-
Số nội dung
93 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by turn on
-
Bác Laido ơi! Em cũng muốn thỉnh 1 cái về để tập tành, em ở HN thì liên hệ với ai?
-
Các bác BQT ơi! Từ hôm bị hack đến giờ thì giờ của diễn đàn nhanh hơn giờ thực tế 7h lận. Các bác check lại đi. Hiện tại giờ diễn đàn trên máy em là 5:28PM 21/11 mà giờ thực tế mới 9:37AM 21/11. Em đã chỉnh lại múi giờ của máy là GMT +7
-
Đọc thơ sư phụ con cũng cảm nhận được tâm sự bấy lâu nay của thầy. Đường đời thật lắm chông gai. Tình trường ai thấu bến nào tựa nương. Em đi để lại vấn vương. Để anh đơn chiếc đêm đông mộng chờ.
-
Những viên ngọc được coi là lấy từ thân xác của các bậc cao tăng. Thái Lan được mệnh danh là xứ sở của những nụ cười. Đến Thái Lan có nhiều thứ lạ nhưng kỳ lạ nhất vẫn là triển lãm xá lị, những siêu nông dân với thu nhập cả triệu USD/năm, là tay nghề cao siêu của bác sĩ Thái biến cái không thể thành có thể, biến nam thành nữ, nữ thành nam và những huyền diệu của đạo Phật... Ngàn năm trôi qua, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ nhưng bí ẩn của những viên xá lị vẫn chưa một lời giải đáp. Xá lị là những hạt tinh thể với đủ màu sắc, cái long lanh như ngọc, cái óng ánh tựa kim cương, cái tựa đá cuội, cứng đến nỗi búa đập không vỡ, lửa thiêu không cháy. Những viên ngọc xa lị kì thú.... Chúng được tìm thấy trong đống tro tàn sau khi hỏa thiêu của những sư tăng đã thấm đẫm cái đạo của trời đất, Phật pháp, để trường tồn ngàn năm cùng tạo hoá, rủ rỉ kể những câu chuyện phi thường. Cơ hội chiêm bái xá lị rất hiếm gặp trong đời bởi vì chúng được cất giữ, thờ kính ở những nơi vô cùng bí mật. Phật tử ăn chay, niệm phật cả đời cũng khó lòng được chiêm ngưỡng xá lị là vì thế. Lần này, đến Thái Lan, anh Long - hướng dẫn viên của đoàn bảo với chúng tôi: “Nhân những ngày triển lãm xá lị phật ở chùa Yannawa (Bangkok), mọi người sẽ có một cơ hội hiếm có trong đời là chiêm ngưỡng đủ các loại xá lị của thế giới”. ...Và ẩn chứa nhiều màu săc huyền diệu. Lòng ai cũng khấp khởi mừng. Yannawa là ngôi chùa cổ điển hình với kiến trúc đậm nét tiểu thừa, đầy huyền hoặc vàng son. Mỗi người trong đoàn mua một bó hoa lễ phật 20 bạt gồm một bông hoa sen, một bông huệ và một bó hương. Bên trong chùa không cho khách quay phim, chụp ảnh, không hút thuốc, thắp nhang... Gian trung tâm ngự bức tượng Phật Thích Ca, dưới là xá lị của ngài. Khách ai đến cũng cố chen vào trong tấm thảm dưới chân ngài, nơi đó theo tâm niệm sẽ lấy được năng lượng từ xá lị của Phật Thích Ca. Xá lị là từ ngữ phiên âm tiếng Phạn. Nghĩa đen là “những hạt cứng”. Nguồn gốc cũng rất bí ẩn. Theo ghi chép trong lịch sử Phật giáo, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni viên tịch, các tín đồ đã đem xác của ngài đi hỏa táng. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện thấy trong phần tro còn lại có lẫn rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Sững người trước sự kiện lạ, chư tăng mẩn mê đếm được cả thảy 84.000 viên. Xá lị phật, sau khi hỏa táng lưu lại, thường nhỏ như hạt vừng hoặc lớn bằng nửa hột gạo, gồm có 5 màu như: Màu đen tức tóc của ngài, gọi là phát xá lị; Màu đỏ tức máu, gọi là huyết xá lị; Màu vàng tức da, gọi là bì xá lị; Màu xanh tức gân, gọi là cân xá lị; Màu trắng tức xương, tủy, gọi là cốt xá lị. Trước đây người ta không tin là có xá lị Phật tổ. Mãi đến năm 1997, ông W.C Peppé, người Pháp, khi tiến hành khảo cổ tại vùng Piprava, phía Nam Népal đã tìm thấy những viên xá lị đựng trong một chiếc hộp bằng đá. Trên hộp có khắc những văn tự Brahmi, và người ta đã đọc được nội dung của nó như sau: “Đây là xá lị của Đức Phật. Phần xá lị này do bộ tộc Sakya, nước Savatthi phụng thờ” (Phật quang từ điển). Điều kỳ lạ là trải qua hơn 25 thế kỷ, thánh tích Đức Phật vẫn còn nguyên vẹn, lấp lánh màu sắc trước ngàn vạn cặp mắt thế gian ngỡ ngàng. Theo tài liệu trên mạng, có rất nhiều kỷ lục liên quan đến xá lị như: Tháng 3/1991, Phó hội trưởng Hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn - Ủy viên thường vụ Hội Phật giáo Trung Quốc, sau khi viên tịch đã được tiến hành nghi thức hỏa táng theo tâm nguyện của ngài, trong phần tro còn lại người ta phát hiện được tới 11.000 hạt xá lị, đạt kỷ lục thế giới. Viên xá lị có thể to như quả trứng vịt, đó là trường hợp của Pháp sư Khoan Năng, vị chủ trì Tây Sơn Tẩy Thạch Am huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ngày 27/9/1989, ngài viên tịch thọ 93 tuổi. Sau khi hỏa thiêu người ta tìm thấy trong tro hài cốt 3 viên xá lị màu xanh lục, trong suốt, đường kính mỗi viên lên tới 3 - 4cm, tựa như những viên ngọc lục bảo. Lại có một số trường hợp, xá lị chính là một bộ phận nào đó của cơ thể không bị thiêu cháy. Ở chùa Yannawa, chúng tôi như đi trong huyền thoại giữa trầm mặc đời thường của xá lị. Thôi thì đủ loại, đủ màu sắc, cái như hòn ngọc, cái như viên sỏi, có cái dạng gốm… đặc biệt có cả xá lị được hình thành từ óc các nhà sư. Về sự hình thành của những viên xá lị, cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau. Phật tử thường tin rằng khi thấm đạo, thẫm đẫm tình người về gần với cõi chết, các nhà sư không ăn, uống gì mà chỉ xếp bằng, ngồi thiền hấp thu âm dương khí của trời đất. Có hàng trăm, hàng ngàn nhà sư thiền như thế nhưng cơ duyên để thành xá lị chỉ có tỷ lệ một phần vạn, một phần triệu tuỳ theo căn tu của sư. Các nhà khoa học thì cho rằng, do thói quen ăn chay, thường xuyên sử dụng một khối lượng lớn chất xơ và chất khoáng, trong quá trình tiêu hóa và hấp thụ, rất dễ tạo ra các muối phosphate và carbonate, những tinh thể muối đó tích lũy dần trong các bộ phận của cơ thể và cuối cùng biến thành. Tuy nhiên, giả thuyết này không đủ sức thuyết phục. Bởi lẽ số người ăn chay trên thế giới có tới hàng trăm vạn, nhưng tại sao không phải ai khi bị hỏa táng cũng sinh xá lị. Số người theo đạo Phật cũng nhiều vô kể, thế nhưng tại sao trong cơ thể của những tín đồ bình thường lại không có xá lị? Nhóm khác lại cố dùng những kiến thức về lý, hoá để cho rằng, có thể xá lị là một loại hiện tượng có tính bệnh lý, tương tự như bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật... Giả thuyết này cũng khó đứng vững. Bởi vì, sau khi đưa xác đi thiêu, trong phần tro của những người mắc các chứng bệnh kể trên, không hề phát hiện thấy có xá lị. Mặt khác, những cao tăng có xá lị thường là những người lúc sinh thời thân thể rất khỏe mạnh và tuổi thọ cũng rất cao. Khoa học đưa người ta lên mặt trăng, đưa tin tức đi với tốc độ ánh sáng, gửi thông điệp cho những người ngoài hành tinh…tuy nhiên, cuối cùng thì xá lị đã được hình thành như thế nào? Thành phần của nó ra sao? Vẫn đang làm nhức đầu các nhà khoa học. Chẳng phải kim loại, chẳng phải phi kim, cũng chẳng phải kim cương, đá quý, chỉ là tro cốt còn lại của người tu hành sau khi hỏa táng, vậy mà sao đốt cũng không cháy, không cần màu vẫn sáng lấp lánh, thách thức với thời gian...
-
Nhờ chị huyencodieuly bỏ chút thời gian xem giúp đường công danh sự nghiệp của em với. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2 Chúc chị huyencodieuly mạnh khỏe hạnh phúc.
-
Khách tham quan chứng kiến hiện tượng nước tự dâng lên, hạ xuống ở mó nước Rằng Phặt. "Chỉ cần vỗ tay, hô to gọi nước là mó nước lạ Rằng Phặt ở xã Hồng Quang, huyện Quảng Uyên (Cao Bằng) dâng lên ào ạt…" là thông tin về giếng nước “lạ". Song sự thật, đây là hiện tượng khoa học và không huyền bí như nhiều người nghĩ. Gần đây, có bài báo viết rằng, bất kể ai đứng trước mó (vũng, giếng, hố) nước trên, đọc câu thần chú: “Tý Xằm, tý Sọi, tý Mọi, lặc ngần, lặc sèn, au lẹo nớ, mà chẳng lớ” (Dịch là: “Con Xằm, con Sọi, con Mọi ơi! Có kẻ đến lấy cắp hết vàng bạc rồi lớ, về giữ lấy lớ!”). Sau tiếng "lớ", từ dưới lòng một khe đá hình tròn có diện tích chỉ bằng cái mâm ăn cơm, nước bắt đầu đùn ra ào ạt. Đọc thần chú, nước dâng? Nước sủi tăm, nước cuồn cuộn nhè nhẹ, giống như một nồi nước lúc bắt đầu nổi tăm. Toàn bộ mó nước có diện tích bằng hai gian nhà xanh thăm thẳm chợt tràn ra các khoang chứa đầy bùn đất, lúp xúp cỏ dại. Nước rút ở khu này thì nước lại dâng lên ở khu khác. Nước chạy vào hang sâu vô tận ở chân vách đá vôi. Nhiều người tò mò đã đến tận nơi để chứng kiến hiện tượng này. Đến tận nơi xem "mó nước lạ", một cộng tác viên của chúng tôi kể lại: Khi gọi to, nước có dâng lên, nhưng nhè nhẹ, từ từ chứ không hề ào ạt. Mức nước dâng chỉ khoảng hai đốt tay rồi lại từ từ rút xuống, rồi lại dâng lên, cứ như thế khoảng 3- 4 lần là kết thúc. Có lúc không ai gọi nước cũng dâng lên. Một dạng "bẫy không khí" Câu chuyện về nước dâng tại mó nước Rằng Phặt được người dân ở đây thêu dệt đủ chuyện... Là người từng tìm thấy hàng trăm nguồn nước ngầm bằng phương pháp địa bức xạ, TS Vũ Văn Bằng, Công ty cổ phần Nghiên cứu Môi trường Tia Đất bức xúc khi biết thông tin này. TS Bằng khẳng định: đây là một hiện tượng tự nhiên kỳ thú trong thế giới tự nhiên xung quanh con người, tuyệt nhiên không có gì lạ lùng, huyền bí, linh thiêng cả. Hiện tượng những dòng suối lúc phun lúc ngừng, hoặc phun đúng giờ được các nhà địa chất giải thích là do suối nước ngầm chịu tác dụng giãn nở của khí nên bị phun trào ra khỏi mặt đất. Dưới lòng đất, nước ngầm không ngừng tiếp xúc với lớp nham thạch nóng chảy, nhiệt độ nước không ngừng gia tăng. Mặt suối (nơi suối ngầm lộ ra khỏi mặt đất) lại rất nhỏ và sâu làm cho sự đối lưu giữa lớp nóng ở phía sâu và lớp nước lạnh ở phía trên tương đối khó khăn. Tất cả những nguyên nhân đó làm cho mực nước ở trên vẫn là nước lạnh, nhưng bong bóng khí và nhiệt lượng hình thành bên dưới không thoát ra được. Các bong bóng khí ấy ngày càng tích nhiều dần, áp lực ngày càng lớn. Khi áp lực đạt đến một ngưỡng nhất định, nước suối lại tiếp tục phun trào. Tuy nhiên, theo ông Bằng, cần tiến hành khảo sát khoa học tại thực địa để tìm ra cơ chế riêng của hiện tượng nói trên. Trong khi đó, TSKH Vũ Cao Minh, Viện Địa chất, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho rằng: Có thể phỏng đoán về các cái "bẫy không khí" trong khu vực có mó nước Rằng Phặt. Tức là từ sự tích tụ không khí, khi có âm thanh, kết hợp với nhiều yếu tố khác, năng lượng từ khối không khí đó được giải phóng, đẩy nước ra. Tương tự, ở một số khu vực khai thác dầu khí, do "bẫy không khí" khiến có lúc dầu ra nhiều, có lúc dầu ra ít. Song, TS Minh cũng cho biết, với mó nước tại Rằng Phặt, đích thân ông sẽ lên khảo sát, đo đạc để làm rõ hiện tượng này. Theo Đất Việt
-
Bạn nhầm lẫn mấy chỗ trên, đúng phải là: lần lượt từ trên xuống: đinh hỏa sinh kỷ thổ, kỷ thổ sinh canh kim, đinh hỏa khắc canh kim, mộc khắc thổ, tân kim khắc ất mộc.
-
:unsure: Sáng 7-11, Ðội an ninh trật tự khu vực hồ Hoàn Kiếm cho biết, lúc 8 giờ 5 phút ngày 6-11, hai nhân viên của đội là Phạm Văn Khuyến (trực ở chốt A6 - Bưu điện Hà Nội) và Trương Xuân Huy (trực ở chốt A9 - bến đỗ xe ô-tô) cùng gọi bộ đàm về trung tâm báo cáo. Nhìn thấy "Cụ Rùa" nổi. Anh Hoàng Quyết Thắng cho biết: Tôi chính là người nhận thông tin do anh Văn Khuyến và Xuân Huy báo về vào cùng một thời điểm nói trên. Anh Vũ Anh Hùng cho biết thêm: Khoảng năm 2006, chính mắt anh đã thấy hai "Cụ Rùa" nổi lên ở khu vực Thủy Tạ. "Cụ Rùa" nổi trên mặt nước Trong nhiều năm qua, đã có các ý kiến tranh luận ở hồ Hoàn Kiếm còn một "Cụ Rùa" hay nhiều "Cụ Rùa". Từ thông tin nói trên (lưu trong sổ theo dõi hằng ngày của Ðội an ninh trật tự khu vực hồ Hoàn Kiếm) có thể khẳng định, hiện tại ở hồ Hoàn Kiếm có ít nhất hai " Cụ Rùa". Ðây là tin vui bởi ở hồ Hoàn Kiếm không chỉ có đơn độc một "Cụ Rùa" có chấm trắng sau gáy như nhiều người vẫn nghĩ. Khoảng 8 giờ 15 phút ngày 7-11-2009, khi chúng tôi đang ngồi trong trạm của Ðội an ninh trật tự hồ Hoàn Kiếm, để xem sổ theo dõi ghi lại sự việc nói trên, thì anh Vũ Anh Hùng chạy vào báo: Có "Cụ Rùa" đang nổi tại gần khu vực của trạm. Lần này Cụ nổi cách bờ chừng 15 m. Vào lúc 10 giờ 25 phút cùng ngày, "Cụ Rùa" lại nổi lên gần bờ, cũng tại vị trí sát với trạm của Ðội an ninh trật tự hồ Hoàn Kiếm. Hai chuyên gia về môi trường của CHLB Ðức là Dirk Lenmann và Jorg Sudow cùng nhiều người dân đã chứng kiến sự việc nói trên. Hai chuyên gia của CHLB Ðức có mặt tại hồ khi đang lắp dựng hệ thống thiết bị để chuẩn bị hút bùn hồ Hoàn Kiếm (đặt cạnh trạm của Ðội an ninh trật tự hồ Hoàn Kiếm). Hoạt động này nằm trong khuôn khổ Dự án: "Nghiên cứu ứng dụng công nghệ hút bùn của CHLB Ðức để phục hồi và ổn định bền vững một số hồ ở Hà Nội". Cùng ngày, "Cụ Rùa" lại nổi tại khu vực đối diện tượng Vua Lý Thái Tổ từ lúc 15 giờ 30 phút đến 16 giờ. Như vậy, trong ngày 7-11, chúng tôi đã ba lần nhìn thấy "Cụ Rùa" nổi. Theo ND
-
Nhung là sừng non lấy ở con đực của các loài hươu, nai…(Conrnu Cervi parvum). Sừng non khi mới mọc ngắn, mềm, chưa phân nhánh, sờ rất mịn, chứa nhiều mạch máu gọi là huyết nhung, khi bắt đầu phân nhánh gọi là nhung yên ngựa. Cần phân biệt với nhung hươu hay lộc. Nhung là sừng non của con hươu. Những mạch máu trong nhung là những nhánh của những động mạch thái dương (artère temporale). Quá trình tạo thành nhung ở đầu tạo thành mạng lưới mạch máu mới, còn những mạch máu cũ bị khối xương ép nên teo dần. Mùa thu khi nhung cứng thành gạc là thời kỳ động đực của hươu, nai. Hươu, nai đực kêu, đánh nhau, đấu gạc với nhau, con nào thắng sẽ chiếm con cái. Hươu, nai cái chỉ động hớn (rut) trong thời gian 24 giờ. Quá hạn đó lại phải chờ 18 ngày sau (1 chu kỳ kinh của hươu cái). Sau 7 tháng rưỡi thì con cái đẻ hươu, nai con. Thành phần cấu tạo của nhung hươu: Theo Đông y thì nhung hươu có vị mặn ngọt, tính ôn, quy vào các kinh can và thận, tâm và huyết tủy. Thành phần của nhung hươu chủ yếu là pantocrinum, calcium, magnesium, phosphore, và estrogene. Ngoài ra, gồm các hợp chất vô cơ và hữu cơ như mucopolysaccharit- Glycosaminoglycal, Chondroitin sulfat- Glucosamin sulfat - Hormon tăng trưởng, các hormon sinh dục: estrogen, testosteron, progesteron - các chất có hoạt tính sinh học khác như Chondroblast, Fibrochonoroblast (trong mô liên kết và mô sụn) các yếu tố tăng trưởng (Growth Factor) và 18 axit amin (trong đó có đủ 8 axit amin thiết yếu), các polyamin với hợp chất Sphyngomyclin, Ectasaponin, các axit béo tự do: Lecithin, Phospholipid, Gangliosid, Prostagladin-Các muối khoáng đa lượng và vi lượng như Calcium, Sắt, Mangan, Mangesium, Phospho, Cobalt, Molybden, Bari, Boron, Stroti, Nhôm, Titan, Selen... Tác dụng dược lý của nhung hươu: Theo Y học cổ truyền phương Đông: đã có nhiều kinh nghiệm dùng nhung hươu từ lâu đời, cho rằng: có tác dụng bổ dương, ích khí, bổ thận, ích huyết, bổ tuỷ, làm mạnh gân, xương; điều hoà kinh mạch - Dùng chữa các bệnh: đối với trẻ em chậm phát triển về tinh thần và thể lực, suy dinh dưỡng, chậm lớn, đối với đàn ông: yếu thận, vô sinh mệt mỏi, căng thẳng kéo lài, lạnh tứ chi, váng đầu, ù tai, hoa mắt. Đối với phụ nữ: Lãnh cảm, hiếm muộn do lạnh tử cung, bạch đới, xuất huyết tử cung; đau lưng, hồi hộp do tâm nhược, thận suy, tiểu tiện khó. Dùng liều cao có thể làm hạ huyết áp, tăng lưu lượng máu động mạch vành của tim, tim co bóp mạnh hơn, nhịp tim chậm lại, làm cường tim. Trên thực nghiệm còn thấy có tác dụng phòng trị nhịp tim không đều, tăng nhanh sự hồi phục huyết áp thấp do mất máu cấp (Trung Dược Đại Từ Điển). Theo Trung Dược Học, nhung Hươu có tác dụng cường tráng, chống mỏi mệt, nâng cao hiệu quả công tác, cải thiện giấc ngủ, kích thích tiêu hóa, cải thiện trạng thái suy dinh dưỡng và rối lọan chuyển hóa đạm, cải thiện trạng thái chuyển hóa năng lượng thấp, làm cho cơ thể chịu đựng tốt hơn trong cuộc sống hiện đại. Nâng cao tính miễn dịch của cơ thể, làm tăng hồng cầu, huyết sắc tố và sự tăng sinh của tế bào lưới hồng cầu, tăng bạch cầu. Theo Y học hiện đại: nghiên cứu về nhung từ thế kỷ 19. Đi đầu là các nhà khoa học Liên Xô (cũ) trước đây. Có nhiều công trình nghiên cứu tác dụng dược lý của nhung trên súc vật thực nghiệm và trên lâm sàng: điển hình như nghiên cứu của N.A.Albop và V.A.Borosskova: chất huyết nhung tinh: pantocrin có tác dụng tốt với bệnh nhân tăng huyết áp (140/80-210/110) và suy nhược thần kinh thực vật, trầm cảm, có kết quả khá với bệnh nhân suy nhược, suy cơ tim, huyết áp thấp. Có kết quả tốt với phụ nữ rối loạn tim mạch thời kỳ mãn kinh, tăng sự tạo xương và giảm loại canxi khỏi cơ thể (tác dụng chống loãng xương). Đại học Calgary và Albertia (Canada) thử nghiệm dùng nhung trị viêm xương, khớp, có hiệu quả tốt. Học viện cảnh sát Edmonton (Canada) thử nghiệm cho sinh viên dùng nhung thấy nồng độ testosteron trong máu tăng, tập luyện dẻo dai hơn. Đại học Oxford (Anh) nghiên cứu thấy nhung hươu có tác dụng ức chế hoạt tính của Mono Amino Oxydaza ở gan và não - Các yếu tố tăng trưởng (IFG1) kích hoạt sự phát triển của bắp thịt, ngừa teo cơ và làm chậm quá trình lão hoá. Tuy nhiên, nhung hươu cần được tinh chế bằng công nghệ chiết xuất dược, nhằm khử độc, thoát dị ứng mà không nên dùng nhung hươu tươi. Tại Việt Nam, theo nghiên cứu: Thăm dò tác dụng bổ huyết của nhung nai trên bệnh nhân ung thư do ThS.BS. Quan Vân Hùng - Viện Y dược học dân tộc TP.HCM thực hiện kết luận là: “tình trạng thiếu máu được cải thiện trên đại đa số bệnh nhân khi sử dụng nhung nai, chứng minh kinh nghiệm của y học cổ truyền trong việc giải quyết tình trạng thiếu máu do suy tủy xương. Các hoạt chất sinh học trong nhung nai đã kích thích tủy xương bị suy yếu vì nhiễm độc, hóa chất... tái hoạt động sản xuất hồng cầu một cách nhanh chóng chỉ trong 10 ngày”. Hầu hết bệnh nhân cảm thấy khỏe, ăn ngủ được cải thiện và chưa phát hiện tác dụng phụ. Hơn thế nữa, nhung nai ngoài tác dụng bổ máu được nghiên cứu trong đề tài này còn là một vị thuốc bổ cao cấp có nhiều tác dụng quý giá khác. Người ta sử dụng nhung chữa suy nhược thần kinh, hen suyễn, vô sinh, ù tai, đau đối, đau lưng, băng huyết, rong kinh, bạch đới, mọi trường hợp hư tổn trong cơ thể, đặc biệt là chứng thiếu máu. “Trích Kỷ yếu các công trình NCKH Viện YDHDT TP.HCM năm 2006”
-
Anh Linh Trang tư vấn giúp em trường hợp này xem sinh con năm nào thì hợp. Bố sinh 1981, tuổi tân dậu, mạng thạch lựu mộc. Mẹ sinh 1985, tuổi ất sửu, mạng hải trung kim. Hiện giờ đang ở chung với bố mẹ, bố sinh năm 1959, mẹ sinh 1959. Cám ơn anh nhiều. Chúc anh mạnh khỏe, hạnh phúc.
-
Topic này đúng là... Mo đen này cộng với chiếc máy săm thì các chàng lấy vợ khỏi phải suy nghĩ :P , lúc đấy ra đường áo quần còn thủng lỗ chỗ hơn bây giờ :lol: . VD 1 cái ở chỗ ấy hiệu quả đã rõ ràng thì 10 cái ở chỗ ấy sẽ ra răng :lol:
-
Anh Linh Trang, cho em xin lỗi tuổi của con gái là 24/12/2003 chứ không phải 2002. Em xin báo lại tuổi cả gia đình. Gia đình này hiện ở riêng. Bố sinh 22/12/1977, Đinh tỵ, mạng sa trung thổ. Mẹ sinh 23/12/1978, Mậu Ngọ, mạng thiên hà thuỷ. Con sinh 24/12/2003, Quý Mùi, mạng dương liễu mộc. Tiện đây em cũng nhờ anh dự đoán tương lai nhà anh trai em nữa. Bố sinh 1972, nhâm tý, tang đố mộc. Mẹ sinh 1972, nhâm tý, tang đố mộc. Con trai lớn 1999, canh thìn, bạch lạp kim. Con trai nhỏ 2002, nhâm ngọ, dương liễu mộc.
-
Anh Linh Trang thân mến! Anh tư vấn giúp em về 1 người bạn nhé. Bố sinh 22/12/1977, mẹ sinh 23/12/1978, con gái sinh 24/12/2002, hiện giờ gia đình bạn em đang rất khó khăn, muốn sinh thêm 1 đứa vào năm sau nhưng lại ngại không đủ lực để nuôi và đi xem bói thì các thầy bảo nếu sinh con trai thì không nuôi được. Em luận theo Luận tuổi Lạc Việt thì như thế này anh bổ sung giúp em nhé. Bố: tuổi Đinh tỵ, mạng Sa trung thổ Mẹ tuổi mậu ngọ, mạng thiên hà thuỷ Con gái tuổi nhâm ngọ, mạng dương liễu mộc. Tương quan 2 vợ chồng là tương quan thuận lý vì Đinh(-hoả) dưỡng Mậu(+thổ), về mạng thì thổ khắc thuỷ, về địa chi thì nằm trong tứ hành xung. Tương quan vợ và con là tương quan xấu vì mậu(thổ) bị nhâm(thuỷ) khắc, về mạng thì thủy sinh mộc nhưng thiên hà thủy lại không tương sinh dương liếu mộc. Nếu sinh con canh dần thì mẹ bị con đầu khắc lại sinh xuất cho con thứ, mà con thứ lại bị bố khắc... Em luận không nổi nữa, mong anh bổ sung giúp em, tính hộ em gia đình này sinh con năm nào thì hợp. Chúc anh mạnh khoẻ, hạnh phúc.
-
Táng tục mộ chum là hiện tượng phổ biến của cư dân cổ nhiều nơi trên thế giới. Nguồn gốc xuất hiện của táng tục này ở các khu vực văn hóa và trong các cộng đồng cư dân không cùng một thời điểm lịch sử, nhưng sự phát triển của nó lại có quan hệ mật thiết với nhiều vấn đề về tín ngưỡng tôn giáo, về thế giới quan và về những đặc trưng văn hóa của từng khu vực nói riêng và toàn vùng nói chung. Từ thời kỳ tiền sử cho đến nay, Đông Nam Á là khu vực có những vấn đề địa lý – lịch sử – văn hóa liên quan chặt chẽ với nhau và có nhiều đóng góp quan trọng cho lịch sử loài người. Đặc biệt trong thời kim khí (gồm thời đại Đồng thau và thời đại đồ Sắt từ khoảng 4000 đến 2000 năm cách ngày nay) người ta dễ dàng nhận ra nhiều yếu tố văn hóa chung thể hiện sự thống nhất và cả những yếu tố văn hóa riêng – thể hiện tính đa dạng – trong mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nơi đây. Một trong vô vàn yếu tố văn hóa chung đồng thời lại chứa đựng hàng loạt các đặc điểm riêng biệt đặc trưng cho từng văn hóa khảo cổ hay từng khu vực cụ thể ở Đông Nam Á là táng thức mộ chum. Táng thức mộ chum/vò là hình thức dùng những chum/vò bằng gốm đất nung để chôn nguyên thi thể người chết (hung táng), than tro hỏa táng hay cải táng di cốt. Cũng có thể trong chum/vò chỉ có đồ tùy táng mà không có di cốt hay than tro (mộ tượng trưng). Điểm qua các khu vực mộ chum ở Đông Nam Á trong thời kim khí. *Việt Nam: Táng thức mộ chum phân bố khá rộng rãi từ Bắc Trung bộ vào đến Nam bộ, trong các khu vực phân bố của văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, văn hóa Đồng Nai ở miền Đông Nam bộ, văn hóa Lung Leng ở Tây Nguyên. Trên địa bàn văn hóa Đông Sơn mộ vò có mặt từ Nghệ Tĩnh đến Quảng Bình – khu vực tiếp giáp văn hóa Sa Huỳnh. Khu mộ chum được biết đến sớm nhất ở Việt Nam là di tích Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi, được người Pháp phát hiện và khai quật từ năm 1909. Văn hóa Sa Huỳnh phân bố trên các cồn cát ven biển từ Thừa Thiên – Huế vào đến Bình Thuận, phần lớn là những khu mộ táng chum/vò rộng lớn nhưng cũng có một số khu mộ nằm trong di chỉ cư trú ở vào giai đoạn sớm thuộc thời đại Đồng thau. Hầu hết mộ chum chôn đứng trên cùng một bình diện thành từng cụm sát nhau hay đơn lẻ từng mộ, không có hiện tượng mộ chôn chồng chất lên nhau. Chum gốm hình trụ hay hình trứng đều có nắp đậy cũng bằng gốm hình bán cầu hay hình nón cụt. Trong chum chứa đầy cát trắng và đồ tùy táng được xếp đặt có ý thức nhưng hầu như không có dấu vết di cốt hay than tro hỏa táng. Mặc dù có ý kiến cho rằng đây là những mộ hỏa táng nhưng theo đa số các nhà nghiên cứu, trừ một số ít mộ trẻ em chôn lần đầu, các di tích mộ chum trong văn hóa Sa Huỳnh có lẽ là loại hình mộ “tượng trưng” theo phong tục của dân cư ven biển. Các di tích mộ chum trong văn hóa Lung Leng cũng có đặc điểm tương tự nhưng các chum gốm thường chôn đứng với 2 chum úp miệng vào nhau, kích thước cũng nhỏ hơn chum/vò trong văn hóa Sa Huỳnh. Ở các di tích khu vực Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh) mộ chum phân bố trong di chỉ cư trú và cũng là nơi sản xuất đồ gốm. Mật độ mộ chum dày đặc và chôn chồng chất lên nhau nên có hiện tượng các ngôi mộ cắt phá nhau trên nhiều bình diện. Một số mộ chôn trong huyệt đất đất nằm cùng địa tầng với mộ chum. Mộ chum hình cầu không có nắp đậy, trong chum di cốt còn khá nguyên vẹn cho thấy sự phổ biến của tục hung táng, đồng thời cũng có mộ cải táng. Tại vùng đất đỏ bazan Xuân Lộc (Đồng Nai) có một cụm di tích mộ chum mà đặc điểm vừa giống văn hóa Sa Huỳnh, vừa giống khu vực Cần Giờ. Đồ tùy táng để cả trong và ngoài chum. Trong văn hóa Đông Sơn, mộ vò tồn tại cùng nhiều loại hình mộ táng khác như mộ huyệt đất, mộ thuyền, mộ lát đá… thường là các vò táng úp miệng vào nhau và chôn nằm ngang, trong mộ không phát hiện được nhiều di cốt mà thường chỉ có một vài răng trẻ em. *Philippines: Tại quần đảo Philippines, truyền thống mộ chum phát triển liên tục và là táng tục cơ bản của thời tiền sử. Di tích mộ chum được tìm thấy trên nhiều đảo như Maridaque, Samar, Batanes, Palawan… đặc biệt là phức hệ mộ chum hang Tabon. Các chum gốm được chôn đứng trong những hang động trên núi cao sát bờ biển, trong chum có xương người và nhiều đồ tùy táng, nắp đậy thường bằng gốm và đá. Đặc biệt, đồ tùy táng là tượng gốm hình chim, hình nhà hay nắp đậy có tượng người chèo thuyền rất độc đáo. *Indonesia: Hệ thống mộ chum là một trong những yếu tố quan trọng của văn hóa tiền – sơ sử Indonesia. Tại đây, mộ chum được phát hiện cùng với mộ đất chôn nằm thẳng, nằm co, mộ cải táng… ngoài ra còn có cả mộ chum bằng đá. Mộ chum ở Indonesia có đặc điểm gồm hai vò úp vào nhau chôn đứng, bên trong đặt tử thi. Các di tích điển hình là Gilimunuk, Plawagan, Melolo và Anyer. *Thái Lan: Trong các di tích Nonnoktha, Ban Chiang, Ban NaDi, Ban Dontaphet… (Đông Bắc Thái Lan) đã xuất hiện mộ táng vò trẻ em. Đặc biệt, ở di tích Kam Luang và Non Yang, mộ chum phân bố với mật độ khá cao. Chum có nắp là một chum khác nhỏ hơn, trong chum còn chứa di cốt người. Đây là những chum hung táng và cải táng. Ngoài ra, khu vực Đông Á đã tìm thấy mộ vò ở lưu vực sông Hoàng Hà trong văn hóa Ngưỡng Thiều (Trung Quốc) và trong giai đoạn Jomon trung kỳ ở Nhật Bản (Bắc Kuyshu – văn hóa Di Sinh)…. Cả hai khu vực này táng thức mộ chum không phổ biến và chỉ thấy trường hợp mộ trẻ em. Ở bán đảo Triều Tiên mộ chum có mặt ở bờ biển phía Nam và khá khu biệt so với những vùng văn hóa khác ở bán đảo Triền Tiên. Ngoài các khu vực trên mộ chum còn có ở Đài Loan. Một số đặc trưng cơ bản. Ở Đông Nam Á, mộ chum phân bố thành một vòng cung rộng lớn ven biển. Bắt đầu từ Triều Tiên, Nhật Bản qua Đài Loan, mộ chum tập trung ở Philippines, Việt Nam rồi vòng xuống Indonexia. Táng tục này còn lan vào lục địa chủ yếu ở Đông Bắc Thái Lan. Nếu ở giai đoạn hậu kỳ đá mới, mộ chum có mặt ở những miền núi cao thì bước sang thời kim khí, nhất là trong thời đại đồ sắt khoảng 2500 năm cách ngày nay thì vị trí địa lý của các cư dân có táng tục này là ở ven biển hay ven sông lớn. Tuy nhiên, địa hình các di tích mỗi nơi mỗi khác: ở Philippines, mộ chum tập trung chủ yếu trên các hang động cao hàng chục mét so với mực nước biển; ở Indonesia, các di tích mộ chum thường nằm trên các dải cát ven biển; ở Việt Nam, mộ chum phân bố ở các cồn cát ven biển, các đồi gò bazan hoặc các giồng đất ở các vùng ngập mặn; ở Thái Lan, các di tích có mộ chum nằm ven sông Mêkong và các chi lưu của nó. Ngoại trừ các di tích mộ chum Cần Giờ phân bố trên vùng rừng ngập mặn địa hình thành tạo chưa ổn định, còn lại các khu vực khác đều là những nơi có điều kiện sinh thái khá thuận lợi cho cuộc sống con người. Có ba dạng kết cấu mộ chum: - Các di tích thuần là mộ táng như hầu hết các di tích trong văn hóa Sa Huỳnh hay ở Philippines. - Các di tích cư trú dần biến thành mộ táng như các di tích mộ chum Cần Giờ (văn hóa Đồng Nai ), ở Indonesia. - Các di tích cư trú có sự hiện diện của mộ chum, vò: chủ yếu trong khu vực lục địa như một số di tích thuộc văn hóa Đông Sơn hay ở Đông Bắc Thái Lan. Phương thức mai táng mộ chum phân bố rộng và không hoàn toàn giống nhau. Ở Nhật Bản, Triều Tiên và trong văn hóa Đông Sơn, mộ vò thường có hình thức lồng miệng vào nhau (hai hay nhiều vò) chôn nằm ngang. Các khu vực khác đều là dạng chum chôn đứng có hoặc không có nắp đậy. Chum thường có kích thước vừa đến lớn, hình dáng chủ yếu là hình trụ và hình cầu. Ngoài ra, ở nhiều di tích ngoài mộ chum còn có một số táng thức khác như mộ đất, điển hình là ở Cần Giờ và Indonesia. Tài liệu khảo cổ cho biết hầu hết các di tích mộ chum thuộc văn hóa Sa Huỳnh không thấy có di cốt người, trong khi đó ở các khu vực còn lại đều tìm thấy dâu tích di cốt trong chum. Như vậy, táng tục mộ chum có thể có 3 hình thức: - Mộ chum hỏa táng (?) hay mộ tượng trưng: Văn hóa Sa Huỳnh. - Mộ chum cải táng: rất phổ biến ở hải đảo và lục địa, phần lớn chum chứa di cốt cải táng của một cá thể, song cũng có trường hợp chứa di cốt của nhiều cá thể. Các di cốt này thường được bôi hay nhúng trong thổ hoàng. Trường hợp này gặp nhiều ở quần đảo Philippine hay Indonexia, gần đây phát hiện được ở khu mộ chum Cần Giờ và di tích Hòa Diêm (Cam Ranh, Khánh Hòa). - Mộ chum hung táng: điển hình là ở Cần Giờ và một số di tích ở Indonesia: di cốt được chôn với tư thế ngồi bó gối đặt trong chum. Dạng mộ vò hung táng trẻ em phổ biến ở nhiều nơi. Đáng lưu ý là ở Đông Nam Á lục địa, mộ chum thường được chôn dưới đất, còn nhiều di tích ở Đông Nam Á hải đảo, mộ chum lại được đặt lộ thiên trên nền đất trong hang núi sát bờ biển. Một táng thức khác cũng có hiện tượng này, đó là táng thức mộ thuyền (quan tài khoét rỗng từ một thân cây): ở Việt Nam, mộ quan tài gỗ hình thuyền được chôn ở vùng trũng; còn ở nơi khác ở Đông Nam Á và Nam Trung Quốc mộ thuyền để lộ thiên trong hang hoặc treo trên vách đá. Mối quan hệ giữa các khu vực có cùng táng tục mộ chum ở Đông Nam Á thể hiện rõ nét trên đồ tùy táng. Dựa vào các loại hình đồ tùy táng cơ bản như đồ gốm, đồ trang sức, công cụ chúng ta có thể tìm ra mối liên hệ nguồn gốc cũng như sự giao lưu văn hóa – kỹ thuật ở Đông Nam Á trong thời đại kim khí. Đồ gốm được các nhà khảo cổ học coi là “chữ cái của di tích khảo cổ”. Nghiên cứu sưu tập gốm ở hang Kalanay miền Trung Philippines, từ những năm 1950 Solheim II đã đưa ra khái niệm “phức hệ (truyền thống) gốm Sa Huỳnh – Kalanay”, nhấn mạnh nhiều điểm tương đồng về gốm giữa hai khu vực này cùng với những đặc điểm về hoa văn, loại hình, kỹ thuật khác với nhiều nơi khác ở Đông Nam Á. Đặc trưng cơ bản nhất của phức hệ gốm này là sự bảo tồn và phát triển mạnh mẽ các đồ án hoa văn khắc vạch, kết hợp in ấn – tô màu cho đến tận giai đoạn cuối của sơ kỳ đồ sắt. Cho đến nay, hầu như trong các di tích mộ chum, đồ gốm đều mang đặc điểm trên tuy về loại hình vẫn có sự khác biệt nhất định. Ví dụ ở Kalanay có loại hình cổ hẹp, bình nối vai gãy cắt vát hình hạt đậu, bình ba chân thấp… những loại hình này vắng bóng trong văn hóa Sa Huỳnh. Ngược lại, dạng đèn hay bình hoa, bình gãy góc ở thân miệng loe phổ biến trong văn hóa Sa Huỳnh lại không gặp ở Kalanay. Ở khu mộ hang Tabon có nhiều tượng hình đầu chim, mái nhà, tượng người… khá gần gũi với tượng gốm hình 3, 4 đầu chim, các loại nắp gốm ở Cần Giờ nhưng chưa tìm thấy trong văn hóa Sa Huỳnh hay những di tích khác. Ngoài ra có thể kể đến các dạng chum táng khác nhau ở mỗi nơi. Bên cạnh đồ gốm vừa giống vừa khác nhau, đồ trang sức tìm được trong các di tích mộ chum ở cả Đông Nam Á hải đảo và lục địa lại khá đồng nhất về loại hình và chất liệu. Đó là sự phong phú các kiểu hạt chuỗi, vòng đeo, khuyên tai bằng đá quý nephrite, jade hay mã não, thủy tinh. Đặc biệt, loại hình khuyên tai có mấu và khuyên tai hai đầu thú (hai đầu trâu?) mà nhiều bằng chứng cho thấy được chế tạo tại Đại Lãnh (Quảng Nam) và tại Cần Giờ (Tp. Hồ Chí Minh). Một số loại hình trang sức như những hạt chuỗi vàng hình đốt trúc, hình quả bí , mảnh vàng chạm hoa văn chắc hẳn được trao đổi từ những vùng xa hơn như Ấn Độ… Đồ trang sức chôn theo mộ táng đã góp phần vào việc nhận biết sự phát triển và phân hóa xã hội ở giai đoạn này. Nếu như đồ trang sức là loại tài sản khá phổ biến trong hầu hết các di tích mộ chum, thì công cụ – vũ khí bằng kim loại nhìn chung không nhiều. Chắc chắn đến giai đoạn này, công vụ vũ khí bằng kim loại giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh tế – xã hội của cư dân cổ, vì vậy đã hạn chế phần nào việc sử dụng nó như các loại đồ tùy táng khác. Tuy nhiên, sự có mặt của số ít riù đồng, giáo, kiếm sắt trong mộ chum đã biểu trưng cho địa vị, quyền lực của chủ nhân ngôi mộ đó. Loại hình công cụ đồng, sắt và các chất liệu khác như xương, vỏ nhuyễn thể… cho thấy sự giao lưu giữa các trung tâm của kỹ nghệ luyện kim như Đông Bắc Thái Lan – Đông Nam Bộ – Sa Huỳnh – Đông Sơn với nhau và với cả Đông Nam Á hải đảo. Ý nghĩa của táng tục mộ chum ở Đông Nam Á. Đặc trưng cơ bản của hoạt động lao động của con người là chế tạo công cụ lao động sản xuất, vũ khí và các vật dụng sinh hoạt, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của đời sống. Khảo cổ học khi nghiên cứu về thời tiền sử, người ta (tạm) chia các di vật thành hai lĩnh vực: - Di vật phản ánh đời sống vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại, lao động sản xuất…). - Di vật phản ánh đời sống tinh thần (tín ngưỡng, tôn giáo, nghệ thuật…). Thế nhưng, càng ngày ta càng nhận thấy rằng, không thể có sự phân chia rạch ròi đâu là di vật thuộc về đời sống vật chất và đâu là di vật thuộc về đời sống tinh thần, bởi không có sự tách rời giữa hai lĩnh vực này trong cuộc sống con người. Mọi vật con người làm ra đều nhằm đáp ứng cho nhu cầu vật chất cụ thể, đồng thời luôn hàm chứa một ý nghĩa nào đó đối với người làm ra và người sử dụng chúng. Ngược lại, bất cứ một hoạt động tinh thần nào của con người cũng được biểu hiện bằng hoặc thông qua một hình thức vật chất nhất định. Đơn cử ví dụ sau: Một trong những dấu tích khảo cổ học quan trọng là di tích than tro – bếp lửa. Khi bắt gặp các di tích này, ta thường chú ý đến các di vật như mảnh gốm ám khói, tàn tích thức ăn (xương động vật, vỏ nhuyễn thể, phân tích bào tử phấn hoa thực vật…), các công cụ như rìu đá, chày và bàn nghiền… để qua đó tìm hiểu và rút ra nhận xét về cách thức ăn uống (thức ăn được nướng chín/ nấu chín hay ăn sống?), nguồn thức ăn ở đâu, gồm những gì, kiếm ăn bằng cách nào, xem độ dày, độ lớn của bếp lửa để đoán định thời gian cư trú và lượng dân cư ở đó… Tức là bước đầu nhận biết về phương thức kinh tế – lối sống của chủ nhân di tích. Tuy nhiên, ý nghĩa của dấu tích bếp lửa không chỉ có như vậy. Việc con người làm ra và sử dụng lửa được đánh giá là thành tựu văn minh quan trọng của thời nguyên thủy. Ngọn lửa vừa là vũ khí bảo vệ con người trước thú dữ, trước giá lạnh, trước sự sợ hãi của bản thân trong đêm tối, đồng thời, ngọn lửa còn là dấu hiệu của sinh hoạt cộng đồng, của sức mạnh đoàn kết cùng nhau chống lại mọi hiểm nguy, bất trắc. Quây quần quanh ngọn lửa không chỉ để sưởi ấm, ăn uống mà còn để giao tiếp, trao đổi, bày tỏ… qua đó tăng cường mối quan hệ, liên hệ giữa những con người. Bếp lửa chính là “không gian cộng cảm” của loài người, từ cộng đồng nhỏ là gia đình đến cộng đồng lớn hơn như buôn, làng, bản sau này. Vì vậy, ngọn lửa đã trở thành biểu tượng thiêng liêng: trong gia đình bếp lửa gắn liền với vai trò của người phụ nữ/ người mẹ vì nó biểu hiện cho việc bảo vệ và duy trì sinh hoạt gia đình thông qua bữa ăn, tăng cường sự gắn bó tình cảm trong gia đình; sinh hoạt hàng ngày hay lễ hội của nhiều dân tộc và những lễ hội lớn của nhiều quốc gia cho đến nay không thể thiếu những hình thức của ngọn lửa hay những hoạt động quanh đống lửa… Ngọn lửa trở thành biểu tượng của mối liên hệ gắn bó giữa các thế hệ, là ánh sáng cho loài người thoát khỏi tối tăm, u mê để đi tới văn minh. Với cách tiếp cận văn hóa phi vật thể từ các dấu tích vật chất như vậy, đặt các di tích mộ chum Đông Nam Á thời kim khí trong mối liên hệ với hệ thống các biểu tượng liên quan đến mọi mặt của đời sống cư dân cổ ở đây ta có thể nhận biết được ý nghĩa gì của táng thức mộ chum? Phương thức mai táng (táng thức) và đi liền với nó là nghi lễ tang ma (táng tục) là một trong một vài đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa khảo cổ và văn hóa tộc người (tất nhiên, không thể xem là đặc trưng duy nhất). Tài liệu Khảo cổ học và Dân tộc học đã cho biết trong một văn hóa khảo cổ hay trong một tộc người, có thể có nhiều táng thức khác nhau ở cùng một thời gian hay thay thế nhau qua những giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, táng thức và táng tục là hiện tượng văn hóa phản ánh khá rõ những quan niệm tín ngưỡng và sau này là ý niệm tôn giáo của con người. Thực chất, táng thức nào cũng hàm chứa tín ngưỡng về cái chết và sự sống, đó là thân xác con người cuối cùng trở thành tro bụi nhưng linh hồn thì bất tử, sau khi lìa khỏi thân xác sẽ tiếp tục cuộc sống ở một thế giới khác. Táng thức mộ chum ở Đông Nam Á đã thể hiện khá đậm nét quan niệm này: những nắp chum trong hang Manuggui ở Philippines có trang trí tượng người chèo thuyền, đây là hình ảnh chiếc thuyền đưa người chết về thế giới bên kia. Nhiều tượng hình mái nhà, người nắm tay nhau ở nắp chum cũng thể hiện sự che chở, gắn bó của con người đối với linh hồn, được thể hiện trên nhiều loại hình đồ tùy táng như con chim – tượng hình chim 3,4 đầu, và con trâu – vật đeo hình đầu trâu mà ta quen gọi là khuyên tai hai đầu thú. Tại một số vùng dân tộc Đông Nam Á có quan tài có nắp hình đầu trâu, một số chi tiết kiến trúc trang trí trên các ngôi nhà hay ở nhà mồ liên quan đến hình tượng con chim, con trâu… Đây là những con vật đưa đường cho người chết về thế giới tổ tiên, là biểu hiện cho sự hòa hợp giữa thế giới âm – dương, giữa người sống và người chết… Hiện tượng xương cải táng được bôi hay nhúng nước thổ hoàng là quan niệm về sự trường sinh của linh hồn, liên quan đến nó là thế đặt người chết trong chum gốm, cách bố trí đồ tùy táng dưới chân, ở hai bên đầu. Phương thức cải táng, theo các tài liệu dân tộc học, đã được hình thành từ giai đoạn phát triển cực thịnh của xã hội nguyên thủy vào hậu kỳ thời đại đồ Đá và trở thành truyền thống bền vững của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á. Ở táng tục này, tử thi thường để rữa hết thịt, sau đó nhặt xương đem chôn hay cất giấu ở một nơi, người cùng tộc để chung một chỗ để linh hồn khỏi bơ vơ, lạc lõng. Hiện tượng hỏa táng chôn than tro xuất hiện muộn ở Đông Nam Á và không phổ biến rộng rãi. Đặc biệt, phương thức hung táng trong chum gốm tròn hình cầu với tư thế ngồi bó gối cho thấy hình ảnh một đứa trẻ trong bụng mẹ. Đây là quan niệm về một vòng luân hồi mới, nhất là khi trong chum có khoét những lỗ tròn như cửa để linh hồn tiếp xúc với thế giới linh hồn và trở về mộ chum là ngôi nhà – nơi cư ngụ của linh hồn. Một đặc điểm chung khác là tục hung táng trẻ em trong chum, vò, không chỉ ở cư dân có táng tục mộ chum và còn thấy ở nhiều nhóm cư dân có táng tục khác, càng làm cho quan niệm “khi chết được trở về lòng (đất) mẹ” rõ ràng hơn. Lòng đất – bụng mẹ là một trong những biểu tượng rất phổ biến ở Đông Nam Á, được biểu hiện qua các vật thể quen thuộc như: - Hang núi: là nơi cư trú của loài người thời nguyên thủy. Hình dáng hơi cong tròn, lòng hang to lớn, rỗng, khả năng chứa đựng của hang đã trở thành nguyên mẫu cho dạ con – lòng mẹ, trở thành biểu tượng của cội nguồn: con người chui ra khỏi hang núi như ra khỏi lòng mẹ. Ban ngày đi kiếm ăn, tối trở về hang nghỉ ngơi, sáng mai lại bắt đầu một chu kỳ mới. Cứ thế, hang đá trở thành biểu tượng cho cội nguồn, tái sinh, giống như một đời người, ra đời từ trong lòng mẹ rồi khi chết đi lại trở về bụng mẹ để được sinh ra trong một kiếp khác. Ngoài ra, hang núi ở trên cao còn là biểu tượng của vũ trụ, là nơi đất trời giao nhau, con người có thể giao tiếp với thần linh, với thế giới tổ tiên qua lỗ thông từ mái vòm hang trên đỉnh núi, nơi ánh sáng rọi vào hang tối. - Quả bầu: truyền thuyết về quả bầu là cội nguồn của vạn vật cũng bắt đầu từ hình dáng tròn, rỗng lòng (khi để khô), đặc tính dễ trồng, mau lớn, sai trái của loài bầu bí. Khi khô trong lòng chứa hạt, từ hạt lại nảy mầm… Quả bầu khô còn dùng để đựng nước, vì vậy, phải chăng việc làm đồ gốm là khởi nguồn từ việc bắt chước hình dáng và công dụng của quả bầu? Nếu cho rằng những nồi, vò đất nung nguyên thủy là vật thay thế, tương ứng với quả bầu thì việc chôn người chết (hoặc chứa than tro hỏa táng) trong các mộ vò, mộ chum chắc hẳn là biểu hiện cho sự khởi nguồn, sự tái sinh. Các lỗ nhỏ khoét trên thân và đáy chum chính là lỗ thoát hồn cho thể xác trong chum/ trong hang tối để đi đến miền ánh sáng. Như vậy, mộ chum với tục hung táng là biểu hiện của tín ngưỡng Mẹ/ khởi nguồn: chum gôm tượng trưng cho bụng mẹ – lòng mẹ, di cốt bó ngồi trong chum tượng trưng cho sự tái sinh. Những di tích mộ chum ở Đông Nam Á thường phân bố trên các địa hình cao ven biển hoặc ven các con sông lớn: cồn cát ven biển, giồng đất, đồi gò ven sông, hang núi cao sát bờ biển… Sông, biển ở đây tượng trưng cho sự ngăn cách thế giới người sống và thế giới người chết. Liên quan đến sông nước là một vật dụng rất phổ biến ở Đông Nam Á: chiếc thuyền. Sống trong môi trường sông nước, cư dân Đông Nam Á thời cổ đã biết dùng một số loài thực vật làm phương tiện di chuyển trên sông biển: tre, nứa (loại cây thân rỗng) kết làm bè, mảng, thuyền độc mộc (thân cây khoét rỗng) rồi tiến tới đóng những chiếc thuyền sâu lòng (rỗng lòng) lớn hơn, có thể vượt đại dương đi tới những vùng đất mới. Hình tượng chiếc thuyền trên trống đồng Đông Sơn, mối quan hệ văn hóa – tộc người của người Toraja ở đảo Sulavesi – Indonêsia với Văn hóa Đông Sơn đã minh chứng cho điều đó. Chiếc thuyền trong văn hóa Đông Nam Á trở thành biểu tượng cho sự di chuyển, chuyên chở, sự an toàn trên sông nước, cũng là biểu tượng cho sự ra đi/ trở lại. Do vậy, mộ chum chôn ven sông, biển còn có ý nghĩa: chum gốm (rỗng lòng) là chiếc thuyền tiễn đưa người chết về thế giới tổ tiên. Trong các mộ chum ở Cần Giờ có chôn theo Cà ràng – loại bếp gốm độc đáo dùng trên ghe, thuyền; nắp đậy mộ vò ở hang Manungui đảo Palanwan ở Philippine có núm cầm hình thuyền với 2 người đang chèo, mộ quan tài hình thuyền trong Văn hóa Đông Sơn… đều thể hiện ý nghĩa đó. Như vậy, mộ chum ở Đông Nam Á là biểu tượng của chiếc thuyền thiêng, phương tiện đưa linh hồn người chết về với tổ tiên, là cầu nối thế giới người sống với thế giới người chết, biểu hiện một cách mãnh liệt sự cầu mong tái sinh hay chính là niềm tin về sự bất tử của con người. Như vậy, từ những đặc trưng táng tục mộ chum ở Đông Nam Á chúng ta có thể nhận thấy những biểu hiện chung về quan niệm tín ngưỡng của cư dân cổ nơi đây. Đó là sự sùng bái linh hồn người chết, là sự biểu hiện mối quan hệ gắn bó giữa con người – linh hồn và biển cả, qua việc lựa chọn những loại hình cao ráo ven biển, ven sông để đặt khu mộ táng. Từ sự nhận biết một số đặc tính vật chất chung của các vật thể: hang núi – quả bầu – chum gốm – thuyền, qua tư duy cư dân cổ Đông Nam Á đã liên kết thành một chuỗi biểu tượng về lòng mẹ – sự sinh thành – sự sống – cái chết – sự tái sinh, thể hiện tín ngưỡng Đất Mẹ và sự bất tử của linh hồn. Đấy cũng chính là mối bận tâm muôn thuở của loài người. Giải thích về nguồn gốc và sự phát triển của táng tục mộ chum ở Đông Nam Á không thể không lưu ý đến điều kiện địa lý – sinh thái đặc thù của các di tích mộ chum, cùng với vai trò của quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa ở khu vực này. Trước đây đã có quan niệm cho rằng, ở Đông Nam Á trong thời đại kim khí có một “văn hóa mộ táng vò” do cư dân có nguồn gốc từ Nam Trung Quốc di cư xuống phía Nam. Tuy nhiên, hiện nay nhiều nhà nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á đã không đồng tình với quan niệm trên mà ngược lại, cho rằng sự phân tán của táng thức mộ chum gắn chặt với sự di chuyển của các nhóm cư dân thuộc ngữ hệ Nam đảo, dựa vào sự so sánh về táng thức, táng tục và nhất là di vật tùy táng. Tuy nhiên, dù có chung táng tục mộ chum nhưng trên thực tế, mỗi khu vực khác nhau đều có những khác biệt về phương thức mai táng cụ thể, về dạng chum và nắp đậy, về cách xử lý di cốt, cách bố trí đồ tùy táng… vì vậy đã làm nên đặc trưng văn hóa riêng, biểu hiện cho sự phát triển nội tại của từng văn hóa khảo cổ – tộc người. Điều cần lưu ý hơn là niên đại các di tích mộ chum trong văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Đồng Nai ở Việt Nam không muộn hơn các di tích cùng loại hình ở Đông Nam Á hải đảo, thậm chí có những di tích còn có niên đại sớm hơn. Những mối quan hệ giao lưu văn hóa – kỹ thuật giữa những khu vực trong vùng Đông Nam Á chủ yếu qua con đường thương mại bằng đường biển, đường sông đã đóng vai trò to lớn trong sự phát triển và thay đổi văn hóa trong toàn vùng, tất nhiên trên cơ sở giữa các nền văn hóa khác nhau đã có sự tương ứng, đồng quy của nhiều yếu tố văn hóa. Thành ngữ của người Indonesia “Thống nhất trong đa dạng” đã thể hiện một đặc trưng nổi bật của văn hóa Đông Nam Á mà táng thức mộ chum vừa được khảo sát trên đây là một trong những điển hình của đặc trưng này trong thời kỳ tiền sử ở Đông Nam Á. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. TP.HCM: Khảo cổ học tiền sử và sơ sử thành phố Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Trẻ, 1998. - Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh. Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1991. - Tạ Đức: Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc – biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn. Hội Dân tộc học Việt Nam – Hà Nội, 1999. - R. Fox: The Tabon Caves. Monography of National Museum, Manila, 1970. - P. Bellwood: Prehistoric of theIndo – Malaysia Archipelago. Adademic Press, New york, 1985. - C.F.W Higham: The bronze age of Southeast Asia. The cambridge University Press, Cambridge, 1996. Nguyễn Thị Hậu Ngày đăng: 1.2.2007
-
Quốc gia nhỏ nhất thế giới. Dân số của “Cộng hòa Molossia” chỉ vẻn vẹn 6 thành viên: bao gồm “Tổng thống”, 2 con trai ông và 3 con chó. Cộng hòa Molossia được xem là một micronation - “quốc gia” một cách không chính thức. (Micronation do một số người tự lập nên và không được các nước khác hay các tổ chức quốc tế công nhận). Molossia rộng 58.000 m2, nằm gần Dayton, bang Nevada của Mỹ. Molossia do “Tổng thống” Kevin Baugh lãnh đạo trong hơn 30 năm qua. “Quốc gia” này chỉ có vẻn vẹn 6 thành viên nhưng có hộ chiếu riêng. Con tem. Dịch vụ bưu điện. Tiền tệ chính thức. Nước uống đóng chai mang thương hiệu El Presidente. Mạng lưới giao thông rất thuận tiện. Molossia cũng có chương trình vũ trụ riêng, với thiết bị phóng tên lửa tự chế được làm từ đồ chơi. Ông Baugh và người bạn James Spielman đã nảy ra sáng kiến thành lập quốc gia của riêng họ sau khi xem bộ phim "The Mouse that Roared" (Tạm dịch: Khi con chuột cất tiếng gầm) hồi họ còn là thanh thiếu niên. Giờ đây, Spielman không tham gia vào Molossia nhưng Baugh hạnh phúc khi lãnh đạo quốc gia của riêng mình. "Tổng thống" Kevin Baugh cho biết ông muốn xây dựng một hệ thống điện riêng để độc lập với Mỹ. Molossia thu hút khoảng 10 du khách tới thăm quan mỗi năm.
-
Anh Thiên Đồng ơi! lớp phong thủy lạc việt cơ bản có phải là lơp mới không ạ, em đã đăng ký nhưng chưa thấy mở
-
Thưa thầy Thiên sứ và các anh chị! Cháu là thành viên mới của diễn đàn, cháu muốn xin ý kiến của Thầy và các anh chị để sửa lại căn hộ tập thế. Đây là sơ đồ nhà của cháu, nhà tầng 2. Vợ chồng cháu sinh 1978, con trai sinh 2004.
-
Em cám ơn anh vothuong đã tư vấn, tuần vừa rồi máy tính em bị virus nên không trả lời được mong anh không trách em. Nhận được bài của anh em rất mừng, càng ngẫm càng thấy đúng anh ạ. Thật sự là nhà em cũng rất ít người đến mặc dù rất tiện đường và em sống cũng không đến nỗi nào, anh em họ hàng thì họa hoằn mới ghé, có người còn chưa đến lần nào. Cuộc sống trong gia đình thì anh nói cũng đúng, có những lúc tưởng như không thể cứu vãn được thì lại trôi qua êm thấm. Nhà em chỉ mong sức khỏe em ổn định thì mọi việc khác cũng suôn sẻ mà sức khỏe của em thì phập phù, lúc khỏe thì bằng người bình thường yếu, bệnh tật không có gì nhưng lúc nào cũng thấy mệt mỏi. Sơ đồ giải pháp tổng thể của anh làm cho em chắc là tối ưu nhất rồi, tuy nhiên nhà em là căn hộ tập thể nên bức tường trụ ngăn giữa khu phụ với hai phòng chính không thể bỏ được và nhà vệ sinh của các tầng đều giống nhau, nếu sửa rất khó. Trước mắt em rất mong anh giúp em giải pháp để cải thiện tình hình hiện tại, còn em sẽ đến trung tâm nhờ anh P.Cương tư vấn(em đã đến hai lần rồi nhưng chưa gặp ai). Em dự định chuyển cái tủ lạnh sang cạnh cái máy giặt, chỗ cửa vào wc làm gờ nổi bằng gỗ cao 4cm, chỗ để xe treo 1 quả cầu pha lê và cửa vào phòng ngủ treo chuông gió bằng đồng 6 thanh, không biết có ổn không nữa. Mong anh giải đáp giúp em. Em xin lỗi vì sự chậm trễ này. Chúc anh vothuong luôn mạnh khỏe.
-
Anh vothuong ơi! dưới đây là ảnh trong nhà em: Từ trong nhà nhìn ra ngoài cửa chính cửa chính nhìn vào chỗ để xe Bàn thờ nhìn từ cửa vào phòng khách Bể cá la hán đỏ Tủ lạnh nhìn từ ngoài phòng khách Bếp Cục nóng điều hòa trên bếp p Bếp nhìn ra lồng sắt Em chụp ảnh bằng điện thoại, có vài cái quên chưa chỉnh lại anh thông cảm. Chúc anh mạnh khỏe.
-
Ảnh nhà em đây ạ. Cầu thang lên tầng 2 Đây là chiếu nghỉ cầu thang tầng 1
-
Em đã đo lại kích thước ở hình dưới, ảnh thì sáng mai em mới mượn được máy để chụp anh ạ. Kích thước cửa thì em phải chú thích ra ngoài vì không còn chỗ. Cửa em đánh từ 1-6 lần lượt là: 1/cửa ra vào 2,2m x 1,06m, tính cả ô thoáng 35cm là 2,55m, cách tường bên phải 35cm 2/ cửa phòng khách 2,07m x1,16m cách cửa ra vào 1m không có cánh 3-4/cửa vào buồng ngủ và cửa ra sau bằng nhau 2,15m x 0,85m 5/cửa vào bếp 2,08m x 1,17m tính cả ô thoáng 32cm là 2,4m. 6/cửa vào nhà vệ sinh 1,8m x 0,57m. Cửa sổ lần lượt từ ngoài vào trong là: Cửa ngoài 1,68m x 1,15m tính cả ô thoáng. Cửa giữa 1,2m x 0,8m. Cửa sổ sau 1,27m x 1m là cửa nhôm kính kéo. Vách ngăn dọc giữa chỗ để xe máy và phòng khách là 30cm. Vách ngăn giữa phòng khách và ngủ là 15cm. Vách ngăn giữa nhà vệ sinh và chỗ để xe là 15cm. Vách ngăn giữa phòng ngủ với đằng sau là 30cm= vách ngăn giữa bếp và nhà vệ sinh. Vách ngăn trong phòng để máy giặt phía lồng sắt là bằng gỗ thạch cao. Chúc anh mạnh khỏe
-
Cám ơn anh vothuong đã quan tâm. Tọa độ nhà em là 195 độ, hiện giờ của em làm điều hành sửa chữa điện thoại, công việc không như ý, vc em thì không phải đi xa, sáng đi tối về. Tiền bạc thì không đủ tiêu, em thì đau ốm suốt, người lúc nào cũng thấy mệt mỏi. Nhà thì em có thể sửa thoải mái. Thực ra cái ban công đằng sau rộng 1,2m em làm cái lồng sắt(gọi là chuồng cọp chứ không phải để nuôi cọp) thêm được 40cm, mặt dưới lồng sắt cao hơn nền 40cm, phía bếp thì em ko che để cho thoáng, phía bên kia em làm tường thạch cao. Kích thước bản vẽ thì chính xác anh ạ, chỉ chú thích độ dài hơi sai tí thôi, phòng ngoài của em dài khoảng 3,4m. Tường ngoài em sơn trắng, phòng ngủ màu hồng còn toàn bộ trong nhà màu vàng kem. Nền phòng khách và phòng ngủ em lát gỗ công nghiệp cao hơn xung quanh 1,5 cm còn nền nhà vệ sinh thì thấp nhất, thấp hơn bếp 1cm. Mong tin anh
-
Thầy Thiên Sứ ơi tư vấn giúp cháu với, anh Phạm Cương anh vothuong ơi tư vấn giúp em với ;)
-
Trước đây bếp và bồn rửa bát nhà cháu đặt chỗ để máy tính, tọa đông hướng tây. Nhà vệ sinh có 2 cửa đối diện nhau thông từ bếp ra đằng sau. Cách đây 2 năm cháu có nhờ 1 thầy đến xem và chuyển bếp ra vị trí như hiện tại theo hướng dẫn của thầy. Sau đấy cháu có xem mấy quyển phong thủy của đài loan thấy vị trí bếp áp vào tường nhà vệ sinh không ổn nhưng cũng không có biết làm như nào. Năm ngoái cháu lại nhờ 1 thầy khác cùng 1 nhà cảm xạ học về xem lại thì thầy hướng dẫn quay bếp đối diện với chậu rửa bát thì tốt cho vợ hơn và phải làm vách ngăn với chuông cọp để tránh thoát nhiệt. Cửa mở vào bếp nhìn chéo sang góc phải chuồng cọp phạm huyệt tài(từ này cháu cũng không hiểu). Cô cảm xạ đo khí các góc nhà thì nói là khí nhà cháu tuyệt, chỉ số bovis chỉ 1 đến 2 nghìn đơn vị, chỉ duy nhất chỗ bếp bây giờ là 9 nghìn đơn vị(chỉ số bovis từ 5-10nghìn mới là bình thường). Còn cửa ra vào khi đóng lại khí sẽ mạnh hơn được khoảng 4 nghìn đơn vị, cô ý khuyên bịt cửa lại và mở cửa ra vào chỗ bể cá thì sẽ đẹp hơn, khí vào nhà thuận hơn. Cháu cũng mua mấy chục cân đá đã được nạp khí để trấn trạch có tác dụng nâng khí của căn hộ lên. Nhưng từ khi biết trang lyhocdongphuong này, được đọc những bài viết của Thầy Thiên Sứ về phong thủy lạc việt thì cháu biết ngôi nhà của cháu không ổn vì chắc chắn những thầy cháu mời đến đều dựa theo sách tàu mà phán. Kiến thức về văn hiến lạc việt của cháu hiện giờ vẫn còn tản mạn chưa thể tự nhận xét nên cháu rất mong được Thầy Thiên Sứ và các anh chị trong diễn đàn tư vấn giúp cháu.Thực tâm cháu rất tự hào về nguồn gốc dân tộc và những kiến thức về lý học lạc việt làm cháu tâm phục khẩu phục.
-
Đây là sơ đồ khối tòa nhà cháu. Kính mong thầy Thiên Sứ và các anh chị tư vấn giùm cháu với. Cháu cám ơn mọi người rất nhiều. Hình cháu sẽ chụp và đưa lên sau.