-
Số nội dung
1.107 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by phoenix
-
(tiếp) Đúng vậy. Vực dậy từ vô thức tập thể những kinh nghiệm nguyên sơ nhất về Đất và Nước, cái nhìn và bút pháp của Hồ Xuân Hương đôi chỗ có cái gì đó gần với Bùi Giáng, một nhà thơ hiện đại. Nhưng có thể nói như thế này chăng: thơ Hồ Xuân Hương ngả về bản năng, thơ Bùi Giáng thiên về bản nhiên. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, ta chừng như thấy một người đàn bà Việt nghịch ngợm tai quái vục chiếc gáo dừa vào cái lu vô thức nhân loại, quậy chơi, và múc ra một hỗn hợp những Đất-Nước-Trời-Người, vung ra tung toé. Trong trò chơi này, Thiên Nhiên không còn là Mẹ Đất Cha Trời của Con Người, mà như một người đàn ông bị lôi kéo vào cuộc chơi kỳ thú của người bạn nữ Việt thông minh và tràn đầy sức sống. Bùi Giáng cũng nhúng tay vào ký ức ngàn xưa, nhưng Đất-Nước-Trời-Người của ông như là một giấc mơ. Một giấc mơ siêu thăng, trong đó Thiên Nhiên và Con Người cùng nương nhau tìm đến cái hạnh phúc uyên nguyên của Nhân loại trẻ thơ. Những trang viết mê sảng như bị « thơ làm » của Bùi Giáng là mê cung, trong khi những bài thơ của Hồ Xuân Hương là ván cờ gồm các nguyên tố Thiên - Địa - Nhân, trong đó Nhân là con Tướng. Tôi nghĩ, cái dữ dội của thơ Hồ Xuân Hương là sự tráo đổi vị trí đó. Nó đã thời sự hoá các cổ mẫu, như một kháng cự. Có lẽ, thuở xưa, con người nhìn ngắm cách thiên nhiên yêu nhau mà bắt chước, hay là thiên nhiên và con người cùng ngắm nhìn nhau, cùng bắt chước, Hồ Xuân Hương thì ngược lại, vì vậy thơ bà hiện đại và Tây. Viết đến phần này, tham luận của chúng tôi đã chuyển cách tiếp cận : không dõi theo những Cổ mẫu trong hàng loạt tác phẩm, chúng tôi đi vào tác giả. Nói như C. G. Jung, quả thực đây là những con người đi ngoài rìa, cả về phong cách cá nhân, lẫn cá tính sáng tạo, và biết bao giấy mực đã viết về họ, như những chân dung lạ, như những thế giới nghệ thuật độc đáo. Trong hành trình « Phăng mạch đêm, hương vỡ, ứa ngầm tinh » (Bích Khê, Mộng cầm ca), nghĩa là trên lối về với vô thức nhân loại, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng, Nguyễn Huy Thiệp…, mỗi người có một cánh cửa khép mở riêng, để đến, và trở về, với những đoá hoa riêng. Tản Đà, người sung sướng luôn tự nhận mình là « đứa trẻ Tản Đà » trong các bài tựa cho các tác phẩm của mình : “Hai quyển Khối tình con này là những thơ ca từ khúc về bên tình của tác giả từ khi còn trẻ con” (Tản Đà nhi Quý Sửu văn tập) và “Hai quyển Khối tình này là những văn xuôi về bên tình, của tác giả từ đương độ trẻ con mới sắp ra người lớn”. Luôn muốn được chơi đùa trong cõi vô ưu lạc phúc, nên ông đã vào vườn huyền thoại, hái về đoá Thiên Thai. Thiên Thai, đó không chỉ là một khu vườn, như vườn Địa đàng. Đó là một cõi, một cõi riêng, còn được gọi là Bồng Lai, Đào Nguyên, …Có thể tên chung của nó là Cổ mẫu Tiên giới. Trong tâm thức người Việt, cõi Tiên khác với cõi Trời: “Sướng bằng tiên”/ “Làm trời”, một thế giới hạnh phúc, thảnh thơi, bạn bè / một thế giới có tôn ti, quyền lực. Tiên giới thường gắn với những sinh vật, không gian, thời gian đặc biệt, cụ thể: tiên nữ, tiên nga, ngọc nữ, hạc, oanh, đào, suối đào nguyên, mùa xuân, trường sinh bất lão… Trong ý nghĩa đó, Thiên Thai cũng là Thiên đàng, như xác định của Từ điển biểu tượng, « nơi luôn luôn được sống mà không phải nỗ lực », “là một khu vườn, cây cối tươi tốt và hoa quả sum suê. Các giống vật nơi đây sống tự do, con người hiểu tiếng nói của chúng…mùa xuân và ánh sáng bất tận, một ngày trên thiên đàng bằng ngàn ngày dưới trần…”[15]. Trước Tản Đà, có Lưu Nguyễn lạc Thiên Thai, Từ Thức : dân gian đã mở lối rồi. Vậy thì có thể nói, cổ mẫu Thiên Thai đã đi từ huyền thoại sang thơ ca hiện đại, và Tản Đà là người tái sinh nó sớm nhất vào đầu thế kỷ XX, tạo cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ, thuở ấy và sau đó, trong thơ, văn, nhạc, kịch, họa… Truyện kể thì chỉn chu, có đầu có đuôi : Lưu Thần, Nguyễn Triệu đi hái thuốc và lạc vào động Tiên, còn Từ Thức thì nhờ chất nghệ sĩ (hào hiệp và rong chơi) mà gặp. Tản Đà chỉ tái hiện một nửa câu chuyện, giây phút chia tay, và tìm lại ngẩn ngơ. Hình như cái làm nên sự ám ảnh bàng hoàng cho Người không là vẻ - huy - hoàng - của - Hạnh - Phúc - Thiên - Thai - đang- có, mà chính là vẻ - huy - hoàng - của - Hạnh - Phúc - Thiên - Thai - đã - mất. 14 câu thơ của Tống biệt đã tỉnh lược rất nhiều tình tiết - vì Tản Đà tin vào sức lan toả của cổ mẫu Tiên giới trong ký ức người Việt Nam - sức nén của bài thơ rất cao. Đặc biệt là thi nhân đã bạo tay tỉnh lược cả Tiên và Người, nhân vật chính của câu chuyện, cả bài thơ chỉ còn có lá đào, suối, oanh, đá, rêu, nước, huê, hạc, trời, đất, động, non, đường, trăng, vậy mà người đọc vẫn có một cảm giác trọn vẹn, nhọn sắc về một bước hụt của Người. Không, chính xác hơn là ba bước hụt : một lần là « Trời đất từ nay xa cách mãi», một lần ngơ ngác giữa quê nhà (hiểu ngầm theo truyền thuyết), và một lần tìm lại, ngơ ngẩn dưới ánh trăng suông. Vậy Thiên Thai trong văn chương Việt là biểu tượng của một sự viên mãn đã bị vuột mất, là hình ảnh của hoài vọng. Nhưng đó là hoài vọng sau khi con người vẫn đã được nếm trải đủ đầy và được tự do chọn lại ; trong khi huyền thoại ở miền Côtes d’Azur (Pháp) thì nói rằng, bị dụ dỗ vào Le pays de Nulle Part (Xứ - không - biết - nơi - nào), người ta cực kỳ hạnh phúc nhưng sẽ không bao giờ được trở lại với trần gian [16] Không chỉ tái sinh Thiên Thai, Tản Đà còn nối dài sức sống của huyền thoại qua nhiều bài thơ : Mỵ Châu Trọng Thuỷ, Muốn làm thằng Cuội, Thề Non Nước… Nếu trong Tống biệt, Tản Đà chỉ với một chữ thôi, chữ chơi, đã vĩnh cửu hoá vầng trăng tự tại, biểu tượng thế giới an nhiên của chốn thiên thai. Thì thơ Hàn Mặc Tử, tràn ngập Trăng, lai láng như nước và cần như hơi thở. Thói thường, cái gì gần quá người ta dễ quên: Nước và Khí trời mấy ai nghĩ đến, nhưng Hàn Mặc Tử ăn, ngủ, thở, buồn, vui giữa Trăng, mà vẫn còn muốn gọi to cái tên kỳ diệu ấy : Trăng ! Trăng ! Trăng ! Là Trăng, Trăng, Trăng, Trăng ! Câu thơ dài, chỉ lặp đi lặp lại mỗi một từ và ít nhiều dấu chấm phẩy, mà sao ám ảnh… Bởi đó chính là Trăng, một biểu tượng nghệ thuật lớn, hay bởi vì nó là tiếng gọi thao thiết của Hàn Mặc Tử, người thơ tài hoa ? Thật khó xác định, chỉ biết rằng với Trăng, Hàn Mặc Tử, trong run rủi của số phận, đã tưởng như rơi xuống đáy của bất hạnh, lại được đền bù. Linh giác của nhà thơ vốn như tơ, giờ thêm căn bệnh phong, lại hoá thành như điện, một thứ nhân điện nối kết với thiên linh, mà cửa ngõ là Trăng. Từ khi ra đời, thơ Hàn Mặc Tử đã làm mệt nhoài những ai lỡ vương vào nó. Không thích, người ta bảo đó là nhảm, lừa (bịp), điên giả tạo, vẩn đục. Thích, người ta bảo là kỳ dị, bí ẩn, phi thường… và tìm cách giải mã. Chế Lan Viên cho rằng :« Không phải ma thuật, kỹ thuật gì của óc đang lạm phát ngôn từ. Lòng có bị cắn đôi, đời có bị tan vỡ, tình có bị đứt đoạn, nghĩa là có một thảm sử gì làm trữ kim, làm đảm bảo, (NTTX nhấn mạnh) thì mới có thể phát ra những từ ấy». Đi tìm tư duy thơ Hàn Mặc Tử, Đỗ Lai Thuý kết luận « Hàn Mặc Tử là người đã xây dựng được cho thơ mình một mô hình. Đó là « tính trữ tình + tư duy tôn giáo + cá nhân hiện đại » [17] Vương Trí Nhàn nói đến « vẻ đẹp kỳ dị » của những « kích động tình cảm lên tới cùng cực, những mê man quyến rũ gần như mất trí » « sỗ sàng, sống sượng, thậm chí bệnh hoạn » « mê man trên đường đi tới cái hư vô, siêu hình », « lạ hoá ngay chính mình » và theo ông, những tìm tòi lúc đầu bị coi là phi lý, trừu tượng đó « đã có mầm mống từ lâu trong tư duy của nhân loại »[18] Chu Văn Sơn trong chuyên luận đầy cảm hứng của mình về Hàn Mặc Tử, đã lý giải thơ ông bằng khát vọng của cái tột cùng, qua bình diện : tác giả (cuộc đời, quan niệm, hành trình, đặc điểm) và tác phẩm (thi học của cái tột cùng), và cho đó là từ chí hướng « Nguyện suốt đời đi tìm sự lạ » của Hàn Mặc Tử[19]. Có thể nói, mỗi người một cách, nhưng các tác giả nói trên đều ghi nhận và cắt nghĩa thơ Hàn Mặc Tử bằng chính cá nhân nhà thơ : con người nhục thể (bệnh tật), con người tình cảm (thất bại trong tình yêu) đã dẫn đến con người tâm linh (khát vọng về cái tột cùng, tôn giáo- theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp). Bài viết này muốn tìm một cánh cửa khác để khám phá cội nguồn của cái dị kỳ và bí ẩn trong thơ Hàn Mặc Tử. Những câu hỏi nảy sinh từ đây: Ai làm văn chương mà không có khát vọng về cái tuyệt đối? Vậy thì, cái tuyệt đối mà Hàn Mặc Tử đi tìm là gì ? Nhờ đâu nhà thơ đạt đến nó ? Và đạt bằng cách thế ra sao ? Chỉ đặt Hàn Mặc Tử bên cạnh Bích Khê và Chế Lan Viên, chúng ta đã thấy họ cùng khởi điểm và khát vọng, nhưng đã rẽ về ba hướng khác nhau, và làm thành ba ngọn núi riêng, mọc trên cùng một phong thổ! Hàn Mặc Tử không cầm bút từ một quan niệm có sẵn. Chín năm sống với thơ ca là chín năm ông đi tìm: tìm thơ, tìm bạn, tìm mình, tìm lại khung trời đã mất. Ông đi tìm từ lúc tuổi mười lăm, tim non, ngực trẻ, tràn đầy nhiệt huyết ; đi tìm trong tuổi chớm đôi mươi rạo rực và khát cháy một tình yêu chưa bao giờ thoả ; đi tìm trong những dày vò và ám ảnh của bệnh tật và cái chết ; và cuối cùng đi chưa hết tuổi đôi mươi, xác thân gần với hư không, dường như ông đã tìm ra. Nhưng dùng từ « đi tìm », hình như cũng không đúng lắm với Hàn Mặc Tử, bởi nó thường làm ta nghĩ đến một hành động tràn đầy ý thức. Không. Thơ Hàn Mặc Tử nói với chúng ta, ý thức là có thực, và cần, nhưng không là tất cả. Thơ ông lắm khi mê, và lắm khi mơ… Xin đừng chỉ đi trên đại lộ ý thức mà đọc thơ Hàn. Trăng đã dẫn dắt nhà thơ đi thuở ấy và nay Trăng soi cho tôi đi theo vết chân chàng. Ngay từ Lệ Thanh thi tập, đêm đã là không gian quen thuộc của Hàn Mặc Tử (11/15 bài). Chàng trai trẻ thao thức trằn trọc vì nước non, vì hoa, vì cảnh, nhưng có lần, Trăng táo bạo len vào: Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối (Thức khuya) ; Trăng suồng sã và tai quái: Dì nguyệt trớ trêu lòng dạ thiểm (Gái ở chùa). Bà Nguyệt (chứ chưa phải là cô Trăng) từ dạo đó đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử, và hình như chàng đã quen hơi bén tiếng…Những bài thơ đầu tay của chàng thiếu niên này sao mà già dặn. (Chẳng vậy mà Phan Bội Châu khen nức nở và xem Hàn Mặc Tử là tri kỷ !) Đó là cái già dặn của một lý trí trầm tư sớm về thế sự, trên một chất liệu nung già lửa : Thơ Đường. Gái quê, là thế giới của tình yêu trái cấm. Bắt đầu từ đôi mắt, chàng thơ từ xa ngắm nhìn Nàng (Gái quê). Biểu tượng của mùa xuân và sự sống, cái sinh thể ấy là môi, là má, là tóc, là mắt, thảy đều bình thường và cụ thể. Nhưng cái màu đỏ « tươi như máu » trên môi và «au au » trên má ấy mới lạ làm sao. Và rồi từ «ngây thơ và ước ao», chuyển sang khao khát. Một cái khát cần kêu lên (Tiếng vang), và chàng xin trăng giúp quên, và chàng xin mây làm dịu, và chỉ có núi vọng lời. Nhưng rồi cây, nắng, trăng, gió cùng nhau khiêu khích: «thuỳ dương/ nghiêng mình trước gió chiều lơi lả », « Hơi nắng dịu dàng đầy nũng nịu/ Sau rào khẽ liếm cặp môi tươi» (Nắng tươi) « Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi » (Bẽn lẽn). Nàng thì còn xa, và chàng thì mắc cỡ, nên nhục cảm tràn trong chiêm bao, trong thơ. Thiên nhiên là biểu tượng yêu, trong đó Trăng là người phụ nữ gợi tình, Nguyệt xưa đã sống lại : « Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm/Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe » (Bẽn lẽn). Bắt đầu một xúc tiếp chủ động và háo hức với Trăng : « Tôi thích len vào trong đám lau/ Núp chờ trăng xuống để quàng nhau/ Giả đò ân ái như năm ngoái » (Mơ), « Bóng Hằng trong chén nằm nghiêng/ Lả lơi, tắm mát, làm duyên gợi tình/ Có ai nuốt ánh trăng ngàn » (Uống trăng), « Mê trăng vàng là đâm mê trinh tiết » (Nắng vàng). Tình dù mạnh, hãy còn trinh nguyên, và trái xuân yêu vẫn ngọt. Nhưng từ đây, ta đã thấy một Hàn Mặc Tử bứt ra khỏi «lề thói tập đoàn», chữ của Chế Lan Viên. Vốn là « khách đa tình », xung năng thân xác trong chàng quá mạnh, trí tưởng tượng của chàng quá dồi dào, mà lòng yêu không thoả. Trăng như là người phụ nữ khai tâm cho Hàn Mặc Tử trong đường tình ái. Với Trăng, chàng được giải phóng năng lượng trong mình. Cái vô thức cá nhân đã lộ, nhưng hòa lẫn trong cảm giác và cảm xúc. Gái quê là thế giới của Lòng, nó chỉ làm cho người đọc truyền thống (lý trí) sượng sùng mà không làm họ rối trí. Bởi dù sao dục tình vẫn là cái quen thuộc của thế giới Người. Đến Đau thương, mới thực là mê cung. Cái mê cung này, mỗi khi vượt qua một chặng, nghỉ chân tỉnh thức, Hàn Mặc Tử vội vàng đặt tên, để hôm nay chúng ta không mất dấu. Hương thơm, nói rằng con đường đã từ Sắc chuyển sang Hương. « Hoa thì nín, Hương thì bay » (Sáng trăng). Ở đây tâm thế người thơ trở nên lắng nghiêm: «Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu». Người bớt ầm ĩ về yêu mà «nghe trời giải nghĩa yêu», cái huyền đã len vào, xoá nhoà những xác định thực : «Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ, Hư thực làm sao phân biệt được !» (Đà Lạt trăng mờ), « Ở đây sương khói mờ nhân ảnh » (Đây thôn Vĩ Dạ), « Những lời năn nỉ của hư vô (Huyền ảo). Từ đây, những chữ «làm thinh», «nín thinh» «không một tiếng gì», «nín lặng», «hơi thở nhẹ», «im lặng», xuất hiện bên cạnh «cổ độ », « huyền diệu », « tiên tri »... Cái huyền thể hiện qua Trăng : từ một sinh thể có vóc hình, tách bạch, rõ ràng, suồng sã, lả lơi, Trăng trở thành một nguồn hương dịu dàng, thơm tho, mỏng manh, phiếu diễu, biến hoá, là vàng, là ngọc, là rạng ngời, là vĩnh cửu…Trăng có mặt khắp nơi và gieo rắc tính Trăng cho Người: «Không gian dầy đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng» ; Trăng lay động thiên khí: «Ánh trăng xanh động khí trời » (Mơ hoa). Ở đó Chàng thơ dạy Nàng học mơ: «Của lòng em rộn rã/ Khi mới học đòi mơ »(Sáng trăng); ở đó Trăng và Nước yêu nhau thinh lặng (Bắt chước). Với Hương thơm, Lòng đã chuyển sang Hồn: «Hồn xưa tự ấy không về nữa, Hồn anh theo dõi bóng em đi, Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió/ Để nhắn hồn em đã tới nơi ». Cảm giác như những thôi thúc của xung năng thân xác đã mờ đi, nhường cho một ước muốn tâm linh. Chạm đến cái huyền, trong thi nhân bắt đầu xuất hiện một triết nhân : khái niệm Thời gian đến. Mới đôi mươi, tâm hồn ấy đã vượt qua hình sắc tìm đến khí hương, giờ lại muốn đi tìm «dấu đã chìm» của «hồn xưa» trong « thời xanh » mà chàng cho là « tráng lệ » và « thơm tho» ; ở đó « Trăng sao là bất diệt » (Thời gian). Hạt bụi đã mơ và ghen với cái vô thường ; không ngần ngại, người thơ « ném mình đi theo gió trăng » để tìm đến cái vô biên (Ghen). Trăng đã là « trăng tôi », nhưng không mang ý nghĩa chiếm hữu, mà như bè bạn, ruột rà : « Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi / Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi ». Cái Hồn ấy thường khẽ khàng, nhưng cũng có khi quá dào dạt, và lúc ấy Máu lại trở về : « Anh cắn lời thơ để máu trào/Mà máu tim anh vọt láng lai »-(Lưu luyến) ; « Máu đào đương hăng » (Chuỗi cười). Và Điên chớm hiện : «Anh điên anh nói như người dại » ; chàng gọi to Trăng và mê mải cùng thơ. Mật đắng, là nếm trải đớn đau thực tại. Thân xác, vừa mới thoát ra khỏi chút ít, lại trở thành gánh nặng. Tình yêu vừa có, lại mất. Bệnh tật và tha nhân cùng dày vò. Hồn muốn bay lên nhưng Lòng và Xác trì xuống. Trí, Lòng, Hồn, Xác, thảy đều quằn quại trong một không gian u ám. Lệ đã chảy, tiếng khóc và cơn choáng: «Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu, Trời hỡi bao giờ tôi chết đi/ Tôi vẫn còn đây hay ở đâu/ Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu» (Những giọt lệ) ; «Mây về hằng hà sa số lệ, Thu héo nấc thành những tiếng khô » (Cuối thu) ; «Khóc cười nức nở nơi đầu miệng» (Sầu vạn cổ) ; «Rầu rầu nước mắt bời bời ruột gan/ Nhớ lắm lúc như si như dại (Muôn năm sầu thảm). Mặt trời có mặt, Máu không còn là sức sống mà là sự phân rã, đau thương, là điềm gở : «Bao giờ mặt nhật tan thành máu, Sao bông phượng nở trong màu huyết » (Những giọt lệ), «Và ai gánh máu đi trên tuyết » (Cuối thu). Trăng có lúc trở thành xa xôi và yếu ớt « Ai thả chim bay đến Quảng Hàn » (Cuối thu), « Lạnh quá ánh trăng không sáng mấy » (Thao thức). Trăng trở lại là tha nhân, cách biệt « Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ/ Trăng choáng váng với hoa tàn cùng ngã », « Hãy nhập hồn em trong bóng nguyệt » (Hãy nhập hồn em), « Cố làm ngơ không biết đến thời gian/ Đến bông hoa tàn tạ với trăng ngàn » (Đôi ta). Lúc này, trong cảm giác mất mát hụt hẫng, Nàng là tất cả, tình ái là hơn hết. Và mạch thơ lại chập chờn trong trong một ý niệm mới về Mộng, về Hương, về Xuân, về Mật, về Thơ. Bài Đôi ta và Dấu tích rất lạ. Là khoảnh khắc tình mơ say, mê sảng, cuồng điên trong âm hưởng nhộn nhạo của vũ trụ: « Lúc ấy sóng triều rên rỉ chưa bưa/ Cứ nhắm mắt yêu nhau như chết/ Cứ sảng sốt, tê mê và rũ liệt/ Đừng nghe chi âm hưởng địa cầu đang/ Vỡ toang ra từng mảnh, cả không gian/ Cả thời gian, từ tạo thiên lập địa/ Đều trộn trạo, điều hoà và xí xoá/ Thành hư không như tình ái đôi ta » (Đôi ta).Là trạng thái suy luận tỉnh táo vô cảm của một người tận cùng khủng hoảng, sắp chìm vào cơn điên, như ráng trời trước cơn bão lớn: « Trăng dầu sáng còn thua đôi mắt ngọc/ Trời tuy xa lòng thiếu nữ xa hơn, Vườn chói lọi thì Tình yêu phải ngợp/Tiết trinh còn, em phúc hậu hơn thơ ! Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt/ Mộng có thành là mộng ở đầu hôm/ Hương không ngọt, xuân sớm lẽ nào thơm/ Mật không đắng ân tình không thú vị./ Không rên siết là thơ vô nghĩa lý.. » (Dấu tích). Những dư ba cuối trong Mật đắng đã báo hiệu về Máu cuồng và hồn điên, thế giới của một cái tôi lảo đảo trong cơn xung đột của Hồn. Trong khi mải mê theo Trăng, đi đến tận cùng những cảm giác Người của mình, Hàn Mặc Tử đã gặp Hồn Nhân loại. Con đường ấy quanh co và nhọc nhằn. Ngổn ngang cơ man là câu hỏi về thơ, về tình yêu, về hồn, về vạn cổ. Có thể thấy nhà thơ luôn dao động giữa hai hấp lực: một vô thức cá nhân đầy ẩn ức, và tiếng gọi sâu thẳm của vô thức tập thể. Biểu hiện cụ thể là sự giằng co giữa cái hiện tại và quá khứ, giữa dục lạc và thăng hoa, giữa thực và mộng. Cụm thơ ba bài Hồn là ai, Biển hồn ta và Sáng láng, rất quan trọng. Chúng cho thấy có hai cái Hồn, gặp nhau tranh chấp, giằng co, rồi hoà hợp. « Hồn là ai ? Là ai ? Tôi chẳng biết, /Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi./Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười/ Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng », « Tôi chết giả và no nê vô hạn /Cười như điên, sặc sụa cả mùi trăng ». Hồn là ai? câu hỏi này trở lại nhiều lần, trong thơ Hàn Mặc Tử, và dù cảm nhận rõ ràng: « Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến !Thịt da tôi sượng sần và tê điếng », « Ta muốn níu hồn ai đương hiển hiện/ Trong lòng và đang tắm máu sông Ta muốn vớt ai ra ngoài sóng điện/ Để nhìn xem sắc mặt với làn da », nhưng mãi mãi Hàn Mặc Tử vẫn không trả lời được, có lúc chàng tưởng như đó là ảo ảnh, và tự nhạo trách mình : « Ôi ngông cuồng ! Ôi rồ dại, rồ dại/ Ta đi thuyền trên mặt nước lòng ta !Ôi ngông cuồng ! Ôi rồ dại, rồ dại/ Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta ! » (Biển hồn ta). Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm/ Cho trăng ngập trăng dồn lên tới ngực/ Hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức. Rồi bay lên cho tới một hành tinh… Trong những câu thơ trên, hai chúng tôi, Hồn ai và Hồn tôi, phải chăng là biểu tượng của vô thức tập thể và vô thức cá nhân ? cả hai gặp nhau, giao tranh, thấm mình vào trăng và cùng bay về «một hành tinh» …cố xứ. Biển hồn ta là khoảnh khắc thứ hai, khi vô thức cá nhân (một cái hồn đã từng say sưa với trần gian hiện tại, đã nhận lấy trong thâm tâm «giọng hờn đau trăm vạn nỗi niềm riêng») dạt dào hoà vào cùng vô thức tập thể, (cái hồn chung nguyên thuỷ), bằng các trạng thái « tuôn ra làm biển cả », «tràn lan ngoài xứ lạ», «dâng cao tới chân trời», «mửa ra từng búng huyết». Theo đó, biểu hiện của Hồn ta là Máu huyết, Sóng Lòng, biểu hiện của Hồn ai là Xứ lạ, Chân trời. Sáng láng, khoảnh khắc thứ ba, hồn thanh tịnh. Người thơ bắt lại tương giao với Nàng. Anh với Em nơi đây không còn hằn cay đắng, không còn nặng tục luỵ. Bởi vì «Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt/ Để chập chờn trong ánh sáng mông lung», và vì tình ta đã là tình thiêng, nên hồn em cũng đi vào huyền diệu «Chúng ta biến, em ơi, thành thanh khí». Người sáng láng, Tình sáng láng và Trăng sáng láng. Nhưng hành trình tìm về còn nhọc nhằn. Khi nguồn ấm của vô thức nhân loại mờ đi, Hồn lại tựa vào Trăng. Một loạt bài thơ về Trăng, mang lại những mảnh Trăng, lấp lánh đất và trời, hiện tại và quá khứ, những khuôn mặt Trăng biến ảo và dị kỳ : Ngủ với trăng, Say trăng, Rượt trăng, Trăng tự tử, Chơi trên trăng, Một miệng trăng. Những bài thơ này điệu thơ khác lạ. Tất cả đều là thơ tự do, hoàn toàn ngoài vòng cương toả, một điều ít thấy trước đây với Hàn Mặc Tử. Câu thơ lửng lơ, âm thơ nhẹ, hầu hết xưng ta, giọng đả đớt, rất dễ thương. Ngủ với trăng có hai phần, phần đầu nhìn lại Cái Ta đã qua, cái ta phân tán, cái ta đánh mất ; phần hai là cái ta thu về và chỉ dành nó cho Trăng thôi. Trong âm thanh và sắc màu vàng óng như hào quang của Trăng, người và thiên nhiên say ngủ: « Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ/ Đầy mình lốn đốm những hào quang» Với Say trăng, Trăng, Nước, Người nhoà trong nhau, một hôn phối lạ lùng. Vũng trăng, chính là vũng hạnh phúc, giúp thoát khỏi Hồn ta nhỏ bé («Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra ») Và trong Rượt trăng, Trăng dẫn lối cho đôi tình nhân vào rừng hoang, vào vũ trụ, vào thơ, họ là lứa đôi cõi mộng, cõi mơ : «Chúng tôi là người của ước mơ/Không xác thịt chỉ có linh hồn đang mộng», nhưng trớ trêu thay, Trăng lại biến thành người trần: « trăng ghen, trăng ngã, trăng rụng xuống mình hai tôi ». Rồi Trăng tự tử : « Miệng giếng hả ra / Nuốt ực bao la », Ta là người cứu vớt : « Nhảy ùm xuống giếng vớt xác trăng lên ». Rồi Trăng trở lại là Vườn tiên (Chơi trên trăng), là Hương « Ta ngậm hương trăng đầy lỗ miệng » (Một miệng trăng). Máu và Hồn ta sẽ chỉ còn hiện diện trong thoáng chốc, để chuyển vào Lá Tinh hoa, hoa Phước Lộc, vào đóa Trăng Vô lượng (Rướm máu, Trút linh hồn) : « như bông trăng nở, bông trăng nở/ Những cánh bông thơ trắng ngạt ngào». Trong hành trình vào xuân mộng, Người sẽ mang theo mùi hương cũ, màu nắng cũ, trang sách cũ, niềm thương cũ để dâng tặng Đất trời xưa. Mạch lòng đã chuyển : « Sáng vô cùng, những phút giây thanh thoát » (Ngoài vũ trụ) để dẫn vào Xuân như ý. Với Xuân như ý, vô thức cá nhân đã hoà vào vô thức uyên nguyên của nhân loại. Bằng trực giác, Hoài Thanh đã có những cảm nhận thật tinh về tập thơ này : «Mùa xuân Hàn Mặc Tử nói đây có khi ở đâu hồi trời đất mới dựng nên… », «Thơ chẳng những để ca tụng Thượng đế mà cũng để nối người ta với Thượng đế…. » « Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ cuả các tín đồ đời Thượng cổ», «chỉ những tình cảm có thể diễn ra thành thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể»[20]. Tương thông đã nối kết, khúc hoan ca bừng lên: « Xuân ra đời…/ Điềm ngọc ấm như ngà, /Thơ có tuổi và chiêm bao có tích » (Ra đời) ; «Trăng và trăng cho thấm hết mọi nơi/ Trăng tờ mờ một trời mơ sớm nở/Mùa rộng rãi, trái trăng chao vô hạn» (Say Thơ) ; Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay.(Đêm xuân cầu nguyện) ; « Ta há miệng cho nguồn thơm trào vọt/Đường thơ bay sáng láng như sao sa » ; « Có người trai mới in như ngọc/ Gió căng hơi và nhạc lên ngàn ». Thượng Thanh Khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội : là các Cảnh sắc khác nhau của Tiên giới. «Huyền bí mà không thiêng liêng» (Hoài Thanh), nơi đó vẫn có khát vọng lứa đôi. Nàng của thi nhân là Xuân, là Trăng (Cưới xuân, Ưng trăng, Vọc Trăng), là Thương Thương, người đàn bà đầu tiên của Hàn Mặc Tử, trong kiếp trước(Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội). Trong thời điểm này, không gian thơ cũng trở nên chật chội với Hàn Mặc Tử, chàng đáp mình vào văn xuôi. Những phân tích trên đây sẽ được sáng tỏ thêm khi ta đọc phần văn xuôi của Hàn Mặc Tử. Nếu thơ ca của ông là mê cung thì văn xuôi là tỉnh giới. Ông đã thốt lên rất rõ rành những khát khao và trạng thái mà mình đã trải qua trong khi sáng tạo: «Thi sĩ đã ngất ngư trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất cả những lương thực ngọt ngào mỹ vị làm bằng hương báu, làm bằng nhạc thiêng, làm bằng rựou say, làm bằng châu lệ. Song le miệng lưỡi của thi sĩ vẫn còn nóng ran, vẫn còn khát khao thèm thuồng những vật lạ muôn đời (…) Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt» «Nếu để thơ trơ trọi một mình, thơ sẽ lạt lẽo vô duyên, không có phong vị gì nữa. (..) Văn thơ không phải bởi không mà có (…) Thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ứơc ao trở lại trời, nơi đã sống ngàn kiếp vô thỉ vô chung, với những hạnh phúc bất tuyệt »[21]. Tôi làm thơ ? – Nghĩa là tôi yếu đuối quá ! Tôi bị cám dỗ (…) cô sẽ lạc, vì vườn thơ tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa càng ớn lạnh »; « Những phút sáng láng như hôm nay, soi sáng linh hồn tôi và giải thoát cái « ta » của tôi ra khỏi nơi giam cầm của xác thịt (...) Em muốn bay thẳng lên trời để tìm ánh sáng muôn năm thôi » ; « Như có ma lực vô song xô tôi đến bến bờ huyền diệu (…) đang khi trăng sao mây khói dâng cao hoà hợp thành khí hạo nhiên, tôi không thở bằng phổi nữa, tôi thở bằng hơi thở tinh sạch của hồn tôi ». « Tôi hứng lấy và nhận lấy ở trong hồn muôn ý tứ và muôn thinh sắc của trời mộng xa xưa (…) Từ sự thực đi tới bào ảnh, từ bào ảnh đi tới huyền diệu, và từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Mông lung đã trùm lên sự vật và cõi thực, bị ánh sáng chiêm bao vây riết.. (…) « Bây giờ tôi là chủ quan rồi, vì tôi vừa thoát ly ra khỏi cực lạc giới toàn thân tôi rung động như một đường tơ » « Những điều phải trái ấy dầu thế nào, cũng có liên lạc, mật thiết và thông cảm với nhau» Hôm qua và hôm nay. «Chân lý ngàn năm»[22]. Và như vậy, có thể nhận ra, quá trình sáng tạo của Hàn Mặc Tử là sự di chuyển không ngừng từ bờ nọ sang bờ kia của Hồn mình và Hồn nhân loại: Văn xuôi, Lệ Thanh Thi tập, Gái quê, chủ yếu là neo ở bờ ý thức, Đau thương, Xuân như ý phần lớn lạc vào nẻo sương mù vô thức, trong đó có cái cá nhân và cái cộng đồng. Bằng vô thức cá nhân, Hàn Mặc Tử chỉ có thể làm nên cái kỳ dị và kỳ lạ. Chạm đến vô thức cộng đồng, thơ ca ông mới có được cái bến bờ huyền diệu rộng rinh và hồn thơ ông mới sống được ngàn kiếp vô thỉ vô chung. Trên cái nhìn này, ta cũng sẽ hiểu vì sao trong thơ Hàn Mặc Tử đức tin Ky tô giáo lại chan hoà cùng Phật và Lão giáo. Ta cũng sẽ cắt nghĩa được những lời kỳ dị, những cảm xúc lạ thường, những hành động không bình thường, cái mà trong mỹ học, người ta gọi là Grotesque - Cái nghịch dị, trong thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử. Đó là biểu hiện và hành xử thái quá của con người thuở đầu tiên. Cổ mẫu trong thơ Hàn Mặc Tử, như ta đã thấy, không chỉ là Trăng, nhưng quả thật, Trăng là biểu tượng chủ đạo. Đã đắm mình trong thơ ông, từng bước theo Trăng, giờ thoát ra, nhìn lại, ta lạnh người khi nhận ra cái minh triết của Người thơ đã trùng khít với cái minh triết của Nhân loại. Trăng đã đánh thức ở ông tất cả, như người ta đúc kết, Trăng làm thức dậy « cái siêu thức, trí tưởng tượng, tâm thần, mộng mơ, các xung lực bản năng . Đấy là phần nguyên thuỷ đang ngủ trong ta, còn sống động trong cái tưởng tượng, nó nhào nặn cảm xúc sâu xa của chúng ta (…), buông mình theo cơn cuồng say của bản năng, thả mình vào cơn lên đồng của một run rẩy sống, nó cuốn tâm hồn thất thường, lang bạt, phóng đãng, ngông cuồng viễn vông của mình đi, phó mặc cho phiêu lưu.. »[23]. Cuối cùng, có thể nói, cái tuyệt đối mà Hàn Mặc Tử đi tìm là Cõi Mộng Ngàn Xưa, nói như Hàn Mặc Tử, hay là Thiên đường đã mất, tên một tuyệt tác của John Milton, từ thế kỷ 17, đã trở thành một cụm từ quen thuộc mang tính biểu tượng ở Phương Tây. Khác với Thiên Thai trong huyền thoại và trong thơ Tản Đà, Thiên đường của Hàn Mặc Tử không phải là địa điểm mà là một trạng thái của tâm linh: « cái khoái lạc trinh trắng”, «cái hạnh phúc sáng láng » « cái vô ưu miên viễn », « cái an nhiên tự tại » của một con người đã hợp thành nhất thể với nguồn sống uyên nguyên của cộng đồng và vũ trụ. Là đứa con tài hoa của văn hoá phương Đông và phương Tây, Hàn Mặc Tử đã có một tư chất khác thường : năng lượng tâm linh của ông quá lớn, luôn luôn sôi trào ; khi được khai mở và khai mở đúng (nhờ Thơ và Trăng), nó đã bắt nhịp vào năng lượng tâm linh của nhân loại và vũ trụ. C.G. Jung đã gọi đó là cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa vô thức cá nhân và vô thức tập thể. Hiện tượng này cũng cho phép ta nhận ra ranh giới của nhân tài và thiên tài. Một bên bộc lộ hết sức mạnh của ý thức sáng tỏ để làm được những sản phẩm mẫu mực của thế giới người, một bên khai mở tối đa các xung năng chìm nổi trong mình, nối kết với xung năng của cộng đồng, của vũ trụ, để sáng tạo những điều kỳ ảo. (còn nữa)
-
(tiếp) 2. Những điều C.G. Jung xác lập trên đây cho phép ta nghĩ rằng nền văn học của một dân tộc nào cũng dung chứa trong lòng nó ít nhiều cổ mẫu. Văn học Việt Nam không là ngoại lệ, thậm chí ở đây có thể còn nguyên một kho tàng cổ mẫu quý giá mà giới nghiên cứu chưa chạm đến bao nhiêu. Đọc lại tác phẩm văn học dân gian và văn học thành văn Việt Nam, người viết ghi nhận trong văn học Việt Nam chi chít những cổ mẫu, trong đó có những cổ mẫu chung của nhân loại và những cổ mẫu riêng của cộng đồng người Việt, thoát thai từ huyền thoại. Dựa vào các tiêu chí trội bật, linh hoạt, lan toả cùng với tần số xuất hiện, bài viết chọn và tập trung khảo sát một số cổ mẫu quan trọng, xuyên qua đơn vị tác phẩm, từ văn học dân gian đến văn học thành văn, không phân biệt thể loại. Cổ mẫu Đất và Nước Tại sao lại không phải Đất và Trời? Những tài liệu về triết học và văn hoá học ở Việt Nam, khi đề cập đến vũ trụ quan người Việt nói riêng (và phương Đông nói chung) thường nêu ra cặp phạm trù đối lập đầu tiên là Đất và Trời, tương ứng với Mẹ và Cha, Âm và Dương. Tuy nhiên, trong khi đọc tác phẩm, người viết nhận thấy dù cổ mẫu Trời đã xuất hiện rất sớm trong huyền thoại (Thần Trụ trời, Bánh chưng bánh dầy..) và tiếp tục lưu dấu trong văn chương (Tản Đà, Hầu trời, Tiễn Ông Công lên Trời…), nhưng trong tương tranh với Nước để được sánh đôi cùng Đất, cổ mẫu Trời đã có phần lép vế, dấu ấn của nó nhoè đi, và cặp cổ mẫu văn chương Đất Nước trội lên, khi xoắn xuýt, khi tạm rời, làm nên ám ảnh: Con Rồng cháu Tiên, Chử Đồng Tử, Trương Chi, Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Mỵ Châu Trọng Thuỷ, Thiếu phụ Nam Xương, Thơ Hồ Xuân Hương, Thơ Tản Đà, Thơ Bùi Giáng, Truyện Nguyễn Huy Thiệp… Có thể thấy, cổ mẫu Đất và cổ mẫu Nước trong tác phẩm văn chương Việt Nam có những nét lớn, gần như trùng khít với cổ mẫu Đất và Nước trong nhiều tác phẩm văn chương thế giới. Điều ấy cũng dễ hiểu, bởi con người từ lâu đã kịp có những ghi nhận mang tính trực quan về đặc điểm vật chất của đất và nước. Đất: cứng cáp, đục thô, ổn định, rộng rãi, ngập tràn cây cối, nuôi sống muôn loài, đất như người Mẹ có sức sản sinh và tái sinh, bền bỉ trong một nhịp điệu âm thầm và bao dung ; Nước : mềm mại, trong trẻo, tinh khiết, luôn chuyển động, biến hoá, và xuyên thấm, là nguồn sống của vũ trụ. Cả hai đều là khởi đầu của mọi cái khởi đầu, vì vậy cảm giác của con người về Đất cũng gắn liền với cảm giác về Nước, trong khi đó Trời vẫn là một cái gì trừu tượng. Sử thi Mường có tên Đẻ đất đẻ nước với nhân vật Mụ Dạ Dần chẳng phải đã nói với chúng ta rất sớm về cặp đôi cổ mẫu Đất và Nước, bên cạnh cổ mẫu cây thuỷ tổ (cây Si) đó sao ? Vốn bao la, và đa dạng, Đất và Nước mang trong lòng nó những hình thái khác nhau : núi non, hang vực, gò, đống, rừng, vườn… ; biển, sông, ngòi, hồ, đầm, suối, mưa, sương…và mỗi hình thái này đến lượt nó, lại có khả năng trở thành những biểu tượng và cổ mẫu văn chương mới. Những cổ mẫu con này vừa dung chứa những nét chung của cổ mẫu mẹ Đất, mẹ Nước- đặc biệt là tính cố định, luân chuyển và tính sinh sôi- vừa hình thành những nét riêng. Lại có những cặp cổ mẫu sóng đôi mới : Non Nước, Non Sông… Nhưng rồi huyền thoại Con Rồng cháu Tiên đã bắt đầu nói lên sự phân ly giữa Đất và Nước, giữa Núi và Biển, qua hình ảnh «một người về đầu non, một người về vực sâu» (Trịnh Công Sơn) của đôi uyên ương Tiên Rồng, thủy tổ của dân tộc Việt. Bởi nhân vật Âu Cơ – « người ở trên cạn » cũng chính là biểu tượng gắn liền với Đất, người mẹ vĩ đại đã hoài thai trăm trứng, đã nuôi dưỡng trọn vẹn trăm con, đã dũng cảm tách lìa người đàn ông và năm mươi con của mình, mà vẫn vững vàng tạo nên cơ nghiệp cho đàn con còn lại. Còn Lạc Long Quân – «người ở dưới nước», đưa năm mươi con về với Biển quê hương và hút bóng. Cuộc phân ly này, theo như mạch chuyện huyền thoại, tưởng như một chọn lựa chủ động và bình thản. Kỳ thực, dường như từ đó trở đi, trong văn chương người Việt, Núi và Biển ngàn trùng cách biệt. Đến Sơn Tinh Thuỷ Tinh - một câu truyện mà nhiều người cho là huyền thoại về lụt, hay huyền thoại về cuộc chiến giành đàn bà - Biển trở thành biểu tượng của kẻ đến sau, thất bại và không nguôi cay đắng, chỉ vì sự thiên vị của con người (Vua Hùng thách cưới « voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao »). Trong nỗi đau của mình qua nhân vật Thuỷ Tinh, Biển không còn trong mình cái tinh thần của Mẹ Nước trước đây : là mạch sống của Đất. Huyền thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh nói với chúng ta rằng Biển đã ly khai, và trở thành biểu tượng của kẻ phá hoại không mệt mỏi mảnh đất loài người. Nếu với Thuỷ Tinh, diễn biến câu chuyện cho phép cổ mẫu Biển mang hai biểu tượng : kẻ thất bại và kẻ phá hoại, thì với Sơn Tinh, trí tuệ người xưa đã hai lần đánh lận với lẽ thường, một là luật chơi của người, hai là luật chơi của tự nhiên, để Sơn Tinh trở thành vừa là biểu tượng của kẻ thắng, vừa là hình ảnh của người có khả năng làm điều phi thường. Qua hình tượng Sơn Tinh, Núi đã khác với yếu tính của Đất Mẹ, có thể luân chuyển và biến đổi («Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi núi mọc cao lên bấy nhiêu» Sơn tinh Thuỷ Tinh, huyền thoại ; «Vung tay niệm chú. Núi từng dải,/ Nhà lớn, đồi con lổm ngổm bò/ Chạy mưa»- Nguyễn Nhược Pháp, Sơn Tinh Thuỷ Tinh).Nhưng dù là kẻ phá hoại, Biển vẫn có mặt thường xuyên với Đất và Người dân Việt «Từ đó không năm nào Thuỷ Tinh không làm mưa, làm bão dâng nước lên đánh Sơn Tinh, gây nên lụt lội khắp vùng đồng bằng và trung du nước ta». Từ truyền thuyết Mỵ Châu- Trọng Thuỷ trở đi, cổ mẫu Biển gần như khuất dạng trong văn chương Việt Nam. Có lạ không, khi dải đất hình chữ S nằm duỗi mình theo biển ? Phải chăng dấu ấn cuối cùng đậm sắc trong ký ức người Việt cổ về Biển vừa là biểu tượng về bước đường cùng của người anh hùng, vừa là chứng nhân tàn nhẫn của ba bi kịch lồng ghép vào nhau: bi kịch của một người lãnh đạo cộng đồng hiếu hoà và tự mãn (An Dương Vương), bi kịch của một người phụ nữ thuận thảo với cha, hết lòng với chồng (Mỵ Châu), bi kịch của một người đàn ông vừa phải tròn phận trung hiếu, vừa phải giữ nghĩa phu thê (Trọng Thuỷ). Biển, như vậy là một kỷ niệm đớn đau và nhục nhã mà người Việt cần phải quên đi, dù ánh sáng của trái tim đã mách bảo cho người xưa một liệu pháp hoá giải bi kịch, vào cuối truyện: ngọc - hồn Mỵ Châu ở biển Đông rửa giếng Trọng Thủy lại trở nên đẹp đẽ bội phần. Nhưng như vậy liệu có là suy diễn quá không ? Có người nói rằng văn chương Trung Quốc cũng không mặn mà với Biển: «Thi sĩ Phương Đông không ưa tả biển, không biết tả biển, nhưng tả cảnh thanh phong minh nguyệt thì thật là thần bút »[12]. Và những năm Bắc thuộc dài dằng dặc đã xua đi cái biểu tượng lẽ ra rất là gần gũi đó trong vô thức người Việt. Trong giấc mơ của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà… đặc biệt là Hồ Xuân Hương (với những bài thơ mà Đỗ Đức Hiểu khi đọc đã phải kêu lên «rất nhiều nước, sao lắm nước thế») - những con người tràn đầy khát vọng tự do, thấm thía cái chật hẹp ngột ngạt của không gian văn hoá Việt Nam thuở ấy- vẫn chưa có chỗ dành cho Biển. Cái hình ảnh «Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ? Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh/Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi» vẫn là một điểm xuyết quá nhạt, trong khi sông Tiền Đường đã là một biểu tượng quan trọng. Mãi sang thế kỷ XX, văn hoá phương Tây đã đánh thức ít nhiều cảm quan về Biển trong những nhà văn Việt Nam hiện đại. Bùi Giáng tự giới thiệu khuôn mặt thơ của mình: «Hỏi tên, rằng: Biển-Dâu-Ngàn / Hỏi quê, rằng “Xứ Mơ Màng”, đã quên”, Biển quả thật là một môtíp bàng bạc lai láng trong thơ Bùi Giáng, nhưng khe, suối, lạch với ông lại giàu sức gợi hơn. Chỉ đến Nguyễn Huy Thiệp, Biển mới được nói to lên, bồi hồi, thôi thúc trong Chương, chàng trai trẻ đồng bằng Bắc Bộ: «Nàng là ai? Con gái thuỷ thần? Nàng ở đâu? Con gái thuỷ thần?» «Trước mặt tôi là giòng sông đang thao thiết chảy. Sông chảy ra biển. Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển… mà tôi sống nửa cuộc đời rồi đấy… Thời gian cũng thao thiết trôi. Chỉ ít năm nữa đến năm 2000. Tôi đứng lên, đi về nhà. Ngày mai tôi đi ra biển. Ngoài biển không có thuỷ thần » (Con gái thuỷ thần). Giấc mơ Biển trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp là giấc mơ vượt thoát khỏi không gian tâm tưởng và xã hội, quán tính, tù đọng, đã tơi tả những lớp son tô vẽ (Mẹ Cả - Gianna Đoàn Thị Phượng - Cô Phượng - khúc gỗ mục của Lão già Đô Thi), đã luôn ràng buộc con người bằng những hệ luỵ nhỏ nhoi, vụn mảnh (Phượng kế toán và Phượng con ông trùm đạo), để tìm đến một cái gì toàn vẹn và mới mẻ: «Con thuồng luồng nín hơi bơi đi / Tránh những bến quen ê chề / Này bọn cá mương, cá ngao / Mày có bao giờ mơ về đại dương». Dù thế nào, cũng nhận ra rằng trong văn chương Việt Nam, Biển đã không tạo thành một cảm hứng nghệ thuật lớn và liên tục. Dân tộc Việt phần lớn đã quay lưng lại Biển. Phải chăng bởi vì người Việt thoáng nhận ra, từ bản chất, Biển luôn ở trạng thái chuyển động mạnh, là sự «quá độ giữa các khả năng còn phi hình và các thực tại đã hiện hình, một tình thế nước đôi, bấp bênh, hồ nghi»[13] nên e ngại ? Bên cạnh đó, quan niệm « Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thuỷ » thoát thai từ Trung Quốc, có lẽ ít nhiều cũng thuyết phục trí thức Việt Nam, vốn chọn chữ Nhân làm đầu. Bên cạnh cổ mẫu Biển, những người anh em của nó có phần được ưu ái hơn, đặc biệt là Sông, Đầm, Giếng. Có thể nói, cổ mẫu Sông gần như chiếm lĩnh trang viết và khái niệm non sông gần như bình đẳng với khái niệm đất nước và non nước về ý nghĩa. Sông để lại dấu ấn đậm trong tâm thức người Việt đến mức có khi nó thay thế cả Biển trong điển cố «bể dâu» («Thương hải biến vi tang điền»), để nói lên cảm thức về sự biến dịch (Sông Lấp của Trần Kế Xương), mà lại rất gợi, vì đã bước ra ngoài thế giới công thức, là sự khắc phục điển phạm, vốn đã mòn nhẵn. Con sông đầu tiên nào vắt ngang huyền thoại , làm thành cổ mẫu Sông đầu tiên? Phải chăng đó là Sông Khàn-bến Khạn (KHÔÔNG KHAN-PỆN KHẠN), trong huyền tích Mường mà Từ Chi đã phân tích, mải mê và hứng thú ? Nếu đúng vậy thì cổ mẫu Sông nguyên khởi của mảnh đất này đã là chị em sinh đôi của nhiều cổ mẫu Sông của các dân tộc khác. Đó là biểu tượng về một lằn ranh chia cách, làm thành hai thế giới, là một trở ngại mà con người phải vượt qua: Trời và Đất, dương gian và địa phủ. Bước sang bờ kia là một cuộc đời khác. Gắn liền với sông suối là bến bờ, là con đò, là chiếc cầu. Lại có biểu tượng Bến Mê, cầu Nại Hà…Lại có những khái niệm Hoàng tuyền, Suối vàng, sang ngang… Khi cuộc sống xã hội chớm hình thành, phận người đã hiện, Sông là hình ảnh bên cạnh người, dành cho người. Sông trong Chử Đồng Tử là biểu tượng của người chứng ân cần, gần như ông Tơ bà Nguyệt, run rủi cho chàng trai nghèo mồ côi Chử Đồng Tử gặp được người con gái lá ngọc cành vàng Tiên Dung. Sông trong thiên diễm tình này hiện lên với ba khuôn mặt : Với dòng nước – cái chính, Sông ở đây là nơi kiếm sống và ẩn thân của Chử Đồng Tử, là chốn rong chơi ngoạn du hồn nhiên của Tiên Dung; Là bãi sông - cái ngoài rìa, Sông là điểm hạnh ngộ trong tình huống vừa oái oăm vừa kỳ ảo của đôi bạn trẻ. Điều đáng nói là, sau khi chọn nhận nhau, đôi uyên ương vượt chuẩn này đã không dừng lại với Sông mà tìm đến vùng đồng lầy hẻo lánh, để tránh sự truy tìm của vua cha. Cổ mẫu Đầm xuất hiện, như một phép lạ: Đầm Dạ Trạch. Phải chăng chính thời khắc này, ở nơi đây đã có sự hội tụ của ba yếu tố: Thiên (thời - chiếc gậy và cái nón lá của vị tiên) Địa (lợi - cái đầm) Nhân (hoà - tình yêu của đôi trẻ), nguồn gốc của cường thịnh, cho Chử Đồng Tử và Tiên Dung làm nên việc lớn, trong một đêm, nơi đầm lầy ẩm ướt hoang vu trở thành làng mạc đông vui, sung túc. Đây là điểm khác nhau giữa Á và Âu trong cách nhìn về biểu tượng Đầm. Và bởi là hình ảnh của cái phi thường, đã đạt đến độ viên mãn, cũng như Thánh Gióng, vợ chồng Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay về trời. Chỉ riêng môtíp bay về trời, như một kết thúc có hậu này, cũng mang tính đa nghĩa, mời gọi ta phán đoán. Theo cách nói thông thường, từ triết lý nhà Phật, Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã có duyên với nhau, («Có phải duyên nhau thì thắm lại» - Hồ Xuân Hương). Còn Trương Chi - Mỵ Nương là biểu tượng của sự lệch pha trong tình yêu, bi kịch của ngộ nhận. Mỵ Nương là hình ảnh nhân vật nữ tương tư đầu tiên của Việt Nam, chỉ vì yêu mà lâm bệnh. Hẳn rằng tiếng hát Trương Chi sẽ không thể nào vang đến đôi tai tinh tế của Mỵ Nương và sẽ không dặt dìu, mênh mang đến thế, nếu không có sóng gió của giòng sông đi ngang nhà nàng. Sông ở đây vừa là chốn mưu sinh, vừa là nơi tiếng hát Trương Chi thăng hoa, vừa là nơi kết thúc cuộc đời của chàng dân chài bất hạnh, và là nơi lưu giữ hồn chàng, để cuối cùng giúp cho khối tình u uẩn của chàng được hoá giải. Sông với Mỵ Nương là biểu tượng của ảo ảnh, đánh thức tâm hồn lãng mạn , phơi lộ khát vọng về cái Tuyệt đối, và hé mở trái tim trắc ẩn của nàng. Giòng nước như là nơi cho đi và lấy lại sự sống là một môtíp rất phổ biến trong tác phẩm văn chương Việt Nam. Trên đây chúng ta đã gặp An Dương Vương, Mỵ Châu (biển), Trương Chi (sông), Trọng Thuỷ (giếng). Riêng cổ mẫu Giếng, vốn giàu sức ám ảnh trong văn chương Việt nam, chuyên chở những ý nghĩa khá đa dạng, không khác với nhân loại bao nhiêu : Đó có thể là « con đường liên thông của sự sống » : giếng của Tấm, giếng của Hồ Xuân Hương ; và cũng thường khi là nơi kết thúc và tái sinh : Giếng Trọng Thuỷ, giếng của Hàn Mặc Tử (Trăng tự tử). Với người Thiếu phụ Nam Xương , giòng sông trở nên «kỳ ảo», mượn cách nói của Đặng Anh Đào. Trong sự sóng đôi với Lửa để làm nên Bóng, cổ mẫu Sông nước trong Thiếu phụ Nam Xương đã được nâng lên một tầm cao mới lấp lánh tầng tầng ý nghĩa. Nếu cái Bóng của ánh đèn đêm đêm, dù là được «nhân hoá» bằng trí tưởng tượng khá lãng mạn của người vợ trẻ, vẫn là hình ảnh lặp đi lặp lại, đơn điệu, đơn màu trên vách hẹp, thì cái Bóng trên sông nước «kiệu hoa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông» thoáng qua, lộng lẫy, đa màu, mênh mang…Dân gian nói với chúng ta rằng, đó là sự khác nhau vời vợi giữa bóng người - cái làm ta ngộ nhận, và bóng thần - cái làm ta ngưỡng vọng: giòng sông đã giúp người thiếu phụ Nam Xương tái sinh trong thế giới Huyền. Trong suy tưởng về Nước, văn chương Việt Nam thường thích nắm bắt Nước trong những hình thái rõ rệt : Biển, Sông, Suối, Đầm, Giếng, nhưng đôi khi Nước cũng được thể hiện như là chính nó, từ trời rơi xuống, từ đất bốc lên, nghĩa là chạm đến cái luân chuyển linh hoạt kỳ diệu của Nước như là sự giao hoà trong vũ trụ. Bài thơ Thề non nước của Tản Đà, là một ví dụ. Nước ở đây được nhìn trên góc độ bản thể, trong tương quan với Non (là Núi, nhưng được mặc lên ý nghĩa tinh thần), làm thành đôi bạn tâm tình, nói với nhau những lời thắm thiết : « Non cao đã biết hay chưa/ Nước đi ra bể lại mưa về nguồn ».. Và nước rơi xuống từ trời. Lạ thay là tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ Thần Mưa (Pháp Vũ), nhưng trong huyền thoại và cổ tích rất ít có Mưa. Mưa sương xuất hiện trong văn chương Việt Nam trung đại cũng thấp thoáng, tiết chế. Mưa ở đây chưa phải là nhân vật, và như vậy cũng chưa thể là biểu tượng. Tuy vậy, cũng có thể dẫn ra đây những hình ảnh mưa sương giàu sức gợi : « Đầm đìa lá liễu hạt sương gieo», «Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm», «Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm » (Thơ Hồ Xuân Hương) «Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ» (Nguyễn Gia Thiều, Cung oán ngâm khúc), để có thể nghĩ rằng người Việt xưa cũng nhìn thấy Mưa Sương như là ân sủng của Trời «là nguồn ân ái chan chan giữa người và vũ trụ», cho nên mới có những khái niệm «ơn mưa móc», «cuộc mây mưa».. Đến thời hiện đại, Mưa Sương tràn ngập tác phẩm văn chương. Những cơn mưa nhiệt đới cuồng bạo, những màn sương lúc u ám, lúc tràn đầy chất thơ. Mưa Sương đã là môtíp văn chương phổ biến (Thơ Mới, văn xuôi hiện đại), nhưng để là biểu tượng, trong tìm hiểu còn hạn hẹp của mình, người viết mới chỉ nhận ra ở Bùi Giáng và Nguyễn Huy Thiệp, hai tác giả sẽ được nói kỹ ở phần sau. Người đem lại cho Đất và Nước một khuôn mặt mới mẻ, lạ thường, chính là Hồ Xuân Hương. Câu hỏi nằm trong phạm vi quan tâm của chúng ta : Vì sao trong Đất và Nước, Hồ Xuân Hương lại chỉ có cảm hứng với những : động, hang, hẻm, kẽ (rêu) khe, lách, lạch, giếng, nước tát… Lách khe nước rỉ…, Sóng dồn mặt nước… Một dòng nước biếc…Một lạch Đào Nguyên…Đầm đìa lá liễu hạt sương gieo, nghĩa là những hình thái Đất và Nước nhỏ, hẹp, ở những vị trí khuất nẻo, hóc hiểm, như thế ? Bằng cả một chuyên luận công phu và đặc sắc: «Hồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực », Đỗ Lai Thuý đã trả lời câu hỏi này, rất thuyết phục, với phê bình cổ mẫu: «những biểu tượng phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương đều là những biểu tượng văn hoá-tôn giáo. Chúng là hiện thân của những siêu mẫu..» và «Hồ Xuân Hương, người đã biến tín ngưỡng phồn thực thành triết lý phồn thực, biến những biểu tượng phồn thực thành mỹ học phồn thực và đưa tính dục ở trình độ dân gian thành văn hoá tính dục» [14].
-
Tuổi nam 1957 - Đinh Dậu - Tuyền Trung Thủy Nam 1974 - Giáp Dần - Phúc Đăng Hỏa (theo Lạc thư Hoa giáp) Cặp này Thiên Can sinh trợ lẫn nhau, đủ âm đủ dương. Cho nên thực chất đôi bên đều có thể giúp nhau. Mạng Thủy - Hỏa khắc, Thủy lớn nhưng Nước trong khe ngầm cũng không khắc được lửa ngọn đèn nhiều. Được việc người này sẽ hỏng việc người kia. Quyền lợi của người này được thì người kia phải mất. Ai cũng thấy được vị thế của mình nên không ai muốn chịu ai. Thủy lớn nên có xu hướng muốn lấn át hơn. Dậu tuyệt Dần. Đôi bên khó có hòa khí. Như vậy mối quan hệ này dù muốn hay không cũng khó hòa thuận. Muốn điều hòa phải có thêm những người trung gian hoặc công việc có tính trung hòa được đôi bên. Xem ra khả năng này không thuận lợi lắm. Gặp vào những năm Dậu Tuất Hợi là năm tam tai của Tỵ nên chắc chắn anh sẽ không khỏi bức bối. Vì là trời thử thách người nên không có gì tốt hơn là tu tâm, tạo cách từ chính mình để khắc chế lại hoàn cảnh, vượt qua thử thách. Vượt qua vận hạn sẽ thấy thênh thênh. Không biết anh thấy có thỏa đáng không? Phoenix không tập trung để xem thêm về các yếu tố khác (tử vi, quẻ...) cho nên chỉ nói sơ được vậy. Nếu vẫn thấy cần thì anh nhờ các ACE giúp thêm. Chúc tốt đẹp!
-
Sách về tử vi thì có quá nhiều, trường phái phân chia cũng nhiều, có các dị biệt là đương nhiên. Các bạn muốn kiếm chứng thì chờ thêm Tử vi Lạc Việt của chú Thiên Sứ. Cứ kiểm chứng hết đi rồi chọn một cái đúng cái cuối cùng cho mình cũng chưa muộn . Theo kinh nghiệm của Phoenix thì không ai hiểu lá số của mình bằng chính mình. Cứ dùng mình để kiểm chứng là xác đáng. Mấy lời dông dài, tham khảo thôi nhé.
-
Phoenix nghiên cứu về Văn hóa doanh nghiệp. Đọc bài này buồn quá chị wildlavender ơi!
-
Nếu bạn cần sách, tài liệu mà không tìm được ở đâu thì cho Phoenix địa chỉ e-mail, Phoenix sẽ gửi cho bạn. Sách có rất nhiều nhưng quan trọng nhất là cách bạn học thôi. Bạn có thể xem cuốn Tử vi của Thái Thứ Lang để bắt đầu. Ý kiến cá nhân, bạn tự quyết định nhé! Chúc tấn tới!
-
Phoenix không dám "chỉ giáo" đâu ạ. Chỉ xin chia sẻ ít kinh nghiệm thế này thôi: - Thứ nhất phải nhìn toàn cảnh - Thứ hai tập trung vào cảm giác đầu tiên (ấn tượng ban đầu) - Thứ 3 quan sát bố cục (chủ thể chính - phụ, cự ly, tỉ lệ) - Thứ 4 quan sát màu sắc - Thứ 5 tập trung để cảm nhận Giai đoạn ra quẻ thường là 2 yếu tố đầu quyết định. Nhìn toàn cảnh và chọn chi tiết ấn tượng --> xem phản ứng cảm giác (cảm nhận) của mình thế nào. Cảm xúc càng mạnh, ra quẻ càng nhanh thì độ ứng càng cao. Giai đoạn ngẫm quẻ thì có thể tập trung vào 3 yếu tố sau Tuy nhiên, Phoenix cũng thấy có một chi tiết đáng chú ý là việc ngắm nghía kỹ mới ra quẻ cũng cho quẻ chính xác khá cao. Vấn đề này còn phải ngẫm thêm. Nếu các ACE có kinh nghiệm thì mong được chia sẻ. P/S: Phoenix còn rất nhiều ảnh dễ "cảm" lém :lol:
-
Nguồn: http://www2.thanhnien.com.vn/Khoahoc/2005/4/4/80791.tno "Gà chín cựa" là có thật 21:40:20, 28/02/2005 Trong chuyện kể Sơn Tinh, Thủy Tinh, khi công chúa Mỵ Nương đến tuổi cầu hôn, vua Hùng ra điều kiện ai đem lễ vật gồm "voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao" đến trước, vua sẽ gả công chúa. Ba loại dị thú này trước đây chưa ai được thấy. Vậy mà một trong 3 loại dị thú ấy là "gà chín cựa" đã xuất hiện ở một xã vùng sâu của tỉnh Trà Vinh. Người may mắn sở hữu được con gà chín cựa là ông Võ Văn Thùy, ngụ tại ấp Bưng Lớn B, xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè. Ông Thùy, nay đã 60 tuổi, thủng thẳng nói: "Tôi là công an về hưu nên không nói dóc miếng nào, gà chín cựa là có thật, rồi nó đạp mái ấp nở ra một gà con chín cựa nữa". Ông Thùy nhớ lại, mấy năm trước khi cho gà ăn ông mới phát hiện con gà điều tơ mấy tháng tuổi có điểm khác biệt là 2 chân lú cựa tựa như hột bắp và chúng nổi cả giề trong khi gà mẹ lông vàng, gà bố là gà ô nòi từng ăn nhiều "độ" chân cẳng bình thường không có gì khác thường. Thấy lạ ông mới nuôi giữ, canh chừng riết; tới khi gà biết gáy, nặng trên 1,5 kg, cựa lú dài lên thành hàng cả thảy 9 cái ông mới tin là gà chín cựa có thật trên đời. "Tôi đếm chân trái 4 cựa, chân phải 5 cựa mới nói cho gia đình hay. Bà vợ tôi sợ quá trời, bả nói hồi xưa tới giờ nuôi nhằm heo 5 móng, chó 6 ngón ai cũng sợ bởi chúng mang đến điềm xui. Tôi mới cãi, kể lại tích xưa rồi trấn an bảo bà đây là gà từng dâng vua đó, may mắn lắm mới có". Thấy con gà lạ quá, ông Thùy sợ bị trộm lấy mất nên giấu biệt không cho hàng xóm hay. Ông để ý thấy gà chín cựa bay nhảy, đạp mái, bươi đất cũng bình thường. Mà cũng lạ một điều là gà chín cựa đạp nhiều mái nhưng hầu như trứng nào cũng chỉ nở ra gà thường. Duy chỉ có một con mái tơ nhà ông Bảy Thùy là ấp nở được một con gà chân cũng có chín cựa. Ông Bảy Thùy cũng ít cho gà “xổ” bởi sợ gà đá bị gãy cựa. Chúng tôi đề nghị được xem con gà này và chụp ảnh thì ông Thùy buồn so: "Chú nhắc lại làm tôi thêm buồn, nó bị bệnh vừa chết trong đợt dịch này. Khi phát hiện nó bệnh tôi chăm sóc kỹ lắm, bệnh rề rề gần nửa tháng trời mà không qua. Lúc chết mặt nó còn đỏ au, không tái mét". Anh Tú - cán bộ thú y xã nhớ lại lúc đó ông Bảy cứ lui tới gặp anh hoài để hỏi thuốc trị bệnh cho gà chín cựa. Ông Thùy nói lúc đó ông tiếc quá, tính làm gà tiêu bản nhưng không biết kỹ thuật nên cuối cùng chỉ còn giữ lại cặp chân gà. Chúng tôi đếm chân trái có 4 cựa, chân phải 5 cựa. Mỗi cựa dài khác nhau, mọc nối theo hàng, từ trên xuống dưới cựa càng ngắn dần, có cựa dài 5,5 phân, có cựa 2-3 phân, có cựa 4-6 ly, có cựa móc lại như lưỡi câu, có cựa mới lú cỡ hột bắp. Vẫn không nản chí, chúng tôi quyết đi tìm tông tích chú gà con chín cựa nêu trên. Anh Quang Thông - phóng viên Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại Cần Thơ - người có may mắn quay lại hình ảnh gà bố chín cựa lúc còn sống kể: "Tướng gà bố đẹp nhưng có lẽ do chân 9 cựa khiến nặng nề nên đá đòn hơi chậm. Con bố đẹp mã nhưng gà chín cựa con còn đẹp hơn". Con gà con này ông Bảy Thùy đã cho lại sui gia là ông Út Tường tức Huỳnh Văn Tường, ở ấp Rạch Nghê, xã Thông Hòa, Cầu Kè. Theo lời chỉ của ông Bảy Thùy, chúng tôi đến nhà ông Út Tường. Qua đò sang bên kia sông gặp Út Tường chúng tôi thở dài khi ông Tường buồn hiu đưa chai rượu: "Tiếc đứt ruột chú ơi, nó bị dịch cúm chết rồi. Tôi không biết làm gì hơn là lấy chân gà ngâm rượu cho con cháu có cái để xem sau này". Chân gà này cũng có 5 cựa, nhưng ngược cái là chân phải 4 cựa, chân trái 5 cựa, gà còn tơ nên cựa chưa mọc dài. Rất tiếc khi cả hai con gà chín cựa đều đã chết, hai cặp chân gà đang lưu giữ chưa được giám định nhưng những thông tin có được về nó cho thấy đây đúng là một loại gà dị biệt. Cửu Long
-
Nguồn: http://www.baotienphong.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=119922&ChannelID=2 Thứ Ba, 22/04/2008, 17:48 Bệnh lạ tiếp tục xuất hiện ở Quảng Trị TP- Thầy giáo Lương Thế Vinh - Hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc nội trú huyện Đakrông, cho biết: Trong 3 ngày qua (18-20/4), lại thêm 15 học sinh khối 6 và 7 ở trường này tiếp tục bị mắc bệnh lạ. Các học sinh này có biểu hiện đau đầu, la hét, đập phá bàn ghế, nhảy múa loạn xạ, rồi chạy vào rừng trốn và sẵn sàng tấn công vào bất kỳ ai ngăn cản. Trước đó, 36 nữ sinh ở đây cũng từng mắc căn bệnh lạ lùng này, Đây là lần thứ ba căn bệnh lạ này xuất hiện ở Trường PTDT nội trú Đakrông (lần đầu vào năm 2001). Sau khi nhận được thông tin bệnh lạ tái xuất hiện ở Trường PTDT nội trú Đakrông (đóng tại Làng Cát, thị trấn Krông Klang), một đoàn cán bộ liên ngành của tỉnh Quảng Trị đã có mặt tại đây để kiểm tra tình hình, nhưng vẫn chưa có kết luận cụ thể bệnh gì. Hữu Thành
-
Về Xuân Sơn mới hay gà chín cựa - Nguồn: http://nongdanviet.hnsv.com TP- Có lẽ người ta vẫn nghĩ gà chín cựa, ngựa chín hồng mao chỉ có ở trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh chứ làm gì có thật. Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ lại có giống gà ấy ở trên đời. Thế mà một lần đến Xuân Sơn (Thanh Sơn, Phú Thọ) tôi đã được đồng bào người Dao đãi thịt gà chín cựa thực sự. Chúng tôi đi xuyên vườn quốc gia Xuân Sơn dưới mầu xanh ngằn ngặt của bóng núi và mây trời. Bản Cỏi của người Dao nằm lọt thỏm trong vòng vây của rừng già, núi cao và vực sâu. Mặc dù vừa đi nương về, nhưng đích thân Trưởng bản Đặng Vĩnh Phúc vào bếp nấu cơm thết khách. Bữa tối được dọn ra trong ánh sáng vàng đục của thủy điện gia đình. Thịt gà ngọt lừ, ngọn đu đủ luộc nhân nhẩn đắng, rượu hoẵng (một loại rượu được ủ bằng men lá rừng theo công thức riêng của người Dao) êm nhưng bốc lửa. Chủ nhà gắp một chiếc chân gà từ bát canh măng trịnh trọng bỏ vào bát của khách. Mắt tôi như hoa lên bởi chiếc chân gà lạ chưa từng thấy, có tới sáu cái cựa. “Gà quý thế mà bác lại thịt? Phí của quá!” - Tôi thắc mắc. Ông Phúc nhón một miếng thịt gà đưa lên miệng nhai rồi chiêu một ngụm rượu và nói: “Quý gì, nhà tôi có cả chục con cơ, cần xem xét, nghiên cứu gì cứ ngủ lại đây, sáng ra tôi bắt cho mà xem”. Vừa bảnh mắt ra, căn nhà đã đầy tiếng gà “quác quác”, táo tác. Chạy ra ngoài sân thì thấy trưởng bản đang quăng chài bắt gà. Mấy con gà to nhanh chân chạy mất, chỉ còn lại một con nhỏ bằng nắm tay. Tuy bé thế nhưng con gà đã có sáu cựa nhỏ li ti chạy đến tận khuỷu chân. Ông Phúc bảo tôi: “Đây là giống gà truyền thống của dân bản. Điều đặc biệt là không chỉ có gà trống có cựa mà gà mái cũng có cựa”. Cựa của gà mái là những ngón chân nhỏ mọc tới khuỷu chân. Trong cùng một lứa, cùng một mẹ đẻ ra vẫn có những con gà có nhiều cựa và có con không cựa. Gà nhiều cựa thân hình mảnh dẻ, bình thường hay chạy lên đồi nứa, nương rẫy đào giun, bắt dế, thỉnh thoảng mới nhận được nắm ngô, nắm gạo của chủ nuôi. Chúng cứ đi ăn từ 4 giờ sáng đến tối thì tự động về chiếc chuồng quây bằng phên nứa, lợp lá cọ, chẳng phải bắt nhốt gì cả. Được 5 - 6 tháng tuổi, gà trống nặng chừng 7 - 8 lạng, bắt đầu trổ mã, tập gáy. Gà mái nặng chừng 5 - 6 lạng thì đã đòi nhảy ổ và thịt được rồi. Khả năng bay nhảy của gà nhiều cựa rất giỏi. Trong bờ bụi, chúng lủi nhanh như cuốc và bay lượn như gà rừng. Muốn bắt chúng vào ban ngày chỉ còn cách dùng chài quăng hoặc dùng nỏ mà bắn. Gà nhiều cựa thường rất hiếu chiến, nhất là những con gà trống. Chú gà lạ nào lớ ngớ đi vào vùng nuôi thả của gà nhiều cựa là bị đánh cho tơi bời, lông, mào tã tượi và chỉ có cách chạy tháo thân. Giống gà này ít chịu phối giống với các loại gà khác, đưa đi xa thì chẳng biết thế nào lại không sống nổi. Vừa rồi, ông Phúc có cho cô em dì bên Phù Yên (Sơn La) 4 con thì nay đã chết cả. Gà nhiều cựa thường có ở những con lông màu đỏ; những con màu nâu, màu trắng thường ít có. “Giờ đàn gà của tôi chỉ còn con bảy cựa là nhiều, chú sang nhà ông Lâm xem sao. Ông ấy nuôi gà giỏi lắm” - Ông Phúc khuyên tôi. Biết ý định của tôi, ông Lâm cứ thần mặt ra rồi chặc lưỡi tiếc: “Giá chú lên đây sớm một tuần có phải tốt không. Tôi vừa thịt con gà chín cựa nặng đến 1,7 kg đãi khách rồi. Giờ chỉ còn chú gà trống này là có tới bảy cựa thôi, tiếc thật”. Nhà ông Lý Phúc Lâm có tiếng là nuôi lắm gà nhiều cựa ở bản Cỏi. Trước đây, thường xuyên trong chuồng gà nhà ông có từ 60 - 70 con, giờ thì chỉ còn có 30 con trong đó có 1 con gà trống, bốn con gà mái và bảy con gà con nhiều cựa. Được cái sức chịu đựng do những biến động thời tiết khắc nghiệt vùng cao cũng như các loại bệnh tật của giống gà quý này rất tốt. Mấy năm rồi, các loại gà khác trong bản bị dịch chết liên miên, tưởng tuyệt chủng cả giống gà nhiều cựa. Ông Lâm hoảng quá mới sơ tán lũ gà nhiều cựa của nhà mình lên trại trên núi Suối Báng cách bản vài cây số và thỉnh thoảng lại đáo lên đó để chăm sóc gà. Nhưng sự lo lắng của ông Lâm là thừa. Trong khi những con gà thường mặc dù được tiêm thuốc phòng, phun khử trùng mà vẫn chết thì những con gà nhiều cựa của bản sau dịch vẫn sống sót, vẫn khỏe mạnh, mỗi sáng vẫn gáy te te lanh lảnh khắp bản. Đến lúc ấy ông Lâm mới yên chí gánh gà của mình xuống núi. Giờ trong bản Cỏi có hàng chục nhà nuôi gà nhiều cựa như nhà ông Bàn Văn Hùng, Đặng Văn Quyết... với tổng số hàng trăm con. Tiếng là bản Cỏi nuôi gà nhiều cựa nhưng cũng chẳng bao giờ gà nhiều cựa lại trở thành hàng hóa ở đây. Phần vì đường xa cách trở, toàn dốc với đèo nên đưa được bu gà ra đến chợ ngoài Xuân Đài thì đúng là một tiền gà, ba tiền công. Phần vì vào các dịp lễ tết, hay mỗi khi khách hay những hôm tự dưng cảm thấy nhạt mồm, nhạt miệng là họ thịt gà để đưa cay mà chẳng cần để ý xem con gà ấy có nhiều cựa hay ít, quý hay không. Tấm chân tình của người Dao nhiều đời nay mộc mạc, ấm áp là thế. Ông Từ Anh Sơn - Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Phú Thọ - tỏ ra vô cùng ngạc nhiên và thích thú với thông tin về giống gà chín cựa mà chúng tôi đem kể. Theo ông Sơn thì để bảo tồn giống gà quý hiếm ấy nên lồng ghép việc nuôi gà chín cựa vào các chương trình khuyến nông, mô hình trình diễn để kiểm tra năng suất, khả năng thích ứng, khả năng sinh sản, chất lượng thịt. Nếu có thể mở rộng việc nuôi gà nhiều móng, rất có thể bên cạnh đặc sản lợn lửng, đất tổ còn có cả “gà Sơn Tinh”. Được thế còn gì quý hơn. Mai Hiên
-
Đi tìm “gà chín cựa” - Nguồn: http://vietbao.vn/Phong-su/Di-tim-ga-chin-cua/40173280/263/ Chủ nhật, 19 Tháng mười một 2006, 04:28 GMT+7 showarticletop("http://vietbao.vn","40173280")[/color][/color] Gà nhiều cựa ở bản Cỏi - Ảnh: N.P. “Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”, những lễ vật thách cưới mà vua Hùng đưa ra năm xưa tưởng cũng chỉ là truyền thuyết. Vậy mà trong những ngày gần đây, giới khoa học lẫn người dân tỉnh Phú Thọ đang xôn xao về câu chuyện có “gà chín cựa” ở bản Cỏi (xã Xuân Sơn, huyện Thanh Sơn), ngay trên mảnh đất tổ Hùng Vương. Kỳ thú Xuân Sơn Trên đường vào bản Cỏi, vượt qua dốc Cổng Trời, đến bản Dù, trời tối, chúng tôi đành phải ngủ tạm một đêm tại trạm bảo vệ rừng quốc gia Xuân Sơn. Không ngờ chúng tôi lại gặp giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn Trần Đăng Lâu. Nghe hỏi chuyện về “gà chín cựa” có phải là giống gà mà ngày xưa Sơn Tinh mang tiến vua Hùng để cầu hôn công chúa Mỵ Nương không, giám đốc Lâu trầm ngâm: “Tất cả truyền thuyết đều xuất phát từ thực tiễn, gà nhiều cựa cũng liên quan đến cái gốc rễ là gà rừng... Rừng núi Xuân Sơn này kỳ lạ lắm: có rất nhiều hang động kỳ thú. Những tên làng, tên núi, tên suối cũng đủ gợi lên sự hấp dẫn như núi Chim Bò, núi Bạc, núi Đứt, động và suối Lun, Lạng, Na, Thang... Vừa rồi chúng tôi đã phát hiện giống cá anh vũ ở hạ nguồn thác Bản Kẹm, loại cá ngày xưa chỉ dùng để tiến vua. Mùa hạ cá anh vũ ngược dòng lên thác núi để đẻ và mùa đông xuôi về ngã ba sông Bạch Hạc để trú đông. Hay loài chuối cô đơn cũng vừa được phát hiện. Trên thế giới loài này được gọi là chuối tuyết hay chuối voi, là một loài cây cảnh đẹp có giá trị, được mua bán khá nhiều ở phương Tây...”. Bữa cơm tối được dọn ra khá muộn, sương đã phủ dày xung quanh ngôi nhà sàn của trạm bảo vệ rừng. Giám đốc Trần Đăng Lâu lại kể chuyện: Chuyện rằng có một người khách vào thăm bản Cỏi và ngủ qua đêm ở nhà trưởng bản Đặng Vĩnh Phúc. Ông Phúc làm gà đãi khách. Khi đĩa thịt gà được dọn lên, thấy cái chân gà kỳ lạ vì có nhiều cựa, khách chợt nhớ ra lời đồn đãi trên vùng núi cao có giống “gà chín cựa”... Khi về xuôi, câu chuyện được khách kể lại để rồi “gà chín cựa” bắt đầu lan truyền... Bây giờ ở bản Cỏi hầu như chỉ còn loại gà có sáu, bảy, tám cựa. Ngoài cựa chính, những cựa còn lại mọc thẳng hàng cùng với cựa chính, chạy dài lên đến phía trên chân gà. Loại gà này lạ là con trống khi “chào đời” có bảy cựa thì lúc nặng hơn 1kg sẽ bắt đầu mọc thêm một cựa nữa. Đặc biệt gà nhiều cựa bay nhảy rất giỏi, muốn bắt chúng phải giăng lưới hoặc chờ đến tối khi chúng về chuồng. “Gà chín cựa” ở xóm Cỏi Sáng sớm chúng tôi bắt đầu ngược dốc vào bản Cỏi. Bên đường chỗ nào cũng thấy cây trạng nguyên nở đỏ rực. Dòng suối Hang chảy róc rách. Dọc bên suối thanh niên nam nữ đang hì hục vớt đá cuội lên bờ. Hỏi chuyện mới biết họ vớt đá lên để lấy thứ rêu bám trên đá về... ăn: rêu đá nấu canh là món ăn truyền thống của người dân tộc Dao trong bản Cỏi. Vừa vào đến điểm dạy mẫu giáo và tiểu học là chúng tôi đã thấy “gà chín cựa”, một con gà trống có bộ lông màu đỏ đang nhẩn nha dạo trên đường. Định lại xem và chụp hình thì loáng một cái nó đã nhảy lên dốc phía trên, chạy mất vào phía núi. Khi tiếp chúng tôi, trưởng bản Đặng Vĩnh Phúc nói trong tiếc rẻ: “Khi tôi lớn lên đã thấy giống gà này rồi. Nó là giống gà của người Dao từ ngày xa xưa, thịt chắc và thơm. Cả xóm chỉ có khoảng bảy hộ nuôi được giống gà này. Có nhiều người mua về xuôi để nuôi nhưng rồi gà cũng chết. Có người mua con trống về làm giống nhưng khi nở ra gà con cũng không có nhiều cựa, vì đây là gà thuần chủng. Chỉ có gà trống nhiều cựa “gặp” gà mái nhiều cựa mới cho ra được giống gà con nhiều cựa”. Những năm có dịch cúm gà, các loại gà khác trong bản bị dịch chết, riêng những con gà nhiều cựa vẫn sống khỏe mạnh. Không phải đàn gà nào khi nở ra cũng có cựa. “Thông thường chục con thì khoảng ba con không có cựa. Con gà nào có bộ lông màu trắng thường không có cựa, con gà có nhiều cựa thì lại nhiều màu sắc hơn, đẹp hơn”, trưởng bản Phúc cho biết. Loại gà có đúng chín cựa đã không còn, tuy nhiên với người dân vùng đất Phú Thọ việc gà có nhiều cựa vẫn là “chuyện lớn”, khi mà nó đã gắn liền với truyền thuyết từ ngàn xưa, thuở vua Hùng kén rể. Và các nhà khoa học cũng không đứng ngoài sự kiện đó... “Gà chín cựa”: bao giờ danh chính ngôn thuận? Ngay sau khi có thông tin, nhiều nhà khoa học đã về ngay vùng núi cao này để nhìn tận mắt. Sau khi xem xong, nhà giáo ưu tú Nguyễn Khắc Khôi (chủ tịch Hội Chăn nuôi thú y tỉnh Phú Thọ), người được xem là “chuyên gia về gia cầm”, cũng phải thốt lên: “Đúng là mình chưa bao giờ thấy con gà như thế này!”. Một hội thảo về “gà chín cựa” do Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Phú Thọ liền được tổ chức. Có ý kiến cho rằng cựa gà chẳng qua là... ngón chân gà. Nhưng ý kiến khác: cựa là cựa, vì chức năng của chân gà là đi, đào, bới. Còn những cái cựa này nằm phía trên chân, không thực hiện các chức năng của chân... Một vấn đề khác: đây là sự biến đổi gen? Không, sự biến đổi chỉ diễn ra ở một vài cá thể chứ không thể biến đổi nhiều như thế... Và cái kết của hội thảo là chưa thể khẳng định đây là “gà chín cựa” mà hội thảo cứ tạm gọi là “gà nhiều cựa”. “Chúng tôi dự định tiến hành ngay việc nghiên cứu loại gà này trong năm nay”, nhưng ý định ấy của nhà giáo Nguyễn Khắc Khôi lại không thể trở thành hiện thực vì... thiếu tiền. “Nếu không tiến hành nghiên cứu cụ thể và tỉ mỉ, sẽ khó xác định được nguồn gốc của gà, đặc điểm sinh lý, yếu tố di truyền... - nhà giáo Khôi nói - Chắc là phải đợi sang năm, khi có tiền chúng tôi sẽ phối hợp với Viện Chăn nuôi, ĐH Nông nghiệp 1, Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm để tiến hành nghiên cứu”. Cái tên chính thức của loại “gà chín cựa” này các nhà khoa học vẫn còn phải đi tìm. Nhưng có lẽ với người dân, chỉ riêng việc giống gà đặc biệt này đã có từ lâu đời cũng đủ để họ tin rằng giống “gà chín cựa” là có thật, chứ không còn là trong truyền thuyết của người xưa. Và chúng tôi cũng hi vọng đó là giống “gà chín cựa” từ ngàn xưa còn lưu giữ lại. Và nếu đúng vậy, ngày giỗ tổ Hùng Vương mỗi năm sẽ thêm phần long trọng khi có thêm một con vật từ truyền thuyết được dâng lên... NGUYỄN PHAN - QUỐC HỘI
-
Thưa chú Thiên Sứ, tình hình dịch tiêu chảy đã xuất hiện từ năm ngoái và cho đến đầu năm nay vẫn hết sức phức tạp. Phoenix đưa tư liệu để ACE nắm thông tin thôi ạ. Trước đó, Phoenix đã post bài "Lại bùng phát dịch tiêu chảy cấp" đăng ngày 03/04/2008 báo điện tử http://www.tuoitre.com.vn. Do post nhều bài sẽ làm loãng topic nên Phoenix không post thêm nữa.
-
Hỏi: Tương lai Vịnh Vân Phong có trở thành trung tâm kinh tế - xã hội mới của Việt Nam không? Phoenix được quẻ Cảnh Lưu Niên nhưng không thấy có hứng luận. Xem ra vấn đề còn cam go. Chờ tới lúc khác vậy. Mời các ACE trước ạ!
-
Ảnh cận cảnh: ">
-
Hình ảnh Việt Nam và vịnh Vân Phong trên bản đồ vệ tinh: "> ">
-
Hình ảnh Vịnh Vân Phong trên bản đồ vệ tinh: Vị trí vịnh Vân Phong được đánh dấu chữ A (Tỉ lệ 20mi/20km) "> (Tỉ lệ 10mi/10km) <a href="mailto:%3Ca%20href=" http:="" s33.photobucket.com="" albums="" d62="" chieuquan="" ?action="view¤t=VinhVanPhong.gif"" target="_blank">">">
-
Nguồn: http://www.tuoitre.com.vn/tianyon/Index.as...amp;ChannelID=3 Thứ Năm, 03/04/2008, 07:43 (GMT+7) Lại bùng phát dịch tiêu chảy cấp TT - Hàng trăm bệnh nhân tiêu chảy cấp đã nhập viện tại Hà Nội phải nằm tràn ra hành lang bệnh viện. Nhiều người dương tính với vi khuẩn tả. Thứ trưởng Bộ Y tế Trịnh Quân Huấn cảnh báo: nguy cơ dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm có khả năng lây lan sang các tỉnh miền Trung, miền Nam trong mùa hè tới là rất cao do người lành mang vi khuẩn đi lại giữa các tỉnh, thành phố, nơi ăn uống đông người... Mới sáng sớm 2-4 nhưng đã có hàng loạt bệnh nhân tiêu chảy được đưa vào Viện Các bệnh nhiệt đới và truyền nhiễm quốc gia. Ở khoa nhiễm khuẩn tổng hợp, các giường bệnh hầu hết đã chật cứng hai bệnh nhân/giường và ngoài hành lang cũng chật cứng bệnh nhân. Tính đến sáng 2-4, riêng Viện Các bệnh nhiệt đới và truyền nhiễm quốc gia có 103 bệnh nhân tiêu chảy cấp, trong đó số đã được soi hoặc cấy vi khuẩn, nghi ngờ mắc tả tới 70-80 bệnh nhân. Tại khoa lây Bệnh viện Bạch Mai đang có 30 bệnh nhân tiêu chảy cấp, Bệnh viện Xanh Pôn 50 bệnh nhân, Bệnh viện Đống Đa 30 bệnh nhân... Hà Nội có dấu hiệu lại bùng nổ dịch tiêu chảy cấp! Bệnh nhân nằm tràn ra hành lang Ở phòng 415, khoa nhiễm khuẩn tổng hợp (Viện Các bệnh nhiệt đới và truyền nhiễm quốc gia) có bốn giường bệnh nhưng lại có đến sáu bệnh nhân. Bệnh nhân Tòng Thị Ngân, 25 tuổi, nhà ở Kim Liên, cho biết hôm 28-3 cô ăn bún đậu, không hề có mắm tôm, rau sống, nhưng từ trưa 29-3 bắt đầu có biểu hiện bệnh: miệng nôn nhiều, tiêu chảy liên tục. Đêm 30-3, Ngân được đưa vào bệnh viện trong tình trạng mê man, trụy mạch, mất nước nặng... May còn trẻ, khỏe nên đến ngày 2-4 Ngân đã ngồi dậy được, bước đầu có dấu hiệu hồi phục. Có nhiều lý do khiến nhiều người bị tiêu chảy cấp phải đến Viện Các bệnh nhiệt đới và truyền nhiễm quốc gia. Anh An ở Láng Thượng đi ăn đám cưới, chiều về tiêu chảy; H.Anh và bạn học đều là sinh viên rủ nhau ăn thịt chó tại một quán trên phố Lê Văn Hưu, đến tối thì hai bạn phải vào bệnh viện! Thấy có người hỏi, cả H.Anh và bạn đều trùm chăn kín đầu, xấu hổ nói "bệnh gì chả mắc, mắc bệnh đi ngoài"! Còn anh Nguyễn Mạnh Thắng ở Phương Mai mua thịt chó về nhà ăn, sau đó ăn thêm một ít hoa quả người nhà để trong tủ lạnh. Một giờ sau ăn, anh liên tục chạy vào toilet. "Tôi vốn khỏe mạnh, chả bao giờ ốm, nghĩ là cầm cự được nên không vào bệnh viện. Đến sáng 30-3 thì mỗi lần nôn là tối tăm mặt mũi, người nhà phải đưa ngay đi cấp cứu"- anh Thắng kể. Theo thạc sĩ Trần Thị Phương Thúy - phó trưởng khoa nhiễm khuẩn tổng hợp Viện Các bệnh nhiệt đới và truyền nhiễm quốc gia - trong mấy ngày gần đây số bệnh nhân tiêu chảy cấp vào viện tăng nhanh. Tính đến sáng 2-4, riêng khoa của chị đã có trên 70 bệnh nhân đang điều trị, gây quá tải bệnh viện và các bác sĩ phải kê nhiều giường gấp dọc hành lang. Theo thạc sĩ Thúy, điều đáng lo ngại trong đợt dịch này là tỉ lệ dương tính với vi khuẩn tả qua soi, cấy/tổng số bệnh nhân tiêu chảy cấp nhập viện cao hơn đợt dịch trước. "Những ngày đầu của đợt dịch (từ 7-3) bệnh nhân chủ yếu đến từ Q.Hoàng Mai, nhưng mấy hôm nay bệnh nhân đến từ khắp Hà Nội: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa... Qua khảo sát chỉ có 1/70 bệnh nhân là nghèo, còn lại toàn người khá giả, đi ăn hàng, ăn cỗ về bị tiêu chảy. Khác hẳn đợt dịch trước phần lớn bệnh nhân là người lao động tự do, người ngoại tỉnh" - thạc sĩ Thúy nói. Mầm bệnh có ở nhiều nơi Trao đổi với Tuổi Trẻ, cục trưởng Cục Y tế dự phòng và môi trường (Bộ Y tế) Nguyễn Huy Nga cho biết qua những khảo sát mới nhất của Viện Vệ sinh dịch tễ T.Ư cho thấy nước bề mặt của nhiều ao, hồ, rạch... ở Hà Nội, Hà Tây, Thanh Hóa và nhiều mẫu rau sống, thức ăn đường phố, nước rửa chén bát tại quán ăn, thịt chó chín...nhiễm phẩy khuẩn tả. Ông Nga đánh giá có hiện tượng vi khuẩn trỗi dậy mạnh mẽ sau mấy ngày nắng nóng đầu mùa ở Hà Nội. Ông cũng cho biết hiện tất cả hồ, ao được phát hiện có vi khuẩn tả đều được xử lý tiệt trùng. Tuy nhiên, với số người bệnh và người lành mang trùng đang tiếp tục thải vi khuẩn ra môi trường, số ao, hồ, sông có vi khuẩn mới sẽ lại xuất hiện. Theo PGS.TS Nguyễn Đức Hiền - viện trưởng Viện Các bệnh nhiệt đới và truyền nhiễm quốc gia, về mức độ bệnh, số lượng người tiêu chảy nặng, trụy mạch, suy thận... không tăng hơn so với đợt dịch trước, nhưng số nghi ngờ dương tính với phẩy khuẩn tả/tổng số bệnh nhân tiêu chảy vào viện có cao hơn. Ông Hiền cũng cho rằng điều nguy hiểm là đợt dịch trước xảy ra vào mùa lạnh, còn đợt dịch này vào mùa hè, thời điểm các bệnh đường tiêu hóa có nhiều cơ hội phát triển mạnh. Theo y văn, vi khuẩn tả có thể sống trong phân 150 ngày, trong đất 60 ngày, trong nước 20 ngày, mà ở nhiều vùng trồng rau hiện vẫn còn tập quán sử dụng phân tươi... bón rau. Khi chúng tôi rời Viện Các bệnh nhiệt đới và truyền nhiễm quốc gia, lại một nữ bệnh nhân nhà ở đường Trường Chinh (Hà Nội) được đưa vào. Bệnh nhân cho biết chị chỉ ăn rau muống luộc và thịt rang nhà làm, sau đó bị tiêu chảy nặng. Một bệnh nhân khác 62 tuổi cho biết cũng ăn rau muống, thịt rang và một quả xoài rồi tiêu chảy. Tại bệnh viện có cả bệnh nhân mới sinh con, đang ăn kiêng cũng bị tiêu chảy! Thêm hai địa phương có bệnh nhân tả Tại cuộc họp chiều 2-4 của Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch cúm (các thành viên đều nằm trong ban chỉ đạo phòng chống dịch tiêu chảy cấp), Cục trưởng Cục Y tế dự phòng và môi trường (Bộ Y tế) Nguyễn Huy Nga thông báo đã có thêm hai địa phương mới là Vĩnh Phúc và Hà Nam có bệnh nhân tả, nâng tổng số địa phương có dịch lên 10, gồm Hà Nội, Hà Tây, Hải Phòng, Phú Thọ, Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Thanh Hóa, Hà Nam, Vĩnh Phúc, với tổng số 85 bệnh nhân tả dương tính, trong đó riêng Hà Nội có 44 bệnh nhân. Ông Nga nói: "Đây là dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm, trong đó có những trường hợp dương tính với vi khuẩn tả. Chúng tôi đã yêu cầu những trường hợp có bệnh cảnh lâm sàng giống bệnh nhân tả, cơ quan y tế địa phương phải xử lý môi trường theo qui định với các ổ dịch tả mà không cần chờ kết quả xét nghiệm". LAN ANH Mời ACE xem thêm thông tin diễn biến tình hình ở đây: http://tintuconline.vietnamnet.vn/vn/event/570/
-
ACE kính mến, nhận thấy việc lan rộng của dịch tả cũng đang là mối quan ngại rất lớn nên Phoenix bổ sung thêm 1 câu hỏi. Biết đâu qua các kết quả luận đoán của ACE mà các địa phương có ý thức được mức ảnh hưởng đến mình khiến họ có sự chuẩn bị tốt hơn thì tốt biết bao. Câu 4: Dịch tả sẽ lan ra những địa phương nào?
-
Công bố dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm - Nguồn http://www1.thanhnien.com.vn/Suckhoe/2007/10/31/214285.tno 23:17:33, 30/10/2007 Liên Châu Minh họa: DAD * Chưa kết luận là bệnh tả, bệnh lỵ hay thương hàn* Đình chỉ sử dụng mắm tôm, mắm tép tại Hà Nội Chiều hôm qua 30.10, Bộ Y tế có cuộc họp công bố dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm có nguy cơ lan rộng ở nhiều địa phương. Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu cũng đã tham dự cuộc họp này. Tại cuộc họp, PGS.TS Trịnh Quân Huấn, Thứ trưởng Bộ Y tế thông báo: dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm đã bắt đầu xảy ra từ ngày 23.10 đến nay. Đến chiều qua đã có 36 bệnh nhân mắc bệnh này được báo cáo. Hiện tại, Hà Nội là địa phương có số người mắc bệnh cao với 30 trường hợp. Ngoài ra, dịch xuất hiện rải rác tại Vĩnh Phúc (2 trường hợp) và Hà Tây (4 trường hợp). Các bệnh nhân đã được tiếp nhận điều trị tại Viện Y học lâm sàng và các bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Quốc Oai (Hà Tây)... Các bệnh nhân nhập viện đều cho biết đã ăn mắm tôm, hoặc mua thức ăn chếë biến ngoài chợ. Hầu hết các bệnh nhân nhập viện đều có biểu hiện: nôn, mất nước, tiêu chảy nhiều. Có bệnh nhân tiêu chảy liên tục. Đã có trường hợp phải truyền dịch 10 lít/ngày. Bệnh tiêu chảy cấp đặc biệt nguy hiểm bởi tốc độ mất nước sau khi nhiễm bệnh cực kỳ nhanh, chỉ trong 1-2 giờ đã bị tụt huyết áp nghiêm trọng. Thậm chí có trường hợp trong vòng nửa ngày đã rơi vào tình trạng nguy hiểm tính mạng do mất nước, mất điện giải. Thứ trưởng Trịnh Quân Huấn: "Cơ quan y tế đã phát thuốc sát khuẩn đến từng gia đình có bệnh nhân, xử lý nguồn nước quanh khu vực gây bệnh, thực hiện trực chống dịch 24/24 giờ ở các khu vực có bệnh nhân. Sử dụng kháng sinh dự phòng với những người tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân. Hiện nay có một số kháng sinh đã bị kháng thuốc như Tetracyclin. Tuy nhiên đã có thuốc thay thế hiệu quả". Theo dự báo của Bộ Y tế, dịch tiêu chảy lây lan nhanh, mạnh, nếu không quyết liệt dập, dịch có nguy cơ lan rộng. Tuy nhiên, nếu kịp thời được điều trị thì đây lại không phải là căn bệnh khó, chủ yếu cần bù nước điện giải kịp thời. * Cùng ngày, Sở Y tế Hà Nội đã chính thức công bố phát hiện dịch tiêu chảy cấp trên địa bàn thành phố. Các trường hợp tiêu chảy cấp được phát hiện tại 11/14 quận, huyện. Bệnh nhân nằm trong nhóm tuổi từ 25 - 77, cư trú phân tán tại nhiều nơi, cá biệt quận Đống Đa có 6 trường hợp. Theo ông Lê Anh Tuấn, Giám đốc Sở, hiện các cơ quan y tế đang tiến hành xác định loại vi khuẩn gây bệnh; chưa thể kết luận là bệnh tả, bệnh lỵ hay thương hàn. Ông Tuấn lưu ý: "Người dân hoàn toàn có thể phòng chống được nếu tuân thủ các khuyến cáo về an toàn vệ sinh thực phẩm. Thành phố tạm đình chỉ việc sử dụng mắm tôm, mắm tép - loại thực phẩm được lo ngại là một trong những nguyên nhân chính gây tiêu chảy cấp trên các bệnh nhân nhập viện" . Liên Châu
-
Có một thời gian Phoenix làm đề tài nghiên cứu về Di tích Cổ Loa và lịch sử thời Hùng Vương, trong đó có liên quan đến một yếu tố là chợ. Từ điểm này, Phoenix bắt đầu xem xét rộng hơn và nhận thấy "chợ" của Việt Nam có rất nhiều cái đáng nói. Ngoài việc chợ biểu hiện hình thái kinh tế xã hội thì chợ Việt Nam còn là nơi trung tâm giao lưu văn hóa rất sôi nổi. Rất tiếc, thời gian và việc lưu trữ không cẩn thận đã làm lưu lạc các tài liệu của Phoenix. Topic là tản mạn về chợ quê, để nhớ lại những nét xưa thấm đẫm nguyên lý tâm linh và văn hóa của người Việt. Giới thiệu một bài viết tổng hợp ban đầu CHỢ QUÊ MỘT NÉT VĂN HÓA CỦA LÀNG VIỆT (nguồn:http://www.cinet.gov.vn) Hoài niệm….chợ quê Đã từ rất lâu rồi, hình ảnh những cô hàng xén thắt đáy lưng ong quẩy gánh hàng ra chợ như trong văn học của Thạch Lam đã không còn thấy nữa. Những phiên chợ quê xứ Đoài nổi tiếng một thời giờ đây cũng chỉ còn váng vất chút mộc mạc, nét xưa bởi những món ăn dân giã vẫn còn được bà con duy trì nơi góc chợ. Năm tháng qua đi cuốn theo biết bao kỷ niệm và làm mới lên cuộc sống của biết bao con người. Nhưng có lẽ, trong tâm khảm rất nhiều người vẫn còn khắc sâu những hình ảnh êm đềm thân thuộc về một làng quê có những phiên chợ xưa như trong cổ tích… Phiên chợ quê xưa Nhắc đến văn hoá làng xã người ta không thể không nhắc tới chợ làng, chợ quê. Quả thật một phần đời sống của những người dân quê được khắc hoạ qua sự phát triển của chợ quê. Chợ là nơi lưu giữ tổng thể những nét văn hoá cũng như tục lệ của người dân nơi đó. Tưởng chừng cái chợ chỉ là sự hiện hữu cụ thể người ta vẫn nhìn thấy, vẫn biết nhưng bản chất văn hoá bên trong của nó thì ít người biết được. Chợ quê đối với người Việt chúng ta là nơi gói ghém nhiều hình ảnh thân thương, là một nét đặc thù văn hóa dân tộc. Chợ quê thường nằm trên một mảnh đất rộng, có thể ở vị trí trung tâm hoặc ở làng. Chợ không phải quá lớn mà nó phù hợp với không gian chung của làng. Khách đi chợ cũng như người bán hàng đều là dân trong làng, hoặc ở các làng xung quanh. Sản phẩm ở chợ cũng có đủ thứ, các loại rau quả, các loại thực phẩm, đồ vật. Hầu hết các sản phẩm đó đều là “cây nhà, lá vườn” của người dân quê. Chính vì vậy chỉ cần nhìn vào chợ quê người ta cũng có thể thấy đời sống kinh tế của người dân trong làng. Hình thành trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp, chợ làng chính là mô hình thu nhỏ của một nền kinh tế xưa cũ. Song nhìn về góc cạnh văn hoá thì chợ làng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong tâm thức mỗi người. Trên những nẻo đường quê, tiếng người còn râm ran chào nhau, gọi nhau và hẹn nhau ngày kia phiên chợ. Mấy đứa trẻ đi đón quà lẽo đẽo theo sau những bà mẹ tay xách nách mang. Hình ảnh chợ quê vẫn luôn thấm đậm sắc màu bình yên và thanh thản. Chợ quê thường họp rất sớm, nhiều làng chợ họp từ 5 giờ sáng, cũng có làng muộn hơn. Không phải ngẫu nhiên mà chợ được họp sớm như vậy, đó là tính chất công việc, thói quen của người dân quê. Người dân thường đi chợ rất sớm, mua thức ăn cho cả ngày để còn đi làm ruộng, cấy cầy, chăn trâu, chăn bò. Cũng do ảnh hưởng thói quen đó mà chợ làng thường chỉ họp vào buổi sáng và tan rất sớm và khoảng 9 hay 10 giờ thì chợ đã tan. Không phải làng nào cũng có chợ, chợ thường tập trung ở một làng trung tâm của xã. Đó là những chợ làng lớn. Còn nhiều làng, trong các ngõ nhỏ vẫn tồn tại những cái chợ nhỏ được gọi là chợ thôn hoặc chợ xóm. Ở nhiều vùng quê còn có chợ phiên, chợ phiên cũng chính là một phần văn hoá thu nhỏ của chợ quê. Chợ phiên thường mở theo định kỳ, có chợ một tháng mở một lần, cũng có chợ mấy tháng mới mở một lần. Điều này do quy định cũng như tục quán của mỗi làng. Chợ phiên thường chỉ bán chuyên một mặt hàng nào đó nhưng cũng có khi bán tổng thể các mặt hàng. Sản phẩm của chợ phiên thường phong phú và đa dạng hơn chợ làng ngày thường. Chợ phiên từ lâu đã thành chốn mưu sinh của nhiều người dân quê, từ chị bán củi đến cô hàng xáo hay bà bán tôm, bán cá... Họ rất hiếm khi vắng mặt ở những vị trí quen thuộc. Thu nhập trong công việc bán buôn dù chỉ mươi mười lăm ngàn đồng, chủ yếu lấy công làm lời, nhưng cũng đủ trang trải cuộc sống cho những gia đình khó khăn. đặc biệt, có người còn làm giàu được từ chính chiếc lều chợ thân quen. Chợ không chỉ dừng lại ở việc buôn bán và trao đổi hàng hoá, đây còn là những nét văn hoá làng được thể hiện qua đời sống hàng ngày của người dân quê. Thông qua hoạt động mua, trao đổi thông tin mà chợ trở thành nơi các phong tục văn hoá khác nhau tìm đến tiếng nói chung. Một phần đời sống của người dân quê được khắc hoạ và thể hiện qua cái chợ làng. Từ tương, cà, mắm, muối, đến vải vóc áo quần, hàng khô, hàng tươi… đều có mặt đầy đủ với nhiều chủng loại phong phú phục vụ nhu cầu sinh hoạt ngày càng khá giả, thịnh vượng hơn của làng quê . Dù còn mang nặng tính tự túc, tự cấp nhưng chợ quê không phải vì thế mà đơn điệu, lạc lõng với thế giới bên ngoài. Người mua, kẻ bán, tất thảy đều xởi lởi, vui vẻ, có khi còn đùa tếu pha trò. Cụ già ngồi bán buồng cau, tiếp thị độc đáo bằng miếng trầu cánh phượng têm rất khéo đặt bên cạnh lát rễ chay và quả cau bổ tư tươi rói, người không biết ăn trầu nhìn cũng thấy hấp dẫn. Người dân trong làng đã quen với tiếng mời mua hàng của các bà hàng rau, hàng thịt... Tiếng nói chuyện, ở góc nọ, góc kia của chợ, thậm chí cả tiếng chửi nhau của người bán và người mua. Đó là những cảm xúc rất thường nhật, là cái hiện hữu vô hình nhưng lại không thể thiếu. Người dân quê quen mặt hết các bà bán hàng, vì họ chẳng phải ai xa lạ, không là người trong làng thì cũng là người làng khác. Mà có là người làng khác thì cũng trong một xã, họ quen nhau. Vì vậy hôm nay thấy bà bán rau không đi, chị bán thịt vắng mặt người ta lại hỏi thăm nhau. Những chuyện hàng ngày của mỗi gia đình, mỗi người đều được thông tin qua cái chợ. Người làng đi chợ cũng là dịp để họ gặp nhau, hỏi thăm nhau. Hầu hết câu chuyện chỉ xoay quanh con trâu, mảnh ruộng, chuyện cấy cầy nhà nông. Nhắc đến chợ làng phải nhắc đến chợ làng những ngày Tết. Chợ làng ngày Tết còn là dịp gặp gỡ của những người xa xứ. Người Việt có một đặc điểm dù đi đâu, làm gì và ở đâu thì hết năm thường về quê ăn Tết. Người xa quê thích nhất được đi sắm tết ở chợ làng, họ muốn mua những nải chuối quê, những quả cau, lá trầu để cúng tổ tiên. Rồi họ đổ nhau đi mua lá dong, lá chuối về gói bánh chưng, bánh gai, mớ rau, củ hành để ăn trong ba ngày tết. Tất cả đều là sản phẩm của những người dân quê. Chính vì vậy, Chợ quê đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển văn hoá làng. Nó không chỉ tồn tại như một sự việc được tái hiện hàng ngày mà nó còn là một nét văn hóa được truyền từ đời này qua đời khác. Những phiên chợ đi vào văn học dân gian Việt Nam tự nhiên như tâm hồn, bản tính người Việt Đối với những người Việt Nam, những phiên chợ xưa là một phần trong đời sống văn hoá, là một cái gì đó rất gần gũi thân thương. Có lẽ vì thế mà những phiên chợ đi vào văn học dân gian tự nhiên như tâm hồn, bản tính người Việt. Chợ qua ca dao thể hiện sự gắn bó giữa con người với con người, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào về sản vật phong phú của địa phương. Đi chợ qua ca dao, du khách mang theo những câu ca mang nặng nghĩa tình để càng thêm quý thêm yêu những cái chợ ở mọi miền đất nước. Nếu chọn điểm khởi hành từ Kẻ Chợ (Thăng Long - Hà Nội), du khách cái lý là từ nơi đô hội bậc nhất toả đi tìm hương sắc trăm miền. Tất nhiên, trước hết phải thăm thú, khám phá nét văn hoá ở chợ đất kinh kỳ và nổi tiếng nhất ở đất rồng bay, ắt là chợ Đồng Xuân: Vui nhất là chợ Đồng Xuân Thứ gì cũng có xa gần bán mua Cổng chợ có chị hàng hoa Có người đổi bạc chạy ra chạy vào… Ngược lên Kinh Bắc, thấy cái sầm uất của vùng đất vừa có truyền thống khoa bảng vừa giỏi làm ăn kinh tế với những thương hiệu đồ gỗ chạm khảm Đồng Kỵ, làng gốm Hương Canh…: Chợ Giàu bán sáo bán sành Bắc Ninh bán những nhẫn vàng trao tay Đình Bảng bán ấm bán khay Phù Lưu họp chợ mỗi ngày một đông. Từ Hà Nội, xuôi vào 10 cây số, đến Hà Đông cũ, Hà Tây nay, vùng đất trăm nghề có rất nhiều chợ, mà toàn là chợ nổi tiếng: Hà Đông có chợ đằng xuôi Ngỗng vịt cũng lắm đồ chơi cũng nhiều Chợ Nghè có món bún riêu Bún cua bún ốc bún tiêu bún gà. Ngược lên phía Tây, du khách sẽ đến nhiều chợ vùng đất đá ong Thạch Thất, Sơn Tây: Chợ Nủa hàng dậm hàng nơm Chợ Trôi bán vải, hàng cơm dãi dầu Chợ Nghệ thì lắm bò trâu... Còn xuôi xuống phía Nam, đi theo quốc lộ 1, sẽ gặp như cái chợ đầu mối trung chuyển Bắc Nam rất lớn ở Thường Tín: Xứ Nam nhất chợ Bằng Vồi Xứ Bắc Dầu Khán, xứ Đoài Hương Canh Bằng Vồi là tên ghép làng Bằng (xã Bình Vọng) và làng Vồi (xã Hà Hồi), huyện Thường Tín. Chợ có đủ các mặt hàng, lại có chợ trâu bò lấy nguồn từ Thanh Hoá ra, dưới Thái Bình lên rồi toả đi Hà Nội, Hải Phòng. Đi tiếp đến huyện Phú Xuyên có thể đến chợ mua sản vật vùng đồng chiêm trũng: Kẻ Dũi mà dủi bán tôm Có Đường bán mật, Thanh Xuyên bán ngài. Xuống đến Nam Định, nét văn hoá chợ quê thật quen mà rất độc đáo: Chợ tỉnh Nam Định vui lắm ai ơi /Quanh năm tứ thời thiên hạ bán mua/ Đủ hàng thịt gạo rau dưa/ Bao loài tôm cá ốc cua thịt gà / Bao nhiêu vải vóc lụa là / Áo quần khăn nhiễu bày ra thiếu gì. Gần đó còn có chợ Rồng, biểu tượng một thời của thành Nam: Dù ai buôn đâu bán đâu Chợ Rồng đệ nhất Tiên Châu thì về (hoặc: Ai chưa qua thử chợ Rồng/ Biết thành Nam vẫn là không biết gì) Vào đến miền Trung, đi thăm cố đô Huế, tất nhiên không thể ghé những chợ nổi tiếng như Đông Ba bên cầu Tràng Tiền, đến tận nơi xem chợ Quán, Chợ Cầu… nghìn năm vang vọng trong câu ca dao nay còn họp đông nữa hay không: Mua vôi chợ Quán chợ Cầu Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh Cá tôm mua tại chợ Sình Triều Sơn bán nón Bao Vinh bán đường Đến Khánh Hoà, không thể bỏ lỡ dịp thăm chợ Đầm (TP Nha Trang): Chợ Nha Trang trăm vật trăm ngon Em vừa vừa cái miệng kẻo chồng con mang nghèo Và khi vào đến Sài Gòn, nơi có chợ Lớn và hàng nghìn chợ khác, du khách sẽ thấy đây là đất bán mua nhộn nhịp bậc nhất, cảm nhận được nhịp sống đô thành năng động và sức mua bán thương trường rất lớn : Trà tàu chính gốc Hồng Mao Trà Huế nhãn nhục hồng đào phơi khô Chà là chí đến hạt dưa Phèn xanh phèn trắng phèn chua gội đầu. Xuôi xuống Hậu Giang, có dịp thăm chợ nổi Ngã Bảy - Phụng Hiệp, một nét riêng có của vùng đồng bằng sông Cửu Long, du khách có thể hoà vào cái không khí cởi mở của người dân nơi đây: Chèo ghe đi bán cá vồ Nước chảy ồ ồ chẳng thấy ai mua Cá lò tho ăn lo chí ngán Khô sặc rằn đem bán chợ Dinh Đến Cần Thơ, nghe người Tây Đô kháo nhau: Chợ Bình Thuỷ bán bánh bao chỉ Chợ Sài Gòn bán bánh bích quy Về Thoại Sơn, An Giang vẫn có thể nghe chuyện chợ búa khắp vùng: Chợ Sài Gòn chà gạo lức Chợ Bến Lức chà gạo vàng Chợ Sóc Trăng chà gạo lộn trấu càng Anh thương em là thương lời nói dịu dàng… Còn đến TX Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long, du khách càng hiểu thêm rằng: Chợ của người Việt không chỉ là nơi bán mua mà còn là nơi ghi dấu bao kỷ niệm, nơi tìm bạn đời, nơi giao lưu, chia sẻ nỗi lòng…: Chợ Sài Gòn bán đá Chợ Rạch Giá bán xi măng Gặp nhau đây mới biết rằng còn Năm Thìn bão lụt khóc mòn con ngươi và còn có cả những điều vượt lên sự trao đổi, bán mua: Chợ Sài Gòn còn đương buôn bán / Chợ Vĩnh Long lập quán cầu hiền. Đến chợ đôi khi là để có cái cớ bày tỏ tâm sự lứa đôi như vùng chợ Giồng, Bến Lức, Long An: Đèn nào cao bằng đèn Ba Gác Gái nào bạc bằng gái chợ Giồng Anh thương em từ thuở mẹ bồng Bây giờ khôn lớn em lấy chồng bỏ anh. Thăm chợ đêm ở Giá Rai, Bạc Liêu, lại có thể chia sẻ những điều thầm kín, thanh tao của người ở ngay bên chợ mà tấm lòng không bị ma lực đồng tiền làm hoen ố: Đêm qua chợ sáng trăng rằm / Em đi ngang cửa anh nằm không yên / Thương em chẳng phải vì tiền / Thấy em lịch sự có duyên dịu dàng. Đến Chợ Lách, Bến Tre, cũng có thể bắt gặp những nét đẹp tình cảm tương tự như thế: Khoan khoan buông áo em ra / Để em đi chợ kẻo hoa em tàn / Hoa tàn thì mặc hoa tàn / Mấy thuở gặp nàng nàng bảo buông ra? Nền kinh tế thị trường đã khiến nhiều chợ quê đang mai một dần đi, thay vào đó là những phố thị, những chợ lớn và các siêu thị. Nhưng có một điều mà các chợ lớn hiện nay không thể có; đó là tình làng, nghĩa xóm, là bản sắc văn hoá nông thôn. Chợ quê một nét văn hoá đặc trưng và độc đáo của làng quê Việt. Hiện nay chúng ta đang xây dựng và khôi phục văn hoá làng với những phong tục tín ngưỡng của nó. Toàn bộ môi trường không gian, tập tục nhân văn ở các làng, trong đó chợ làng là một đối tượng di sản cần bảo tồn và phát triển, để những phiên chợ làng, chợ quê không chỉ là còn trong hoài niệm.
-
Có một câu chuyện này Phoenix thấy khá mới mẻ. Giới thiệu lên đây để mọi người cùng tham khảo. Sự tích: Ăn Trầu Ngắt Đuôi (st) Thuở ấy, ở xóm kia có chàng thanh niên và cô thiếu nữ rất xứng đôi vừa lứa. Cha mẹ của đôi bên đều bằng lòng kết tình thông gia nhưng chưa nói cho con mình biết. Vì quá yêu nhau, hằng đêm cô thiếu nữ lén mở cửa phòng rước cậu trai vào tình tự. mãi đến gà gáy hừng đông, cậu trai mới ra về. Cứ như vậy ngày này qua tháng kia. Buổi nọ, trước khi về, cậu trai ao ước được ăn một miếng trầu. Nhìn trong khay thấy hết trầu, cô thiếu nữ liền chạy ra vườn hái lá đem vô, têm vôi, mời chàng. Dè đâu miếng trầu nhai chưa dập chàng nọ ngã lăn, trào đờm rồi chết. Hoảng hốt nàng tri hô lên. Quan chạy lại khám xét tử thi, thấy nhiều đốm đỏ loang khắp mình. Thế là cô nọ bị bắt giam để xét hỏi vì tội bỏ thuốc độc giết người. Cô cứ một mực kêu oan. Cuộc tra tấn kéo dài, lần lần cô trở nên ốm o gầy mòn, gần chết trong ngục. May sao, có ông quan Án đi qua. Quan Án hỏi cô: - Đầu đuôi tự sự như thế nào? Mi phải khai rõ. Cô nọ nói sự thật. Nghe xong, vị quan suy nghĩ, gật đầu. Ông đi ra ngoài vườn xem từng lá trầu trên nọc. Ông chú ý: mấy lá ở sát gốc đều dính một chất gì nhớt ngay chót đuôi lá, giống như là con ốc, con sên bò qua nhả nước miếng. Nhưng không thấy con ốc, con sên nào cả! Ông quá tức trí, ra lệnh đào dưới đất, ngay nọc trầu đào thật sâu, bỗng nghe tiếng khò khè. Rõ ràng là con thuồng luồng nằm khoanh trong hang. Dân chúng chạy tứ tán. Ông quan nói: - Con thuồng luồng này hàng đêm lén bò lên mặt đất để kiếm nước uống. Vì quá khát nước, nó phải liếm mấy giọt sương đọng ở chót đuôi mấy látrầu gần mặt đất. Nọc con thuồng luồng dính lại trên lá nên giết người. Cô gái này bị hàm oan. Chòm xóm nhìn nhận lời vị quan nọ là chí lý, tài trí như Bao Công thuở trước. Từ đó về sau, trước khi têm trầu, ai nấy đều ngắt chót đuôi lá vì sợ nọc con thuồng luồng. Bây giờ, giống thuồng luồng không còn nữa nhưng thói quen của con người hãy còn...
-
Ngày xuân kể chuyện ăn trầu Nguồn: http://www.nhandan.com.vn ND - Tục ăn trầu xưa kia từng là một nét văn hóa đặc sắc của người Việt và cư dân vùng Đông Nam Á nói chung. Tuy nhiên, số người ăn trầu hiện nay đang ngày càng giảm dần, và tục ăn trầu đang dần mất đi. Ở Bình Ðịnh, thời trước hầu như ai cũng ăn trầu. Vì thế nghề lái trầu đã giúp Biện Nhạc (Nguyễn Nhạc) gây dựng nên cơ nghiệp của Nhà Tây Sơn. Hồi ấy, con trai, con gái tới tuổi thành niên thường bắt đầu ăn trầu. Thuở mới về làm dâu, mẹ tôi chưa biết ăn trầu, nhưng vì được ông nội tôi khuyến khích (ông nội tôi rất nghiện trầu, nhưng cha tôi thì không ăn vì ông sợ) nên bà đã ăn thử rồi nghiện luôn đến giờ. Vì nghiện trầu nên nhà nào cũng trồng một vài cọc trầu và cây rễ trong vườn. Dây trầu bò lên cây cau, cây dừa hoặc cây bồ ngót tàu. Cây rễ cao, lá thuôn dài, cành suông. Khi ăn, người ta chặt cành, bóc vỏ đánh thành nài (như nài cày, nhưng nhỏ hơn) rồi đem thui lửa, phơi khô dùng dần. Nếu hôm nào đi chợ quên mua rễ, người ta hái nụ hoa chim chim ăn tạm thay rễ. Chim chim là loại cây như dú dẻ, hoa thơm, trái hình rẻ quạt như nhánh chuối, nhưng rất nhỏ, hạt to, khi chín mầu đỏ, ăn có vị ngọt. Khi ăn trầu, người ta dùng vôi quết nhẹ lên mảnh lá trầu tươi đã cắt xéo, gập lại cho vôi nằm ở giữa rồi bỏ vô miệng nhai. Vôi ăn trầu là vôi chín mầu đỏ hồng, hay trắng. Ăn trầu nhất thiết phải có vôi, không có vôi, trầu không đỏ, không nồng, vị nhạt như nước ốc, bởi thế mới có câu ca dao: Có trầu, có vỏ không vôi - Có chăn có chiếu không người nằm chung. Ðể có miếng trầu ngon, thì ngoài cách têm trầu cho đẹp, cho khéo, còn phải biết cách quệt vôi sao cho vừa ăn. Nếu quệt nhiều, miếng trầu cay xé, quệt ít thì không đủ nồng: Tội tình thiếp lắm chàng ơi - Trầu ăn không đỏ vì vôi quệt già. Ðể tăng thêm vị đậm đà, nhiều người còn dùng thuốc rê (lá thuốc xắt thành sợi nhỏ), vo thành viên nhỏ như viên bi, lăn qua lăn lại tạo cảm giác ngon miệng. Những khi hết thuốc, mẹ tôi thường lấy đỡ vài điếu thuốc Nam Dương tháo ra xài tạm, nhưng bà bảo không ngon bằng thuốc rê. Các loại trầu, cau, thuốc, rễ đựng trong cơi trầu (mẹ tôi gọi là cão trầu) bằng tre, nhỏ xinh như chiếc rá gạo bây giờ. Chiếc cơi trầu cũng đi vào ca dao bằng lời tỏ tình rất dễ thương của chàng trai trẻ: Ước gì anh hóa ra cơi - Ðể cho cơi đựng cau tươi trầu vàng - Ước gì anh cưới được nàng - Mai sau anh trả lại nàng đôi mâm. Ngày nay cơi trầu được thay bằng rổ nhựa, tuy tiện lợi nhưng ít thẩm mỹ hơn nhiều. Ngoài cơi trầu, còn có đãy trầu. Khi đi ra ngoài, thì có đãy trầu bằng vải luôn dắt theo người, gặp ai cũng lấy ra mời như người ta mời thuốc lá bây giờ. Các ông, các bà không có đãy trầu thì bỏ vào hai túi áo vạt hò, áo bà ba, để khi ra đồng có cái ăn đỡ thèm. Vì thế túi áo ai cũng sẫm mầu cổ trầu, đặc biệt là hai ngón tay trỏ và tay cái. Miếng trầu đã trở thành vật giao duyên khá độc đáo của các chàng trai cô gái: Yêu nhau trao một miếng trầu - Giấu thầy giấu mẹ trao sau bóng đèn, hoặc: Ðêm trăng thiếp mới hỏi chàng - Cau tươi ăn với trầu vàng xứng không? - Trầu vàng nhá với cau xanh - Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời. Người già răng yếu, khi ăn trầu dùng "ống xoáy trầu" nghiền cho dập trầu cau, rễ trong xoáy trước khi dùng. "Ống xoáy" làm bằng gỗ, sau bằng đồng, thời đánh Mỹ làm bằng vỏ đạn đại liên to bằng ngón chân cái, cưa bớt phần ngọn, còn phần đáy cao độ ba bốn phân. Ðể có cây giã trầu, người ta cắt một đoạn thép gai dài bằng cây bút bi đập dẹt một đầu, đầu kia uốn vòng tròn để dễ cầm và xỏ dây cột vào đáy ống xoáy cho khỏi thất lạc. Sau khi trầu, cau, rễ được bỏ vào ống xoáy, người ăn trầu dùng cây sắt chọt vào ống cho dập trầu, làm mềm rễ. Người ăn trầu thường nhuộm răng đen, với cách nhuộm này mà mẹ tôi cũng như nhiều cụ khác trong thôn giữ được hàm răng đen bóng trong hơn nửa thế kỷ. Các cụ quan niệm răng càng đen càng đẹp, nhưng càng về sau, tục ăn trầu giảm dần, chỉ còn những bà cụ già. Vì thế, tục nhuộm răng càng về sau càng mất dần, và khi văn hóa phương Tây du nhập thì không còn ai nhuộm răng và cũng ít người ăn trầu, chỉ lại vài cụ bà đã trên bảy tám mươi tuổi như mẹ tôi. Nhuộm răng ăn trầu là một nét độc đáo của không chỉ người Bình Ðịnh, mà trong quá khứ, nó đã trở thành một sản phẩm văn hóa mang đậm sắc thái của phong cách Á Ðông. MAI THÌN
-
"Ra về nhớ nước giếng khơi Nhớ điếu ăn thuốc nhớ cơi ăn trầu Ra về giã nước giã non Giã người giã cảnh, kẻo còn nhớ nhung". .... ".....Ta về để lại đắng cay Ta về xin được nắm tay cô mình Nhìn nhau cho mắt tự tình Chạm nhau cho đã thân hình luyến êm Mượn ngày lới rộng ban đêm Cho xun xoe lẫn lời em van cầu Trầu xanh quấn ngọn thân Cau Giếng trong đầy nước miệng gầu khát chao cứ hôn hôn mãi má đào cứ dâng dâng mãi biết bao ái tình ..." (trích: Xin anh về ngủ...-st) Nhắc đến Trầu nhớ bà ngoại ngày xưa. Bà ngoại ăn trầu nhiều đến mức bị sạn vôi ở mắt. Cứ hết rồi lại tích mới. Đi chích mấy lần. Giờ bà đi xa rồi. Không còn ngồi têm trầu để ai ăn nữa. Nhân bài của Lạc Tướng giới thiệu, Phoenix tặng thêm Lạc tướng bài này: TRẦU CAU (Sưu tầm) Ăn trầu là phong tục cổ truyền của người Việt. Tương truyền có từ thời Hùng Vương và gắn liền với một câu chuyện cổ tích nổi tiếng: Chuyện Trầu Cau. Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện của phong cách, vừa là thể hiện tình cảm dân tộc độc đáo. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Với thôn dân Việt Nam, miếng trầu thắm têm vôi nồng cùng cau bổ tám bổ tư , vỏ chay rể quạch luôn là sự bắt đầu, sự khơi mở tình cảm. Miếng trầu làm người với người gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Và với các nam nữ thanh niên xưa thì nó là cội nguồn để bắt đầu tình yêu, bắt đầu câu hát, để vào với hội làng hội nước. Cây cau thẳng, dây trầu mềm, khắp xứ sở Việt Nam đâu mà không thấy, hàng cau phía trước bên bể nước mưa và giàn trầu trong mỗi ngôi nhà nơi thôn dã luôn là biểu hiện của sự thái bình. Trong Nam có 18 thôn vườn trầu, tổng diện tích hàng trăm cây số vuông. Ngoài Bắc, dọc các thôn xóm ven sông Hồng, ngày xưa tới đâu mà chẳng nghe câu hát: "Ru con con ngủ cho rồi Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu. Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu, Mua cau Nam phố, mua trầu chợ Dinh." Và ở miền Trung, đâu đâu cũng thấy thấp thoáng bóng cau bên cạnh bóng dừa và văng vẳng đâu đây câu hát: "Bồng em mà bỏ vô nôi, Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu, Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu, Mua cau Bát Nhị, mua trầu Hội An." Sách xưa thì ghi: "Ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm" những vật dụng cho việc ăn trầu hôm nay vẫn thấy, đó là cơi trầu (gắn liền với câu: đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu), là dao bổ cau (gắn liền với câu: mắt sắc dao cau), là chiếc âu trầu, là bình vôi, chìa vôi, ống vôi, là khăn, là túi đựng trầu. Nhà giàu còn đựng được tráp trầu, khay trầu sơn màu khảm trai rất đẹp. Như thế đủ thấy trầu cau gắn liền với sinh hoạt của nông thôn ta chặt chẽ và lâu đời biết dường nào. Trầu dùng tiếp khách hàng ngày, như bát chè xanh, như điếu thuốc lào. Trầu làm sính lễ trong đám hỏi, trầu thay cho thiệp báo, thiệp mời trước ngày hôn lễ, trầu có mặt trong mỗi cuộc vui buồn của làng quê, Xuân đến, Tết về, trầu cau còn là quà tặng. Thơ Nguyễn Khuyến có câu: "Kiếm một cơi trầu sang biếu cụ Xin đôi câu đối để mừng ông." Hơn thế, trầu cau còn là đồ cúng lễ, ngày giỗ. Dân gian có câu "Sửa cơi trầu, đĩa hoa dâng cụ" để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của bậc tiền nhân. Trầu cau gần gũi với sinh hoạt của người Việt như thế nên hiển nhiên nó cũng trở thành hình tượng của văn học dân gian. Sự tích Trầu Cau là một câu chuyện bi ai mà thắm đượm nghĩa tình với hình tượng khó quên cây cau-người chồng, dây trầu-người vợ và hòn đá (vôi)-đứa em trai chồng... Rồi đến cả trăm câu ví, câu đố, ca dao, ngạn ngữ, tục ngữ dân gian mà tập trung nhất là những bài, những câu của trai gái nói, hát với nhau gọi là những câu hát trao duyên, câu hát mời trầu. Hát mời trầu có tới hàng trăm câu hát khác nhau nhưng câu nào cũng nói tới trầu, cau, vôi, vỏ hoặc nói về cái tài của người bổ cau, têm trầu. Câu hát mời trầu cũng là câu hát bày tỏ lòng mình. Bên cạnh những "vôi nồng", "miếng trầu cánh phượng", "cau bổ bốn bổ ba", là những "trầu giải yếm giải khăn", "trầu loan, trầu phượng, trầu tôi trầu mình" là những "trầu tính trầu tình", "trầu nhân, trầu ngãi"... để rồi thành "trầu mình lấy ta", "trầu nên vợ nên chồng". Tục ăn trầu còn gắn với phong tục nhuộm răng đen để có những má hồng răng đen tiêu biểu của cái đẹp con gái thuở nào. Người thôn nữ má hồng răng đen, một thuở đã trở thành hình ảnh làm si mê biết bao chàng trai, như câu ca xưa: "Mình về mình nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười Năm quan mua lấy miệng cười Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen." (Suu tầm ) TỤC ĂN TRẦU CỦA NGƯỜI HÀ NỘI (nguồn: www.vovnews.vn) Đây là một nét đẹp văn hoá của dân tộc, được dùng trong những ngày lễ, Tết hoặc trong những dịp lễ ăn hỏi, cưới xin của mỗi người dân Việt Nam .... Người Hà Nội vốn nổi tiếng sành ăn, sành mặc, Hà Nội là nơi chắt lọc những tinh hoa, nét đẹp của mọi miền để tạo nên nét đẹp cho riêng mình. Nét đẹp của Hà Nội thể hiện ngay cả trong tục dùng trầu - một phong tục mà theo truyền thuyết có từ thời Hùng Vương dựng nước (qua sự tích Trầu Cau mà người Việt Nam hầu như ai cũng biết. Trước kia, người Hà Nội từ 13 tuổi trở lên là biết ăn trầu. Theo sứ giả nhà Nguyên vào đời Trần, ở Thăng Long, 61 phố phường đều trồng rất nhiều cau và trầu không. Người Hà Nội trước đây có câu: Mua vôi chợ Quán, chợ cầu Mua cau Nam Phố, mua trầu chợ Dinh Chợ Cầu, chợ Quán là các chợ lẻ, chợ phụ dọc đường, Nam Phố là tên cũ của phố Hàng Bè bây giờ, nơi xưa bán rất nhiều cau tươi, cau khô. Chợ Dinh gần dinh quan phủ Phụng Thiên (quãng phố Phủ Doãn và Ngõ Huyện bây giờ). Ngày nay, người Hà Nội ít ăn trầu hơn trước nên không còn những phố bán trầu mà tập trung phần lớn ở những chợ một số ít được đem bán rong. Người Hà Nội rất công phu trong cách chọn trầu. Cau ngon phải là cau bánh tẻ, không già, không non, vừa tới hạt (nửa màu, nửa hạt). Người sành ăn thường kén mua cau Đông ở tỉnh Hải Hưng (cũ). Từ tháng 8 có thêm cau miền Nam nhưng người ta ít ăn vì loại cau này nhiều hạt không ngon. Mua trầu phải chọn lá hơi ánh vàng, nhỏ, dày, tươi. Ngày trước có trầu không làng Chả ngon nổi tiếng vì lá nhỏ, vừa thơm vừa cay, để có được lá trầu như vậy người làng Chả ngày đó trồng trầu cũng rất công phu, dàn trầu không phải được trồng trên đất trồng gừng. Ngày nay người Hà Nội ăn trầu Hưng Yên, vào dịp lễ hỏi người ta mua trầu Tây Sơn vì lá to đẹp. Người sành ăn trầu chọn vôi xứ Đoài - Sơn Tây.Têm trầu cánh phượng - Nghệ thuật của người Hà Nội Bộ đồ ăn trầu của người Hà Nội gồm có: cơi đựng trầu bằng đồng hoặc quả trầu sơn khảm xà cừ, ống vôi chạm bạc, ống nhổ bằng đồng thau đựng quết trầu. Những cụ già ăn trầu còn có thêm cối giã trầu bằng đồng chạm trổ khá tinh vi chỉ bỏ vừa miếng trầu, miếng cau, vỏ để giã. Dao bổ cau phải sắc để bổ cau cho đẹp và hạt không bị vỡ. Cũng chỉ là "Quả cau nho nhỏ, lá trầu xanh" nhưng cách ăn trầu của người Hà Nội rất duyên dáng, họ ăn trầu không những làm đỏ môi, răng đen mà còn tạo nét môi cắn chỉ rất đẹp, Người ta không cho cả cau, trầu và rễ vào cùng một lúc mà ăn từng thứ một. Cau được nhai dập mới cho trầu vào và sau cùng là rễ quệt thêm một ít vôi, khi ăn người ta thường lấy tay quệt ngang miệng, lâu dần tạo thành nét môi cắn chỉ. Người xưa ăn trầu còn là để bảo vệ hàm răng của mình, chất chát của trầu cau làm cho lợi răng co lại ôm sát lấy chân răng, làm hàm răng cứng chặt lại không lung lay. Còn trong y học cổ truyền người Việt Nam xưa đã dùng trầu cau như một thứ thuốc chống bệnh sốt rét rừng một khi vào rừng sâu săn bắn hoặc xuống biển mò ngọc trai, săn bắt đồi mồi... Người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung xưa kia coi việc têm trầu là một nghệ thuật. Qua cử chỉ têm trầu, ăn trầu để phán đoán phong cách, tính nết cũng như nếp sống của con người. Chính vì lẽ đó, khi đi xem mặt nàng dâu tương lai, nhà trai đòi bằng được cô gái ra têm trầu, trước là để xem mặt cô dâu, sau là để xem cử chỉ têm trầu của cô gái mà phán đoán tính nết. Miếng trầu têm vụng về là người không khéo tay; miếng trầu nhỏ miếng cau to là người không biết tính toán làm ăn; miếng trầu quệt nhiều vôi là người hoang phí không biết lo xa... Ngày nay, ở Hà Nội hầu như chỉ những người trên 60 tuổi mới ăn trầu cho nên Hà Nội không còn cảnh mời trầu như A.de Rovodes - một người Pháp nói về việc ăn trầu của người Thăng Long thế kỷ XII: "Họ có tục đem theo một vài túi con đầy trầu cau đeo ở thắt lưng, họ để mở trong khi qua lại phố phường để mời bạn bè. Khi gặp họ bắt đầu chào hỏi nhau, rồi mỗi người lấy ở trong túi của bạn một miếng trầu để ăn". Tuy nhiên, quan niệm "miếng trầu là đầu câu chuyện" của người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung vẫn được áp dụng ở những dịp hiếu, hỉ. Ngày Rằm, mồng Một hoặc các ngày lễ Tết hoặc trong những dịp lễ ăn hỏi, cưới xin của các gia đình Việt Nam vẫn không thể thiếu miếng trầu quả cau trên bàn thờ tổ tiên. Trầu cau chỉ là một thứ nhai chơi, tuy đơn sơ nhưng lại có nhiều ý nghĩa trên lĩnh vực y học, tâm lý xã hội... dùng trầu cau còn là một truyền thống văn hoá của dân tộc. Ngày nay, không mấy ai ăn trầu nhưng nét đẹp đó vẫn được gìn giữ và áp dụng trong cuộc sống của người dân./. Huy Ngân
-
Phoenix ra câu hỏi này được không ạ? Câu 1: Dịch tả ở Việt Nam sẽ diến tiến thế nào? Câu 2: Bao giờ dịch tả có thể chấm dứt? Câu 3: Sẽ có bao nhiêu người phải thiệt mạng trong đợt dịch năm nay? Kính mời ACE!
-
Phoenix định luận cho anh trong lúc chờ chú Thiên Sứ nhưng mất hết bài rùi. Gõ bài trục trặc. Hẹn dịp khác vậy. Theo Phoenix thì ở vị thế của anh, anh nên chủ động điều chính mối quan hệ cho bớt căng thẳng. Có những việc mình nghĩ là tốt nhưng chưa chắc đối với người ta đã tốt. Chưa kể là có người biết nhưng không muốn thừa nhận, cho nên thiết nghĩ không nên đối chấp. Nếu mục đích là làm điều tốt mà thực tế gây chuyện không tốt thì không nên cưỡng cầu. Anh đã làm ngành đối ngoại thì chắc việc tiến thoái sao cho phù hợp không mấy khó khăn. Sơ qua vài câu mong là chia sẻ với anh được gì đó. Chúc vui vẻ và tốt lành!