hoangnt
Hội viên-
Số nội dung
1.909 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
6
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by hoangnt
-
Chào ACE. Cùng với chủ đề đọc vui và quên 'Truy tìm người ngoài hành tinh bằng thuyết Âm dương Ngũ hành', Hoangnt chợt liên tưởng đến bàn cờ tướng lấy cảm hứng từ Phụ chương: Quân tượng trên bàn cờ tướng (trang 233) của Cuốn Tìm về cội nguồn kinh dịch của Thầy Thiên Sứ. Như đã suy luận sự biến hóa của ngũ hành trong thời khắc giữa Rubik 6 mặt - 9 ô mỗi mặt và Rubik 6 mặt - 81 ô mỗi mặt. Trong quá trình xoay Rubik 6 mặt - 81 ô thì mỗi mặt đều có sự biến hóa của ngũ hành. Nhưng chúng ta chú ý người VIệt cổ không có con Rubik mà chỉ có giấy và màu tô, cho nên khi vẽ hình đồ hình 'Hậu thiên bát quái Lạc việt phối Hà đồ' chỉ ở trên mặt phẳng giấy mà thôi, đồng thời tại thời gian này việc hình dung không gian chuyển đổi màu xoay như Rubik là không tưởng. Trên cơ sở đồ hình nói trên, ta sẽ triển khai sự chuyển hóa ngũ hành cấp thấp nhất chính là ô bàn cờ 9 x 9. Ô bàn cờ này cắt ra gấp lại chính là Rubik 3 x 3 và phát triển tương tự thì là Rubik 9 x 9. Nếu phát triển hơn nữa thì cần một tấm giấy quá lớn vì cầN 9 mũ 9 ô vuông không cần thiết do người sáng tạo đã hình dung được tính logic - sự ăn khớp. Bằng một việc nhìn nhận sự chuyển hóa trong một hành tương ứng 9 x 9 ô vuông đầy biến hóa, người ta hình dung chỉ cần đặt một quy tắc trên diện tích ô vuông này thì thành trò chơi. Dĩ nhiên chơi ít nhất hai người để giảm bớt phức tạp, như vậy đây là trò chơi của hai người và mang tính đối kháng. Hoangnt trích ra đây về cơ tướng từ Wikipedia: Cờ tướng (chữ Hán gọi là 象棋, phiên âm Hán Việt là Tượng Kỳ cờ voi), hay còn gọi là cờ Trung Quốc vì nó có nguồn gốc Trung Quốc, là một trò chơi trí tuệ dành cho hai người, là loại cờ được chơi phổ biến nhất thế giới cùng với cờ vua. Cờ tướng được biết đến từ rất lâu, nhưng người ta biết đến cờ tướng từ thế kỷ thứ 4 TCN tại Trung Quốc. Đây loại cờ có từ khoảng thế kỷ 7. Cờ tướng được bắt nguồn từ Saturanga, một loại cờ cổ được phát minh ở Ấn Độ từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 6 (trước cờ tướng khoảng 200 năm). Chính Saturanga được phát minh từ Ấn Độ, sau đó đi về phía tây, trở thành cờ vua và đi về phía Đông trở thành cờ tướng. Người Trung Quốc cũng đã thừa nhận điều này. Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất là quân Pháo được bổ sung từ thời nhà Đường (sau năm 618), là quân cờ ra đời muộn nhất trong bàn cờ tướng, bởi cho tới thời đó, con người mới tìm ra vũ khí pháo để sử dụng trong chiến tranh. Bàn cờ là một hình chữ nhật do 9 đường dọc và 10 đường ngang cắt nhau vuông góc tại 90 điểm hợp thành. Một khoảng trống gọi là sông (hay hà) nằm ngang giữa bàn cờ, chia bàn cờ thành hai phần đối xứng bằng nhau. Mỗi bên có một cung Tướng hình vuông (Cửu cung) do 4 ô hợp thành tại các đường dọc 4, 5, 6 kể từ đường ngang cuối của mỗi bên, trong 4 ô này có vẽ hai đường chéo xuyên qua. Theo quy ước, khi bàn cờ được quan sát chính diện, phía dưới sẽ là quân Trắng (hoặc Đỏ), phía trên sẽ là quân Đen. Các đường dọc bên Trắng (Đỏ) được đánh số từ 1 đến 9 từ phải qua trái. Các đường dọc bên Đen được đánh số từ 9 tới 1 từ phải qua trái. Ranh giới giữa hai bên là "sông" (hà). Con sông này có tên là "Sở hà Hán giới" (楚河漢界)- con sông định ra biên giới giữa nước Sở và nước Hán. Theo lịch sử Trung Hoa cổ thì khởi nghiệp nhà Hán, Lưu Bang có cuộc chiến liên miên với Sở vương là Hạng Vũ. Cuộc chiến giữa hai bên làm trăm họ lầm than. Hạng Vũ bèn nói với Hán vương: "Mấy năm nay thiên hạ khốn khổ chỉ vì hai chúng ta. Bây giờ quyết một trận sống mái để khỏi làm khổ thiên hạ nữa". Hán vương trả lời: "Ta chỉ đấu trí chứ không thèm đấu sức". Hai bên giáp mặt nhau ở khe Quảng Vũ. Hán vương bèn kể 10 tội lớn của Hạng vương, Hạng vương tức giận dùng nỏ bắn trúng Hán vương, Hán vương đeo tên chạy vào Thành Cao. Hai bên giữ vững đất của mình. Mãi đến khi thấy không còn đủ lực lượng để triệt hạ lẫn nhau, hai bên mới chịu giao ước chia đôi thiên hạ: từ Hồng Câu về Tây thuộc Hán, từ Hồng Câu về Đông thuộc Sở. Từ điển tích này, người ta hình dung bàn cờ tướng như hai quốc gia Hán và Sở, coi ranh giới là một dòng sông. Cho tới nay, trên các bàn cờ tướng, ở khoảng "hà" nằm chính giữa, chia đôi bàn cờ, người ta thường ghi "Sở hà Hán giới" (bằng chữ Hán) là vì như vậy. Như vậy cờ tướng có thể chính là CỜ TƯỜNG xuất xứ từ đất Việt. Theo như trên thời cổ không có khái niệm quân pháo có khả năng chính là đội quân cung nỏ đầy sức mạnh của An Dương Vương?. Hoangnt có đọc loáng thoáng đâu đó Nước Sở cũng là 1 phần dân tộc Việt?. Theo như trên con sông ngăn cách trò chơi có thể nào là con sông ranh giới nước Việt cổ phân chia với Hán. Thân mến.
-
Suy nghĩ về bàn cờ tướng: Trích Wikipedia: Bàn cờ tướng thật sự là một trận địa sinh động, có tầng có lớp và thật hoàn hảo: đủ các binh chủng trên chiến trường, công có, thủ có, các quân được chia thành ba lớp xen kẽ hài hoà. Lại còn có cả sông, cung cấm. Hình tượng quốc gia hoàn chỉnh, có vua tôi, có 5 binh chủng, có quan ở nhà, quân ra trận v.v..., vừa có ý nghĩa, vừa mang sắc thái phương Đông rõ nét, vì vậy người Trung Hoa đặt tên cho cờ này là Tượng kỳ (象棋) với ý nghĩa là cờ voi vì có quân voi trên bàn cờ . Củng có một số tài liệu lý giải rằng, vì Trung Hoa không có voi, khi tiếp nhận Saturanga thấy trong các quan có quân voi lạ nên người Trung Hoa bèn gọi là "tượng kỳ" để kỷ niệm một loại cờ lạ có con voi. Như thế có người suy ra "tượng kỳ" có nghĩa là cờ voi. Ở Việt Nam thì từ xưa tới nay vẫn gọi là cờ tướng chứ không ai gọi là cờ tượng cả. Tướng cầm đầu thì phải gọi là cờ tướng. Đó cũng là nét hay của ngôn ngữ Việt, dễ gần gũi, dễ hiểu. Khi cờ vua du nhập vào Trung Quốc, họ gọi nó bằng cái tên rất dài là "Quốc tế tượng kỳ" (cờ voi thế giới) và cho đến nay họ vẫn gọi như vậy, trong khi người Việt chỉ gọi một tên ngắn gọn lại là cờ vua. Như vậy có ai có thể giải thích ý nghĩa của các con cờ không, ví dụ như tại sao lại là quân Xe, Pháo, MÃ, Tượng, Sĩ, Tướng,Tốt. Chúng ta chú ý quân Tượng (Voi), không chỉ bảo vệ và tấn công trong lãnh thổ của mình mà còn có thể tiến công sang quân thù chứ, như vậy bàn cờ tướng có thể thiếu nước đi quân Tượng. Ta thấy cuộc chiến giữa hai bên phải qua Sông (Hà) như vậy có vẻ vẫn chưa hợp lý vì còn cuộc chiến giữa 2 nước trên sông như trận chiến Bạch Đằng năm nào thì sao? Từ lý luận trên, Hoangnt nhận thấy bàn cờ tướng là chưa đủ, phải có thêm: - 1 đường ngang tạo thêm Sông. - Quân tượng đi qua được đất đối thủ. Bàn cờ tướng có từ thời thượng cổ, xuất xứ từ Việt Nam, sẽ giải thích khi có dịp.
-
Chào Nhật Tâm. Hoangnt ủng hộ không gian chỉ gồm 4 chiều (x,y,z,t) để giải quyết các vấn đề về khoa học (không cần thiết bàn sâu vì sẽ đến vô cùng). Hoàngnt tạm nhận thấy theo cá nhân: + Lý học Đông phương quan niệm vũ trụ 11 chiều: như trình bày ở bài trước. + Việc hành thổ đặt tại tâm của Hà đồ có vẻ như vai trò của nó quan trọng, đặc biệt và có chút khác hơn so với 4 hành còn lại. Ta có thể giải thích thế nào về sự hơi thiếu bình đẳng này? Liệu có thể chấp nhận khi tiên đề gốc âm dương - ngũ hành - 5 hành có vẻ hoàn toàn bình đẳng: tổng hợp tri thức của nhiều nghìn năm tạo ra nhưng quy tắc chắc chắn sẽ phải từ quan sát thiên văn - thực tế - thời gian quy ước.... Theo Hoangnt hiện tại ai sẽ là cao nhân giải thích vấn đề này bằng tri thức hiện đại? Mặc dù Nhật Tâm có giải thích hợp lý về việc lập Hà đồ trong 2 tiểu luận nhưng sự chưa bình đẳng này thì chưa biết là do đâu? Vậy nên muốn đặt vấn đề là tại chiều không gian. Do đó buộc phải mượn quan niệm về chiều của phương tây để giải thích việc này. Chiều không gian đã chuyển sang dạng quy luật 'vị trí sao và thời gian xem xét' Thân mến.
-
Sau khi Thục phán không cầu hôn được công chúa và tổ chức chiến tranh nhưng thất bại, nên dùng kế đưa Trọng thủy sang cầu hôn công chúa Mỵ Châu. Sau khi lấy được Mỵ Châu, Trọng thủy âm mưu đánh cắp móng rùa vàng đem về nước và Thục Phán tổ chức chiến tranh, lúc này lẫy nỏ thần đã bị mất và An Dương Vương thất bại trong cuộc chiến. LẪy nỏ thầ chính là Binh pháp Lạc Việt nổi tiếng. Câu chuyện Sơn Tinh Thủy tinh thì là thời điểm Người Việt chính thức hoàn thành cuộc tổng kiết tập toàn bộ quá trình lịch sử văn hiến trước đây của mình, tổng hợp trong 3 bộ sách: - Cuốn tóm tắt và tổng hợp dùng dự báo, định hướng, điều chỉnh: Kinh dịch (chiến lược). Còn chiến thuật là 3 bộ: - Về mặt chính trị, ngoại gian (bao gồm 9 phần như Hồng phạm cửu trù...): Voi 9 ngà. - Về mặt Lịch sử, văn hóa, đông y... (bao gồm 9 phần như Kinh thi, tín ngưỡng...): Gà chín cựa. - Về mặt quân sự (bao gồm 9 chương, có chương binh pháp Lạc Việt): Ngựa chín hồng mao. Ngôn ngữ: Là Tiếng dân tộc nào còn lại ở đất Việt cũ ví dụ Phúc Kiến và trước đó là chữ nòng nọc. Như vậy chữ viết ở bãi đá cổ Sa Pa rất quan trọng, vì khu vực này không cách xa từ Phong Châu và trên nó có thể hiện lý giải 1 phần nội dung kinh dịch... tức có thể chỉ ra thông tin trong giai đoạn từ Lạc Long Quân và Âu cơ trở về sau. Đây chỉ là dự đoán.
-
Chào Nhật Tâm Ta có các tiên đề: - Thế giới vật chất tồn tại và vận động mang tính quy luật khách quan. - Con người cũng thế, con người nhận thức thế giới. - Thời gian không ảnh hưởng tới sự vận động của thế giới vật chất, thế giới vật chất không nhận thức được nó và để nhận thức sự vận động con người đưa ra các quy ước về không thời gian, thuộc tính vật chất... Thực thế khách quan: - Bất kế cái gì đều được xác định bởi con người đều đang nằm trong không gian và thời gian. - Vận tốc ánh sáng là max cho tới thời điểm này. Tuy nhiên cũ trụ đang giãn nở với tốc độ hàng ngàn lần nó và càng gia tăng theo thời gian, tuy nhiên mật độ vật chất ngày càng giảm dần. - Lỗ đen chưa xác định; các thiên hà, hanh tinh... bị hút vào lỗ đen khi vào quỹ đạo. - Máy gia tốc đang cố gắng tìm ra hạt của Chúa. - Hệ gien đã phát hiện và sinh sản vô tính. - ... Lý học động phương: - Học thuyết âm dương ngũ hành - ... Giải thích hiện tượng điện tử xuất hiện khắc nơi khi quan trắc: phải nằm trong các tiên đề trển tức là đang dịch chuyển với V cự lớn nếu điện tử này vẫn là nó. Trong quá trình dịch chuyển không có bất kỳ tác nhân nào được phát hiện thêm thì giải thích trên có vẻ hợp lý.
-
Thông thường ta có chiều thời gian, chiều quay thiên hà, chiều vận tốc, chiều dòng nước, chiều ngược lại, chiều lực âm - lực dương: Như vậy chiều là chỉ sự vận động có hướng của 'vật chất'. Hệ vận động có hướng của 'vật chất'sẽ bao gồm 3 phương x, y, z vuông góc nhau và một trục thời gian trùng gốc 3 trục này và hướng sẽ được xác định tùy thời điểm ta chọn là gốc. Sự vận động có hướng của 'vật chất' sẽ được xác dịnh trong hệ tọa độ này. Tuy nhiên chưa định hình được sự vận động của tương tác tổng hợp và có quy luật mà chỉ biết 'tương tác cụ thể có quy luật' như các phản ứng hóa học, chế tạo kim loại... Để giải quyết thì phải hình thành nên các hệ quy chiếu bao trùm hết các tương tác, vậy có thể xây dựng thêm hệ tọa độ tương tác, thời gian gồm: - 10 chiều âm dương ngũ hành (tự nhiên, xã hội, có thể còn tư duy), chiều thời gian: dùng dự đoán chiều thay đổi thuộc tính mang tính quy luật. - Hệ 4 chiều vẫn dùng bình tường nhằm xác định sự thay đổi việc cụ thể tại thời điểm cụ thể. Như vậy Chiều là sự biến dịch có hướng của vật chất theo thời gian.
-
Cảm ơn Bác Trần Phương có những bài viết tuyệt hay. Câu chuyện Sơn Tinh Thủy tinh theo Em thì là thời điểm Người Việt chính thức cuộc tổng kiết tập toàn bộ lại quá lịch sử văn hiến trước đây của mình bao gồm trong 3 bộ sách: - Về mặt chính trị (bao gồm 9 phần như Hồng phạm cửu trù...): Voi 9 ngà. - Về mặt Văn hóa (bao gồm 9 phần như Kinh thi, tín ngưỡng...): Gà chín cựa. - Về mặt quân sự (bao gồm 9 chương): Ngựa chính hồng mao. (Có thể có một cuốn tóm tắt tất cả được đặt tên Hoàng đế?). Đây chỉ là dự đoán.
-
Hoangnt xin phép tạm dừng bài viết về Cụ Khiết Việt vì có các công việc khác, sẽ quay lại khi thích hợp. Sory nhiều, tuy nhiên chắc chắn Cụ Khiết là Cụ Cóc Việt: Thần tài Việt và...
-
NÊN ĐỔI VÌ CHỮ THĂNG LONG CÒN NHIỀU ẨN Ý SÂ XA KHÁC, HOANGNT ĐANG PHÂN TÍCH. Ý NGHĨA MANG TÍNH LỊCH SỬ VÀ NGUỒN GỐC CHỈ 1 PHẦN PHÉNG SỦI THÔI. Xã tắc bao phen chồn ngựa đá. Non sông ngàn thuở vững âu vàng.
-
Chào Nhật Tâm. Thuyết âm dưỡng ngũ hành theo Hoangnt hiểu là sự vận động tuần hoàn của 'thế giới vật chất' trong không gian và theo thời gian như vậy vẫn đang tồn tại 4 chiều mà thôi, tuy nhiên nếu ta định nghĩa được 'Chiều cho vật chất' thì tổng số sẽ là N chiều, bài toán có thể không giải được, do vậy có thể phải xây dựng các hệ quy chiếu khác nhau nhưng kết hợp lẫn nhau: - Hệ quy chiếu 11 chiều: chính là âm dương ngũ hành chuyển hóa 'vật chất quy ước' theo thời gian. - Hệ quy chiếu 4 chiều hiện nay: chuyển hóa 'vật chất cụ thể ' trong không thời gian được xác định theo khoa học. 'Vật chất quy ước': âm dương kim... 'Vật chất cụ thể': kim loại đồng... Thân mến.
-
Trước khi tiếp tục tìm hiểu về tính minh triết biểu tượng Cụ Khiết chúng ta chắc nên thống nhất một vấn đề quan trọng sau: đó là không đến bàn đến tận cùng mọi vấn đề vì là không thể tới đích cuối cùng do sự biến đổi không ngừng từng phút giây của sự kiện cụ thể tại thời điểm về lịch sử, văn hóa… mà ta đang quan tâm, ví dụ ta tìm hiểu biểu tượng RỒNG: là gì, từ đâu, khi nào, ai làm đầu tiên, chủng loại sản xuất đầu tiên, vật liệu ban đầu là gì... và chưa Viện nghiên cứu nào xử lý xong… và mãi mãi, ví dụ biểu tượng rồng chỉ khám pháp sớm nhất là trên các loại đồ cổ vào thời Ân Thương. Ta chỉ cô lập, khoanh vùng, phân tích một số ý nghĩa cần thiết chính mà thôi và chỉ sau khi giải quyết xong và nếu cần thiết ta vẫn có thể tiếp tục. Theo phân tích trước ta thấy đồng tiền giữa 2 chân trước tượng trưng hay tên gọi của Cụ Khiết và Đồng tiền này sẽ có hai chữ Thiên ở hai bên và chữ Thiềm cung ở trên dưới. Hoangnt xin chỉnh lại là: Đồng tiền này sẽ có hai chữ Thiên ở trên dưới và chữ Thiềm cung ở hai bên. Còn đồng tiền trên miệng Cụ Khiết ẩn chứa điều gì và nó có liên quan đến đồng tiền tượng trưng kia không? Trước khi đi vào vấn đề ta tiếp tục chú ý thêm một chi tiết nữa để có cái nhìn tổng thể về bàn thờ Cụ Khiết đó là cái lư hương trước bàn thờ. Thông dựng hiện nay ta hay thấy có 3 loại lư hương: có chữ tốt, có hình song long tranh châu và có vòng âm dương lửa trong vùng mây, như vậy cái nào là hợp lý nhất. Ta nhận thấy thực tế lư hương có song long tranh châu là phổ biến và dùng nhiều nhất, đặc biệt xuất hiện ở hầu như mọi nơi thờ tự, đồng thời hình song long tranh châu có ý nghĩa sâu xa là ròng biểu tượng sự sáng tạo và nuôi dưỡng vũ trụ (theo quan điểm Hoangnt kể từ khi hình thành thuyết âm dương và sẽ bàn sau) và rồng cũng đại diện cho người sáng tạo ra nó, đại diện cho quyên uy tối cao. Cho nên lư hương này là phù hợp nhất. Ta sẽ tạm thời chưa bàn tiếp tương quan về mặt thời gian giữa lư hương, Cụ Khiết, bài vị, câu đối và các vấn đề liên quan khác… mà chỉ quan tâm chúng là một chỉnh thể thể hiện ý nghĩa chung nhất mà ta đang tìm hiểu biểu tượng Cụ Khiết. Kết hợp vị thế tương quan lư hương – bàn thờ, bài vị - câu đối: Bài vị: Hổ sinh nhất kim, ngũ hành chúng trân quý Địa trưởng vạn vật, tứ quý ca bình vinh. Câu đối: Thổ năng sinh bạch ngọc (bên phải Cụ nhìn ra) Địa khả xuất hoàng kim (bên trái Cụ nhin ra). Ta thấy lư hương – bàn thờ, bài vị - câu đối trở thành thế tứ linh thanh long, bạch hổ, chu tước, huyền vũ và vị trí Cụ Khiết tọa là vị trí quan trọng nhất trong thế này là nằm trong vực tài vị và có còn ẩn ý nào không trong cách bố trí này?, sẽ tiếp tục trong các bài khác. (Hiện nay có các tác giả khuyên bảo quay mặt Cụ Khiết vào trong nhà để nhả tiền cho gia chủ, ý này hoàn toàn không đúng). Một bộ bàn thờ sẽ bao gồm nhiều thứ khác như 2 nến, ngũ quả, bình hoa, và nhiêu thứ khác liên quan trong khi rước vào thời xa xưa có thể gồm bát âm, người rước… chúng ta tham khảo sơ đồ của Huynh Dienbatn và sẽ phân tích một cách hợp lý ở những bài sau. Như đã phân tích ở trên ta thấy lư hương đã có vòng tròn âm dương (không có 2 chấm nhỏ) và đông tiền giữa chân Cụ cũng là một biểu tượng âm dương (chưa kể đồng tiền trên miệng cũng sẽ được suy luận tiếp) thì biểu tượng vòng tròn âm dương lửa trên đầu Cụ Khiết có cần thiết không?. Về mặt khách quan thì Cụ Khiết đang là “Thần chủ” được thờ phụng cho nên vòng âm dương có thể có, tuy nhiên thực tế ở khắp nơi ta rất ít thấy xuất hiện nó trực tiếp trên “Thần chủ”. Mặt khác các bộ phận cơ thể chỉ tiềm ẩn ý nghĩa sâu xa chứ không lộ hẳn ra như vòng tròn âm dương, ngoài trừ 3 chân là trường hợp đặc biệt của mật ngữ. Cho nên thực sự là không cần thiết, đặc biệt nó cũng không thay đổi lưng là Phương Nam do độ số 7 của chòm sao Đại Hùng Tinh. Các motip hiện nay phần nhiều không thấy vòng tròn âm dương lửa trên đầu Cụ Khiết rất là khách quan. Hoangnt nhận: - Đồng tiền âm dương giữa chân đã mang ý nghĩa tên Cụ. - Vòng tròn âm dương lửa lư hương mang ý nghĩa tương ứng với song long tranh châu và ý nghĩa này xảy ra thời thuyết âm dương ra đời tức là sẽ phải có ý nghĩa nào đấy (sẽ bàn sau). Kết luận bỏ vòng tròn âm dương lửa trên đầu Cụ Khiết. Như vậy chỉ còn đồng tiền trên miệng Cụ là thay thế được ý nghĩa vị trí này, một vị trí tiêu biểu ở nơi cao nhất. Chúng ta lại tiếp tục quán xét mối tương quan giữa bài vị - câu đối - lư hương có ý nghĩa gì. Bài vị: Hổ sinh nhất kim, ngũ hành chúng trân quý Địa trưởng vạn vật, tứ quý ca bình vinh. Câu đối: Thổ năng sinh bạch ngọc (bên phải Cụ nhìn ra) Địa khả xuất hoàng kim (bên trái Cụ nhin ra). Như vậy khả năng Cụ Khiết được chế tạo bằng chất liệu thổ như vậy có thể bằng đá, đất nung hoặc ngọc, dự kiến này khác với trước đây là bằng gỗ như vậy có mâu thuẫn?... vậy khả năng logic là bằng gỗ dùng cho dân gian và ngọc cho triều đình, tuy nhiên cho tới tận ngày nay chưa phát hiện món đồ cổ nào như vậy (kể cả bằng kim loại vàng, bạc, đồng, gỗ…) do đó khả dĩ mật ngữ chỉ ra nó là biểu tượng đầu tiên khi đã hoàn chỉnh và được tổ chức trong một buổi rước/ cúng ban đầu. Ta cũng chú ý thấy bài vị nói về Thần chủ còn câu đối nói các vấn đê liên quan, trong đó Hổ tương ứng Địa, Địa tương ứng thổ có ẩn ý gì? Và rõ ràng Thổ có ý quan trọng nhất. Chúng ta biết hoàng kim màu ĐỎ, bạch ngọc màu TRẮNG, hổ thuộc quái Cấn/ Địa màu XANH LÁ CÂY và lư hương đồng màu VÀNG, bốn màu nay tạo vào tương sinh vậy trung tâm sẽ là màu ĐEN hành thủy, tức là Cụ Khiết có khả năng màu đen. Kế hợp với Ngọc – Màu đen ta thấy phi logic vì hắc ngọc có thể không có, tuy nhiên ngọc có các màu khác có thể xem xét ở hành thủy tương đương, tức tạm xem đó là ngọc thạch giống loại ngọc tốt vùng Lục yên Yên bái hay ở Tàu bây giờ được bày bán rất nhiều, có màu rất sậm xanh đen. Đấy là lý do Cụ Khiết có tên hay gọi trong dân gian là Cụ Cóc tía. http://phongthuyhoc.com/ Từ đây ta sẽ xem là đang phân tích biểu mẫu Cụ Khiết đầu tiên và ở trong buổi tổ chức cuộc rước lần đầu tiên trong lịch sử với mục tiêu xác định được ngay cả thời điểm lịch sử mà Cụ Khiết ra đời. Ta tiếp tục đi sâu về ý nghĩa khác như số lượng nốt trần trên lưng, kích thước, trọng lượng (mẫu đầu tiên trong lịch sử được chế tác) và ý nghĩa của đồng tiền trên miệng Chụ Khiết ở các bài tiếp theo.
-
THỜI GIAN PHẢI CHĂNG CHỈ LÀ MỘT ẢO TƯỞNG? Craig Callender, Cao Chi biên dịch Tạp chí Tia Sáng 11:04' AM - Thứ ba, 03/08/2010 Nhiều thập kỷ qua các nhà vật lý và các triết gia không ngừng suy nghĩ về vấn đề thời gian. Thời gian có tồn tại độc lập hay không? Tại sao thời gian lại phải có nhiều tính chất khác nhau thay đổi từ cơ học cổ điển Newton đến lý thuyết tương đối Einstein rồi lý thuyết lượng tử. GS triết gia Craig Callender trình bày một cách nhìn mới mẻ về thời gian: thời gian chỉ là một phương thức thuận tiện để đo đạc các quá trình trong vũ trụ.Thời gian không tồn tại độc lập, chúng ta chỉ cảm nhận được thời gian vì chúng ta là một hệ con bị ràng buộc với các hệ con khác trong vũ trụ bởi nhiều mối liên quan. Thời gian được ví như tiền tệ vốn chỉ là một phương tiện giao dịch, thuận tiện hơn phương thức trao đổi trực tiếp bằng hiện vật. Bài báo của Craig Callender [1] có thể đem lại nhiều tia sáng mới cho vật lý và triết học trong vấn đề thời gian. Các khái niệm về thời gian và sự thay đổi của thời gian có thể đột sinh từ một vũ trụ mà về cơ bản là phi thời gian tính. Thời diểm hiện tại được cảm nhận là đặc biệt, hiện tại là hiện thực. Song khi bạn hồi tưởng lại quá khứ hay suy tưởng về tương lai, bạn vẫn đang sống trong hiện tại. Lẽ dĩ nhiên thời quãng bạn đọc những dòng chữ này không kéo dài lâu. Nói cách khác ta cảm thấy thời gian đang chảy nhưng thực tế là hiện tại đang liên tục cập nhật. Chúng ta có một cảm nhận trực giác về sự định hình của quá khứ và sự hình thành của tương lai chỉ khi nào hiện tại xuất hiện. Các phương trình vật lý không nói cho chúng ta biết những sự kiện nào đang xảy (điều này trông giống một bản đồ mà không ghi rõ “bạn đang ở nơi nào”). Như vậy thời gian hiện tại không có mặt trong các phương trình do đó cũng không có dòng chảy của thời gian. Thời gian không tồn tại độc lập song là một phương thức mô tả mối quan hệ giữa các đối tượng. Ý tưởng đó đã dẫn họa sĩ Keith Peters đến bức tranh trên trong đó nhiều đường vòng chạy quấn quanh đối tượng này sang đối tượng khác. Sự cách biệt trong suy nghĩ thông thường của chúng ta và cách hiểu thời gian trong khoa học đã làm bối rối nhiều nhà tư tưởng suốt thời gian lịch sử. Nhiều nhà vật lý lý thuyết tin rằng thời gian không tồn tại. Ý tưởng thời gian không tồn tại quả là rất khó hiểu đối với trực giác. Mọi việc chúng ta làm dường như đều thực hiện trong thời gian. Một lý thuyết không có thời gian phải đương đầu với việc giải thích vì sao chúng ta thấy mọi sự thay đổi nếu quả thật trong vũ trụ không có thời gian. Mặc dầu thời gian không tồn tại ở mức cơ bản song thời gian có thể xuất hiện ở những mức cao hơn - hoàn toàn giống như một cái bàn trông như một vật rắn mặc dầu được cấu tạo bởi một tập các hạt kết với nhau trong một không gian gần như trống rỗng. Như vậy tính rắn là một tính tập thể, nói cách khác là một sự đột sinh (emergent) từ tập của các hạt. Tương tự như vậy thời gian chính là một tính chất đột sinh bất kể đối với các thành phần nào của vũ trụ. Khái niệm về sự đột sinh của thời gian là một thế cách mạng biểu diễn sự phát triển của lý thuyết tương đối và cơ học lượng tử. Các nhà vật lý lý thuyết khi đeo đuổi mộng tưởng thống nhất đều xem vấn đề thời gian là vấn đề cơ bản. Họ nghĩ rằng một lý thuyết thống nhất phải là một lý thuyết không có thời gian, và cho rằng nếu không đi sâu vào tìm hiểu thời gian thì khó lòng xây dựng được lý thuyết thống nhất. Sự xuất hiện và biến đi của thời gian Thời gian đã đảm đương nhiều công việc trong vật lý song các công việc đó có thể càng ngày càng biến mất đi. Thời gian cổ điển Chúng ta sẽ lấy làm lạ khi các định luật chuyển động của Isaac Newton đòi hỏi thời gian phải có nhiều tính chất rất đặc biệt. Mọi người quan sát đều công nhận tính kế tiếp của nhiều sự kiện, trong vật lý cổ điển chúng ta có thể nói rằng một sự kiện này xảy ra trước, sau hay đồng thời với một sự kiện khác. Như thế thời gian cung cấp một phương tiện để xếp đặt thứ tự của các sự kiện. Tính đồng thời của hai sự kiện là một điều tuyệt đối độc lập với mọi người quan sát. Hơn nữa thời gian phải liên tục bởi vì có như thế thì chúng ta mới định nghĩa được vận tốc và gia tốc. Thời gian cổ điển đòi hỏi khái niệm thời quãng (duration)-mà các nhà vật lý gọi là metric-như thế chúng ta có thể xác định được khoảng cách giữa hai sự kiện trong thời gian. Cũng giống như thứ tự các sự kiện, thời quãng giữa hai sự kiện là một yếu tố độc lập với mọi người quan sát. Như vậy về thực chất Newton đòi hỏi rằng vũ trụ song hành với sự tồn tại một đồng hồ chủ (master clock). Chiếc đồng hồ này phân vũ trụ thành nhiều thời điểm và vật lý Newton chỉ lắng nghe tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ này mà thôi. Newton cảm nhận dòng chảy thời gian và đồng thời cảm nhận hướng chảy của thời gian đó về tương lai, mặc dầu những tính chất bổ sung này của thời gian không bị đòi hỏi bởi các định luật Newton. Thời gian Newton giống như chiếc mũ cũ của chúng ta song một phút suy nghĩ cho chúng ta thấy những điều lạ lùng. Các tính chất của thời gian: thứ tự (order), liên tục (continuity), thời quãng (duration), tính đồng thời (simultaneity), dòng chảy (flow) và mũi tên thời gian (arrow of the time) đều kết dính với đồng hồ chủ mà Newton gọi là “thời gian”. Toàn thể những tính chất này không thay đổi suốt trong gần hai thế kỷ. Mũi tên thời gian Sau đó những tính chất này bị nhiều cuộc tấn công vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế ký 20. Cuộc tấn công đầu tiên là từ phía nhà vật lý người Áo Ludwig Boltzman: nếu các định luật Newton là đúng cho cả hai chiều của thời gian thì sẽ không có mũi tên thời gian (luôn hướng về tương lai). Thay vì vào đó Boltzman cho rằng hướng mũi tên thời gian không phải là một tính chất nội tại của thời gian mà xuất phát từ tính bất đối xứng của vật chất hình thành trong vũ trụ. Boltzman đã loại được một tính chất của thời gian Newton một cách thuyết phục. Thời gian trong lý thuyết tương đối Tiếp theo là cuộc tấn công của Einstein về ý tưởng đồng thời (simultaneity) tuyệt đối: theo lý thuyết tương đối thì sự đồng thời còn phụ thuộc vào chúng ta chuyển động như thế nào. Sân khấu chính thức của các sự kiện không phải là thời gian mà cũng không phải là không gian mà là đa tạp tích hợp: không-thời gian. Hai quan sát viên chuyển động với hai vận tốc khác nhau không thể đồng ý với nhau rằng một sự cố nào đó xảy ra lúc nào và ở đâu song họ có thể đồng ý với nhau rằng sự cố đó đã xảy ra tại tọa độ nào trong không-thời gian. Hình 1. Một quả bóng chuyển động và đập vào một bức tường nằm trong một khối tạo nên một không-thời gian. Có hai cách cắt lát không-thời gian. A / Trong cách thứ nhất (cách thông thường) ta cắt không- thời gian (cắt ngang ) theo từng thời điểm tạo nên một cuốn phim mô tả chuyển động của quả bóng Mỗi khung ảnh dẫn đến khung ảnh tiếp sau theo đúng các định luật vật lý. B / Nếu dùng phép cắt lát thứ hai (cắt dọc) không theo hướng quá khứ tương lai mà theo hướng từ trái sang phải. Mỗi lát cắt vừa là một phần không gian vừa là một phần thời gian. Bên trái bức tường quả bóng xuất hiện ở hai vị trí còn bên phải bức tường quả bóng không xuất hiện. Một điều tồi tệ nữa lại xảy ra năm 1915 khi Einstein xây dựng xong lý thuyết tương đối tổng quát thống nhất lý thuyết tương đối hẹp với lực hấp dẫn. Hấp dẫn đã làm cong thời gian và như thế thời quãng một giây ở đây không giống thời quãng một giây ở nơi khác. Ta khó lòng nói được một sự kiện này xảy ra trước hay sau một sự kiện khác. Mặc dầu nhiều nhà vật lý cho rằng một lý thuyết thống nhất sẽ có thể loại thời gian, thực tế thời gian đã mất đi từ năm 1915. Cắt lát không-thời gian để thấy thời gian có điểm khác biệt với không gian Chúng ta có thể nghĩ rằng sự khác biệt giữa không gian và thời gian gần như biến mất và kịch trường chính thức của các sự kiện là một đa tạp 4 chiều. Lý thuyết tương đối dường như không gian hóa (spatialize) thời gian: biến thời gian thành một chiều của đa tạp đó. Không-thời gian giống như một ổ bánh mì mà chúng ta có thể cắt lát theo nhiều chiều (Hình 1). Ngay cả trong lý thuyết tương đối tổng quát thời gian vẫn giữ một nhiệm vụ khác biệt để giúp phân biệt hai khái niệm “ đồng dạng thời gian” (timelike) và “đồng dạng không gian” (spacelike). Các sự kiện đồng dạng thời gian là những sự kiện nối liền nhau bởi nguyên lý nhân quả: tồn tại những vật thể hoặc ánh sáng có thể đi từ sự kiện này đến sự kiện kia để gây nên nhân quả. Các sự kiện đồng dạng không gian là những sự kiện không có dính dáng gì với nhau về nhân quả: không tồn tại những vật thể hoặc ánh sáng có thể đi kịp từ sự kiện này đến sự kiện kia để đảm bảo được nguyên lý nhân quả. A/ Hãy cắt lát không thời gian thành từng lát cắt từ quá khứ đến tương lai: mỗi lát cắt là một không gian 3 - chiều tại một thời điểm. Tổng các lát cắt đó làm thành không-thời gian 4-chiều. B/ Song nếu ta cắt theo một kiểu khác theo hướng Đông Tây thì mỗi lát cắt 3-chiều lại là một hỗn hợp lạ lùng của các sự kiện đồng dạng không gian và các sự kiện đồng dạng thời gian. Hai cách cắt lát này giống như cách ta cắt một ổ bánh mì theo chiều thẳng đứng hoặc theo chiều nằm ngang. Cách cắt lát thứ nhất cho những hình ảnh không gian tại những thời điểm kế tiếp của thời gian. Cách cắt lát thứ hai không có một hình ảnh tương tự nào: nó tương ứng với cách cắt không thời gian không phải từ quá khứ đến tương lai mà từ phía Đông sang phía Tây. Ví dụ của một lát cắt này là bức tường phía bắc của nhà bạn cộng với những điều gì sẽ xảy ra trong tương lai trên bức tường đó và từ phép cắt đó bạn có thể áp dụng những quy luật vật lý để tái lập các phần còn lại của cái nhà. Thời gian lượng tử Một mục đích tối thượng của vật lý là thống nhất lý thuyết tương đối rộng với lý thuyết lượng tử để tạo nên một lý thuyết duy nhất: lý thuyết lượng tử của hấp dẫn. Ta gặp thêm nhiều rắc rối: lý thuyết lượng tử nói rằng các vật thể có nhiều cách hành xử khác với trong vật lý cổ điển ví như vận tốc và vị trí. Sự mô tả của một vật thể phải được thực hiện nhờ một hàm sóng biểu diễn trạng thái. Trạng thái này tiến triển liên tục theo thời gian và nhờ đó các nhà vật lý có thể tính được xác suất của điều gì sẽ xảy ra trong tương lai. Những điều này lại cho phép thời gian có những tính chất mới [2]. Thứ nhất thời gian lại cho phép những nghịch lý xảy ra với những xác suất nhất định. Vậy thời gian cho phép sự tồn tại các nghịch lý. Thứ hai tùy theo thứ tự các phép đo mà chúng ta có thể thu được những kết quả khác nhau. Thứ ba cơ học lượng tử dẫn đến hiện tượng liên đới lượng tử (quantum entanglement). Từ đó có hiện tượng ma quái tác dụng từ xa (“spooky action at a distance”) trong nghịch lý ERP (Einstein, Rosen & Podolsky). Như vậy theo Einstein phải tồn tại đồng hồ chủ mà chính lý thuyết tương đối của ông ngăn cấm. Các nhà lý thuyết mong muốn loại bỏ thời gian khi xây dựng một lý thuyết thống nhất nhưng lại bối rối vì vai trò quan trọng của thời gian trong lý thuyết lượng tử: đó chính là nguồn gốc khó khăn trong quá trình hình thành một lý thuyết thống nhất. Vậy thời gian đi đâu? Như chúng ta biết có nhiều phương án thống nhất lý thuyết hấp dẫn với lý thuyết lượng tử: Lý thuyết Dây (String theory), CDT (Causal Dynamical Triangulation ), Hình học không Giao hoán (Non Commutative geometry), LQG (Loop Quantum Gravity)...[3]. Các phương án này được phân chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất lấy lượng tử làm cơ sở như trong lý thuyết dây LTD (còn có thời gian), nhóm thứ hai muốn xuất phát từ lý thuyết hấp dẫn (có thể thời gian bị loại). Thực tế sự khác biệt giữa hai nhóm này rất mờ. Các nhà LTD đang tìm cách loại bỏ thời gian. Hình 2a. Bên trái hình vẽ ta dùng thời gian để đo tốc độ ánh sáng, nhịp đập của quả tim và vận tốc quay của một hành tinh và thu được theo thứ tự: 300.000 km/giây,73 nhịp đập/phút, 1vòng quay/ngày. Bên phải hình vẽ ta không dùng đến thời gian nữa và lấy một nhịp đập của trái tim làm đơn vị thì thu được theo thứ tự: 240.000 km/nhịp đập, 1 nhịp đập và 108.000 nhịp đập/1 vòng quay. Hình 2b. Bên trái hình vẽ ta dùng đồng USD để tính giá trị của một cốc cà phê, 1 đôi giày và một chiếc ô tô đã qua sử dụng và thu được theo thứ tự: 2USD, 100USD và 2000 USD. Bên phải hình vẽ lấy giá trị một cốc cà phê làm đơn vị ta thu được theo thứ tự: 1 cốc cà phê,50 cốc cà phê / 1 đôi giày và 1000 cốc cà phê/một chiếc ô tô đã qua sử dụng. Vào những năm 1950, 1960 khi John Wheeler và Bryce DeWitt tìm cách viết những phương trình Einstein dưới dạng giống như những phương trình của QED (Quantum Electrodynamics-Điện động lực học Lượng tử) cốt để sử dụng những phương pháp lượng tử hóa quen thuộc của QED thì họ đã đi đến một kết quả hết sức bất ngờ: phương trình bây giờ được gọi là phương trình Wheeler-DeWitt hoàn toàn không chứa thời gian. Ký hiệu t biểu diễn thời gian đã bị loại mất. Điều này đã làm bối rối các nhà vật lý trong nhiều thập kỷ. Sao mà thời gian lại biến mất? Song nhìn lại ta thấy điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Như đã nói ở trên thời gian đã gần như biến mất từ lý thuyết tương đối tổng quát trước cả lúc các nhà vật lý có ý định thống nhất với lý thuyết lượng tử. Nếu nói một cách tường minh hơn thì thời gian không tồn tại. Carlo Rovelli (Đại học Marseille, Pháp) cùng với nhà vật lý người Anh Julian Barbour đã tìm cách viết lại lý thuyết lượng tử trong một khuôn khổ không chứa thời gian như lý thuyết tương đối đòi hỏi. Ý tưởng chính của hai tác giả là: nếu không tồn tại một thời gian tổng thể (global time) thì chúng ta cần nối liền một hệ thống vật lý này với một hệ thống vật lý khác. Thay vì theo dõi tóc trên đầu bạn đã bạc đi như thế nào theo thời gian bạn có thể nối liền quá trình bạc tóc của bạn với quỹ đạo của vệ tinh. Thời gian trở nên thừa. Mọi sự thay đổi có thể mô tả không cần thời gian. (xem hình 2a,2b). Tương tự như vậy tiền tệ thuận tiện hơn là trao đổi hiện vật khi phải thanh toán một cốc cà phê: thời gian thuận tiện trong việc nối liền một hệ thống vật lý này với một hệ thống vật lý khác ví như quá trình bạc tóc với quỹ đạo vệ tinh. Và thời gian quả là một ảo giác thuận tiện hơn bất cứ điều gì trong vũ trụ như đồng tiền trong cuộc sống thường nhật. Song nếu loại bỏ thời gian thì chúng ta phải tư duy lại lý thuyết lượng tử.Phục hồi thời gian Một câu hỏi cấp bách là nếu chấp nhận hấp dẫn lượng tử thì phải giải thích vì sao vũ trụ dường như có thời gian? Ngay lý thuyết tương đối rộng khi hấp dẫn yếu và vận tốc nhỏ cũng có nhiều mẫu con thời gian mà tổng thể là một thời gian tựa Newton. Barbour & Rovelli còn gợi ý rằng thời gian (hay ít nhất ảo tưởng về thời gian) có thể xuất hiện từ điều không có gì cả (nothingness). Năm 1931 nhà vật lý người Anh Nevill F.Mott xét sự va chạm của một hạt nhân helium với một nguyên tử. Ông phân hệ thành hai hệ con và sử dụng hạt nhân helium như một “đồng hồ” đối với nguyên tử còn lại. Điều đáng chú ý là nguyên tử xét tương đối với hạt nhân helium tuân theo một phương trình chuẩn phụ thuộc thời gian của lý thuyết lượng tử song ở đây một hàm số của không gian đóng vai trò của thời gian. Tuy rằng toàn hệ là không phụ thuộc thời gian song các hệ con lại phụ thuộc. Như vậy trong toàn hệ thời gian đã ẩn núp trong các hệ con (Hình 2a,2b). Toàn vũ trụ có thể không có thời gian song hãy tưởng tượng vũ trụ bị phân chia thành nhiều hệ con thì một số hệ con lại đóng vai trò “đồng hồ” cho các hệ con khác. Chúng ta cảm nhận thời gian chỉ vì chúng ta theo bản chất là một hệ con. Nhà triết học Pháp Maurice Merleau-Ponty nói rằng thời gian bản thân thực tế không chảy và sở dĩ ta cảm nhận dòng chảy của thời gian vì “ta đã lén đặt vào dòng sông một chứng nhân của dòng chảy”. Như vậy khuynh hướng tin rằng thời gian đang chảy là hệ quả của việc quên mất rằng chúng ta là một hệ con với các mối liên hệ với vũ trụ trong bức tranh chung. Merleau-Ponty đã nói về những trải nghiệm chủ quan của chúng ta về thời gian và đến bây giờ thì chúng ta phải đoán nhận được rằng thời gian khách quan có thể giải thích được như là hệ quả của những mối quan hệ giữa các hệ con của vũ trụ. Thời gian chỉ tồn tại bằng cách phân chia vũ trụ thành những hệ con và tìm ra các mối quan hệ giữa chúng. Trong bức tranh đó thời gian vật lý đột sinh từ việc chúng ta nhận thức bản thân như một hệ tách rời với mọi thực thể khác. Kết luận Vậy thời gian là không tồn tại độc lập. Ta cảm nhận dòng chảy của thời gian chỉ vì ta là một hệ con có nhiều mối quan hệ với các hệ con khác trong vũ trụ. Cách nhìn mới mẻ này có thể giúp các nhà vật lý trong việc xây dựng một lý thuyết thống nhất hấp dẫn và lượng tử và các nhà triết học trong việc xây dựng một nhận thức luận mới đối với không-thời gian và vật chất của thế giới khách quan. --------------------------------------------------- Tài liệu tham khảo [1] Craig Callender, Is time an illusion? Scientific American, tháng 6/ 2010. [2] Cao Chi, Cơ Học Lượng Tử: từ quan điểm Einstein đến quan điểm tương quan, KHTQ số tháng 9 / 2008. [3] Bạn đọc có thể tìm thấy các lý thuyết này trong “Kỷ yếu Max Planck 2009” (Cao Chi , Tồn tại chăng một lý thuyết của tất cả) Nguồn: Tạp chí Tia Sáng
-
Chào Nhật Tâm. Thế kỷ 20 Einstein đã phỏng đoán một vũ trị 10 chiều. Đến khi hình thành thuyết String (sau này hợp thành M-Theory: hình thành từ đúng 5 thuyết String) Thuyết này dự đoán vũ trụ 11 chiều. Theo các bác học thì phải định nghĩa lại chiều là gì? thì mới có 10 chiều được. Thực tế ta thấy, cảm nhận và định nghĩa được thông qua hệ giác quan và thiết bị khoa học. Thuyết âm dưỡng ngũ hành theo Hoangnt hiểu là sự vận động tuần hoàn của 'thế giới vật chất' trong không gian và theo thời gian, như vậy vẫn đang tồn tại 4 chiều mà thôi, tuy nhiên nếu ta định nghĩa được 'Chiều cho vật chất' thì tổng số sẽ là N chiều. Thân mến.
-
Chào Nhật Tâm. Thanks nhiều, bài viết rất hay. Mối tương quan giữa vật lý thiên văn hiện đại và lý học Đông phương đã sắp rõ nét, ánh sáng cuối đường hầm đã thấy. Lời tiên tri của Bà Vangan sắp có thể đoán được ở đoạn sau. Hoangnt
-
Để tiếp tục theo dõi và hiểu rõ, đề nghị các bạn nên tham khảo các sách của Tác giả Thiên Sứ: "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam", "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại", "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp"; "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt"…làm chính yếu và nó như chiếc chìa khóa mở ra nên tri thức Phương Đông và các sách liên quan. Như vậy Thần tài Cụ Khiết sẽ được lập bàn thờ riêng biệt, sẽ được bố trí tại vị trí tài vị của căn phòng và được thờ cúng hàng ngày. Việc không dùng khám thờ mà chỉ dùng đôn gỗ tròn ở trường hợp không thờ cúng mà chỉ bố trí hợp cách, tuy nhiên nếu hiểu nên quay trở về trường hợp gốc trước đây. Từ đây dể dàng thấy rằng chúng ta không thể xoay Cụ như chong chóng được. Ta thấy thực tế tại bàn thờ của Cụ Khiết sẽ có các trường hợp khách quan như có bài vị hoặc có bài vị và câu đối. Như vậy trường hợp nào sẽ là sắp xếp hợp lý. Có hai bài vị thực tế thường gặp: Ngũ phương ngũ hổ long thần Tiền hậu địa chủ thần tài hoặc Hổ sinh nhất kim, ngũ hành chúng trân quý Địa trưởng vạn vật, tứ quý ca bình vinh. Bài vị trên nội dùng đề cập rõ ràng tới địa chủ thần tài và long thần ta dễ dàng thấy không hợp lý vì đơn giản là thần tài chứ không phải long thần, và chỉ duy nhất thần tài mà thôi. Bài vị sau lại không rõ ràng do nó không thấy đề cập thần tài, tuy nhiên ta tạm thời chấp nhận và sẽ tiếp tục liên kết với các nội dung khác ở các phần phân tích sau. Chỉ còn lại câu đối Thổ năng sinh bạch ngọc Địa khả xuất hoàng kim tức: Đất hay sinh ngọc trắng Đất khá có vàng ròng. Cũng không thấy nói về thần tài cụ thể ta cũng tạm chấp nhận và sẽ xử lý như trên khi thích hợp. Ta thấy Thần tài Cụ khiết đã được thơ phụng một cách trang trọng và nghiêm cung theo các phong tục tập quán người Việt, do vậy việc quan niệm Bàn thờ thần tài chỉ được ở nơi xó xỉnh, góc nhà, chứ không phải sạch đẹp như bàn thờ tổ tiên hay Thổ công xuất phát từ điển tích xưa là hoàn toàn không hợp lý, điều này chỉ có thể dự đoán là đã bị Hán hóa sao cho dân ta hiểu sai lạc mục đích và triết lý của người Việt xưa nhằm gây thêm một tác nhân cho dân ta không thể giàu mạnh trong hơn 1000 năm cai trị vô cùng khốc liệt và bạo tàn của chúng, nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã đau đớn: Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu. Một trăm năm đô hộ giặc Tây. Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Gia tài của Mẹ, một rừng xương khô. Gia tài của Mẹ, một núi đầy mồ. Suy ngẫm lại biểu tượng Thần tài Cụ Khiết ta thấy ngoài ý nghĩa mong ước chiêu tài thi đó phải là triết là làm giàu, tiền có ý nghĩa như một chiếc chìa khóa vạn năng giải quyết được nhiều việc và lẽ tất nhiên dân giàu thì đất nước sẽ hùng mạnh. Quay lại lịch sử thời Hùng Vương ta thấy trải dài hơn 2000 năm đất nước hòa bình, an vui trong sự lãnh đạo của 18 chi vua Hùng, lý giải điều này xuất phát từ các nguyên nhân cốt lõi nào mà có kết quả như vậy, Hoangnt tạm đưa ra ý kiến nhưng xin không luận bàn: - Quốc gia đã có học thuyết âm dương ngũ hành và kinh dịch, đạo đức kinh tức có nền văn minh cao cấp (so với thời cuộc) xin xem nội dung trong các sách nêu trên trên. - Có đạo nào đó làm quốc đạo? đây cũng là khía cạnh có thể tiếp tục luận bàn về ý nghĩa cóc 3 chân. - Có tổ chức chính quyền từ trung ương đến địa phương dĩ nhiên khác xa so bây giờ. - Có luật pháp và phương pháp quản trị đất nước trong thời bình và ngay cả thời chiến, xin xem thêm nội dung các sách trên. - Có quân đội mạnh cùng vũ khí hiện đại so với thời bấy giờ (vũ khí có thể chế tạo bằng sắt, nỏ thần bắn nhiều tên…). Có đội thủy quân mạnh phù hợp địa thế sông nước quốc gia, , xin xem thêm nội dung các sách trên. - Văn hóa dùng tiền tệ trao đổi là phổ biến và có triết lý làm giàu từ việc Thờ Thần tài Cụ Khiết. Từ các nội dung trên ta thấy việc chế tạo đồng tiền như trên biểu tượng Cụ Khiết là phù hợp với khách quan thực tế tuy nhiên chưa rõ khoảng thời đại nào. Mặt khác ta cũng thấy kết cấu đồng tiền mang ý nghĩa âm dương, chúng hoàn toàn phù hợp với học thuyết trên khi chế tạo trời tròn, đất vuông (có thể là đồng tiền Vạn Lịch). Đây cũng là một ý khi ta luận bàn về đồng tiền nằm giữa hai chân và đồng tiên ở miệng của Cụ và rõ ràng đồng tiền tròn kim loại đục lỗ vuông là thông dụng (có loại có chữ và không có chữ, loại có chữ chiếm đa số). Trong quá trình phân tích chúng ta còn có thể nhận thấy có gì đặc biệt nữa không? Các số 1, 2, 3, 4, 5, 7, 8, 10 đã xuất hiện trên biểu tượng Cụ Khiết còn số 6 và 9 sẽ nằm ở đâu và các con số này có ý nghĩa, mục đích gì?. Chúng ta thống kê các biểu hiện con số khả dĩ như sau: Số 1: Một đồng tiền ở miệng cụ, Chính Cụ là duy nhất, vòng tròn thái cực trên đầu Cụ… Số 2: 2 chân trước, 2 đồng tiền một ở miệng 1 ở giữa 2 chân, 2 chuỗi đồng tiền trên lưng… Số 3: 3 chân… Số 4: 4 móng là tứ tượng của chân thứ 3 ở sau… Số 5: 5 đồng tiền mây lớp trên, ngũ hành như phân tích… Số 6: ? Số 7: 7 điểm chấm trên lưng Cụ, chòm sao Đại hùng tinh… So8: 8 móng bát quái của 2 chân trước… Số 9: ? Số 10: 10 đồng tiên mây bản đế… 10 con số này chính là số lượng đầy đủ của các con số nằm trong đồ hình Lạc thư và Hà đồ Lạc Việt. Chúng ta quay trở lại đồng tiền có chữ cổ nằm giữa 2 chân trước của Cụ Khiết, theo phân tích của Hoangnt trước đây là không cần, tuy nhiên ta thấy nó phổ biến và tồn tại khách quan trong dân gian kể đã hàng ngàn năm, như vậy cũng cần phải có luận cứ xác đáng hơn khi bác bỏ. Hiện nay có motip không có đồng tiền này mà có vô số đồng tiền cùng với các thỏi vàng, bạc như một ngọn đồi nhỏ (trước đây gọi là ngân lượng). Đồng tiền này có ý nghĩa gì và liên quan đến các con số không? Chính từ câu hỏi này bằng cảm nhận giác quan Hoangnt đã thấy mắt xích của nó khi đang phóng con ngựa sắt (xe máy) trên đường Nguyễn Chí Thanh Quận 10 trong nội thành. Ngay khi giải mã mắt xích số 6 - 9 thì trước mặt đã hiện ra con số 9 màu xanh của đèn tín hiệu giao thông, con ngựa sắt đã không dừng lại giữa ngã tư đường mà phóng vụt qua và một ý tướng khác liên tục chợt nảy sinh là Con đường này đi về hướng nào???... và đây cũng sẽ chính là một mắt xích khác nữa. Nó sẽ được giải quyết sau. Chúng ta thấy nếu có đồng tiền giữa 2 chân trước Cụ Khiết, nếu ta lấy chính nó cộng với 8 móng 2 chân trước và cộng với 5 đồng tiền mây lớp trên thì ta có số 9 và 6. Ý tưởng này có vẻ gượng ép, tuy nhiên ta thấy có khả năng và ta cũng thấy sự tồn tại của nó cũng mang tính khách quan trong các motip đang hiện hữu. Tiếp tục xem xét tính hợp lý, ta thấy đồng tiền này có chữ trên mặt và hiện nay không ai có thể đọc được nó vì quá tối cổ, cũng như vậy ta thấy đồng tiền trên miệng Cụ Khiết cũng có thể có chữ hoặc không có chữ cũng là các trường hợp như nhau. Nhằm giải thích hiện tượng này, ta xem xét nội dung bài viết sau: Linh Vật Cát Tường Phong thủy – Tác giả Khánh Linh biên soạn: Sự đa dạng của tiền cát tường: Tiền cát tường là tiền không phải mua bán, cũng không tham gia lưu thông trên thị trường, mà nó phổ biến là được đúc chữ cát tường và tranh cát tường trên bề mặt, với mục đích mang lại may mắn và, cầu tài lộc cho mọi người. Tiền cát tường có khởi nguồn từ thời Tần Hán, cùng với việc sử dụng và đúc tiên xu dần hình thành và phát triển. Căn cứ vào các tranh cát tường và chữ cát tường không giống nhau nên việc đúc tiền cát tường cũng khác nhau, ngoài ra còn ý tưởng khác nhau nên có thể phân ra: Các tặng phảm kỹ niệm như tiên chúc thọ, tiền khánh lễ, tiền trừ tà bảo vệ sinh mệnh, tiền bát quái, 12 con giáp, tiền bùa chú…, tiền dung để chơi như bói quẻ; tiền làm vậ an táng thường đúc các chữ cát như phúc lộc thọ khang ninh, trường mệnh phú quý, kim bảo, phúc lộc thọ song toàn. Có loại mang chữ trường thọ phú quý trên mặt có hình cây và con hưu, kiểu hồ lô bằng đồng vàng, một mặt của quan tiền có hai chữ thiên và mặt khác là chữ thiềm cung (thiềm: con cóc). Một kiểu tiền một mặt có chữ bách niên trường thọ, mặt khác có chữ phú quý trường cửu. Ta nhận thấy mỗi quốc gia đêu có quốc hiệu, ấn triện; các công ty thì có biểu tượng hay gọi là lô gô và trong tranh ngũ hổ Đông hồ trên hòm ấn có dòng chữ Pháp đại uy nỗ… từ đây ta thấy đồng tiền này là tượng trưng cho Cụ Khiết và kết nối nội dung ở trên thi khả năng đồng tiền có một mặt của quan tiền có hai chữ thiên và mặt khác là chữ thiềm cung (thiềm: con cóc) chính là nó. Đồng tiền này sẽ có hai chữ Thiên ở hai bên và chữ Thiềm cung ở trên dưới. Nội dung trên còn hoàn toàn phù hợp với ý nghĩa nội dung bài thơ dân gian đã được truyền tụng đến mãi tận bây giờ: Con cóc là cậu ông trời Ai mà đánh nó thì trời đánh cho. Nếu giả sử rằng chữ này có thể nằm ở đồng tiền trên miệng Cụ Khiết, nhưng rõ ràng không logic ở chỗ nó không ở một vị trí biểu tượng phù hợp. Như vậy có tồn tại đồng tiền tượng trưng Cụ Khiết và vẫn hiện chưa làm thay đổi tính bất hợp lý ở 10 đồng tiền mây 2 lớp của bản đế biểu tượng. Ta sẽ quay lại vấn đề này sau. Hiện nay trong dân gian ta thấy có các tên gọi phổ biến như thần tài, thiềm thừ, cụ Khiết, cụ cóc, cóc 3 chân, con cóc tàu… tuy nhiên từ đây tên chuẩn dễ hiểu nhất chính là Thần tài Cụ Khiết có nguồn gốc từ Việt Nam, hậu duệ của người Việt cổ. Chúng ta chú ý tại Chủ đề “Luận âm dương” của diễn đàn này, các tao nhân mặc khách có luận chữ “Chính danh” và chính đồng tiền đang bình luận mang ý nghĩa nó chính là khẳng định ‘Cụ cóc Việt’. Thật là tuyệt diệu về ẩn ngữ của cha ông, và sự kỳ vĩ của biểu tượng Cụ Khiết, nó đã vượt xa kỹ quan thế giới Vạn lý trường thành ngay cả chúng ta thấy chạy ngoằn ngoèo từ trên mặt trăng bởi nguồn gốc xuất xuất phát nó chỉ là từ mục đích xây thành ngăn chặn quân Phương Bắc tràn vào như dân tộc Khiết Đan… từ thời Tần Thủy Hoàng cho tới kỳ Nhà Thanh mà thôi, không có gì đặc biệt. Chính trái đất cũng chỉ là hạt bụi trong vũ trụ tuy nhiên nó có ý nghĩa vì có con người và sinh vật khác đang sống ở đây, vấn đề này ta tạm gác lại sẽ luận bàn trong một phần ý nghĩa biểu tượng cụ Khiết ở các phần sau. Còn đồng tiền trên miệng Cụ Khiết ẩn chứa điều gì và nó có liên quan đến đồng tiền tượng trưng kia không, chúng ta sẽ cùng tiếp tục.
-
Trang viết lại bị nhảy rồi, không hiểu sao: Rất cảm ơn Tuấn Dương về việc đã bổ sung thông tin hay: Ở ngoài bắc người ta thường bày ông khiết chung với bàn thờ thần tài -thổ địa Ông khiết được đặt ở vị trí phía tây -lọ hoa đặt tại vị trí phía đông (đông bình -tây cóc ) Trong bài viết về thần tài của chú dienban ,tuấn dương thấy có ghi câu phú này Hổ sinh nhất kim, ngũ hành chúng trân quý Địa trưởng vạn vật, tứ quý ca bình vinh. ... và chúng ta tiếp tục với bài phân tích ý nghĩa biểu tượng Cụ Khiết trong minh triết Việt. Từ phân tích ta thấy chữ TÀI VỊ ăn khớp hoàn toàn với vị trí bố trí THẦN TÀI CỤ KHIẾT trong không gian văn hóa tâm linh của một gia đình. Mặc khác ta cũng thấy một có số ý kiến về việc bố trí giường ngủ gần tài vị nhằm mục đích "Hưởng khí thiêng" là hoàn toàn bất hợp lý. Ngày nay chúng ta thấy bàn thờ thần tài thổ địa thường hướng ra cửa chính, ngoài ra còn có trào lưu đặt Cụ Khiết trước bàn thờ thần tài thổ địa việc này có đúng không? để giải thích vấn đề này như thế nào chúng ta sẽ xem xét khu vực không gian văn hóa tâm linh về thần tài - thổ địa của một gia đình Việt trong các phong tục, tập quá xưa ra sao. Trích dẫn 1 phần ừ cuốn Phong tục tập quán người Việt (2004) của tác giả Vũ Mai Thùy biên soạn: Bàn thờ thần tài là một chiếc khám nhỏ, sơn son thếp vàng hoặc là thùng gỗ dán dấy đỏ xung quanh. Phía trong khám dán bài vị thần tài được viết trên giấy đỏ, mực kim nhũ với nội dung: Ngũ phương ngũ hổ long thần Tiền hậu địa chủ thần tài Hai bên bài vị có câu đối: Thổ năng sinh bạch ngọc Địa khả xuất hoàng kim tức: Đất hay sinh ngọc trắng Đất khá có vàng ròng. Bàn thờ thần tài chỉ được ở nơi xó xỉnh, góc nhà, chứ không phải sạch đẹp như bàn thờ tổ tiên hay Thổ công xuất phát từ điển tích xưa. Từ phần nội dung tóm tắt các ý chính ở trên ta thấy có một số vấn đề sau: - Vị trí bàn thờ Thần tài ở góc nhà rất phù hợp vị trí tài vị như đã đề cập ở trên. - Câu đối: Đất hay sinh bạch ngọc - Đất khá có hoàng kim trông có vẻ nói về đất tốt sinh tài có liên quan đến vị thần Thổ địa nhiều hơn. Như vậy ta thấy chắc sẽ có một mối tương quan nào đấy trong việc bố trí thờ Thần tài và Thổ địa. - Bàn thờ thần tài chỉ được ở nơi xó xỉnh, góc nhà, chứ không phải sạch đẹp như bàn thờ tổ tiên hay Thổ công xuất phát từ điển tích xưa: ta sẽ trở lại sau. Trích dẫn tiếp 1 phần từ cuốn Phong tục tập quán người Việt (2004) của tác giả Vũ Mai Thùy biên soạn: Thổ công: Bàn thờ thờ 3 vị thần Thổ công, Thổ địa và Thổ kỳ. Thổ công trông coi cai quản trong gia đình, Thổ địa trông coi việc nhà, Thổ kỳ trông coi việc bếp núc phụ nữ, hoặc vật sinh sản ở các vật trong đất. Bàn thờ thường đặt gần bàn thờ gia tiên, nếu không có bàn thờ gia tiên thì phải luôn có bàn thờ Thổ công và được đặt giữa nhà. Bài vị của 3 vị thần được lập chung viết: Bản gia đông trù tứ mệnh Táo thủ thần quân. Bản gia long mạch tôn thần. Bản gia ngũ phương ngũ thể phúc chính thần. Quay trở lại bàn thờ Thần tài - Thổ địa có Cụ Khiết 'chầu' phía trước ta nhận thấy có một số nội dung có thể nhận biết như sau: - Cụ Khiết không phải là Thần tài nên mới "chầu" trước bàn thờ Thần tài - Thổ địa: Điều này bất hợp lý vì thực tế khách quan dân gia gọi Cụ Khiết là thần tài. Mặt khác cũng bất hợp lý thần tài lại nhờ Cụ Khiết kiếm tiền về và trợ giúp thân chủ, mang tính trung gian ý nghĩa. Chỉ còn ý nghĩa là Cụ Khiết mang tiền về cho thân chủ là Thần tài trợ giúp lại cũng bất hợp lý khi hình tượng Cụ Khiết hướng về bàn thờ trong tư thế dâng tiền. Như vậy rất không hợp lý. - Nếu Cụ Khiết được xem là thần tài thì sẽ không ở vị trí như vậy và rõ ràng trong một bàn thờ sẽ không có 2 vị thần tài và nằm vị trí xung đột khí giữa 2 vị ngay khi Cụ Khiết hướng ra hay hướng vào. - Như vậy chỉ có một thần tài mà thôi và nếu ta thay vị trí Cụ Khiết và vị trí Thần tài hiện hữu thì sẽ xảy ra tình trạng không cân xứng trong bàn thờ khi quán tưởng, mất tính trang nghiêm. Từ đây ta nhận ra rằng có một sự bất hợp lý giữa việc bố trí Cụ Khiết và bàn thờ Thần tài Thổ địa trong không gian văn hóa tâm linh của một gia đình người Việt tức kết luận phải là sẽ có bàn thờ riêng phù hợp với phong tục tập quán người Việt là bàn thờ Thần tài và Thổ công (bao gồm cả Thổ địa) riêng biệt. Như vậy câu đối trên có thể là cho bàn thờ Thổ công vì nếu gia đình nào không có bàn thờ gia tiên (con thứ) thi bàn thờ Thổ công đặt ở trung tâm nên phải có bài vị / câu đối. Mặt khác ta cũng thấy nội dung vị trí Bàn thờ thần tài chỉ được ở nơi xó xỉnh, góc nhà, chứ không phải sạch đẹp như bàn thờ tổ tiên hay Thổ công xuất phát từ điển tích xưa cho nên việc khó có thể lại đặt bài vị, câu đối. Từ đây việc lý luận để Thần tài Cụ Khiết sẽ tọa trang trọng trên chiếc đôn tròn 3 chân là có vẻ hợp lý và Cụ có một vai trò hết sức quan trọng trong triểt lý sống và cả phát triển xã hội thời bấy giờ, ta tiếp tục phân tích thêm. Quay lại lịch sử thời Hùng Vương ta thấy trải dài hơn 2000 năm đất nước hòa bình, an vui trong sự lãnh đạo của 18 chi vua Hùng, tuy nhiên chưa thấy nhà sử học nào lý giải điều này xuất phát từ các nguyên nhân cốt lõi nào đó trong khi đó khoảng thời gian lịch sử này rất xa xưa, tức là sẽ phải xảy ra rất nhiều các cuộc chiến tranh giành đất đai, lãnh thổ giữa các bộ tộc hoặc quốc gia lẫn nhau. Suy ngẫm lại biểu tượng Thần tài Cụ Khiết ta thấy ngoài ý nghĩa mong ước chiêu tài thi đó phải là triết là làm giàu, tiền có ý nghĩa như một chiếc chìa khóa vạn năng giải quyết được nhiều việc và lẽ tất nhiên dân giàu thì đất nước sẽ hùng mạnh---> sao có chiến tranh?. Ý nghĩa này trùng hợp với lý tưởng ngày nay của người Do Thái, họ là dân tộc có nhiều tỷ phú thế giới nhất hiện nay. Kết luận lại Cụ Khiết sẽ được lập bàn thờ riêng biệt, bố trí ở vị trí tài vị trong căn phòng trang trọng nhất của căn nhà. Giữa các bàn thờ Phật, Gia tiên, Thổ công và Thần tài Cụ Khiết là hòan toàn hợp lý trong tổng mặt bằng thiết kế kiến trúc và phù hợp với các phong tục tập quán người Việt về mặt văn hóa, tâm linh và chúng cũng không hề xảy ra trường hợp xung đột khí nào giữa các bàn thờ trong một không gian bố trí chung. Bài vị và câu đối: Hổ sinh nhất kim, ngũ hành chúng trân quý Địa trưởng vạn vật, tứ quý ca bình vinh. Đất hay sinh ngọc trắng Đất khá có vàng ròng. ... cũng có khả năng liên quan đến biểu tượng Cụ Khiết cụ thể hơn nữa, chúng ta sẽ xem xét chi tiết sau nếu có thể nhận biết. Trong quá trình phân tích chúng ta còn có thể nhận thấy có gì đặc biệt nữa không? Các số 1, 2, 3, 4, 5, 7, 8, 10 đã xuất hiện trên biểu tượng Cụ Khiết còn số 6 và 9 sẽ nằm ở đâu và các con số này có ý nghĩa là gì?. Cùng tiếp tục theo dõi.
-
Rất cảm ơn Tuấn Dương về việc đã bổ sung thông tin hay: Ở ngoài bắc người ta thường bày ông khiết chung với bàn thờ thần tài -thổ địa Ông khiết được đặt ở vị trí phía tây -lọ hoa đặt tại vị trí phía đông (đông bình -tây cóc ) Trong bài viết về thần tài của chú dienban ,tuấn dương thấy có ghi câu phú này Hổ sinh nhất kim, ngũ hành chúng trân quý Địa trưởng vạn vật, tứ quý ca bình vinh. ... và chúng ta tiếp tục với bài phân tích ý nghĩa biểu tượng Cụ Khiết trong minh triết Việt. Từ phân tích ta thấy chữ TÀI VỊ ăn khớp hoàn toàn với vị trí bố trí THẦN TÀI CỤ KHIẾT trong không gian văn hóa tâm linh của một gia đình. Mặc khác ta cũng thấy một có số ý kiến về việc bố trí giường ngủ gần tài vị nhằm mục đích "Hưởng khí thiêng" là hoàn toàn bất hợp lý. Ngày nay chúng ta thấy bàn thờ thần tài thổ địa thường hướng ra cửa chính, ngoài ra còn có trào lưu đặt Cụ Khiết trước bàn thờ thần tài thổ địa việc này có đúng không? để giải thích vấn đề này như thế nào chúng ta sẽ xem xét khu vực không gian văn hóa tâm linh về thần tài - thổ địa của một gia đình Việt trong các phong tục, tập quá xưa là như thế nào. Trích dẫn từ cuốn Phong tục tập quán người Việt (2004) của tác giả Vũ Mai Thùy biên soạn: Bàn thờ thần tài là một chiếc khám nhỏ, sơn son thếp vàng hoặc là thùng gỗ dán dấy đỏ xung quanh. Phía trong khám dán bài vị thần tài được viết trên giấy đỏ, mực kim nhũ với nội dung: Ngũ phương ngũ hổ long thần Tiền hậu địa chủ thần tài Hai bên bài vị có câu đối: Thổ năng sinh bạch ngọc Địa khả xuất hoàng kim tức: Đất hay sinh ngọc trắng Đất khá có vàng ròng. Bàn thờ thần tài chỉ được ở nơi xó xỉnh, góc nhà, chứ không phải sạch đẹp như bàn thờ tổ tiên hay Thổ công xuất phát từ điển tích xưa. Từ phần nội dung tóm tắt các ý chính ở trên ta thấy có một số vấn đề sau: - Vị trí bàn thờ Thần tài ở góc nhà rất phù hợp vị trí tài vị như đã đề cập ở trên. - Câu đối: Đất hay sinh bạch ngọc - Đất khá có hoàng kim trông có vẻ nói về đất tốt sinh tài có liên quan đến vị thần Thổ địa nhiều hơn. Như vậy ta thấy chắc sẽ có một mối tương quan nào đấy trong việc bố trí thờ Thần tài và Thổ địa. - Bàn thờ thần tài chỉ được ở nơi xó xỉnh, góc nhà, chứ không phải sạch đẹp như bàn thờ tổ tiên hay Thổ công xuất phát từ điển tích xưa: ta sẽ trở lại sau. Quay trở lại bàn thờ Thần tài - Thổ địa có Cụ Khiết 'chầu' phía trước ta nhận thấy có một số nội dung có thể nhận biết như sau: - Cụ Khiết không phải là Thần tài nên mới "chầu" trước bàn thờ Thần tài - Thổ địa: Điều này bất hợp lý vì thực tế khách quan dân gia gọi Cụ Khiết là thần tài. Mặt khác cũng bất hợp lý thần tài lại nhờ Cụ Khiết kiếm tiền về và trợ giúp thân chủ, mang tính trung gian ý nghĩa. Chỉ còn ý nghĩa là Cụ Khiết mang tiền về cho thân chủ là Thần tài trợ giúp lại cũng bất hợp lý khi hình tượng Cụ Khiết hướng về bàn thờ trong tư thế dâng tiền. Như vậy rất không hợp lý. - Nếu Cụ Khiết được xem là thần tài thì sẽ không ở ị trí như vậy và rõ ràng trong một bàn thờ sẽ không có 2 vị thần tài và nằm vị trí xung đột khí giữa 2 vị ngay khi Cụ Khiết hướng ra hay hướng vào. - Như vậy chỉ có một thần tài mà thôi và nếu ta thay vị trí Cụ Khiết và vị trí Thần tài hiện hữu thì sẽ xảy ra tình trạng mất cân xứng trong bàn thờ khi quán tưởng, mất tính trang nghiêm. Từ đây ta nhận ra rằng có một sự bất hợp lý giữa việc bố trí Cụ Khiết và bàn thờ Thần tài Thổ địa trong không gian văn hóa tâm linh của một gia đình người Việt.
-
Hoangnt rất cảm ơn Thầy Thiên Sứ đã góp ý và cũng xin phép được tiếp tục với mạch suy nghĩ về vị trí Cụ Khiết đầu tiên và sẽ quay trở lại các các nội dung này sớm. Như vậy mỗi gia đình khi trang trọng rước Cụ Khiết về thờ phụng thì vấn đề quan tâm nhất là bố trí một nơi nào đấy thích hợp nhất trong căn nhà. Để hiểu rõ chúng ta hình dung căn phòng quan trọng nhất mà mỗi gia đình đều hướng về thì chính là nơi có bàn thờ gia tiên của mình, thông thường bàn thờ gia tiên sẽ bố trí ở phòng khách và tại nơi thích hợp nhất trong phòng vì tủ thờ cũng chiếm một vị trí không gian không nhỏ, cũng như cần phải xem xét tính thuận lợi trong việc đi lại và thờ cúng, thắp hương. Mặt khác kể từ khi Phật giáo được truyền vào nước ta khoảng thế kỷ I trước Công nguyên và hòa nhập vào văn hóa tín ngưỡng bản địa thì việc thờ Phật cũng đã trở thành phổ biến, thể hiện một niềm tin sâu rộng vào Phật pháp và nó đã chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc, hệ quả rõ rệt nhất chính là biểu tượng Phật Hoàng Trần nhân Tông (1258 - 1308) - Người khai sáng dòng thiền Trúc Lâm Yên tử của nước nhà. Như vậy vị trí Thần tài Cụ Khiết sẽ được bố trí nơi đâu?. Suy luận tiếp chúng ta thấy nếu một gia đình không theo Phật giáo thì chỉ có bàn thờ gia tiên còn nếu theo thì bàn thờ Phật thường sẽ nằm vị trí cao hơn trên bàn thờ gia tiên hoặc không nằm ở vị trí đối diện mà ở phía vách tường vuông góc với hướng bàn thờ gia tiên trong căn phòng. Các vị trí bàn thờ này rõ ràng chuẩn nhất sẽ nằm ở các vị trí tâm của vách tường dựa vào mà không thấy ở góc chéo của căn phong so với cửa chính mà hay gọi là phương tài vị, như vậy nơi Cụ Khiết tọa sẽ không thể ở các vị trí bàn thờ này và rõ ràng sẽ là một trong các nơi: vị trí tài vị hoặc vị trí khác theo lý luận Phong thủy. Thông thường trong các sách phong thủy hiện nay đều khuyên bảo rằng vị trí tài vị nên bố trí tranh ảnh nói đều tốt, cây xanh, bàn thờ... và thậm chí cả giường ngủ gần đấy nhằm mục đích tiếp khí tốt, điều này trông có vẻ hợp lý nhưng thực sự là chưa rõ ràng. Mặt khác một số sách còn nói vị trí tài vị cũng tương tự như trên trong các phòng ngủ nhằm bố trí giường ngủ cho hợp cách, từ đây chúng ta thấy có mâu thuẫn nội tại lẫn nhau, chính là chữ Tài Vị. Tài vị tức nghĩa vị trí trí có khả năng chiêu tài (dĩ nhiên có một số quy tắc trong phong thủy) cho nên nói vị trí tốt của phòng ngủ là tài vị thì hoàn toàn mâu thuẫn. Giả sử tại vị trí tài vị ta bố trí các phương thức nào đấy có khả năng chiêu tài trông có vẻ hợp lý nhưng thực sự cũng chưa logic vì sẽ có bao nhiêu gia đình sẽ được các phong thủy sư chỉ bảo?. như vậy vị trí tài vị phải là nơi bố trí phương pháp chiêu tài phổ biến và thuận lợi nhất cho mọi người, mọi gia đình. Từ đây ta thấy chữ TÀI VỊ sẽ phải ăn khớp hoàn toàn với vị trí bố trí THẦN TÀI CỤ KHIẾT. Như vậy tài vị là ngôn từ xuất phát từ người Việt trong các phương pháp phong thủy Lạc Việt nguyên bản. Ta thấy rất hợp lý, vị trí Cụ khiết sẽ nằm ở tài vị và hoàn toàn không tạo ra 'xung đột khí' giữa các bàn thờ trong một căn phòng và các bàn thờ đều hoàn toàn sẽ ở các nơi trang trọng nhất của một gia đình. Hiện nay một số phòng thờ đã được dời lên lầu cao do chúng ta đủ sức xây dựng các căn nhà hiện đại tuy nhiên so với vị trí bàn thở ở phòng khách tầng trệt trước đây chúng hoàn toàn bất lợi hơn ví dụ không thuận tiện cho bà con, họ hàng đến thắp hương hoặc khách quen, bạn hữu quán tưởng người quá cố bằng một nén nhang khi tới thăm hoặc bất chợp gợi nhớ. Ngày nay chúng ta thấy bàn thờ thần tài thổ địa thường hướng ra cửa chính, ngoài ra còn có trào lưu đặt Cụ Khiết trước bàn thờ thần tài thổ địa việc này có đúng không? sẽ được bàn tiếp. Thân mến.
-
Chào Tuấn Dương. Rõ ràng điểm nhấn 'Miệng Cụ Khiết ngậm đồng tiền vàng' là nổi trội nhất trên biểu tượng của Cụ thông qua thị giác, tuy nhiên để giải thích một cách có cơ sở lý luận thì là một vấn đề rất hay và thực sự là rất phức tạp chứ không đơn giản đâu. Phương pháp đo cảm xạ ngày nay sử dụng các thiết bị hiện đại cho kết quả cụ thể về các số liệu nào đấy nhưng vào thời xa xưa thì không thể biết mà chỉ có thể cảm nhận trực tiếp thông qua khả năng của các thầy phong thủy, nhà ngoại cảm, các bậc tu luyện khí công, pháp môn... Do đó ta thấy đây chính là điểm mắt xích chính yếu và và cũng là nơi giao thoa giữa các tri thức lý học Đông phương và hiện đại. Kết quả khả năng chiêu tài từ việc gia chủ tin tưởng vào biểu tượng Cụ Khiết là một thực tế khách quan đã được chứng minh qua một khoảng thời gian rất dài kể từ khi người Việt sáng tạo ra biểu tượng Cụ Khiết, đó là hệ quả của sự áp dụng thực tiễn từ học thuyết âm dương ngũ hành và các phương pháp Phong thủy Lạc Việt nguyên bản. Vấn đề Cụ Khiết mở miệng chỉ là hình tượng hóa mà thôi và việc xoay trở Cụ Khiết nhằm mục tiêu tiếp cận năng lượng tốt thực ra theo Hoangnt không phải là thực tế lắm và việc khả năng tích trữ và dồn nén năng lượng cũng chỉ là một dự đoán khả năng. Như vậy để giải thích hợp lý thì chắc chắn phải là một cao nhân siêu đẳng về lý học Phương Đông và các phương pháp phong thủy ứng dụng, chưa kể có kiến thức rộng về tri thức khoa học hiện đại để lý giải toàn bộ vấn đề này. Nếu cần thiết sẽ phải thí nghiệm như trên vê mức độ bức xạ tích lũy và các thông số khác...? Nhưng có một yếu tố dễ thấy đó là Cụ Khiết như là một 'Nhân tố trung gian' giống pháp khí phong thủy nhằm chuyển đổi các trạng thái âm dương ngũ hành có lợi cho gia đình (trạch chủ) đáp ứng mục đích chiêu tài của người Việt xưa. Vấn đề này Hoangnt sẽ viết tiếp trong các bài tiếp theo ngay sau vì hiện đang suy nghĩ, chắc chắn vấn đề mà Tuấn Dương đưa ra chính là điểm trọng yếu nhất nhưng trước đó ta phải giải quyết các vấn đề khác như sau: - Đồng tiền rời hay gắn chặt vào miệng Cụ Khiết. - Kiểu đồng tiền thuộc thời đại nào tức có thể tương ứng thời gian phát minh. - Kết cấu đồng tiền gốc là kim loại hay gỗ, đá... - Cụ Khiết xoay hay không xoay. - Vị trí nào đặt Cụ Khiết... Thân ái
-
SAY... Em gia trong thơ vị thuốc Không ai dám uống đủ liều Chỉ có một người gan nhất Cuối đường còn đổ liêu xiêu. Hàn Chung
-
Đà Lạt Đà Lạt hoa vừa nở trong hồn anh sớm nay Đà Lạt thông còn mọc chờ anh sau ngàn cây Chiều đã từng than thở nơi xanh xao hồ đầy rừng vẫn nghe thông trúc Tuyền Lâm theo gió mây Lên núi gặp Thiền viện vào rừng hóa thông reo Trúc Lâm mong gặp Phật hiện lên trong ráng chiều Mây bồ đề rủ xuống trong tâm người hành hương gió bồ đề đến nhắc trong hồi kinh luân thường Đà Lạt như vừa ngủ giữa núi đồi bình yên Đà Lạt như còn thức dưới mưa dài bao đêm Đà Lạt bao dốc phố quanh co trong sương đầy chờ ta hoa cúc tím trong sương nghe hao gầy Nguyễn Việt Chiến
-
Chào Lee Rain Chưa được đến Đà Lạt bao giờ nhưng cũng nghe qua sách báo & em thấy nơi này rất đẹp. Dĩ nhiên là rất đẹp. Hãy chiêm nghiệm "Cái Sướng của Niềm tin và sự Vĩnh cửu" của đoạn thơ này: Lên núi gặp Thiền viện vào rừng hóa thông reo Trúc Lâm mong gặp Phật hiện lên trong ráng chiều Mây bồ đề rủ xuống trong tâm người hành hương gió bồ đề đến nhắc trong hồi kinh luân thường
-
Bùi Giáng trong “cõi người ta” Ý NHI Buồn vui như thể thân mình Ai chia nửa máu, ai giành nửa xương Đó là những buồn vui của Bùi Giáng – nỗi buồn của khốc liệt, bi thảm của một thân phận khác thường, của một ngưòi “chịu cuồng si để sáng suốt”, “chịu đui mù mà thỏa dạ yêu em”. Người ta biết đến Bùi Giáng bởi những khảo luận văn học như những cuốn viết về Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Lục Vân Tiên… Những cuốn khảo luận triết học như Tư Tưởng Hiện Đại, Tư Tưởng Hiện Đại & Hiedegger, những tác phẩm chuyển ngữ tuyệt vời như Cõi Người Ta, Hoàng Tử Bé, Khung Cửa Hẹp, Mùi Hương Xuân Sắc…Nhưng người ta yêu thơ ông hơn cả. Mỗi khi đọc những câu thơ hay của Bùi Giáng tôi lại nhớ đến tiếng đàn “bốn dây rõ máu năm đầu ngón tay” của Thúy Kiều, bởi những câu thơ được chắt ra từ máu của con người khắc khoải khôn nguôi về thân phận con người, về thế gian này. Ít ai trong số các nhà thơ Việt Nam hiện đại lại viết nhiều về trần gian như ông. Lúc thì nguyện “yêu trần gian nguyên vẹn”, lúc thì “sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi”, lúc khác là: Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy Đời chúng ta là mấy trăng tròn Yêu thiết tha cõi trần gian, nhiều khi ông nhìn trời đất như đứa bé. Ông hỏi sông: “Ngàn mây về cuối mãi trời xa. Nước có bằng lòng đứng đợi ta”. Ông bập bẹ: “Trần gian do cánh bướm cánh chuồn chuồn. Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại. Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn”. Ông kêu lên thảng thốt: “Ồ gót chân, anh đứng ngó như ngây”. Ông òa khóc không gìn giữ: “Em ra đi đời bưng mặt khóc òa”. Nhưng Bùi Giáng là đứa trẻ biết rằng “Diều đứt dây trẻ cũng cầm bằng”. Thơ ông từ bài này sang bài khác, từ trang này sang trang khác thắm đượm mối âu lo cho “Những nỗi đau về chẳng hẹn giờ”, “Những thân xương máu đã đàng là ủy mị”. Ông là con người: Người kia đứng lại Nghe trời đầy xuống hai vai Gánh nặng đó ông gánh chịu suốt cả cuộc đời đơn độc của mình. Nhiều khi ông đã thốt lên “Đời dại khờ như một giấc chiêm bao”, nhiều khi ông lắng nghe “Mấy đời ly biệt rẽ đau một mình”. Nhiều khi ông van nài “Em ở lại với đời ta em nhé. Em đừng đi cho ta nắm tay em”… Ý thức sâu xa về sự hữu hạn của kiếp người, của lẽ hợp tan, ông luôn phấp phỏng lo lắng: Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết Sẽ rời xa vĩnh viễn với người thôi Và: Đài vũ trụ hồn chiêm bao rạng tỏ Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi Mỗi cảnh, mỗi vật đều in dấu nỗi phấp phỏng, lo lắng ấy. Nào là “Đường vất vã vó ngựa chồn lỏa đảo”, nào là “Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng”, nào là “Mình cát lạnh chân lạc đà bé bỏng. Bóng hình em tơi tả dưới trăng rằm”, nào là “Ngày đi đổ bóng sau người/ Mộng hờ biết có buồn vui em về”, nào là “Bước ngại ngùng nẻo mộng mấy lần sai”… Giờ thì con người yêu thương, lo lắng cho cõi người ta ấy đã ra đi. Có lẽ trước lúc an nghỉ ông vẫn còn băn khoăn: Còn không một bận quay về Vườn xưa ngó bóng trăng thề vàng gieo Vẫn giữ nguyên lời nhắn gửi hay là niềm mong ước của ông: Em sẽ khóc khi nhìn trong khóe mắt Thấy một mình người đi lại lang thang Còn ghi giữ ân tình trong cỏ nhặt Múa vi vu vì hẹn với trăng ngàn. Ý NHI SG 9. 10. 1998
-
Múa vi vu vì hẹn với trăng ngàn. Lời của câu thơ này do đánh máy lỗi ở trong các trang website đã được trích dẫn, nội dung đúng với di cảo sẽ phải là: Mưa vi vu vì hẹn với truông ngàn.
-
Sorry các bạn không hiểu sao server lại tự động không save mà nhảy ra khỏi trang viết: Trong quá trình phân tích ở các bài trên chúng ta nhận thấy rằng giữa một hình tượng trên biểu tượng Cụ Khiết mà ta thấy bằng mắt thường thì sẽ tương ứng với một số nội dung ý nghĩa ẩn chứa trong đó, ví dụ chuỗi dây ngù xâu 12 đồng tiền sẽ đại diện thập nhị địa chi và râu của Cụ. Điều này chỉ ra đây là một quy tắc bất dịch khi chế tác biểu tượng Cụ Khiết của người xưa. Tuy nhiên trong các nội dung phân tích ta còn thấy hơi phân vân tại hình tượng đặc trưng cho ý nghĩa ngũ hành, Hoangnt trích lại một phần nội dung đã phân tích trước đó như sau: Ta thấy biểu tượng vòng âm dương đã có như vậy biểu tượng của ngũ hành phải được chỉ ra ở đâu đó. Trên mình cụ Khiết ta thấy đã có hành Kim (đồng tiền, màu vàng); Cụ Khiết thường đặt trên nền đất trong phòng hay có thể xem xét phù hợp với hành Thổ (sống trên trái đất); Biểu tượng lửa xung quanh vòng âm dương giống như các lư hương thờ điều này chứng minh cụ Khiết được thờ phụng trong gia đình do vậy phải có lư hương để cắm, đây chính là hành Hỏa; hành Mộc rõ ràng thuận tiện và phổ biến cho dân gian sử dụng chính là Cụ Khiết sẽ được làm bằng gỗ (gỗ mít màu nâu sậm: tương ứng phù hợp với đồ phòng thờ như nhà từ đường, câu đối...); Như vậy hành Thủy còn lại khó đặc trưng nhất điều này chỉ có thể được thể là hướng thông qua Hướng Bắc mà thôi. Cùng với sự phân tích chọn lựa kết cấu bố trí 10 đồng tiền mây đại diện cho thập thiên can ta thấy phương án có 2 lớp 5 đồng tiền nói trên là hợp lý nhất, lẽ dĩ nhiên các nghệ nhân sẽ chế tác các đường viền kết nối giữa các đồng tiền sao cho có cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát nhưng vẫn cho ta cảm giác giữ nguyên ý nghĩa đúng về nó. Chúng ta chú ý như sau 5 đồng tiền ở lớp trên dễ thấy nhất và chính là số 5 tức tiềm ẩn chỉ ra ngũ hành cùng kèm theo ý nghĩa phân tích ở trên. Ngoài ra ta thấy số 5 này và số 10 đồng tiền cũng còn chỉ ra số đặc trưng cho Hành Thổ tức là tấm bản đế vững vàng mà Cụ Khiết đang ngồi ở trên. Ngoài ra khi suy luận việc bỏ đồng tiền giữa 2 chân trước Cụ cũng chưa thuyết phục, chúng ta xem lại mặt nghiêng mô hình: Chúng ta thấy nếu mất đi đồng tiền này thì biểu tượng thực sự ấn tượng và rất kiêu hãnh do mất đi cảm giác tương quan khi nhìn giữa đồng tiền nhô ra ở bên trên và bên dưới, nó gợi cho ta hình bóng chú sói xám to lớn dứng trên đỉnh gió hú, cao cổ tru lên từng hồi như gọi bóng trăng đêm của các câu chuyện mà nhà văn nổi tiếng thế giới người Mỹ Jack London đã sáng tác. Sau khi phân tích, ta thấy các nội dung ý nghĩa trong biểu tượng Cụ Khiết thực sự là hợp lý và hoàn hảo tuy nhiên trong tất cả các nội dung nói trên phải có một nội dung nào đó nổi trội nhất. Suy ngẫm kỹ ta thấy đó chính là nơi Cụ Khiết ngậm đồng tiền vàng, theo như học giả Thiên Sứ xác nhận là có một nguồn xung lực cực mạnh tích lũy nơi miệng của Cụ, từ đây ta thấy có một số vấn đề nảy sinh như sau: - Rõ ràng Thần tài Cụ Khiết là đại diện cho các phương pháp phong thủy Lạc Việt ứng dụng của học thuyết âm dương ngũ hành nhằm mục tiêu kích hoạt chiêu tài từ các phương pháp luận thíc hợp. - Nơi mà bố trí Cụ Khiết rõ ràng sẽ có rất nhiều vị trí trong một tòa nhà. - Mỗi gia đình (trạch mệnh chủ) thì lại ở các hướng tốt xấu khác nhau, mội trường khác nhau... - Chu kỳ vận động có quy luật của tự nhiên thì sẽ thay đổi theo không gian, thời gian. Như vậy việc bố trí nơi Cụ Khiết tọa phải là một lý luận rất chặt chẽ và lý luận này cũng có thể dùng để chứng minh việc thay đổi vị trí TỐN - KHÔN (Tác giả Thiên Sứ đã đã chứng minh trong các cuốn sách đã xuất bản "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam", "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại", "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp"; "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt"...) theo thực tế là hợp lý mà không cần thu thập, tổng hợp chứng cứ thực tế theo thởi gian ghi nhận. Tức là chứng minh đối với hai quái mệnh trên thì nơi bố trí Cụ Khiết sẽ nhận được xung lượng lớn nhất tương ứng so với trong bất kỳ nơi nào của tòa nhà là đúng. Từ điểm nhấn đã phân tích ở trên ta tiếp tục suy ngẫm thêm thì thấy rằng có một sự thống nhất xuyên suốt từ các ý nghĩa tổng thể lý luận cho đến thực tế chi tiết đó là tính quy luật bao trùm thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ đây biểu tượng Cụ Khiết cũng là thêm một bằng chứng nữa chỉ ra nguồn gốc Kinh dịch được sáng tác bởi người Việt Nam. Thân mến.