hoangnt

Hội viên
  • Số nội dung

    1.909
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    6

Everything posted by hoangnt

  1. Bàn về bản chất của linh hồn trường vong TS Vũ Văn Bằng LTS: Cách đây 40 năm, mảnh đất Quảng trị từng là nơi diễn ra nhiều trận chiến dữ dội, ác liệt và câu hỏi có bao nhiêu chiến sĩ giải phóng quân nằm xuống nơi đây đến nay vẫn còn là điều nhức nhối? Tháng 6/2006, Hội Cựu chiến binh Mỹ cung cấp cho phía Việt Nam một mẩu tin ngắn ngủi: Trong một trận chiến năm 1967 tại cứ điểm Cồn Tiên (xã Gio An, huyện Gio Linh), toàn bộ 173 chiến sĩ giải phóng quân tấn công cứ điểm đã hy sinh và được chôn chung trong một hố rộng. Từ đó đến nay, với trên 10 điểm đào bới quy mô lớn, độ sâu từ 1-2 mét một vùng đồi cao su rộng hàng chục ha, lực lượng tìm kiếm, quy tập mộ của Ban chỉ huy quân sự Gio Linh mới tìm được bốn bộ hài cốt nằm rải rác. Được biết thông tin này, TS Vũ Văn Bằng, chuyên gia ngành địa chất công trình hiện nay là chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần “Tia Đất” đã tình nguyện vào Gio Linh tham gia công việc tìm kiếm. Căn cứ vào bản sơ đồ vẽ tay của hội CCB Mỹ cung cấp, với khả năng dò tìm tia đất bằng một phương pháp khoa học, TS Vũ Văn Bằng đã xác định được chính xác vị trí chôn tập thể 173 chiến sĩ và bước đầu đã tìm được 4 hài cốt không nguyên vẹn. Ngày 9/ 9/ 2007, Ban chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị, huyện Đội và nhân dân huyện Gio Linh đã tổ chức lễ ra quân cất bốc và quy tập hài cốt liệt sĩ rất trọng thể. Vậy “cơ chế” nào giúp phát hiện được hài cốt? Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của TS Vũ Văn Bằng xung quanh chủ đề “Những giả thuyết mới về bản chất của linh hồn-vong”. Những giả thuyết cơ bản (tóm tắt) đó là: Giả thuyết thứ nhất Cơ chế hình thành cái gọi là “linh hồn”- trường vong của con người sau khi chết. Cái chết của con người tựa cái chết của những siêu sao hình thành lỗ đen - tuân theo luật “Thiên nhân tương ứng” và hình thành trường lực hấp dẫn mạnh từ hiện tượng đối áp xuất khiến cho cấu trúc vật chất của nó (siêu sao- thi hài và linh hồn người chết) đổ sụp vào trong biến thành khoảng hư vô trống rỗng (Einstein đã hình dung ra hiện tượng suy sụp hấp dẫn này). Dấu vết còn lại chỉ toàn là “lực vô hình”, thực chất đó chính là “trường lực hấp dẫn mạnh” (sẽ chứng minh ở phần dưới). Giả thuyết thứ hai TS. Vũ Văn Bằng tìm các tia bức xạ trên vùng đất thổ cư và kiểm tra hài cốt dưới nền nhà Bản chất linh hồn – vong là một trường vật lý đa hệ, tương tự như các trường trong vật lý vũ trụ. Bao gồm: trường hấp dẫn, trường điện từ, trường tương tác (sự phân rã các hạt cơ bản và nơtrion) và tương tác mạnh (các lực hạt nhân và cộng hưởng), tương ứng với nó là bốn dạng tương tác: hấp dẫn, điện tử, yếu và mạnh. Các nhà khoa học trong đó có Einstein đã cố gắng thống nhất chúng thành một trường duy nhất, thể hiện sự thống nhất của vũ trụ. Linh hồn- vong cũng là trường vật lý đa hệ như trên, là trường sinh học mang thông tin. Hài cốt tựa “một nam châm vĩnh cửu” và tồn tại trường điện từ yếu mang thông tin (khác với trường sinh học). Các trường này tương tác, ràng buộc lẫn nhau tạo nên trường thế - khung cốt của trường vong (hình dáng của chủ thể) mà không thể nhận biết bằng các giác quan thông thường. Giả thuyết thứ ba “Linh hồn – vong là trường điện từ chủ yếu chứa thông tin” – gồm phần lớn các trường vốn có của cơ thể sống lưu lại và chứa thông tin sau khi thể xác ngừng hoạt động. Trường này tồn tại được là nhờ có dao động điện từ của các nguyên tử của hài cốt và bức xạ ra môi trường xung quanh lan truyền với tốc độ ánh sáng. Nhà vật lý học người Ba lan, Slawinski phát hiện ra khả năng bức xạ photon của cơ thể với cường độ cỡ 10-1000 photon/s/cm2. Khi chết bức xạ này tăng lên gấp hơn 1000 lần. Sự lóe sáng chính là để tăng năng lượng cho sự “suy sụp hấp dẫn” nói trên, tăng cường độ cho trường tổng của cơ thể con người khi chết. Đó là trường điện từ dạng lưới mang hình dáng của chủ thể. Các trường điện từ riêng rẽ sản sinh ra từng tế bào, mô, màng, gân cơ, lục phủ ngũ tạng…, đặc biệt trường điện từ của hệ thần kinh và bộ não. Tất cả những trường này khi con người còn sống đã là hệ dao động điện trong hệ thống nhất của trường khung. Khi chết, chúng không mất đi mà tạo thành những nút của trường tổng (khung) dưới dạng các “hộp đen” lưu lại cho hài cốt. Trong đó, đáng chú ý là hộp đen của trường điện từ hệ thần kinh não bộ kịp niêm giữ thông tin của chủ thể qua bộ nhớ của ý thức và tiềm thức trước lúc chết. Đó chính là hình ảnh cấu trúc của “linh hồn”. Vậy linh hồn - vong là một trường vật chất cấu trúc gồm hai phần cơ bản: “phần xác” – phần cứng, chính là lỗ đen với lực hấp dẫn cực lớn và từ trường mạnh, “phần hồn” – phần mềm, chính là trường điện từ yếu mang thông tin. Gộp lại đó là “trường vật lý đa hệ chứa thông tin”. Từ đây gọi tắt là trường vong, tuyệt nhiên không có ý thức như người sống. Hiểu như vậy là hoàn toàn mê tín. Vậy tính chất của trường vong là gì? Trường vong tuy vô hình với người sống, nhưng bản chất là trường vật chất, nên cũng mang tính chất của vật chất. Tính bức xạ điện từ yếu mang thông tin của chủ thể (lan truyền với tốc độ ánh sáng), đây chính là phần hồn của hài cốt tồn tại sau khi chết. Nhờ tính chất này mà các nhà ngoại cảm có thể nhận biết và giải mã gián tiếp được một số thông tin của trường vong (chỉ có được khi cộng hưởng, không phải là tất cả) nhờ đọc được thông tin qua người thân của vong và trường vong trao đổi thông tin giới hạn với nhau qua huyết thống). Tính hấp dẫn cực mạnh, không phụ thuộc vào không gian, thời gian và một số quy luật vật lý khác như tiêu hao, dẫn truyền… Đây là tính chất tiêu cực, có hai ảnh hưởng tới sức khỏe của người sống khi tiếp cận mồ mả hài cốt. Tính chất từ, như giả thuyết, trường vong còn là một nam châm vĩnh cửu. Nhờ bản chất này mà có thể nhận biết vị trí mồ mả, hài cốt, vong bằng thiết bị cảm ứng mà tác giả thường dùng. Với thiết bị đó, từ cự li xa 200m hoặc lớn hơn có thể nhận biết được vị trí nghĩa địa. Với cự ly 30-50m có thể nhận biết được vị trí mồ mả, hài cốt, vong. Nên mấy năm qua, tác giả bài viết này đã định được nhiều mồ mả hài cốt giúp di dời, phục vụ xây dựng nhà ở, công trường, xí nghiệp, tìm hài cốt liệt sĩ… Hài cốt là “một nam châm vĩnh cửu” như đã biết, một cục nam châm khi đập nhỏ ra, những mảnh nhỏ vẫn là nam châm và chỉ có nam châm mới có tính chất này. Hài cốt cũng vậy. Nếu một bộ phận nào đó của hài cốt bị thất lạc như đốt ngón tay, ngón chân, mảnh xương sườn… thì nó vẫn có thể hiện tính chất từ của hài cốt mà thiết bị cảm ứng có thể nhận biết. Nhờ tính chất này tác giả cũng đã tìm cho nhiều gia đình những mẩu xương còn sót lại khi cải táng hoặc cả khi hài cốt đã phân hủy thành đất. Một tính chất đặc biệt khác của trường vong là tính “nhiễm từ” ra môi trường xung quanh. Thiết bị cảm ứng có thể nhận biết trường vong của người chết tại vị trí đã xảy ra sự cố như bị tai nạn giao thông, chết đuối, treo cổ… sau nhiều năm đã trôi qua, kể cả tiểu sành, ván thôi sau khi cải táng vẫn lưu giữ một phần trường vong. Ông Vũ Văn Bằng đang hướng dẫn nhà báo Tạ Bích Loan sử dụng máy đo tia đất Trường vong còn có tính tiêu cực - có hại đối với người sống. Tức là có hại cho sức khỏe con người. Lực hấp dẫn, từ trường xoay với từ trường lực đủ lớn bức xạ lên mặt đất với phạm vi rộng. Đây được coi là trường dị trường cũng tương tự như bão từ tác động có hại nhiều tới hệ thần kinh và hệ tim mạch của con người. Những hiện tượng đã gặp ở nơi có hài cốt Trong chuyến đi tìm mộ liệt sĩ tập thể 173 quân giải phóng hy sinh khi tiến đánh cứ điểm Cồn Tiên 1967 (theo thông báo của Hội Cựu chiến binh Mỹ), khi xác định vị trí khu mộ, đồng chí Trần Lương Thanh huyện đội trưởng huyện đội Gio Linh thắp hương xong thì xúc động đã nằm ôm chặt mặt đất – nơi phía dưới có thi hài các chiến sỹ. Hồi lâu, không thấy chiến sĩ Thanh dậy, đồng đội đến vực lên thấy người cứng đơ lạnh toát. Từ đấy về ốm mất nửa tháng. Khi tiến hành đào kiểm tra đợt 1 đã gặp 4 hài cốt liệt sĩ nằm cách đất từ 0,8 – 1,2m. Xương màu trắng ẩm mục hiện dần lên trong nền đất màu nâu sẫm. Từ những tấm ảnh chụp có thể nhận thấy sự tương tác giữa cơ thể sống và hài cốt trong không gian hẹp – môi trường chứa hài cốt. Hiện tượng con người tiếp cận – nằm trên hài cốt (trường hợp đồng chí nói trên) đã bị lực hấp dẫn của hài cốt hút làm suy giảm sinh khí, sinh ra cảm lạnh. Mặt khác, khi nhìn vào đôi tay và bàn chân trong tấm ảnh chụp hài cốt thấy rất rõ có “luồng sáng” nối giữa phần cơ thể sống (dương) với hài cốt dưới mặt đất (âm) – hiện tượng phóng điện trong không gian. Đó chính là sự tương tác giữa một bên là hài cốt – linh hồn (trường hấp dẫn), một bên là lượng tử - số photon (ánh sáng- sóng và hạt của trường điện từ sinh học bức xạ hồng ngoại) của cơ thể người sống bức xạ ra. Khi tiếp cận với hài cốt, các trường này đã bị lực hấp dẫn của hài cốt hút theo kéo dài ra thành “Luồng sáng”… Trên đây là những hiện tượng mà tác giả đã đo đạc, kiểm chứng trong thực tế, hoàn toàn phù hợp với các giả thuyết mới về bản chất của trường vong – linh hồn do chính tác giả nghiên cứu, nhìn nhận dưới góc độ khoa học, xin được cung cấp để bạn đọc cùng tham khảo và suy ngẫm.
  2. Quan hệ đặc biệt giữa Chu Dịch với Đông y học Chu dịch là cái gốc sâu xa của lý luận Đông y. Về cơ bản, lý luận cơ sở Đông y khởi nguồn từ Chu dịch, như học thuyết Âm dương Ngũ hành, học thuyết Tạng tượng, học thuyết Khí hoá, học thuyết Vận khí, học thuyết Bệnh cơ Đông y đều thoát thai từ Chu dịch. Trong đó: 1- Quan hệ Âm dương của hào âm hào dương Chu dịch và triết lý Âm dương ẩn chứa trong hình quẻ Chu dịch khởi nguồn từ học thuyết Âm dương trong Đông y. 2- Vô cực, Thái cực Chu dịch là căn cơ của học thuyết Tinh khí, học thuyết Âm dương trong Đông y. 3- Hào tượng, quái tượng Chu dịch là khởi nguồn của học thuyết Tạng tượng trong Đông y 4- Sáu hào Chu dịch có mối quan hệ mật thiết với lục kinh, hệ thống lục kinh , biện chứng lục kinh trong Y học. 5- Càn nguyên Khôn tẩm âm hào, dương hào bát quái bố trận Chu dịch là đồ án cách cục can chi của học thuyết vận khí, học thuyết khí hoá Đông y. 6- Càn Khôn trời đất Chu dịch là nguồn cội của khí Nhất nguyên luận trong Đông y. 7- Hà đồ số lý Chu dịch có mối quan hệ mật thiết với Cửu cung bát phong, Tý ngọ lưu chú, Linh quy bát pháp, Thất tổn Bát ích trong Đông y. 8- Hai quẻ Khảm Ly Chu dịch tương quan mật thiết với học thuyết Mệnh môn, quan hệ Tâm và Thận, động khí ở Thận trong Đông y. 9- Hà lạc Chu dịch tương quan với học thuyết Ngũ hành, số sinh thành trong Đông y. 10-Tương quan mật thiết giữa Thiên, Địa, Nhân quái hào Chu dịch là bản gốc của chỉnh thể quan trong Đông y. 11-Xoay vần của Chu dịch là nguồn cội của vận động tròn trong Đông y. 12- Quan niệm trung hoà, Chu dịch có mối tương quan mật thiết với quân bình luận, điều hoà luận trong Đông y. II.- Mối quan hệ khăng khít của Chu dịch với hệ thống lý luận Nội Kinh Chu dịch hình thành sớm hơn Nội kinh. Nền tảng triết lý và khoa hoạc tự nhiên phong phú của Chu dịch ắt đã truyền nhập vào Nội kinh, Nội kinh hấp thu tinh tuý của Chu dịch, đã phát triển tuyệt vời hơn, vì vậy phản chiếu lấp lánh ánh sáng khoa học. Quan hệ giữa Chu dịch và Nội kinh chủ yếu thể hiện ở những mặt sau: A - Ảnh hưởng của Chu dịch đối với học thuyết Âm dương trong Nội kinh Dịch kinh của Chu dịch tuy không trực tiếp nói đến Âm dương nhưng quan niệm Âm dương đã ngầm ẩn trong cương nhu và quái hào. Dịch truyện đã nêu ra rõ ràng chính xác quan niệm Âm dương. Như Dịch- Hệ từ viết: “ Một âm một dương gọi là đạo”. Tức nói vận động mâu thuẫn Âm dương là động lực phát triển của sự vật. Dịch truyện là một tác phẩm triết học lớn. Trang Tử- Thiên hạ thiên nói: “ Dịch lấy đạo âm dương”, tức nói học thuyết Âm dương là hạt nhân tư tưởng Chu dịch, mà Âm dương Chu dịch lại lấy “_ _” ( vạch đứt), “__” (vạch liền) tức hào âm, hào dương để thể hiện sự đối lập, thống nhất, tiêu trưởng, chuyển hoá của âm dương đều theo sự thay đổi của hai ký hiệu cơ bản này. Khái niệm âm dương xuất hiện sớm nhất vào thời Bá Dương Phụ dùng sự thay đổi của hai khí âm dương để bàn về địa chấn (động đất), Quốc ngữ- Chu ngữ: “ Dương hạ xuống mà không thể xuất, âm bị ép mà không thể bốc lên, thế là có động đất”. Về sau “Vạn vật cõng âm mà bồng dương” của Lão Tử tiến thêm một bước minh xác cho quan hệ đối lập thống nhất âm dương, nhưng lấy âm dương làm hệ thống triết học hoàn chỉnh là Dịch truyện. Đặc điểm của “ Dịch truyện” là dùng hai ký hiệu cơ bản hào âm, hào dương để biểu hiện mối quan hệ âm dương. Như vậy đã làm cho hào âm, dương Dịch kinh thoát khỏi trói buộc của bói toán để thăng hoa trở thành phạm trù triết học. Từ đó khiến cho Chu dịch biến thành tác phẩm triết học vĩ đại, quan điểm triết học của Chu dịch ở chỗ nhận định vận động mâu thuẫn của âm dương tồn tại trong vạn vật trời đất bao quát hiện tưọng xã hội, mở rộng ý nghĩa phổ biến của âm dương, tức vận động thay đổi sự đối lập thống nhất của âm dương quyết định sự phát sinh, phát triển về chuyển hoá của tất cả sự vật. Dưới ảnh hưởng của Chu dịch và tư tưỏng học thuyết Âm dương lúc bấy giờ, đã hấp thu tinh hoa lỹ huận Âm dương của Chu dịch. Nội kinh đối với sự phát triển của triết học Âm dương Chu dịch ở chỗ kết hợp ntriết học Âm dương với y học, trở thành cơ sở của lý luận Đôn y, đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển Đôn y học. Nội kinh không những xây dựng chương trình riêng thảo luận Âm dương, mà toàn bộ sách đều đã quán xuyến triết học Âm dương, là chuẩn mực của sự kết hợp y lý và triết lý với nhau. Những chương trong Nội kinh như Âm dương ứng tượng đại luận, Âm dương li hợp luận, Thất thiên đại luận đều có chuyên luận về âm dương. Mệnh đề đưa ra đều có triét lý rất cao. Như Tố Vấn- Âm dương ứng tưọng đại luận nói: “Âm dương là đạo của trời đất, là kỷ cương cảu vạn vật là cha mẹ của sự biến hoá, là gốc của sự sống chết, là phủ của thần minh”. “ Phần âm ở bên trong, là nhờ vào sự bảo vệ của phần dương bên ngoài, mà phần dương ở bên ngoài lại nhờ vào sự ủng hộ của phần âm bên trong”. “ Phép ở âm dương, hoà ở số thuật” của “ Tố Vấn- Thượng cổ thiên chân luận” cũng đều như vậy. “ Tố Vấn – Âm dương li hợp luận” lấy sự ly hợp âm dương để khái quát mối quan hệ biện chứng giữa âm dương, hàm ẩn quan điểm đối lập thống nhất là âm dương chia ra làm hai hợp lại làm một, và đưa ra quan điểm “Âm là căn bản, Dương là chủ đạo”, tiến thêm một bước minh xác quan hệ chủ đạo giữa âm dương. Ngoài ra Nội kinh còn cung kết hợp âm dưong với bốn mùa tự nhiên và cơ thể con người, nêu lên một cách sáng tạo quan điểm bốn mùa, ngũ tạng, âm dương, ứng dụng linh hoạt triết học Âm dương để giải thích y học là sự phát triển đặc biệt của âm dương. Đó là thành tựu siêu việt nhất của Nội kinh cũng là sự siêu việt đối với Chu dịch. B- Ảnh hưỏng của Chu dịch đối với học thuyết Tạng tượng trong Nội kinh Khung Chu dịch là kết cấu quái tượng, hào tượng, quái tượng cấu thành hình thức Chu dịch, Dịch kinh lấy hào tượng, quáí tượng làm tượng trưng cho sự vật, bộ Dịch kinh trên thực tế chính là một bộ tượng lớn. Như Dịch- Hệ từ nói: “ Dịch là tượng, tượng là vạn vật”, vạn vật trong vũ trụ tuy phức tạp, thiên biến vạn hoá, nếu nắm vững qui luật của tưọng thì có thể nhận định quy luật biến hoá của sự vật một các đơn giản và hệ thống. 64 từ quái tượng, 384 hào tượng trong Dịch kinh có thể bao quất vạn vật. Vì vậy tưọng của Dịch, lại có cách gọi là vạn vật, tượng là ý tưọng, là hình tượng sự vật khách quan, là ý tưọng mà mọi ngưòi thông quan sát sự vật hiện tượng trong thực tiễn đúc kết nên. Như Dịch- Hệ từ viết: “ Nhìn thấy bèn gọi nó là tưọng nghĩa là nhìn thấy hiện tượng để khái quát thành ý tượng”. Như vậy một quẻ một hào thì có thể hệ thống qui loại rất nhiều sự vật, cớ thể thấy tưọng của Chu dịch có tính chất đại số , vì vậy, hièu tượng thì có thể nắm vững qui luật tự nhiên. Tượng của Dịch kinh ngoài chú trọng thiên tượng, vật tưọng ra, còn chú trọng nhân tượng ( tức hiện tưọng xã hội). Vì vậy quái tượng của Dịch kinh có thể xem như là bức tranh thu nhỏ mối tương quan về hiện tưọng tự nhiên, sự vật, con người xã hội. Nội kinh thông qua tượng của Chu dịch đã sáng tạo ra học thuyết Tạng tưọng Đông y độc đáo, là viên đá làm nền móng cho sự hình thành và phát triển cơ sở lý luận của Đông y học. Cái gọi là “ tạng …” tức là nội tạng; “ tượng” tức triệu chứng bên ngoài, bởi ngoại tượng là triệu chứng của nội tạng, vì vậy, tượng có thể xét đoán tạng, đó là ứng dụng của học thuyết Tạng tượng trong Đông y trong chẩn đoán học. Học thuyết Tạng tưọng Đông y là học thuyết căn cứ ngoại tượng để nghiên cứu nội tạng cơ thể qui luật sinh lý bệnh lý và học thuyết quan hệ hỗ tương. Học thuyết của Tạng tưọng học Đông y ; thứ nhất, liên hệ thiên tượng với tạng tượng, như “ Tố Vấn- Lục tiết tạng tượng luận”: “ Tâm là gốc của sự sống, thông với khí mùa hè”; thứ hai, thống nhất hình tưọng và thần tượng, như “ Ngũ thần tàng lý luận”. Tức ngũ thần tàng ở trong ngũ tạng, thong qua triệu chứng của ngũ thần; thứ ba xét về quái tượng để bàn bệnh tưọng, như xem quẻ Kí tế, Vị tế. Dịch kinh luận vệ bện lý tâm thận bất giao, quẻ Càn, Khôn để luận về bệnh Can… như ở trên trình bày, Nội kinh ứng dụng tưong lý Chu dịch vào học thuyết Tạng tượng Đông y , có tác dụng thúc đẩy rất lớn đối với sự phát triển của Đông Y. C - Ẩnh hưởng của Chu dịch đối với học thuyết khí hoá trong Nội kinh : “ Hào” của Chu dịch là tượng trưng của Khí hoá do sự lên xuống thay đổi của “ Hào” để khiến cho quẻ thay đổi . “ Hào” đại diện khí hoá Âm dương, do hào động lên quẻ biến, vì vậy “ Hào” là thuỷ tổ của khí hoá, Chu dịch là sách thể hiện biến dịch, biến dịch này thể hiện ở quẻ biến, mà nguồn gốc ở hào biến, do hào biến mà sinh ra sự thay đổi khí hoá âm dương, như do sự lên xuống, tăng giảm của hào mà phát sinh “ Rồng còn ẩn láu chưa dùng được ”, “Rồng lên cao quá có hối hận”, “đạp lên sương thì biết băng dày sắp đến”, có thể nói “ chỉ một cái thay đổi thì thay đổi toàn bộ”. Tư tưởng “ Sinh sinh hoá hoá hoài gọi là Dịch”, “Đạo dịch đến lúc cùng tất phải biến đã biến thì thông, nhờ thông mà được lâu dài” của Chu dịch đều nói lên rằng : Khí hoá thai nghén từ dịch. Khí hoá nội kinh manh nha từ dịch có thái dịch thuỷ có thái tố. Học thuyết khí hoá nội kinh đã phát triển học thuyết vận khí và học thuyết thăng giáng khí cơ trên cơ sở khí hoá âm dương thái cực Chu dịch. Học thuyết vận khí coi trọng về luạn thuật khí hoá giới tự nhiên, chủ yếu thông qua lý luận Ngũ vận Lục khí trình bày quan hệ giữa thiên thời, địa lý, bệnh tật, học thuyết Thăng giáng khí cơ thì luận thuật về sự lên xuống của tinh khí phủ tạng là chính. Học thuyết khí hoá Đông y quán xuyến trong sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán, trị liệu Đông y, là hạt nhân của có sở lý luận ĐôngY. Đặc điểm của học thuyết khí hoá Đông Y kết hợp hữu cơ khí hoá giới tự nhiên và khí hoá cơ thể , là sự thăng hoa đối với khí hoá trong Chu dịch. Tóm lại Chu dịch có những ảnh hưởng to lớn đối với Nội kinh, nhờ đó mà Nội kinh phát ra ánh sáng lấp lánh. Ở trên trình bày Nội kinh là khuôn mẫu của lý luận Đông y. “ Nội kinh” bắt nguồn từ Chu dịch lại có phát triển mới đối với Chu dịch, Chu dịch có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ đối với sự hình thành và phát triển của lý luận Đông y. Theo: việt y đường.
  3. Đạo cao đài là một đạo mới thành lập ở đầu thế kỷ 20 này tại Việt Nam. Triết lý của họ dựa vào các tôn giáo lớn như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Lão giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo và . . . nói chung là hơi ô hợp. Nền tảng mà không vững thì hay ăn to nói lớn mà. Đạo Cao Đài cùng với Phật giáo Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa là đạo do người Việt Nam sáng lập ra. Triết thuyết đạo Cao Đài hết sức tuyệt diệu, mang tích cách tân. Giải thích được chân lý (duy nhất), có triết thuyết, giáo lý, có phương pháp thực hành... có khả năng giải quyết các nghi ngờ của con người về Thiên - Địa - Nhân. Rất tự hào Đạo Việt. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  4. Tôi cho rằng ta đang bị chi phối bởi tiềm thức không gian, thời gian tuyệt đối, thậm chí ngay cả ông Anhstanh nữa, không gian và thời gian vốn là những thuộc tính của vật chất ( không phải là vật chất ), không gian và thời gian đã là tương đối thì không có lẽ lại tồn tại sự tuyệt đối của vận tốc ánh sáng?! ( hiển nhiên: vận tốc là khoảng không gian mà vật đi được trong một đơn vị thời gian ). Sở dĩ tồn tại một giới hạn về vận tốc vì ta chỉ khảo sát chuyển động bằng trường số thực ( vì số 0 và số âm không có căn bậc chẵn ), và như thế thì vũ trụ cũng không thể chuyển động với vận tốc ánh sáng, có nghĩa là chưa xuất hiện điểm /0/ ( thái cực ) ( điều mà anh Thiên Sứ hy vọng ). Bây giờ ta giả thiết là phủ nhận tiên đề thứ 2 của Anhstanh, vậy dẫn đến việc phải sử dụng trường số ảo vào khảo sát chuyển động của vũ trụ ( ở miền tốc độ bằng hoặc vượt qua tốc độ ánh sáng ), và thu được kết quả là xuất hiện điểm /0/ ( thái cực ), nhưng đồng thời cũng xuất hiện thời kỳ trước điểm /0/ khởi nguyên của vũ trụ! vậy phải chăng sự vận động của vũ trụ là có chu kỳ, cũng tuân theo quy luật “sinh - diệt”?. Các điểm /0/ vừa là điểm kết thúc của chu kỳ trước vừa là điểm khởi nguyên của chu kỳ sau. Về vấn đề tốc độ của tầu vũ trụ, nếu xét theo quan điểm không, thời gian tuyệt đối thì chẳng bao giờ đi tới được các hành tinh xa xôi, vấn đề ở đây là sự chuyển đổi gốc quy chiếu không, thời gian ( chứ không phải là tốc độ chuyển động ) và do đó trong không, thời gian tương đối không còn khái niệm “kích thước thực” mang tính khách quan nữa, mà kích thước của vật chuyển động phụ thuộc vào gốc quy chiếu của người quan sát, vì vậy nếu người quan sát ngồi trong con tầu vũ trụ thì kích thước con tầu vẫn không có gì thay đổi. Theo tôi, mọi cái đều là thực, không có bất kể cái gì là ảo ngoại trừ cái ta chưa biết. Số ảo trong toán học nhằm mô tả thực tại. Tốc độ là thực do vật chất là thực, vậy chuyển đổi gốc quy chiếu là toán học quán xét thực tại chứ không phải là thực tại. Thân. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  5. Không có chiều thời gian thứ hai trở lên. Quan niệm nhiều chiếu không/ thời gian là một sai lầm của nhận thức cho rằng: "Không gian/ Thời gian có thuộc tính vật chất và là một dạng của vật chất. Thực ra nó chỉ là khái niệm của con người để qui ước quán xét vật chất. Nếu nghiên cứu theo hướng này sẽ bế tắc. Nhưng có những cấu trúc và vận động tương tác của vật chất chưa được khám phá. Chỉ có 1 chiều thời gian trôi. Không gian vẫn là 3 chiều. So sánh thời gian trong vũ trụ phải có điểm gốc so sánh, chẳng hạn đồng hồ đo gốc đặt ở Trái đất chẳng hạn. Con người cảm nhận thời gian có thể dài ngắn khác nhau qua giác quan trong các môi trường khác nhau, hoặc thay đổi chu trình sinh học chứ không phải do thời gian co giãn. Nếu con người ở các hành tinh quay chậm - nhanh - môi trường khác nhau, chu kỳ sinh học cơ thể theo môi trường trái đất vẫn đang hoạt động và vì vậy họ vẫn già đi khi chuyển đổi thời gian từ hành tinh về thời gian gốc ở trái đất. Kính.
  6. “XẺ THỊT” VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ ============================================== Lời kêu cứu khẩn thiết Thứ Tư, 30/03/2011 01:38 Những giá trị văn hóa, lịch sử và sinh học sẽ bị tàn phá nghiêm trọng nếu cứ cấp phép cho doanh nghiệp “ngoạm” vào Vườn Quốc gia Ba Vì “Xẻ thịt” Vườn Quốc gia Ba Vì Trước những bức xúc của dư luận về việc Vườn Quốc gia Ba Vì bị xâm hại, phóng viên Báo Người Lao Động đã tiếp xúc với UBND xã Vân Hòa, huyện Ba Vì- Hà Nội để làm rõ hơn về dự án xây dựng đập nước Đồng Xô.Mỗi người nói một phách Giải thích về việc nguồn nước bị ô nhiễm, ông Nguyễn Phi Long, Phó Bí thư Đảng ủy xã Vân Hòa, cho biết khu vực Đồng Xô trước đây có rất nhiều vàng và hơn 10 năm trước đã từng có phong trào đổ xô vào rừng đào vàng. Công ty Bình Minh (chủ dự án xây đập Đồng Xô) chỉ đào đất để lấy đá cuội phục vụ việc xây dựng, kè bờ đập nước. Nguồn nước suối bị ô nhiễm có thể do các chất thải bồi lắng từ trước, khi thi công thì các chất bồi lắng này được xới lên và chảy ra suối. Về việc trong công trường xây dựng đập nước Đồng Xô xuất hiện những dụng cụ dùng để đào đãi vàng, ông Long cho rằng đã cử người kiểm tra và không phát hiện gì (?). Ông Nguyễn Văn Hải, Phó Chủ tịch UBND huyện Ba Vì, cho biết dự án xây dựng đập Đồng Xô đã được UBND TP Hà Nội phê duyệt. Nếu phát hiện Công ty Bình Minh khai thác vàng, huyện sẽ lập tức đình chỉ thi công. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của phóng viên Báo Người Lao Động, dự án này được UBND tỉnh Hà Tây (cũ) phê duyệt từ năm 2007. Năm 2008, xét đề nghị của Bộ NN-PTNT về việc sử dụng tạm thời đất Vườn Quốc gia Ba Vì để xây dựng công trình thủy lợi, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 05/TTg-NN đồng ý sử dụng 9,5 ha đất có rừng từ độ cao Cos 100 m – 175 m để khai thác đất đá, phục vụ công trình hồ thủy lợi Đồng Xô. Xe tải nặng chở đất đá hằng ngày băm nát rừng tại Vườn Quốc gia Ba Vì.(Ảnh do người dân xã Vân Hòa cung cấp) Thủ tướng cũng giao cho Bộ NN-PTNT chỉ đạo Vườn Quốc gia Ba Vì phối hợp với chủ đầu tư kiểm tra, giám sát chặt chẽ ngoài hiện trường, trong quá trình thi công không được sử dụng mìn; các loại đất đá và vật liệu phế thải phải chuyển khỏi vườn quốc gia. Sau khi hoàn thành việc thi công, chủ tịch UBND tỉnh Hà Tây (cũ) có trách nhiệm chỉ đạo chủ đầu tư san lấp mặt bằng và trồng cây phục hồi nguyên trạng rừng. Tuy nhiên, đến nay công trình vẫn dở dang và đang có nhiều biểu hiện chưa thực hiện nghiêm túc văn bản của Thủ tướng. Ông Nguyễn Khắc Thành, Giám đốc Vườn Quốc gia Ba Vì, cho rằng Rừng Quốc gia Ba Vì là khu vực có nhiều sa khoáng như đồng, vàng…, trong đó nhiều nhất là vàng. Theo ông Thành, các cơ quan chức năng cần vào cuộc làm rõ hoạt động của Công ty Bình Minh tại khu vực này. Khẩn cấp ngăn chặn Kiến trúc sư Trần Thanh Vân, người đã 3 lần được mời tham gia việc tìm hướng quy hoạch phát triển cho thủ đô Hà Nội, rất bức xúc trước khai thác, đào đãi vàng bừa bãi, cũng như các dự án xây dựng xung quanh khu vực Ba Vì. Bà Trần Thanh Vân cho rằng Ba Vì là vùng đất linh thiêng của đất nước, có nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử từ ngàn đời nay. Đó là vùng đất của Thánh Tản Viên đã đi vào truyền thuyết cần phải bảo vệ. “Tôi cho rằng tất cả các công trình, dự án đào xới, khai thác lén lút hay công khai... của bất cứ công ty nào cũng phải bị đình chỉ để trả lại nguyên trạng cho khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì” - kiến trúc sư Trần Thanh Vân nói. Nguồn nước trong khu vực Đồng Xô bị ô nhiễm nghiêm trọng từ khi khởi công xây dựng dự án Từng nhiều năm gắn bó với mảnh đất Vườn Quốc gia Ba Vì, TS Nguyễn Xuân Diện, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, cho rằng nơi đây không chỉ lưu trữ các giá trị về địa mao, địa chất, về hệ động thực vật phong phú quý hiếm mà còn là vùng văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Việc bảo vệ gìn giữ các giá trị văn hóa và tự nhiên của vùng núi Ba Vì càng đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết, khi mà những giá trị về môi sinh và văn hóa đang được quản lý bằng sự thiếu hiểu biết. Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, PGS-TS Hồ Uy Liêm, Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp Các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), cho biết VUSTA đã giao cho Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam tìm hiểu về những dự án đang hoặc có thể “xẻ thịt” Vườn Quốc gia Ba Vì. “Trong thời gian sớm nhất, chúng tôi sẽ thành lập đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra toàn bộ các công trình, dự án trong khu vực này. Sau đó nếu thấy cần thiết, VUSTA sẽ có văn bản kiến nghị Thủ tướng Chính phủ can thiệp” - ông Hồ Uy Liêm nói. Nhiều người dân ở các xóm Rùa, xóm Xoan, xóm Muồng Voi (xã Vân Hòa) đều khẳng định Vườn Quốc gia Ba Vì đang bị xâm hại nghiêm trọng. Việc UBND tỉnh Hà Tây (cũ) phê duyệt dự án xây dựng đập nước Đồng Xô khiến cuộc sống bà con nơi đây bị đảo lộn. Người dân cũng phản ánh chuyện đập nước Vai Xô (phía trên đập Đồng Xô) đã thuộc về Công ty Bình Minh quản lý, dẫn tới tình trạng thiếu nước trong sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp nên mất mùa liên tục. THIỀU THẢO - PHÙNG KHA ================================= CÁC NHÀ KHOA HỌC KÊU GỌI CHUNG TAY CỨU NÚI TỔ BA VÌ Hình ảnh cuộc tọa đàm của các nhà khoa học. Ảnh: Lê Việt Hà. Chung tay bảo vệ Vườn Quốc gia Ba Vì Sau loạt bài điều tra về đào vàng trong khu vực núi Ba Vì, sáng ngày 14/3 Báo KH&ĐS đã tổ chức buổi tọa đàm mang tên: “Chung tay cứu Vườn quốc gia Ba Vì”. Rất nhiều nhà khoa học đã đến dự và đóng góp ý kiến. Nguồn: Báo Khoa học & Đời sống. Số 32 (2559) Thứ Ba (15/3/2011), trang 6.
  7. UẤT XỨ TRỐNG ĐỒNG ? I- VĂN HÓA ĐÔNG SƠN Văn hóa Đông sơn được lấy tên từ làng Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa - Việt Nam là một nền văn hóa đồng rực rỡ gồm vũ khí, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt , đặc biệt là trống đồng nổi tiếng . Học giả người Áo R.H.Gelden đã đề nghị gọi nền văn hóa đồ đồng ở Việt Nam là “ Văn hóa Đông Sơn” Các bài nghiên cứu về trống đồng của LS Cung đình Thanh và Nguyễn Đức Hiệp cho thấy một trong các loại vũ khí Đông Sơn là dao găm và kiếm ngắn có cán hình tượng người tay chống nạnh, đeo khuyên tai, đầu đội mũ , loại vũ khí này cũng được tìm thấy trong ngôi mộ Thụ Mộc Lĩnh ở Trường sa thuộc Hồ Nam là địa bàn của nước Sở. Các nhà khảo cổ quốc tế cũng gọi dao găm ở Trường sa là dao găm Đông Sơn. Học giả Pháp L.Bezacier cho rằng những đoản kiếm tìm thấy ở Pékin, những dao găm ở Hồ Nam có cùng nguồn gốc văn hóa với những dao đã đào được ở Sơn Tây- Việt Nam. Loại rìu đồng Đông sơn Việt nam đồng dạng với loại rìu xéo được tìm thấy ở Chiết giang thuộc nước Việt của Việt vương Câu Tiễn trước kia , loại rìu này có hình đôi giao long quấn vào nhau, trên cán có hình bốn người đang trong tư thế chèo thuyền Tại khu mộ cổ Thượng mã Sơn - Chiết Giang thuộc đất của Việt vương Câu Tiễn người ta tìm được một chiếc trống đồng giống hệt chiếc trống Lãng Ngâm khai quật được tại di chỉ Lãng Ngâm thuộc tỉnh Hà Bắc – Việt Nam. Loại trống này và loại rìu xéo có hình đôi giao long quấn vào nhau, trên cán có hình bốn người đang trong tư thế chèo thuyền cho thấy bờ biển phía đông nam Trung hoa và miền bắcViệt Nam có chung một nền văn cho hoá Đồ đồng Đông Sơn, đặc biệt là trống đồng là vật tiêu biểu của các nền văn hóa phát triển từ thời đại đồng thau sang thời đại đồ sắt ở một số nước thuộc vùng Đông nam Á. Các khu vực đã tồn tại trống đồng Đông sơn như : Việt Nam , phía nam Trung quốc, Indonesia, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, Malaysia, Philippine, Nhật Bản. Về niên đại hiện nay tuy chưa có sự thống nhất nhưng các nhà khảo cổ cho rằng trong khoảng thế kỷ 8BC - 9BC đến thế kỷ 1 sau công nguyên Về nguồn gốc R.H.Geldern cùng các học giả có tiếng tăm khác như V.Goloubew, E.Kalgren, O.Janse cho rằng nền văn hóa này không phát triển từ bản địa mà có thể bắt nguồn từ vùng sông Hoài phía bắc Trung hoa , có thuyết cho rằng đồ đồng Việt nam có nguồn gốc từ tây phương, khoảng giữa vùng Daube ( Trung âu) và Caucase ( Nam Nga), các giống dân vùng này trong một cuộc di cư sang Đông phương đã băng qua Trung Á đến Vân Nam rồi xâm nhập bán đảo Ấn Trung ( khoảng 600 BC ) trong lúc tại đây chỉ có văn minh cự thạch bi của giống người Úc-Á , lại có thuyết cho rằng tổ tiên của người Việt là giống Indonesien đã học được kỹ thuật đúc đồng của người Trung quốc , tiến sĩ Solhelm II thì cho rằng một số đồ đồng được tìm thấy ở Đông sơn có thể có nguồn gốc từ Địa Trung hải. Vì sao nhiều học giả phương tây cho rằng văn hóa Đông sơn không phải là văn hóa bản địa ? Một số học giả Việt nam cho đó là do cái nhìn kẻ cả của người phương tây đối với các nước phương đông , tuy nhiên theo thiển nghĩ những nhận xét của các học giả phương tây không phải hoàn toàn sai, các tác giả biên khảo về người tiền sử đã nhận xét do điều kiện tiến hóa của loài người nhìn chung đều giống nhau, các trung tâm văn minh lớn có nhiều điểm tương đồng. Dù ở Ai Cập hay Trung Hoa con người cũng làm ra đồ gốm, dụng cụ, đóng xe, thuyền, kiến trúc nhà cửa, mài đá, đúc đồng, phát minh văn tự, chế định tôn giáo. Những điểm tương đồng đó không rõ ràng đến nỗi các nhà khảo cứu phân vân không biết vùng này có bắt chước vùng kia hay không, văn minh loài người có xuất phát từ một điểm duy nhất rồi phân tán đi khắp nơi hay không? Ví dụ đã có lúc người ta nghĩ rằng văn tự và đồ đồng Trung Hoa đã từ Mesopotamie truyền tới và cả người Trung Hoa hiện tại cũng là giống người từ phía tây di cư sang Trung hoa vào cuối thời đại đồ đá mới. Một nguyên nhân nữa khiến người ta cho rằng văn hóa Đông sơn không phải là văn hóa bản địa là do giữa văn hóa Hoà Bình và văn hóa Đông sơn có khoảng cách rất xa , mặc dù các học giả Việt nam đã chứng minh rằng văn hóa Đông sơn là nền văn hóa bản địa, bắt nguồn từ văn hóa Phùng Nguyên đến văn hóa Đồng Đậu, đến Gò Mun rồi đến Đông sơn dựa vào kiểu dáng và nét hoa văn giống nhau trên đồ đá, đồ gốm của văn hóa Phùng Nguyên với hoa văn trên đồ đồng Đông sơn nhưng vẫn còn một dấu hỏi lớn là nguồn gốc của người Phùng Nguyên vẫn còn chưa rõ. Vậy người Phùng Nguyên đã từ đâu đến ? Dựa vào kết quả khảo cổ sau khi phân tích 30 di cốt ở khu mộ cổ Mán Bạc tỉnh Ninh Bình, tiến sĩ M. Oxenham - Đại học Quốc gia Úc cho rằng: “Người Việt từ trước thời đá mới đã có biểu hiện của giống người Úc châu [Nam đảo] hay Đa đảo Melanesian, nhưng người Việt từ đầu thời Đồng thau đã có biểu hiện đặc trưng của giống người Ðông Nam Á. Sự hiện diện của cả hai nhóm sắc tộc này sát cánh nhau trong khu mộ táng cho thấy đã có sự hỗn hoà giữa hai chủng ở mức độ đáng kể, có thể là đánh dấu những nguồn gốc sớm nhất về dân cư Việt hiện thời, vốn đã tương đối ổn định khoảng năm 2000 TCN.” Các nghiên cứu khác cũng cho thấy vào thời đại Đá Mới, dân cư trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau. Nghiên cứu đồ đồng Đông Sơn và chứng cứ khảo cổ khai quật được ở Chiết Giang, các nhà nghiên cứu cho rằng tại bờ biển phía đông nam Trung hoa và miền bắcViệt Nam có chung một nền văn hoá , vì thế có khả năng người Phùng Nguyên đã từ Chiết Giang dời đến khoảng 2000TCN trong phạm vi lãnh thổ của họ Hồng Bàng . Dòng dõi họ Hồng Bàng gồm con cháu họ Thần Nông là Việt tộc thuộc chủng Austrloid giả định đã từ Địa trung hải đến Trung hoa khoảng 3200-3000 BC, hỗn chủng với Nam Mongloid ở phương Bắc (Mongloid-Caucasian-Melanesian) ở lưu vực sông Vị sau đó con cháu ba đời của họ Thần Nông xuống Hoa Nam hỗn chủng với người Lão ở bản địa thuộc chủng Melanesien thành họ Hồng Bàng được cho là giống Mongloid phương nam. Vào năm 2989 BC nước Xích Quỷ có ranh giới từ sông Trường giang Núi Ngũ Lĩnh trở xuống được thành lập sau khi Lộc Tục lên ngôi, lấy hiệu là Kinh Dương Vương. II- Kỹ thuật xây thành đất của người Việt cổ : Vào năm 2006 người ta đã khai quật một di chỉ ở Yuyang-Chiết Giang , phát hiện được những tường thành rộng từ 4 đến 6 mét có niên đại khoảng 2000 TCN. Các nhà khảo cổ tìm thấy một con mương rộng 40 mét ( ?) xây bằng đất cứng, bên trong là một lượng lớn những mảnh gốm vỡ. Các nhà khảo cổ đã đào một lỗ sâu trên con đê phía đông con mương, họ ngạc nhiên khi thấy một vùng rộng lớn được xây bằng đất tạp và đá cuội nhồi nhét vào. Đào bới xa hơn nữa cho thấy con mương này là con kênh ở bên ngoài thành và khu vực phía đông của nó là tàn tích một phần của tường thành . Những bức tường trải dài 1500-1700m từ đông sang tây và 1800-1900m từ phía bắc - nam . Phương pháp đắp tường thành bằng đất tạp cũng được phát hiện ở thành cổ Luy Lâu thuộc Bắc Ninh-Việt Nam là nơi các nhà khảo cổ đã đào được hàng trăm lò nấu kim loại. Người ta cũng đã đào được một mảnh khuôn đúc trống đồng nẳm ở giữa đoạn tường thành. Các nhà khảo cổ cho rằng tường thành được đắp vào giữa thế kỷ 2-5. Lần đầu tiên các nhà khảo cổ đã tận dụng một đoạn tường thành bị đào phá để xẻ một lát cắt ngang qua thân tưòng, tiếp cận với kỹ thuật xây thành bằng đất của Luy Lâu. Người Luy Lâu xưa đã đào một rãnh nhỏ nông và kéo dài ở giữa rồi mới đắp hai bên cao lên như hai con đê bằng những lớp đất sét cứng, sau đó họ tận dụng đất tạp có lẫn tro đổ đầy vào khoảng giữa hai con đê, lấp luôn cả rãnh đào ở dưới, khi đã đạt chiều cao gần 2 m họ mới đổ một lớp đất sét cứng trùm lên cả hai con đê tạo nên thân thành rất bề thế và vững chắc. Việc đào rãnh nhỏ trong kỹ thuật xây thành như trên đang là một bí ẩn mà nhà khảo cổ học Nishi về nước sẽ tham khảo thêm ý kiến của các chuyên gia Nhật Bản và Hàn Quốc. Những thông tin trên cho thấy kỹ thuật xây thành bằng đất cách đây 4000 năm ở Chiết giang có thể là của tổ tiên người Việt đã được truyền đời trên hai ngàn năm vẫn còn áp dụng. Nó cũng cho thấy rằng thời Lộc Tục , nước Xích Quỉ có lãnh thổ trải dài từ sông Dương Tử cho đến đồng bằng Bắc bộ , sau đó là nước Việt Thường, nước Văn Lang cũng vẫn cùng phạm vi trên, khi Văn Lang tan rả sử Trung Hoa gọi những người sống trong phạm vi ấy là dân Bách Việt. III- Ai đã sáng chế trống đồng ? Như đã nói trên, đồ đồng Đông Sơn không chỉ xuất hiện ở đồng bằng Bắc bộ VN mà còn xuất hiện bên bờ sông Dương Tử. Riêng trống đồng thì không những xuất hiện trong phạm vi của dân Bách Việt mà còn trải rộng khắp vùng Đông Nam Á, Nhật Bản theo đường di cư của người Bách Việt , do đó có thể nói trống đồng là di vật của dân Bách Việt. Khoảng đầu thế kỷ 20 nhiều học giả phương tây bắt đầu nghiên cứu trống đồng trong đó ông F.Heger học giả Đức cố vấn cho Hội nghiên cứu Viễn Đông Bác Cổ đã phân trống đồng thành các loại I ; II ; III ; IV. Các học giả Việt Nam dựa vào phân loại của Heger thấy rằng trống lớn nhất, sớm nhất, đẹp nhất đều là trống loại I , những trống loại I nổi tiếng nhất và đẹp nhất đều được tìm thấy ở Việt Nam do đó cho rằng quê hương của trống đồng là ở Bắc phần và Bắc trung phần Việt Nam, phần nhánh là Hồ Điền ở Vân Nam thuộc Trung Hoa vì thời ấy Trung hoa chưa khai quật được nhiều trống đồng loại I. Ở Trung Hoa thời phong kiến, trống đồng đã được nhắc đến như là sản vật của dân Man di, là giống dân phải nhờ có sự khai hóa của người Mongloid phương bắc mới được như ngày nay, trống đồng khi ấy không được coi là vật có giá trị. Tuy nhiên khoảng 1950 khi đã nhận ra giá trị của trống đồng học giả Wen you khẳng định : “Nếu có ai hỏi di vật thuộc nền văn minh cổ xưa nào của những người anh em ruột thịt thiểu số phương Nam Trung Hoa là quan trọng nhất, chúng ta có thể trả lời không do dự rằng đó chính là trống đồng” ......... “ Đó là tài sản chung của dân tộc Trung Hoa” Vào khoảng 1970 Trung Hoa đã tìm đươc nhiều trống đồng được cho là thuộc trống Heger loại I hầu hết được tìm thấy ở Vân Nam, gọi là trống đồng Wanjiaba, trong 29 trống Wanjiaba có 26 trống tìm thấy ở Vân Nam, 1 trống tìm thấy ở Việt Nam và 2 trống tìm thấy ở Thái Lan . Các học giả Trung hoa đã tranh cãi trong nội bộ về nơi xuất phát của trống đồng ở một trong hai tỉnh Quảng Tây hoặc Vân Nam , nhiều học giả Trung Hoa đồng ý Wanjiaba là loại trống đồng sớm nhất trên thế giới và khu tự trị Sở Hùng ở Vân Nam là nơi xuất phát trống đồng. (http://en.wikipedia.org/wiki/chuxiong) Có thể nhận định trên của các học giả Trung Hoa là đúng đắn nhưng cũng có thể sau khi có thêm nhiều di vật khác được tìm thấy sau đó, kết quả sẽ khác đi . Hiện giờ vấn đề cần đặt ra là : Dân tộc nào đã sống ở khu tự trị Sở Hùng vào thời điểm trống đồng được tạo ra ? Vì sao gọi là Sở Hùng ? Hãy trở lai với mối quan hệ của người nước Sở, 18 vị vua đầu tiên trên đất Sở ( Đan Dương) bắt đầu từ thời Chu Thành Vương 1112 BC đều mang họ “Sở Hùng”, đời vua thứ 6 là Sở Hùng Cừ đã tuyên bố : “ Ta là Man di không cùng hiệu thụy với Trung quốc”. Đến đời vua thứ 19 trở đi hoàn toàn không còn thấy chữ Hùng trong tên họ của các vị vua. ( xem http://www.chinaknowledge.de/History/Zhou/rulers-chu.html ) Vị vua thứ 19 là Sở Thành Vương - 671 BC, vị vua đầu tiên thuộc dòng dõi con cháu Viêm Hoàng của dòng “Cơ Sở” đã nhận lệnh vua nhà Chu của dòng Cơ Khương giao cho là phải dẹp cho được loạn Di Việt không cho chúng xâm lược Trung Quốc. Nhờ thế lực của dòng Cơ Khương mà dòng Cơ Sở đã đánh bại họ Sở Hùng. Qua các bài viết về trống đồng, học giả Trung Hoa không chỉ muốn nhận di vật trống đồng của người anh em ruột thịt thiểu số phương Nam làm tài sản chung của dân tộc Trung Hoa, học giả ấy còn cho rằng hình ảnh chim khắc trên trống đồng là loài sếu ( Crane) đã tìm thấy trong những ngôi mộ Sở là linh hồn của trống đồng ở đồng bằng Hoa Bắc và ý tưởng đó truyền bá xuống khu vực Sở phía nam Trung Hoa sau đó được những tộc người phía Nam bắt chước theo. Học giả ấy không nhớ là trước kia ở đồng bằng Hoa Bắc cũng đã từng có những người Man sinh sống đó là tổ tiên của dòng họ Sở Hùng , Dục Hùng (Yu Xiong) là thầy dạy học cho họ Cơ nên được vua Văn vương phong cho đất Shangdang và đia vị công thần, đến đời cháu nội là Hùng Dịch (Xiong yi) vị vua đầu tiên của họ Sở Hùng , khỏang năm 1112 tr.cn được vua Chu Thành Vương phong cho tước hiệu và phong cho đất Đan Dương . Hùng Cừ là vị vua đời thứ 6 đã nhìn nhận mình thuộc dòng dõi Man di không cùng hiệu thụy với trung quốc. Như vậy trống đồng xuất hiện trong ngôi mộ Sở, truyền thống trang trí trống với hoa văn chim sếu bay ở đồng bằng Hoa Bắc chung qui cũng là nét văn hóa của họ Sở Hùng thuộc dòng dõi man di không cùng hiệu thụy với Trung quốc.. Nói xa hơn về nguồn gốc họa tiết chim sếu bay và địa danh Anshan ở Trung hoa có lẽ phải liên hệ tới vùng Địa Trung Hải . (http://Persianwonders.com/page10.html) Trong trang này ngoài hình ảnh đàn chim bay còn có thể thấy Ziggurat ba tầng ở đây trông giống đàn Nam Giao là nơi làm lễ tế trời của dân tộc Việt Nam, tượng trưng cho Thiên-địa-nhân, chỉ khác một điểm theo mô tả tầng trên cùng của đàn Nam Giao có hình tròn gọi là viên đàn tượng trưng cho trời, hai tầng dưới hình vuông tượng trưng cho đất và người . Ziggurat ba tầng hình vuông trên là loại ziggurat khắc trên chiếc cốc khai quật được tại Jiroft 3000 BC . ( http://www.cabanova.com/action/gallery/980747/128291/0/jtreasure_jiroft_zigu.jpg) ( http://www.cabanova.com/action/gallery/980747/145306/0/gallery_PW_15.jpg ) Theo Pierre Amiet,ở vùng Lưỡng Hà, khi đến với thần linh người xưa khấn vái trước một cái khám thờ nhiều tầng có một cái thang kề vào, giống một cách kỳ lạ những tháp tầng mà người Assyrie sau này mới xây dựng ở thiên niên kỷ I. Cũng theo Pierre Amiet vào thời đại Uruk (3700-3100BC), thành Uruk được xây dựng trong giai đoạn Obeid (trước 3700BC) là một di chỉ “kép” chịu sự chi phối của hai nền văn hóa ở trung tâm là di chỉ Eanna, xưa kia dâng cho nữ thần Inanna của sao Kim và vùng phía tây là di chỉ Kullab dâng cho thần trời Anu. Các kết quả phân tầng ở hai di chỉ này khó phối hợp với nhau, di chỉ Eanna vẫn được coi là căn cứ chính. Ở di chỉ Eanna tương ứng với giai đoạn Uruk mới khoảng 3400-3100BC người ta tìm được chứng cứ của một hình thức kế toán sơ sài sau này có thể là đã tiếp tục phát triển ở Susa cũng như sự xuất hiện của chữ viết ở di chỉ Eanna cùng với một số rải rác ở Susa. Ông nhận xét : “ Như vậy là xứ Susiane có được những bước phát triển minh họa bằng hình tượng nhân vật “sắp thành vua” đã cùng miền Hạ-Lưỡng Hà đi vào một quá trình lịch sử có chứng cứ khảo cổ” Nữ thần Inanna ở vùng Lưỡng Hà có tên gọi giống với một vị nữ thần được thờ nhiều nơi ở Việt Nam : Người Chăm có đền thờ ở Khánh Hòa gọi bà là PoNagar Người Việt Nam có điện thờ ở Hòn Chén gọi bà là Thánh mẫu Thiên YANA cai quản vùng trời còn được gọi là Mẫu Thiên, ở An Giang gọi là Bà Chúa Xứ, ở Nha trang -Khánh Hòa gọi là Mẹ Xứ Sở ( chữ “Xứ Sở” đồng âm với “Susa” trong đó từ “Su” theo chữ viết Proto-Elammitte nghĩa là “nước” được viết giống như chữ “ sui=thủy” trong văn giáp cốt đời Thương) (http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_H%C3%B2n_Ch%C3%A9n) Khám thờ ở vùng Lưỡng Hà có nhiều tầng có thang kề vào được mô tả giống như đàn Nam Giao ở việt nam có ba tầng tượng trưng cho Thiên -Địa-Nhân . Người Việt Nam và người Trung Hoa gọi Thiên Địa Nhân là thuyết Tam Tài nên có thể có mối liên quan nào đó giữa Ziggurat với danh xưng “Hatamti” của người Elam, có mối liên quan nào đó giữa danh xưng Hatamti với người Hạ ở trung Hoa. Một manh mối nữa là địa danh Anshan ở Tali Malyan của xứ Tiền Elam cũng đã được mang đến Trung Hoa , một Anshan ở phía bắc Trung hoa thuộc bán đảo Liêu Đông , một Anshun ở phía nam Trung Hoa thuộc Quí Châu .Có khả năng tổ tiên người Việt Nam ngày nay đã từng sống ở phía nam Anshun hoặc đã từng sống ở Anshan trong khu vực phía nam Trung Hoa nên được gọi là dân An Nam. http://en.wikipedia.org/wiki/Anshan_%28Persia%29 http://www.chinaculture.org/gb/en_map/2003-09/24/content_21634.htm Đồ gốm Susa cũng giống đồ gốm Trung hoa, như đã nói ở bài trước, đồ gốm tô vẽ ở Trung hoa được người ta cho rằng giống hệt đồ gốm ở Suse, Anau, và giống cả đồ gốm ở Mesopotamie. Đồ gốm tô vẽ được tìm thấy ở các di chỉ miền bắc Trung hoa được cho là đồ gốm đẹp nhất thế giới và người ta chưa thể xác định nó có phải là nét văn hóa của cư dân Hòa Bình thuộc tiền Đông nam Á. Qua chứng cứ khảo cổ có thể thấy được một cách tương đối là văn hóa gốm của cư dân Hòa Bình cho đến năm 3000 tr.cn ở Việt Nam và Trung Hoa là lọai gốm có hoa văn khắc chìm, gốm tô vẽ chỉ bắt đầu xuất hiện khỏang năm 3000 tr.cn, trong khi đó ở vùng Mesopotamie thời kỳ Obéid và Suse I đã có đồ gốm tô vẽ trước thiên niên kỷ V. Đến cuối thiên nhiên kỷ V ở vùng Lưỡng Hà không còn đồ gốm tô vẽ, thay vào đó là lọai đồ gốm không tô vẽ gọi là gốm Uruk (3700 – 3100 tr.cn ) được làm trên bàn vuốt hoặc nặn bằng tay. Riêng ở Susa lọai đồ gốm tô vẽ vẫn còn duy trì ở thời kỳ sau hồng thủy ( 3500 -2800 tr.cn). Điểm này cho thấy đồ gốm tô vẽ là nét văn hóa đặc trưng của vùng Ai cập, Lưỡng Hà có từ trước 4000 tr.cn. Đồ gốm tô vẽ ở Trung Hoa có thể do người dân Tiền Elam mang đến mà người dẫn đầu là vua Thần Nông , theo truyền thuyết là vị thần mình người đầu trâu đến từ phía tây Trung hoa. ( http://en.wikipedia.org/wiki/Elam) Có thể giả định rằng dân Tiền Elam đã đến Harappa khoảng 3300BC mang theo đồ gốm tô vẽ của vùng Địa Trung Hải đến nơi này. Sau đó vào Trung Hoa. - Đồ gốm Suse Http://Persianwonders.com/page32.html Đồ gốm tô vẽ ở Harappa - Ấn Độ : 3300 BC . Thứ đồ gốm này tuy là di tích duy nhất cũng đủ để chứng minh một di tích văn minh tương đương với văn minh Uruk ở Mésopotamie, còn văn minh Amri thì có điểm tương đồng với văn minh Jemdet Nasr http://pubweb.cc.u-tokai.ac.jp/indus/english/1_2_02.html -Đồ gốm tô vẽ ở Trung Hoa tập trung ở lưu vực sông Vị Thủy có niên đại trên 3000 BC tại các di chỉ trước đó đã có người ở như Majiayao, Dadiwan, Miaodikou, Yangshao; sau đó đến các di chỉ trước đó đã có người ở như Daxi ở Hồ Bắc và Chengtoushan ở Hồ Nam . Muộn nhất là chiếc chậu trong lòng có vẽ hình con rắn khoanh tròn ở di chỉ Taosi-Sơn Tây khoảng 2500 BC (http://www.chinaculture.org/gb/en_artqa/node_430.htm) Dân Tiền Elam là một cộng đồng dân cư ở vùng cao và vùng đồng bằng sống hòa nhập khắng khít với nhau. Người dân ở vùng Susa có lẽ đã đến từ Uruk hoặc Jiroft là những người thạo về nghề sông nước và chế tạo đồ gốm chạm khắc khác với đồ gốm sơn vẽ của người bản địa, Người ta dã tìm được ở Suse một chiếc bình chạm hình vị thần mình người đầu trâu có cùng kiểu dáng như những lọ bình ở Jiroft. Vị thần mình người đầu trâu được người Trung Hoa cổ gọi là Thần Nông, là tổ tiên của dòng Sở Hùng và là một trong hai vị tổ tiên của dòng Cơ Sở. Trở lại với Sở Hùng để tìm giải đáp cho câu hỏi : Dòng dõi Sở Hùng là những ai ? Họ là những người mà cổ sử Trung Hoa gọi là Tam Miêu, hậu duệ của Thần Nông và Xuy Vưu đã bị đày ra núi Tam Nguy ( Đôn Hoàng ) thời vua Thuấn. Theo Trúc thư kỷ niên, Tam Miêu là những người đã sống trên vùng đất sau này là nước Sở, họ đã bị vua Thuấn đày đến núi Tam Nguy phía tây Trung Hoa tận Đôn Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc ngày nay để trừng phạt họ vì đã giúp đỡ con trai của vua Nghiêu (Đan Chu) trong việc nổi dậy chống vua Thuấn. Theo nghiên cứu của Nguyên Nguyên, chữ “ trãi” được ghép vào chữ Lạc còn được đọc là He, Ho, Mo , do đó có khả năng nhóm trãi là Tam Miêu trong đó có người Việt ở núi Hùng Nhĩ Sơn sau khi bị đày ra Tam Nguy cạnh sa mạc Đôn Hoàng đã theo ngả tây nam trở vào Trung Hoa khoảng 1200BC, một nhóm pha YueZhi (Turkey) vào Ba Thục hình thành văn hóa Sanxingdui, một nhóm trở về quê hương cũ là đất Sở ở di chỉ Panlongcheng tại Hồ Bắc , một nhóm người Lão-Việt gốc Sơn Đông là người Hẹ (Đông di) vào Giang Tây vùng Hoa nam ở di chỉ Tân Can ( Xingan) khoảng 1200 BC. Dòng Sở Hùng còn là những người Việt hậu duệ của Du Võng từng sống ở núi Hùng Nhĩ sau đó đến Sơn Tây khoảng năm 2500 BC cùng chung sống với Mongloid họ Cơ trong liên minh Viêm Hoàng, từ khi nhà Hạ bị Thành Thang của nhà Thương lật đổ khỏang 1500BC ( niên đại theo nghiên cứu của Eberhard ) con cháu nhà Hạ chia thành 3 nhóm : nhóm thứ nhất là những người Hạ sống ở Khúc Phụ vẫn ở lại sống chung hòa bình với nhà Thương, nhóm thứ hai chạy về phía bắc thành giặc Hung nô,nhóm thứ ba chạy về phía Nam trở thành Kinh, Sở. Dựa vào chứng cứ khảo cổ có thể thấy nhóm chạy về phía nam đã sống tại di chỉ Bàn Long Thành (Panlongcheng -1500BC) và sau đó phát triển thành nàng Âu Cơ ( DU-CƠ ?) thuộc dòng Sở Hùng và dòng Cơ Sở của những người tự xưng là con cháu Viêm Hoàng. Còn Khương tộc có lẽ định cư ở di chỉ Ngô Thành (Wucheng)- Giang Tây có niên đại khoảng 1500BC-1100BC sau đó phát triển thành nước Ngô của Phù Sai. Hiện nay các nhà khảo cổ thường đưa ra những thắc mắc rất đáng chú ý, Gina L.Barnes trong quyển Trung quốc-Triều Tiên-Nhật Bản - Đỉnh cao văn minh Đông Á đã đặt ra câu hỏi : “bằng cách nào để chúng ta hiểu được các di chỉ văn hóa tại Panglongcheng (Bàn long Thành) ở Hồ bắc và di chỉ Tân can (Xingan) ở Giang tây trong sự tương quan với nhà Thương”. Nghiên cứu đồ đồng thời ấy có thể thấy các di chỉ Phong Châu, An Dương, Bàn Long thành, Tân Can đều có chung nguồn gốc tuy nét văn hóa có khác nhau đôi chút. Đồ đồng thuộc di chỉ Panglongcheng ở Hồ Bắc mang nét văn hóa của dòng Sở phía Bắc, là văn minh Hoa Hạ của những người thuộc giống Australoid - Mongloid nói tiếng Austro-asiatic Việt Mường (Sở Hùng) và giống Mongloid-Australoid nói tiếng Sino-Tibetan (Cơ Sở) với đỉnh đồng có dạng tròn , ba chân được phát triển từ chiếc đỉnh gốm ba chân danh tiếng của người Hạ Đồ đồng thuộc di chỉ Tân Can ở Giang Tây mang nét văn hóa của dòng Sở phía Nam là văn minh Hồng Bàng của người Lão-Việt gắn với Đông di thuộc giống Australoid – Melanesien nói tiếng Tai-Kadai, Autro-Tai và Austro-asiatic Việt Mường với đỉnh đồng hình chữ nhật có bốn chân , đôi khi có đúc nổi hình ảnh thuộc giống dân tiền Đông nam Á Đỉnh đồng ở di chỉ Wucheng - Giang tây có dạng tròn, ba chân , nhưng hoa văn khác với đỉnh đồng ở Panlongcheng của Sở do đó có lẽ các đỉnh đồng ở Wucheng mang nét văn hóa của tộc Hạ, Khương thuộc Tam Miêu nói tiếng Autroasiatic Môn Khmer. Dòng giống của những người sống ở Panlongcheng và Xingan là dòng Sở Hùng nói tiếng Austro-asiatic Việt Mường , ở Panlongcheng dòng Sở Hùng sống cùng với một dòng khác là dòng Cơ Sở thuộc nhóm con cháu Viêm Hoàng là người Hoa Hạ nói tiếng Hán Tạng Sino-Tibetan , cả hai dòng cùng chung sống trên đất Sở , trong khi đó một nhóm những người nói tiếng Autroasiatic nhánh Viêt Mường và nhánh Môn Khmer tập trung ở đất Kinh Vào năm 887 BC , vị vua Sở Hùng đời thứ 6 là Hùng Cừ đem binh đánh lấy đất Đông và Dương Việt rồi cho con trưởng là Khang ( Wukang) ở đất Câu Đản, cho con thứ hai là Hồng ( Zhihong) đất Ngạc ở Hồ Bắc, cho con thứ ba là Chấp Tỳ làm vua ở nước Việt Chương là Việt Thường trước kia. Dòng Sở Hùng làm vua truyền được nhiều đời , sau đó thì suy và mất chủ quyền về tay Sở Thành Vương của dòng Cơ Sở. Hậu duệ của Sở Hùng Cừ (Tam Miêu) thuộc nhánh Wukang ở Câu Đản vào khoảng 771BC có thể kết thông gia với Khuyển Nhung thành “Lạc” đã tấn công vào Cảo Kinh, sau khi thất bại có lẽ sang Bengal rồi quay về ở Vân Nam giáp Ba Thục sống tập trung ở nơi này thành khu tự trị Sở Hùng , hậu duệ của Sở Hùng Cừ thuộc nhánh Chấp Tỳ (Hồng Bàng) ở Việt Thường khoảng 671BC có lẽ bị Sở Thành Vương đánh bại đã chạy xuống Quí châu-Ba Thục sống tại di chỉ Hechang . Khi hậu duệ của Sở Thành vương ( Đế Lai ?) đem quân và dân lấn xuống phía nam , Lạc Long quân ( hậu duệ Lạc Long Quân ?) đánh đuổi Đế Lai, mang nàng Âu Cơ về ở cùng khoảng 500BC rồi sau đó lại chia tay đi về phía biển ở Chiết Giang thành tổ tiên của Việt Vương Câu Tiễn, nàng Âu Cơ buồn muốn trở về nhưng phương bắc không cho về , do đó có khả năng nàng Âu Cơ là người Kinh Bắc gốc Sơn Tây – Hà Bắc ở Trung Quốc đã xuống Sở Hùng Thị ở Vân Nam, sau đó mang địa danh Hà Bắc xuống đồng bằng sông Hồng sống tại làng Lim Kinh Bắc, nơi con sông Cầu chảy qua êm đềm thành lời thơ lời nhạc, vào ngày hội Lim những làn quan họ giao duyên đã trở nên bất hủ trong lòng mỗi con người. http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i_Lim http://vi.wikipedia.org/wiki/X%E1%BB%A9_Kignh_B%E1%BA%AFc Nói rằng khu tự trị Sở Hùng ở Vân Nam là nơi xuất phát trống đồng có nghĩa trống đồng là di vật của họ Sở Hùng là Việt tộc đã từng sống ở núi Hùng Nhĩ và nơi xuất phát trống đồng trước tiên có thể là ở vùng Kinh Sở từ thời Hùng Dịch 1112BC hoặc chậm nhất là vào thời vua Hùng thứ 6 là Hùng Cừ 887 BC, tuy nhiên người Việt cũng đã hỗn chủng với người Lão bản địa ở Hoa Nam nên trống đồng là di vật của người Âu nói chung mà người ta có thể phân biệt được dựa vào hoa văn thể hiện nét văn hóa riêng của từng tộc người. Theo tôi nét văn hóa Việt được thể hiện với hoa văn hình người trang phục cánh chim khắc trên rìu xéo, hoa văn thuyền hình lưỡi liềm trên trống đồng với hình người mặc trang phục cánh chim có thể là hình ảnh các vị thần, và tuơng tự như ở vùng Địa trung Hải người lãnh đạo cầm trên tay một chiếc rìu tượng trưng cho quyền lực . Những hình ảnh trên còn được thấy trên thạp đồng Đào Thịnh ở Đông Sơn và thạp đồng Nam Việt trưng bày trong lăng mộ Việt Vương tại Quảng Châu. Còn lại những loại rìu hình chữ nhật có hoa văn nai, cá và chim, những hình ảnh các giống vật như cóc , voi, ốc, cá sấu , những hoa văn thuyền với hình người trên trống đồng không có trang phục cánh chim, tay cầm cung tên là nét văn hóa của Việt tộc pha trộn với nét văn hóa của các dân tộc thuộc Bách Việt Trống đồng, theo cổ sử Trung hoa, là vật sở hữu của trung đoàn, được tướng lĩnh dùng để điều khiển trận đánh , các chiến sĩ trước khi ra trận thường có buổi lễ long trọng kèm theo những con vật được hiến tế, máu súc vật được tưới xuống rãnh để đất có thể làm chứng cho sự hiến tế trên, phần máu còn lại được xoa lên môi của những người ra trận và xoa lên chiếc trống của trung đòan. Khi ra trận, người chiến sĩ hành quân theo tiếng trống và rút lui khi nghe tiếng “gong” ( cồng ?), ngoài ra dân tộc thiểu số còn dùng trống đồng để cầu mưa. Sự kiện trống đồng được tìm thấy ở Trung hoa nhiều hơn ở các nước ở vùng Đông nam á cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa văn hóa đồng rực rỡ ấy là tài sản của Trung hoa mà đó là tài sản Trung Hoa thừa hưởng được từ giống dân tiền đông nam á đã từng sống và phát triển trên đất Trung hoa, người Trung hoa hiện nay cũng mang trong mình dòng máu của người Đông nam á , trong đó tộc người xử dụng rìu làm vũ khí giữ vai trò chủ đạo trong việc kiến tạo nền văn minh Trung hoa , và thời đại trống đồng khởi đầu được chế tạo ra như đã nói trên có thể vào thời đại Hùng vương hay nói cách khác vào thời đại của các vị vua dòng Sở Hùng khi còn sinh sống xung quanh vùng Động Đình hồ . LƯƠNG TRÂM
  8. Chiều qua, Hà Nội trời mưa. Cả buổi chiều ngồi nhà mở "Toàn Đường thi" (thạch bản) ra đọc trong mưa gió dặt dìu. Đọc được bài thơ này của Bạch Cư Dị - một trong ba nhà thơ nổi tiếng nhất thời Đường, Trung Quốc, xin chép tặng độc giả của Nguyễn Xuân Diện Blog. Chúng tôi xin lưu ý, chúng tôi nhắc đến bài thơ này của Bạch Cư Dị vào thời điểm này không liên quan gì đến Hội Nhà văn vừa xong Đại hội. HỒNG ANH VŨ Nguyên văn: 紅鸚鵡 安南遠進紅鸚鵡 色似桃花語似人 文章辯慧皆如此 籠檻何年出得身 Phiên âm: HỒNG ANH VŨ An Nam viễn tiến hồng anh vũ Sắc tự đào hoa, ngữ tự nhân. Văn chương biện tuệ giai như thử, Lung giám hà niên xuất đắc thân! Dịch nghĩa: CHIM VẸT ĐỎ An Nam xa xôi vừa dâng chim vẹt đỏ, Màu lông giống tựa hoa đào, tiếng giống tiếng người. Văn chương và học thuật nếu cũng đều như thế, Vậy đến năm nào mới thoát khỏi kiếp chim lồng! The Red Cockatoo Sent as a present from Annam A red cockatoo. Coloured like the peach-tree blossom, ...Speaking with the speech of men. And they did to it what is always done To the learned and eloquent. They took a cage with stout bars And shut it up inside. translated by Arthur Waley - bản dịch tiếng Anh của Arthur Waley, do Trang Hạ cung cấp. Dịch thơ: VẸT ĐỎ Vũ Minh Tân dịch: Nước An Nam vừa dâng vẹt đỏ, Nói tiếng người, lông tựa hoa đào. Thông minh, văn vẻ vậy sao, Kiếp chim lồng biết khi nào mới qua. TIỂU SỬ NHÀ THƠ BẠCH CƯ DỊ Bạch Cư Dị (chữ Hán: 白居易) (772-846) tự là Lạc Thiên (樂天), hiệu là Hương Sơn cư sĩ là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Tác phẩm nổi tiếng của Bạch Cư Dị ở Việt Nam có lẽ là bài Tỳ bà hành, Trường Hận Ca. Tổ tiên ông là người gốc Thái Nguyên, Sơn Tây, sau di cư tới huyện Vị Nam, Thiểm Tây. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Đối với một số người yêu thơ văn thì người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Mười lăm tuổi ông đã bắt đầu làm thơ, thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tường nỗi vất vả của người lao động. Năm Trinh Nguyên thứ 16 (năm 800), ông thi đỗ tiến sĩ được bổ làm quan trong triều, giữ chức Tả thập di. Do mâu thuẫn với tể tướng Lý Lâm Phủ, ông chuyển sang làm Hộ Tào tham quân ở Kinh Triệu. Năm Nguyên Hòa thứ 10 (815), do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, nhóm quyền thần cho là ông vượt qua quyền hạn, đày làm tư mã Giang Châu. Giai đoạn tuừ năm 821 tới năm 824 làm thứ sử Hàng Châu, năm 825 làm thứ sử Tô Châu, sau được triệu về kinh làm Thái Tử thiếu phó. Năm Hội Xương thứ 2 (842) về hưu với hàm thượng thư bộ Hình, sau mất tại Hương Sơn, Lạc Dương. Những năm đầu, ông cùng Nguyên Chuẩn ngâm thơ, uống rượu, được người đời gọi là Nguyên Bạch. Sau này, khi Nguyên Chuẩn mất, lại cùng Lưu Vũ Tích, hợp thành cặp Lưu Bạch. Người đời tôn xưng ông là Thi Ma. Ông chủ trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức. Ông nói: "Làm văn phải vì thời thế mà làm... Làm thơ phải vì thực tại mà viết", mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân. Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Trường hận ca để nói mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, nhưng đọc kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Ông cùng Nguyên Chẩn đề xướng phong trào Tân Nhạc Phủ, nên trong thơ, ông luôn công kích đời sống xa hoa dâm dật của bọn quý tộc, bóc trần sự bóc lột của bọn quan lại, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng (Tần Trung Ngâm, Tân Nhạc Phủ). Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy mình cũng bị cuộc đời làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì người đời (Tỳ bà hành). Ông thông cảm với những thân gái chịu bao tập tục hủ bại và cảnh nghèo túng mặc dù sắc đẹp thì chẳng thua ai (Nghị hôn). Ông chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự. Thơ ông giàu tính trữ tình. Khi ông bị đi đày từ Tràng An đến Tây Giang, ba bốn ngàn dặm, dọc đường thấy trường học, chùa chiền, quán trọ.... đều có đề thơ của mình, nên càng tự tin ở chủ trương của mình hơn. Riêng hai bài Tỳ Bà Hành và Trường Hận Ca đã đủ tỏ tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo; bài thì hoà đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm của cả hai, người gẩy -người nghe, vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đời thì vời vợi mênh mang. Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo về thiền, về Lão Trang, cũng như là biểu hiện trốn đời, sau khi đã quá ngán về nhân tình thế thái. Ông để lại khoảng trên 2.800 bài thơ. Công trạng khi làm quan: Khi làm thứ sử Hàng Châu, thấy các công trình điều tiết nước cho nông nghiệp đã bị bỏ hoang lâu ngày, ông đã cho tu tạo lại Tây Hồ, cho đắp đê tại đây, trên trồng liễu, đến nay vẫn còn và được gọi là Bạch đê. Khi làm thứ sử Tô Châu, ông cho đào một con sông đào nối Hổ Khâu ở phía tây với Xương Môn ở phía đông gọi là Sơn Đường hà. (Theo Wikipedia Tiếng Việt).
  9. "Tốc độ ánh sáng là hằng số của cấu trúc có giới hạn của vật chất. Dạng hạt chẳng hạn. Nếu vượt ra ngoài cấu trúc đó thì tốc độ sẽ khác". Thế thì không biết cái tàu vũ trụ đến bao giờ mới tới những hành tinh gần nhất (hiện tại tốc độ hình như là 11.4km/s) vì tàu vũ trụ đang là những khối hạt.
  10. Nghệ thuật kiến trúc với sự rực rỡ bởi Thần tính và ý nghĩa văn hóa sâu sắc Tác giả: Trầm Tĩnh [Chanhkien.org] Nhiều chư Thần khác nhau đã tạo ra những tộc người khác nhau và trao truyền những văn hóa khác nhau. Trong 2000 năm phát triển, Cơ Đốc Giáo đã để lại nhiều tác phẩm nghệ thuật trường cửu. Cũng vậy, trong triều đại Đường, sự phối hợp Khổng giáo, Phật và Đạo giáo đã mang đến một nền văn minh phồn vinh nhất trong lịch sử Trung Hoa. Kiến trúc là một trong những hình thức nghệ thuật vật liệu được phát triển tốt nhất trên trái đất. Nó là âm nhạc được ướp thông qua hình thức vật lý và hội họa tạo nên không gian 3 chiều. Quan sát lịch sử kiến trúc đông tây, những tác phẩm kiến trúc nổi bật nhất luôn chói sáng với sự rực rỡ mang Thần tính và chuyên chở ý nghĩa văn hóa sâu sắc. I Những tác phẩm nghệ thuật kiến trúc sáng chói nhất nối liền với Chư Thần 1.Kiến trúc Hy Lạp cổ Kiến trúc Hy Lạp cổ không những đặt nền móng cho xây dựng phương Tây cổ, mà có những ảnh hưởng sâu sắc. Đặc trưng của kiến trúc Hy Lạp cổ là hài hòa, hoàn thiện và cao quý. Đặc biệt, những đền cổ Hy Lạp là những phản ánh rõ ràng nhất của đặc tính này. Những xây dựng hình cột biểu hiện sự hài hòa và cao quý. Có 3 dạng hình cột cổ, tên là trụ thức Doric, trụ thức Ionic và trụ thức Corinthian. Các phần chính xác của các cột trụ (Trụ tử: trụ sở, trụ thân, trụ đầu) và những kiểu mẫu đúc đã nói lên vẻ đẹp cao thượng của chúng. Đền thờ Parthenon tọa lạc tại điểm cao nhất của Acropolis, và nó dùng một đế hình chữ nhật dựa vào 3 nền. Nó trông vững vàng và oai nghiêm. 2. Nhà thờ thánh Sophia Vào công nguyên năm thứ 313, đại đế Constantine hạ lệnh bảo hộ những giáo đồ Cơ Đốc, những người bị đàn áp bởi chế độ La Mã, yêu cầu trả lại những quyền sở hữu bị tịch thu và ban cho Cơ Đốc Giáo vị trí hợp pháp. Sau khi đại đế Constantine thống nhất thành Rom, ông chuyển đến Byzantium và phong cách nhà thờ chuyển thành phong cách Byzantium. Nhà thờ thánh Sophia là hiện thân toàn diện của kiến trúc theo phong cách Byzantine. Mái vòm hình cầu của nhà thờ giống như viên ngọc dựng trên bãi biển: nguy nga và gây ngỡ ngàng. Mặc dù bề ngoài được trang hoàng một cách gồ ghề, bên trong rất tinh tế. Thông qua 40 lỗ nhỏ đặt trong một vòm lớn, ánh sáng tự nhiên được mang vào nhà thờ, làm cho không khí thay đổi, phong nhã và thần bí. Những tấm kính nhuộm phẩm trên cửa chính và cửa sổ có nhiều màu sắc, các cột và tường được trang trí bởi cẩm thạch nhiều màu sắc. Một khảm kính đẹp hòa với màu xanh và vàng gắn chặt vào bên trong vòm. 3. Nhà thờ Koln Thời Trung cổ, thần học Cơ Đốc thịnh hành tại Châu Âu. Vào thời gian đó, nghệ thuật kiến trúc làm nên những bước nhảy to lớn, tạo nên nghệ thuật kiến trúc nhà thờ Gothic như được nhìn thấy trong những nhà thờ Notre Dam và Koln . Những tác phẩm nghệ thuật này có thể phục vụ cho mục đích giúp linh hồn người ta nhận lỗi chân thành và khiêm tốn. [2] Ở các nước phương Tây, người ta tin Chúa và tin rằng Chúa tạo nên con người, và vì con người làm điều tội lỗi họ bị đẩy xuống thế giới con người này. Người ta có thể quay về thiên đàng chỉ khi nào tin tưởng vào Chúa và chuộc tội lỗi của họ. Chúa không thể chỉ cứu người từ đau khổ, mà Ngài cũng phán xét từng hành vi tốt xấu của họ. Luật trong thế giới con người được chỉ định theo ý định của Chúa, và ngay cả một vị vua cũng bị kiềm chế bởi những luật thiên đàng này. Chúa có quyền năng tuyệt đối. Nếu một người không đối nghịch lại với luật thiên đàng, họ có thể làm được điều thần kỳ với lòng hối lỗi tận tâm, và cuối cùng đạt đến mức độ thánh thần. Từ mặt trước, nhà thờ Koln có 2 tháp cao 160 met. Chúng rất uy nghiêm, thần thánh, tinh tế, và cũng hợp nhất với đặc trưng đặc biệt của Đức quốc. Vòm hình cung nhọn cao của tháp là thẳng đứng biểu dương hiệu quả thẩm mỹ về sự thăng hoa và siêu việt trong thế giới trần tục này. 4 Nhà thờ Thánh Peter Nhà thờ Thánh Peter, tọa lạc nơi mà thánh Peter bị hành hạ, là nhà thờ lớn nhất thế giới và cũng là công trình kỷ niệm quan trọng của thời kỳ phục hưng ở Ý. Toàn bộ kiến trúc của nó là trong cấu trúc của một thánh giá với những trang trí tráng lệ bên trong. Trên cái nóc hình cung nổi tiếng ở giữa là tác phẩm của Michelangelo. Trên nóc và tường là những bức họa của các cảnh tượng trong kinh thánh, và có 11 công trình điêu khắc trên các mái chìa của nóc vòng tròn. Kiến trúc theo phong cách Baroque là rực rỡ, cao quý, bất thường, không theo quy cách và ngược với truyền thống cổ điển. Phong cách Rococo thì nhẹ nhàng và mảnh dẻ. Cả 2 phong cách cho người ta một sự cảm giác ham mê và suy đồi. Chúng có thể khiến người ta cảm thấy ấm cúng và hạnh phúc, nhưng chúng không gây cảm hứng cho con người cảm giác thần thánh giống như nhà thờ Koln. Những phong cách kiến trúc xuất sắc nhất đều có liên quan đến chư Thần. Niềm tin vào Thần có thể rửa sạch tâm của con người, mở khai tâm trí họ và đưa con người đến những kinh nghiệm thần bí. Không có sự dẫn dắt của Thần, con người chỉ hưởng thụ cuộc sống ham mê và dần dần suy đồi trong cấp độ tinh thần của họ. II Kiến trúc truyền thống Trung Hoa dựa trên nền văn hóa truyền thống sâu sắc Trung Hoa Kiến trúc phương Tây xây dựng bởi gạch và đá, trong khi kiến trúc truyền thống Trung Hoa xây dựng bởi gỗ. Kiến trúc Trung Hoa cổ cho thấy văn hóa Trung Hoa sâu sắc, lý thuyết vũ trụ mà con người là một bộ phận của thiên nhiên, và lời dạy của Đạo giáo dựa trên những phương cách tự nhiên, đạt đến một cảnh giới cao thượng và hài hòa. Kiến trúc Trung Hoa cổ xưa thì giản dị, có nội hàm và có sự rực rỡ và cân bằng của trường phái Nho. Không có sự thay đổi đột ngột, những mũi nhọn mạnh mẽ và lập dị, kiến trúc Trung Hoa cổ có thể được thưởng thức và hiểu biết một cách dễ dàng và nó tuân theo đặc trưng văn hóa “sự giản dị và chân thành” 1. Phong cách tứ hiệp Trường phái Nho dạy người ta sống yên bình và lý tính. Trung, hiếu, lễ, nghĩa mặc nhiên ảnh hưởng đến văn hóa Trung Hoa hàng nghìn năm: “Khi bạn chân chính và thành thật, bạn đang tu luyện chính bạn, vì thế gia đình trở nên trật tự, đất nước và thiên hạ trở thành bình yên” “Từ một tiểu nhân thành một quân tử, [đòi hỏi] người ta thành cá nhân hữu dụng” [3] Kiến trúc tứ hiệp truyền thống bao gồm nhà cửa khắp 4 phương vị. Cách bố trí chặt chẽ, trật tự, đối xứng và vững vàng. Sân nhỏ ở phía trong có thể tổ chức các hoạt động độc lập. Người ta có thể nói chuyện và uống trà vui vẻ. Cấu trúc nhà cửa trùng với nguyên lý âm dương của trường phái Đạo, ngũ hành, cân bằng lâu dài, luân lý đạo đức phong kiến và phong thủy. Kiến trúc tứ hiệp là kiến trúc nhà ở thông dụng nhất và là tượng trưng cho sự ổn định của bộ đại quần chúng. Trong kiến trúc tứ hiệp, nhiều đời có thể sống dưới cùng một mái [nhà], và có sự quan hệ của những cá nhân và nhóm, cha và con trai, mẹ và con gái, và họ sống hài hòa với nhau. Tứ hiệp là hình thức kiến trúc đại diện cho gia đình, và nó có thể cho thấy người Trung Hoa coi trọng hiếu đạo và tình cảm gia đình sâu sắc như thế nào khi người ta nhắc đến kiến trúc tứ hiệp. Tứ hiệp là một xã hội thu nhỏ mà cho thấy tôn ti hữu tự và giữ cách biệt giữa trong và ngoài. Từ cung điện cho đến nhà ở, phong cách quần thể tổ hợp được sử dụng rộng rãi, mà nó cũng có chức năng duy trì và phát huy những tư tưởng và luân lý đạo đức. Cấm thành ở Bắc Kinh có một bố trí đối xứng với một cấu trúc rõ ràng. Đây là ví dụ của kiến trúc tứ hiệp ở một quy mô lớn nhất và phong cách phức tạp nhất. 2. Tự miếu Ngược với kiến trúc tứ hiệp, những tự miếu Trung Hoa một cách hữu ý pha trộn không gian trong ngoài và coi trọng sự tương hỗ giữa không gian trong và ngoài. Những cửa chính, tường, phần nhô ra [của mái] và các hành lang tất cả đều [hợp nhất và] mở ra ngoài và mang triết lý vũ trụ nơi mà con người là một bộ phận của thiên nhiên và làm nổi bật cân bằng âm dương. Những tự miếu cổ thường tọa lạc trong núi và hòa hợp với thiên nhiên. Những tự miếu không những có không khí uy nghiêm mà còn [có] một cảm giác tự nhiên. Những mái chìa vểnh lên, giống như cánh chim bồ câu và trăng non, làm nên một kiến trúc xây dựng trông thật phong nhã. Những mái chìa thanh nhã cũng hướng mắt người đến thiên đường cao tít tầng mây. Kiến trúc từ đời Đường thì nguy nga, giản dị và mạnh mẽ. Ngày nay, chính điện Nam Thiện Tự và Phật Quang Tự trên Ngũ Đài Sơn vẫn còn nguyên vẹn. Xây dựng vào Công nguyên năm thứ 782 đời Đường, Nam Thiện Tự là một trong những ví dụ sớm nhất của kiến trúc chùa gỗ. Phật Quang tự được xây vào công nguyên năm thứ 857 và có “tứ tuyệt” ở bên trong, tên là: tố tượng, tranh tường, chữ viết và kiến trúc. Chúng cũng được gọi là “đồ quý báu trong thế gian”. Bên cạnh là những tháp xá lợi bao quanh, chúng đều cao, sinh động, giản dị và tuyệt vời, thể hiện nghệ thuật trang trí tráng lệ trong đời Đường. [4] Chân Vũ Các ở Quảng Tây kết cấu kỷ xảo, không gì trên thế giới sánh được. Chân Vũ Các được làm bằng gỗ mà không có một mảnh kim loại nào. Bằng việc sử dụng thuyết kết cấu đòn bẩy, toàn bộ cấu trúc sử dụng những sự chế ước tương hổ. Mái chùa thì phẳng lặng, giản dị và trải rộng. Cách đây khoảng 400 năm, Chân Vũ Các vẫn giữ được nguyên vẹn sau khi trãi qua 5 cuộc động đất và 3 trận bão khủng khiếp. Chân Vũ Các, cùng với Nhạc Dương Lâu, Hoàng Hạc Lâu và Đằng Vương Các cũng gọi là tứ đại danh lâu vùng Giang Nam và chúng cũng chính là tứ đại danh lâu mà không bị xây lại, vẫn giữ nguyên vẹn kiến trúc nguyên thủy. 3. Những vườn cổ điển Những vườn cổ Trung Hoa ảnh hưởng bởi chất thơ của đời Đường, Tống và rất phong phú trong các nhận thức về thơ và nghệ thuật. Chúng thường là mô hình của những bức họa trường phái vẽ tay tự nhiên. Đình, đài, lâu vừa tương phản vừa đi cùng với hồ và núi. Xà trạm và rui được họa cùng với đôi câu liễn dẫn người vào thắng cảnh. Phong cảnh với nhiều khúc chiết, biến hóa đa dạng khi bạn chỉ chuyển động một chút ít. [5] “Chỉ xích chi nội tái tạo càn khôn ” , ” tuy do nhân tác , uyển tự thiên khai ” (1) là 2 câu được dùng để mô tả vườn cổ điển. Mô hình tự thiên nhiên [để] biểu lộ phản bổn quy chân và một đời sống ung dung là nhận thức nghệ thuật và ý nghĩa của những vườn cổ điển này. Vườn Tô Châu kết hợp sáng tạo và mỹ thuật tự nhiên, nó tao nhã và lịch sự. Trong kiến trúc tứ hiệp, tự miếu và vườn dành cho thường dân, người xuất gia và những văn nhân nhã sĩ Trung Hoa. Văn hóa truyền thống Trung Hoa có một lịch sử uyên nguyên. Bằng cách học tập nó một cách nghiêm túc, một người có thể nắm bắt được ý nghĩa nội hàm và đặt một cơ sở vững chắc để hiểu biết và cách tân xa hơn nữa. Trong một trăm năm gần đây, vì sự can nhiễu và làm méo mó văn hóa truyền thống Trung Hoa dưới những điều luật bạo ngược của Đảng Cộng sản Trung Quốc và sự ảnh hưởng của sự toàn cầu hóa, văn hóa truyền thống Trung Hoa đã bị chệch đi và méo mó. Điều quan trọng là khôi phục lại văn hóa chân chính và loại bỏ những điều cặn bã. Không phải là đáng tiếc sao khi mất đi văn hóa truyền thống chân thực, và thay vào nhận những rác rưỡi từ các nước phương Tây làm đồ quý? Dịch từ: http://www.zhengjian.org/zj/articles/2008/8/24/54507.html http://www.pureinsight.org/node/5547 Links: [1] http://www.pureinsight.org/sites/default/files/5547a.jpg/> [2] http://www.pureinsight.org/sites/default/files/5547b.jpg/> [3] http://www.pureinsight.org/sites/default/files/5547c.jpg/> [4] http://www.pureinsight.org/sites/default/files/5547d.jpg/> [5] http://www.pureinsight.org/sites/default/files/5547e.jpg/> Giải thích thô thiển của người dịch: (1) ‘Chỉ xích chi nội tái tạo can khôn’. ‘Chỉ xích’ – rất gần. Tạo dựng vũ trụ chỉ bằng vài thước [đất] vườn? ‘Tuy do nhân tác , uyển tự thiên khai’ – dầu được tạo ra bởi con người, nhưng giống như trời tạo. .
  11. GẶP TIÊN Theo suối hoa đào rắc thắm duyên, Men xuân thơm ngát rượu quanh thuyền. Mây sương đầu núi chim tung cánh, Gió liễu bên đường ngựa thắng yên. Mừng gặp đề thơ, sanh quạt ước, Vui ngâm thả hứng, ủ hương nguyền. Lâng lâng cánh bướm tiền thân hiện, Một áng hồng tươi nét Giáng tiên. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  12. Huyền Thiên Cổ Tự là nơi mà Tam tổ Trúc Lâm đã tu luyện và hành đạo: Cổ tự Huyền Thiên, thông vẫn xanh, Chênh vênh sườn núi, điểu nghe kinh, Lan xa, tiếng mõ khua rừng vắng, Hay lòng Tam tổ độ chúng.. NQT * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  13. -TINH KHÍ THẦN LÀ GÌ? Đức Thanh sơn Đạo sĩ dạy: Tích khí tồn tinh cánh dưỡng thần, Thiểu tư quả dục, vật lao thân. ( Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần Ít lo, ít muốn, ít lao thân.) Vậy tinh khí thần là gì? Trời có ba báu là: Nhựt , Nguyệt , Tinh. Đất có ba báu là: Thủy , Hỏa.,Phong Người có tam bửu là: Tinh, Khí ,Thần. Trời có ba báu ấy mà hoá sanh vạn vật, dưỡng dục muôn loài, chuyển luân càn khôn thế giới, phân ranh ngày đêm. Đất nhờ ba báu ấy ma ømưa gió điều hòa, cỏ cây tươi nhuận thời tiết có bốn mùa. Người có tam bửu để nuôi dưỡng thân thể, minh mẩn phát kiến khoa học giúp nhân loại. Con người qui được tam bửu ngũ hành thì đắc quả đạt đạo, còn chơi bời trác táng làm hư hoại tam bửu ngũ hành thì thân bại , hình người mà dạ thú. Vậy phải giữ gìn tinh , khí , thần như báu vật. TINH Tinh là chất dinh dưỡng hấp thụ từ tinh hoa đồ ăn sau khi được chuyển hoá cấu tạo nên cơ thể và dinh dưỡng cơ thể. Cái đem đến sự sống gọi là tinh . Tinh do thận tiết ra, mà thận là chủ của thủy nhận lấy tinh hoa của ngũ tạng, lục phủ mà tích trữ, cho nên ngu õtạng hưng thạnh thì tinh tràn đầy. Tinh là nguồn gốc của thân thể , nên giữ gìn được tinh thì không sợ bệnh hoạn. Nếu nguyên âm kém, thì nguyên dương lấn áp, giao động (hay ngược lại) , làm sức đề kháng của cơ thể bị giảm súc thì tà khí xâm nhập mà phát sanh bệnh. KHÍ Khí là chất li ti khó thấy như tinh khí của thức ăn chất uống lưu hành trong thân thể. Khí là sức hoạt động của nội tạng như khí lục phủ, khí ngũ tạng… Như vậy, khí bao hàm cả hai loại trên Theo nguồn gốc thì khí trời hít thở vào phổi và khí hoá sinh ra trong thức ăn uống đều gọi là khí hậu thiên. Còn khí chứa ở thận gọi là khí tiên thiên, vì nó bao gồm khí nguyên âm (thận âm) và khí nguyên dương (thận dương) bẩm thụ ở tiên thiên , nên còn gọi là nguyên khí. Hai khí tiên thiên và hậu thiên bao trùm bốn thứ: nguyên khí, tôn khí, dinh khí và vệ khí. Tôn khí (thượng tiêu ) chưá ở Thượng khí hải tại giữa ngực . Đó là chỗ vừa qui tụ vừa xuất phát vận hành trong toàn thân rồi lại trở về tại đó.Tôn khí và nguyên khí, một chứa ở lồng ngực và một chứa ở thận kết hợp nhau mới nuôi dưỡng cả cơ thể. Ta gọi chung cả hai là chân khí. Chân khí kết hợp với cốt khí làm cho cơ thể khỏe mạnh. Dinh khí (Trung tiêu) là thứ khí của thức ăn uống thuộc âm. Âm tính nhu thuận cho nên dinh khí đi ở trong mạch . Vệ khí (hạ tiêu) là khí mạnh trong đồ ăn uống nên thuộc dương đi ngoài mạch .Khi ta luyện khí thì âm dương ức chế lẫn nhau. Nếu tôn khí, dinh khí, vệ khí bất hoà trở ngại, ta sẽ bị bệnh. THẦN Thần là thái cực, là huyền bí của đại não nơi cơ thể con người. Thần chủ đạo việc phối hợp khí hóa âm dương . Thần biểu hiện sức sống . Cho nên thần còn thì sống, thần chết thì hết. Thần sung mãn thì ngươì khỏe mạnh , thần suy kém thì người yếu đuối. Quan hệ giữa tinh , khí, thần trong mỗi cơ thể là mấu chốt chủ yếu để duy trì sự sống. Cái mạng con người bắt đầu từ tinh, sống được là nhờ khí, mà chủ sinh mạng lại là thần. Để cho pháp luân thường chuyển thì khí sinh tinh, tinh dưỡng khí, khí dưỡng thần, rồi thần lại hoá khí. Tam bửu hổ tương lẫn nhau. Tinh là cơ sở của thần, khí từ tinh hoá ra. Thần là mặt biểu hiện của khí . Sự thăng trầm của tinh , khí, thần quan hệ đến mạnh yếu của thân thể, sự mất còn của sự sống. Vì thế cổ nhân mới gọi tinh khí thần là tam bửu (ba món báu ), tức là nguồn gốc sinh mạng của con người. Các nhà đaọ học coi thần là Thái cực nơi cơ thể con người . Thần chủ đaọ viêïc phối hợp khí hóa âm dương màta thường gọi là thần khí , thần sắc. Nên thần mất tạng tuyệt, vì các tạng có nhiệm vụ : can tàng hồn , tâm tàng thần, thận tàng tinh, phế tàng phách và tỳ tàng trí ý. Như thế , thần luân chuyển họat động , biến hóa vô cùng , không có chúng sanh nào mà không có thần ngự trị.
  14. Tư Tưởng Tam Bảo - Tinh Khí Thần Tại sao gọi Tam Bảo? Vậy thì Tam Bảo là gì? Ở đây Tam bảo không có nghĩa Phật, Pháp, Tăng như trong giáo lý nhà Phật. Theo Y học Đông Phương Tam Bảo ở đây là ba điều quý giá mà mỗi con người khi ra đều thừa hưởng để giúp cho việc sinh tồn, biết suy nghĩ và làm việc. Những người biết duy trì, luyện tập, tu dưỡng Tam Bảo thì sẽ có sức khỏe, trường thọ, còn người phung phí, lạm dụng Tam Bảo thì sẽ chết yểu và bệnh tật. Trong tác phẩm cổ thế kỷ thứ nhất trước công nguyên có viết: “Thân thể là cái miếu của sự sống. Năng lượng là sức sống. Tinh thần là người chăm sóc sự sống. Nếu một trong ba điều vừa nêu ra mất quân bằng, cả ba sẽ bị tổn thương. Khi tinh thần đóng vai chủ động, thân thể sẽ theo đó một cách tự nhiên, sự phối hợp này mang lại lợi ích cho tam bảo. Khi thân thể đòi đi một đường, tinh thần đi hướng khác, điều này sẽ gây tổn hại cho Tam Bảo” Theo Đạo giáo , Tam Bảo hình thành sự sống gồm có ba phần là Tinh, Khí và Thần, có thể xem như tư tưởng dưỡng sinh, phát xuất từ quan niệm “Tam hợp dĩ nhất”. Nói cách khác Khí sinh ra tinh, tinh sinh ra thần, thần sinh ra minh, tức là muốn sống trường thọ phải phối hợp điều hòa ba yếu tố tinh, khí, thần thành một. Tinh Tinh có nghĩa thành phần vật chất tinh luyện cao độ cấu tạo thành cơ thể con người, cũng có nghĩa là sức sống hay sinh khí, chia thành hai phần một là Tiên Thiên, một là Hậu Thiên. Phần tinh tiên thiên là sức sáng tạo nguyên thủy của vũ trụ, trời đất thúc đẩy sự sinh sản tiếp tục mãi mãi về sau không bao giờ hết. Con người khi sinh ra nhận phần nào tinh tiên thiên từ cha và mẹ, và chứa đựng ở thận, nằm ở đan điền phía dưới rốn, có công năng điều hành sự phát triển cơ thể. Tinh hậu thiên là chất do đồ ăn, thức uống đã được toàn bộ hệ thống tiêu hóa tinh lọc, điều chế dưới các dạng như chất kích thích cho sự phát triển (hormones), chất hữu cơ kích thích tạo thành trong các tế bào(enzyme), chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitters),dịch não tủy( cerebrospinal fluid),dịch bạch huyết (lymphatic fluid) v.v. Tinh hậu thiên nằm ở xương cùng mang quan hệ mật thiết với cơ năng tiêu hóa và tính dục. Khí Khí trong phạm trù y học có nghĩa là sức sống tràn ngập khắp mọi tế bào, tác động mọi cơ quan mọi bộ phận trong cơ thể, nói cách khác:”Có khí thì sống, không khí thì chết”. Khí giống như dòng điện chạy trong máy vi tính, nếu không có điện thì tất cả sẽ ngừng hoạt động ngay tức khắc. Về mặt khí Tiên Thiên hay còn gọi là nguyên khí là sức năng lượng đầu tiên khởi thủy của toàn vũ trụ được biểu hiển qua sức nóng, ánh sáng, những chuyển động và những năng lượng vũ trụ khác Năng lượng vũ trụ như không khí vào cơ thể qua sự điều tức. ánh sang được hấp thụ qua làn da và thị giác. Khí tiên thiên nguyên thủy của con người phát xuất từ hai nguồn. Một là sự chuyển biến từ tinh tiên thiên chứa ở tuyến thượng thận cũng còn được gọi là nguyên khí, bất cứ ai cũng có cả. Muốn đạt được điều này cấn phải có công phu tu luyện. Nguồn thứ hai là năng lượng vũ trụ như trình bày ở trên. Về mặt khí hậu thiên hay còn gọi là đất do đồ ăn, nước uống, và những chất cần thiết cho dinh dưỡng biến thành. Hai nguồn khí tiên thiên và hậu thiên hòa hợp lẫn nhau tạo thành sức sống, nguồn sinh khí vận hành khắp toàn thân, mọi mạch máu,có tác dụng bảo vệ, chống đỡ tà khí xâm nhập, lực căn bản tối cần thiết cho đời sống con người. Thần Thần ở đây ám chỉ Tâm Đạo và mọi hoạt động thuộc về tư tưởng, ý thức và tâm linh con người. Thần tiên thiên còn gọi là nguyên thần, là linh hồn bất tử, là ánh sáng khởi thủy cho ý thức. Nó cũng chính là tia lửa vĩnh cửu của nhận thức, không có sự sinh cũng như sự chết, không có hình thù, cháy sáng và ngự trị ở trong tim. Thần của hậu thiên được biểu hiện qua những ý tưởng, cảm giác, cá tính con người. Thần hậu thiên là những sinh hoạt thuộc về não bộ và nằm ở trên đầu. Thần hậu thiên trong phạm trù tư duy có nghĩa là trạng thái tâm con người được chia thành hai phần, một phần là cảm nhận trú ngụ ở tim tương ứng với hỏa khí. Theo đạo giáo gọi là thần, hay tâm đạo, phật giáo gọi là phật tánh. Đức tính này nằm tiềm ẩn trong tất cả chúng ta nhưng luôn luôn che lấp bởi vọng niệm, bởi cảm giác ảo tưởng của ngũ quan. Vì thế có những người không hề hay biết hay không có khả năng đánh thức nó dậy cho đến khi chết. Nó là tấm gương sạch không một vết bụi có thể phản chiếu mọi sự vật trên thế gian. Trái lại tâm con người hay tâm chúng sinh là tấm gương đầy tì vết, phủ đầy bởi tấm màn vô minh, dục vọng, hằn lên bởi tư tưởng hữu vi. Để trở về tâm uyên nguyên, tâm trong sáng chỉ bằng cách thực hành chứ không bằng sách vở, bằng cách quên đi những ý nghĩ, tư duy và để chúng ra đi chứ không giữ lại, bằng sự tổng hợp những quan niệm mâu thuẫn chứ không phải những khác biệt giáo lý các trường phái. Chính vì thế Lão Tử đã mở đầu Đạo Đức kinh bằng câu:” Đạo Khả đạo phi thường đạo.” Có nghĩa khi nói cái gì đó là Đạo thì sẽ không còn là Đạo nữa. Để áp dụng tư tưởng này vào dưỡng sinh, gìn giữ sức khoẻ, tăng thêm tuổi thọ, hành giả phải hiểu rõ tính chất tập luyện thường xuyên, phòng bệnh chứ không phải chờ đến khi bệnh rồi mới chữa. Đó cũng chính là nguyên tắc tu dưỡng quân bằng Tinh, Khí, Thần, dung hợp với vận chuyển vũ trụ, hài hòa với trời đất. Do đó tu tập thiền và khí công để quân bằng, phối hợp điều hòa tinh, khí, thần, thường xuyên lau chùi những lớp bụi che lấp tâm đạo, kiểm soát những cảm giác ngũ quan, biết kiềm chế những cảm xúc, tránh xa những ham muốn không cần thiết, để đạt đến trạng thái thanh tịnh cao nhất và làm sống lại tâm đạo, thần khí của tiên thiên. Người đạt đến cảnh giới này thì tâm luôn luôn “biết vui với trời, không oán trời, không chê người, không lụy vật”, hơn thế nữa “cùng cũng vui, thông cũng vui”. Bởi vì hành giả đã hòa cùng một nhịp với trời và đất. Tùng Sơn Xuân Canh Dần
  15. Một vị thiền sư phát biểu: "Khi mới tu thì tôi thấy núi không phải là núi, trăng không phải là trăng". Nhưng khi tu chứng ngộ rồi thì tôi lại thấy núi là núi, trăng là trăng". Bởi vậy, khi chưa tu thì nhận thức trực quan và đặt tên sự vật "Núi là núi, trăng là trăng". Khi mới tu thì hiểu bản chất sự vật như mình nhận thức - "Núi không phải là núi, trăng không phải là trăng" - (Giống như cô tu sĩ trong câu chuyện trên) mà chỉ là nhân duyên giả hợp. Nhưng khi giác ngộ, quán xét hết quy luật tự nhiên, hiểu bản chất của sự vận động tương tác với các nhân tố khi tan, khi tụ, thì tất yếu lại thấy "núi là núi, trăng là trăng". Khi đạt đến đây có hai khả năng xảy ra - Mà Đức Văn Thù Bồ Tát đã viết - Đại ý: "Hoặc lên Thiên đường, hay xuống Địa ngục cấp kỳ". Người đạt đạo là người không chấp vào các thứ đó. Giải thoát tức là hiểu được bản chất của Thái Cực - tính thấy - Đấy là tự do cuối cùng. Để đạt đến trạng thái tự do cuối cùng còn phải qua 1 phương pháp tu tập của Đạo Phật nữa, bởi vì mặc dù ta hiểu nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi ràng buộc xung quanh mang tính quy luật. Tu tập nhằm điều chỉnh và giảm thiểu các tương tác bất lợi và tập trung năng lực vào mục tiêu giải thoát = tự do cuối cùng. Dĩ nhiên tùy vào giai đoạn sống của mỗi người. Hoangnt hiểu như vậy. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  16. Bàn về Tâm linh và Tâm thức Nguyễn Tất Thịnh Tranh Nguyễn Đình ĐăngThông Thưa Bạn đọc, ở Mục Suy ngẫm này tôi muốn khởi đầu cho những bài viết tiếp sau về chủ đề mà bất cứ ai, tạm có thể nói về bản thân là trải nghiệm, cũng ít nhất đôi lần tự đặt câu hỏi. Thực ra, cho dù là Vô thức, ai cũng đang hành trình đến…để thấy được rằng: Có một điều gì đó cựa quậy sống động từ sâu thẳm đời sống tinh thần, một khi Ngộ được, sẽ giải tỏa được kho năng lượng vô hạn của Bản thân… Tôi xin được bắt đầu bằng đưa ra một số ‘mệnh đề’ của mình: - Nhìn suốt, dọc theo cả một chiều dài không điểm đầu và điểm cuối của trục thời gian, không có cái gì có trước, cái gì có sau. Chỉ tuyệt đối một điều là sự chuyển hóa của Năng Lượng -> Tinh thần -> Hội tụ -> Vật chất -> Sức mạnh -> Năng lượng. Ví dụ như Năng lượng Vũ trụ, nhờ Tinh Thần của Thượng Đế, được hội tụ vào một Hố Đen -> Những Mặt Trời -> Sức mạnh…-> Trong quá trình tồn tại của nó trong sự tương tác của môi trường Năng lượng…dần trở về trạng thái ban đầu là Năng lượng…lan tỏa, trả về cho Vũ trụ…Bản thân mỗi người chúng ta cũng thế thôi, từ sự chuyển hóa như thế từ Cha Mẹ…. - Nếu ví Con Người như một Hộp Kính : Vị trí không gian mà nó được đặt là Ý THỨC Những thứ được xếp trong nội tại của Hộp Kính là BẢN THỨC Thế giới bên ngoài Hộp Kính là VÔ THỨC Khả năng cảm thụ áng sáng từ bên ngoài vào Hộp Kính là TIỀM THỨC Hình ảnh thế giới bên ngoài soi vào Hộp Kính là SIÊU THỨC. Chúng ta hãy tưởng tượng, nếu mỗi người là một Hộp Kính với những kích cỡ, hình thù khác nhau, thậm chí không giống cả về sắc màu làm nên chất liệu của Kính ( và đó là điều có thực mà Thượng Đế đã tạo ra ), thì NGŨ THỨC đó phong phú, đa dạng biết bao nhiêu… - Con người với muôn vàn sự hữu hạn bị ràng buộc bởi Tri thức, không thể tự lí giải được bao nhiều điều thuộc về Thế giới, nên đưa ra những Khái niệm – Biểu tượng - TRỜI : Những quyền lực huyền bí mà Con Người không thể hiểu – PHẬT : Những đức tính tự giải thoát mà Con người bình thường không thể vươn tới – THẦN : Những năng lực siêu phàm mà Con người Bình thường không thể tưởng tượng – THÁNH : Những phẩm chất vĩ đại mà Con Người bình thường không thể có – MA : Những xấu xa kinh tởm mà Con Người bình thường vốn không có – QUỈ : Những tàn ác ghê sợ mà Con Người bình thường không thể gây ra. ) - Con người thông minh hơn muôn loài, làm được tất cả mọi thứ, nhưng tất cả đều không bằng một phần nhỏ những năng lực mà Thượng Đế đã tạo ra ban tặng mỗi loài. Bởi vậy trên thực tế, Con Người đã phá đi cái hoàn hảo để làm ra cái không hoàn hảo. Rốt cuộc sự phá hoạt mới là điều Con Người thực làm được tuyệt đỉnh. Vì thế, từ thưở sơ khai cho đến muôn năm sau, Con Người chỉ thêm chứa chất đầy nỗi niềm, tìm sự giải thoát trong Nghệ Thuật & Tôn Giáo – với nền tảng tinh thần căn bản rằng : cái gì chưa hiểu hãy suy xét bằng Đức Tin, và Đức Tin của Con người là chỗ dựa Tâm Linh cho những điều không thể giải thích…Nhờ vậy mới mong giữ lại được những Giá trị tuyệt đối trong chính đời sống của mình mà phát triển hài hòa với Thế giới - Chúng ta có Ba Con Đường ( Con đường VẬT LÝ là Đi – Con đường KHỔ NẠN là Đến – Con đường TÂM LINH là Về ). Cội nguồn, dòng chảy tinh thần của Cuộc Sống là Đức Tin. Dù bằng Con đường nào thì điều đó luôn hạt nhân có bản nhất của Hành trình trải nghiệm, thấu hiểu sự khổ ải mà cảm thông với Nhân Thế, chứ không phải bị chết mòn mỏi. Đặc biệt khi người ta đứng trước gianh giới của Sự Sống & Cái chết, thì NGŨ THỨC nói trên HỢP LÀM MỘT – NHẤT THỂ… Trong khoảnh khắc, gọi là NGỘ, để sau đó đi đến cái Chết Siêu Thoát, hay có cơ may trở lại với Sự Sống An Hòa.
  17. Vận tốc ánh sáng trong không gian của Hố đen. Hình như HoangNT đã giải phân tích bài này lâu rồi, do nhầm lẫn về mặt khái niệm không thời gian tương quan vật chất, từ đấy việc dùng các đồng hồ đo ở các vị trí trong thí nghiệm chỉ xác định sai số giữa các đồng hồ mà thôi. Kính. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  18. Thực ra, kết luận đúng như sau: Tích số Vận tốc ánh sáng trong không gian với độ co không gian trên quĩ đạo của nó là hằng số: c.γ = 300.000km/s Hệ số γ thể hiện ảnh hưởng của không thời gian tới tốc độ ánh sáng. Hình như chưa đủ. Hệ số γ còn phải được xác định từ các hệ số đặc trưng tính chất môi trường mà ánh sáng đi qua với kết quả tạo ra các "Độ co không thời gian" khác nhau. Kính. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  19. Khi không thời gian biến mất hay vật chất biến mất, và hệ quả là năng lượng cũng biến mất thì đương nhiên, Thực tại trở về Thái cực, hay nói như cách diễn đạt của anh "chính là /0/ tuyệt đối. Vậy, ngày nay, khi đã có vật chất, không thời gian thì rõ ràng cái "/0/ tuyệt đối" kia cũng không còn, hay mất đi. Đó là lý do em cho rằng khi Vũ trụ hình thành thì Thái cực (một trạng thái của Thực tại khi âm dương, hay Vật chất, chưa được sinh ra) mất đi, nhưng Bản thể của nó là Đạo (Bản thể của Thực tại) vẫn hiện diện vì Thực tại vẫn hiện diện. Hình như Thái cực là định nghĩa nhằm xác định khởi thủy của vũ trụ sau khi ta nhận biết được tính quy luật vận động của vũ trụ. Thái cực cũng bao hàm sự khởi thủy của một sự vật hiện tượng nào đấy trong vũ trụ khi đột nhiên xuất hiện. Vậy khi nói có Thái cực thì tất sẽ có thuộc tính: không thời gian và vật chất. Nếu ta định vị Thái cực ở nghĩa đen của sự bắt đầu vũ trụ ở các trạng thái "0" không thời gian, vật chất sẽ phải đi tiếp con đường giữa cái CÓ và KHÔNG. Như vật, định nghĩa Thái cực cùng các định nghĩa khác trong thuyết âm dương ngũ hành nhằm xác định sự vận động vụ trụ theo những nguyên lý cụ thể hay vũ trụ tự thân tồn tại và vận động có quy luật. Nếu xem toàn thể vũ trụ là duy nhất và chỉ gồm 2 khối khí âm dương vận động và xét vĩ mô của tất cả sự vật hiện trong khối khí này thì rõ ràng: Thái cực là "Cái gì đấy" đang điều khiển toàn bộ vũ trụ này vận động theo quy luật tức nó có có khả năng tự điều chỉnh chính nó và tương tác với sự thay đổi của sự vật hiện tượng để vẫn duy trì sự vận động theo quy luật. Đưa về định nghĩa Thái cực = Đạo (Bản Thể): hệ quả Đạo tồn tại trong tất cả sự vật hiện tượng và tự giả thuyết trên thì Đạo chỉ bao gồm 1 dạng khí âm dương chung nhất. Tuy nhiên như lý luận trong mục Tâm vũ trụ thì dự kiến là một khối có tỷ trọng vô cùng, vậy phải chăng khí âm dương được phóng phát và thu tàng từ tâm vũ trụ tới mọi sự vật hiện tượng. Vậy thì Thái cực: - bao hàm sự bắt đầu của vũ trụ và sự vật hiện tượng. - là cái có trong mọi sự vật hiện tượng. - là cái tự thân nó điều chỉnh để nhằm điều khiển vũ trụ và sự vật hiện tượng vận động theo quy luật (có thể xem là tuyệt đối). - Nếu ta đưa về thuyết âm dương ngũ hành, có thể thấy Thái cực là âm dương Thổ vũ trụ. - Vậy, con người có Thái cực thì đặc trưng của nó là gì??? để điều khiển con người. Kính. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  20. Kính nhờ Bác Lãn Miên dịch giùm đôi câu đối: Ở Tây Hồ - Hàng Châu - Trung Hoa, có am Bạch Vân, trong có miếu thờ Nguyệt Lão. Nơi đây có đôi câu liễn đối: Nguyện thiên hạ hữu tình nhân, đô thành liễu quyến thuộc, Thị tiền sanh chú định sự, mạc thác quá nhân duyên. Trân trọng cảm ơn.
  21. Chúng ta cũng ghi nhận thêm một số vấn đề sau nhằm nhận định tính thực tế: - Đĩa CD/ CD-ROM/ Hộp đen... ghi nhận lại hình ảnh, âm thanh của sự vật hiện tượng và được đọc lại bằng các thiết bị tương ứng. Rõ ràng chúng không thể nói lên diễn tiến sự việc trước và sau của các sự vật hiện tượng đang xảy ra trên. - Ngoài hiện tượng ngoại cảm, bằng suy nghĩ một số nhân vật đặc biệt có thể làm thay đổi vật chất như di chuyển đồ đạc, làm hoa nở ngay lập tức, dừng đồng hồ BigBang... - Linh hồn khi giao tiếp vẫn có cảm xúc với đối tượng ngay lúc xảy ra; nhớ được quá khứ và địa điểm trước đấy..., có thể nhận biết tương lai và góp ý hiệu chỉnh trạng thái cho đối tượng. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  22. Đặc biệt thông tin về Lăng vua Hùng thứ 6 tại Đền Thượng, không rõ đời thứ mấy trong Chi này cũng là một cơ sở dữ liệu quan trọng. Kính. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  23. - Kinh Thư (Kinh lễ...): sử Trung Hoa phải tương ứng với nhận định về ranh nước Việt cổ. Tuy nhiên trong sách có câu Việt nhược kê cổ tức người Việt viết lại tích xưa?: có bị sửa đổi hay không trong mối tương quan ---> phải được xem xét đầu tiên. Bổ sung thêm một số sách sử trung Hoa như Hoài Nam Tử, Lã Bất Vi, Phong Thần diễn nghĩa và các sách, tài liệu khác như các tác giả đã phân tích. Kính. * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  24. Người ta nói không gian cong là bởi vì khi biểu diễn, mô tả nó bằng toán học thấy giống như những đối tượng cong vốn là những khái niệm đã có từ trước trong toán học. Chứ không nên hiểu không gian như cành cây bị cong. Về mặt bản chất, chỉ là không thời gian có độ co dãn khác nhau ở những vị trí khác nhau do có sự hiện diện của khối lượng mà thôi. Những khái niệm như " mang tính vật chất", " thuộc tính vật chất" phải làm rõ thì mới bàn được. Chưa chắc mọi người có cách hiểu giống nhau về những khái niệm đó. Thực ra mọi định nghĩa hoàn toàn rõ ràng ngoại trừ các vấn đề khoa học chưa khám phá ra. Nhận định của tác giả Thiên Sứ về không thời gian, theo HoangNT là hoàn toàn chính xác. Tuy nhiên tại sao có sự nhầm lẫn trên là vì chúng ta đã dùng không thời gian đặc trưng cho sự vận động của vật chất có QUY LUẬT nên khi xem xét chúng, ta có thể suy ra "tiên tri về sự vận động và tương tác của vật chất" từ không thời gian đã xác định. Do vậy, không thời gian co giãn hàm ý có sự SO SÁNH sự vận động vật chất có thay đổi theo KHÔNG THỜI GIAN. Vì vậy, dễ dàng chỉ ra sự mâu thuẫn trong bài toán khoa học trên. Ví dụ: ta không thể "mãi mãi tuổi 20" ngoại trừ "Bản thể". Kính * Phúc Lộc Thọ mãn đường *
  25. Thêm một ví dụ khác: Trong nghiên cứu "Cơ sở học thuyết ADNH" của mình, em suy ra được ngay chính bảng Lục Thập Hoa giáp như Lạc Thư Hoa Giáp mà anh đã chứng minh. Hơn nữa, em còn thấy ý nghĩa của nó không đơn thuần là ứng dụng cho thời gian quay của Trái đất quanh mặt trời mà có ý nghĩa tổng quát hơn nhiều. Có như thế, học thuyết ADNH mới xứng đáng là học thuyết thống nhất. Cùng thống nhất với Bác Vô Trước. Linh hồn là Bản thể hay là thuộc tính của Bản thể hay là?. Bản thể tồn tại cùng với Vật chất (bao hàm ở mọi trạng thái) hay chuyển đổi ngay khi Vật chất biến đổi. Hiện tượng trục hồn sau khi người được trục hồn chấp thuận? và trạng thái linh hồn nói chuyện qua trung gian là nhà ngoại cảm nói lên điều gì?. Đây là những câu hỏi cũng cần nên thảo luận dựa trên nền tảng thuyết âm dương ngũ hành và tri thức khoa học hiện nay. Kính. * Phúc Lôc Thọ mãn đường *