hiki

Hội viên
  • Số nội dung

    106
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by hiki

  1. Sự kiện cả làng túc cầu thế giới chờ đợi trong những ngày qua cũng đã tới, chú bạch tuộc Paul ở Viện hải dương học Oberhausen đã đưa ra dự đoán của mình cho trận chung kết World Cup 2010. Có sự trùng hợp ngẫu nhiên nào lại diễn ra nhiều lần đến thế, khi mà chú bạch tuộc Paul đã dự doán chính xác tất cacr các trận đấu có Đức tham gia. Có thể khẳng định rằng không thể là ngẫu nhiên được. Vậy thì khả năng tiên tri của sinh vật là có thật, nhưng quan trọng là căn cứ nào để đưa ra những dự đoán như thế?
  2. Vâng. Đó chỉ là 1 lý do biện minh cho hành vi tham nhũng. Và người ta cần phải tìm cho ra 1 nguyên nhân nào đó để đổ lỗi.
  3. Cái này cũng có nghe qua. Vừa rồi ở ngoài khơi Phan Thiết có động đất, có thể sắp tới khu vực Vịnh Hạ Long cũng có động đất làm sập cầu chẳng hạn...!!!
  4. Đẹp thật. Tôi cũng từng chứng kiến nhiều cảnh kỳ thú như vậy nhưng tiếc là không có máy ảnh để chụp lại.
  5. Người Minangkabau và cội nguồn Việt Chúng ta hãy xem hậu duệ của các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng ở Indo Trong đó có những cuốn sách nói về các bài thuốc cổ truyền và thuật bói toán của người Minangkabau, một trong những tộc người chiếm đa số tại đảo Sumatra và có nguồn gốc từ người Việt. Cơ quan trên cho biết đã cử người tới nhiều địa phương trong tỉnh Tây Sumatra để thu thập và "cứu" những văn bản cổ quí hiếm khỏi thất lạc hay mục nát theo thời gian, sau đó sẽ "số hóa" các văn bản tìm được để nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Indonesia cho rằng người Minangkabau có nguồn gốc từ người Việt và hiện chiếm tới 80% trong tổng số 4,5 triệu dân của tỉnh Tây Sumatra. Theo các nhà sử học, mùa Xuân năm 43, một số tướng lĩnh của Hai Bà Trưng cùng những người không chịu khuất phục giặc phương Bắc, đã chạy về phương Nam và cuối năm đó họ tiếp tục lên thuyền ra biển. Những đợt gió mùa Đông Bắc đã đẩy thuyền của họ dạt vào Eo biển Malacca. Tiếp đó, họ định cư tại khu vực phía Tây đảo Sumatra và trở thành dân tộc Minangkabau ngày nay. Dân tộc này hiện còn duy trì chế độ mẫu hệ, trong gia đình, phụ nữ nắm quyền kinh tế. Trong mỗi dòng họ của người Minangkabau, người phụ nữ giữ quyền thừa kế được gọi là Turun Cicik, những người em gái trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi. Những âm này, sau giai đoạn dài của lịch sử, đọc lên vẫn thấy hơi giống âm gợi hai tên Trưng Trắc, Trưng Nhị. Người Minangkabau có tục lệ mời khách ăn trầu và những ngôi nhà truyền thống của họ đều có mái cong như hình chiếc sừng trâu, gợi hình ảnh những mái đình, chùa ở Việt Nam. Người Minangkabau còn nổi tiếng buôn bán giỏi và nấu ăn ngon. Nhà sừng trâu của người Minangkabau Ở xứ sở vạn đảo Indonesia, mỗi hòn đảo là một câu chuyện, một bộ tộc kỳ thú, hấp dẫn từ đời sống văn hoá, ẩm thực, và đặc biệt trong kiến trúc nhà ở. Người Minangkabau ở phía Tây đảo Sumatra sống trong những ngôi nhà độc đáo, có mái là hình sừng trâu cong nhọn vút lên nền trời xanh. Nhà lớn (Rumah Gadang) của người Minangkabau Là vùng đất nông nghiệp, con trâu đã trở nên quen thuộc, gần gũi với đời sống người Minangkabau từ ngàn đời. Người Minangkabau sống theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ chiếm vai trò quan trọng trong từng gia đình, cộng đồng, và là chủ sở hữu đất đai, nhà ở... Khu vực người Minangkabau sính sống Ngôi nhà lớn của người Minangkabau có lối kiến trúc rất độc đáo, với những mái cong ấn tượng. Thật thú vị, khi tìm hiểu ra xuất xứ của lối kiến trúc ấy lại gắn liền với một tích truyện lịch sử của cộng đồng người Minangkabau. Tên gọi của người Minangkabau bắt nguồn từ một sự tranh chấp về đất đai giữa người Minangkabau ngày xưa và vị lãnh chúa một bộ tộc láng giềng ở Java. Để tránh xảy ra chiến tranh, người địa phương đề nghị mỗi bên chọn ra một con trâu và tổ chức chọi trâu, trâu bên nào thắng thì bộ tộc đó sẽ là người sở hữu vùng đất tranh chấp. Vị lãnh chúa nọ chọn trong bộ tộc mình con trâu lớn nhất, khoẻ nhất, dữ tợn nhất để đưa ra cuộc thi tài. Người Minangkabau đưa ra con nghé con khát sữa, đầu có cặp sừng mới nhú được mài bén ngót như lưỡi dao. Khi cả hai bên thả trâu ra, con trâu đực không thèm chú ý đến nghé con, vì đang lo mải nhìn quanh tìm đối thủ xứng tầm. Nhưng khi nghé con chạy đến thúc đầu mình vào phần bụng dưới của con trâu đực để tìm bầu sữa, cặp sừng bén đã đâm lủng bụng và giết chết con trâu hung hãn. Người bản địa thắng cuộc, và giải quyết được tranh chấp về đất đai. Cũng từ đó, họ đặt tên cho bộ tộc mình là “trâu thắng trận” (Minangkabau). Và như để nhắc nhớ con cháu đời sau về tên gọi của bộ tộc mình, người Minangkabau mượn hình ảnh cặp sừng trâu để đưa vào kiến trúc nhà ở. Mái nhà cong vút đối xứng có chóp nhọn đều hai bên của người Minangkabau chính là hình ảnh của cặp sừng trâu thắng trận ngày xưa. Hình dáng tổng thể kiến trúc của nhà sừng trâu Hình dáng tổng thể kiến trúc của Rumah Gadang ấn tượng ngoài bộ mái sừng trâu, còn một nét độc đáo khác thể hiện giá trị văn hoá đặc sắc trong xây dựng là những chi tiết trang trí được thể hiện tinh xảo bằng lối chạm khắc, phối màu sặc sỡ phủ kín quanh nhà từ chân cột lên đến nóc mái. Với người Minangkabau, ngôi nhà Rumah Gadang vừa là nơi cư trú, gặp gỡ hội họp trong gia đình, và cả những hoạt động mang tính nghi thức cộng đồng. Ngôi nhà của người Minangkabau thể hiện tính cầu kỳ, tỉ mỉ trong xây dựng, mái nhà là những lớp xếp từ hàng ngàn sợi chỉ được lấy từ thân cây sago – một loại cây thuộc họ cọ, dừa, phần vách được lợp phên tre và gỗ. Do sống ở vùng đồng bằng lúa nước, nên ngôi nhà người Minangkabau thiết kế theo kiểu giống nhà sàn, phần sàn nhà cách mặt đất độ gần hai thước. Nội thất trong nhà được chia làm ba phần thông thoáng nhau không có vách ngăn cách, gian chính ngay giữa nhà là gian tiếp khách, còn lại là khu giường ngủ và bếp. Cửa chính nằm giữa trục ngang của ngôi nhà, cái chóp mái được uốn cong đối xứng theo cửa chính. Những cánh cửa sổ cũng được phân bố đều theo trục đối xứng với cửa chính, và được trang trí bằng những nét chạm khắc chi tiết, được phủ những gam màu mạnh như đỏ, đen, vàng, nâu, trắng, lấy từ những loại cây cỏ và đất đá trong tự nhiên. Ngoài lớp mái cong độc đáo, ngôi nhà còn được chạm khắc rất tinh xảo Trong mỗi ngôi làng của người Minangkabau ở đảo Sumatra có nhiều nhà lớn nhưng ngôi nhà nào lớn nhất, điêu khắc đẹp nhất, thường là nhà của trưởng làng – một phụ nữ – ngôi nhà vừa thể hiện quyền lực và sự giàu có, và đó cũng được xem là nơi công cộng của làng. Ngôi nhà này sẽ được truyền đời từ mẹ, sang con gái, và cứ thế nối tiếp đời nọ đến đời kia. Tuy nhiên, những ngôi nhà nhỏ hơn cũng có những nét tương đồng về hình dáng, điêu khắc, đem lại cho cộng đồng người Minangkabau một đặc trưng riêng, dễ nhận dạng trong lối kiến trúc nhà ở. Và với khách phương xa, hình ảnh những ngôi nhà mái cong độc đáo cùng những chi tiết điêu khắc phong phú, sự phối hợp màu sắc tuy sặc sỡ nhưng rất hài hoà trong tổng thể từ những chạm trổ quanh ngôi nhà, tạo nên một kiến trúc nhà ở đầy tính nghệ thuật cao. Đem lại một đặc trưng thú vị, hấp dẫn khách lạ ngay từ cái nhìn đầu tiên khi diện kiến những ngôi nhà của người Minangkabau.
  6. Nguồn gốc hình thành dầu mỏ hiện nay vẫn còn đang tranh cãi. Cho nên rất có thể xa xưa con người đã sử dụng nhiên liệu lỏng để phục vụ nền văn minh của mình, sau đó nó được tái tạo. Còn về kim loại thì vật liệu tổng hợp và vật liệu nano có thể thay thế được. Cho nên các mỏ quặng kim loại còn đến ngày nay cũng không khó hiểu lắm. Ví sao những cổ vật được ghi chép, được khắc chủ yếu vào đá mà ngày nay chúng ta tìm thấy? Bởi vì đá núi lửa bền hơn kim loại rất nhiều. Như những hình khắc trên những viên đá đen ở trên, nếu chúng được khắc lên những tấm kim loại thì có lẽ không thể tồn tại quá 1000 năm do điều kiện oxi hóa của môi trường. Có nghĩa là khắc lên đá không chứng tỏ rằng người xưa không có kỹ thuật tiên tiến.
  7. Vâng. Đôi khi những điều người ta tin là chân lý lại vẫn có thể "chạy đi" chứ không bất biến, bởi vì chân lý vẫn có "chân" để thay đổi.
  8. Cổ thư viết rằng biên giới của Văn Lang, bắc giáp hồ Động Đình, nhưng con sông Dương Tử còn 1 đoạn chảy ngược lên phía bắc rồi mới đổ ra biển, nếu lấy sông Dương Tử là ranh giới phân chia lãnh thổ, thì hiển nhiên hồ Động Đình không phải là nơi "địa đầu" của Văn Lang. Nhưng đề cập đến biên giới Văn Lang, tổ tiên lại lấy hồ Động Đình là mốc, hẳn là nó có ý nghĩa đặc biệt đối với cư dân Lạc Việt, mặc dù trên thực tế biên giới phía bắc của Văn Lang trải dài theo con sông Dương Tử. Phía nam giáp Hồ Tôn. Thực ra viết "Hồ Tôn" hay "hồ Tôn"? Phía bắc đã giáp hồ Động Đình, thì phía nam có thể giáp 1 cái hồ nào đấy. Có thể lắm chứ, bởi vì lịch sử Văn Lang gắn liền với sông nước, hình ảnh nổi bật trên trống đồng là những con thuyền. Vậy nếu giả thiết rằng "hồ Tôn" ở đây đơn thuần là 1 cái hồ nước, nó phải rất lớn thì mới có thể được coi là vật làm mốc, nó nằm ở phương nam, tên là Tôn hoặc Tông, hoặc cái gì gần như thế do biến âm. Tra bản đồ thấy rất xa về phương nam, có 1 địa danh được gọi là Biển Hồ Tôn-Lê-Xáp hoặc Tông-Lê-Sáp nằm tại lãnh thổ Campuchia ngày nay. Liệu có mối liên quan nào ở đây? Người ta đã tìm thấy trống đồng rải rác khắp vùng bán đảo Đông Dương, liệu đó chỉ đơn giản là sự giao lưu văn hóa trong vùng hay là biểu hiện của sự thống nhất về mặt lãnh thổ của Văn Lang?
  9. Người ta có thể nhẫn tâm tận diệt 1 loài cứu tinh, 1 tín hiệu thông báo thảm họa, đó là minh chứng rõ nét nhất cho việc con người đã quay lưng lại với thiên nhiên , không hiểu được thiên nhiên. Đó là màn mở đầu báo hiệu ngày diệt vong của đa số nhân loại. Chúng ta biêt rằng động đất đã xảy ra sáng nay tại Tây Nam Trung Quốc, và chúng ta chờ đợi điều gì ở Đông Nam Trung Quốc trong ít ngày nữa?
  10. Ngày nay vũ trụ như chúng ta biết gồm có năng lượng và vật chất. Đồ hình Thái Cực Lạc Việt chỉ có 2 nửa Âm Dương "xoắn" vào nhau, cuốn hút lấy nhau không bao giờ tách rời. Đó là 1 đồ hình tuyệt đối chuẩn, minh chứng cho khởi nguồn của vũ trụ, với năng lượng là phần Dương, vật chất là phần Âm. Với quan niệm của Kinh Dịch Lạc Việt là Dương trước Âm sau, thì có nghĩa là năng lượng là cái có trước - đó là 1 tiên đề. Như vậy vũ trụ phải có thời điểm bắt đầu. Trước Thái Cực là không gì cả. Nothing! Người ta có thể hiểu được điều này nếu tin rằng định luật bảo toàn năng lượng không đúng - ít nhất là khi Thái Cực là cái Không vĩ đại. Năng lượng có thể tự nhiên sinh ra mà không cần 1 cái gì cả. Tất cả khởi nguồn từ cái Không. Vật chất có thể tự nhiên mất đi, mất đi - biên đổi thành năng lượng. Cháu xin mạn phép các bác, các chú.
  11. Đây là link ạ Một sai lầm tiếp tục được khẳng định như là chân lý. Bạn Hiki thân mến. Không nên dẫn đường link những web có thể gây tranh luận bất lợi cho việc minh chứng khoa học và khách quan cho cội nguồn lịch sử Việt.
  12. Hậu quả của việc xây đập thủy điện tại thượng nguồn sông Mê Kông của TQ thật khủng khiếp, và nếu có tai họa xảy ra, TQ sẽ chẳng thiệt hại bao nhiêu, mà thảm họa diệt vong của cư dân ĐNA là rõ ràng.
  13. (VOV) - Những chứng tích còn lại cho thấy, đây là ngôi đền thờ thầy giáo, tôn vinh sự học cổ nhất ở nước ta, tương truyền dạy dỗ các con Vua Hùng. Những năm gần đây, có một địa danh nằm trong địa phận của Kinh đô Văn Lang xưa thu hút khá đông đảo người đến thắp hương, tìm hiểu về văn hoá, việc dạy và học thời Hùng Vương. Đó là Đền Thiên cổ (Thiên cổ miếu). Ẩn mình dưới tán 2 cây táu cổ thụ trên quả đồi nhỏ thuộc thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì, Phú Thọ, Đền Thiên cổ tương truyền thờ hai vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, đời Hùng Vương thứ 18, người đã dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Hiện nay ngôi đền này nằm trong quần thể di tích gồm Đình Hương Lan, Lăng mộ ba đô sĩ thời Hùng Duệ Vương và Đền Thiên Cổ đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử ngày 28/01/1999. “Thiên cổ miếu” và những truyền thuyết Ngôi đền nép mình dưới hai cây táu. Thầy giáo Đỗ Văn Xuyền ở thành phố Việt Trì, người suốt 40 năm nay nghiên cứu, tìm hiểu về chữ Việt cổ dẫn chúng tôi đến thăm ngôi đền chậm rãi kể, Thiên cổ miếu từ bao đời nay vẫn được xem là ngôi đền thiêng của người dân làng Hương Lan. Ngôi đền được xây dựng cách đây khoảng 3.000 năm. Ngày xưa, để bảo vệ ngôi đền khỏi sự tàn phá của các thế lực xâm lược ngoại bang và để hai thầy cô được yên nghỉ, người dân đã phải che giấu lịch sử về ngôi miếu này suốt nhiều năm và gọi thác đi là “Miếu hai cô”. Những bí ẩn của nó được hé mở chỉ cách đây không lâu. Đó là vào năm 1990, ngôi đền không may bị cháy. Trong lúc cố cứu những vật thờ trong đền, người dân Hương Lan đã phát hiện ra cuốn ngọc phả và cả sắc phong vua ban. Nguồn gốc của ngôi miếu cổ được chép lại trong Ngọc phả, như sau: Vào thời Hùng Duệ Vương (đời Vua Hùng thứ 17), ở đất Mộ Trạch có vợ chồng Vũ Công, thuộc gia đình có học. Cha mẹ mất sớm, cảnh nhà sa sút, hai người lần tìm về đô thành Phong Châu, tới thôn Hương Lan mở lớp dạy học. Dân làng đã cấp cho họ ruộng đất để trả công dạy dỗ. Vợ chồng Vũ Công sinh hạ được một người con trai là Vũ Thê Lang. Khi trưởng thành, Vũ Thê Lang được người bạn cũ của bố là Nguyễn Công ở đất Đông Ngàn - Kinh Bắc gả con gái của mình là Nguyễn Thị Thục - một cô gái nết na, thạo nghề tơ tằm canh cửi. Khi cha chết, Vũ Thê Lang tiếp tục thay cha dạy học, Thục Nương giúp dân nghề nông tang, canh cửi. Mộ vợ chồng thầy cô Vũ Thê Lang và Nguyễn Thị Thục. Tiếng lành đồn xa, nhờ học vấn cao và tận tụy với nghề, sống giản dị và mẫu mực nên Vũ Thê Lang được vua Hùng thứ 18 giao cho chăm nom việc học hành của hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang và Nguyễn Thị Thục tạ thế cùng một giờ, một ngày - ngày 2/2 năm Quý Dậu (228 trước Công nguyên) và được chôn cùng nhau. Dân làng Hương Lan lập đền thờ ngay trên ngôi mộ chung đó. Đền và phần mộ của vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang được người dân Hương Lan đã bảo vệ suốt 23 thế kỷ qua. Trong Đền Thiên cổ, có bức hoành phi nhỏ ghi "Thiên cổ miếu" và hai câu đối bằng bằng gỗ viết chữ Hán: "Hùng Lĩnh trung chi thắng tích/ Nam thiên trích khí linh từ" (dịch là: Đền thiêng thờ người có chí khí mạnh mẽ, lớn lao của nước Nam). Hai bên cửa võng là hai câu đối: "Đạo học nét son ngời Lạc Việt, Văn minh dấu ấn rạng Hùng Vương". Hoành phi và câu đối trong Đền Thiên Cổ có từ thời Tự Đức năm thứ nhất (1848). Ngoài ra trong ngôi đền thiêng này còn có những lư hương cổ bằng gốm có từ đời nhà Lý, nhà Lê. Đặc biệt là các pho tượng: Phụ vương, Mẫu vương và hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa cùng hai thị nữ, đã có trên 70 năm. Bàn thờ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang. Ngôi miếu nhỏ đã nhiều lần đổ nát vì thời gian và những khắc nghiệt của thời tiết nhưng luôn được dân làng Hương Lan góp công, góp của xây dựng lại nên vẫn uy nghiêm đứng vững đến nay. Hưng thịnh nền giáo dục thời Hùng Vương Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam là Văn Miếu đến năm 1075 mới được thành lập. Nhưng những gì được lưu giữ tại đền Thiên Cổ đã minh chứng cho sự tồn tại của một nền giáo dục hưng thịnh thời Hùng Vương. Nhà nghiên cứu chữ viết cổ Đỗ Văn Xuyền cho rằng, tuy những nghiên cứu khảo cổ chưa tìm được chính xác nền giáo dục nước ta thời đó phát triển đến mức nào, nhưng có thể khẳng định từ thời Hùng Vương, người dân Đại Việt đã có truyền thống hiếu học và chúng ta đã có chữ viết riêng để phục vụ việc học. Bức hoành phi viết bằng chữ cổ trong Thiên Cổ miếu. Ông Xuyền cũng cho biết, theo một cuộc điều tra của Pháp những năm 30 về hệ thống đền, đình ở nước ta (tài liệu vẫn còn lưu trữ ở Viện Hán – Nôm), thì toàn miền Bắc và miền Trung có hơn 40 đền thờ các thầy cô giáo và những học trò thời Hùng Vương đến thời An Dương Vương. Bản thân ông Xuyền cùng các nhà nghiên cứu đã tìm được một danh sách 18 thầy giáo thời Hùng Vương, những người đã đào tạo ra hiền tài cho các Vua Hùng thời đó như: Thầy Lý Đường Hiên, thời Hùng Vương thứ 6, dạy ở Yên Vĩ, huyện Hoài Nam, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam (nay là Ứng Hoà, Hà Nội); thầy Lỗ Công, thời Hùng Vương thứ 9, là cháu ngoại vua Hùng Định Vương, dạy ở kinh thành Văn Lang… Đến nay vẫn còn đền thờ của các thầy giáo và học trò của họ tại nhiều nơi ở miền Bắc đất nước. Đền Thiên Cổ không chỉ là một di tích văn hóa có giá trị của đất nước mà còn là khu du lịch văn hóa tâm linh đối với du khách trong nước và quốc tế. Sự hiện diện của ngôi đền cổ tại đây cho thấy Việt Nam đã có một văn hiến lâu đời và truyền thống tôn sư trọng đạo quý báu của nhân dân ngay từ thời dựng nước. Đền Thiên cổ đã vinh dự được đón nhiều vị lãnh đạo Nhà nước tới thăm. Đặc biệt, tên tuổi của thầy Vũ Thê Lang - người thầy giáo tài cao đức trọng được lưu truyền từ thời Vua Hùng thứ 18 đã vinh dự được đặt cho một ngôi trường THPT ở thành phố Việt Trì, cách miếu 4 cây số. Bài và ảnh: Phỉ Thuý Chữ Khoa đẩu trong bức hoành phi này là có từ thời cổ hay người ta mới tạo ra vậy? Bác Thiên Sứ có bàn luận gì về vấn đề này không ah?
  14. Con cháu còn, tôn tổ vẫn còn, nòi giống nhà ta sinh sản mãi. Nắng mưa thế, miếu lăng vẫn thế, non sông đất nước vững bền lâu. * Quá cố quốc, miễn Lô Thao, y nhiên bích lãng hồng đào, khâm đái song lưu hồi Bạch Hạc Đăng tư đình, bái lăng tẩm, do thị thần kinh xích huyện, sơn hà tự cổ khổng Chu Diên. Dịch: Qua nước cũ, ngắm Lô Thao, vẫn hồng đào bích lãng như xưa, sông hai giải bao quanh chầu Bạch Hạc. Lên đền này, vái lăng tẩm, kìa xích huyện thần kinh còn đó, núi bốn bên quay lại giữ Chu Diên. * Vân ám Động Đình Long chắc giáng Nguyệt khoa Lĩnh Biểu Hạc quy tiên Dịch: Mây phủ Động Đình Rồng xuất thế Trăng soi Nghĩa Lĩnh Hạc bay về
  15. Phim "Lý Công Uẩn-Đường tới thành Thăng Long" Bật mí những hình ảnh “Lý Công Uẩn” tại trường quay Trung Quốc (Dân trí) - Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long sẽ là bộ phim quan trọng của đại lễ 1000 năm Thăng Long. Dưới đây là những hình ảnh đầu tiên của nhân vật Lý Công Uẩn dưới bàn tay hóa trang và đạo diễn của các nhà làm phim Trung Quốc. Bộ phim lịch sử Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long, bộ phim quan trọng hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long đang được dư luận chú ý. Bộ phim lịch sử Việt Nam này do các nhà làm phim Trung Quốc sản xuất. Đã có những tranh cãi, đã có những dư luận, tuy nhiên nhiều ý kiến cho rằng, hãy cứ đợi chất lượng phim rồi phát xét, bởi điều quan trọng nhất mà chúng ta đang cần là một bộ phim lịch sử có chất lượng để ra mắt ngày đại lễ 1000 năm Thăng Long. Dưới đây là những hình ảnh tạo hình của nhân vật lịch sử Lý Công Uẩn tại trường quay Trung Quốc. Hình ảnh nhân vật lịch sử Lý Công Uẩn qua sự hóa trang, đạo diễn của các nhà làm phim Trung Quốc và khả năng hóa thân của nam diễn viên trẻ Tiến Lộc - Sinh viên ĐH Sân khấu Điện ảnh vừa tốt nghiệp. Để vào vai nhân vật lịch sử Lý Công Uẩn, Tiến Lộc phải học võ, học cưỡi ngựa, học cách sử dụng vũ khí. Tiến Lộc tâm sự, anh chưa hề được đào tạo về võ nghệ nên đã có những tai nạn "dở khóc, dở cười" trên trường quay Hoành Điếm. Tiến Lộc từng đập gậy vào đầu quay phim, từng làm đau cả diễn viên quần chúng trong khi biểu diễn "múa gậy lung tung". Các nhà làm phim Trung Quốc cố gắng để bộ phim truyền hình 12 tập Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, dù quay ở Trung Quốc, hóa trang Trung Quốc và do đạo diễn Trung Quốc thực hiện. Bộ phim Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long là bộ phim quan trọng hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long. Hiền Hương Trang phục của người Việt mình sao lại có cách cài vạt áo bên phải thế kia? Còn gì là bản sắc của nền văn hiến Việt nữa. Một cách tự đồng hóa ngu dốt! Không thể nói được gì hơn, trong khi tổ tiên đã tìm mọi cách để giữ lại nền văn hiến của thời kỳ Văn Lang rực rỡ, thì nay có một số kẻ lại quyết tâm đi mượn văn hóa của Trung Hoa để xây dựng hình ảnh của Lý Thái Tổ. Rất lâu sau thời của Lý Thái Tổ, chính Nguyễn Trãi đã viết: "Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác".
  16. "Gần đây nhất, vào năm 2007 và 2008, hai quyển sách về Tìm lại cội nguồn dân tộc của ông Hà Văn Thùy, do nhà xuất bản Văn học ấn hành đã cho chúng ta những sự kiện khác với những chứng cứ có cơ sở khoa học hơn. Những năm gần đây nhờ tiếp thu thành quả của việc phát triển sơ đồ Gen người, một nhà khoa học người Mỹ gốc Hoa, là Lý Chấn Huỳnh, qua công trình nghiên cứu đưa ra kết luận rằng khoảng 200 ngàn năm trước, giống người Homo Sapiens đã từ châu Phi đi tới Trung Đông, và từ đó một nhóm đi qua Pakistan, Ấn Độ rồi men theo bờ biển miền Nam Á đến Đông Nam Á khoảng 60 đến 70 ngàn năm trước. Họ ở lại đây khoảng 10 ngàn năm rồi một bộ phận đi lên phía bắc, tới Trung Hoa. Từ đây, một bộ phận lên cao nữa tới Siberia, băng qua eo biển Bering tới Alaska vào châu Mỹ, thành người châu Mỹ ngày nay." 1. Eo biển Bering là nơi gần nhất giữa châu Á và châu Mĩ. Trong quá khứ có thể nó đã từng nối liền 2 châu lục này. 2. Nếu nó nối liền châu Á và châu Mĩ thì đó chỉ có thể do nước biển bị đóng băng trong kỷ băng hà. 3. Nếu người từ châu Á di cư sang châu Mĩ thì họ phải di chuyển trong thời gian kỷ băng hà. 4. Trong kỷ băng hà, bắc và nam bán cầu bị băng tuyết bao phủ rất dày. Vùng Siberi thậm chí băng tuyết còn dày hơn nữa, cường độ ánh sáng mặt trời ở đây có thể rất yếu. Như vậy: - Những đoàn người nguyên thủy cách đây hàng chục ngàn năm đã di cư. Tại sao họ biết tận cùng phía bắc của lục địa Á có đường sang châu Mĩ, để rồi họ có thể bất chấp giá lạnh, băng tuyết để tiến lên phía bắc? Thực phẩm để duy trì sự sống suốt cuộc hành trình lấy ở đâu? Giả dụ như chúng ta bây giờ, chúng ta không có kiến thức địa lý về trái đất. Chúng ta đang đứng ở bên sông Hoàng Hà của Trung Quốc ngày nay chẳng hạn, nhìn về phía bắc chỉ thấy 1 màu tuyết trắng, trời đất u ám, cực kỳ lạnh lẽo, càng di chuyển lên phía bắc càng lạnh và băng tuyết càng dày. Vậy chúng ta có dám tiếp tục đi lên phía bắc không, khi mà chúng ta không biết điều gì đang chờ đợi chúng ta ở phía ấy, ngoại trừ giá lạnh. -> Vậy eo biển Bering có thật sự là nơi mà những đoàn người nguyên thủy đã đi qua để sang châu Mĩ trong kỷ băng hà?
  17. Tiếng nói của người Việt từ hàng ngàn năm nay có thay đổi nhiều hay không? Có thể khẳng định rằng tiếng nói của người Việt có thay đổi theo thời gian để thích ứng với cuộc sống hiện tại. Nhưng có một vấn đề là: nếu nghe 1 người Việt sống cách đây 1000 năm nói thì người Việt bây giờ có hiểu được không? Phải chăng người Việt từ thế kỷ X - XIX nói tiếng Hán, dùng văn tự chữ Hán để ghi tiếng nói của mình? Vậy tiếng Việt ngày nay là gì? xuất hiện như thế nào?
  18. Ai đã từng nghiên cứu về lịch sử Hải Phòng đều biết đến nữ tướng Lê Chân - một vị tướng tài của Hai Bà Trưng. Bà là người có công khai phá đất HP. http://www.simplevietnam.com/article/view/id/8364 Còn đây nữa: http://www.haiphong.gov.vn/?website_id=39&..._SINGLE_ARTICLE Tương truyền khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, bà Lê Chân đã hưởng ứng và tham gia vào nghĩa quân của Hai Bà. Bà Lê Chân nhận lệnh về vùng duyên hải mở đất lập làng, quy tập anh hùng hào kiệt khắp nơi, tạo 1 căn cứ đánh quân Hán. Miền duyên hải này tên gọi là An Biên, tức vùng Quảng Ninh - Hải Phòng ngày nay. Từ đây có thể suy ra đất HP xưa là 1 vùng hoang vu, ít người sinh sống, thậm chí còn chưa có tên gọi. Nếu suy nghĩ 1 chút ta sẽ gặp 1 vài vấn đề khó giải thích theo những quan niệm cũ: 1 - Lãnh thổ Văn Lang chỉ bao gồm đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Và kinh đô duy nhất của các Vua Hùng ở Phong Châu - Phú Thọ. - Khó hiểu: đồng bằng BB là một vùng nhỏ, từ Phong Châu ra tới biển chỉ vài trăm km. Tại sao suốt thời Hùng Vương cho đến thời Hai Bà Trưng, Hải Phòng (ngày đó là miền Hải tần phòng thủ) vẫn là một vùng đất hoang vu ít người sinh sống? Phải chờ đến khi Lê Chân tới lập làng, quy tụ nhân dân mới có tên là An Biên? Dù dân số của Văn Lang có ít đi nữa thì dân cư cũng không thể không di cư dần ra phía biển khai khẩn đất đai, lập làng lập ấp. Từ những khúc mắc đó, chúng ta càng có thể khẳng định: Lãnh thổ Văn Lang rất rộng lớn, bắc giáp hồ Động Đình, tây giáp Ba-Thục, nam giáp Hồ-Tôn, đông giáp biển Đông. Trung tâm của nước Văn Lang không phải xuất phát từ đồng bằng Bắc Bộ mà là ở miền nam sông Dương Tử, các tỉnh Hồ nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Lưỡng Quảng ngày nay. Đồng bằng Bắc Bộ tuy thuộc lãnh thổ Van Lang nhưng suốt thời Hùng Vương vẫn là miền hoang vu, không có nhiều người sinh sống. Khi Văn Lang, Âu Lạc sụp đổ, Hai Bà Trưng nổi dậy chống nhà Hán thì miền đất Hải Phòng được chọn làm hậu phương, làm 1 trong các căn cứ kháng chiến của nghĩa quân. Địa danh An Biên ra đời trong sứ mạng lịch sử như thế. Đã có người phát biểu rằng, tại sao Hai Bà Trưng không chọn thành Cổ Loa làm nơi phòng ngự và cố thủ? Phải chăng miền Cổ Loa ngày ấy cũng rất hoang vu, và An Dương Vương dời đô về Cổ Loa là một lựa chọn sai lầm, như khi Hồ Quý Ly dời đô về Tây Đô - Thanh Hóa? Chính sự lựa chọn đó đã làm "cơ đồ đắm biển sâu"? Và Hai Bà trưng đã không lựa chọn Cổ Loa là vì thế? Nếu đúng như vậy thì có lẽ đồng bằng Bắc Bộ đúng là "mảnh đất cuối cùng của đế chế Văn Lang", nơi đã đón những con người trong "cuộc di cư vĩ đại" để tồn tại trước bọn khát máu phương bắc.
  19. Nếu các cư dân Việt cổ đặt tên đất theo ký ức, thì cháu nghĩ mỗi địa danh ở Bắc Bộ (xưa và nay) phải có nét gì đó tương đồng với vị trí địa lý nơi miền nam sông Dương Tử. Đó cũng là lời nhắc nhở các thế hệ sau nhớ về quê cha đất tổ.
  20. Theo như sử sách thì nước Âu Lạc của An Dương Vương bị Triệu Đà thôn tính, có nghĩa là Âu Lạc bị xâm lược, sau đó nước Nam Việt của Triệu Đà lại bị nhà Hán thôn tính. Cho đến cuộc khởi nghĩa của Hai BÀ Trưng thì khoảng thời gian đó rơi vào tầm 200 năm. Tại sao suốt 200 năm đó không có người nào nổi dậy chống Triệu Đà và nhà Hán sau này? Trong khi lịch sử chống ngoại xâm của dân Lạc Việt đã ghi nhận những trận chiến với kẻ xâm lược (giặc Ân), tức là từ trước khi Âu Lạc thành lập, người Lạc Việt đã có truyền thống yêu nước bất khuất, sẵn sàng đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng! Vậy thì tại sao khi Triệu Đà tiến quân vào Âu Lạc, An Dương Vương bại trận rất nhanh, từ đó không có ai hiệu triệu nhân dân chống Triệu Đà, mà phải đợi đến khi nhà Hán cai trị thì Hai Bà Trưng mới chống lại? Lẽ ra theo logic thì dù ADV có thua trận, nhất định dân Âu Lạc sẽ tập hợp nhau lại để chiến đấu. Cổ sử không thấy đề cập đến vấn đề này, cứ như là người Âu Lạc chấp nhận bị thôn tính trong hơn 200 năm vây? Rốt cuộc thì Nam Việt có mối quan hệ chính xác với Âu Lạc ra sao? Triệu Đà là nhân vật như thế nào? Cổ sử chữ Hán có bóp méo giai đoạn lịch sử đó không? Liệu Nam Việt và Âu Lạc có phải là một liên minh quốc gia của người Việt?
  21. Cháu chỉ muốn nhấn mạnh câu này: "Nếu coi Nam Việt là đất cũ của Văn Lang, thì việc Triệu Đà tiến vào Âu Lạc có vẻ giống như khi Quang Trung đưa quân ra Bắc - dù thế nào Quang Trung cũng vẫn là người Việt, được nhân dân ủng hộ, tất nhiên cũng có những thế lực chính trị khác chống đối. Xung đột giữa Nam Việt - Âu Lạc là chuyện nội bộ của người Việt, thì sẽ hợp lý hơn khi giải thích thời gian "yên bình" ngót 200 năm sau đó mà không hề có 1 trận chiến nào của người Việt chống lại Triệu Đà." Chỉ vậy thôi bác Thiên Sứ ạ.
  22. Ông phulo này hình như rất rành lich sử VN thì phải. Nhưng chi tiết ít người biết đến thì ông cứ như là nắm trong lòng bàn tay vậy. Xin hỏi ông căn cứ vào cái gì để "phán" như thế?
  23. Thứ nhất, PhuLo không cần kích động như thế, viết chữ với cỡ chữ bình thường mọi người vẫn có thể đọc được cơ mà. Thứ hai, tất cả những căn cứ và tài liệu bác trình bày ở bài viết trên là bác lấy ở đâu đấy? Bác liên tục dùng đến từ "sai, bịa", nhưng bác có hiểu rằng chính bác đang nói sai, nói bịa. Xem qua mấy bài của bác, có cảm giác bác đang tìm cách xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử và văn hiến Việt.
  24. "Phát hiện mới này đã làm các nhà khoa học nhớ lại một phát hiện khảo cổ khác vào năm 1984 trên đảo Hòn Rái, thuộc xã Lại Sơn, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, ở gần đảo Phú Quốc. Hòn đảo này cách đất liền gần 30km. Một trống đồng Đông Sơn được chôn trong lòng đất của đảo. Bên trong trống có những chiếc rìu, lao, mảnh khuôn đúc, đồ gốm và xương người. Đây là một mộ táng của người Đông Sơn. Điều đó càng khẳng định người Đông Sơn là cư dân thạo đi biển. Trong một chuyến hải hành xuôi phương nam, có người đã chết và được chôn tại đảo này." Một số trống đồng đào lên từ trong lòng đất thấy có hài cốt ở bên trong. Một người khi mới chết không thể cho vừa vào bên trong trống đồng được vì kích thước của trống nhỏ. Nên những bộ hài cốt đó phải được đặt vào trong trống đồng sau khi người chết một thời gian khá dài. Như vậy những chủ nhân của trống đồng tìm thấy ở đảo Hòn Rái chắc chắn không chỉ đã đi ngang qua nơi này mà họ đã từng định cư ở đó.
  25. Đúng là Kinh Dịch không thể do 1 người nào đó tự nghĩ ra, nó phải được nhiều thế hệ tiếp nối nhau nghiên cứu, tổng kết và hoàn thiện, thời gian đó nhất định không thể hoàn thành trong một vài năm, ít nhất cũng phải tới nghìn năm, bởi cho đến tận ngày nay, tức hàng nghìn năm sau, chúng ta vẫn chưa hiểu hết nội dung của nó. Chính bạn cũng đã thừa nhận như thế. Bạn nói rằng Kinh Dịch hùng vĩ như ngày nay la trải qua nhiều thế hệ TQ suy nghĩ sáng tạo nên, như thế tức là thừa nhận tính phổ biến rộng rãi của Dịch trong xã hội TQ cổ đại. Nếu quả như vậy thì dù cho có trải qua bao thời loạn lạc, Kinh Dịch sẽ không thể bị thất truyền trên lãnh thổ TQ cổ, sẽ không mơ hồ như ngày nay. Bạn cũng bảo rằng Kinh Dịch phải cần tới chữ viết để lưu giữ và truyền bá, và cũng chính bạn nói rằng người TQ cổ đã có chữ viết trên xương thú, mai rùa, như vậy họ hoàn toàn có thể ghi rất chi tiết nội dung của Kinh Dịch, việc thất truyền càng không thể xảy ra. Điều gì khiến bạn khẳng định rằng người Lạc Việt chỉ sống quẩn quanh đồng bằng sông Hồng và sông Mã, không tiếp xúc với TQ? Bạn đã đọc các luận điểm và phân tích của bác Thiên Sứ khi tìm hiểu biên giới của nước Văn Lang chưa? Chắc là chưa? Bạn nên liên hệ với bác ấy để tìm tài liệu. Nước Văn Lang hùng vĩ, cương vực phía bắc giáp Động Đình Hồ, trải dài suốt từ bờ nam sông Dương Tử đến tận trung Trung Bộ ngày nay, miền Bắc VN chỉ là một phần nhỏ cấu thành nên lãnh thổ Văn Lang mà thôi. Vào thời đó, Hải Nam cũng là một bộ của Văn Lang. Người LẠc Việt mất nước, những tri thức siêu việt vè Kinh Dịch theo gót đoàn quân xâm lược truyền bá vào TQ, người TQ đã phải mất rất nhiều thời gian để hiểu một phần thuyết Dịch. Khi họ bắt đầu hiểu chút ít, nhận ra giá trị vô giá của nó, họ quyết tâm Hán hóa Kinh Dịch, Hán hóa người Việt, nhằm xóa nhòa kí ức của tất cả mọi người về thời đại Hùng Vương rực rỡ. Văn Lang mất nước gần 1000 năm, đó mới chính là giai đoạn loạn lạc, suy vong khiến cho Kinh Dịch bị thất truyền và trở nên thần bí. Nhưng bản văn tự Việt cổ có thể không còn nữa hoặc đang nằm phủ bụi trong thư viện quốc gia TQ (nếu vậy thì cũng rất khó có khả năng họ sẽ công khai các bản văn tự cổ này), nhưng không vì thế mà cho rằng người LẠc Việt không có chữ viết của mình. Chưa có nhiều cuộc khai quật quy mô và đúng chỗ, và cái mà chúng ta mong muốn tìm thấy vẫn còn là bí ẩn. Hi vọng trong tương lai không xa, cội nguồn dân tộc sẽ được minh bạch, cùng với những tri thức rực rỡ đã từng tồn tại trên lãnh thổ Văn Lang.