hoangnt

Hội viên
  • Số nội dung

    1.909
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    6

Everything posted by hoangnt

  1. Trích bài viết tác giả MInh Xuân: Xin bàn vài dòng với các anh. Về từ Cun: người Mường ở Hòa Bình trước cách mạng tháng 8 từng có chế độ lang đạo. Lang lớn nhất gọi là lang Cun. Có thể thấy chữ Cun này là chỉ thủ lĩnh tối cao. Hiện tại ở Hòa Bình còn có dốc Cun, một đèo dốc khá hiểm trở ở gần tỉnh lỵ Hòa Bình. Có thể hiểu dốc này là dốc Vua, hoặc dốc Trời, chỉ sự to lớn và độ cao của nó. Ở đền Thượng Phú Thọ có bức hoành phi "Triệu Cơ vương tích". Nếu dịch theo nghĩa thông thường thì không thể hiểu nổi. Ví dụ sách ở đền Hùng dịch là "Dấu tích nền móng đầu tiên của vua", không sát nghĩa vì từ "Triệu" không hề có nghĩa tính từ "đầu tiên". Tôi đã thử giải thích hoành phi này có nghĩa là "Dấu tích vua chúa họ Cơ", với từ Triệu = Chúa. Đây chính là một vết tích còn ghi lại được rằng đất Phong Châu xưa là đô thành của họ Cơ, tức là nhà Chu. Đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa có câu đối: Chiêu lăng tùng bách kim hà xứ Thục quốc sơn hà tự cố cung Câu này cho thấy đền An Dương Vương được gọi là "Chiêu lăng", Chiêu là Châu, là Chu. Điều này phù hợp với nhận định An Dương Vương là vua Chu (vua Chủ) ở Cổ Loa. Có thể thấy không phải ở Việt Nam không còn dấu tích gì (kể cả bằng văn tự) về thời đại Châu Chu này. Vấn đề là cách hiểu của chúng ta đối với các tư liệu này mà thôi. Khả năng có phải nhà Triệu (Triều Đà chăng).?
  2. Câu trên mới chỉ là một vế của câu đối, còn một vế nữa cơ, cũng nhắc lịch sử cổ đại đã ứng nghiệm , và tương lai sắp tới sẽ ứng nghiệm thật tuyệt vời cho dân tộc Việt Nam. Bác Lãn Miên có thể cho vế câu đối còn thiếu không? để mọi người cùng tham khảo. Cảm ơn.
  3. Chào Bác Vô Trước. Các nhà khoa học hiện nay quan niệm linh hồn như thế này, và do đó, họ không thể nào hiểu được linh hồn. Dù họ có tiến bộ thêm 1000 năm nữa trong nghiên cứu bộ não hay sinh học nói chung mà không thay đổi quan niệm này thì cũng không đạt được kết quả gì trong nghiên cứu thế giới tâm linh, thậm chí chỉ thụt lùi mà thôi! Bác có thể nói sơ qua lý luận cách tiếp cận "Linh hồn" qua học thuyết ADNH không?. để mọi người cùng mở rộng quan niệm.
  4. Chúng ta tham khảo bài viết cuối về Thăng Long thành: ĐI TÌM THĂNG LONG THÀNH. 30 Đăng ngày: 18:17 02-08-2008 Thư mục: CÁC BÀI NGHIÊN CỨU của dienbatn Bây giờ chúng ta chỉ cần điểm lại những gì cổ sử đã viết về các thành cổ trên đất Thăng Long - Hà Nội ngày nay , chúng ta sẽ có một cái nhìn tổng quát về sự dịch chuyển tâm của các thành đó trong suốt 1.000 năm Lịch sử . Chúng ta sẽ khảo sát từng thành cổ một , chủ yếu vẫn là Đại La thành và THĂNG LONG THÀNH vì mục đích của bài viết chúng tôi đã đặt ra như thế . 1/ VỊ TRÍ CỦA LA THÀNH QUA CỔ SỬ : Trong phần này , chúng tôi sẽ cố gắng vẽ lại bản đồ và sự dịch chuyển của La Thành ( hay Đại La thành ) qua các tư liệu cổ sử đã trích dẫn . * " Giáp Thìn, [824], (Đường Mục Tông Hằng, Trường Khánh năm thứ 4). Mùa đông, tháng 11, Lý Nguyên Gia thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay. (Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi, có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ. Đến đời Hàm Thông [860-874], Cao Biền đắp thêm La Thành, đúng như lời người ấy. Lại xét: Phủ thành đô hộ trước đó ở ngoài thành Đông Quan ngày nay, gọi là La Thành, sau Cao Biền đắp thành hiện nay, thành bên ngoài cũng gọi là La Thành). " * " Đại-La Thành-Lộ : xưa là nước Giao-Chỉ, đời nhà Hán để như cũ, nhà Đường đặt làm An-nam đô-hộ-phủ, thành phủ ở tại phía tây bờ sông Lư-Giang; Trương-Bá-Nghi đời Đường bắt đầu xây thành ấy, Trương-Chu, Cao-Biền tiếp-tục sửa sang đắp thêm. Trong thời Chân-Tông nhà Tống, Lý-Công-Uẩn người quận ấy, kiến-quốc tại đây. Đến nhà Trần nối theo nhà Lý lấy đất ấy đạt thêm ba phủ nữa: Long- Hưng, Thiên-Trường và Trường-An. " *" Trương-Châu Nguyên trước làm An-nam kinh-lược phán-quan, đến đời vua Hiến-Tông, năm Nguyên-Hoà thứ 3 (808), đổi làm chức Đô-hộ Kinh-lược sứ. Quan Kinh-Lược trước là Trương-Bá-Nghi đắp thành Đại-La, thành chỉ cao hai trượng hai thước, mở ba cửa, cửa đều có lầu; đông tây mỗi phía đều có ba cửa, phía nam 5 cửa, trên cửa đặt trống còi, trong thành, hai bên tả hữu, đều cất 10 dinh. Thời Bùi-Thái, hai thành Hoan, Ái, bị Hoàn-Vương (tức vua Chiêm Thành) đánh phá tan tành, Trương-Châu cho sửa đắp lại. " * " Cao Biền đắp lại thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch. Thành ấy bốn mặt dài hơn 1982 trượng linh 5 thước, cao hai trượng linh 6 thước, đắp một đường đê bao bọc ở ngoài dài hơn 2125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dày 2 thượng. Trong thành cho dân sự làm nhà hơn 40 vạn nóc (?). * " Dời Đô Về Thăng Long Thành. Thái-tổ thấy đất Hoa-lư chật hẹp không có thể mở-mang ra làm chỗ đô-hội được, bèn định dời đô về Lathành. Tháng 7 năm Thuận-thiên nguyên-niên (1010), thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La-thành, Thái-tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại-la thành là Thăng-long thành, tức là thành Hà-nội bây giờ. Cải Hoa-lư làm trường-an phủ và Cổ-pháp làm Thiên-đức phủ. " * " Vào năm thứ 2 niên hiệu Trường Khánh (năm Nhâm Dần- 822- ND) vua Mục Tông6 nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy gần cửa thành có dòng nước chảy ngược mới sợ rằng người trong châu đa số sẽ sinh chuyện phản trắc. Nhân đó mới bói quẻ, xem cái thành hiện tại ấy như thế nào. Lúc bấy giờ, có cái thành nhỏ vừa mới đắp. Người xem bói, xem tướng nói rằng sức ông không đủ để bồi đắp cái thành lớn, 50 năm sau sẻ có người họ Cao đóng đô ở đấy mà xây dựng vương phủ. Đến khoảng niên hiệu Hàm Thông (841- 873-ND) đời vua Ý Tông nhà Đường, Cao Biền đắp thêm La Thành. " * " Cao Biền đắp La Thành chu vi dài 1980 trượng linh năm thước, cao 2 trượng 6 thước. Chân thành rộng 2 trượng 6 thước. Bốn thành có nữ tường3 cao 5 thước 5 tấc. Địch lâu 55 sở. Môn lâu 5 cái. Ủng môn (cửa tò vò) 6 cái. Ngòi nước 3 cái. Đường bộ (?) 34 đường lại đắp chu vi dài 2125 trượng 8 thước, cao một trượng 5 thước. Chân đê rộng 3 trượng xây cất nhà cửa hơn 5000 căn. " ( Đơn vị đo lường ngày xưa linh bốn thước, 1 trượng có mười thước ta. Bức tường nhỏ xây cơi thêm trên cái thành lớn gọi là nữ tường. Cái lầu xây trên thành để nhìn xem quân địch có đến không gọi là địch lâu. Môn Lâu: cái lầu xây trên cái cửa ra vào. Ủng Môn: Ủng (có sách phiên Úng) là cái vò còn gọi là cái ui làm bằng đất nung dùng để đựng nước, rượu v.v... Môn là cửa. Dùng những cái vò sắp chồng lên ở hai bên, giữa chừa khoảng trống làm cửa ra vào gọi là Ủng Môn. ) MỘT VÀI NHẬN XÉT CỦA CHÚNG TÔI ( Lâm Khang và dienbatn ) . 1/ Theo các tài liệu về cổ sử cho thấy , La Thành hầu như không có thay đổi gì nhiều về hình dạng kích thước từ khi xây dựng . Ngoại trừ một lần lùi sâu vào trong 75 thước để tránh nước lụt ( Năm Ất Dậu (năm 1165- ND) là năm Chánh Long Bảo Ứng thứ 3: Dời thành Đại La, phía cửa triều đông lùi sâu vào 75 thước. Xây cửa bằng gạch và đá để tránh sự xói mòn của nước sông. ) . 2/ Chùa Một cột ( DIÊN HỰU ) không có sự thay đổi vị trí trong suốt quá trình Lịch sử . Điều này hơi khác vời kiến giải của NSH BÙI THIẾT . 3/ Kinh thành Thăng Long đã bị cháy hoặc bị tàn phá gần như hoàn toàn nhiều lần . Mỗi lần xây dựng lại đều có sự thay đổi về kết cấu , tên công trình và quy mô xây dựng . 4/ Có một dòng sông chưa rõ tên chảy qua Kinh Thành Thăng Long , con sông này đi qua vườn Bách thảo hiện nay , qua khu vực Khảo cổ 18 Hoàng Diệu ... có lẽ là sông Ngọc Hà ??? 5/ Kinh thành Thăng Long qua các đời có sự dịch chuyển về mặt địa lý , nhưng luôn lấy bờ sông Tô Lịch làm một ranh giới thiên nhiên . 6/ Thăng Long thành luôn nằm trong lòng của thành Đại La và trong Kinh thành Thăng Long luôn có một vòng thành nữa là Cung thành ( hay Cấm thành , Tử Cấm thành ) . Như vậy luôn có 3 vòng thành , bên ngoài là Đại La thành , trong là Kinh thành Thăng long và vòng cuối cùng là Cung thành ( hay Cấm thành , Tử Cấm thành ) . THÀNH ĐẠI LA : Thành Đại La là lũy đất bao quanh bốn phía ngoài Đô thành . Nay vùng đất toàn bộ huyện Hoàn Long đều là di chỉ cũ của thành Đại La . Thành do Trương Bá Nghi , Đô hộ An Nam khởi công xây đắp vào năm Đại Lịch 2 ( 767 ) đời Đường . Sau các viên quan Đô hộ Triệu Xương , Trương Chu , Lý Nguyên Gia kế tiếp bồi đắp . Năm Hàm Thông 7 ( 866) nhà Đường , Cao Biền làm Đô hộ mới đắp to thêm , chu vi 1982 trượng 5 thước , thân thành cao 2 trượng 9 thước , chân thành rộng 2 trượng 5 thước , tường "con gái " cao 5 thước 5 tấc , có 55 lầu canh . Năm Thuận Thiên 1 triều Lý 9 1010 ) , Lý Cao Tổ ngắm nhìn bản đồ mà nói rằng : '" Thành Đại La cũ của Cao Biền có thế rồng cuốn hổ ngồi " , bèn ra lệnh bồi đắp thêm và dời Đô tới đóng tại đó . Tháng 11 năm Hồng Đức 21 ( 1490 ) đời Lê , lại đắp mở rộng thêm 8 dặm , bên trong làm vườn cây, nuôi thú . Tháng 8 ( năm sau ) hoàn thành . Năm Quang Hưng 11 ( 1588 ) triều Lê , nhà Mạc ra lệnh cho dân ở 4 trấn đắp thêm 3 lớp lũy đất , bắt đầu từ phường Nhật Chiêu , qua Hồ Tây , Cầu Giấy đến Thanh Trì , áp sát phía Tây Bắc sông Nhị Hà . Thân lũy cao hơn Kinh thành 3 trượng , rộng 25 trượng , đào 3 lớp hào để phòng thủ . Năm thứ 15 ( 1592 ) Trịnh Tùng đánh chiếm Đô thành , sai quân phá hủy vài nghìn trượng hào lũy . Tháng 8 năm Cảnh Hưng 10 ( 1749 ) đời Lê , xem xét địa thế trong thành , sai dân ở các huyện ven thành ra sức bồi đắp thành đất , mở 8 cửa , mỗi cửa đặt 2 ô gác ở hai bên trái và phải , cắt lính canh giữ đề phòng lúc khẩn cấp . Xét : Việc đắp thành Đại La bắt đầu từ năm Đại Lịch nhà Đường , tới nay đã 1135 năm . Lúc đầu do quan Đô hộ mở phủ , bởi lo sợ dân chúng sinh lòng chống đối , mới đắp thêm để phòng ngự bên ngoài tấn công vào . Thế rồi các triều đại kế tiếp nhau đóng Đô ở đó , dựa theo địa hình mà đắp thành để bảo vệ chốn Thần kinh . Nhưng đâu có biết đạo của bậc Đế Vương xưa nay , việc phòng thủ là ở các vùng lân cận xung quanh , chứ đâu chỉ khư khư giữ gìn trong vòng thành Đại La nhỏ bé . Nay đất nước thống nhất , bốn phía hào lũy san phẳng . Ngôi thành cao ngút tầng mây ngày xưa nay đã thành đường bằng lát đá . Điều đó chẳng đúng như câu nói : " Chớ có cậy vào thành trì mà cho là bền vững " đó sao ? 1/ HỒNG ĐỨC BẢN ĐỒ . 2/ DẤU VẾT LA THÀNH NGÀY NAY . 3/ LÝ GIẢI VÒNG NGOÀI LA THÀNH TRÊN HỒNG ĐỨC BẢN ĐỒ . 1/ Theo các tài liệu về cổ sử cho thấy , La Thành hầu như không có thay đổi gì nhiều về hình dạng kích thước từ khi xây dựng . Ngoại trừ một lần lùi sâu vào trong 75 thước để tránh nước lụt ( Năm Ất Dậu (năm 1165- ND) là năm Chánh Long Bảo Ứng thứ 3: Dời thành Đại La, phía cửa triều đông lùi sâu vào 75 thước. Xây cửa bằng gạch và đá để tránh sự xói mòn của nước sông. ) Theo các cổ sử để lại , ta thấy , lúc đầu thành Đại La cũng chỉ là một cái thành nhỏ đóng ở ngay bờ sông Tô Lịch . Việc Trương Bá Nghi thấy trước cửa thành có dòng nước ngược , sợ dân chúng làm phản nên chuyển thành đi sang vị trí khác , cũng chỉ xoay qua lại hai bên bờ sông Tô Lịch . Ta xem lại những gì cổ sử đã viết về vấn đề này . * " Giáp Thìn, [824], (Đường Mục Tông Hằng, Trường Khánh năm thứ 4). Mùa đông, tháng 11, Lý Nguyên Gia thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay. (Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi, có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ. Đến đời Hàm Thông [860-874], Cao Biền đắp thêm La Thành, đúng như lời người ấy. Lại xét: Phủ thành đô hộ trước đó ở ngoài thành Đông Quan ngày nay, gọi là La Thành, sau Cao Biền đắp thành hiện nay, thành bên ngoài cũng gọi là La Thành). " * " Quý Mùi, [863], (Đường Hàm Thông năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Ngọ, quân Nam Chiếu đánh chiếm phủ thành, tả hữu của Tập [11b] đều chết hết. Tập chạy bộ, cố sức đánh, người trúng mười mũi tên, muốn xuống thuyền của giám quân nhưng thuyền đã đi xa bờ, bèn nhảy xuống biển chết, cả nhà 70 người. Liêu thuộc là Phàn Xước đem ấn tín binh phù của Tập sang sông trước, được thoát. Tướng sĩ các châu Kinh Nam, Giang Tây, Ngạc, Nhạc, Tương, hơn 4 trăm người chạy đến phía đông thành giáp sông. Ngu hầu Kinh Nam là bọn Nguyên Duy Đức bảo quân sĩ rằng: "Bọn ta không có thuyền, xuống nước tất chết, chi bằng lại quay về thành đánh nhau với người Man, một người của ta đổi lấy hai người Man, cũng có lợi". Bèn trở lại thành, vào cửa Đông La (tức là cửa đông La Thành An Nam). Người Man không phòng bị, bọn Duy Đức tung quân đánh, giết quân Man hơn 2 nghìn người. Đến đêm, tướng Man là Dương Tư Tấn từ trong tử thành (tức thành nhỏ ở trong thành) đem quân ra cứu, bọn Duy Đức đều chết cả. " * " Bính Tuất, [866], (Đường Hàm Thông năm thứ 7). ...Cao Biền giữ phủ xưng vương, đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao15a] 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ tường nhỏ trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đường bộ 34 sở. Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian. " " Kinh-Lược-Chiêu-Thảo-Sứ là Trương-Bá-Nghi đắp La-Thành tại An-nam, công trình chưa xong, đến năm Nguyên-Hoà thứ 3 (808), đô hộ là Trương-Chu đắp tiếp thêm mới hoàn công. Lâm-Tư nói rằng: La-Thành chu-vi 2000 bước, tốn hết 25 vạn công. " Quan Kinh-Lược trước là Trương-Bá-Nghi đắp thành Đại-La, thành chỉ cao hai trượng hai thước, mở ba cửa, cửa đều có lầu; đông tây mỗi phía đều có ba cửa, phía nam 5 cửa, trên cửa đặt trống còi, trong thành, hai bên tả hữu, đều cất 10 dinh. Thời Bùi-Thái, hai thành Hoan, Ái, bị Hoàn-Vương (tức vua Chiêm Thành) đánh phá tan tành, Trương-Châu cho sửa đắp lại. " * " Cao Biền đắp lại thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch. Thành ấy bốn mặt dài hơn 1982 trượng linh 5 thước, cao hai trượng linh 6 thước, đắp một đường đê bao bọc ở ngoài dài hơn 2125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dày 2 thượng. Trong thành cho dân sự làm nhà hơn 40 vạn nóc (?). * " Dời Đô Về Thăng Long Thành. Thái-tổ thấy đất Hoa-lư chật hẹp không có thể mở-mang ra làm chỗ đô-hội được, bèn định dời đô về Lathành. Tháng 7 năm Thuận-thiên nguyên-niên (1010), thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La-thành, Thái-tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại-la thành là Thăng-long thành, tức là thành Hà-nội bây giờ. Cải Hoa-lư làm trường-an phủ và Cổ-pháp làm Thiên-đức phủ. " * " năm thứ 2 niên hiệu Đại Lịch (năm Đinh Tỵ-767-ND) đời vua Đại Tông nhà Đường, Trương Bá nghi xây lại La Thành. Đến năm thứ 3 (năm Mậu Thân- 768-ND) thì đổi lại là An Nam đô hộ phủ. * " Vào năm thứ 2 niên hiệu Trường Khánh (năm Nhâm Dần- 822- ND) vua Mục Tông6 nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy gần cửa thành có dòng nước chảy ngược mới sợ rằng người trong châu đa số sẽ sinh chuyện phản trắc. Nhân đó mới bói quẻ, xem cái thành hiện tại ấy như thế nào. Lúc bấy giờ, có cái thành nhỏ vừa mới đắp. Người xem bói, xem tướng nói rằng sức ông không đủ để bồi đắp cái thành lớn, 50 năm sau sẻ có người họ Cao đóng đô ở đấy mà xây dựng vương phủ. Đến khoảng niên hiệu Hàm Thông (841- 873-ND) đời vua Ý Tông nhà Đường, Cao Biền đắp thêm La Thành. " * " Cao Biền đắp La Thành chu vi dài 1980 trượng linh năm thước, cao 2 trượng 6 thước. Chân thành rộng 2 trượng 6 thước. Bốn thành có nữ tường3 cao 5 thước 5 tấc. Địch lâu 55 sở. Môn lâu 5 cái. Ủng môn (cửa tò vò) 6 cái. Ngòi nước 3 cái. Đường bộ (?) 34 đường lại đắp chu vi dài 2125 trượng 8 thước, cao một trượng 5 thước. Chân đê rộng 3 trượng xây cất nhà cửa hơn 5000 căn. " ( Đơn vị đo lường ngày xưa linh bốn thước, 1 trượng có mười thước ta. Bức tường nhỏ xây cơi thêm trên cái thành lớn gọi là nữ tường. Cái lầu xây trên thành để nhìn xem quân địch có đến không gọi là địch lâu. Môn Lâu: cái lầu xây trên cái cửa ra vào. Ủng Môn: Ủng (có sách phiên Úng) là cái vò còn gọi là cái ui làm bằng đất nung dùng để đựng nước, rượu v.v... Môn là cửa. Dùng những cái vò sắp chồng lên ở hai bên, giữa chừa khoảng trống làm cửa ra vào gọi là Ủng Môn. ) THÀNH ĐẠI LA : Tức là thành đất nằm ngoài thành Thăng Long ngày nay . Chu vi 7768 tầm ( 1 tầm = 8 thước ) , thành mở ra 21 cửa ô . Từ đời Đường , năm thứ 2 niên hiệu Đại Lịch ( 767 ) , Trương Bá Nghi bắt đầu đắp thành này , về sau Triệu Xương và Trương Tiết bồi đắp thêm . Vào đời Vua Đường Y Tông , Cao Biền sang giữ chức Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ , đặt phủ trị ở đó , lại mở rộng thêm thành . Lý Thái Tổ , năm đầu hiệu Thuận Thiên ( 1010 ) từ Hoa Lư dời đô về đây , Ông đã cho đắp thành đất cả bốn phía . Các đời Vua Trần và Vua Lê đều đóng đô ở đây . Nơi đặt cung điện thành trì chính là tỉnh thành hiện nay . Vọng cung và công sảnh đều ở đây . Trên cổng Vọng cung khắc hai chữ " Đoan Môn " . Đây là di tích triều Lý , nay cũng thế . THÀNH ĐẠI LA : Thành Đại La là lũy đất bao quanh bốn phía ngoài Đô thành . Nay vùng đất toàn bộ huyện Hoàn Long đều là di chỉ cũ của thành Đại La . Thành do Trương Bá Nghi , Đô hộ An Nam khởi công xây đắp vào năm Đại Lịch 2 ( 767 ) đời Đường . Sau các viên quan Đô hộ Triệu Xương , Trương Chu , Lý Nguyên Gia kế tiếp bồi đắp . Năm Hàm Thông 7 ( 866) nhà Đường , Cao Biền làm Đô hộ mới đắp to thêm , chu vi 1982 trượng 5 thước , thân thành cao 2 trượng 9 thước , chân thành rộng 2 trượng 5 thước , tường "con gái " cao 5 thước 5 tấc , có 55 lầu canh . Năm Thuận Thiên 1 triều Lý 9 1010 ) , Lý Cao Tổ ngắm nhìn bản đồ mà nói rằng : '" Thành Đại La cũ của Cao Biền có thế rồng cuốn hổ ngồi " , bèn ra lệnh bồi đắp thêm và dời Đô tới đóng tại đó . Tháng 11 năm Hồng Đức 21 ( 1490 ) đời Lê , lại đắp mở rộng thêm 8 dặm , bên trong làm vườn cây, nuôi thú . Tháng 8 ( năm sau ) hoàn thành . Năm Quang Hưng 11 ( 1588 ) triều Lê , nhà Mạc ra lệnh cho dân ở 4 trấn đắp thêm 3 lớp lũy đất , bắt đầu từ phường Nhật Chiêu , qua Hồ Tây , Cầu Giấy đến Thanh Trì , áp sát phía Tây Bắc sông Nhị Hà . Thân lũy cao hơn Kinh thành 3 trượng , rộng 25 trượng , đào 3 lớp hào để phòng thủ . Năm thứ 15 ( 1592 ) Trịnh Tùng đánh chiếm Đô thành , sai quân phá hủy vài nghìn trượng hào lũy . Tháng 8 năm Cảnh Hưng 10 ( 1749 ) đời Lê , xem xét địa thế trong thành , sai dân ở các huyện ven thành ra sức bồi đắp thành đất , mở 8 cửa , mỗi cửa đặt 2 ô gác ở hai bên trái và phải , cắt lính canh giữ đề phòng lúc khẩn cấp . Xét : Việc đắp thành Đại La bắt đầu từ năm Đại Lịch nhà Đường , tới nay đã 1135 năm . Lúc đầu do quan Đô hộ mở phủ , bởi lo sợ dân chúng sinh lòng chống đối , mới đắp thêm để phòng ngự bên ngoài tấn công vào . Thế rồi các triều đại kế tiếp nhau đóng Đô ở đó , dựa theo địa hình mà đắp thành để bảo vệ chốn Thần kinh . Nhưng đâu có biết đạo của bậc Đế Vương xưa nay , việc phòng thủ là ở các vùng lân cận xung quanh , chứ đâu chỉ khư khư giữ gìn trong vòng thành Đại La nhỏ bé . Nay đất nước thống nhất , bốn phía hào lũy san phẳng . Ngôi thành cao ngút tầng mây ngày xưa nay đã thành đường bằng lát đá . Điều đó chẳng đúng như câu nói : " Chớ có cậy vào thành trì mà cho là bền vững " đó sao ? " Như vậy ta thấy rằng , lúc đầu , quy mô của thành Đại La tương đối nhỏ , sau này , trong quá trình Lịch sử được tiếp tục bồi đắp , nhưng lần xây dựng của Cao Biền là lần xây dựng lớn nhất mà di tích còn tồn tại tới ngày này . Theo những dấu vết còn lại La Thành hay Đại La thành có quy mô rất lớn , chu vi của La Thành khoảng gần 30 Km . Trong suốt chiều dài Lịch sử cả ngàn năm từ thời Cao Biền xây dựng , La Thành hầu như không có sự thay đổi nào đáng kể ( việc này rất khác với số phận của THĂNG LONG THÀNH ) . Như vậy ta thấy rằng tâm điểm của La Thành hầu như không có sự thay đổi trong suốt hơn một nghìn năm qua . DẤU VẾT CỦA LA THÀNH MÔ HÌNH THĂNG LONG - HÀ NỘI THEO Ý CỦA TRẦN QUỐC VƯỢNG. Trong phần này , chúng tôi xin trích một ý kiến của giáo sư TRẦN QUỐC VƯỢNG trong cuốn HÀ NỘI NHƯ TÔI HIỂU , đoạn này mô tả khá kỹ và chính xác địa tầng của ĐẠI LA THÀNH - THĂNG LONG - HÀ NỘI . " Theo ngôn từ quy hoạch dân gian thì Thăng Long - Đông Kinh - Hà Nội cổ là một mảnh đất được bao bọc bởi : Nhị Hà quanh Bắc sang Đông Kim Ngưu , Tô Lịch là sông bên này . Tưởng như không còn lời nào cô xúc và khái quát cho bằng . Loài người ( dân ) bao giờ cũng khôn ngoan hơn mỗi người ( lãnh đạo ) là như vậy đó . Nói theo " Lý thuyết hệ thống " , thời thượng hiện nay , thì 3 sông ấy là hệ trên của một tập hợp các hệ dưới sẽ được trình giải dưới đây . Có thể mô hình hóa và sơ đồ hóa cái hệ thống ấy như sau , gọi là " tam giác châu hà Nội " ., nằm trên một hệ nữa là " tam giác châu Bắc bộ " hay trên " tam giác châu Nhị Hà " . ( xem hình dienbatn mô tả ở trên ) . Lời chua : Có một tam giác nhỏ đồng dạng với một tam giác lớn , đó là Hồ Tây . Ba cạnh của tam giác nhỏ được viền bởi Nhị Hà - Thiên Phù - Tô Lịch với một cự ly rất nhỏ . Nếu không có đê và trong mùa lũ thì thấy ngay Hồ Tây xưa chỉ là một khúc uốn của Nhị Hà và Thiên Phù - Tô Lịch ( đoạn Hà Khẩu - Bưởi ) cũng chỉ là Nhị Hà nghĩa rộng , hay sự tạo thành nên chúng là do sông Nhị đổi dòng / bỏ dòng . Khi tạo nên Thiên Phù và Tô Lịch , thì " tam giác nước Hà Nội " có hai cửa vào ( hay 2 cửa cấp nước - input ) là cửa sông Thiên Phù ở mạn Nhật Tân giáp Phú Xá ( dọc Bù ) và chỗ cửa sông Tô Lịch ở Hà Khẩu ( chỗ nhà tắm phố Chợ Gạo , quận Hoàn Kiếm ngày nay ) . Đến khi sông Thiên Phù bị lấp ( đời Lý về sau ) thì chỉ còn một cửa Hà Khẩu cấp- nước sông Nhị và một cửa Hồ Khẩu cấp nước Hồ Tây cho sông Tô Lịch . Nhìn cái " tam giác nước " ( trước , sau bao gồm cả Hồ Tây ) và cái " tứ giác nước ( sau khi Hồ Tây đã hình thành ) , thì có thể định nghĩa ngay Thăng Long - Hà Nội là cái bãi bồi to lớn của sông NHị Hà vốn trong cuộc đời thực , tự nhiên , có hình thoi , như một bãi bồi tự nhiên khác ...Dải đất bãi này có độ nghiêng từ Tây sang Đông , từ Bắc xuống Nam , đúng hơn là từ Tây Bắc xuống Đông Nam . Đây cũng là hướng dòng chảy của mạng nước Hà Nội . Vậy nếu khu vực Hoàng thành Hà Nội cổ thuộc Ba Đình nay là bãi bồi cao thì rõ ràng Đống Đa , Hai bà là vùng ô trũng cho tới Thanh Trì . " MỘT Ý KIẾN ĐÁNG CHÚ Ý CỦA GS.TRẦN QUỐC VƯỢNG VỀ SÔNG TÔ LỊCH :Như người ta nói xưa nay , bắt đầu từ Hà Khẩu ( cửa cấp nước số 1 ) chảy vòng về qua nội thành làm ngoại hào phía bắc của tòa thành cổ Lý - Trần - Lê - Nguyễn , rồi chảy xuống Thụy Chương ( Thụy Khuê ) sau khi đã lấy thêm nước ở cửa số 2 ( Hồ Khẩu ) , lại chạy xuống Bưởi , ở đây có cửa cấp nước số 3 là " ngả ba nước " [ Thiên Phù ( phụ lưu cấp 1 của sông Nhị ) là một "cành cây " đâm từ sông Nhuệ qua Xuân La đổ vào ] , dồn sông Tô Lịch ngoặt từ Tây bắc xuống Tây Nam về Cầu Giấy , xuôi xuống Lủ - Huỳnh Cung để rồi nối với sông Nhuệ ở Hà Liễu ....Chính trên đoạn sông này có Cống Cót ( Yên Quyết ) và Cầu Mọc ( Nhân Mục ) , nơi có 2 tiền đồn của cánh quân Sầm Nghi Đống mà quân Tây Sơn cần đánh diệt để " mở đường " vào xứ Đống Đa . Nhưng đi sâu thì vấn đề còn phức tạp hơn . Bản đồ Hà Nội 1873 lại ghi dòng Tô là sông Kim Ngưu và dòng Kim Ngưu ( làm ngoại hào cho toàn bộ phía Nam Đại La Thành ) là dòng Tô Lịch ? Có nhà " Hà Nội học " bảo tác giả Phạm Đình Bách của tấm bản đồ đó ghi nhận sai . Nhưng chớ trêu là Bia Minh Mạng hiện để ở chùa Trung Tự ( thôn Trung Tự - thuộc phường Đông Tác - Huyện Thọ Xương ) lại ghi về cảnh quan Đông Tác như sau : " Tô giang hữu nhiễu , lâm thủy tiền vinh " ( sông Tô bao phía hữu - Nước chảy ở mặt tiền ) . Thật phức tạp . Càng phức tạp hơn là quãng ô Thụy Chương , chỗ góc Tây Bắc của tòa thành Hà Nội cổ , đoạn sông Tô đến đó lại chia thành nhánh chạy dọc theo mặt Tây của tòa thành , làm nên Tây ngoại hào và thóat nước xuống Ô Vạn Bảo ( góc Tây nam tòa thành cổ ) , rồi qua hệ đầm hồ Yên Trạch - Hào nam để đổ qua cửa cống Nhạc Viện Hà Nội ( cống Hào nam ) , xuống sông Kim Ngưu , nối với hồ Kim Ngưu ( Hồ Tây ) trên đầu đường Trâu Vàng chạy rồi ẩn xuống hồ : Đó chính là nhánh này đây . SƠ ĐỒ DÒNG CŨ SÔNG TÔ LỊCH - dienbatn vẽ theo ý của GS.TRẦN QUỐC VƯỢNG . This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 825x446 and weights 120KB. ...Sông Kim Ngưu có 2 cửa vào ( input ) , một ở cửa ô Thụy Chương , một ở cửa ô Cầu Giấy . Nhân đây xin có ngay một nhận xét : cái gọi là cửa ô trên Đại La Thành bao quanh Kinh thành Thăng Long - Đông Kinh phần lớn ( nếu không phải là tất cả ) đều là " ngã ba nước " . Chẳng hạn Ô Nhật Chiêu ( Nhật Tân ) là ngã ba Nhị thủy - Thiên Phù . Ô chợ Bưởi là ngã ba Thiên Phù - Tô Lịch . Ô Thụy Chương ( Thụy Khuê ) là ngã ba Tô Lịch - Kim Ngưu . Ô Cầu Giấy là ngã ba khác của Tô Lịch - Kim Ngưu . Ô Chợ Dừa là nơi phân nhánh của Kim Ngưu thành nhánh Hào Nam - Cầu Khánh ( Hoàng Cầu ) rồi chảy qua hồ Xã Đàn - hồ Nam Đồng , đâm qua cánh đồng Trung Tự - Kim Liên - Khương Thượng mà thành sông Tây hay Phương Liệt , chảy qua cống Vọng xuống đầm Thịnh Liệt ( " Đầm Sét cá Rô " ) mà tiếp tục tạo nên sộng Sét , đổ xuống sông Lừ . Ô Đồng Lầm - Cầu Muống cũng là nơi sông Kim Ngưu chảy qua cánh đồng Trung Tự - Kim Liên xuống sông Phương Liệt . Ô Cầu Dền mé trên một chút ở cống Nam Khang ( Đại học Bách Khoa ) ( Theo dienbatn tên cống này là Lâm Khang mới chính xác ) , cũng là chỗ Kim Ngưu phân một nhánh khác chảy vòng vo qua khu " Đông Dương học xá " cũ - Tức là Đại học Bách Khoa bây giờ - đổ xuống sông Phương Liệt . Cuối cùng là Ô Đống mác là chỗ nhánh của sông Kim Ngưu chảy vào đầm Thanh Nhàn , rồi tiếp tục đổ xuống Nam Thanh Trì thành sông Lừ chảy vào vùng đầm Yên Duyên - Sở Thượng ... ở mỗi cửa Ô , ngã ba nước đều mọc lên một cái chợ , một Thị tứ hay Thị trấn nếu ta dùng tên chữ và cũng là tên hiện đại . Xem trên đủ biết , chỉ với 2 cửa vào ( input ) mà Kim Ngưu có biết bao nhiêu cửa ra ( output ) , ở trên dưới Ô Chợ Dừa , ở trên dưới Ô Đồng Lầm, ở Nam Khang ( Lâm Khang ? ), trên Ô Cầu Dền , ở Ô Đống Mác ....Sông Kim Ngưu ngoại hào Nam Đại La Thành , trở thành sông to và quan trọng với các phụ lưu và tên gọi khác ( Sét , Lừ ) còn chảy mãi xuống phía Nam qua đầm Yên Duyên - Sở Thượng , nơi nghĩa quân Tây Sơn chia một nhánh nhỏ " nghi binh " để chặn giặc và để đồn giặc chạy về Đầm Mực . Kim Ngưu gặp một nhánh Tô Lịch từ Hà Liễu đổ về Đông ở chỗ ngã ba nước Văn Điển , nơi cũng có đồn giặc Thanh đóng ở chợ - Thị trấn này . Rồi Tô Lịch - Kim Ngưu lại vòng vo đổ xuống Nam Thượng Phúc ( Thường Tín ngày nay ) . Sông Tô qua Vịnh Kiều ( cầu Viềng ) , gần đầm Mực - (Đầm Mực là đoạn bỏ dòng của Tô Lịch ) qua Nhị Khê , qua Ức Trai , qua Ngọc Hồi , vòng một khúc uốn sang Đông lại gặp Kim Ngưu từ Yên Duyên đổ qua , lượn sang tây để gặp sông Nhuệ ở ngã ba Chùa Đậu ( thuộc địa phận xã Gia Phúc - Thường Tín ) . Thế là chính Nam Ngọc Hồi hay là Cầu Thị là một ngã ba nước , nơi một phân nhánh nữa của Kim Ngưu - Tô Lịch tiếp tục chảy xuống phía Nam qua Hạ Hồi - Khê Hồi để đến Tía ( Tử Dương )rồi mới lại đổ vào sông Nhuệ , ở khu vực xã Nghiêm Xuyên của Thường Tín hiện nay , trong đó có làng Cống Xuyên chính là làng có sông Tô Lịch ( Kim Ngưu ) chảy qua trước mặt tiền . Bia Vĩnh Tộ thứ 9 ( Đinh Mão - 1627 ) ở chùa Sùng Phúc Cống Xuyên có câu : " phía Tây có sông Tô Lịch chầu mặt trước chùa . Nguyên văn " Tây tác hữu Tô Lịch giang triều củng ư tiền . vây ngã ba Tô - Nhuệ cuối cùng là đây chứ đâu phải ở Hà Liệu như biết bao sách vở xưa nay từng ghi chép . Chẳng qua là sử sách xưa luôn lầm lẫn , hay đồng nhất Tô Lịch với Kim Ngưu . ( HÀ NỘI NHƯ TÔI HIỂU - TRẦN QUỐC VƯỢNG ) . BẢN ĐỒ HỆ THỐNG SÔNG LA THÀNH - HÀ NỘI . BẢN ĐỒ LA THÀNH VÀ CÁC DÒNG SÔNG CỔ This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 666x882 and weights 131KB.
  5. Bài viết quá tuyệt vời. Tuy nhiên, Hoangnt chưa hiểu lời Tạm kết của tác giả lắm.
  6. III. TÌM VỀ NGUỒN GỐC VIỆT HOA THEO SỬ TRUYỀN Con người xuất hiện vào lối 500.000 năm trước đây rồi lần lượt bị tiêu diệt qua bốn đợt băng tuyết, những người còn sống sót kéo nhau lên các miền núi cao nguyên sống trong hang hóc. Sang đến Tân thạch (tương đương với sung tích kỳ: holocène, lối hơn mười ngàn năm trước đây) sau khi làn băng giá thứ tư tan rã, khí hậu trở nên ấm áp, loài người lục tục đời bỏ những hang động trong dẫy Thiên Sơn (Tây Bắc Tibet và Tây Tân Cương) để thiên di xuống các vùng bình nguyên. Theo Vương Đồng Linh trong quyển “Trung Quốc dân tộc sử” thì một nhóm sang phía Tây làm thuỷ tổ giống da trắng. Trong những người tiến về phía Đông làm thuỷ tổ giống da vàng có hai chi gọi là Bắc tam hệ và Nam tam hệ. Bắc tam hệ là ba phái đi theo Thiên Sơn Bắc lộ gồm có: - Phái Mãn tộc chiếm lĩnh vùng cực Đông Bắc Trung Hoa ngày nay (cũng gọi là Thông cổ tự Tongouses). - Phái Mông Cổ chiếm lĩnh chính Bắc Trung Hoa. - Phái Đột Quyết (Turcs) chiếm lĩnh Tây Bắc Trung Hoa và Đông Nam Tây Bá Lợi Á, vì theo đạo Hồi nên gọi chung là Hồi tộc. Nam tam hệ gồm có ba tộc là Miêu, Hoa, Tạng. Theo Mộng Văn Thông trong quyển “Cổ sử nhân vi” ba phái này nguyên tên là Viêm, Hoàng, Tần. - Về sau Hoàng tộc tự xưng là Hoa tộc. Hoặc có thể nói ngược lại là Hoa tộc là tên chính sau mới đổi ra Hoàng tộc rồi cuối cùng lại đổi ra Hán tộc. Tuy nhiên Hán chỉ là tên của một vương triều y như Đường, Tống, Minh, Thanh vậy. Còn chính tên là Hoa tộc. - Về Viêm tộc cũng gọi là Miêu tộc, và Việt tộc. - Tạng tộc (Tibétains) thì đi lần theo Thiên Sơn Nam lộ tới định cư ở vùng Hy Mã Lạp Sơn rồi sau lan ra vùng Thanh Hải, Tây Khương. Rất có thế Anhđônê là một nhóm trong ngành này tiến vào vùng A Xam của Aân Độ, sau bị người Aryen đuổi nên thiên di qua Việt Nam và Borneo… Riêng về lịch sử của hai dân tộc Viêm Hoa liên hệ gần tới ta nhất lại rất nhiêu khê, đại để có thể như sau. Thoạt kỳ thuỷ Viêm tộc theo dòng sông Dương tử vào khai thác vùng Trường Giang thất tỉnh tức là bảy tỉnh thuộc Dương Tử Giang là Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Giang Tô, An Huy, Chiết Giang, rồi lần lần một mặt theo bình nguyên Hoa Bắc lên khai thác vùng Hoàng Hà lục tỉnh là Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Tây, Sơn Đông, Thiểm Tây, Cam Túc. Còn phía nam thì lan tới lưu vực thứ ba gọi là Việt giang ngũ tỉnh gồm Vân Nam, Quy Châu, Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến. Cả năm tỉnh này từ đầu đều có người Viêm tộc cư ngụ. Theo Chu Cốc Thành trong quyển “Trung Quốc thông sử” và một số sử gia nữa thì Viêm tộc đã có mặt ở khắp nước Trung Hoa cổ đại trước khia các dòng tộc khác tràn vào, nên Viêm tộc kể là chủ đầu tiên. Khi Viêm tộc đã định cư rồi Hoa tộc tuy theo Thiên Sơn Nam lộ như Viêm tộc nhưng còn sống đợt săn hái vùng Tân Cương, Thanh Hải, hồi đó còn là Phúc Địa vì cát chưa lấn được những đất phì nhiêu, để biến thành sa mạc như ta thấy ngày nay, về sau họ theo khuỷu sông Hoàng Hà tiến vào Bắc Trung Hoa chiếm lại đất của Viêm tộc ở vùng này, và bị Si Vưu lãnh tụ Viêm tộc chống cự. Lãnh tụ Hoa tộc là Hiên Viên tập hợp lại các bộ lạc Hoa tộc để cùng với Viêm tộc ba lần đại chiến trong đó có trận Trác Lộc. Trong quyển “Kỳ môn độn giáp đại toàn thư” còn câu hát “ngày xưa Hoàng Đế đánh Si Vưu, cuộc chiến ở Trác Lộc đến nay tưởng như chưa dứt, tích nhật Hoàng Đế chiến Si Vưu: Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu”. Từ khi Si Vưu bị tử trận thì Hoa tộc bá chiếm 6 tỉnh lưu vực Hoàng Hà để lập quốc. Hiên Viên nhờ vậy được công kênh lên làm tông tù trưởng và xưng hiệu là Hoàng Đế. Tại sao Viêm tộc đông hơn lại chịu lùi bước trước Hoa tộc vừa tới sau vừa ít người hơn? Có thể giải nghĩa theo những lý do sau đây: - Viêm tộc ở rải rách khắp 18 tỉnh nước Tàu nên dân cư rất thưa thớt không thể chống cự đoàn người du mục kết thành một đạo quân hùng mạnh. - Viêm tộc lúc đó còn ở trong tình trạng thị tộc hay bộ lạc chưa đạt ý thức quốc gia, nên thường xung đột nhau, bởi vậy cháy nhà hàng xóm bình chân như vại. - Vì Viêm tộc đã đạt định cư nông nghiệp sớm hơn nên văn hóa cao mà võ kém. Đó là luật chung. Con người tiến bộ nhiều ít về văn hóa là tuỳ theo cái nhìn rộng hay hẹp. Vậy cái nhìn của người làm ruộng phải kéo dài ra cả năm để biết tứ thời bát tiết đặng định thời gieo, thời gặt v.v… Ngược lại người đi săn chỉ cần rình con mồi trong vòng 1, 2 ngày, vì thế cái nhìn hẹp hơn cái nhìn của nhà nông. Nhà nông phải nhìn rộng nên bước lên bậc văn hóa cao hơn. Khi đạt văn hóa cao thì tất nhiên có lễ nghĩa và mở rộng mối giao tiếp… Khác với những giai đoạn săn hái hoặc du mục nay đây mai đó không có địa chỉ nhất định, nên chưa dùng đến ước lệ, lễ tục, mà chuyên dùng võ lực. Chu Cốc Thành trong quyển “Trung Quốc thông sử” dẫn sách “The State” của Franz Oppenheimer chứng rằng: tự cổ chí kim chiến đấu lực của những dân tộc du mục bao giờ cũng vẫn cao hơn dân tộc nông nghiệp. Hồi đó Hoa tộc còn sống đời du mục, những năm đồng khô cỏ héo họ thường lấy sự cướp bóc làm sinh hoạt; còn Viêm tộc đã định cư có của tư hữu nên tất cả những lý do trên mà Hoa tộc du mục đã thắng Viêm tộc nông nghiệp, một việc sẽ còn lập lại nhiều lần về sau trong lịch sử. Sau khi đã thắng Viêm tộc, Hiên Viên liền phỏng theo sinh hoạt của dân tộc này mà tổ chức Hoa tộc. Ông chia 6 tỉnh Hoàng Hà ra làm 9 khu vực: “phân cửu châu” y như Cửu Lê của Si Vưu, chọn 4 bộ lạc hùng mạnh đồng tộc với ông gọi là “tứ nhạc” để giữ gìn bạn thân. (Theo Lữu Tư Miễn trong “Trung Quốc dân tộc chí). Và do đó nhận tất cả các phát minh của Si Vưu (tức Viêm tộc) làm của mình. Chính vì thế mà sử sách chính thông thường gọi Hoàng Đế là người đã phát minh ra thiên văn, âm nhạc, quần áo, nhà cửa, giao thông, hôn lễ, y thuật, nuôi tằm, điền thổ, hôn thú, võ bị, chính trị v.v… tóm lại các sử gia quy công phát minh tất cả cho Hoàng Đế, và chính với Hoàng Đế lịch sử Trung Hoa mở đầu là như vậy. Hoàng Đế truyền 7 đời tới vua Thuấn 2697-2205. Nhà Hạ: vua Đại Vũ truyền 17 đời tới vua Kiệt 2205-1783. Nhà Thương: vua Thành Thang truyền 28 đời tới vua Trụ 1783-1134. Nhà Chu: Văn Võ truyền 37 đời tới Đông Chu 1134-247. Tất cả bấy nhiêu đời có thể gọi là thuộc Hoa tộc về mặt chính trị, nhưng về văn hóa thì chính ra phần lớn thuộc Viêm tộc, nhưng chính sử đã vùi đi vì Viêm tộc một phần bị giết, hoặc bắt làm nô lệ, còn phần đông thì sống dưới quyền giám thị của Hoa tộc (trí tả hữu đại giám) ở ngay trong nội địa hoặc bị phân sáp ra khai thác các miền chung quanh và gọi là Di (phía đông) Địch (phía bắc) Nhung (phía tây) Man (phía nam) Cũng có thói quen gọi 4 đại diện của Di, Địch, Nhung, Man là tứ hung. Sau này Viêm tộc sẽ quật lại và sự quật khởi đó sẽ kết tinh vào câu “tứ hải giai huynh đệ” (xem hình tứ hung, Need II.116). Còn Viêm tộc bên ngoài 6 tỉnh Hoàng Hà thì vẫn sống thản nhiên trước sự đau lòng mất nước của họ hàng trên phía Bắc. Những người này lâu lâu nhờ lúc nội bộ Hoa tộc có biến thì nổi lên để vãn hồi độc lập, như cuối đời Thiếu Hạo, mãi tới Chuyên Húc mới dẹp yên được. Cuối đời Đế Cốc họ lại vùng dậy và Đế Chí mất 9 năm không thu phục nổi phải nhờ đến vua Nghiêu mới thắng trận Đan Thuỷ. Khi vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn, nhiều bộ lạc Hoa tộc không phục vì Thuấn là người Nam Man, Viêm tộc lại thừa cơ nổi lên trong số đó có ông Cổn bị kể là một trong tứ hung. Có thể ông Cổn thuộc Viêm tộc (nên gọi là Hung) hay ít ra đã bị cảm hóa theo Viêm tộc, nên sách Ngô Việt Xuân Thu (chương 6) chép có lần ông Cổn gieo mình xuống sông hóa ra con gấu vàng (hùng) nhưng lại chỉ có ba chân nên chữ Hùng viết có ba chấm thay vì bốn chấm và trở nên thần của vực thẳm gọi là Vũ “Nhân vi vũ uyên chi thần, chữ hán”( Danses 247). Viết ba chấm vì ba đi với tam miêu, còn vũ là lông đi với vật tổ của tam miêu có cánh mà không bay. Thêm một lý chứng nữa là con ông Cổn tên là Vũ quên ở Cối Kê kinh đô nước Việt Chiết Giang (Danses 610). Vì thế lần này vua Thuấn phả dùng giải pháp mạnh, đầy số lớn Viêm tộc ra phía tây huyện Đôn Hoàng, cửa ải địa đầu của Trung Hoa với Tân Cương ngày nay (thoán tam miêu ư tam nguy) (Trần An Nhân trong Trung Quốc thượng cổ văn hóa sử). Phần bị phân tán ra từng bộ lạc nhỏ, phần bị đồng hóa, từ đấy trở đi Viêm tộc không còn là mối họa cho Hoa tộc nữa. Sau này Đông Di (Sơn Đông) bị nước Tề đồng hóa. Bắc Địch (Sơn Tây, Hà Bắc) bị các nước Tấn, Yên đồng hóa, chỉ còn lại trở nên hung hãn. Khi U Vương vì mê Bao Tự, bỏ vợ lớn và con trưởng nên bị Thân Hầu rước Khuyển Nhung của Tạng tộc về giết đi ở Li Sơn và đặt cháu ngoại vào ngôi con rể. Bình Vương đã bị kinh tế nông nghiệp thuần hóa nên khi thấy sắc diện hung hãn của Khuyển Nhung lúc và cướp phá thì rất kinh sợ, nên tính việc thiên đô sang Lạc Aáp. Đường từ Cảo kinh ra Lạc Aáp đầy những bộ lạc ăn cướp, Bình Vương lại không có binh quyền gì cả, phải nhờ Tây Nhung hộ tống. Để tạ ơn ông cho bộ lạc này những đất đai của tổ tiên khai phá xưa, đó là Quan Trung mà ông không dám ở nữa. Nhờ vậy Viêm tộc có một khoảng đất để dựng lên nước Tàu, sau này sẽ tóm thâu thiên hạ. Vì tính tình đã trở nên hung hãn theo đời sống du mục, nhưng chính gốc là Viêm tộc (Danses 572). Còn Nam Man ở Trường giang, khi vào Tứ Xuyên đã chia 2 ngành: một theo châng gia súc xuống Vân Nam, tới phía Tây Nam tỉnh này thì định cư và đi vào nông nghiệp. Vì dân ngày một đông lại thêm bị áp lực của Hoa tộc từ năm 866 thua Cao Biền, nên vào đầu thế kỷ thứ X, noi theo triền sông Salouen và Mékong xuống thực dân dân miền Đông bắc Miến Điện (dân Shan), Tây bắc Việt Nam (miền Sơn La, Lai Châu, Hà Giang) mở ra nước Lào, nước Xiêm. Ngày xưa Hoa tộc gọi là Tây Nam Man, ngày nay ta gọi là dân tộc Thái có thể là tên lúc còn ở núi Thái Sơn, giai đoạn mở đầu của Viêm tộc. Sang đầu kỷ nguyên họ phân ra 6 bộ lạc là Lang Khung, Thi Lăng, Đằng Đạm, Việt Tích, Mông Tuấn, Mông Xá, vì ở phía Nam (huyện Sở Hùng). Mông Xá lại có tên là Nam Chiếu. Những khi Trung Hoa có biến, họ thường vào quấy phá như hồi Hán mạt, Ngũ hồ, tàn Đường v.v… Vua Đường Huyền Tôn phải cắt đất để mua lòng họ. Năm Khai Nguyên thứ 26 (738) vua phong cho Bì La Cáp (Trung Hoa kêu là Mông Quý Nghĩa) làm Vân Nam Vương đóng đô ở Côn Minh, từ đấy trở đi đến năm 866, họ dọc ngang 5 tỉnh Việt Giang, nước ta cũng chịu phần cướp phá cho đến năm 866 Cao Biền mới dẹp yên. Năm 1380 quân Nguyên vào diệt Hoàng tộc bắt vua đưa về Nam kinh xử tử. Tuy vậy thỉnh thoảng vùng Tây Nam Vân Nam lại dấy động. Lần chót cách đây mấy chục năm và thành Đại Lý hoàn toàn bị thiêu rụi. Còn những Viêm tộc ở các tỉnh lưu vực Trường Giang mà Hoa tộc kêu chung là Đông Nam Man thì khai thác vùng hồ Động Đình, Bành Lãi trên sông Dương Tử. Hoa tộc trên vùng Hoàng Hà gọi vùng này là Kinh cức tức là rừng rú, nhân đó có tên là Kinh man (sau sẽ thành nước Sở đời Xuân Thu). Trước đây lối 2897 tù trưởng các bộ lạc Viêm tộc ở đây xưng là Kinh Duơng Vương vì nghề nông nên thờ Thần Nông làm tiên tổ. Và có lẽ vì đó nên chữ Việt với bộ Mễ mà họ Mễ mà nay ta quen gọi là họ Mị như Mị nương, Mị châu thì cũng có thể đọc là Mễ nương, Mễ châu. Đây là một họ rất lớn của nước Việt cũng như nước Sở sau này, nên hai nước có những liên lạc chặt chẽ, và do lẽ đó mà vua nước Sở sau này gọi là Hùng Vương và nước Văn Lang cũng có 18 đời Hùng Vương. Có lẽ Hùng Vương của Văn Lang cũng như của nước Sở đều là gợi hứng từ một gốc chung. Gốc đấy có thể là Hồng Bàng hay là hùng dũng. Riêng vì nước Sở thì ở đời Chu Sở (1134) lãnh tụ của Viêm tộc là Hùng Dịch vì có công giúp khai sáng nhà Chu nên được phong chức Tử Nam, lập nên nước Sở gồm 6 tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Giang Tô, An Huy, Chiết Giang. Những dân tộc ở ba tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây vì giao thiệp với Hoa tộc nên dần dần văn hóa in rập văn hóa của Hoa tộc. Còn ba tỉnh An Huy, Giang Tô, Chiết Giang (Giang Đông) vì bế quan tỏa cảng nên giữ nguyên vẹn ngôn ngữ, phong tục tập quán xưa. Đến đời Chu Hoàn Vương (717-696), Hùng Thông tự lập làm Sở Võ Vương nên sau đó ít lâu những dân Viêm tộc ở ba tỉnh Giang Tô, An Huy, Chiết Giang cũng tách ra lập nên nước Ngô, nước Việt. Cả ba nước này Sở, Ngô, Việt đều một gốc của tổ tiên ta xưa, nhưng không may vì ý thức quốc gia chưa đủ mạnh nên ba nước họ hàng liên miên đánh phá nhau: năm 508 quân Ngô vào kinh đô Sở là Dĩnh đô diệt hoàng tộc họ Hùng. Năm 473 Việt diệt Ngô. Năm 334 Sở diệt Việt. Mỗi lần một nước bị diệt là có một nhóm di cư xuống Bắc Việt, như vào lúc Ngô phá Sở diệt họ Hùng Vương thì một chi nhánh của họ này chạy xuống Bắc Việt cùng với những nhóm Viêm tộc đến đây trước lập nên nước Văn Lang truyền 18 đời đến năm 258 bị nhà Thục thôn tính. Trên đây là tóm lược một số giả thuyết đã quen (và một phần mượn trong bài Nguồn gốc dân tộc Việt Nam của ông Hoàng Xuân Nội đăng trong tạp chí “Văn Hóa Á Châu” tháng 8/1960). Theo một vài tài liệu khác thì tiền sử nước ta đại khái có thể chia ra ba giai đoạn sau: Thời đại Thái Sơn thuộc rẫy Thân Lĩnh. Đây là giai đoạn Tam Hoàng mà vua cuối cùng là của Việt tộc tên Thần Nông cũng có hiệu là Liệt Sơn cùng với Thái Sơn một nghĩa. Thần Nông dạy dân cày bừa, nên gọi là Địa hoàng. Trước đó có Toại Nhân phát minh ra lửa nên gọi là Thiên hoàng, rồi tới Phục Hy dạy cách chăn nuôi làm ra bát quái nên gọi là Nhân hoàng. Còn Nữ Oa hoặc là vợ Phục Hy hay như bóng dáng Nghi Mẫu của thời Nam Nữ phân quyền. Thòi đại Ngũ Lĩnh: Đời Viêm Đế thứ ba vì sức bành trướng của Hoa tộc Đế Minh truyền ngôi cho con là Đế Nghi rồi đem một số bộ lạc Miêu và Thái đi xuống vùng năm hồ năm núi. đấy là cuộc Nam tiến thứ nhất lập ra nước Xích Quỷ gồm ba hệ: - Hệ Âu Việt (Thái) ở Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Miến Điện. - Hệ Miêu Việt ở giữa thuộc các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây. - Hệ Lạc Việt ở Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc Việt, Trung Việt (1). Thời đại Phong Châu: lập ra Văn Lang… tiếp đến là Hán thuộc. (1) về ít điểm sử địa khác luật Trung Hoa cổ đại vẽ theo khung Lạc Thư. Ngoài ra còn có nhiều thuyết như của ông Aurousseau (Befeo XXIII) cho rằng nguồn gốc Việt Nam do Chiết Giang tản cư xuống thì cũng chỉ đúng có một phần rất nhỏ. Ta có thể nói từ tất cả các vùng nước Tàu đều có người đến định cư ở Việt Nam, xa như nước Lỗ mà còn có Sĩ Nhiếp, Triệu Đà v.v… thì nhất định trong nhiều ngàn năm trước đã có những cuộc di cư như thế. Những câu chuyện đi lại của Đế Lai, Đế Nghi, Âu Cơ v.v… hẳn là chỉ những cuộc di cư này đã có ít ra lối năm ngàn năm, vì người ta đã tìm thấy dấu tích người Mông Cổ ở thời Thạch khí Hòa Bình và Bắc Sơn. Trong hang gọi là Tam hang bà Colani tìm thấy 7 cái sọ thì đã có 2 sọ thuộc Anhđônê lai Mông Cổ, một sọ lại ba giống Anhđônê, Mông Cổ, Tam Pong, thì phải kết luận là họ đến cư ngụ đã lâu đời để có thể sống chung thân cận như vậy. Vì thế khi huyền sử đặt Hồng Bàng trước Hoàng Đế 182 năm thì nước Văn Lang cũng đã bao hàm cả Bắc Việt, tuy rằng Văn Lang còn nằm trong vùng Kinh Sở, nên 18 đời Hùng Vương là thuộc nước Sở, tuy rằng đã trở thành linh tượng (tức vượt không thời gian). Dấu hiệu đã hiện ra rõ rệt với những con số 18. 18 là hai lần 9 mà 9 căn 3 tức là con số của Tam Miêu cũng là Viêm tộc. Con số 18 là con số huyền niệm làm liên tưởng đến 18 ngàn năm tiến hóa của Bàn Cổ. Truyền thuyết Tây Tạng nói vũ trụ sinh ra do một cái trứng lớn, trứng lớn sinh ra 18 trứng nhỏ. Phù Đổng Thiên Vương xin vua Hùng Vương đúc cho con ngựa sắt cao 18 thước… Vì thế nếu thật nước Sở đã có 18 đời Hùng Vương thì đó là sự tình cờ gặp gỡ với số huyền niệm, hoặc rất có thể sử gia nước Sở đã đẽo gọt cho các đời vua ăn khớp với số 18. Ngoài con số 18 còn nhiều dấu khác, theo sách Việt sử lược (viết vào thế kỷ 15) thì Hùng Vương là con người khác thường có tài dùng huyền thuật nên cai trị được các bộ lạc… (hữu di nhơn yên dĩ huyền thuật phục chư bộ lạc, tự xưng Hùng Vương, đô ư Văn Lang, hiệu Văn Lang quốc). Theo truyền thuyết này ta thấy rõ Hùng Vương đã trở thành linh tượng của huyền sử mà những chữ dị nhân chỉ hiền triết, còn huyền thuật chỉ Lạc thư, tức là sách bao gồm nền Minh triết dạy trị nước theo Trí nhân, mà cho được như vậy phải có đức hùng dũng (trí, nhân, dũng). Còn nước được cai trị theo lối đó gọi là Văn trị, tất nhiên phải gọi là Văn Lang để đối đầu với lối trị bằng pháp hình phát xuất từ du mục. Các con số Lạc thư cộng chiều nào cũng ra 15, nên Hùng Vương chia nước ra làm 15 bộ, vậy thì 15 bộ ở đây cũng chỉ là những tên huyền sử, người sau có đem đặt cho những miền ở Bắc Việt đi nữa thì đó cũng chỉ là một lối dùng tên xưa đặt cho địa vực mới, y như trường hợp đem các tên mạn bắc thí dụ “Hành Sơn” ở tỉnh Hồ Nam bên Tàu đặt cho dãy núi ở nước ta. Nếu người nay không tìm ra địa vực của những tên đó như Văn Lang, Việt Thường, Bình Văn… bên Trung Hoa cổ đại, thì không nên vội kết luận ngay rằng xưa đã không có đâu gọi như thế. Hoặc không có đâu gọi thế càng hay vì càng rõ tính chất huyền sử của danh hiệu. Sau này có những người không hiểu rồi làm sai lạc ý nghĩa đi thì đó là chuyện thường. Vậy những chủ trương loại Maspéro nói Hùng Vương chính là Lạc Vương viết sai… đều không lưu ý tới huyền sử. Giả có sự sai đó thì cũng chỉ là một sự sai của người xưa điều đó không xóa bỏ nổi truyền thuyết 18 đời Hùng Vương được. Nên nhớ rằng ngay từ xưa đã có nhiều dòng lưu truyền và nhân đó cũng đã có nhiều lối giải thích, những lối giải thích nào phù hợp với văn hóa nông nghiệp chống văn hóa du mục là lối giải thích hợp đồng văn lịch sử Viễn Đông nhất, và đó là trường hợp những trang huyền sử của Việt Nam cũng là những trang sử của văn hóa, một nền văn hóa đã mở rộng tự Bắc tới Nam và được trình bày trong những sách mang danh hiệu huyền sử cách công khai như Việt điện u linh hay Lĩnh Nam trích quái, thì những chữ U linh hoặc trích quái nói lên rõ tính chất huyền sử. Nói là huyền sử vì nó chỉ thị một nền văn hóa lớn lao đã có từ lâu đời và gắn liền với nước Việt Nam như một sử mệnh. Nói khác theo huyền sử thì nước Việt Nam được nhìn dưới hai khía cạnh, một là sử với bờ cõi nhỏ hẹp của vài ba chân ở mạn Nam nước Tàu và mới khai quốc từ Triệu Đà, nhưng ngoài ra còn một khía cạnh khác nữa là huyền sử với bờ cõi rộng bằng với nền văn hóa nông nghiệp được biểu thị bằng hai chữ Văn Lang với 18 đời Hùng Vương đã xuất hiện trước lịch sử lối 3 ngàn năm. Vậy khía cạnh này không được sử gia kể tới là chuyện dễ hiểu: sử ký Tư Mã Thiên chỉ nói Lạc Vương mà không nói Hùng Vương vì ông là người quá lý trí (như Chavannes đã nhận xét) nên gảy bỏ các chuyện huyền thoại, vả ông là sử gia nhà Hán thì đời nào ông chịu nhận Hùng Vương của Việt Nam vì như thế là gián tiếp truy nhận lãnh thổ cũ Việt Nam nằm sâu trong nước Tàu. Đến như sách “Giao Châu ngoại vực ký” thế kỷ 3-4 cũng chỉ có thể nói Lạc hầu mà không thể nói Hùng Vương vì nếu nói là vượt địa vực “Giao Châu” cũng như vuợt mục đích là ký (tức ký sự về một miền: monographie). Còn truyện Thẩm Hoài Viễn (thế kỷ thứ 5) đã thay Lạc vương bằng Hùng Vương trong quyển “Nam Việt chí” cũa ông ta thì đó là điều tỏ ra ông là người duy lý nên đã dùng chữ Hùng Vương mà giải nghĩa Lạc Vương một cách duy vật bằng mùi đất “đất có mùi hùng nên gọi là Hùng Vương!” Thế là cũng như các duy sử khác chọn bỏ một: chọn Hùng Vương bỏ Lạc Vương. Đó là một sai lầm trái với truyền thống có tính cách tâm linh tức giải nghĩa bằng những yếu tố theo người, người lạ thường có tài dùng huyền thuật… như lối giải nghĩa của “Việt sử lược” (lối thế kỷ 14). Lối giải này thuộc dân gian vẫn được duy trì và cuối cùng được ghi lại trong sách “Lĩnh Nam trích quái” (thế kỷ 14-15) trong đó trưởng nam cai trị xưng là Hùng Vương, các em chia nhau người làm Lạc hầu, người làm Lạc tướng (Hùng trưởng vi vương, hiệu viết Hùng Vương thứ vi Lạc hầu Lạc tướng…). Trưởng nam đây phải hiểu vào thời hơn hai ngàn năm trước, còn các em là vùng Âu Lạc ở Bắc Việt thuộc đời sau đã đi hẳn vào lịch sử. Hùng Vương thuộc vòng trong = văn hóa tâm linh, Lạc hầu thuộc vòng ngoài chính trị là phạm vi sử ký. Ngô Sĩ Liên tiếp nhận cảhai khía cạnh vào quyển “Đại Việt Sử ký toàn thư” là đi đúng với sự thực toàn diện, chỉ không may mắn ở chỗ ông muốn dùng lý lẽ để biện hộ cho những sự việc thuộc huyền sử, vì làm như vậy là ông cũng đã ghé sang duy sử tức chọn một bỏ một bằng cách giản lược huyền sử vào lịch sử. Nếu ông chỉ kể lại huyền sử và đặt ở phần ngoại kỷ được tần cùng trước Triệu Đà rồi đừng giải nghĩa chi hết, thì không ai bẻ ông được. Tuy nhiên dù ông có lầm lẫn cũng như giả sử có sự lẫn Lạc Vương ra Hùng Vương đi nữa thì đó là sự lầm lẫn của một vài sử gia, không thể vì đó mà chối tuột đi được mối liên hệ giữa Việt Nam với những dân gọi là Viêm tộc, Tam Miêu, Bách Việt xưa kia đã sống từ mạn bắc nước Tàu và thiên di xuống phía nam, vì đã để lại quá nhiều chứng tích trong sách vở, thể chế thói tục như sẽ bàn trong sách này. Ở đây chỉ xin nêu ra một số điểm lấy ngay từ những di tích khảo cổ tìm được ở Bắc Sơn, Đông Sơn mà các nhà tân học thường mần ngơ, hay có lẽ đúng hơn là không nhìn ra vì tôi chưa thấy một học giả nào trong nhóm tân học đã nắm vững cơ cấu nền văn hóa Văn Lang, thì tất nhiên là không nhìn ra. Sau đây là một số điểm. Trước nhấtt là khu vực của trống đồng Đông Sơn rất rộng nó gồm ít nhất là Hoa Nam, miền sông Hoài, Chiết Giang và lan sang đến Đài Loan, Nhật Bản… như vậy là nó rộng tương đương với bờ cõi nước Văn Lang. Các nhà duy sử hình như quên đi rằng những sọ người Mông Cổ đã gặp được ở cổ Việt ít ra lối hai ba ngàn năm trước kỷ nguyên nghĩa là suýt xoát thời “khai quốc” của họ Hồng Bàng, và hầu chắc đã đóng vai trò văn hóa quyết liệt, bởi vì những yếu tố nổi nhất trong trống đồng đều có thể giải nghĩa liên hệ đến nền văn hóa Viêm tộc. Sau đây là ít thí dụ: trước hết là hình vẽ vòng tròn có chấm, hình trôn ốc kép bởi chữ S thì theo ông Bernhard Kargren bắt nguồn từ những miền thuộc Mông Cổ như Ordos, Tagar rồi đi qua Trung Hoa để đến Đông Sơn (Bulletin of the Museum of Far Eastern Antiquities 1942 p.390) (1) Trích 1 phần từ "Việt Lý Tố Nguyên" - tác giả Kim Định.
  7. 1. Có nhiều sự vô tận bằng nhau: ví dụ sự vô tận của số tự nhiên và số nguyên ( khác nhau 1 số 0) là như nhâu, sự vô tận của số tự nhiên và số hữu tỉ ( phân số) cũng là như nhau – phương pháp chứng minh đơn giản là ánh xạ 1-1. Lâu quá không nhớ về toán cao cấp nữa, toàn đi kiếm sống thôi. Sự vô tận đã chưa được xác định, sao còn như nhau?. Quá lâu rồi, quên ánh xạ. 2. Nhưng có những sự vô tận lớn hơn sự vô tận khác: đó là sự vô tận của các số vô tỉ ( căn 2, hay số Pi) lớn hơn sự vô tận của số tự nhiên – vì không thể ánh xạ được. Cũng cùng 1 câu hỏi. 3. Và hay hơn nữa: một tập hợp bất kỳ đều tìm được một tập hợp lớn hơn nó – có vô tận các vô tận Quá mâu thuẫn, vô tận tạm gọi là "không xác định", nếu có cái phủ định thì cái "không xác định" không còn là vô tận.
  8. Như vậy, "Vũ Trụ" là duy nhất, bao gồm tất cả những cái mà chúng ta có thể nghĩ bởi sự vô hạn của nó về mặt không gian, thời gian, trạng thái vật chất. Nhưng lại có quy luật vận động theo Hậu thiên bát quái/ Hà đồ. Vũ Trụ vận động mãi mãi không quay trở về trạng thái ban đầu Thái Cực, và Thái Cực cũng còn mang ý nghĩa trên. Sinh vật (gồm con người) cũng tuân theo quy luật vận động (tập con) thuộc Vũ Trụ. Nhưng đặc biệt, con người khác các sinh vật khác là khả năng nhận thức được Vũ Trụ cũng như có khả năng (dù nhỏ bé) thoát ra một quy luật con nào đấy của vũ trụ như "vượt ra ngoài vòng khí quyển trái đất và lực hấp dẫn" bay đến các hành tinh xa xôi thay vì hoàn toàn bị chi phối như các sinh vật khác trên trái đất. Từ các phân tích kết hợp ADNH: - Tiên thiên bát quái nói lên ý nghĩa gì? khi không được sử dụng như Hậu thiên bát quái trong các phương pháp cổ học như phong thủy... (Âm Dương). - Con người (cả mọi loại vật chất) có chung với Vũ Trụ một "đặc tính?" chính là "Thổ?" của nó trong quy luật vận động tổng thể --->>> con người có thể tạo liên kết Vũ Trụ qua "đặc tính" này hay không?. Vấn đế 1: Tiên Thiên Bát Quái đứng một mình hay phải phối với Hà đồ hoặc Lạc thư?, hoặc cũng kết hợp phương hướng như một số tác giả đã kết hợp. ví dụ: Suy nghĩ con người có thể di dời vật chất (thực tế có nhiều).
  9. Thực tế các nhà khoa học đã phát hiện ra trên các hành tinh xa xôi có loại vật liệu thể tích chỉ bằng bao diêm nhưng có khối lượng là 2000 kg: tức vài nghìn tấn/ m3 (Tìm hiểu vũ trụ). Là một thức tại. m giả sử có đặc trưng là các hạt và sóng..., theo ADNH chúng ta không thể tìm thấy hạt nhỏ nhất, cũng như không thể nhận biết kích cỡ lớn nhất của vũ trụ, mà chỉ thông qua thực tế quy luật vận độngvật chất... mà nhận thức được điều này. Nếu càng phá vỡ liên kết các hạt thì hoặc là tốn năng lượng cực lớn hoặc có thể tỏa ra năng lượng cực lớn... Tất cả các bài toán dù đi đâu cũng về đến sự "vô cùng", tuy nhiên sự vô cùng đều có các đặc trưng chung nhất. Như vậy vũ trụ vẫn có khả năng xuất phát điểm từ "vật chất ban đầu" vô cùng nhỏ và cho tới thực tại hiện nay là do các phản ứng dây chuyền phân rã hạt nhân? nhằm đi tới sự vô cùng lớn của vũ trụ ---> vũ trụ không thể tiêu biến. Khi ta phá vở các liên kết hạt thì có thể nhận biết các liên kết giữ chúng ---> có thể suy luận các liên kết này cũng là các liên kết của trung tâm vũ trụ - đang ghìm giữ ngũ hành mà trung tâm là hành Thổ?. Ta càng tìm hiểu hạt nào nhỏ nhất thì ... vô cùng --->> Đông phương đưa ra khái niệm khí phải chăng chỉ ra là sự tương tác ràng buộc của vũ trụ nhưng vận động theo quy luật ngũ hành tương sinh.
  10. T rần Nhân Tông tên làm Khẩm, con trưởng Thánh Tông, sinh năm 1258, đúng năm Thái Tông và Thánh Tông đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ nhất. Nói đến Trần Nhân Tông trước hết là nói đến người anh hùng cứu nước. Ông làm vua 14 năm (1279 - 1293). Trong thời gian ấy, đất nước Đại Việt đứng trước thử thách ghê gớm: hiểm họa xâm lược lần thứ 2 và thứ 3 của giặc Nguyên-Mông. Trong 2 lần kháng chiến, Trần Nhân Tông đã trở thành ngọn cờ "kết chặt lòng dân", lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt qua bao khó khăn, đưa cuộc chiến đấu tới thắng lợi huy hoàng. Qua 2 cuộc kháng chiến, Trần Nhân Tông đã tỏ rõ ông vừa là nhà chiến lược tài giỏi, vừa là vị tướng cầm quân dũng cảm ngoài chiến trường. Chính vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến năm 1285, khi quân ta đang còn ở thế không cân sức với đối phương, Trần Nhân Tông đã viết lên đuôi chiến thuyền 2 câu thơ đầy khí phách và niềm tin vào sức mạnh tiềm tàng của quân ta: Cối kê cựu sự quân tu ký, Hoan diễn do tồn thập vạn binh. (Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ, Hoan Diễn đang còn chục vạn quân). Hai câu thơ này cùng với hai câu Nhân Tông viết bên lăng Trần Thái Tông tại Long Hưng (Thái Bình) lúc làm lễ dâng tù binh mừng chiến thắng lần thứ ba: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu. (Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng.) đã đi vào lịch sử như một ký ức bất diệt về chiến công bình Nguyên năm 1285 và 1288, trong đó Nhân Tông là vị chủ soái.
  11. Bài viết của Bác Lãn Miên thật quá tuyệt. Tất cả trong một! Chỉ trong ngôn ngữ Việt mà có thể suy luận logic ra được lịch sử nước nhà. Nhưng hỏi lại rằng: Từ một quyết định nào để có thể Hán hóa 30. 000 từ tiếng Việt thống nhất và trở thành phổ biến cho đám sĩ phu Việt cong lưng học mấy ngàn năm nay thì không biết. Trong khi chính người Hán - để xóa nạn mù chữ - chỉ cần 1000 từ đựơc tự hóa để học? Tiếng Việt, ngôn ngữ Việt cứ như từ trên trời rơi xuống theo cách nhìn của họ. Vậy mà cứ ra rả như ve rằng ta là pha học, còn thằng khác là siêu hình. Chỉ nội vài tử quy định, nếu không có quyết định của chính phủ, cũng mỗi nơi một khác. Huống chi 30. 000 từ cứ như trên trời rơi xuống. Thực ra 30. 000 từ này là do từ thời Hùng Vương - trong bang giao với Trung Hoa, làm ra để dạy các quan chức ngoại giao. Vâng, quá logic. Việt sử lược viết: Việt Vương Câu Tiên sai sứ sang đề nghị Hùng Vương liên minh chống nhà Chu, bá chủ thiên hạ. Hùng Vương từ chối. Híc! Chi tiết này các nhà "pha học" lờ tịt. Bởi vì nhắc đến thì không thể lý giải nổi vì sao một liên minh 15 bộ lạc - ở trần đóng khố và trong thời đại đồ đồng, ở tận Bắc Việt xa xôi lại hân hạnh được một quốc gia Bá chủ Trung Nguyên (sau khí thắng Ngô Phù Sai) - cầu cạnh như thế. Tóm lại cái khoa học của đám phủ nhận lịch sử truyền thống văn hiến Việt là cái gì có lợi cho quan điểm của họ thì họ dùng, cái gì có hại thì lờ luôn. Theo Hoangnt, đất Việt cổ của Việt Vương Câu Tiễn thuộc nước Việt - Hùng Vương, vùng này cố đô là Hàng Châu, có con sông Tiền Đường mà bài thơ "Võng đào mẹ ru" của tác giả Nhatnguyet52 đã phân tích. Hàng châu là điểm ranh đầu nguồn khu vực sông Trường Giang (Dương Tử), ranh phân chia Bắc Nam của Đế Minh: Dễ hiểu, thời Đế Minh Bắc Nam là một tức Hàng châu phải thuộc 9 châu như Kinh Thư mô tả (Đất, sông, tên gọi, ngôn ngữ là những thứ hầu như cố định, nếu công phá vào điểm này sẽ nhận biết được lịch sử nước nhà). Vấn đề logic tiếp theo Kinh Thư thì Kinh Lễ... rõ ràng nội dung sẽ phải phù hợp văn hóa Việt.
  12. Thái cực chỉ là một trạng thái của Thực tại trước khi âm dương xuất hiện. Thái Cực mất đi ngay khi âm dương xuất hiện, do đó nó không thể nhận thấy được trong thực tế bởi con người hay bất cứ "con" gì đi nữa (vì có còn đâu mà nhận thấy. Chú ý: nhận thấy khác với nhận thức. Nhận thấy bao hàm ý thực tồn tại. Nhận thức ngụ ý tư duy, không nhất thiết thực tồn tại). Thái cực vô phân biệt nên nó chẳng thể đặc trưng cho qui luật vận động của Ngũ hành hay bất cứ cái gì. Thái cực chẳng bao hàm cái vô cùng hay cái hữu hạn vì khi ấy không có những khái niệm đó và cũng không có bất cứ khái niệm nào để nó có thể đặc trưng. Con người cũng như vạn sự, vạn vật có sinh tất có tử, chẳng thể tồn tại vĩnh viễn được. Khi Vũ trụ tiêu biến, Thực tại lại trở thành Thái cực. Cái Thái cực này không phải là Thái cực trước nhưng giống hệt nhau. Như vậy Thái Cực chỉ được nhận thức qua tư duy và rõ ràng là ta không thể nhận biết nó. Dĩ nhiên từ sự tổng hợp quy luật của thực tế và sẽ đưa ra định nghĩa Thái Cực. Mặt khác, quy luật vận động ngũ hành chỉ ra là là vòng lặp chức không phải tiêu hủy. Như vậy Thái Cực được xác định là điểm khởi đẩu của một vòng lặp vũ trụ. Từ những vấn đề này có sự mâu thuẫn không?. Như vậy có thể Thái Cực không chỉ là điểm khởi đầu của Vũ Trụ mà bao hàm cả ý nghĩa quy luật vận động của toàn Vũ Trụ cho nên biểu tượng là Vòng Tròn. Nếu ta định nghĩa Vũ Trụ là duy nhất và tổng thể thì rõ ràng nó sẽ rất mâu thuẫn bởi thức tế chỉ ra quy luật vận động này thì sẽ nằm trong quy luật vận động lớn hơn và cứ như vậy. Mâu thuẫn này chỉ ra Vũ Trụ vận động có quy luật (âm dương ngũ hành) với một "Trung tâm điều khiển toàn vũ trụ" vì tính duy nhất của nó, ví dụ các hành tinh quay quanh mặt trời; điện tử quay quanh nhân... đó phải là hành Thổ: vậy hành Thổ của Vũ Trụ được xác định như thế nào?. (Mặt trời pháp ra năng lượng và biểu tượng của nó là vòng tròn có 1 chấm ở giữa.) Giả sử điểm khởi đầu Vũ Trụ có "Năng lượng nào đó" thì cơ chế nào chỉ ra vũ trụ ngày càng giãn nở??? từ nguồn năng lượng này so với ngày nay. kết hợp ý trên thì trung tâm Vũ trụ phải là một nguồn năng lượng đặc biệt nào đấy (hành Thổ) liên kết tất cả mọi thứ tạo nên sự vận động của Vũ Trụ (vô hạn). Như vậy, vật chất hay con người sẽ không chết mà chỉ là chuyển hóa trạng thái. tuy nhiên, nếu con người tiếp cận trung tâm năng lượng Vụ Trụ thì sẽ không "luân hồi" có thể là vậy?. ... và ta nhận thấy rằng: Vũ Trụ vận động mãi mãi, không có khởi đầu và kết thúc: đúc kết biểu tượng Thái Cực là vòng tròn với nhận thức Thái Cực cũng là điểm khởi đầu của Vũ Trụ để xây dựng nên các khái niệm tiếp theo của học thuyết ADNH. Chúng ta cũng thấy: quy luật bốn mùa xuân hạ thu đông nhưng mùa xuân được xem là mùa khởi đầu.
  13. Nếu mua được ở chùa Quán Sứ thì scan lên cho mọi người tham khảo với. Trong Nam không thấy bày bán kinh này. Thanks
  14. Đôi câu đối của Chủ tịch Nhà nước Trung Hoa trân trọng gửi viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi Cụ qua đời. Thật là một sự tôn vinh cao tột bậc. Chí khí cường tráng núi sông, anh hùng xưa nay chỉ có một, Sao sáng chiếu soi vũ trụ, hào kiệt Á Âu không thể có hai.
  15. Sao lạ thế. Bạn cho địa chỉ download được không. Thanks.
  16. Thái cực mang ý nghĩa: - Bao hàm sự vô cùng, tức sự không xác định được sự khởi thủy cũng như kết thúc. - Nhưng phải phải đặc trưng được tính quy luật vận động ngũ hành. - Có thể nhận thấy trong thực tế?. - Chỉ duy nhất được nhận biết bởi con người?. - Con người là một vũ trụ thu nhỏ -> có thể tiếp cận Thái cực hay không?. Bằng phương pháp nào?. - Nếu giải thích được -> hệ quả là con người có tồn tại vĩnh viễn hay không? Hoangnt.
  17. Để hiễu rõ về nguồn gốc, chúng ta cần căn cứ ở những ghi nhận sau đây của các học giả quốc tế: Theo ông Chu Cốc Thành sử gia Trung Hoa, trong cuốn “Trung Quốc thống sử”, nhận định rằng: “Viêm tộc đã bước vào nước Tàu trước, theo ngọn sông Dương Tử, thoạt kỳ thủy chiếm 7 tỉnh Trường Giang, rồi tỏa lên mạn bắc chiếm 6 tỉnh Hoàng Hà, cũng như tỏa xuống mạn nam chiếm 5 tỉnh Việt Giang, gồm 18 tỉnh”… “Vì thế Hoa tộc vào thì Viêm Việt đã cư ngụ khắp nước Tàu. Hoa tộc tuy cũng theo Thiên Sơn Nam lộ nhưng nấn ná ở lại vùng Tân Cương thuộc Thanh Hải, mãi mới theo sông Hoàng Hà vào chiếm 6 tỉnh miền Bắc rồi lại lần tỏa xuống phía Nam đẩy lui Viêm Việt. Sự đẩy lui này hay là sự nhường bước trước sự xâm lăng của Hoa tộc được các sử gia gọi là cuộc Nam tiến, nó trải dài qua nhiều nghìn năm”. (Việt Nho, 224) Lại nói có một số khoa học gia khác đã nghiên cứu nhiều năm tại chỗ về các dân tộc mạn Nam nước Tàu như sử gia Eberhardt, đã lưu trong quyển Chinese Expansion in South China của giáo sư Harold Wiens tại đại học Yale bên Mỹ, đều cho là Viêm Việt “đã vào nước Tàu theo ngọn sông Dương Tử miền nước Thục. Vì thế họ cũng gọi là văn minh Viêm Việt là văn hóa Thục sơn. Trong 800 sắc tộc được nghiên cứu thì hai sắc dân nổi bật nhất là Thái và Việt: Thái nổi về chính trị còn Việt nổi về văn hóa”. Trích từ “Huyền sử và văn minh Lạc Việt” tác giả Thu Phong, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
  18. Hoangnt nghĩ rằng, câu này có vẻ hợp lý như Vietth22: Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn, Tam giới giai khổ, hà khả lạc giả?. Phải có cái gì ở đâu để so sánh trên, dưới chứ, nhưng ẩn nghĩa là nơi khả dĩ tìm kiếm sự an lạc. Câu trên nói lên suy nghĩa của một người nhận thức 3 giới Thiên - Địa - Nhân, trong đó bản ngã của con người đang tồn tại với thế giới vật chất. Dịch nghĩa: Trên trời dưới đất, bản ngã thường hằng, Ba cõi đều khổ, ai là người có thể đem lại sự an lạc?. Vì con người mong ước vật chất cũng là bình thường... nhưng lại không nhận biết được sự vô thường của tự nhiên, do vậy vướng vào 3 giới và mới chớm nhận biết nó và mong muốn tìm ra con đường an lạc, không còn sợ hãi nữa (không phải 3 giới thiên, địa, người). Nếu dịch Duy Nhất thì không thể hợp với bất kỳ ý nghĩa nào vì không có gì là số 1 duy nhất cả, ngoài Thái cực, hay Đạo. Câu nói trên phải là câu hỏi của một người đi tìm chân lý, chứ mới sinh làm sao có nói được như vậy?, ngoại trừ khi chưa giải thích được bằng khoa học hiện đại như hiện tượng ngoại cảm chẳng hạn...
  19. Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn là câu kệ nổi tiếng được Phật sơ sanh tuyên bố khi Ngài đản sanh. Vào đời, Ngài bước đi bảy bước, ngoảnh mặt nhìn sáu phương, bước cuối cùng dừng lại, tay chỉ lên trời tay chỉ xuống đất nói rằng “Trên đời, dưới trời, chỉ mình Ta là tôn quý nhất”. Lời tuyên bố này, được ghi chép lại trong rất nhiều kinh điển thuộc Hán tạng. Theo kinh Trường A Hàm I, “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử” (Trên trời dưới trời, chỉ mình Ta là tôn quý. Việc cần yếu của Ta là độ chúng sanh thoát ly sanh già bệnh chết – kinh Đại Bổn Duyên). Kinh Tu Hành Bản Khởi ghi “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Tam giới vi khổ, ngô đương an chi” (Trên trời dưới trời , chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều khổ Ta sẽ làm cho chúng sanh an lạc – Đại Chính tân tu [ĐCTT], T3, tr.463C). Kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi, quyển thượng chép “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Tam giới giai khổ, hà khả lạc giả?” (Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều khổ, ai là người có thể đem lại sự an lạc? – ĐCTT, t3, tr.473). Kinh Phổ Diệu nói “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” (Trên trời dưới trời, Ta là bậc tôn quý của trời và người – ĐCTT, T3, tr.494A). Kinh Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi thuật “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” (Trên trời dưới trời, bậc tôn quý nhất không ai bằng Ta –ĐCT, T3, tr.618A). Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả “Ngã ưu nhất thiết thiên nhan chi trung tối tôn tối thắng. Vô lượng sanh tử ư kim tận hỷ” (Ta, đối với tất cả hàng trời người là bậc tối tôn tối thắng. Vô lượng sanh tử từ này chấm dứt – ĐCTT, T3, tr.625A). Kinh Phật Bản Hạnh Tập “Thế giản chi trung, ngã vi tối thượng. Ngã tùng kim nhật, sanh phần dĩ tận” (Ở trong thế gian, Ta là bậc cao nhất.Từ nay, việc sanh tử của Ta đã đoạn tận – ĐCTT, T3, tr.687B). Ngoài ram còn nhiều kinh sử khác như: Phật Sở Hành Tán (ĐCTT, T4, tr. 1B), Đại Đường Tây Vực ký (q.6), Hữu bộ Tỳ nại da tạp sự (q.20) v.v… đều có thuật lại sự kiện Đản sanh.Tuy có khác biệt đôi chút về phần cuối kệ tụng này giữa những kinh điển, song đa phần vẫn thống nhất ở phần đầu kệ: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Về ý nghĩ của câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” thường được hiệu theo hai phương diện cơ bản như sau:Thứ nhất, tuy có “duy ngã độc tôn” nhưng hoàn toàn vắng mặt cái ta, chấp ngã vì Ngài đã chứng đắc và thành tựu tuệ giác vô ngã. ở đây, chỉ đơn thuần là khẳng định, xác chứng một sự thật của người đã thành tựu giải thoát tối hậu. Ngài khẳng định cho chúng sanh trong ba cõi rằng Ngài đã đoạn tận phiền não, hoàn toàn giải thoát, là Bậc thù thắng nhất, Bậc tôn quý nhất ở thế gian, không có chúng sanh nào có thể sánh với phước đức và trí tuệ của Bậc Như Lai. Duy ngã độc tôn nên được hiểu là Như lai và giáo pháp của Như Lai là tôn quý bậc nhất, không ai có thể vượt thắng, không gì có thể so sánh. “Một người, này các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người, không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang bằng, không có đặt ngang bằng, Bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, Bậc A la hán, Chánh đẳng giác” (Kinh Tăng Chi Bộ I, phẩm một người). Về một phương diện khác, “duy ngã độc tôn” là một sự khám phá toàn triệt về tự ngã. Vì vô minh, bị trói buộc và sai khiến của tự ngã nên chúng sanh mãi chìm đắm, trôi lăn trong sáu đường sanh tử. Nên khi thành Đạo, Ngài đã tuyên bố: “Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà, nay ta đã gặp ngươi rồi, ngươi không thể làm nhà được nữa. Cột, đòn tay, xà nhà của ngươi đã tan vụn rồi…” (Pháp Cú -154). Kẻ làm nhà tham ái, chấp ngã xây nên căn nhà ngũ uẩn với chằng chịt phiền não đã bị khám phá và chinh phục. Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn không hề mang ý nghĩa tự tôn, cao hạ. Ngoài sự khẳng định và xác chứng của vị giải thoát tối hậu, sự khám phá và chinh phục tự ngã đồng thời còn là biểu hiện từ bi vô lượng nhằm độ thoát chúng sanh. ---------------------- Nguồn: Hỏi đáp Phật pháp (Tổ tư vấn báo Giác ngộ) Hoangnt nghĩ rằng, câu này có vẻ hợp lý như Vietth22: "Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn, tam giới giai khổ, hà khả lạc giả?” : phải có cái gì so sánh trên dưới chứ. Tức có Thiên - Địa - Người. Dịch nghĩa: "Trên trời dưới đất, bản ngã thường hằng, ba cõi đều khổ, ai là người có thể đem lại sự an lạc?": Vì con người mong ước vật chất... không nhận biết được lẽ thường của tự nhiên. Không có gì là số 1 duy nhất cả, ngoài Thái cực, hay Đạo?. Là câu hỏi của Người đi tìm chân lý, chú mới sinh làm sao có nói được?, ngoại trừ khi chưa giải thích được bằng khoa học như hiện tượng ngoại cảm chẳng hạn...
  20. Harvard bàn về khủng hoảng giáo dục đại học VN Tuần Việt Nam Tuần Việt Nam xin giới thiệu nội dung cơ bản của bản báo cáo trong khuôn khổ Asia Programs của Trường lãnh đạo Kennedy thuộc ĐH Harvard, do hai tác giả Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson thực hiện với tựa đề: Giáo dục đại học - cao đẳng Việt Nam: Khủng hoảng và đối phó. Chúng tôi bắt đầu bằng việc phân tích tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng và những nguyên nhân căn bản của nó. Sau đó, chúng tôi xem xét các nhân tố chủ yếu – Chính phủ Việt Nam, người dân Việt Nam và cộng động quốc tế - đang phản ứng như thế nào trước tình hình này. Chúng tôi đi đến kết luận bằng việc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới về mặt thể chế như một thành tố cần thiết của một quá trình cải cách hiệu quả. (Các tác giả báo cáo) Quy mô của cuộc khủng hoảng Rất khó để phóng đại tính chất nghiêm trọng của những thách thức đang đặt ra với Việt Nam trong giáo dục đại học - cao đẳng (ĐH - CĐ). Chúng tôi tin rằng nếu không có một sự cải cách khẩn cấp và căn bản đối với hệ thống giáo dục ĐH - CĐ, Việt Nam sẽ không đạt được đúng mức tiềm năng to lớn của mình [1]. Sự phát triển kinh tế ở Đông Á và Đông Nam Á đã cho thấy quan hệ mật thiết giữa phát triển và giáo dục ĐH - CĐ. Cho dù trong các nước và vùng lãnh thổ thịnh vượng nhất ở khu vực – Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, và gần đây là Trung Quốc - mỗi nơi đều đi theo những con đường phát triển độc đáo, nhưng điểm chung trong thành công của họ là sự theo đuổi nhất quán một nền khoa học và giáo dục ĐH – CĐ chất lượng cao. Một số nước tương đối kém thành công hơn ở Đông Nam Á – Thái Lan, Philippines và Indonesia - lại là một câu chuyện mang tính cảnh báo. Những nước này nói chung đã không đạt được chất lượng cao trong khoa học và giáo dục ĐH – CĐ và họ đã thất bại trong việc phát triển những nền kinh tế tiến bộ. Đó không phải là một điềm tốt cho tương lai nếu các trường đại học Việt Nam tụt hậu xa so với chính những láng giềng Đông Nam Á không mấy nổi bật của họ. Việt Nam không có một trường đại học nào có chất lượng được công nhận. Không có một cơ sở nào của Việt Nam có tên trong bất cứ danh sách được sử dụng rộng rãi nào (nếu nhận định trên còn chưa rõ ràng) tập hợp các trường đại học hàng đầu ở châu Á. Về phương diện này thì Việt Nam khác xa với cả những nước Đông Nam Á khác, hầu hết các nước này đều có thể kiêu hãnh về ít nhất một vài cơ sở có đẳng cấp. Các trường đại học Việt Nam phần lớn bị cô lập khỏi các dòng chảy kiến thức quốc tế [2], như những gì thể hiện qua số liệu nghèo nàn tại thống kê dưới đây: Bài viết được xuất bản trên các tạp chí khoa học năm 2007 Cơ sở: Quốc gia Số bài viết: Đại học tổng hợp Quốc gia Seoul Hàn Quốc: 5.060 Đại học tổng hợp Quốc gia Singapore: 3.598 Đại học tổng hợp Bắc Kinh: 3.219 Đại học tổng hợp Phúc Đan - Trung Quốc: 2.343 Đại học tổng hợp Mahidol - Thái Lan: 950 Đại học tổng hợp Chulalongkorn - Thái Lan: 822 Đại học tổng hợp Malaya: 504 Đại học tổng hợp Philippines: 220 Đại học Quốc gia Việt Nam (Hà Nội và thành phố HCM): 52 Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam: 44 ========================================================= Nguồn: Science Citation Index Expanded, Thomson Reuters Các trường đại học Việt Nam chưa sản sinh được lực lượng lao động có trình độ như đòi hỏi của nền kinh tế và xã hội Việt Nam. Các cuộc điều tra do các hiệp hội thuộc Chính phủ thực hiện cho thấy khoảng 50% sinh viên tốt nghiệp đại học ở Việt Nam không tìm được việc làm đúng chuyên môn, một bằng chứng cho thấy sự thiếu liên kết nghiêm trọng giữa giảng dạy và nhu cầu của thị trường. Với hơn 25% chương trình học ở đại học là dành cho các môn bắt buộc quá nặng về tuyên truyền chính trị, không phải băn khoăn nhiều về việc sinh viên Việt Nam được trang bị rất kém cho cả việc đi làm lẫn việc đi du học. Có thể lấy việc Intel tìm cách thuê tuyển kỹ sư cho cơ sở sản xuất của họ ở thành phố HCM làm ví dụ minh hoạ. Khi công ty này thực hiện một cuộc kiểm tra đánh giá theo tiêu chuẩn với 2.000 sinh viên CNTT Việt Nam, chỉ có 90 ứng cử viên, nghĩa là 5%, vượt qua cuộc kiểm tra, và trong nhóm này, chỉ có 40 người có đủ trình độ tiếng Anh đạt yêu cầu tuyển dụng. Intel xác nhận rằng đây là kết quả tệ nhất mà họ từng gặp ở những nước mà họ đầu tư. Các nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế cũng cho rằng việc thiếu các công nhân và quản lý có kỹ năng là cản trở lớn nhất đối với việc mở rộng sản xuất. Chất lượng nghèo nàn của giáo dục đại học còn có một ngụ ý khác: đối lập với những người cùng thế hệ ở Ấn Độ và Trung Quốc, người Việt Nam thường không thể cạnh tranh được để lọt qua những khe cửa hẹp của các chương trình đại học cao cấp ở Mỹ và châu Âu. Chỉ số sáng tạo Quốc gia Số bằng sáng chế được cấp năm 2006 Hàn Quốc: 102.633 Trung Quốc: 26.292 Singapore: 995 Thailand: 158 Malaysia: 147 Philippines: 76 Việt Nam: 0 ========================================================= Nguồn: World Intellectual Property Organization, 2008 Statistical Review Nguyên nhân khủng hoảng Di sản lịch sử Những vấn đề mà Việt Nam đang đối mặt trong giáo dục ĐH – CĐ hiện nay là một phần hậu quả của lịch sử hiện đại của đất nước này. Chế độ thực dân Pháp cai trị Việt Nam từ nửa sau thế kỷ 19 đến tận năm 1945 đầu tư rất ít ỏi vào giáo dục cấp ba, thậm chí là so với các cường quốc thực dân khác. Hậu quả là, Việt Nam đã bỏ lỡ làn sóng cải cách thể chế trong giáo dục ĐH – CĐ tràn qua phần lớn khu vực châu Á đầu thế kỷ 20. Trong giai đoạn này, rất nhiều cơ sở giáo dục ĐH – CĐ hàng đầu của khu vực đã được thành lập. Hậu quả là sau khi giành độc lập, Việt Nam chỉ có một nền tảng thể chế rất yếu để từ đó xây dựng lên. (Điều này trái ngược hẳn với Trung Quốc, hầu hết các trường đại học đầu bảng của nước này hiện nay đều được thành lập vững chắc từ trước cách mạng). Quản lý Nguyên nhân trực tiếp nhất của cuộc khủng hoảng ngày nay là sự thất bại ngiêm trọng trong quản lý. Các trường đại học có chất lượng, từ Boston đến Bắc Kinh, đều có những nhân tố chủ chốt nhất định mà Việt Nam hiện đang rất thiếu [3]. Tự trị: Các cơ sở học thuật ở Việt Nam vẫn chịu một hệ thống quản lý tập trung hoá cao độ. Chính quyền trung ương quyết định số lượng sinh viên các trường được phép tuyển, và (trong trường hợp các trường đại học công lập) lương trả cho các giảng viên đại học. Ngay cả những quyết định mang tính thiết yếu đối với việc vận hành một trường đại học như việc lập khoa cũng do hệ thống quản lý tập trung hoá này kiểm soát. Hệ thống này hoàn toàn không khuyến khích các trường và học viện cạnh tranh hay đổi mới. Thù lao được trả căn cứ vào thâm niên, và lương cứng thấp đến nỗi các giảng viên đại học phải “đi đêm” rất nhiều để có thể đảm bảo cuộc sống. Khác hẳn với Trung Quốc, Việt Nam vẫn chưa thực sự khuyến khích người Việt Nam học ở nước ngoài. Lựa chọn dựa trên thành tích: Tham nhũng lan tràn và việc mua bán bằng cấp, học hàm, học vị là rất phổ biến [4]. Các hệ thống nhân sự đại học đều mù mờ và việc bổ nhiệm thường dựa trên những tiêu chuẩn phi học thuật như thâm niên, lý lịch gia đình và chính trị, và các mối quan hệ cá nhân. Các khoa và các cấp hành chính cao hơn có xu hướng do các cá nhân từng được đào tạo ở Liên Xô hay Đông Âu nắm giữ, những người này không nói được tiếng Anh và, trong không ít trường hợp không mặn mà với các đồng nghiệp trẻ được đào tạo ở phương Tây. Các mối liên hệ và tiêu chuẩn quốc tế: Sản sinh kiến thức là việc của một doanh nghiệp không biên giới, nhưng các cơ sở học thuật ở Việt Nam lại thiếu những mối liên hệ quốc tế có ý nghĩa. Trên thực tế, các học giả trẻ được đào tạo ở nước ngoài thường xuyên lấy lý do để tránh làm việc trong các cơ sở học thuật ở Việt Nam là họ lo sợ không thể gắn bó với lĩnh vực của mình. Như GS. Hoàng Tụy miêu tả, giới học thuật Việt Nam rất hướng nội và không đánh giá bản thân theo các tiêu chuẩn quốc tế. Trách nhiệm giải trình: Các trường đại học Việt Nam không chịu trách nhiệm trước các cổ đông bên ngoài, và đáng trách là trong đó có cả những người tuyển dụng. Trong nội bộ hệ thống công lập, việc rót vốn không liên quan đến công việc hay chất lượng theo bất cứ hình thức đáng kể nào. Tương tự, kinh phí nghiên cứu của Chính phủ cũng không được cấp một cách có cạnh tranh mà chủ yếu được coi là một hình thức bổ sung lương. Vì có quá nhiều người thèm muốn những cánh cửa hẹp vào các trường đại học - chỉ 1/10 người Việt Nam ở độ tuổi học đại học được tuyển sinh vào các trường sau phổ thông – nên các trường đại học Việt Nam không phải chịu áp lực đổi mới nào. Họ có một thị trường bị giam cầm, vì du học chỉ là sự lựa chọn của một thiểu số rất nhỏ. Tự do học thuật: Ngay cả khi so sánh với Trung Quốc, các trường đại học ở Việt Nam cũng thiếu động lực tri thức ở một mức độ đáng kể. Ngay cả khi các trường đại học đang dần được phép nới lỏng hơn, vẫn có một mạng lưới các kiểm soát và kiềm chế chính thức và không chính thức để đảm bảo rằng các trường đại học vẫn tiếp tục suy tàn về tri thức trong khi các cuộc tranh luận trong xã hội ngày càng sôi nổi hơn. Có một số ẩn ý trong luận điểm trên. Trước hết, rào cản chính đối với việc cho ra những kết quả cải thiện hơn trong giáo dục ĐH – CĐ lại không phải là chuyện tài chính. Trên thực tế, tính theo tỉ lệ trong GDP, Việt Nam chi nhiều cho giáo dục hơn nhiều nước khác trong khu vực. Con số này còn chưa tính đến số tiền lớn mà chính các gia đình Việt Nam đầu tư vào giáo dục cho con cái họ, ở nhà và ở nước ngoài. Nhưng tiêu tiền như thế nào lại là chuyện khác. Thứ hai, đầu tư vào du học vẫn chưa đủ để cải thiện hệ thống. Nếu môi trường chuyên môn không được đại tu, sẽ không có nhiều người Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài muốn quay về làm công tác giảng dạy ========================================================= Chú thích 1. Để có sự phân tích hệ thống và so sánh về những thách thức chính sách đối với Việt Nam, xem “Choosing Success: The Development of East and Southeast Asia and Lessons for Việt Nam”, tại: http://www.innovations.harvard.edu/showdoc.html?id=98251. 2. Hệ thống đại học Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề từ hệ thống học thuật của Liên Xô, trong đó các trường đại học về cơ bản là các cơ sở giảng dạy, còn nghiên cứu là việc của các viện nghiên cứu. Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tại các trường đại học nhưng chưa thành công, nguyên nhân có nêu dưới đây. Theo Bảng 1, các viện nghiên cứu của Việt Nam cũng không hoạt động tốt lắm. 3. Phân tích của chúng tôi về những thất bại trong quản lý của Việt Nam chịu ảnh hưởng từ những tìm hiểu của Task Force về giáo dục ĐH – CĐ, do WB và UNESCO tập hợp, do GS. Henry Rosovsky của ĐH Harvard và GS. Mamphela Ramphele của ĐH Cape Town làm đồng chủ tịch. Trong báo cáo cuối cùng của mình, Peril and Promise: The Challenges of Higher Education in Developing Countries, Task Force kết luận rằng quản lý là rào cản cơ bản phổ biến đối với việc đạt được những kết quả tốt. (Có tại http://www.tfhe.net/). GS. Rosovsky là cố vấn của Viện Ash trong các hoạt động liên quan đến cải cách thể chế ở Việt Nam. 4. Cần phải nhấn mạnh rằng một trong những thành tố của hệ thống đại học giúp nó không bị tham nhũng và chủ nghĩa thân hữu làm cho què quặt là các kỳ thi tuyển sinh đại học. Chính phủ phải huy động rất nhiều nguồn lực đáng kể để đảm bảo quá trình thi cử không có gian lận. Kết quả là, những sinh viên được nhận vào học là những sinh viên tài năng và nhiều người có thể thành công trong việc bổ sung cho các giáo trình cũ kỹ bằng cách tự học. Nguồn: Tuanvietnam.vn ========================================================= Sao bèo thế nhỉ, không hiểu tại sao?, mỗi khi thấy nước khác xung quanh ta phát triển cảm thấy?, nếu ai là người đi công tác nước ngoài thường xuyên.
  21. Thanks bạn Tiểu Phương. Hình như Tử Vi không chỉ dùng để xem vận mệnh của mỗi cá nhân, mà nó còn được dùng với những chức năng nào khác do vậy trong văn hóa Việt có bức tranh: TỬ VI TRẤN TRẠCH. Cao nhân nào góp ý thêm.
  22. Chắc quay về cơ bản là giáo dục tiểu học cấp 1 & 2 với lịch sử 5000 năm văn hiến huy hoàng và lấy Nho giáo làm căn bản. Lên các lớp cao Trung học nữa dạy: tinh thần Samurai Việt. Cao hơn nữa Đại học...: tự khắc sẽ xâm nhập vào khoa học tri thức một cách mạnh mẽ vì có nền tảng trên. Số lượng đào tạo có giới hạn vì hiện nay kiểu gì cũng có bằng cả, từ Đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ... động như quân Nguyên. Từ xa xưa, cha ông đã đúc kết hình tượng 3 con vật trong một: Thanh gươm đứng trên lưng con rùa, trong khi đó con rắn lại quấn lấy thanh gươm nhưng thân hình hoàn toàn tự nhiên, không bị đứt.
  23. Hoan hô Bác RUBI đã trở lại. Chân Thiện Mỹ không hai, cái Chân thì vốn tự đầy đủ, khi đầy đủ thì tự nhiên thiện lành, thiện lành thì tự nhiên tự nhiên, tự nhiên tự nhiên tức là không bị chi phối, không bị chi phối thì phát triển, phát triển thì có thăng hoa, thăng hoa thì có Mỹ sắc. Không nên tách rời để phân biệt chân là chân hay sắc là chân, sắc là sắc hay chân là sắc. Trong sắc có chân, trong chân có sắc. Đây không phải là triết lý cho nên mọi triết lý phản biện và phản đối đều bình đẳng như ủng hộ hay tán thán. Bác viết cực khó hiểu. Tuy nhiên: sự ràng buộc/ chi phối là hoàn toàn tự nhiên và chúng chính là quy luật đối với mỗi cá nhân?.