nghĩa. Hoặc giả the có nghĩa như là kín chăng?. Ngày nay ta còn nói hàn the. Nếu hiểu hàn the là kín thì đối với lọt. Và cả câu có nghĩa như sau: "Hỏi thế nào là hữu lậu, hỏi thế nào là vô lậu, đáp rằng vô lậu là kín như cái múc nước, hữu lậu là cái khe lọt như cái sàng, cái rây”. [210] Tơ Gạo: ngờ là day gáo viết sai. Chuổi tiền, dây gáo là những thứ dây để xâu chuỗi, hoặc để buộc. Xem lời chú số 72. [211] Ý Nói Hiểu Thông Được Cái Bản Chất cái gốc của tâm thì có sợ gì mọi sự thay đổi (thời tiết) mọi sự ràng buộc (nhân duyên) thoát được cõi tục. [212] Giữ Gìn Tấm Lòng Cho Trong Sạch, chùi cho hết mọi vết của sắc tướng (hiện tượng ở thế gian huyễn hoặc người ta). [213] Ý Nói Học Thầy Chịu Ơn Nặng, dầu có dọt vỡ xương, óc của mình để tri ân cũng chưa đủ báo đáp. [214] Sá: kinh lạ, lấy làm sự kỳ dị, lạ lùng. Cơ là cơ hội may mắn trong đó chúng sinh có thể gặp nhân duyên mà giác ngộ. Cơ tổ: then máy đạo lý của tổ sư, cả câu này ý nói xem trong kinh điển sách vở thì dễ thấy được lý thuyết của Phật giáo, nhưng học đòi để được dịp may mắn mà giác ngộ theo đạo lý của tổ sư thì phép tin kỳ lạ của đạo Thiền khó mới cứu xét được. [215] Cùng Căn Bản: là đi cho đến chỗ tận cùng của gốc rễ, tả trần duyên là từ bỏ mọi sợi dây ràng buộc với cõi đời bụi, mỗ hào ly là chẳng một chút, một tí nào; dương mặt là mang ở trên mặt. [216] Ngã Thắng Tràng: (tràng là một thứ cờ phướn của nhà Phật) ngọn cờ chiến thắng của bản ngã. Viên tri kiến: hiểu biết trọn vẹn đầy đủ. Họa giữa trong tay, ngờ là: họa giữ trong tay mà bản nôm đã in sai [217] Tỉnh Thức: thức là những hiểu biết ràng buộc mình với cõi trần tục (xem lời chú số 58). Tỉnh thức là những hiểu biết vốn có từ bản tính của người đời. [218] Lọt Mẹ Cha: lọt ra đời từ lòng mẹ cha ý nói chịu ơn sinh đẻ của mẹ cha. [219] Miễn Đức Cồ: (cồ, tiếng cổ, có nghĩa là lớn), cố gắng noi theo đức lớn. [220] Ý Nói: nếu ngoài miệng nói rằng tin mà trong lòng lại phạm lỗi thì trong việc thờ cúng dẫu cho có dùng đến vàng ngọc đi nữa cũng chẳng phải là thành tâm. [221] Tua: tiếng cổ nghĩa là nên.chỉn Xá Tua Rèn, chỉ có thể nên gắng rèn luyện. [222] Lơi Ý Thức Chớ Chấp Trừng trừng, phải để cho ý thức được lơi, được rộng rãi thoải mái, chớ câu chấp gò bó cái gì cả. [223] Nén Niềm Võng Mà Còn Xong Xóc: nếu chỉ thô bạo mà nén xuống thì niềm võng (tức cái sai trái) lại cứ nổi lên như xong xóc. [224] Cả Câu Ý Nói: bên ngoài thì phải giữ gìn trang nghiêm những nghi thức thuộc về bề mặt (sự tướng), nhưng bên trong thì lại phải rèn luyện tấm lòng đạo. [225] Lục: sách ghi chép sự tích nhà chùa và các vị tổ sư của đạo Thiền. [226] Dụng Mà Lỗi Một Tơ Một Tóc: dụng công chớ để sai trái một chút gì. [227] Cùng Nơi Ngôn Cú: xét suy đến cùng các lời nói. [228] Lật Thửa Cơ Quan: lật đi lật lại mọi then máy, mọi phép tắc của thiền môn. [229] Chớ: để sơ hở một chút gì. [230] Ý Nói: Đạo Phật nếu truy nguyên đến các dòng phái, các phép tu, các vị tổ, thì thấy có nhiều và thấy xa xôi, nhưng nên hiểu rằng Phật tại tâm thì lại rất ngắn. [231] Mã Tổ: xem lời chú số 26. Tiêu Hoàng tức Hoàng đế nhà Lương tên Tiêu Diễn, miếu hiệu là Lương Vũ Đế. Tiêu Hoàng rất chuộng Đạo Phật. Chính vào thời kỳ này Bồ Đề Đạt Ma ở Ấn Độ sang Trung Hoa lập nên dòng Thiền tông ở đây. [232] Công Đức Toàn Vô: nghe ngu mắng ắt còn vang:Tiêu Diễn Mời Bồ Đề Đạt Ma đến và hỏi:"Từ khi trẫm lên ngôi, dựng chùa chép kinh, có thể có công đức gì không:" Đáp: Chẳng có công đức gì cả". Hỏi: "Vậy chân công đức là cái gì?. Đáp: "Tĩnh tri diệu viên thì thể tự không lặng, công đức mà như thế thì không thể lấy việc đời mà cân được". Hỏi: "Đệ nhất nghĩa của thánh đế là như thế nào?" Đáp: "Khoách thiên bất thức". Vua nghe thế mắng là ngu. [233] Bồ Đề Đạt Ma sinh ở Thiên Trúc (tức Ấn Độ), sang Trung Hoa và viên tịch ở chùa Thiếu Lâm, phía bắc núi Thiếu Thất, chôn ở chân núi Hùng Nhĩ. [234] Bài Giơ Mặt Vách Hành Lang: Bồ Đề Đạt Ma tu ở chùa Thiếu Lâm, suốt ngày thiền định, mặt quay vào vách, như thế trong chín năm, cho đến lúc chết. Ở chùa Thiếu Lâm cón có Điện Bích Am (cái Am nơi Ngài quay mặt vào vách). Bài giơ: tấm biển trỏ (nơi Ngài quay mặt vào vách). [235] Lạt Lẫy: tiếng cổ, chưa rõ nghĩa lắm. Có lẽ có nghĩa là dùng thủ đoạn khéo léo (lấy tay lẩy). Thủ tọa là người trông nom Tăng xá, chỗ sư ở. Vương lão sư tức thiền sư Phổ Nguyện, học Vương, truyền đạo ở Nam Tuyền. Một hôm, hai người thủ tọa nhà phía đông và phía tây tranh nhau một con mèo, Vương lão bèn cầm con mèo giơ lên và bảo: "ai biết được con mèo là của bên nào thì cứu được con mèo, nếu không thì chém bỏ. Mọi người không ai trả lời được. Vương lão sư bèn chém chết con mèo. Có người giải thích việc sát sinh có vẻ trái với tôn chỉ nhà chùa ấy như sau: Vương lão sư đã có phép thần thông, hiểu rõ lẽ vô sinh, chắc có cách chiêu hồn. Làm như vậy một là để cho hồn mèo thoát hóa, hia là khéo léo giải quyết được sự phân tranh giữa hai người thủ tọa. [236] Côn Sàng: chưa rõ nghĩa, có thể là một từ cổ, có thể là khắc sai ở bản in. Thầy Hồ là thiền sư Lợi Tung ở Tử Hồ Nham. Ở dưới cửa chùa có dựng tấm biển đề rằng: Tử Hồ có một con chó, trên thì lấy đầu người, giữa thì lấy tâm người, dưới thì lấy chân người. Ai mà dị nghị tức là bỏ thân mất mạng. Có thầy tăng đến tham thiền, vừa vén rèm định vào thì thiền sư quát: "Xem chó". Có người hỏi chó Tử Hồ ở đâu, Thiền sư nói: "Gâu! Gâu!. Đây là cách mà các nhà sư theo Thiền tông thường làm để thức tỉnh và giác ngộ đệ tử. [237] Gạo Mạt: gạo tồi, kém. Thiền sư Nguyệt Luân một hôm đến yết kiến hòa thượng Giáp Sơn. Giáp Sơn hỏi: "Ngươi xứ nào?". Nguyệt luân đáp: "Ở Mân Trung. Hỏi: "Có biết lão tăng không?". Nguyệt Luân hỏi lại: "Có biết kẻ học trò không?". Giáp Sơn nói: "Không biết thì người trả tiền giày cỏ cho lão Tăng, rồi sau lão Tăng sẽ trả giá gạo Lư Lăng cho người". Nguyệt Luận nói: "Như thế thì chẳng biết, hòa thượng cũng chưa hiểu giá gạo chợ Lư Lăng là bao nhiêu". Giáp Sơn khen và truyền pháp ấn cho, đọc câu kệ rằng: "Nói thế quả là người anh linh. Đem hết gốc rễ tiếp hữu tình. Mới hỏi đến giá gạo chơ Lư Lăng. Toàn nhiên chẳng chút qua lộ trình". Ý muốn nói Phật pháp là vô giá, như giá gạo chợ, nói bao nhiêu trả bấy nhiêu, không được mặc cả. [238] Thừa Đương: nhận gánh vác. Thạch Đầu là chỗ dãi đá ở phía nam núi Hành Sơn, phía đông chùa nơi thiền sư Hy Thiên đời Đường tu hành. Hy Thiên có biệt hiệu là hòa thượng Thạch Đầu. [239] Phá Tác: Đập Bếp, Hòa thượng Phổ Trúc ở núi Tung Sơn. Trong núi có miếu thiêng. Người xa gần đem bò lợn đến bếp trong miếu để mổ và tế thần. Một hôm Phổ Trác đến miếu, vào bếp mằng rằng: bếp là do bùn đất mà nặn lên, sao lại nấu nướng giết hại sinh vật. Nói xong đập tan lò bếp. Lát sau có vị thần hiện ra vái lạy, thưa rằng: "Tôi là thần bếp, lâu ngày chịu nghiệp quả báo, may nhờ thiền sư tôi được thoát khỏi chốn này, nên đến để tạ ơn". Cấp Cô: trưởng giả Cấp Cô Độc ở Thiên Trúc làm tháp thờ Phật, lại dựng cờ phướn hình sư tử, trâu, chim, rồng để cúng. [240] Câu Chi Giơ Ngón: xem chú thích số 66. Ông ang, tức là ông ông, là sắc cũ kỹ. Sau khi gặp Bồ Đề Đạt Ma tịch đã ba năm. Chu Vân lại gặp ngài ở núi Thúy Linh, chỉ đi một chiếc giày, nói rằng ông ta đi về Tây Thiên. Chu Vân về Trung Hoa, tâu vua xin đào mộ Đạt Ma lên xem, thì chỉ thấy còn một chiếc giày cũ [241] Lâm Tế: một phái của Thiền tông do Thiền sư Lâm Tế nghĩa Huyền lập ra. Lâm Tế Lục chép rằng: "Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền bảo các Tăng: "Có khi quát một tiếng là bảo kiếm của kim cương vương". Trí tuệ bát nhã co thể khiến người ta dứt được mọi trần lụy cũng như lưỡi gươm chém đứt mọi xiềng xích. Bí Ma: tức hòa thượng Bí Ma Nham ở Ngũ Đài sơn (Sơn Tây). Nhà sư thường cầm một cái nạng gỗ. Có Tăng đồ đến tham thiền thì sư đè nạng vào cổ và nói: "Ma quỉ nào bảo người xuất gia? Ma quỉ nào bảo ngươi hành cước? Nói được thì cũng nạng cho chết, không nói được thì cũng nạng cho chết. Nói mau! Nói mau! Không có ai trả lời được. [242] Ông Đoan: tức Tây Dư Đoan sư tử ở An Cát châu. Lúc đầu nhà sư thấy chơi sư tử thì phát sinh được yếu chỉ về tâm. Sau khi yết kiến thiền sư Long Hoa về bèn làm một bộ lốt sư tử bằng chỉ màu, thường khoác lên người, do đó mà có danh hiệu. Đoan Sư Tử. Thầy Hựu: tức thiền sư Linh Hựu ở Qui Sơn (Hồ Nam). Theo truyền thuyết, nhà sư ba mươi năm chăn một con trâu. Lúc đầu trâu khó bảo, sau tuân phục dần vâng lời người bảo. Rồi lại có thể thả rong, không cần chăn dắt, sau cùng biến thành con trâu trắng rồi biến mất. Sự tích này sau được vẽ thành mười bức tranh, gọi là Thập Mục ngưu Đồ (mười bức tranh về trâu), biểu hiện quá trình người tu hành khắc phục được bản ngã (con trâu tượng trưng cho bản ngã). Đàn việt là tín đồ Phật giáo. [243] Phiến Tử: cái quạt. Thiền sư Vân Môn thường cầm cái quạt. Có Tăng đồ đến tham thiền thì giơ quạt lên mà chỉ thị. Trúc bề: một thứ lược tre. Thiền sư Thứ Sơn một hôm trả lời kẻ tham thiền, giơ cái trúc bề lên và nói: "Gọi là cái gì? Gọi là trúc bề thì xúc phạm, không gọi là trúc bề thì sai trái. Gọi là cái gì?" [244] Xô Hòn Cầu: Thiền sư Nghĩa Tồn ở Tuyết Phong, Phúc Châu (Phúc Kiến) có thời làm phạn đầu ở Động Sơn. Một hôm, Tăng đồ họp, nhà sư xô ra một quả cầu bằng gỗ. Sư Huyển Sa bắt lấy để vào chỗ cũ. Thiền sư Nghĩa Tồn lên tòa, thuyết pháp rằng: "Ở Nam Sơn có một con rắn, các ngươi phải coi chừng". Cẩm Mộc Thược: xem lời chú số 72. Chước móc: mưu chước, máy móc. Ý nói mọi qui tắc, qui chế của nhà chùa. [245] Tiễn Tẩy: chưa rõ nghĩa. Có thể là một từ nôm cổ. Nếu theo nghĩa Hán tự thì có thể hiểu là tẩy rửa tràn trề. Hãy tồn nghi. Thuyền Tử Gia Chèo: Thuyền tử là biệt hiệu của Thiền sư Đức Thanh ở Hoa Đình, Tô Châu (Triết Giang) thường chèo một lá thuyền con, ngao du sông nước, tùy duyên qua ngày mà tiếp người bốn phương qua lại. [246] Đạo Ngô: người đồng đạo của Đức Thành. Múa hốt càn ma: chưa hiểu rõ điển này. [247] Rồng Yển Lão: Yển Lão là thiền sư Văn Yển ở Thiều Châu (Quảng Đông) thường nói: "Chăng lưới to khắp trời bắt rồng, chăng lưới nhỏ bắt tôm và hến. Thế thì ngao sò lạc vào chỗ nào?" Lại nói: "Cây gậy hóa làm con rồng, nuốt hết trời đất thì núi sông còn ở vào đâu nữa?" Rắn ông Tồn: Ông Tồn là thiền sư Nghĩa Tồn, xem lời chú số 107 [248] Thái Bạch: là tên mà đạo gia dùng để gọi sao Kim Tinh, còn Thiên Cương là tên mà Đạo gia dùng để gọi sao Bắc Đẩu. Chưa hiểu rõ điển tích ở đây. [249] Triệu lão: tức là thiền sư Tùng Nẫm ở Quan Âm viện Triệu Châu, thường có lời: "Uống chè đi" để đáp lại những Tăng đồ đến tham thiền. Sau có bài kệ rằng: Triệu Châu có lời: "Uống chè đi", các Tăng thiên hạ đều theo về. Bánh Thiều Dương: bánh của Thiều Dương lão nhân là biệt hiệu của thiền sư Văn Yển (xem lời chú số (110). Văn Yển theo thiền sư Chí Trừng. Một hôm Chí Trừng hỏi:" Minh Giáo ngày hôm nay ăn được mấy cái bánh đúc?" – Đáp: "mời hòa thượng vào uống chè". Chí Trừng nói: "Ta không cung dưỡng Nam Tăng" (Ý nói không cung dưỡng Văn Yển là người Phùng Nam) [250] Tào Khê: là tên con sông, nơi có chùa Bảo Lâm, Tuệ Năng tức Lục Tổ, người mở đầu Thiền tông phương Nam. Thiếu thất là tên núi, nơi có chùa Thiếu Lâm. Bồ Đề Đạt Ma, tổ thứ nhất của Thiền tông, tu ở đấy. Ruộng Tào Khê và vườn Thiếu Thất ở đây dùng để trỏ đạo Thiền. [251] Gieo bó Củi: Tuyết Phong đến thăm thiền sư Ngộ Bản, gieo một bó củi trước mặt sư. Sư hỏi: Nặng bao lăm. Tuyết Phong nói: "Người khắp cả thiên hạ cũng không mang nổi". Nảy bóng đèn: chưa rõ điển tích.Lộc đào hoa:Thiền sư Trí Cầu ở núi Linh Vân, Phúc Châu. Nhân thấy hoa đào nở mà ngộ đạo. nghe tiếng trúc: Đại sư Hương nghiêm một hôm làm đất, ném hòn đá vào cây trúc có tiếng kêu, chợt giác ngộ lẽ đạo. [252] Ý Nói: nếu hiểu được lẽ chân không thì kết quả đến căn khí; chỉ vì lòng ta còn vướng mắc câu chấp nên chưa thông hiểu lẽ đạo, chứ then máy của tổ sư có gì là bí mật. [253] Ý Nói do mình chưa hiểu chứ Bụt nào có hẹp hòi với ai, do chứng thực (chứng thực tướng) mà trở nên thượng sĩ (tức Bồ tát), chứ việc ở sơn lâm hay ở thành thị há có phân biệt gì. [254] Yêu: tiếng cổ, có nghĩa là quí trọng. Người yêu quí; người sang trọng. Ý nói: ở dưới địa ngục bọn lính gác ngục canh giữ thiếu gì người sang trọng ở trên đời gác ngọc lầu vàng mà phạm tội [255] Luông: luông tuồng. Luông nhân ngã: luồng tuồng thanh nhân chấp ngã, tranh giành hơn thua với người khác. [256] Ý Nói: bề ngoài có vẻ đạo đức cả (mặt thánh) mà bên trong thì tầm thường dung tục (lòng phàm), cách xa nhiều lắm.. [257] Nghĩa là: Ở cõi đời bụi, vui vẻ lẽ đạo cứ để tùy duyên. Đói thì ta ăn, mệt thì ta ngủ. Trong nhà có của báu, đừng tìm tòi ờ đâu đâu. Đứng trước cảnh mà vô tâm, tự khắc có Phật sao phải hỏi Thiền. Nguồn: http://www.thienvien...am.net/node/215
  18. Đọc thì phải lọc, không nên bỏ sót. Theo cách này thì chỉ cần đọc "bài thứ nhất" trong cuốn Chuyển Pháp Luân thì sẽ thấy rất nhiều sạn. Ngồi lại mà mổ sẻ kiến giải trên của Lý Hồng Chí thi thấy rất nhiều lỗi, tà kiến. Hãy xem: Gia Phong Của Năm Phái Thiền Hãy so sánh lịch sử Thiền Tông với kiến giải của Lý Hồng Chí về Thiền Tông, dành cho các độc giả.
  19. Pháp Luân Công thì đem thức tình dò xét đến cả cảnh giới của Phật Thích Ca, thì chắc Phật Hoàng Trần Nhân Tông sẽ bị các học viên PLC phân tích thế nào thì biết. Lấy cảnh giới Phật để bác cảnh giới Tổ, rồi lại lấy cảnh giới của Lý Hồng Chí để hạ thấp cảnh giới Phật, đó là sự bệnh hoạn của Pháp Luân Công.Cảnh giới của Thiền Tông là 'sống chết là việc lớn, cần phải giải ngộ Phật tính làm nhân', 'thực hành sinh tử tự tại là quả, sống chết nhàn mà thôi'. Sinh tử tự tại chính là Thần Thông bậc nhất, chứ không bám dính vào sự trị bệnh cho cái thân xác mấy chục ký này và cũng không bám vào sự biến hiện của các cảnh giới trong quá trình dụng công. Sinh tử đã tự tại thì có thể thấy mười phương Tịnh độ, có thể ra vào Uế độ. Kẻ sở cơ mới tìm đến tâm linh thường hiếu kỳ đòi có một cõi đến đến, nếu pháp tu mà không đến cõi nào thì chạy thẳng, đó là căn bệnh của người mới biết đến tâm linh. Tu thiền thì đến cõi nào đây ? Tu thiền là Tu tâm, Thiên tông là Tâm tông, Tâm vốn tịnh thì có thể hợp với mười phương Tịnh độ, tuỳ duyên đến đi. Nếu cho rằng Lý Hồng Chí có thiên quốc để độ đệ tử tới đó, thì đó là đồng nghiệp, do nghiệp lực chung mà có thôi, chẳng thể so sánh với Phật quốc. Hơn nữa, với ngôn ngữ của Lý Hồng Chí thì có phần thiên ma, cho nên chưa chắc đó đã là Thiên giới thuần tuý mà là Thiên ma. Thật sự nếu đem tâm lý: "pháp môn có tác dụng trị thân bệnh mới là pháp môn hay" để mà xem thường tác dụng của sức sống thể nghiệm chân lý thiền thì đó là tâm lý hơi bị lầm, lạc đường giải thoát, giác ngộ.
  20. Nữ giới thì dễ có hiện tượng mê tín.Nam giới thì dễ có hiện tượng tà kiến. Lý Hồng Chí có một sự tà kiến rất trầm trọng, nhưng chỉ những ai đã giải ngộ mới thấy được sự tà kiến đó. Nếu không như vậy thì Pháp Luân Công đã không bị Chính quyền Trung hoa tiêu diệt. Tà kiến của Lý Hồng Chí có liên quan đến Thiền Tông. Vậy các độc giả cũng nên biết đến Thiền Tông Việt Nam. Lịch sử Thế giới rất hiếm có ông Vua đi tu chứng đạo, còn ở Việt Nam có Phật Hoàng Trần Nhân Tông xuất gia tu thiền chứng đạo làm Tổ truyền bá Thiền Tổ Sư. Vậy độc giả cũng nên biết, và ngẫu hứng Rubi sưu tầm một sự kiện vào đây: Nguồn: Thiền Viện Trúc Lâm Hoa Từ, Hội Thiền Học Việt Nam, thành lập vào tháng sáu 2009, tại Mesa, Arizona, (http://www.tvtlhoatu.org/Default.aspx)
  21. Sáng ngày 23.1 Nhâm Thìn (14/2/1012) tại Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử - xã Thượng Công Yên, Uông Bí, Quảng Ninh đã diễn ra lễ giỗ Đệ Tam Tổ Trúc Lâm – Thiền sư Huyền Quang. Buổi lễ có sự tham dự của chư Tôn đức Tăng Ni các thiền viện, thiền tự trong Tông môn Thiền phái Trúc Lâm toàn miền Bắc và đông đảo Phật tử các đạo tràng. Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334) (Tổ thứ ba phái Trúc Lâm) Sư tên Lý Đạo Tái, sanh năm Giáp Dần (1254) ở làng Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thân phụ là Huệ Tổ dòng dõi quan liêu, nhưng đến đời ông thì không thích công danh, chỉ ưa ngao du sơn thủy. Tuy có công dẹp giặc Chiêm Thành, mà ông không nhận chức quan. Thân mẫu họ Lê là người hiền đức. Nhà Sư ở phía nam chùa Ngọc Hoàng. Năm Sư sanh, một hôm thầy Trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Thiền sư Huệ Nghĩa, tối tụng kinh trên chùa xong, xuống phòng ngồi trên ghế trường kỷ, chợt ngủ quên mộng thấy trên chùa đèn đuốc sáng trưng, chư Phật tụ hội đông vầy, Kim cang Long thần chật ních, Phật chỉ Tôn giả A-nan bảo: “Ngươi thác sanh làm pháp khí cõi Đông.” Chợt có ông đạo gõ cửa, Ông chợt tỉnh giấc, làm bài kệ viết trong vách chùa: Người mà vì đạo chớ tìm đâu Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu Mộng thấy điềm lành là ảnh hưởng Đời này ắt gặp bạn tâm đầu. (Nhân chi vị đạo khởi tha tầm Tâm tức Phật hề Phật tức tâm Tuệ địch kiết tường vi ảnh hưởng Thử sanh tất kiến hảo tri âm.) Thuở nhỏ Sư dung nhan kỳ lạ, ý chí xa vời, cha mẹ mến yêu dạy các học thuật. Sư học một biết mười, biện tài hiển Thánh. Niên hiệu Bảo Phù thứ hai (1274) đời vua Trần Thánh Tông, Sư thi đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên), lúc ấy được hai mươi mốt tuổi. Cha mẹ tuy đã định hôn cho Sư, nhưng chưa cưới. Sau khi thi đậu, nhà vua gả Công chúa cho, Sư vẫn từ chối. Sư được bổ làm quan ở Hàn lâm viện và phụng mạng tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương ngôn ngữ của Sư vượt hơn sứ Trung Hoa, khiến họ phải nể phục. Một hôm, Sư theo vua Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Phụng Nhãn nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, Sư chợt tỉnh ngộ duyên trước, khen ngợi quí mến, tự than: “Làm quan được lên đảo Bồng, đắc đạo thì đến Phổ Đà, đảo trên nhân gian là bậc tiên, cảnh giới Tây thiên là cõi Phật. Sự giàu sang phú quí như lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên mến luyến?” Sư mấy phen dâng biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Chính nhà vua rất mến trọng Phật giáo, nên sau cùng mới cho. Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305), Sư xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm Thị giả Điều Ngự, được pháp hiệu là Huyền Quang. Niên hiệu Hưng Long thứ mười bảy (1309), Sư theo hầu Pháp Loa y theo lời phó chúc của Điều Ngự. Năm Đại Khánh thứ 4 (1317), Sư được Pháp Loa truyền y của Điều Ngự và tâm kệ. Sư vâng lệnh trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do Sư đa văn bác học, tinh thâm đạo lý, nên học đồ bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên không dưới ngàn người. Sư thường phụng chiếu đi giảng kinh dạy các nơi và tuyển Chư Phẩm Kinh, Công Văn v.v... Những khoa giáo trong nhà thiền mỗi mỗi đều phải qua tay Sư cả. Ngày rằm tháng giêng năm Quí Sửu (1313), vua Anh Tông mời về kinh ở chùa Báo Ân giảng kinh Lăng Nghiêm. Sau đó, Sư dâng chiếu xin về quê thăm viếng cha mẹ. Nhân đây, lập ngôi chùa phía tây nhà Sư để hiệu là chùa Đại Bi. Sư trở về chùa Vân Yên, lúc đó đã sáu mươi tuổi. Nhà vua muốn thử lòng Sư nên cho Thị Bích là một cung nhân tìm cách gần Sư để lấy bằng chứng đem về dâng Vua. Thị Bích dùng man kế gợi lòng từ bi của Sư, rồi về tâu dối với Vua. Vì thế, Sư bị tai tiếng không tốt. Nhưng sau cuộc lễ chẩn tế của Sư, thấy những sự linh nghiệm lạ thường, nhà vua không còn nghi ngờ. Vua liền phạt Thị Bích làm kẻ nô bộc quét chùa trong cung Cảnh Linh ở nội điện. Sau, Sư trụ trì ở Thanh Mai Sơn sáu năm. Kế sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng. Đến ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334), Sư viên tịch tại Côn Sơn, thọ tám mươi tuổi. Vua Trần Minh Tông phong thụy là Trúc Lâm thiền sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang tôn giả. Những tác phẩm của Sư: - Ngọc Tiên Tập - Chư Phẩm Kinh - Công Văn Tập - Phổ Tuệ Ngữ Lục. Dưới đây là một vài hình ảnh Lễ Giỗ Đệ Tam Tổ Trúc Lâm - Tổ Sư Huyền Quang. http://tvsungphuc.ne...d=916&Itemid=24
  22. Xem thấy, Lý Hồng Chí nói về Tổ Bồ Đề Đạt Ma thế nào thì các học viên PLC nói nhại theo như thế. Đối với ý thức mà nói pháp vĩ đại, ngoài ý thức thì không thể nói là đại cho nên PLC vĩ đãi đối với ý thức mà thôi. Ý thức thuộc dạng nguyên liệu của Chân Tâm Không Tướng, không nên chấp Nguyên liệu Diệu dụng là Chân Không. Bồ Đề Đạt Ma có danh Đệ Nhị Thập Bát- Nhất Đại Tôn Sư ấy là do nhận thức được Chân không và Diệu hữu. Diệu dụng vĩ đại như Quốc Sư Lưu Chi con không thắng nổi Chân không của Bồ Đề Đạt Ma. Hãy so sánh Lý Hồng Chí với Tam Tạng Quốc Sư Lưu Chi xem, Lý Hồng Chí chưa chắc đã bằng, vậy có thể nhận ra pháp của Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma vững mạnh nhường nào. Pháp Luân Công hay pháp gì đi nữa, chỉ cần nhận thức lầm, còn tham sân si thì hành giả cũng sẽ rơi vào đường Quỉ. Ví dụ, Tam Tạng Lưu Chi dã tâm đến mức kết quả tu hành lại hoá thành Quỉ. Phật nói tất cả Pháp Để trị tất cả Tâm (vọng tâm) Nếu không tất cả Tâm Đâu cần tất cả Pháp. Bất lập văn tự Ngoại giáo biệt truyền Trực chỉ nhân Tâm (chân tâm) Kiến tính thành Phật. Kiến tính thành Phật, một nhảy liền vào đất Như Lai. Ai cũng có thể ngộ, có ngộ thì sẽ được ấn chứng, có ấn chứng thì sẽ nhập vào Chính đạo, thành tựu Chính quả. Kiến tính thành Phật, mơ hồ hay thực tế bất ngờ, hãy tự khám phá. Nghiên cứu để kết luận pháp chính tà, thật là sự mơ hồ, ngang với lông rùa sừng thỏ. Bất lập văn tự là để đánh thức sự lao tâm ngâm cứu của những học giả, chõ đánh thức này vừa từ bi vừa trí tuệ.
  23. Quẻ Thuần Càn, Động Hào Thượng: 3 hình ảnh "Âm dương Ngũ hành đồ hoạ".Luận quẻ, mỗi chuyên gia sẽ có những nhân định theo chuyên môn. Cá nhân Rubi thảm khảo nội dung sự động của quẻ Thuần Càn thì tự có ý, nói ra, các độc giả biết thêm. Thuần Càn, Động Hào Thượng nghĩa là Dừng, Không tiến. Dừng ở đây là được, không nên tiến. Dừng ở kết quả này để làm nền định hướng nghiên cứu, nếu tiếp tục sửa nền thì không được, vì đã đúng mà cố tình sửa tiếp thì làm sao mà sửa được. Sent Hôm nay, 09:08 PM Đầu năm chúc Rubi mọi điều tốt lanh! Cho TG hỏi xíu, TG đang nghiên cứu Đạo Phật thấy Rubi là người đã xuất gia và đã trở lại với đời thường sao RB lại hoàn tục vậy? Xin được chỉ bảo! Cảm ơn RB! Nhiều người bảo là phá giới à ? Rubi xin xả giới đàng hoàng. Tâm trí hẹp, tính tự độ, không dám gánh trọng trách giác tha. Hoà Thượng Thích Thanh Từ dạy đệ tử rất nghiêm, đã ngộ thì phải độ chúng sinh, nhưng Rubi hiện thời chưa làm được việc này nên xin về.
  24. Tiểu đề: gặp mặt đầu xuân Nhâm Thìn (21 Tháng Giêng. Chủ nhật, ngày 12 tháng 02 năm 2012) Cách đây hơn 10 năm (1999-2002), khi đó Rubi đang xuất gia tập tu ở Thiền viện Trúc lâm (Lâm đồng, Đà lạt). Có dịp Rubi xem mục "Tài liệu tham khảo" trong cuốn sách "Hội nhập con người thật", sách của Khí công sư Bùi Long Thành. Do đó thấy có tiêu đề một cuốn sách của Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương: "53. TÍCH HỢP ĐA VĂN HOÁ ĐÔNG TÂY CHO MỘT CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC TƯƠNG LAI (Nguyễn Hoàng Phương - N.X.B Giáo dục 1996)". Sau đó Rubi gửi tiền Thầy Tri Khố (Đầu bếp của Thiền viện) để nhờ Thầy ra ngoài tìm xem có cuốn sách đó hay không. Kết quả Rubi có được sách. Trước khi rời khỏi Thiền viện Trúc lâm (Phụng Hoàng, ở Đà Lạt) để ra ngoài Bắc, nhập Chúng tu học tại Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử thì Rubi có tặng lại cho một Thầy Huynh Đệ thùng sách, trong đó có cuốn sách trên. Nhập chúng ở Yên tử khoảng một thời gian, Rubi xin Thầy Trụ Trì cho phép xả giới để nhập tục, trở về nhà. Khoảng năm 2002-2003. Một hai năm sau, Rubi có tìm mua lại cuốn sách trên ở phố Bà Triệu (108/180). Sau đó, vào một buổi tối, Rubi mua được cuốn sách của Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, sách tiêu đề: "Tìm Về Cội Nguồn Kinh Dịch". Từ đây, Rubi chuyển hướng nghiên cứu chỉnh lý lý thuyết cơ bản về Âm dương Ngũ hành. Kết quả cho đến nay cũng có những điểm tích cực, có triển vọng. Trong cuốn Tích Hợp Đa Văn Hoá Đông Tây, Rubi cũng thấy "CẢM NGHĨ CỦA NHÀ VĂN XUÂN CANG". Hôm nay, 14 giờ, gặp mặt đầu xuân Nhâm Thìn (21 Tháng Giêng. Chủ nhật, ngày 12 tháng 02 năm 2012) do diễn đàn nguhanh.vn tổ chức, địa điểm tại Vô ưu trà quán, 68 Trần Quang Diệu, Rubi có tham dự. Chủ trì buổi gặp mặt đầu xuân, tiêu đề "Tử vi chìa khoá của cuộc đời" là chú Nguyễn Văn Hoạt và bác Nhà văn Xuân Cang. Khi giơ tay và được phép phát biểu, Rubi có nói lại với hai vị Chủ trì cùng các Anh chị và các bạn, nội dung phát biểu như trên. Rubi khi đi, có mang theo tài liệu, gồm 3 hình ảnh "Âm dương Ngũ hành đồ hoạ", Rubi đã thưa gửi tới Nhà văn Xuân Cang xem và góp ý. Nhà Văn sẽ dùng con lắc cảm xạ để thẩm định trước khi mở tài liệu ra xem. Chú Nguyễn Văn Hoạt ngay lúc đó cũng thẩm định, bấm giờ, được Qủe Thuần Càn, Động Hào 6 (Hào thượng). Chú Hoạt đã góp một số ý cho Rubi. Ba tờ tài liệu trong túi nhựa của Rubi, các hình ảnh có nội dung tương đồng với chủ để này. Vì thế, Rubi cũng tường thuật sự kiện, cập nhật vào đây. Tái bút: Sáng nay Rubi mới biết tối hôm qua (thứ 7, 20 tháng Giêng năm Nhâm Thìn) diễn đàn lyhocdongphuong có tổ chức gặp mặt tại Hà Nội. Nếu biết sớm, Rubi sẽ đi tham dự giao lưu.