hoangnt

Hội viên
  • Số nội dung

    1.909
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    6

Everything posted by hoangnt

  1. Để nhận định trung tâm hành chính của nước Việt Cổ, chúng ta có thể tạm thời tóm tắt các mục sau: - Huyền sử Việt về biên giới nước Việt thời Kinh Dương Vương. - Huyền sử về biên giới nước Việt trước thời Kinh Dương Vương (nếu có). - Nội dung cuộc khảo sát của bác sĩ Trần Đại Sĩ về ranh giới nước Việt cổ. - Cuộc chiến chống giặc Ân thời vua Hùng Vương 6 và nội dung vua chạy ra đất Mân (Phúc Kiến) trong Kinh dịch???: ý kiến tác giả Thiên Sứ. - Bản đồ Trung Hoa hiện nay với tên gọi các vùng, sông, núi... - Bàn đồ thời chiến quốc và nhà Tần. - Nhận định về vị thế Loa thành và Phong Châu. - Địa danh Phong Châu ở khu vực Hà Tây - Hà Nội và các nơi khác (nếu có). - Văn hóa trống đồng: phong tục lễ hội, ý nghĩa trống đồng. - Ngôn ngữ Nôm: ý nghĩa cội rễ từ các phân tích của các học giả. - Hình dáng cư dân so với người Việt ở các khu vực nước Việt cổ. - Quảng Tây hoặc Hồ Nam... vị thế trong Ngũ Hành: quản lý hành chính. - Hướng các kinh thành của nước ta cũng như trung Hoa theo hướng Bắc Nam? tương ứng nhận định chầu vua quay về hướng Nam?. - Khảo cổ: các di vật mang tính chất của kinh thành, nơi vua ngự... - Kinh Thư (Kinh lễ...): sử Trung Hoa phải tương ứng với nhận định về ranh nước Việt cổ. Tuy nhiên trong sách có câu Việt nhược kê cổ tức người Việt viết lại tích xưa?: có bị sửa đổi hay không trong mối tương quan ---> phải được xem xét đầu tiên. Kính. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  2. Theo tôi Thời gian và Không gian không phải là Vật chất, do vậy không có thuộc tính. Cho nên, chúng ta chỉ gán thuộc tính vật chất cho nó hoặc dùng nó làm bài toán chuyển đổi ngược lại sau khi gán mà thôi. Thân. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  3. Trong nghiên cứu "Cơ sở học thuyết ADNH" đang xây dựng, tôi gọi những đối tượng của thế giới Tâm linh, như cách hiểu thông thường, là Thần khí, mà bản chất là trường khí âm dương thứ cấp. Xin đóng góp một phương án về tên gọi. Thân mến! Hình như trong Đạo Đức Kinh hay...? có đề cập đến tam tài của con người là Tinh, Khí, Thần. Nếu hiểu rõ ý người xưa thì có khả năng hiểu tâm linh?.
  4. Dare nghĩ Phật là người đã đứng trên cái ác và cái thiện, từ bỏ được cái nhị nguyên thiện/ác. Cuộc đời này thiện ác đan xen, đó là lẽ thường. Tất nhiên phải có các tiêu chuẩn đạo đức để con người căn cứ vào đấy. Thật may mắn nếu thiện ác được phân biệt rõ ràng, nhưng có khi lằn ranh thiện/ác thật mỏng manh. Việc thiện, việc ác đôi khi phải cần thời gian để trả lời. Với người này là ác, với người kia lại là thiện. Cuộc đời như dòng sông, uốn lượn, êm đểm, thác ghềnh. Chỉ có nương theo dòng đời, như nước chảy, vượt lên thiện ác bằng từ bi, bằng trí tuệ là những gì mà dare hiểu được hôm nay. Đời và đạo không thể tách rời. Đời bao gồm vào đời - sinh sống - chịa tay. Đạo cũng đi vào đời qua 3 giai đoạn này. Vào đời: giáo dục từ khi còn nhỏ, có lòng từ bi... Sinh sống: có trí tuệ, ngũ thường, yêu nước... Chia tay: bằng 1 phương pháp cụ thể của Đạo để thoát luân hồi. Chung quy: hiểu quy luật, chấp nhận thực tại, chia tay thỏa mãn. Thân. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  5. Đa Văn thiên vương Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Đa Văn Thiên Vương tay cầm Hỗn Nguyên Tán - hình tượng phổ biến trong Phật giáo, chùa Thiên Vương cổ sát - Đà Lạt - Lâm Đồng-Việt Nam Đa Văn thiên vương (chữ Hán: 多聞天王) là vị thần đứng đầu trong bốn vị thần quan trọng mang danh hiệu Tứ Đại Thiên Vương trong tôn giáo truyền thống Đạo Giáo và Phật Giáo Trung Quốc. Đây là vị thần trấn phương Bắc, theo dõi thế giới, bảo hộ nhân dân, nên còn được gọi là Bắc phương Thiên vương. Tranh họa vải Đa Văn thiên vương tại Nhật Bản - thế kỷ 13 Trong tôn giáo Ấn Độ Trong Ấn giáo, ông là một vị thần có tên gọi Kuvera hay Kubera (tiếng Sanskrit: कुबेर), vốn là con trai nhà hiền triết Vishrava. Vì thế ông còn có tên là Vaiśravaṇa (tiếng Sanskrit: वैस्रवण) hoặc Vessavaṇa (tiếng Pali: कुवॆर), phiên âm Hán Việt là Tỳ Sa Môn. Theo truyền thuyết Ấn giáo, Kubera đã tu khổ kuyện cả ngàn năm và vì vậy vị thần sáng tạo Brahma ban cho sự bất tử và giàu sang và trông coi kho tàng của trái đất.[1]. Khi được du nhập vào Phật giáo Ấn Độ, Vaiśravaṇa trở thành một vị Hộ thế (phiên âm Sanskrit: lokapāla), trấn giữ phương Bắc của cõi trời thứ nhất trong Dục giới, chế phục chúng ma, bảo hộ tài sản của nhân gian. Cũng như các Hộ pháp khác, thần được mô tả thân mình mặc giáp trụ. Tuy nhiên, thân hình lục với khuôn mặt vàng, mang mũ giáp, tay cầm lọng báu (chatra) che chở cho nhân gian. Tại Ấn Độ, Tây Tạng và Nepal, Vaiśravaṇa thường được thờ phụng dưới hiển tướng Kubera - hay thần giàu sang, được coi là hiển tướng quan trọng nhất của thần, vì vậy thường được miêu tả là vị thần to béo, tay cầm túi đựng châu báu và xung quanh đầy vàng bạc châu báu. Có khi lại là hình tượng ngài mặc giáp trụ cưỡi sư tử vây quanh bởi 8 Yaksas[2]đều coi là xuất ra từ chính bản thân ông. Có khi ngài còn được miêu tả là vị thần mang vương miện, ruy băng, cưỡi sư tử, tay phải cầm ngọc châu, tay trái cầm giữ con chồn Mongoose, biểu thị của chiến thắng của thần với yêu quỷ, tượng trưng lòng tham. Với tư cách là vị thần của cải, ngài bóp chặt Mongoose và khiến nó phải nhả ngọc châu ra.[1] Tượng Đa Văn Thiên Vương trong xuất thân Jambhala - tượng đồng Tây Tạng thế kỷ 18 Trong tiếng Tây Tạng, Vaiśravaṇa được phiên âm thành rnam.thos.sras (Namthöse), có thể xuất hiện cùng lúc với 8 Yaksa, được gọi là hiển tướng của ngài. Tám hiển tướng này quan trọng nhất vẫn là Kubera da sẫm Phương Bắc và Jambala màu trắng ở Phương Đông. Chính vì vậy, thường thì ngài được thờ ở cả ba hiện thân: Vaisharavana, Kubera và Jambala.[1] Tại Thái Lan, ông được gọi là Thao Kuwen (chữ Thái: ท้าวกุเวร) hoặc Vessavan (chữ Thái: เวสสุวัณ). Trong tôn giáo vùng Đông Á Khi Phật giáo được du nhập vào Trung Hoa, tên vị thần này được dịch thành Duō Wén Tiān Wang (chữ Hán: 多聞天王), với ý nghĩa là "vị thiên vương nghe cả thế giới". Từ đó, theo từng vùng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa Trung Hoa, tên gọi vị thần này được phiên âm khác nhau. Tại Nhật, vị thần này được gọi là Tamon-ten (Kanji: 多聞天) hoặc Bishamon-ten (Kanji: 毘沙門天); tại Hàn Quốc là Damun-cheonwang (Hangul: 다문천왕). Tại Việt Nam, tên gọi vị thần phiên âm thành Đa Văn Thiên Vương. Đa văn thiên vương tay cầm Hỗn Nguyên Tán và chuột thử bạc trên tay - hình phổ phổ biến tại các chùa Hoa Đa Văn Thiên Vương được hiểu là người tinh thông Phật pháp, đưa phúc đức đến bốn phương, ở tại ngọn Hoàng Kim núi Kiên Đà La cạnh núi Tu Di, thân mặc giáp trụ, tay phải cầm một lọng báu (hoặc cây phướn báu), tay trái nắm Ngân thử (chuột bạc) có thể phun ngọc khi bị siết chặt.[1], chế phục ma chúng, bảo hộ tài sản dân chúng, giữ Bắc Câu Lư Châu, là vị Thiên Vương thứ ba trong hàng Nhị Thập Chư Thiên. Đa Văn Thiên Vương còn được thờ với hiển tướng là hộ thần phương Bắc, thân mang giáp trụ, tay phải cầm thương và tay trái cầm bảo tháp. Bảo tháp này chứa châu báu mà ngài gìn giữ. Trong các chùa ở Châu Á, ngài là vị thần bảo vệ và che chở cho các hình tượng thờ ở chính điện có khi thờ trước cổng môn chùa hoặc bên trái hoặc phải mỗi bên hai vị khi phối thờ chung với nhau. Khi xuất hiện là hộ thần Phương Bắc, Đa Văn Thiên Vương mang giáp trụ tay phải cầm thương và tay trái cầm bảo tháp - tượng thờ tại chùa Tōdai-ji, cố đô Nara-Nhật Bản thế kỷ 12
  6. HÌNH TƯỢNG HỘ PHÁP VI ĐÀ TRONG KIẾN TRÚC NGÔI CHÙA Khi viếng cảnh chùa hay vô tình bước vào chốn Thiền môn, có một hình tượng mà ta dễ dàng bắt gặp khi nhìn lên các tam quan dạng cổ lâu đó là vị tướng trong trang phục võ quan, đầu đội kim khôi, mặt hướng về Đại Hùng Bửu Điện với tên dân gian thường gọi là thần Hộ pháp. Nhưng vị thần Hộ pháp đó có danh xưng là gì và vì sao lại hướng ánh nhìn về Đại Hùng Bửu Điện chứ không phải hướng ngược lại thì không phải nhiều người được biết. Xin được trả lời ngay đó là hình tượng Vi Đà Tôn Thiên hay Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát, vị thần Hộ pháp trong Phật giáo. Theo truyền thuyết, Vi Đà nguyên là thiên thần Thất Kiện Đà của đạo Bà La Môn, là con trai của thần Hộ pháp Phật giáo Đại Tự Tại Thiên, sau đó trở thành thần Hộ pháp của Phật giáo. Trong hàng ngũ những vị thiên thần Hộ pháp thì Vi Đà nổi danh bởi tài năng chạy nhanh như bay. Tương truyền sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt, chư Thiên thần và chúng Vương bàn về việc hỏa thiêu di thể, nhặt Xá lợi thờ trong tháp. Lúc này Đế Thích Thiên cầm bình thất bảo đến chỗ thiêu để lấy Xá lợi vì trước kia Ngài đã được Đức Phật chấp thuận cho một chiếc răng đem về để dựng tháp thờ. Nhưng khi ấy có quỷ La Sát nấp bên người Đế Thích Thiên, thừa lúc Ngài không chú ý bèn trộm răng Phật. Vi Đà Tôn Thiên trông thấy bèn đuổi theo, nhanh như tia chớp, trong nháy mắt đã bắt được quỷ La Sát tống vào ngục, trả lại răng Phật cho Đế Thích Thiên, được chư Thiên khen ngợi. Từ đó về sau, Vi Đà được cho là có thể xua đuổi tà ma, bảo hộ Phật pháp, gánh vác trọng trách bảo vệ linh tháp (stupa) của Phật Tổ (chứa xá lợi Phật). Kể từ đó hình tượng Vi Đà được song hành cùng linh tháp chứa Xá lợi, mang ý nghĩa bảo vệ an toàn cho Đức Phật. Trong Phật giáo, nguyên kiến trúc của một ngôi chùa Ấn Độ cổ gồm có Chi đề, còn gọi là phúc tự (Saitya) kết hợp với tăng phòng (Vihara) và một linh tháp (stupa). Chi đề là nơi thờ Phật, tụng kinh, thuyết pháp, tăng phòng là chỗ cư trú của chư tăng và linh tháp là nơi tôn trí xá lợi Phật (lúc đầu) và sau này là xá lợi của chư vị bồ tát, thánh tăng. Trong hệ thống kiến trúc này thì linh tháp thường được chọn làm trung tâm cho các hoạt động dâng cúng, tụng niệm và đây là công trình kiến trúc quan trọng nhất. Kết cấu kiến trúc này không thay đổi trong một thời gian dài trên mảnh đất khởi nguồn của Phật giáo, Ấn Độ. Những ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc cũng lấy kiến trúc linh tháp thờ Xá lợi Phật làm trung tâm, các điện thờ chỉ là các kiến trúc phụ. Đến sau thời Tùy Đường, khi có trào lưu đắp tượng Phật lớn ở các chùa thì kết cấu kiến trúc trên dần thay đổi. Các pho tượng Phật lớn cần có các điện thờ lớn để chứa đựng vì vậy từ việc xem linh tháp là chi tiết kiến trúc quan trọng nhất đã chuyển sang việc lấy những điện thờ Phật (mà tiêu biểu là Đại Hùng Bửu Điện) làm trung tâm. Khi Đại Hùng Bửu Điện là chi tiết kiến trúc trung tâm trên một trục thẳng thì vị trí của linh tháp cũng không còn nằm trên trục ấy. Không gian ở phía sau điện Thiên Vương và phía trước điện Đại Hùng không có linh tháp. Thế nhưng theo truyền thống Phật pháp, vai trò hộ pháp của Vi Đà Tôn Thiên là không thay đổi, cho nên người ta mới sắp đặt tượng Ngài ở sau Điện Thiên Vương, mặt hướng về Đại Hùng Bảo Điện nơi tôn trí tượng Phật Thích Ca, ngụ ý ông đang chấp hành chức trách của một vị thần giữ gìn, bảo hộ. Có những ngôi chùa còn xây dựng riêng cho Vi Đà một điện ở phía sau điện Thiên Vương, gọi là điện Vi Đà. Kiến trúc của ngôi chùa Việt tiếp thu mô hình trục thẳng tâm của Trung Quốc nhưng giản lược các công trình không cần thiết, phù hợp với phong cảnh, địa thế và văn hóa Việt Nam. Ngôi chùa Việt vẫn có Đại Hùng Bảo Điện làm chi tiết kiến trúc trung tâm và các điện thờ khác,... Chúng ta đã bỏ đi Tiền Điện (Điện Thiên Vương), điện Vi Đà trên trục thẳng ấy. Nhưng cũng vì thế phải chọn vị trí đặt tượng Hộ pháp Vi Đà làm sao để vừa đảm bảo tính truyền thống của Phật pháp là vị thần bảo hộ vừa thể hiện được sự giản lược. Đứng trên Tam quan của ngôi chùa và nhìn về Đại Hùng Bửu điện là nơi khả dĩ nhất. Với vị trí này, qua một khoảng sân rộng hẹp tuỳ địa thế của ngôi chùa, Hộ pháp Vi Đà có thể quan sát được những gì đang diễn ra với đức Phật, thể hiện rõ vai trò hộ pháp mà mình đã mang từ thời nguyên thuỷ. Ngày nay, hình tượng Vi Đà Hộ pháp dễ bắt gặp nhất có dạng mình mặc áo giáp đội mũ khôi trụ, tay cầm chày Hàng Ma, quay mặt về phía Đại Hùng Bảo Điện, đôi mắt chăm chú nhìn vào bức tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, thực hành nhiệm vụ chánh pháp. Thông thường thì có hai hình tượng Vi Đà đã được Trung Quốc hoá, đặc điểm chung của chúng là có hình dáng giống như một võ tướng của Trung Hoa cổ đại, mặc áo giáp đội mũ khôi trụ, hai mắt nhìn thẳng, dáng đứng đầy uy vũ. Một dạng có tư thế hai tay chắp lại để trước ngực, chiếc chày Hàng Ma được đặt ngang trên hai cổ tay, đứng thẳng vút cao trên mặt đất. Còn một dạng hình tượng khác có tư thế là tay phải nắm chiếc chày Hàng Ma chống xuống đất, tay trái chống vào eo lưng chân phải hơi hướng về phía trước một chút, giống như kiểu đang nghỉ ngơi. Như vậy, dù là ngôi chùa Việt hay ngôi chùa của Trung Hoa, dù có hay không có điện Vi Đà thì Vi Đà Tôn Thiên vẫn một lòng thực hành nhiệm vụ hộ pháp mà Ngài đã được Chư thiên và đồ chúng Phật tử tin tưởng với vị trí trên mỗi tam quan khi bước vào ngôi chùa. Huế, tháng 06 năm 2010 Mauquansan
  7. Sắt đã bắt đầu được gia công vào cuối thời đại đồ đồng tại Anatolia. Sự chuyển tiếp thành thời đại đồ sắt vào khoảng năm 1200 TCN chủ yếu là do các thay đổi chính trị tại Cận Đông hơn là do các phát triển trong kỹ thuật luyện kim. Dưới đây là giai đoạn của thời đại đồ đồng tại Cận Đông: Thời đại đồ đồng (3300–1200 TCN) Thời đại đồ đồng sớm (3300–2200 TCN) Thời đại đồ đồng sớm I 3300–3000 TCN Thời đại đồ đồng sớm II 3000–2700 TCN Thời đại đồ đồng sớm III 2700–2200 TCN Thời đại đồ đồng giữa (2200–1550 TCN) Thời đại đồ đồng giữa I 2200–2000 TCN Thời đại đồ đồng giữa II A 2000–1750 TCN Thời đại đồ đồng giữa II B 1750–1650 TCN Thời đại đồ đồng giữa II C 1650–1550 TCN Thời đại đồ đồng muộn (1550–1200 TCN) Thời đại đồ đồng muộn I 1550–1400 TCN Thời đại đồ đồng muộn II A 1400–1300 TCN Thời đại đồ đồng muộn II B 1300–1200 TCN Ấn Độ Thời đại đồ đồng tại tiểu lục địa Ấn Độ đã bắt đầu khoảng năm 3300 TCN với sự bắt đầu của văn minh sông Ấn. Các dân cư cổ đại của thung lũng sông Ấn (Indus), người Harappa, đã phát triển các kỹ thuật mới trong luyện kim và sản xuất đồng, đồng đỏ, chì và thiếc. Đông Á Trung Quốc Bài chi tiết: Văn hóa Nhị Lý Đầu Các cổ vật từ đồng đỏ đã được phát hiện tại khu vực khảo cổ của nền văn hóa Mã Gia Diêu (3100 TCN tới 2700 TCN) tại Trung Quốc. Tuy nhiên, nói chung người ta hay chấp nhận là thời kỳ đồ đồng của Trung Quốc đã bắt đầu vào khoảng năm 2100 TCN, trong thời kỳ nhà Hạ. Văn hóa Nhị Lý Đầu, nhà Thương và văn hóa Tam Tinh Đôi của Trung Quốc sơ kì đã sử dụng đồng đỏ để làm các bình, chai, lọ từ đồng đỏ cho các lễ nghi cũng như các công cụ nông nghiệp và vũ khí [1]. Đông Nam Á Tại Ban Chiang, Thái Lan,Việt Nam[2] (Đông Nam Á) các cổ vật đồng đỏ đã được phát hiện có niên đại vào khoảng năm 2100 TCN [3]. Tại Nyaunggan, Myanmar, các công cụ bằng đồng đỏ đã được khai quật cùng với các cổ vật bằng đá và gốm sứ. Niên đại của chúng hiện nay còn khá rộng (3500 TCN - 500 TCN) [4].
  8. Việt Nam là cội nguồn võ thuật là đúng, tuy nhiên Tạo Hóa đang nô đùa thế gian. Thân mến.
  9. Ngũ Lĩnh: Chỉ 5 đèo lớn Đại Dữu 大庾, Kị Điền 騎田, Đô Bàng 都龐, Manh Chử 萌渚, Việt Thành 越城. Ở Hồ Nam 湖南, giữa khoảng Giang Tây 江西 và Quảng Đông 廣東. (1) Ban trúc: Vua Thuấn đi tuần phương Nam, chết ở Thương Ngô. Hai phi Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành vết lốm đốm. (2) Thương Ngô: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam 湖南 ngày nay.
  10. Chào bác Rubi Ở Tây Hồ, Hàng Châu có Am Bạch Vân, trong có Miếu Thờ Nguyệt Lão. Nơi đây có câu liễn đối: Nguyện thiên hạ hữu tình nhân, đô thành liễu quyến thuộc, Thị tiền sanh chú định sự, mạc thác quá nhân duyên. Nhờ Bác dịch giúp với. Thanks.
  11. Ngoài chiếc la bàn dùng trong việc định hướng di chuyển, trong phong thủy Lạc Việt còn có chiếc la bàn phong thủy - hay còn gọi là La kinh. Bề mặt La kinh chia 360 độ thành 24 sơn hướng: bằng việc kết hợp 12 địa chi + 10 thiên can + hướng Càn + hướng Khôn = 24 góc (15 độ). Hiện tại, chưa có sách nào giải thích tại sao người xưa lại xây dựng được 24 sơn hướng này? Đây là một câu hỏi vô cùng hóc búa. Mọi người hãy cùng nhau thảo luận chứ. Kính. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  12. Thông tin về cương vực quốc gia này một lần nữa khẳng định những gì ghi trong Đại Việt sử ký cho nước Văn Lang: «đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến Động Đình, nam giáp Hồ Tôn». Tuy nước Văn Lang như vậy có phần rộng hơn về phía Bắc. Có thể thấy Ngũ Lĩnh Sơn của Kinh Dương Vương như vậy không phải là ở Hồ Nam mà chính là phần đất trung tâm của người Việt ở Bắc Việt, Quảng Tây. «Ngàn Bắc Sơn» hay «ngàn Bắc phương» của nước Xích Quỷ thực ra là ở phương Nam, chính là đất Nam Giao. Tức là phương Nam Bắc có thể đã bị hoán chuyển, mới làm thông tin địa lý lịch sử trở nên lẫn lộn như vậy. Kim chỉ nam định hướng trục Bắc Nam. Sao Bắc đẩu định hướng Bắc (người đi rừng hay đi biển xưa hay dùng). Hướng Bắc Nam không chỉ là phương hướng mà còn tương ứng các thuộc tính trong các phương pháp phong thủy, kinh dịch, địa lý... Nếu thay đổi thì sẽ gây tình trạng náo loạn mọi thứ, cho nên theo em vẫn nó y nguyên. Chúng ta cũng chú ý về việc khi chầu vua thì quay mặt về hướng Nam cũng là một thông tin khá lý thú, có thể chỉ ra kinh thành xưa được xây dựng với cổng chính theo hướng nào. Kinh thành Huế có cổng Ngọ Môn. Thăng Long Tứ trấn vẫn chính xác theo hướng Bắc Nam. Do chúng ta không có đủ dữ liệu (đa số chắc nằm ở Trung Hoa, khu vực đất Việt cũ) nên thiếu cơ sở. Trong Ký sự hỏa xa tập 7 - Hồ Nam: thì người dân ở đây trông giống hoàn toàn dân Việt, không nhận ra sự khác biệt qua dáng vẻ bên ngoài. Thật đặc biệt. Kính. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  13. DƯƠNG TỬ GIANG Khói trầm bên giấc mơ tiên Bâng khuâng... trăng rải qua miền quạnh hiu Tô Châu lớp lớp phù kiều Trăng đêm Dương Tử, mây chiều Giang Nam (NCTG) Ấy là những lời của cố thi sĩ Hồ Dzếnh trong thi phẩm "Khúc linh cầu" khi nhớ về quê nội của ông, mảnh đất Trung Hoa. Trong số những địa danh mà ông nêu ra trong nỗi nhung nhớ, có Dương Tử Giang, con sông "mẹ" của tất cả sông hồ trên xứ sở Trung Quốc, đồng thời, cũng là con sông dài nhất ở Châu Á. Đến mức, người ta đã dùng một tên chung là Trường Giang (con sông dài) để chỉ về nó. Dương Tử Giang, đoạn chảy qua tỉnh Vân Nam Dương Tử Giang dài chừng 6.300 cây số, là con sông dài thứ tư trên thế giới sau sông Nile (châu Phi), sông Amazon (Nam Mỹ) và sông Mississippi - Missouri ở (Bắc Mỹ), có cội nguồn ở tỉnh Thanh Hải phía Tây Trung Quốc và chảy về phía Đông đổ ra Đông Hải. Thực ra, thoạt đầu, Dương Tử là tên gọi của người dân sống tại hạ lưu sông này để chỉ khúc sông chảy qua đó; tuy nhiên, thông qua những nhà nhà truyền giáo châu Âu, tên "Dương Tử" đã được dùng trong tiếng Anh để chỉ toàn bộ con sông (Yangtze). Là con sông lớn nhất Trung Quốc xét cả về chiều dài, lượng nước chảy, diện tích, lưu vực và ảnh hưởng kinh tế, Dương Tử Giang là đầu mối giao thông quan trọng của đất nước này, nối liền Trung Hoa lục địa với bờ biển. Càng ngày, các chuyến tàu thủy du ngoạn trên sông trong vài ngày - hay thậm chí vài tuần - đưa du khách qua các khu vực có phong cảnh đẹp, càng trở nên phổ thông hơn, khiến du lịch Trung Quốc thêm thu hút và ngày một phát triển. Đập Tam Hiệp, phía thượng lưu có mức nước cao (ảnh chụp ngày 26-7-2004) Tuy nhiên, trong lịch sử, con sông hùng vĩ Dương Tử Giang cũng gây nên nhiều trận ngập lụt hãi hùng cho cư dân sống hai bên bờ, khiến chính quyền Trung Quốc phải đau đầu ngẫm nghĩ về phương thức giải quyết. Để rồi, dự án thủy lợi Tam Hiệp - giúp người dân khỏi cảnh ngập lụt, đồng thời, cung cấp cho họ điện năng và vận tải đường thủy - đã được thông qua và khởi đầu từ mùa hạ 1994, sẽ khánh thành năm 2009 và trở thành hệ thống đê điều và thủy lợi kỳ vĩ nhất hành tinh. Được gọi bằng cái tên "Vạn Lý Trường Thành" trên Dương Tử Giang, công trình đập Tam Hiệp cũng là một điểm đến không thể thiếu đối với du khách thăm dòng sông này; cho dù, để được nó, Trung Quốc phải chấp nhận một giá rất đắt là hy sinh vĩnh viễn một số thành phố, một số vùng dân cư, nhiều kỳ quan thiên nhiên vô giá và không ít công trình khảo cổ quan trọng. Dương Tử Giang cũng phải chịu một sự thay đổi lớn trong hệ sinh thái, khiến một số động vật trong danh sách báo động nguy hiểm - như cá heo sông Trung Quốc hay cá kiếm Trung Quốc - nay đã coi như tuyệt diệt. * Du ngoạn dọc Dương Tử Giang, người lữ khách có dịp "mục sở thị" vô vàn những địa danh nổi tiếng dọc bờ sông, đã đi vào lịch sử, văn hóa và tâm thức người dân Trung Hoa từ ngàn đời nay. Đơn cử như: Nơi diễn ra trận Xích Bích giữa Ngụy và liên minh Ngô - Thục - Những sự tích thời Tam Quốc của Ngụy - Thục - Ngô thế chân vạc, của những điển tích hào hùng không mấy ai không biết như ba anh em Lưu - Quan - Trương kết nghĩa vườn đào, Ngô và Thục (Chu Du và Khổng Minh) hợp lực kháng Tào trong trận Xích Bích nổi danh trên dòng Dương Tử Giang, Lưu Bị sau khi thu trận trước quân Ngô, trước khi mất phó thác con trai là Lưu Hậu Chủ cho thừa tướng Khổng Minh Gia Cát Lượng tại Bạch Ðế Thành, v.v... - Thành Đô (Tứ Xuyên), vùng đồng bằng màu mỡ từng được gọi là "Thiên Phủ Chi Quốc" (đất nước thiên đường), cố đô của nhà Thục Hán Lưu Bị cách đây 18 thế kỷ. Thành Đô cũng còn là vùng đất của nhiều văn nhân mạc khách nổi tiếng, như "Thi Thánh" Đỗ Phủ, thi hào Tô Đông Pha, và là quê hương của Ba Kim, nhà văn kiệt xuất Trung Quốc thế kỷ XX. Hiện nay, đây là đô thị đông dân thứ 5, đồng thời, được xem như "thủ đô thuốc Bắc của Trung Hoa". Thành Đô có tới 172 di tích lịch sử văn hóa, trong đó nổi tiếng nhất là: Võ Hậu Từ, Thảo Đường Đỗ Phủ, Lăng Vua Thục Vương Kiến, Tam Hiệp... Khu bảo tồn gấu trúc Thành Đô với loại gấu Panda quý hiếm rất nổi tiếng, Di sản thế giới từ năm 2006, cũng là đích của nhiều tour du ngoạn của khách ngoại quốc. Nga Mi Sơn, đạo tràng của Phổ Hiền bồ tát - Nga Mi Sơn, một trong Tứ đại Phật giáo danh sơn (bốn núi Phật Giáo lớn nhất Trung Hoa), địa thế cao chót vót, phong cảnh hữu tình, được ví như "Nga Mi thiên hạ tú". Sách "Thủy Kinh chú" nói về Nga Mi Sơn như sau: "Cách Thành Đô trăm dặm, dưới bầu trời thu xanh trong, ở phía xa hai dãy núi đối nhau như mày ngài". Thời gian đầu, Nga Mi Sơn là vùng đất của Đạo giáo, nhưng về sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc thì cả Đạo giáo và Phật giáo đồng tồn tại ở đây. Cho đến thời Tùy - Đường, Nga Mi Sơn đã trở thành nơi tụ tập của Phật giáo. Lạc Sơn Đại Phật Được xem như là đạo tràng của Phổ Hiền bồ tát, Nga Mi Sơn cùng bức tượng Lạc Sơn Đại Phật cao 71 mét, là tượng Phật ngồi tạc trên vách đá lớn nhất thế giới ở núi Thê Loan, bên ngã ba của các dòng sông Mân Giang, Đại Độ Giang và Thanh Y Giang, được công nhận là Di sản thế giới năm 1996. Thăm Nga Mi Sơn, du khách sẽ có dịp thưởng ngoạn những ngôi chùa cổ kính, nổi bật là Vạn Niên Tự có kiến trúc mang đậm dấu ấn của Đạo giáo, nhưng lại có vẻ tương tự lăng mộ Thành Cát Tư Hãn. Trong Vạn Niên Tự, có tượng đồng Phổ Hiền bồ tát uy nghiêm cưỡi voi, cao 7,35 m, nặng 62 tấn. Thanh Thành Sơn, cái nôi của Đạo giáo Trung Quốc - Thanh Thành Sơn, một trong những cái nôi của Đạo giáo Trung Quốc, đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 2000 cùng công trình thủy lợi Đô Giang Yển. Thanh Thành Sơn và Nga Mi Sơn còn vang bóng trong các pho truyện kiếm hiệp và thư tịch cổ Trung Hoa, như những môn phái võ thuật lừng danh của xứ sở này một thuở. Tượng khắc đá Đại Túc trên núi Bảo Đỉnh - Quần thể tượng khắc đá Đại Túc tại Trùng Khánh, đa phần tập trung trên núi Bảo Đỉnh (một trong những vùng đất linh thiêng của Phật giáo với câu truyền tụng trong dân gian "Thượng triều Nga Mi, hạ triều Bảo Đỉnh") và vách núi Bắc Sơn, quy mô lớn và nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, hình thức vô cùng phong phú. Với hơn 5 vạn pho tượng được chạm khắc bằng đá, phân bố ở hơn 40 địa điểm, trong đó chủ yếu là các pho tượng của đạo Phật, sau đó là Đạo giáo và Nho giáo, và tượng một số ít nhân vật lịch sử, đây là quần thể tượng thể hiện rất điển hình nghệ thuật tạc tượng Phật của Trung Quốc. Tượng khắc đá Đại Túc đã được công nhận Di sản văn hóa Thế giới năm 1999. - Thành phố Kinh Châu, tọa lạc ở trung độ của Dương Tử Giang, một nơi có tầm quan trọng chiến lược về mặt quân sự, kinh tế và phân phối hàng hóa từ thời xa xưa. Là kinh đô của 20 vị vua trong 411 năm của nước Sở trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc (thuộc nhà Chu), của Tề Hòa Đế nhà Nam Tề, Lương Nguyên Đế, và Hậu Lương; của quốc gia Nam Bình thời kỳ Ngũ đại thập quốc, nhưng cái tên Kinh Châu được người Việt biết đến nhiều nhất trong lịch sử thời Tam Quốc, là nơi trấn thủ của danh tướng Quan Vân Trường, và cũng là nơi ông từ giã cõi trần. - Vũ Hán, thành phố đông dân nhất miền Trung Trung Quốc nằm ở ngã ba Dương Tử Giang và Hán Thủy, từ lâu được xem là trung tâm của thi họa và học thuật, nổi tiếng với tòa lầu Hoàng Hạc "hạc vàng mây trắng" được dựng trên một gò cao bên bờ Dương Tử Giang. Đứng trên lầu có thể bao quát cả một vùng sông Dương Tử - gồm bãi Hán Dương, Châu Anh Vũ, Quy Sơn, Hạc Sơn -, lầu Hoàng Hạc được nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường khắc họa "thần sầu" trong thi phẩm "Hoàng Hạc Lâu": "Nhật mộ hương quan hà xứ thị - Yên ba giang thượng sử nhân sầu", mà thi hào Tản Đà đã dịch một cách hết sức tài hoa, thể hiện cái buồn man mác mà có người cho là còn hơn cả nguyên bản: "Quê hương khuất bóng hoàng hôn - Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai". - Cổ Cầm Đài tại Hán Dương, với tích Bá Nha - Tử Kỳ, biểu tượng của sự hiểu biết, tâm đắc, chia sẻ nỗi niềm trong tình cảm, quan niệm, trong nhận thức thế sự cuộc đời. Đây là nơi mà, theo sách "Lã Thị Xuân Thu" của Lã Bất Vi, "Bá Nha gảy đàn, Chung Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm, khen rằng: ngun ngút như núi Thái Sơn, cuồn cuộn như dòng nước chảy". Thi hào Nguyễn Du, trong "Truyện Kiều", đã có câu: Rằng nghe nỗi tiếng cầm đài Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ - Động Đình Hồ, hồ lớn thứ hai của Trung Quốc, có diện tịch xê dịch từ 2.820-20.000 km² phụ thuộc vào từng mùa. Có tới 9 dòng sông lịch sử đổ vào Động Đình Hồ, trong đó ngoài Dương Tử Giang, còn hai con sông Tiêu Giang, Tương Giang rất nổi tiếng trong văn thơ và hội họa sơn thủy Trung Quốc. "Ai có về bên bến sông Tương - Nhắn người duyên dáng tôi thương - Bao ngày ôm mối tơ vương…" của nhạc sĩ Thông Đạt, hay "Kiều" của Nguyễn Du, “Sông Tương một giải nông sờ - Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia” cũng là nói về dòng sông Tương chảy vào Động Đình Hồ. Động Đình Hồ, nơi được coi là cội nguồn của các tộc Bách Việt Tuy nhiên, quan trọng nhất với dân Việt, Động Đình Hồ còn được coi như nguồn cội của tộc Việt (Bách Việt), như theo "Đại Việt sử ký toàn thư": Động Đình Hồ là ranh giới phía Bắc của nước Xích Quỷ, nơi Kinh Dương Vương lấy con gái vua Động Đình là Long Nữ đẻ ra thái tử Sùng Lãm, tức Lạc Long Quân. Lạc Long Quân kết hôn với công chúa Âu Cơ, sau lên thay Kinh Dương Vương đổi tên nước là Văn Lang... Nước Việt khởi nguồn từ đó! - Hai ngọn núi Vu Sơn, Vu Giáp, gắn liền với sự tích yêu đương cùng nữ thần núi "sớm đi làm mây - chiều đi làm mưa" của vua Sở Trang Vương thời Chiến Quốc, để rồi văn học Trung - Việt có những điển tích "mây mưa", "giấc Vu Sơn", "đỉnh Giáp non Thần" hay "Vu Giáp", "giấc mộng Dương Đài"... để chỉ cảnh yêu đương của nam nữ, chẳng hạn, trong bài "Thanh Bình điệu" nổi tiếng của thi hào Lý Bạch đời nhà Đường: Đầu cành sương đọng ngát hương đông. Mây mưa Vu Giáp nỗi đau lòng. Hay trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du, đoạn tả cảnh Kim Trọng đang thiu thiu ngủ thì nàng Kiều lén song thân sang thăm chàng: Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng. - Thành phố Nhạc Dương, nằm ở phía Đông Bắc Hồ Nam, nơi một nửa Động Đình Hồ đổ vào Dương Tử Giang. Đó là một đô thành có lịch sử lâu đời, nổi tiếng thiên hạ với câu "Động Đình thiên hạ thủy - Nhạc Dương thiên hạ lâu". Trong hàng ngàn năm, Nhạc Dương là nơi tụ hội của các thi hào văn nhân, là đất tranh hùng của các nhà cầm quân lỗi lạc. Nhạc Dương còn có sông Mịch La, một nhánh của sông Tương, nơi đại thần nước Sở Khuất Nguyên trẫm mình. Nhạc Dương lâu Danh thắng lừng lẫy nhất của Nhạc Dương là Nhạc Dương lâu sừng sững ở phía Tây thành, quay mặt ra Động Đình Hồ. Là một trong "Giang Nam tam đại danh lâu" (Đằng Vương các, Hoàng Hạc lâu, Nhạc Dương lâu), lầu Nhạc Dương vốn là lầu duyệt binh do danh tướng Lỗ Túc của Đông Ngô thời Tạm Quốc xây dựng và đến thời nhà Đường mới có tên Nhạc Dương lâu. Tòa lầu xây toàn bằng gỗ, lầu chính có 3 tầng, đặc biệt là không dùng đinh ốc. Các thi hào như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ... đều đã đến đây ngâm vịnh, đề thơ. Thi sĩ, nhà chính trị nổi tiếng Phạm Trọng Yêm đời Bắc Tống có tác phẩm "Nhạc Dương lâu ký", để đời với tư tưởng người làm chính trị phải "tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Thi hào Nguyễn Du của Việt Nam cũng có bài "Đăng Nhạc Dương Lâu", tức "Lên lầu Nhạc Dương": Lầu cao sừng sững bờ cao Lên cao hùng tráng biết bao cảnh trời Mây tràn Tam Sở khắp nơi Chín sông thu đổ nước vời mênh mông Ba lần say Lã Đồng Tân Cố hương khuất áng mây Tần xa xa Hắt hiu gió thổi mình ta Chim hồng, chim nhạn bóng tà kêu thương * Như thế, có thể thấy rằng, du ngoạn Dương Tử Giang đồng thời cũng là một cuộc hành trình thú vị và văn hóa, ngược chiều thời gian và xuôi theo một không gian kỳ vĩ, để tìm hiểu và có thêm ý niệm về Trung Quốc, một quốc gia từng có lịch sử văn minh chói lọi và đến nay vẫn là một đại cường có ảnh hưởng không nhỏ đến cục diện thế giới! Trần Lê tổng hợp theo các tư liệu báo chí
  14. Trộm đất “viếng” Đền Hùng Để vào khu di tích lịch sử Đền Hùng (Tp Việt Trì, Phú Thọ), các phương tiện giao thông đều phải đi qua một loạt các trạm gác của lực lượng bảo vệ. Kiểm soát nghiêm ngặt là vậy nhưng không hiểu sao, trước mùa lễ hội năm nay, hàng vạn khối đất đồi gần trung tâm của khu di tích bị "xúc trộm" trong nhiều ngày. Con voi chui lọt lỗ kim Tuy việc xúc đất đã bị "đình" cách đây khoảng 1 tuần nhưng vụ việc cũng đã khá ầm ĩ và gây nhiều bức xúc cho người dân trong khu vực. Khi được chúng tôi tìm đường về khu đồi Cá Chuối (thuộc địa bàn xã Chu Hóa, TP Việt Trì), nhiều người dân đã hỏi ngay,"có hỏi anh muốn tìm đến chỗ khu đồi bị đào, lấy đất đem bán?. Chúng tôi ở đây, muốn đào móng làm bếp cũng phải xin phép chính quyền. Nhưng họ đã ngang nhiên xẻ cả quả đồi trong khu di tích để lấy đất, rầm rập chở đi thì quả là bất chấp pháp luật". Ông Khôi trao đổi với phóng viên. Qua khu Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ đang được xây dựng, chúng tôi đã thấy 2 vệt vết bánh xe ô tô còn in khá rõ trên mặt đất, tạo thành 1 lối mòn, xuyên qua hàng bạch đàn tái sinh tại đồi Cá Chuối. Cuối lối mòn này hiện ra hai hố đất khổng lồ, dài mỗi chiều hàng chục mét, chỗ sâu nhất cũng trên dưới 10 m, màu đất mới nguyên. Phía bên kia khu đồi là đền Lạc Long Quân, mới được khánh thành. Đem vụ việc trao đổi với "bị hại", chúng tôi được ông Vũ Tiến Khôi, Giám đốc Khu di tích LS Đền Hùng cho hay: ‘‘Khu đồi Cá Chuối nằm trong quần thể Khu di tích LS Đền Hùng nên phải được giữ nguyên trạng, cấm đào bới khi chưa có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền. Chúng tôi cũng chỉ biết được vụ việc khi có người dân gọi điện báo tin. Khi đó thì khu đồi Cá Chuối đã bị đào như vậy rồi. Ngay lập tức, đại diện UBND xã Chu Hóa đã đến lập biên bản sự việc và yêu cầu các xe chở đất, xe xúc ngừng việc khai thác đất trái phép này". Xe ô tô chạy thành lối mòn vào đồi Cá Chuối. Ông Khôi thừa nhận: "Chúng tôi đã có khuyết điểm là kiểm tra không sâu sát", nhưng cũng thanh minh thêm: "Vụ việc xảy ra trên địa bàn đang có việc xây dựng đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ nên anh em bảo vệ không để ý, thấy ô tô chở đất thì cứ tưởng là xe ô tô phục vụ việc thi công tượng đài". Vụ trộm được “bật đèn xanh”? Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Thanh Vân, Chủ tịch UBND xã Chu Hóa khẳng định ngay: “Đây là vụ đào đất trái phép trong khu di tích vì khu vực này không có quy hoạch hoặc chủ trương san gạt mặt bằng nào cả”. Cấp phó của ông Vân, bà Triệu Thị Hồng Nhung ước tính: “Lượng đất bị đào tại hố bị lập biên bản khoảng 3.000 m3. Còn hố phía bên kia bị đào lớn hơn nhưng không lập được biên bản vì không bắt được quả tang ai đang khai thác. Biên bản thể hiện, người trực tiếp khai thác đất là anh Nguyễn Văn Chung (người này khai, “được anh Ngô Bá Vương thuê khai thác đất”). Khi được hỏi về mục đích của việc đào đất này, cả bà Nhung và ông Khôi đều nghiêng về khả năng “đất đã được bán để phục vụ san lấp công trình”. Ngoài ra, các cán bộ ở xã Chu Hóa tiết lộ “từng có nhiều người đến đặt vấn đề mua đất đồi tại xã để san lấp công trình nhưng đều bị xã từ chối. Từ đầu năm đến nay, xã đã lập biên bản đình chỉ gần 20 vụ đào đất kiểu này nhưng vụ việc ở đồi Cá Chuối là nghiêm trọng nhất”. 1 trong 2 hố bị đào đất Với lượng đất khai thác lên đến cả vạn tấn thì đã có hàng trăm lượt xe tải chạy ra vào đồi Cá Chuối trong một thời gian ngắn. Chẳng nhẽ sự kiện này lại dễ dàng qua mặt cơ quan chức năng ở Đền Hùng, nhất là khi đường vào khu đồi này qua ngay cửa đồn công an Đền Hùng, cách không xa trụ sở Khu di tích. Liệu có sự “bật đèn xanh” hoặc câu kết của những cán bộ có thẩm quyền quản lý khu đồi với đối tượng trộm đất?. Ông Khôi vội vàng bác bỏ nghi vấn này, rằng: “Không có chuyện tôi ăn tiền người khác để mà làm láo được. Đây là khu vực tâm linh…”. Còn phía chính quyền xã cũng đẩy trách nhiệm khi bà Nguyệt phát biểu: “để xảy ra vụ việc là trách nhiệm của Khu di tích vì đồi Cá Chuối, tuy thuộc địa bàn hành chính của xã Chu Hóa nhưng lại thuộc phạm vi quản lý của Khu di tích Đền Hùng”. Trách nhiệm để xảy ra việc xâm hại nghiêm trọng khu di tích đền Hùng còn đang bị đùn đẩy. Trong khi đó, sự việc đã diễn ra hơn 1tuần nay thì cả Ban quản lý Khu di tích lẫn UBND xã Chu Hóa đều không báo cáo lên cấp trên. Vụ việc cũng không không được cơ quan công an vào cuộc để xác minh làm rõ kẻ chủ mưu vụ đào đất này, có việc mua bán đất hay không và nếu có thì ai là người ngang nhiên đứng ra bán đất ngay tại khu di tích loại đặc biệt, cấp quốc gia?. Khoa Lâm Suy đồi rồi, sự vô trách nhiệm đến tận cùng, khốn khổ!.
  15. Mình cũng có cơ hội đọc qua nhiều sự phản biện cách đây dăm năm, minh chứng của 1 số bác, nhưng mình chỉ công nhận các bài chứng minh của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh là mang tính logic và hợp lý cao nhất (tạm thời trong tầm hiểu biết của mình thì vẫn chưa thấy mâu thuẫn), có lẽ đó là lý do mình tìm đọc những tác phẩm của ông để hiểu thêm (Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, Bí ẩn 60 hoa giáp, etc.). Cái gì bất hợp lý lâu ngày sẽ lòi ra, còn cái gì hợp lý (có tính chân lý), thì nó cứ tồn tại mãi và sẽ còn mãi tương đồng với các vấn đề liên quan cho dù thời gian có qua bao lâu, với bao nhiêu cái mới được sinh ra. Thống nhất cùng bạn. Tác giả bài này có may mắn là đã thiết lập được Trung Thiên Đồ. Đồ này quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam. Đây chính là Đồ thứ ba trong số ba Thiên Đồ trọng yếu của Kinh Dịch mà người Trung Hoa không tìm ra. Nếu Tiên Thiên Đồ là Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ là Địa Đồ thì Trung Thiên Đồ là Nhân Đồ nghĩa là Đồ nói về con người. Có một danh hoạ tài ba nào chỉ trong một hình vẽ có thể biểu đạt ba hình thái khác nhau về con người? Điều này chưa ai làm được, ngay cả máy móc tân tiến nhất, hiện đại nhất cũng không thể làm việc này. Thế mà Trung Thiên Đồ cùng một lúc có thể diễn tả ba trạng thái khác nhau đó: Trung Thiên Đồ có mục đích nói về những vấn đề liên quan đến con người cho nên hình đồ Trung Thiên có thể biểu thị ba khía cạnh khác nhau của con người về mặt sinh lý, về mặt siêu lý và về mặt đạo lý. Theo trãi nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí công, Thiền, thì cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thuỷ), Luân xa 3 là Đơn điền Ngũ Hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là Luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn (tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên. Bát quái có 8 quẻ nhưng có 7 luân xa, không biết có mâu thuẫn không. Bài viết của tác giả Nguyễn Thiếu Dũng rất hay. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  16. Địa danh Lạc Việt trên đất Lĩnh Nam. Bài viết hay quá. Bác Lãn Miên có thể nhận định thêm các địa danh tỉnh Hồ Nam cho mọi người cùng tham khảo ạ. Ý nghĩa Hồ Nam phải chăng chính từ địa danh Hồ Động Đình và nước Nam. Hoangnt đang nhận định Hồ Nam là trung tâm hành chính của Văn Lang và Việt Nam hiện nay là Thánh địa chứ không phải trung tâm, là nơi đất tổ. Ngũ Lĩnh theo nghiên cứu của tác giả Nhatnguyet52 mang ý nghĩa Thủ lĩnh, độ số 5 hành Thổ, Hoàng Cực, trung tâm?. Kính.
  17. Sao không thấy ai tiếp cùng bác Hoangnt nhỉ? Đỉnh cao của nghiên cứu chăng? Không có gì dễ dàng, bài nghiên cứu của tác giả Pháp Vân rất hay. Hiện nay, một số sách của các tác giả nổi tiếng Việt Nam vẫn khẳng định hội Ngọ chứ không phài hội Thìn. Theo HoangNT việc nhận định mốc khởi thủy can chi hay hội, nguyên... không đơn giả như ta nghĩ, dĩ nhiên theo dữ liệu thiên văn là chính yếu. Hệ quả của bài phân tích của tác giả Pháp Vân là hết sức quan trọng về mặt lịch sử: Khẳng định năm lên ngôi của vua Kinh Dương Vương 2879 TCN - Nhâm Tuất là hoàn toàn chính xác theo can chi, vận, hội, nguyên... và xa hơn nữa tức không thời gian và vật chất là một hệ thống nhất. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  18. Gregory Pflugfelder, giám đốc trung tâm Văn hóa Nhật Donald Keene tại Đại học Colombia (Mỹ), giải thích: “Người Nhật có ý thức rằng trước hết phải có trách nhiệm với cộng đồng”. Thật tuyệt đối khâm phục. Một nước Nhật điêu tàn sau thế chiến thứ II, đứng dậy sau 25 năm và trở thành như ngày nay, tài nguyên thì zero, điều kiện thiên nhiên thì lại quá khắc nghiệt. Trách nhiệm với cộng đồng có khác gì tinh thần dân tộc - Samurai Nhật sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc. Hoàn toàn giống tôn chỉ của Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa Việt Nam: ân tổ tiên, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại -----> Nhân kiệt. Địa linh chưa đủ. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  19. Trích từ mục Tử bình - Tứ trụ: Pháp Vân: Kính Bác Hà Uyên, anh Thiên Sứ và quí vị, Xin được có đôi dòng: 1. Theo Quyển Hòang Việt Giáp T‎í Niên Biểu của Tác giả Cụ Nguyễn Bá Trác Năm – 2879, Nhâm Tuất VN Đời Hồng Bàng , nguyên niên TQ Vua Nghi, năm 10 Năm – 2877, Giáp Tí thứ nhất VN Đời Hồng Bàng, năm 3 TQ Vua Nghi, năm 12 Năm – 2697, Giáp Tí thứ 4 VN, Đời Hồng Bàng, năm 183 TQ Vua Hòang Đế, nguyên niên. Năm – 2217, Giáp Tí thứ 12 VN Đời Hồng Bàng, năm 663 TQ Vua Thuấn, năm 39 Năm – 1 Canh Thân VN Thuộc nhà Hán, năm 111 TQ Hán Ai Đế, Nguyên Thọ, năm 2 Năm 1 Tân Dậu VN Thuộc nhà Hán, năm 112 TQ Hán Bình Đế, Nguyên Thủy, Nguyên niên Năm 4 Giáp Tí thứ 49 VN Thuộc nhà Hán, năm 115 TQ Hán Bình Đế, Nguyên thủy, năm 4 Năm 1804, Giáp Tí VN Hòang Triều Thế Tổ, Gia Long, năm 3 TQ Thanh Nhân Tông, Gia Khánh, năm 9 Năm 1813. Quí Dậu VN Hòang Triều Thế Tổ Cao Hòang Đế, Gia Long, năm 12 TQ Thanh Nhân Tông, Gia Khánh, năm 18 Hiện nay 2010 VN CHXHCN Việt Nam TQ CHNDTH 2. Theo sách Thái Ất Thần Kinh – TT NBKhiêm; NXBVHDT năm 2001 Số năm tính từ Thượng Cổ Giáp Tí (Tích Tuế) đến năm 2000 (Canh Thìn) là : 10.155.917 năm. Lịch Việt được 4879 năm. 3. Theo Bác Hà Uyên dẫn trên thì, Ngài Thiệu Khang Tiết chọn Hội Ngọ từ năm – 2217. 4. Năm – 2217 Giáp Tí là năm khởi mới cùa một Nguyên, hoặc một Hội, hoặc một Vận, hoặc một Thế (Nguyên Hội Vận Thế) tùy theo người chọn độ dài năm của Nguyên Hội Vận Thế : 129.600; 10.800; 4.320; 360. Nếu chúng ta tin số Tích Tuế 10.155.917 năm là đúng đến năm 2000 DL (Canh Thìn) thì, tính đến năm 2000 DL đã trải qua 78,36 Nguyên có độ dài 129.600 năm. Ta có : 129.600 * 78 nguyên = 10.108.800 năm Hiện nay chúng ta đang sống trong Nguyên thứ 79. Ta lấy 10.155.917 năm – 10.108.800 năm = 47. 117 năm Tìm Hội chúng ta đang sống. 47.117 năm : 10.800 năm = 4,36 Hội Suy ra chúng ta chúng ta đang sống trong Hội Thìn chứ không phải Hội Ngọ. Hội Thìn bắt đầu từ năm – 2217 Giáp T‎í Năm – 2217, Giáp Tí VN Đời Hồng Bàng, năm 663 TQ Vua Thuấn, năm 39 Đây cũng là căn cứ lý giải các Hòang Đế Phương Đông chọn Rồng làm biểu tượng quyền lực. Lịch Việt của Tổ Tiên chúng ta là chính xác, hợp với truyền thuyết con Rồng cháu Tiên. Vài dòng suy đoán
  20. Mai em sẽ gửi trực tiếp tới văn phòng Trung Tâm. Kính.
  21. Cuốn sách này có bán ở các hiệu sách. Có cả lời giới thiệu của sử gia nổi tiếng. Đọc mất 30 phút: cảm giác... NGÁN NGẨM (sorry). * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  22. Trong một bài viết nào đó ở trang web này của tác giả Lãn Miên có đề cập đến khu vực Hà Tây - Hà Nội cũng có tên dân gian là Phong Châu, theo phân tích ngôn ngữ. Như vậy, khả năng danh xưng của các vùng khu vực thuộc nước Văn Lang cũ và ở Trung Hoa bây giờ, Nam sông Dương Tử cũng có thể có tên Phong Châu. Theo truyền thuyết, vua Hùng đóng đô ở Phong Châu trước cả Loa Thành, như vậy tên gọi Phong Châu cũng là một vấn đế cần được xem xét. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  23. Thiệu tử, tác giả quyển Hoàng Cực Kinh Thế cho rằng: đất trời từ khi sinh đến khi hủy là 4320 x 30= 129,600 năm. Ông gọi 129,600 là một Nguyên. 1 Nguyên chia làm 12 Hội: 129,600 : 12 = 10,800 năm 1 Hội có 30 Vận: 10,800 : 30 = 360 năm. 1 Vận có 12 thế: 360 : 12 = 30 năm. Theo Ông, trời khai vào Hội Tí; Địa khai vào Hội Sửu (10800); Người sinh vào Hội Dần 20,160. Vua Nghiêu lên ngôi 2357, theo Thiệu Tử là vào Hội Ngọ, vận thứ 30, thế thứ 9, tức là vào năm 67,057 sau khi trời được tạo nên. Theo đấy mà tính, thì năm nay, 1988, chúng đang sống vào năm 71,402. Loài người sẽ cáo chung vào Hội Tuất, tức là vào khoảng năm 108,000! Lịch sử trên 5000 năm, vậy việc người xưa chọn lựa Hội Thìn là hợp lý về mặt logic, nhưng cơ sở thời gian phải suy luận: con rồng, cháu tiên.
  24. Vọng Giang Nam - Siêu Nhiên đài tác - 望江南-超然臺作 Thơ khuyết danh 春未老, 風細柳斜斜。 試上超然臺上看, 半壕春水一城花, 煙雨暗千家。 寒食後, 酒醒卻咨嗟。 休對故人思故國, 且將新火試新茶, 詩酒趁年華。 Xuân vị lão, Phong tế liễu tà tà. Thí thượng Siêu Nhiên Đài thượng khán, Bán hào xuân thuỷ nhất thành hoa, Yên vũ ám thiên gia. Hàn thực hậu, Tửu tỉnh khước tư ta. Hưu đối cố nhân tư cố quốc, Thả tương tân hoả thí tân trà, Thi tửu sấn niên hoa. Mùa xuân như vẫn còn nguyên, Gió reo nhè nhẹ liễu nghiêng nghiêng bờ, Siêu Nhiên Đài, bước lên cao, Một thành hoa nở bên hào nước xuân, Nhà nhà mưa ám lưng chừng. Tiết Hàn Thực cũng theo xuân sắp tàn, Tỉnh sau cơn rượu dở dang, Mừng trông người cũ mơ màng nước xưa, Lại khơi ngọn lửa đun trà, Rượu thơ bám lấy tuổi hoa suốt mùa. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  25. Ban chỉ đạo cứu Rùa của thành phố chưa quyết định thời điểm cho cuộc vây bắt tiếp theo. Theo ông Rao, thời điểm đó phụ thuộc tiến độ làm lưới mới. Việc làm lưới thay thế cho tấm rách hôm qua đã được \giao cho Tập đoàn Thương mại Hà Nội Khanh Anh Trang (KAT), từng có kinh nghiệm nuôi và chăm sóc loài rùa. Nguyễn Ngọc Khôi, giám đốc KAT cho biết từ hôm nay, công ty này bắt tay vào làm lưới, dự kiến cần 3-4 ngày để hoàn thành. Sau cuộc họp rút kinh nghiệm chiều qua, ông Khôi cho biết tấm lưới bị rách có chất lượng kém, chứ không phải lưới đặc biệt như dự kiến lúc đầu. Phản ứng trước nhận xét này, đại diện cơ quan phụ trách lưới bắt Rùa nói không phải do lưới kém chất lượng, mà sự cố thủng lưới là "ngoài ý muốn". Trần Xuân Việt, giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thông, đơn vị phụ trách lưới, nói khi trả lời phỏng vấn VnExpress qua điện thoại: "Chúng tôi đã nhận khuyết điểm".