hoangnt

Hội viên
  • Số nội dung

    1.909
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    6

Everything posted by hoangnt

  1. Trích Pháp Luân Công: Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới “Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới” là gì? Vấn đề này nói ra rất hóc búa. Trước đây khi nói đến vấn đề này, có nhiều khí công sư đã bị làm cho nghẹn [không biết ăn nói ra sao] bởi những người không tin khí công. “Trong các vị luyện công đây hỏi ai đã ra ngoài ngũ hành, trong các vị có ai không còn trong tam giới?” Có một số không phải là khí công sư; ‘khí công sư’ của họ là tự phong. Đã nói không rõ thì đừng nói, họ lại dám nói, rồi bị người ta làm cứng họng. Gây tổn thất lớn cho giới tu luyện, tạo nên hỗn loạn lớn; có người mượn cớ này để công kích khí công. ‘Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới’, là một câu của giới tu luyện, nguyên từ trong tôn giáo, là [câu nói] sinh ra trong tôn giáo. Do đó chúng ta không thể tách khỏi bối cảnh lịch sử ấy, không thể tách khỏi hoàn cảnh đương thời [lúc bấy giờ] mà giảng vấn đề này. ‘Không trong ngũ hành’ là gì? Vật lý học cổ đại của Trung Quốc chúng ta, [và] vật lý học hiện đại đều nhìn nhận rằng học thuyết ngũ hành của Trung Quốc là đúng. Kim mộc thuỷ hoả thổ, ngũ hành ấy cấu thành nên mọi sự vật trong vũ trụ; điều ấy là đúng, do vậy chúng ta [mới] giảng về ngũ hành. Nói rằng một người ra ngoài ngũ hành, [nếu] dùng cách nói hiện đại mà giảng, chính là đã ra ngoài thế giới vật chất này của chúng ta; nghe mà thấy thật huyền [hoặc]. Mọi người hãy nghĩ về vấn đề này, các khí công sư có tồn tại công. Tôi đã [làm] qua thí nghiệm, rất nhiều khí công sư cũng đều đã [làm] qua trắc nghiệm như thế, [để] kiểm định năng lượng của họ. Bởi vì các thành phần vật chất trong công này [thì] rất nhiều các thiết bị mà chúng ta đang có hiện nay đều có thể kiểm định ra được, cũng [có nghĩa] là [với] thành phần mà khí công sư phát ra chỉ cần có một loại thiết bị [đó] tồn tại thì có thể kiểm định được sự tồn tại của công. Hiện nay các thiết bị có thể đo thấy hồng ngoại, tử ngoại, siêu âm, hạ âm, điện, từ, tia phóng xạ gamma, nguyên tử, neutron. Các khí công sư đều có những vật chất ấy; còn có những vật chất mà khí công sư phát ra vẫn chưa đo thấy được, [vì] chưa có thiết bị. Miễn là có thiết bị [thì] tất cả chúng đều có thể được đo thấy; [người ta] phát hiện rằng vật chất các khí công sư phát ra cực kỳ phong phú. Dưới tác dụng của một trường điện từ nhất định, khí công sư có thể phát ánh quang huy rất mạnh mẽ, đẹp vô cùng. Công lực càng cao thì trường năng lượng phát ra càng lớn. Còn người thường cũng có, nhưng rất nhỏ; một loại ánh quang huy rất nhỏ. Trong nghiên cứu của môn vật lý cao năng lượng, người ta nhìn nhận rằng năng lượng chính là những thứ như neutron, nguyên tử. Nhiều khí công sư đã [làm] qua trắc [nghiệm], những khí công sư nổi tiếng cũng đều tham gia. Tôi cũng được đo, đo thấy tia phóng xạ gamma và neutron nhiệt phát ra nhiều hơn vật chất thông thường [phát ra] từ 80 đến 170 lần. Lúc ấy kim của thiết bị thí nghiệm trỏ đến hết mức rồi; vì kim đã trỏ đến tận cùng, [nên] rốt cuộc cũng không biết được [nó] lớn ngần nào. Neutron mạnh mẽ đến nhường ấy, thật quả là khó mà tin nổi! Người ta sao lại phát ra được neutron mạnh mẽ đến thế? Điều đó chứng minh rằng những khí công sư chúng tôi có tồn tại công, có tồn tại năng lượng; điểm này trong giới khoa học kỹ thuật đã chứng thực được. Ra ngoài ngũ hành, còn phải là công pháp tính mệnh song tu; công pháp không phải là tính mệnh song tu thì chỉ tăng [cái] công [xác định] tầng cao thấp. [Với] công pháp không tu mệnh, thì không hề có vấn đề này, nó không giảng [vấn đề] ra khỏi ngũ hành. [Còn với] công pháp tính mệnh song tu, thì năng lượng của nó được tồn trữ trong tất cả các tế bào của thân thể. Người luyện công thông thường của chúng ta, người mới tăng công, [thì] viên lạp [hạt] năng lượng phát ra rất thô, có khoảng cách, mật độ không cao, do đó uy lực rất thấp. Khi lên đến tầng rất cao, mật độ năng lượng ấy so với phân tử nước thông thường có thể gấp 100, 1000, [hoặc] 100 triệu lần; tất cả đều có thể. Vì tầng càng cao, mật độ của nó càng lớn và càng tinh tế, uy lực càng lớn. Trong tình huống ấy, ở trong mỗi một tế bào của thân thể đã được tồn trữ năng lượng ấy—không chỉ trong từng tế bào của thân thể trong không gian vật chất này của chúng ta, mà trong tất cả thân thể tại các không gian khác, phân tử, nguyên tử, proton, điện tử, cho đến các tế bào ở mức hết sức vi quan—tất cả đều được chủng năng lượng ấy lấp đầy. Dần dần qua thời gian rất lâu, thân thể người đã hoàn toàn sung mãn bằng chủng vật chất cao năng lượng ấy. Vật chất cao năng lượng này có linh tính, nó [rất] có bản sự. Một khi nó nhiều lên, mật độ lớn lên, sau khi sung mãn tất cả các tế bào của thân thể người, [thì] nó có thể ức chế các tế bào của xác thịt con người, [vốn là] các tế bào vô dụng nhất. Khi ức chế vững chắc rồi, thì sẽ không xuất hiện sự tân trần đại tạ; rốt cuộc [nó] hoàn toàn thay thế các tế bào xác thịt của người. Tất nhiên, tôi giảng ra thì dễ, [nhưng] tu đến mức ấy là một quá trình rất chậm. Khi chư vị tu đến mức này, tất cả tế bào của thân thể chư vị đều được vật chất cao năng lượng này thay thế; chư vị thử nghĩ xem, thân thể chư vị có còn cấu thành từ ngũ hành không? Có còn là vật chất của không gian này của chúng ta không? Nó đã cấu thành từ vật chất cao năng lượng gom chọn từ các không gian khác. Thành phần của [chất] đức kia cũng là vật chất tồn tại trong không gian khác; nó cũng không chịu sự ước chế của trường thời gian của không gian này của chúng ta. Khoa học hiện đại nhìn nhận rằng thời gian là có tồn tại trường; không nằm trong phạm vi của trường thời gian thì không chịu ước chế của thời gian. Khái niệm thời-không của không gian khác là khác hẳn so với bên này chúng ta; nó làm sao có thể ước chế vật chất của không gian khác được? Hoàn toàn không có tác dụng. Mọi người thử nghĩ xem, đến lúc ấy chư vị chẳng phải đã không trong ngũ hành là gì? Chư vị có còn cái thân thể người thường không? Hoàn toàn không. Nhưng có một điểm: người thường nhìn không ra2. Tuy rằng thân thể của họ đã cải biến đến trình độ ấy, nhưng sự tu luyện chưa kết thúc, [nên] họ cần tiếp tục đột phá tầng tu lên cao; do đó họ còn cần phải tu luyện nơi người thường; người thường mà nhìn không thấy họ3 thì không được. Vậy sau đó thì sao? Họ ở trong quá trình tu luyện, tất cả các tế bào [làm bằng] phân tử của họ tuy rằng được vật chất cao năng lượng thay thế, nhưng nguyên tử có trình tự sắp xếp của nó, trình tự sắp xếp của các phân tử, hạt nhân nguyên tử không hề thay đổi. Trình tự sắp xếp các phân tử của tế bào [vẫn] là trạng thái như thế, [mà] sờ vào thì thấy mềm; mật độ trình tự sắp xếp các phân tử của xương cần lớn, sờ vào thì thấy cứng; mật độ các phân tử máu thì rất là nhỏ, nó là thể lỏng. Người thường từ bề mặt mà nhìn thì không thể thấy được sự biến đổi của chư vị; tế bào [làm bằng] phân tử của nó vẫn duy trì kết cấu và trình tự bài trí như dạng ban đầu; kết cấu của nó vẫn không phát sinh biến đổi; nhưng năng lượng bên trong nó đã thay đổi rồi; do đó cá nhân này từ nay trở đi không già cỗi đi một cách tự nhiên, những tế bào của người ấy [cũng] không tiêu vong; vậy người này trẻ trung thanh xuân mãi. Trong quá trình tu luyện, người ta sẽ trông ít tuổi; cuối cùng [bề ngoài của người ấy] định lại ở nơi ấy. Tất nhiên, cái thân thể ấy mà đụng phải xe hơi thì có lẽ xương cũng gãy, một khi bị dao cắt thì vẫn chảy máu thôi. Bởi vì trình tự sắp xếp phân tử của nó không đổi, chỉ là nó sẽ không tự nhiên tiêu vong, sẽ không tự nhiên lão hoá; không có việc tân trần đại tạ; đó chính là điều chúng tôi gọi là ‘ra ngoài ngũ hành’. Chỗ này có gì là mê tín? Dùng lý luận khoa học hoàn toàn có thể giải thích được rõ. Có một số người [giải] nói không được rõ lại cứ tuỳ tiện nói; người ta bèn bảo rằng ‘ông làm mê tín’. Bởi vì câu này nguyên từ tôn giáo, không phải là danh từ xuất hiện từ khí công hiện đại của chúng ta. ‘Ra khỏi tam giới’ là gì? Hôm rồi tôi đã giảng rằng, điểm chốt của tăng công là việc chúng ta tu luyện tâm tính, đồng hoá với đặc tính của vũ trụ; [khi] đặc tính vũ trụ đối với chư vị không còn ước chế nữa, tâm tính chư vị đã thăng hoa lên trên, [thì] thành phần đức kia sẽ diễn hoá trở thành công. Không ngừng tăng lên trên, thăng lên trên; sau khi thăng hoa lên cao tầng, thì hình thành một cột công trụ. Công trụ này cao bao nhiêu, thì công của chư vị cao bấy nhiêu. Có một câu thế này: ‘Đại Pháp vô biên’; tất cả là tuỳ vào cái tâm của chư vị mà tu; xét chư vị tu cao được đến đâu, tất cả là dựa theo lực nhẫn nại và năng lực chịu khổ của chư vị. [Nếu] vật chất màu trắng của bản thân chư vị dùng hết, [thì] vật chất màu đen của bản thân chư vị có thể qua chịu khổ mà chuyển hoá thành vật chất màu trắng. [Nếu] vẫn chưa đủ, [thì chất đen] của những người thân và bè bạn, họ không tu luyện, chư vị thay họ mà gánh chịu tội [nghiệp], và chư vị cũng có thể tăng công; đây là nói về người đã tu luyện đến tầng cực cao. [Là] một người thường tu luyện chư vị chớ mong tưởng gánh chịu tội [nghiệp] cho thân nhân; một người bình thường có nghiệp lực to lớn nhường ấy thì tu không thành. Điều tôi giảng ở đây là [Pháp] lý tại các tầng khác nhau. ‘Tam giới’ mà tôn giáo nói, là nói đến 9 tầng trời hoặc là 33 tầng trời; cũng lại nói trên trời, trên đất, và dưới đất, [chúng] cấu thành các chúng sinh trong tam giới. Họ giảng rằng hết thảy sinh vật trong 33 tầng trời đều phải qua lục đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi có nghĩa là đời này là người, đời sau có thể là động vật. Trong Phật giáo giảng: ‘Phải tận dụng những năm [tháng] có ở đời này, bây giờ chẳng tu thì đến khi nào mới tu?’ Bởi vì động vật không được phép tu luyện, không được phép nghe Pháp, có tu cũng không đắc chính quả, công mà [tăng lên] cao thì phải bị trời diệt. Chư vị hàng trăm năm mà chẳng được thân người; [có khi] hơn nghìn năm mới được thân người; được thân người rồi cũng chẳng biết quý tiếc. Nếu chư vị thác sinh thành một tảng đá thì vạn năm không ra được; tảng đá ấy nếu chẳng tan nát, chẳng phong hoá, thì chư vị vĩnh viễn chẳng ra được; được thân người nào có dễ chi! Nếu mà thật sự được Đại Pháp, cá nhân ấy quả là quá may mắn. ‘Nhân thân nan đắc’; đó chính là đạo lý. Chúng ta luyện công giảng về vấn đề tầng; tầng ấy hoàn toàn dựa vào tự thân tu luyện; nếu như chư vị muốn nhảy ra khỏi tam giới, công trụ của chư vị tu được rất cao rất cao rồi, thì chẳng phải chư vị đã đột phá khỏi tam giới là gì? Có người đả toạ một khi nguyên thần ly thể liền lên rất cao. Có học viên viết trong bài trao đổi tâm đắc thể hội: ‘Thưa Sư phụ, con lên đến bao nhiêu bao nhiêu tầng trời rồi, con nhìn thấy những cảnh tượng như thế như thế.’ Tôi nói: ‘Con lại lên cao hơn một chút nào’. Người ấy nói: ‘Con không lên [nổi] được nữa, không dám lên nữa, lên cao nữa không được’. Tại sao? Bởi vì công trụ người ấy cao được ngần ấy, người ấy [đã] ngồi trên công trụ của mình mà lên. Đó chính là ‘quả vị’ giảng trong Phật giáo; [người ấy] đã tu lên đến quả vị như thế. Nhưng đối với người [đang] tu luyện mà nói, vẫn chưa đến đỉnh điểm của quả vị. Người ấy còn không ngừng thăng lên trên, không ngừng thăng hoa, không ngừng đề cao. Nếu công trụ của chư vị đã đột phá qua giới hạn của tam giới, thì chẳng phải chư vị đã ra khỏi tam giới là gì? Chúng tôi đã từng trắc định, phát hiện rằng tam giới mà tôn giáo nói đến, chỉ bất quá là trong phạm vi chín đại hành tinh của chúng ta. Có người giảng mười đại hành tinh, tôi nói hoàn toàn không có điều ấy. [Trong] những khí công sư trong quá khứ, tôi thấy có người có công trụ vọt tận ngoài hệ Ngân Hà; cao nhường ấy, họ từ lâu đã qua khỏi tam giới. Tôi vừa giảng về ‘ra ngoài tam giới’; thật ra [nó] chính là vấn đề về tầng.
  2. Chúng ta hãy xem lại một số sự kiện trong việc đối chiếu lẫn nhau: - Phật A Di Đà (thần Shiva trong đạo Hindu) có 2 người vợ và 6 người con, ngài cũng là một vị vua của một quốc gia lớn hơn cả Ấn Độ và đắc đạo trong cuộc sống bình thường như bao người khác. Phật Thích Ca là hoàng tử sẽ nối ngôi, có lòng từ bi rộng lớn và nhận thức các nguyên nhân khổ và tu tập đắc đạo, ngài có một người con trai tên là Rahula rồi sau cũng theo ngài tu tập, không có gia đình vợ con. Trong một cuộc triển lãm xá lị Phật trong những năm qua, có xá lị của Đại Đức Rahula. Như vậy, với hình ảnh Phật Thích Ca thì sự phất triển nhân loại có vẻ "giảm đi", trong khi đó chúng ta cần cả hai tức vẫn sống cuộc sống bình thường với các ham muốn và đắc giải thoát. Đạo Hindu cũng đã hướng dẫn việc này, bạn vẫn sống cuộc sống như nó vốn là, nhưng đến khi tuổi cao cần triệt thoái để toàn tâm tu luyện, bởi vì tới lúc đó còn ham muốn thì sẽ rất khó đạt "cấp tu chứng" do thuộc tính chấp "nhị nguyên", và tương tác "vô hình" từ vũ trụ tới. Vậy còn có những vấn đề đặc biệt nào không? Chúng ta từng bước tháo gỡ. - Quán xét một đời người: Từ nhỏ cho đến khi hết học và đi làm trong khi tuổi độ 30, hầu hết mọi người cảm thấy tốt đẹp, hạnh phúc mặc dù cũng có những xáo trộn, khổ đau nhưng qua nhanh. Điều này phải chăng do vô tư, nhiều lúc "bỏ qua" những giá trị vật chất. Cho đến khi có gia đình, lo toan, từ đó vô số nỗi sợ xuất hiện, rồi tiếp tục già cả, mệt mỏi... cuối cùng nỗi sợ khủng khiếp nhất đó là Thần Chết đến gõ cửa. Tiến trình này, ai cũng sẽ phải đối diện, và chắc chắn ai cũng đã nghĩ tới khi qua "tuổi hạnh phúc" như trên. Đặc biệt, trước khi Thần Chết gõ cửa thì bất kỳ ai cũng sẽ phải chứng kiến ông ấy tới một vài nơi mà có liên quan đến chúng ta, lúc này nỗi sợ khủng khiếp đã làm giảm đi mức độ "hạnh phúc" dù cho dù là bạn đã và đang tới những giá trị mong ước gì đi nữa. Do vậy, con người muốn đi tìm sự trường sinh bất tử nhưng luôn an lạc, hạnh phúc. - Quá trình từ nhỏ... già, những nhu cầu kiết tập lên mỗi cá nhân rất lớn - tạo nên "cái Tôi" (Ngã), "của Tôi" lớn, và rõ ràng những nhu cầu không giảm đi do bội số của sự kiện, chẳng hạn bạn lo cho gia đình, con cái, cha mẹ, chức danh, sức khỏe, sở thích... số lượng người liên quan gia tăng, cho nên tu tập không phải dễ dàng. Nhưng chung quy, cái muốn của chúng ta dù ít hay nhiều cũng phải đối mặt với cái mất, cái hủy diệt cho nên "cái khổ" là tất yếu. Chưa kể, chiến tranh, dịch bệnh, hiểm họa luôn rình mò... - Cũng từ nhận thức ấy, cuộc đời ngắn ngủi, "chết là hết" dẫn đến nhu cầu kiếm nhanh, nhiều, bằng mọi giá, an toàn trên hết... càng như dầu đổ vào lửa, khiến nhân loại càng thêm rối loạn bởi những thế lực nắm quyền chi phối, đây là bệnh dịch kinh khủng nhất. - Căn cứ vào học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, chúng ta còn nhận thấy rằng các thuộc tính của cá nhân là những tổ hợp vật chất được quy ước thành khái niệm biểu kiến Âm Dương Ngũ hành nên nó phải chịu tương tác từ vũ trụ. Điều này dẫn đến, tương tác xấu sẽ đưa nhân loại và cá nhân càng khổ tợn và ngược lại, sẽ xuất hiện những con người đi tìm chân lý diệt khổ. Do tính thống nhất của học thuyết tức vũ trụ thống nhất, khả năng tiên tri mới đúng được, do vậy sự kiện nảy sinh đối với một cá nhân hay nhân loại đều có nguyên nhân tức thường được gọi là "định mệnh" - khả năng chỉ ra rằng, không có lối thoát? Đạo Phật không cho điều này là đúng. - Đạo Phật đã tìm ra được học thuyết trên, đồng thời khám phá ra cái "Tâm" của mỗi người, nơi tích lũy nhân quả của nguyên nhân từ vô thủy, và gần nhất là từ ông bà, cha mẹ. Tâm như một cái máy thu phát quy luật "tâm sinh lý" qua 6 giác quan. Từ đó, Phật giáo xây dựng nên phương pháp "Điều chỉnh Tâm" qua thiền định và hành động - mong cầu trong cuộc sống. - Cái Tâm (hay Tôi) này không bao giờ bị hủy diệt, khi đang sống nó gắn với thân xác vật lý và mọi nhu cầu vật lý, khi chết nó tách rời thể xác chỉ còn tư tưởng và một thân xác "vô hình" mới, vật chất trong suốt. Bởi vì Tâm vẫn là Tôi cho nên, quá khứ là dữ liệu chính, là một mớ hỗn độn của khổ đau và hạnh phúc, mà chúng ta đã biết, chung quy là khổ đau nên, đây là một một sự khiếp đảm vô bờ bến trong một môi trường sống mới. - Thiền được xây dựng từ thuyết Âm Dương Ngũ Hành và một số khái niệm của Phật giáo, quan trọng nhất là từng bước "dừng" tư tưởng nhưng vẫn quan sát được nó khi vọng lên, hàm ý cân bằng Âm Dương. Thiền và khí công đạo Tiên hay yoga Hindu là khám phá siêu đẳng của văn minh Việt. Thân vật lý của chúng ta bị "khóa" do quy luật của vũ trụ, cho nên không cân bằng Âm Dương, Âm Động hay từ sinh tới tử là bắt buộc, và chính điểm "khóa" này làm cho chúng cực kỳ khó khăn "dừng" tư tường, cho nên mới nói đây là một khám phá diệu kỳ nhất của nhân loại về mặt sinh lý học. Người tu luyện phải theo quy trình Thiền để phá "khóa" nhằm cân bằng Âm Dương trong cơ thể từng bước, tức từng tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành. Khi cả cơ thể hòa hợp, "Tâm" và thân thể thông suốt, tự nhiên "nhận thức mới" xuất hiện, rõ ràng hơn đối với bất kỳ một sự vật, hiện tượng cũ nào trước đó. Lúc này, con mắt thứ 3 sẽ mở ra, tới đây cá nhân nhận thức rõ về quá trình khổ và thoát khổ của mình. Những sự kiện xuất hiện trong quá trình Thiền được các bậc giác ngộ chỉ giải để tránh những hiện tượng "giả". Cho nên, nhận thức là một chuyện nhưng để giải thoát thì cần phả tu luyện "đi thiền, ngồi thiền, nhậu thiền...". Bởi tại sao, vì cấu trúc Tâm là cấu trúc vật chất, những cái muốn của chúng ta thuộc tính "thô nhất" cho nên cần những vật chất tinh nhẹ trung hòa và tẩy trừ, cảm xúc an lạc là do những vật chất này (khi nhẹ, khí thô). (sẽ tiếp tục)
  3. Chính Pháp, Mạt Pháp là gì? Cập nhật lúc 09:38 13/01/2014 (GMT+7) Có giáo pháp, có sự hành trì, và có người chứng đắc quả vị - đó gọi là thời kỳ Chánh Pháp, và còn được mệnh danh là thời kỳ "Thiền Định kiến cố". Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp. Các thời kỳ Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ghi chép trong các kinh điển thì không đồng nhất, nhưng hầu hết các bậc cổ đức đều theo thuyết định thời kỳ Chánh Pháp là 500 năm, thời kỳ Tượng Pháp là 1.000 năm, và thời kỳ Mat Pháp là 10.000 năm. Trong thời Chánh Pháp (chánh có nghĩa là chứng), mặc dầu Đức Phật đã diệt độ, nhưng Pháp nghi vẫn không thay đổi. Có giáo pháp, có sự hành trì, và có người chứng đắc quả vị--đó gọi là thời kỳ Chánh Pháp, và còn được mệnh danh là thời kỳ "Thiền Định kiến cố". Trong thời Tượng Pháp (tượng có nghĩa là biểu tượng), tuy vẫn có giáo pháp, có sự hành trì, nhưng số người chứng đắc quả vị thì rất ít; thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ "tự miếu kiên cố". Trong thời Mạt Pháp (mạt có nghĩa là suy vi, yếu kém), Phật Pháp trở nên suy tàn, chỉ có giáo pháp chứ không có sự hành trì, và càng không có người chứng đắc quả vị. Thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ "đấu tranh kiên cố". Đây là lời giải thích thông thường về ba thời kỳ "Chánh, Tượng và Mạt" của Phật Pháp. Thế nhưng, Hòa Thượng định nghĩa về Chánh Pháp như sau:"Quý vị thành thật tu hành, không ham hư danh giả lợi, không tham của cúng dường — đó chính là Chánh Pháp trụ thế. Nếu mọi người xuất gia đều có thể giữ giới không đụng đến tiền bạc, đều có thể ngồi Thiền, có thể ngày ăn một bữa lúc giữa trưa, có thể luôn luôn mặc giới y và nghiêm trì giới luật, thì đó là Chánh Pháp đang trụ thế vậy!" Thậm chí Hòa Thượng còn giảng nghĩa một cách đơn giản hơn nữa:"Nếu quý vị có thể không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không nói dối, thì đó chính là Chánh Pháp đang trụ thế vậy!". Như vậy, thế nào là thời kỳ Mạt Pháp? Trong quyển 5 của Pháp Hoa Nghĩa Sớ có chép: "Khi [Pháp] trở thành suy vi, đó gọi là thời Mạt Pháp." Trong quyển 6, chương Nghĩa Lâm của Đại Thừa Pháp Uyển có nói: "Chỉ có giáo pháp mà không có gì khác thì gọi là Mạt Pháp." Tuy nhiên, sự mô tả chân chánh tường tận về thuyết Mạt Pháp được xuất hiện trong Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, phần Nguyệt Tạng, và trong Kinh Pháp Diệt Tận. Về sau, thuyết Mạt Pháp xuất hiện dưới triều đại Bắc Tề (550-377 SCN), trong bài văn phát nguyện của Thiền Sư Huệ Tư ở Nam Nhạc (Nam Nhạc Tư Thiền Sư Lập Thệ Nguyện Văn). Thiền Sư Huệ Tư đã tự ghi lại là ngài sanh vào năm thứ 82 của thời Mạt Pháp và đã chép lại toàn bộ Kinh Bát Nhã cùng nhiều bản văn khác. Ngài đã nguyện sẽ truyền Pháp cho đến khi BồTát Di Lặc đến thế gian này. Đời nhà Tùy (589-618 SCN), Thiền Sư Tín Hành đề xướng "giáo pháp ba giai đoạn" (tam giai giáo) với Nhất Thừa là giai đoạn đầu tiên, Tam Thừa là giai đoạn thứ nhì, và Phổ Pháp (toàn bộ lời dạy của Đức Phật) là giai đoạn thứ ba.nguoiphattu.com Trong đời nhà Đường (618-905 SCN), Đại Sư Đạo Trác và Đại Sư Thiện Đạo có nói rằng đương thời là đã vào thời Mạt Pháp, và chủ trương "thời giáo tương ưng" (khế hợp giáo pháp với thời đại), khuyến khích người đời tu pháp môn Niệm Phật. Nói chung, cho dù thời kỳ Mạt Pháp nhất định có xảy đến chăng nữa, thì trong quyển 49 của Thập Tụng Luật, Đức Phật cũng đã nêu ra năm điều có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. Năm điều này là: 1. Tôn Trọng Chánh Giáo. Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo chỉ dựa vào giáo pháp chân chánh mà tiến tu, xa lánh cái nhìn lệch lạc (thiên kiến) của Tiểu Thừa cùng các tà thuyết của ngoại đạo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. 2. Chỉ Tức Sân Ác (đình chỉ nóng giận và ác độc). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo luôn luôn thực hành hạnh nhẫn nhục, không nóng giận, danh tiếng về đức độ lan xa làm cho mọi người đều quay về và dốc lòng kính ngưỡng; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. 3. Kính Sự Thượng Tòa (tôn kính phụng sự các bậc trưởng thượng). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo tôn kính và phục tòng các vị đại đức ở hàng thượng tọa và chuyên cần cầu học yếu nghĩa Phật Pháp từ họ; nhờ đó có thểkhiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. 4. Ái Lạc Chánh Pháp (trân quý Chánh Pháp). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo trân quý thâm sâu những điều pháp nghe được từ các bậc thượng tọa, trưởng lão kỳ cựu, và vui mừng thực hành theo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. 5. Thiện Hối Sơ Tập (giải thích kỹ càng cho kẻ sơ học). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo phương tiện diễn nói pháp Đại Thừa một cách khéo léo, làm cho những kẻ mới bắt đầu học Phật Pháp có thể dựa vào để tiến tu trên đường Đạo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. Vào thời Mạt Pháp chúng sanh không thể liên tục phân biệt đuợc chánh tà, đến nỗi nhiều người muốn vào cửa Phật nhưng đã vào lầm cửa mà tu hành. Đó là do họ thiếu "Trạch Pháp Nhãn." Mặc dầu trong thời Mạt Pháp, hiện tượng "mắt cá xen lẫn ngọc trai" [vàng thau lẫn lộn] trong cửa Phật không phải là ít, song nguyện lực của Hòa Thượng rất rõ ràng: "Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật Giáo có Chánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứnơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương. Đây là nguyện lực của tôi. Do đó, không quản khả năng giới hạn của mình, tôi đi khắp nơi tuyên thuyết Chánh Pháp và hành trì Chánh Pháp." Mặc dầu Đức Phật nhiều lần đề cập đến sự hủy diệt của Phật Pháp, tuy nhiên Đức Phật cũng có ý khắc phục sự hủy diệt của Chánh Pháp. Như trong Kinh Niết Bàn có chép: "Trong thời Mạt Pháp sẽ có mười hai vạn (120.000) vị Đại Bồ Tát trì Pháp, khiến cho bất diệt." Từ đó có thể biết được rằng nguyện lực "không cho phép có Mạt Pháp" của Hòa Thượng há chẳng phải chính là tâm đại từ đại bi của chư Như Lai hay sao? Hòa Thượng đã cảm khái rằng: Phật Pháp vị diệt, Tăng tự diệt, Đạo đức ưng tu, nhân bất tu, Lão thật chân thành chiêu vật cơ, Hư ngụy giảo hoạt thọ bao ưu. Cử thế ngũ trược thanh thậm tiễn. Chúng sanh tam túy tỉnh vô thu, Ân cần ký ngữ Tăng thanh bối, Chấn hưng Phật Pháp tại Tỳ Kheo. Tạm dịch: Phật Pháp chưa diệt, Tăng tự diệt, Đạo đức cần tu, chẳng ai tu, Thành thật chân chánh, bị chế diễu, Gian ngoa xảo trá, được tán dương. Muốn đời Ngũ Trựơc nên tươi sáng, Chúng sanh tỉnh hẳn ba lần mê, Ân cần nhắn nhủ Tăng Ni trẻ: Chấn hưng Phật Giáo cậy Tỳ Kheo! Trong Phật Giáo không thể có 99%--nếu chỉ một phần nhỏ trong Phật Giáo là giả dối, thì đó không còn là "Chánh Pháp" nữa! Do đó chúng ta phải phân biệt thật rõ ràng, bởi vì trong các chùa chiền đều có cả "tà pháp và ngoại đạo". Phật Giáo có câu: "Thà cả ngàn năm chẳng vãng sanh, còn hơn một ngày trong ma đạo". Nếu chúng ta thiếu Trạch Pháp Nhãn của "Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối" (trong Kinh Lăng Nghiêm) e rằng chúng ta có thể trở thành quyến thuộc của loài ma mà chính mình lại không hay không biết! Nhân đây, người viết xin giới thiệu bảy điểm rất quan trọng trong việc phân biệt chánh tà: 1. Vị Thầy lấy việc trao đổi chồng vợ, nam nữ hoang dâm, buông thả vô độ, làm mồi nhử để thu hút đồ chúng, và xem như là phương tiện để cứu thế gian; đó là tà. 2. Vị Thầy khơi dậy lòng tham của đồ chúng bằng cách nói rằng mình có thể dùng bùa, chú, và thần tài để giúp họtrở nên giàu có; đó là tà.nguoiphattu.com 3. Vị Thầy khuyến khích trực tiếp hay gián tiếp việc giết hai chúng sanh và ăn thịt chúng sanh, còn nói rằng mình có thể dùng bùa chú để cứu độ vong linh của những chúng sanh bị ăn thịt; đó là tà. 4. Vị Thầy thực hành các loại khổ hạnh kỳ dị, tự làm thương tổn để tác động chúng sanh, và gọi đó là chịu khổ thay cho chúng sanh; đó là tà. 5. Vị Thầy dùng thần thông và các điều kỳ dị làm "công cụ" để thu hút những chúng sanh có lòng hiếu kỳ; đó là tà. 6. Vị Thầy tự ý thêm bớt, sửa đổi các quả vị tu hành trong Phật Giáo và giải thích lệch lạc ý nghĩa của "tín, giải, tu, chứng," còn tự cho mình là giáo chủ; đó là tà. 7. Vị Thầy tự lập ra tông phái rồi tự xưng là giáo chủ mà chính mình lại không có căn bản chân thật về đạo lý Phật Giáo; đó là tà. Ph ầ n 1: Chánh Pháp và M ạ t Pháp Một lần nọ, có một Phật tử hỏi: "Hòa Thượng thường nói rằng: Chân thật nhận lỗi mình, Không bàn lỗi người khác, Lỗi người tức lỗi mình, Đồng thể tức Đại Bi. Thế nhưng tại sao Hòa Thượng lại thường công khai phê bình, bàn luận thị phi về người khác và đăng trong Kim Cang Bồ Đề Hải (Vajra Bodhi Sea - nguyệt san của Vạn Phật Thánh Thành)? Như vậy phải chăng là nói một đường, làm một nẻo?" Hòa Thượng trả lời:"Người sẽ bị đọa địa ngục là tôi chứ không phải ông. Nếu những gì tôi nói là đúng sự thật, thì đó không phải là thị phi; nếu không đúng sự thật, thì tôi chắc chắn sẽ bị đọa địa ngục. Nếu có kẻ nói rằng bậc đại tu hành không bị nhân quả, thì quả báo là 500 đời làm thân chồn (hồ ly). Nếu tôi chối bỏ nhân quả--gọi đen là trắng, gọi trắng là đen, nói đúng thành sai, nói sai thành đúng - nói những điều không đúng thật, thì tôi sẽ bị đọa địa ngục Bạt Thiệt (rút lưỡi). Nếu tôi không nói sai, thì tôi không có tội. Mạnh Tử có nói: ‘Ta há phải thích biện luận đâu! Ta cũng bất đắc dĩ đó thôi! Nếu cái đạo của Dương Tử và Mặc Tửkhông tắt đi, thì cái đạo của Khổng Tử chẳng được sáng rỡ vậy!’ (1) Tại sao tôi thích nói 'thị, phi’ (điều đúng và điều sai)? Vì trong Phật Giáo có quá nhiều 'thị, phi’! Lại còn nào là hắc giáo (giáo phái đen), bạch giáo (giáo phái trắng), hoàng giáo (giáo phái vàng), hồng giáo (giáo phái đỏ) ... thảy đều biến thành nhiều màu sắc khác nhau, đến hoa cả mắt. Ngay cả đen cũng không biết mình là đen, trắng cũng chẳng hay mình là trắng. Cho nên, tôi muốn nói ra những điều mà người khác không dám nói; nếu quý vì có ai không hài lòng thì cũng không sao, tôi cũng chẳng bận tâm. Tôi là kẻ chuyên môn đả phá tà tri tà kiến của người khác!" Từ đoạn nói chuyện trên, chúng ta có thể thấu rõ được tâm từ bi bao la không đành lòng thấy chúng sanh bị đau khổ của Hòa Thượng. Đó gọi là "đại từ đại bi, gần như tàn nhẫn", và chính là thiện xảo phương tiện để giáo hóa chúng sanh của bậc Bồ Tát. Hòa Thượng có lần viết bài thơ nói lên quyết tâm của Ngài: "Tôi muốn nói lời thật, Không sợ bị đánh, chửi. Giết tôi, tôi chẳng sợ, Giải thoát, có gì ngại?" Hòa Thượng Hư Vân đã nói: "Nho sĩ là tội nhân của Khổng Tử; Tăng sĩ là tội nhân của Phật." Ngài còn nhấn mạnh: "Kẻ hủy diệt Phật Pháp chính là giáo đồ của Phật Giáo, chứ không phải các giáo phái khác. Kẻ làm cho Lục Quốc diệt vong chính là Lục Quốc, chứ không phải nhà Tần. Kẻ làm suy sụp nhà Tần chính là nhà Tần, chứ không phải Lục Quốc vậy." Trong kinh có nói rằng những biểu hiện suy tàn của thời kỳ Mạt Pháp có thể nhận thấy ở khắp nơi - như việc Tăng sĩ cưới vợ, ni cô lấy chồng, giới y cà-sa được thay bằng y phục thế tục, cư sĩ ngồi trên tòa cao, v.v ... Có cư sĩ Âu Dương Cánh Vô đã dùng tri kiến riêng của mình mà viết ra Lăng Nghiêm Bách Ngụy Thuyết để phản đối Lăng Nghiêm. Lại có Pháp Sư Viễn Tham nói rằng Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Viên Giác, Kinh Pháp Hoa và nhiều kinh khác, cũng nhưĐại Thừa Khởi Tín Luận đều là giả mạo. Đây chính là những hiện tượng của Thời Kỳ Mạt Pháp. Hòa Thượng đã nhiều lần lập đi lập lại lời huấn thị về việc bảo vệ và duy trì Chánh Pháp: "Trong Phật Giáo, tất cả kinh điển đều rất quan trọng, nhưng Kinh Lăng Nghiêm còn quan trọng hơn nữa. Phàm hễnơi nào có Kinh Lăng Nghiêm, thì nơi đó có Chánh Pháp trụ thế. Khi Kinh Lăng Nghiêm bị mất đi, đó là dấu hiệu của Thời Kỳ Mạt Pháp. Khi giảng Kinh Lăng Nghiêm, tôi có nói rằng: 'Vào thời kỳ Mạt Pháp, Kinh Lăng Nghiêm sẽ bị diệt trước nhất. Sau đó dần dần các kinh khác cũng bị diệt theo.' Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Phật, là xá-lợi của Phật, là tháp miếu thờ Phật. Nếu Kinh Lăng Nghiệm là ngụy tạo, thì tôi sẵn sàng chịu đọa địa ngục Vô Gián, vĩnh viễn ở chốn địa nguc, không bao giờ được trở lại thế gian để gặp mọi người nữa! Người nào có thể học thuộc Kinh Lăng Nghiêm, học thuộc Chú Lăng Nghiêm, thì người đó mới là đệ tử chân chánh của Phật!" Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Tôn Giả Ca Diếp rằng: "Trong quá khứ khi Ta là vị vua tên Hữu Đức, để hộ trì Chánh Pháp, Ta đã chiến đấu với những kẻ muốn hủy hoại Chánh Pháp, và đã thiệt mạng. Sau khi chết, Ta được sanh về cõi nước của Phật A Súc Bệ và trở thành đệ tử thượng thủ của Đức Phật đó. Này Ca Diếp! Những người hộ trì Chánh Pháp được quả báo công đức vô lượng như thế. Do nhân duyên hộ trì Chánh Pháp này, mà nay Ta được tướng hảo trang nghiêm và thành tựu được Pháp thân kim cang bất hoại." "Pháp" tự nó vốn không có "Chánh, Tượng, Mạt"; nhưng tâm con người thì có sự phân biệt về "Chánh, Tượng, Mạt". Theo Hòa Thượng, bất cứ khi nào còn có người dụng công tu hành, thì khi đó là Chánh Pháp còn đang trụ thế. Nếu không còn ai tu hành, không có người nào đọc, tụng, và học thuộc Kinh Lăng Nghiêm, thì đó là Thời Kỳ Mạt Pháp. Bởi trong Kinh Lăng Nghiêm, có phần "Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối" giảng về sát sanh (sát), trộm cắp (đạo), dâm dục (dâm), dối trá (vọng); với phần "Ngũ Thập Ấm Ma” giảng về thiên ma, ngoại đạo cặn kẽ đến tận xương tuỷ; và cả hai phần này đều nói rất rõ ràng rằng khi nào không còn người giữ giới, thì khi đó là Thời Kỳ Mạt Pháp. Giới còn, tức là Phật Pháp còn vậy! Vào năm 1990, trong một lần thuyết giảng tại Trung Tâm Lao Công ở Cao Hùng, Đài Loan, Hòa Thượng đã khẩn thiết nói rằng: "Thời Kỳ Mạt Pháp là do những người tại gia chỉ hộ trì cho một người xuất gia riêng lẻ mà tạo thành!". Vì sao lại như thế? Hòa Thượng giải thích rằng: "Người xuất gia sống một mình một chùa, xưng vương xưng bá, làm vua một cõi. Người tại gia do thiếu Trạch Pháp Nhãn' nên đi theo hộ Pháp cho họ, hộ tới hộ lui, và hộ luôn xuống địa ngục! Vào Thời Kỳ Chánh Pháp, tất cả đại chúng đều sống chung trong một đại tùng lâm của chùa và cùng nhau dụng công tu Đạo. Song, vào thời kỳ Mạt Pháp, người ta lại không thích nếp sống của đại tùng lâm nữa. Mỗi người ở một chùa riêng - ông theo cách của ông, tôi theo cách của tôi - khiến cho người tại gia trở nên hoang mang, bối rối. Họ thấy ông sư nầy tướng mạo trông đẹp đẽ bèn hộ pháp cho ông ta, xây chùa riêng cho ông ta trụ trì. Rồi sau đó lại thấy một vị sư khác cũng không tệ lắm, họ lại xây cho vị đó một ngôi chùa nữa. Hộ tới hộ lui, rốt cuộc là làm cho những người xuất gia sanh lòng tham danh hám lợi đến nỗi phải hoàn tục!" Hòa Thượng hoàn toàn không phản đối việc xây chùa, nhưng chỉ vì con người ngày nay quá hưởng thụ, không biết lấy Pháp nghĩa và giáo dục (nghĩa lý Phật Pháp và đạo lý giáo dục) để hóa độ chúng sanh. Họ chỉ biết dùng "chùa lớn" để độ chúng sanh, cùng bày ra phương cách để được nổi tiếng và trở nên giàu có. Cái nhìn của Hòa Thượng về việc xây chùa như sau: "Tạo chùa không bằng tạo người, tạo người không bằng tạo Phật. Tôi muốn làm một người thợ đúc tượng. Tôi muốn đúc nên những vị Phật sống, những vị Bồ Tát sống, những vị Tổ Sư sống. Tôi còn muốn làm cho tất cả chúng sanh trên toàn thế giới này đều biến thành những vị Phật sống, Bồ Tát sống, Tổ Sư sống luôn nữa! Tôi đả phá đây không phải là những ngôi chùa lớn, mà là các miếu thờ Thổ Địa, miếu thờ Thành Hoàng, miếu thờ của gia tộc. Khi những người ở chùa nhỏ dọn sang chùa lớn, thì tất cả có thể cùng nhau tu hành, như thế mới là nếp sinh hoạt của một đại tùng lâm. Vì sao ở chùa nhỏ thì không được tốt? Bởi vì ở đó thiếu sự gò bó, câu thúc; không cần phải "quán tự tại", mà có thể ăn tự tại, mặc tự tại, đi đứng tự tại, nên rất dễ quên đi việc tu Đạo. Hàng ngày chỉ biết phan duyên, mà tập khí nầy chính là vết thương trí mạng làm băng hoại Phật Giáo!" Tôi hy vọng Phật Giáo sẽ ghi lòng tạc dạ những lời này và đừng tiếp tục "bịt tai ăn cắp chuông," dối gạt nhân loại nữa. Hiện nay, các dấu hiệu hỗn loạn trong Phật Giáo tại Đài Loan đã vô cùng nghiêm trọng, có thể nói là đến mức phải báo động rồi; thế nhưng, chẳng có người nào dám đứng ra lên tiếng kêu gọi; mà ai nấy chỉ trố mắt ngồi nhìn cảnh Phật Giáo đang đi dần về hướng diệt vong. Cách ba bước là có một tịnh xá, đi năm bước là gặp một ngôi chùa lớn – mọi người đều ra sức tổ chức Pháp hội, siêu độ vong linh, làm lễ quán đảnh, truyền Pháp, xây chùa..., mà chẳng hay biết gì về việc hoằng dương giáo nghĩa, hướng dẫn chúng sanh làm thế nào để chấm dứt sanh tử! (2) Giáo nghĩa căn bản của Đức Phật là giáo dục, làm cho tất cả chúng sanh đều có trí huệ, có Trạch Pháp Nhãn, biết nhân biết quả, đoạn ác tu thiện; chứ chẳng phải một mực chú trọng về việc xây chùa dựng miếu, tổ chức Pháp hội! Chúng ta có bao giờ tự hỏi rằng đằng sau những lời giáo huấn nghiêm khắc này của Hòa Thượng ẩn giấu biết bao máu lệ xót xa? Như ý nghĩa trong câu “đản năng quang chiếu viễn, bất tích tự phần thân”, Hòa Thượng chỉ muốn ánh sáng từ ngọn đuốc trên tay Ngài soi sáng đuợc càng xa càng tốt, mà chẳng quan tâm đến việc mình bị phỏng! "Dầu gặp muôn vàn khó khăn, tôi vẫn giữ vững ý chí của mình." Đây là lời mô tả chân thật nhất về Hòa Thượng. Ghi chú c ủ a Ban Vi ệ t D ị ch: (1)- Mạnh Tử (Mạnh Kha), người đất Châu (372-289 trước Tây lịch), là một nhà hiền triết có công rất lớn trong việc làm sáng tỏ đạo Nho. - Dương Tử (Dương Chu), người nước Vệ (khoảng 440-360 trước Tây lich); là một triết gia thời Chiến Quốc; chủtrương thuyết "vị ngã"—chi lo riêng về việc mình mà không hề đếm xỉa đến thiên hạ sự, quyết gạt bỏ ngoài tại chuyện của người. - Mặc Tử (Mặc Địch), người nước Sở, là một đại học giả thời Chiến Quốc, làm Đại Phu cho nước Tống; chủ trương thuyết kiêm ái và hòa bình; lập ra học phái Mặc Gia, lấy kiêm ái làm chủ đích. (2) Lão Hòa Thượng Quảng Khâm đã từng khai thị rằng: "Trên thế gian hiện nay, đích thực có những người xuất gia như thế. Họ chỉ mưu tính khuếch trương ngôi chùa của mình cho lớn, chiêu dụ tín đồ theo mình cho đông, để khoe là có khả năng trước mặt mọi người! Họ không cho phép tín đồ kính tin các vị Phật ở những chùa khác (chỉ được tin vịPhật ở chùa của họ mà thôi!); và tín đồ cũng chỉ được tin một mình họ thôi, không được tôn kính những người xuất gia khác. Hạng người cống cao ngã mạn, tự tôn tự đại này, chẳng phải vẫn còn lăn lóc trong vòng danh lợi giống như người tại gia bình thường, sống lây lất trong khổ não qua ngày đoạn tháng sao? Phật Pháp vốn chưa suy vi, chính là lòng người đang suy vi vậy!" Thí Lu ậ n Tuyên Hóa Lão Hòa Th ư ợ ng Đích Ph ậ t H ọ c C ố ng Hi ế n Người gửi - Trương Thúy Nga HT. Tuyên Hóa
  4. Chuyển luân trong Phật giáo còn được hiểu là "Vận Chuyển Chính Pháp" do điều kiện bị suy thoái hoặc cần được giải thích trong điều kiện hiện tại, chẳng hạn giải thích tương ứng với khoa học ngày nay. Tuy nhiên, thế gian lại có rất nhiều tôn giáo: - Đạo Mẫu. - Đạo Tổ Tông. - Đạo Tiên. - Đạo Nho. - Thần Đạo Nhật, Ai Cập, Lưỡng Hà, Maya... - Đạo Phật. - Đạo Bà La Môn. - Đạo Jain. - Đạo Do Thái. - Đạo Ki tô. - Đạo Tin Lành. - Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. - Đạo Cao Đài. ... Cái lào nà Chính Pháp đây???
  5. Phật Thích Ca đã giao Y áo Cà sa cho Tổ Ca Diếp, khi Phật Di Lặc xuất hiện thì Tổ Ca Diếp sẽ trao Y áo cho Phật Di Lặc. Cái này ai sáng tác vậy! Chúng ta phải hiểu rõ Chuyển Luân Vương và Chuyển Luân Thánh Vương theo kinh sách Phật giáo cho rõ đã. Đức Phật Thích Ca ở trong vai trò Chuyển Luân Vương chứ không phải Chuyển Luân Thánh Vương. Chuyển Luân Thánh Vương chỉ giải quyết một vấn đề "Chân Lý Vũ Trụ" mà thôi, và từ đó sẽ có nhiều chân lý con khác liên quan đến mọi thứ mà con người đang đi tìm - chẳng hạn tại sao phải đi tìm niết bàn, giải thoát, chết là hết hay còn,... Còn như chúng ta biết, Phật Thích Ca nhấn mạnh một việc quan trọng nhất đó là "chỉ ra khổ đau và phương cách giải thoát khỏi khổ đau" của kiếp người. Trước tiên, Chuyển Luân Thánh Vương sẽ phải giải quyết được tất cả những câu hỏi siêu hình mà Phật Thích Ca không trả lời trong thời kỳ ngài còn tại thế. Kinh dạy rằng, một hôm có một du sĩ ngoại đạo Vacchagotta đến chỗ Đức Phật, bạch rằng: “Thưa Tôn giả Gotama, thần ngã có không?” Đức Phật im lặng, không trả lời. “Như vậy, thưa Tôn Giả Gotama, thần ngã không có chăng (1)?”. Đức Phật vẫn giữ im lặng. Ở thời Đức Phật, những du sĩ ngoại đạo giống như Vacchagotta không phải là ít, lúc họ cùng nhau bàn luận thường đưa ra những vấn đề huyền học để tranh luận. Những vấn đề tranh luận thường xoay quanh mười chủ đề sau: Liên quan đến vũ trụ: 1- Vũ trụ vĩnh hằng? 2- Vũ trụ không vĩnh hằng? 3- Vũ trụ hữu hạn? 4- Vũ trụ vô hạn? Liên quan đến vấn đề tâm lý học: 5 – Thân và tâm là một vật đồng nhất? 6- Thân là một vật và tâm là một vật? Liên quan đến vấn đề cảnh giới chứng ngộ của Đức Phật: 7- Sau khi chết Đức Phật tồn tại? 8- Sau khi chết Đức Phật không tồn tại? 9- Sau khi chết Đức Phật vừa tồn tại vừa không tồn tại? 10- Sau khi chết Đức Phật vừa không tồn tại vừa không không tồn tại? Đức Phật đã dạy rằng những câu hỏi như thế chỉ hoàn toàn dựa vào những lý do trừu tượng chung (huyền hoặc) nên không có câu trả lời: Ngài bảo chúng bị che đậy bời tính không có ý nghĩa hoặc rối rắm không đầu không cuối của chúng. Tại sao Đức phật không trả lời những câu hỏi huyễn hoặc ở trên? Trước hết, vì những vấn đề này không liên quan đến những lời dạy của Đức Phật. Phật giáo thời kỳ đầu, Đức Phật thường nhấn mạnh vào việc tu trì giới định huệ và nhấn mạnh giáo lý khổ, vô thường, vô ngã. Những pháp này có mục đích giúp mọi người hiểu được cái khổ và phương pháp diệt khổ, nhiệm vụ bức thiết nhất của chúng ta là diệt trừ khổ não, vì vậy Đức Phật giải thích những pháp này là để lợi lại trong việc tu tập, làm cho mọi người yếm ly, trừ chấp ngã, an tịnh, chứng đắc giải thoát giác ngộ. Còn những vấn đề huyền hoặc trên, trong đó có bốn vấn đề liên quan đến vũ trụ, cho dù hữu hạn hay vô hạn, vĩnh hằng hay không vĩnh hằng, chúng đều không có ích lợi gì cho việc giải thoát khổ đau của nhân loại. Đức Phật đã dạy rằng: “Này Vaccha, nghĩ rằng thế giới là vô thường… thế giới là thường… thế giới vô biên… thế giới là hữu biên… sinh mạng và thân thể là một… sinh mạng và thân thể là khác… Như lai có tồn tại sau khi chết… Như lai không tồn tại sau khi chết… Này Vaccha, nghĩ rằng Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, như vậy là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, đi đổi với khổ, với tàn hại, với não hại, với nhiệt não, không hướng đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết- bàn. Này Vaccha, Ta thấy có sự nguy hại này mà ta không chấp nhận hoàn toàn những tri kiến như vậy (2)?” Còn hai vấn đề tiếp theo về thân thể vật lý và tâm lý của con người, cho dù có đồng nhất hay không thì cũng chịu sự chi phồi của vô thường, tan rã, khổ đau, sanh tử luân hồi, theo đức Phật thì hết thảy pháp đều vô ngã, Giáo pháp vô ngã của Đức Phật thật siêu tuyệt, cho dù vấn đề thân và tâm của ngoại đạo có đặt ra đồng nhất hay khác nhau cũng không thể nào ăn nhập với giáo lý năm uẩn vô ngã của Đức phật. Những vấn đề trên đều triền miên không nói hết tận nguồn góc của chúng. Tiếp đến là những vấn đề liên quan đến cảnh giới chứng đắc cùa Đức Phật, Ngài đã chứng ngộ thành Phật, cảnh giới chứng đắc của Ngài là Phật cảnh, nhờ vào việc tu hành mà chứng ngộ. Cảnh giới này đối với hạng người phàm phu thì không thể hiểu hết, cho dù Đức phật có dùng bất kỳ ngôn ngữ hay cách diễn đạt như thế nào cũng không giúp người nghe hiểu hết được. Vì vậy, những vấn đề huyền hoặc ở trên đều không liên quan đến những lời dạy của Đức Phật, không liên quan đến những tu hành phạm hạnh, chúng không có ích lợi cho việc tu tập thân tâm đạt đến cảnh gới giác ngộ như Đức Phật. Do đó, khi có người hỏi về những vấn đề liên quan đến những tình huống như trên Đức Phật đều im lặng. Thứ hai, những vấn đề huyền học sẽ đưa chúng ta đi vào mê trận, làm cho chúng ta mất phương hướng. Đồi với Đức Phật, mọi tranh luận không mang lại lợi ích cho việc tu học và làm rõ chánh kiến đều là hý luận vô bổ, huống hồ là trnh luận mang đến phiền não, không thỏa mãn với câu hỏi đã đề ra và càng làm cho con người trở nên rối rắm. Thời Đức Phật còn tại thế, có một Tỳ-kheo tên là Man đồng Tử (Malunkya ), một hôm lúc ban trưa ngồi thiền quán bổng nhiên đứng dậy di về phía hương thất của Đức Phật, sau khi đảnh lễ Đức Phật, rồi ngồi qua một bên, thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con đang ngồi thiền một mình, bỗng nhiên khởi lên một niệm, có mười vấn đề mà bấy lâu nay Ngài chưa giải thích rõ với chúng con. Mỗi khi chúng con hỏi Ngài về những vấn đề này thí Ngài đều im lặng. Con cảm thấy không vui khi Ngài làm như thế. Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay nếu Ngài giải thích rõ mười vấn đề trên thì con tiếp tục sống đời sống xuất gia tu hành phạm hạnh; nếu Ngài vẫn giữ im lặng thì con mất hết tín tâm không tiếp tục tu hành nữa. Nếu Thế Tôn biết thế giới này là vĩnh hằng, thì xin Ngài nói cho con được rõ. Nếu thế gian này không vĩnh hằng, thì lý do tại làm sao ?Nếu Ngài đối với những vấn đề này mà không biết thì trực tiếp nói là không biết ”(3) Đức Phật dạy: “Con thật mê muội ! buồi ban đầu có phải là không hiểu những vấn đề huyền hoặc này mà con đi xuất gia không ?Lúc con đi theo Ta tu hành phạm hạnh Ta có hứa sẽ nói cho con biết những vấn đề này không ?”. Man Đổng Tử trả lời: “ Bạch Đức Thế Tôn, không ”Đức Phật dạy: “ Như vậy con chưa được Như Lai trả lời thì con đã chết rồi. Này Man Đồng Tử, giả như có người bị trúng tên độc bị thương, người thân của người này muồn nhổ mũi tên ra và đưa đến bác sĩ, nhưng người kia không muốn cho người nhà nhổ mũi tên ra trừ phi biết ai đã bắn tên này. Người bắn mũi tên thuộc giòng họ Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá, hay Thủ-đà-la. Hắn cao, thấp, hay vừa, da của hắn nâu ,trắng đen hay vàng; hắn ở thành xóm ấp làng nào ?. Tôi không muốn nhổ mũi tên ra trừ phi tôi biết tôi bị loại cung tên nào bắn trúng, dây cung làm bằng gì, loại tên hình như thế nào, làm bằng chất liệu gì…Này Man Đồng Tử; người kia chưa kịp biết rõ đáp án thì đã chết rồi, cũng như người muốn biết vũ trụ có vĩnh hằng hay không vĩnh hắng và những vấn đề liên quan nó, người kia chưa kịp được Như lai trả lời thì đã chết rồi. Cũng như vậy, nếu có người hỏi, tôi không theo Đức Thế Tôn tu hành phạm hạnh nữa trừ phi Ngài trả lời cho tôi về những điều vũ trụ có vĩnh hắng hay không, người kia chưa được Như Lai trả lời thì đã chết rồi ”. “Vì đời người ngắn ngủi, nếu ai bị những vấn đề huyền hoặc này mà suốt ngày phiền não, cố chấp không xả, muốn tìm cho đến ngọn nguồn, thì càng ngày càng vào mê lộ, cuối cùng không đi ra được ”(4). Một ý nghĩa giáo dục ở đây là những đòi hỏi không cần thiết thì có thể chứng minh điều đó là có hại đến tinh thần . Đối với những vấn đề huyền luận như trên Đức Phật hoàn toàn không để ý. Hơn nữa, do ngôn từ có tính hạn chế, người phàm phu không thể thông qua ngôn ngữ để hiểu được hay diễn đạt được hết nhửng vấn đề hyền hoặc. Ngôn ngữ do con người sáng tạo dùng để biểu đạt những cảm nhận, kinh nghiệm và tư tưởng mà mình thể nghiệm qua các hiện tượng và sự vật. Ngôn ngữ là tín hiệu để diễn đạt nhận thức về sự vật và ý niệm của chúng ta, nó là phương tiện để thuyết minh sự hiểu biết của chúng ta nhưng cũng không vượt ra khỏi hạn cục của thời gian, không gian. Hay nói cách khác con người chỉ biểu đạt được sự việc và ý niệm trong phạm vi thời gian và không gian cho phép; thậm chí ngôn ngữ của con người có khi không đủ để diễn tả sự việc hiện thực trong đời sống thường ngày. Có lẽ mọi người đều từng có kinh nghiệm về những cảm giác diễn ra trong tư duy của mình mà không thể tìm được ngôn ngữ để diễn tả. Do đó, có thể thấy được ngông ngữ của con người không phải là phương tiện diễn tả tuyêt đối ,nó có tính hữu hạn của nó, không thể diễn đạt nhận thức một chân lý, không những thế hoàn toàn có thể diễn đạt sai lệch với chân lý qua nhận thức. <br style="font-size: 11pt; color: rgb(0, 0, 0); font-family: Arial;"> Vì chân lý tuyệt đối (chẳng hạn như Niết-bàn) siêu xuất thời gian, không gian và cả định luật hạn chế của hữu vi: con người chỉ có tu tập để đạt đến chứng đắc mới thể nghiệm được, chứ không thể dùng ngôn ngữ để miêu tả hoặc khong thể dùng trí kiến bình thường để suy diễn được. Đến đây ngôn ngữ nhà Thiền gọi là ngôn ngữ đạo đoạn. Trên thực tế, những vấn đề như vậy vĩnh viễn không thể thông qua ngôn ngữ văn tự để trả lời dầy đủ như ước muốn, mà cũng không có loại ngôn từ nào để diễn đạt loại kinh nghiệm như thế. Như câu chuyện Rùa và Cá trong truyện cổ Phật giáo, Rùa kể cho Cá nghe thế giới trên cạn, cứng, không thể bơi, chỉ có thể bước đi. Nhưng Cá không thể nào hiểu nổi, cứ khăng khăng cho môi trường trên cạn tương tự như môi trường nước, có thể bơi nhảy, lặn lội. Cũng giống như ngôn ngữ bình thường của chúng ta không thể nảo đem ra diễn tả trạng thái của Niết bàn. cho dù có dùng bút mực cao cấp, ngôn từ diểm lệ, lời lẽ cao huyền cũng phí công vô ích, không thể tìm thấy những ngôn từ thích hợp để diễn giảng cảnh giới của Niết Bàn. Cho nên người câu nệ vào văn tự thì bị ràng buộc. Cũng như kinh Lăng Già đã dạy người ngu chấp vào văn tự như Voi bị sa lầy khong thoát ra được . Cuối cùng, Đức Phật tùy cơ thuyết pháp, Ngài không dùng những gì mang tính huyền hoặc để thuyết giảng, cũng không trả lời bằng cách phô trương kiến thức, mà với lòng từ bi và trí huệ, Ngài chú ý vào thực tiễn để giáo hóa chúng sanh, đưa họ ra khỏi mê hoặc cố chấp, giúp người vấn nạn đi vào con đường chánh đạo. Lúc thuyết pháp, Đức Phật tùy cơ hóa độ, quán xét trình độ, căn cơ, tính cách và khả năng nhận thức của đối tượng nghe pháp để dẫn dắt chỉ dạy. Qua những tình huống trả lời những câu hỏi mà người khác đặt ra với Đức Phật, chúng ta thấy Đức Phật đã dùng bốn hình thức như sau để trả lời: - Thứ nhất là Thế giới tất đàn: là các tiêu chuẩn căn cứ trên những nhận thức phú hợp với cuộc sống của con người ở thế giới này để nói mặc dù không phải là tuyệt đối . - Thứ hai là vị nhân tất đàn: là do con người mà nói như vậy, phù hợp với lề lối, suy nghĩ, nhận thức và văn hóa của con người như vậy nên tùy thuận để nói Pháp. - Thứ ba là Đối trị tất đàn: tùy theo hoàn cảnh nhận thức của chúng sinh mà Đức Phật đặc biệt nói cho họ nghe pháp để làm cho họ phản tỉnh. - Thứ tư là Đệ nhất nghĩa tất đàn: là nói tiêu chuẩn tuyệt đối vế chân đế, sự thật, dù người không hiểu có phản đồi cũng không sao. Ngoài ra, trước mọi điều huyền hoặc, Đức Phật luôn giữ im lặng hơn cả mọi hùng biện. Với từ bi và trí huệ, Đức Phật giữ im lặng nhưng vẫn lân mẫn quan tâm đến người gặp nạn, cứu hộ thoát khỏi khốn cảnh khi thấy đủ duyên. Có nhiều sách vở học giả Phật giáo về sau cố giải thích những điều mà Đức Phật đã im lặng, cố gắng đặt vấn đề phải chăng Đức Phật có giải thích những vấn đề huyền hoặc này? Chúng ta cũng không cần có một kết luận nào, nhưng chúng ta có một điều có thể khẳng định rằng pháp mà Đức Phật biết thì nhiều hơn pháp mà Đức Phật đã nói. Trong kinh điển còn ghi lại, một hôm Đức Phật nắm một nắm lá trong tay và hỏi các đệ tử rằng: “ Này các Tỳ-kheo, trong tay Ta nhiều lá hay trong rừng nhiều lá ?”. Các Tỳ-kheo trả lời: “ Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay Thế Tôn rất ít so với là trong rừng ” Đức Phật dạy: “ Cũng như vậy, những pháp mà Như lai chứng biết như lá trong rừng, còn những pháp mà Như lai nói cho các vị như lá trong nắm tay này, chỉ có một ít, những pháp mà Như lai nói rất hữu hạn. nhưng tại sao Như lai không nói hết ?Vì chúng không có ích, không hướng dẫn mọi người chứng đắc Niêt-bàn. Đó là nguyên nhân mà Như lai không nói hết những pháp đó (5)”. Như vậy những điều này không phải Đức Phật không biết, mà vì Đức Phật quán thấy sự hạn chế của ngôn ngữ, không thể dùng ngôn ngữ bình thường để diễn đạt một cảnh giới siêu việt. Đại Trí Độ luận và Câu Xá luận có nói đến 14 trường hợp còn gọi là 14 nạn 6, tương tự với những vấn đế siêu hình ở trên, đều nói Đức Phật không trả lời. Nguyên nhân là: 1 – Những vấn đề này đều hư vọng không thất; 2 – Các pháp vồn không ‘thường’ cũng không ‘đoạn diệt’; 3 – Những câu hỏi này chỉ dẫn đến tranh luận, hý luận vô bổ, không có ích cho việc tu hành cầu tiến. Do đó, Đức Phật không trả lời. Tóm lại, Đức Phật luôn giữ im lặng đối với những vấn đề siêu hình hay huyền học mà luôn luôn đề cao tinh thần thực tiễn. Cho nên trong Phật giáo đối với những vấn đề siêu hình không phải là không thể nghiên cứu. Nhưng quá thiên trọng về huyền hoặc thì sẽ thêm nhiều phiền não và dẫn đến không lối thoát vì tính rối rắm của chúng. Do đó trong quá trình nghiên cứu Phật pháp hoặc giải thich cho người khác hiểu Phật giáo chúng ta nên học theo Đức Phật, kết hợp nhiều yếu tố hiện thưc và nhu cầu của xã hội hiện đại để giải thích làm sao cho dễ hiểu, ứng dụng Phật pháp vào đời sống sinh hoạt hằng ngày, hạn chế tranh luận về những vấn đề siêu hình để phô trương kiến thức mà không đem lại một kết quả nào. Làm khác đi, chúng ta chỉ lãng phí thời gian tranh luận từ ngày này qua ngày khác. Thích Thiện Chánh
  6. A. Sơ tâm về tộc Việt Tôi học chữ Nho trước khi học chữ Quốc-ngữ. Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông tôi không có con trai, mẹ tôi là con út của người. Theo luật triều Nguyễn, thì con trai ông tôi sẽ được "tập ấm". Không có con trai, thì con nuôi được thay thế. Tôi là "con nuôi" của ông tôi, nên người dạy tôi học để nối dòng Nho gia. Tôi cũng được "tập ấm", thụ sắc phong của Đại-Nam Hoàng đế. Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt Nam. Cũng năm đó, tôi được học chữ Nho. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho, bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Các bạn hiện diện nơi đây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đã thuộc làu bộ Tam tự kinh, rồi sáu tháng sau tôi được học sử. Tôi được học Nam-sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng quốc ngữ vào năm bẩy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng Quốc-ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh, không bằng một phần trăm những gì ông tôi dạy tôi. Thầy giáo (ở trường) biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp nghe về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy, tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như "Đại-Việt sử ký", "Khâm định Việt sử thông giám cương mục", "An-Nam chí lược", "Việt sử lược"... Đại cương, mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam như sau: "Vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên đẻ ra người con tên Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Đế Nghi; phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng: Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hòa mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử tuyệt tôn". Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây-lịch, đến đây thì chia làm hai: 1. Triều Đại Thần Nông Bắc: - Vua Đế Nghi (2889-2884 trước Tây-lịch) - Vua Đế Lai (2843-2794 trước Tây-lịch) - Vua Đế Lai (2843-2794 trước Tây-lịch) - Vua Ly (2795-2751 trước Tây-lịch) - Vua Du Võng (2752-2696 trước Tây-lịch) Đến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng Đế từ năm Giáp-Tý (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng Đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tư-mã-thiên khởi chép quyển một là Ngũ đế bản kỷ, coi Hoàng Đế là Quốc-tổ Trung-quốc. 2. Triều Đại Thần-Nông Nam : Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch), hiệu là Kinh-Đương, lúc mười tuổi. Sau này người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung, cho đến nay là 4872 năm, vì vậy người Việt hằng tự hào rằng đã có năm nghìn năm văn-hiến. Xét về cương giới, cổ sử chép: "Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi, lấy hiệu là vua Kinh-Đương (2), tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-tây. Vua Kinh-Đương lấy con gái vua Động-đình là Long-nữ đẻ ra thái tử Sùng-Lãm. Thái tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai (3). Khi vua Kinh Đương băng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-lang. Nước Văn-lang Bắc tới hồ Động-đình, Nam giáp nước Hồ-tôn, Tây giáp Ba-thục, Đông giáp biển Đông-hải". Cổ sử đến đây, không có gì đáng nghi ngờ. Nhưng tiếp theo, lại chép: "Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị, giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp, sau trở thành lạc-hầu, theo lối cha truyền con nối. - Hoàng tử thứ nhất tới thứ 10 lập ra vùng hồ Động đình. - Hoàng tử thứ 11 tới thứ 20 lập ra vùng Tượng-quận. - Hoàng tử thứ 21 tới thứ 30 lập ra vùng Chân-lạp. - Hoàng tử thứ 31 tới thứ 40 lập ra vùng Chiêm-thành - Hoàng tử thứ 41 tới thứ 50 lập ra vùng Lão-qua. - Hoàng tử thứ 51 tới thứ 60 lập ra vùng Nam-hải. - Hoàng tử thứ 61 tới thứ 70 lập ra vùng Quế-lâm. - Hoàng tử thứ 71 tới thứ 80 lập ra vùng Nhật-nam. - Hoàng tử thứ 81 tới thứ 90 lập ra vùng Cửu-chân. - Hoàng tử thứ 91 tới thứ 100 lập ra vùng Giao-chỉ. Ngài hẹn rằng: Mỗi năm các hoàng tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết để chầu-hầu phụ mẫu". Một truyền thuyết khác lại nói: Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng: "Ta là loài rồng, nàng là loài tiên, ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần". Các sử gia Việt tuy lấy năm vua Kinh-Đương lên làm vua là năm Nhâm-Tuất 2879 trước Tây-lịch, nhưng không tôn vua Kinh-Đương với công chúa con vua Động-đình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm quốc tổ, và công chúa Âu-Cơ làm quốc mẫu. Cho đến nay, nếu các bạn hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào: Chúng tôi là con rồng cháu tiên, Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ. Không phải sử gia Hoa-Việt cho rằng các vua Phục-Hy, Thần-Nông thuộc huyền sử, hay không hẳn là tổ mình, mà cho rằng triều Phục Hy, Thần Nông là tổ về huyết tộc, mà không phải là tổ chính trị. Bởi tại phương Bắc từ khi Hoàng Đế lên ngôi vua, tại phương Nam Lạc-Long lên ngôi vua, mới phân hẳn ra Việt, Hoa hai nước rõ ràng. B. Chủ Đạo Tộc Hoa, Tộc Việt : Như các bạn đã thấy, mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệu. Người Pháp các bạn cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật tượng trưng là con gà trống. Người Anh lấy biểu hiệu là con sư tử. Người Hoa-kỳ lấy biểu hiệu là con chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con rồng. Người Việt lấy biểu hiệu là con rồng và chim âu, gốc tự huyền sử vua Lạc Long là loài rồng, công chúa Âu-Cơ là loài chim. Người Do-Thái tự tin rằng họ là giống dân linh, được Chúa chọn. Vì vậy, sau hai nghìn năm mất nước, họ vẫn không bị đồng hóa. Khi tái lập quốc, với dân số bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với bao cuộc tấn công để tồn tại. Đó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân được Chúa chọn. Người Hoa thì tin rằng họ là con trời. Cho nên trong các sách cổ của họ vua được gọi là Thiên-tử, còn các quan thì luôn là người nhà trời xuống thế phò tá cho vua. Chính niềm tin đó cùng với văn-minh Hoa-hạ, văn minh Nho giáo đã kết thành chủ đạo của họ. Cho nên người Hoa dù ở đâu, họ cũng có một tổ chức xã hội riêng, sống với nhau trong niềm kiêu hãnh con trời. Cho dù họ lưu vong đến nghìn năm, họ cũng không bị đồng hóa, không quên nguồn gốc. Cũng chính vì vậy, mà từ một tộc Hoa nhỏ bé ở lưu vực sông Hoàng-hà, họ đánh chiếm, đồng hóa hàng nghìn nước xung quanh. Nhưng chủ đạo, và sức mạnh của họ phải ngừng lại ở biên giới Hoa-Việt ngày nay. Từ nguồn gốc lập quốc, từ niềm tin mình là con của Rồng, cháu của tiên, cho nên người Việt có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Tộc Việt đã chiến đấu không ngừng để chống lại cuộc Nam tiến liên miên trong hai nghìn năm của tộc Hoa. Bất cứ thời nào, người Việt dù bị phân hóa đến đâu, nhưng khi bị Bắc xâm, lập tức họ ngồi lại với nhau để bảo vệ quốc gia. Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt, hễ ai dựa theo chủ đạo của tộc Việt, đều thành công trong việc giữ được quyền cai trị dân. C. Đi Tìm Lại Nguồn Gốc Tộc Việt : Năm trước, đồng nghiệp của tôi đã giảng cho các bạn sinh viên hiện diện các giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, bao gồm: - Thuyết của Giáo sư Léonard Aurousseau, về cuộc di cư của người U-Việt hay Ngô-Việt sang Âu-lạc. -Thuyết của Claude Madroll về cuộc di cư của người Mân-Việt sang Âu-lạc. - Thuyết của học giả Đào Duy-Anh, Hồ-Hữu-Tường, về sự di cư do thời tiết của người Việt từ Bắc xuống Nam. - Thuyết của Trần Đại-Sỹ theo khoa khảo cổ, bằng hệ thống y-khoa ADN. Cuối cùng các giáo sư đồng nghiệp đã nhận định rằng: Nhờ vào khoa khảo cổ, nhờ vào hệ thống khoa học, từ nay không còn những giả thuyết về nguồn gốc tộc Việt nữa, mà chỉ còn lại công cuộc tìm kiếm của tôi, rồi kết luận: "Tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang: Đông tới biển, Tây tới Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-lan. Người Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam. Người Mân-Việt di cư xuống Giao-chỉ. Người Việt di cư từ Nam sông Trường-giang tránh lạnh xuống Bắc-Việt đều đúng. Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lĩnh thổ của họ, chứ không phải họ là tộc khác di cư tới đất Việt". Chính vì lý do đó, tôi được mời đến đây đọc bài diễn văn khai mạc niên khóa 1992-1993 này. Sau đây, tôi trình bày sơ lược về công trình nghiên cứu đó. Tôi xin nhắc lại, tôi chỉ là một bác sĩ y khoa, cho nên những nghiên cứu của tôi đặt trên lý luận khoa học thực nghiệm, cùng lý luận y khoa, nó hơi khác với những gì mà các bạn đã học. Phương Pháp Nghiên Cứu : Trong việc đi tìm nguồn gốc tộc Việt, tôi đã dùng phương pháp y khoa nhiều nhất, và phương pháp khoa học mới đây. Tôi đã được giáo sư Tarentino về khoa Antomie của Ý và giáo sư Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp đỡ. 1.Dùng Biện Chứng Y Khoa vào Khoa Cổ: Biện chứng căn bản của người nghiên cứu y khoa là: "Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do". Biện chứng này đã giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng. Như tôi đã từng trình bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân đều theo, đó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn phổ kể sự tích các ngài. Vì theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học giả đi tiên phong nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ qua. Tôi lại suy nghĩ khác: "Không có nguyên do, sao có chứng trạng". Vì vậy tôi đã tìm ra rất nhiều điều lý thú. Tỷ dụ: Bất cứ một nhà nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An Đương cũng cho rằng truyện thần Kim-Quy cho vua móng, làm nỏ bắn một lúc hàng nghìn mũi tên khiến Triệu Đà bị bại, là hoang đường, là "ma trâu đầu rắn". Nhưng tôi lại tin, và cuối cùng tôi đã tìm ra sự thực: Hồi ấy Cao-cảnh hầu Cao-Nỗ đã chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày nay. Tôi cũng tìm ra khích thước ba loại mũi tên đồng của nỏ này. (4) Với lý luận y khoa, với anatomie, với lý thuyết y học mới về tế bào, với những khai quật của người Pháp ở Đông Dương, của Việt-Nam, của Trung-quốc cùng hệ thống máy móc tối tân đã giúp tôi phân loại xương sọ, xương ống quyển, cùng biện biệt y phục của tộc Hoa, tộc Việt, rồi đi đến kết luận về lãnh thổ nước Văn-lang tới hồ Động Đình. 2. Những Tài Liệu Cổ: Ranh giới phía Nam của nước Văn-lang tới nước Hồ-tôn đã quá rõ ràng. Còn ranh giới phía Tây với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới phía Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc quả tới hồ Động-đình, thì ranh giới phía Tây chắc phải giáp Ba thục và phía Đông phải giáp Đông hải. Vì vậy tôi đi tìm ranh giới phía Bắc. Dưới đây là huyền thoại, huyền sử, mà tôi đã bấu víu vào để đi nghiên cứu. - Cổ sử Việt đều nói rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Động-đình. - Truyền thuyết nói: Đế-Minh lập đàn tế cáo trời đất, rồi chia thiên hạ làm hai. Từ Ngũ-lĩnh về Bắc cho Đế Nghi, sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam truyền cho vua Kinh Đương sau thành nước Văn lang. - Truyền thuyết nói: Sau khi vua Kinh Đương, vua Lạc-Long kết hôn, đều lên núi Tam Sơn trên hồ Động Ðình hưởng thanh phúc ba năm. Lúc ngài lên núi, có chín vạn hoa tầm xuân nở. - Truyền sử nói: Sau khi Quốc tổ Lạc Long, Quốc mẫu Âu Cơ cho các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, dặn rằng: Mỗi năm về Tương-đài trên cánh đồng Tương chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần. - Cổ sử nói: Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, hẹn mỗi năm gặp nhau một lần ở cánh đồng Tương. - Sử nói: Vua nước Nam-Việt là Triệu-Đà thường đem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán là Nam quận, Trường sa (Mậu-Ngọ, 183 trước Tây-lịch). Như vậy biên giới Nam-Việt với Hán ở vùng này. - Sử nói rằng: Khi Trưng-Nhị, Trần-Năng, Phật-Nguyệt, Lại-thế-Cường đem quân đánh Trường-sa (năm 39 sau Tây-lịch) thì nữ tướng Trần-thiếu-Lan tử trận, mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang. (Sự thực đó là Tương-giang thông với hồ Động-đình). Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam với Hán. Tướng Lĩnh-Nam tổng trấn hồ Động đình là Phật-Nguyệt. Tướng Hán là Mã-Viện, Lưu-Long (năm 40 sau Tây-lịch).Nhưng các sử gia gần đây đều đặt nghi vấn rằng: Làm gì biên giới thời Văn-lang rộng như vậy, nếu có chỉ ở vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện nay trăm cây số là cùng. Tôi căn cứ vào những chứng trạng trên để tìm nguồn gốc. D. Đi Tìm Biên Giới Nước Văn Lang: 1. Núi Ngũ-Lĩnh: Cuối năm Canh-Thân (1980) tôi lấy máy bay đi Bắc kinh, rồi đổi máy bay ở Bắc kinh đi Trường sa. Trường-sa là thủ-phủ của tỉnh Hồ-Nam. Tất cả di tích của tộc Việt như hồ Động-đình, núi Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương, Thiên-đài, Tương-đài, cánh đồng Tương đều năm ở tỉnh này. Tôi đi nghiên cứu với một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học. Không biết trong thư giới thiệu, các giới chức y-khoa Trung-quốc ghi chú thế nào, mà khi tôi tiếp xúc với sở du-lịch, ty văn-hóa địa phương, họ đều tưởng tôi tới Trường-sa để nghiên cứu về sự cấu tạo hình thể cùng bệnh tật dân chúng tại đây. Thành ra tôi bị mất khá nhiều thời giờ nghe thuyết trình của các đồng nghiệp về vấn đề này. Tôi cư ngụ trong khách sạn Trường-sa tân điếm, năm trân đại lộ Nhân-dân. Tôi xin cuốn địa phương chí mới nhất của tỉnh, rồi mò vào thư viện ty văn hóa, sở bảo vệ cổ tích, đại học văn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà ngay những sinh viên văn khoa cũng ít ai ghé mắt tới. Đầu tiên tôi đi tìm núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay. Đó là năm dãy núi gần như ngăn đôi Nam, Bắc Trung-quốc. - Một là Đại- Dữu lĩnh, - Hai là Quế-đương, Kỳ-điền lĩnh. - Ba là Cửu-chân, Đô-lung lĩnh. - Bốn là Lâm-gia, Minh-chữ lĩnh. - Năm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh. Về vị trí: - Ngọ Thủy-an, Việt-thành chạy từ tỉnh Phúc-kiến, đến huyện Tuần-mai tỉnh Quảng-Đông. - Ngọn Đại-đữu chạy từ huyện Đại-đữu (nam-an), tỉnh Giang-Tây đến huyện Nam-hùng tỉnh Quảng-Đông. - Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam đến Liên-huyện tỉnh Quảng Đông. - Ngọn Cửu-chân, Đô-lung chạy từ Đạo-huyện tỉnh Hồ-Nam tới Gia-huyện tỉnh Quảng-Tây. - Ngọn Quế-đương từ Toàn-huyện tỉnh Hồ-Nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-Tây. Lập tức tôi thuê xe, đi một vòng thăm tất cả các núi này. Tôi đi mất mười ngày, gần 1500 cây số.Như vậy là Ngũ-lĩnh có thực, nay có núi đã đổi tên, có núi vẫn giữ tên cũ. Một câu hỏi đặt ra: Tại sao khi vua Minh phân chia từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Lộc-Tục, mà lĩnh địa Việt tới hồ Động đình, mà hồ ở phía Bắc núi đến mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này: - Một là vua Đế Minh tế trời trên núi Ngũ-lĩnh là nơi ngài gặp tiên, rồi chia địa giới. Nhưng bấy giờ dân chưa đông, mà sông Trường-giang rộng mênh mông, sóng lớn quanh năm, nên vua Nghi chỉ giữ tới Bắc-ngạn mà thôi. Còn vua Kinh-Đương thì sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Động-đình (một tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc gia. - Hai là dân chúng Nam-ngạn Trường-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một khí hậu, phong tục, nên họ theo về Nam, không theo về Bắc, thành thử hồ Động-đình mới thuộc lĩnh địa Việt. Kết luận: Quả có núi Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể núi này đúng là nơi phân chia lãnh thổ Văn-lang và Trung-quốc khi xưa. Ánh sáng đã soi vào nghi vấn huyền thoại. 2. Thiên Đài: Nơi Tế Cáo Của Vua Đế Minh: Tương truyền vua Đế Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế-đương, phân chia lãnh thổ Lĩnh- Bắc tức Trung-quốc, Lĩnh-Nam tức Đại-Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên-đài. Nhưng dãy núi Quế-đương có mấy chục ngọn núi nhỏ, không biết ngọn Thiên-đài là ngọn nào, trên bản đồ không ghi. Sau tôi hỏi thăm dân chúng thì họ chỉ cho tôi thấy núi Thiên-đài nằm gần bên bờ Tương giang. Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179 mét , đỉnh tròn, có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn, nhưng không có tăng ni trụ trì. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói. Lâu ngày chùa không được tu bổ, nên trên mái nhiều chỗ bị vỡ, bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị mòn, nhiều chỗ gần như lủng sâu. Duy nền với cổng bằng đá là còn nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong ra. Bên trong, cột, kèo bằng gỗ đã nứt nẻ khá nhiều. Tại thư viện Hồ-Nam, tôi đã tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết tay như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi: "Thiên Đài Di Sự Lục" Trinh-quán tiến-sĩ Chu-minh-Văn soạn. Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-tông từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh-Mùi (647), nhưng không biết Chu đỗ tiến sĩ năm nào? Tuy sách do Chu-minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này là do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần: Phần của Chu-minh-Văn soạn, phần chép tiếp theo Chu-minh-Văn của một sư ni pháp danh Đàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy (1662-1722). Chu-minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loại văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố, cùng thành ngữ lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh cùng kinh Phật. (Nhân viên quản thủ thư viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông biết rằng tôi chỉ được học những loại văn đó từ hồi sáu bẩy tuổi, thì ông sẽ hết phục!) Tài liệu Chu-minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Đế Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên, sinh ra Lộc-Tục. Vua lập đàn tại núi này tế cáo trời đất, vì vậy đài mang tên Thiên-đài, núi cũng mang tên Thiên-đài-sơn. Mình-Văn còn kể thêm: Cổ thời, trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế-Minh, vua Kinh-Đương. Đến thời Đông Hán. một tướng của vua Bà tên Đào-hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-đương, ông cùng nghìn quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất quyết tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi. Về đời Đường, để xóa vết tích Việt, Hoa cùng Nam, Bắc, các quan lại được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây ngôi chùa tại đây. Tôi biết vua Bà là vua Trưng. Còn tướng Đào-hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-bình vương Đào-Kỳ, tước phong quốc công, giữ chức Hổ-nha đại tướng quân. Bà Hoàng-thiều-Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi khu Trường-sa, hồ Động đình, đã sai Hiển-Hiệu đi cản hậu, đóng nút chận ở Thiên đài, đợi khi quân Lĩnh-Nam rút hết, sẽ rút sau. Nhưng Hiển-Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thơ thời Quốc-tổ, Quốc-mẫu, đã không chịu lui quân, tử chiến, khiến quân Hán chết không biết bao nhiêu mà kể tại đây. Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối: Thoát thân Nam thành xưng sư tổ, Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật-kinh." (Hai câu này ngụ ý ca tụng thái tử Tất-đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi tìm lẽ giải thoát, sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh.) Tam bảo linh ứng phong điều vũ thuận, Phật công hiển hách quốc thái dân an. (Hai câu này ngụ ý nói: Tam bảo linh thiêng, khiến cho gió hòa mưa thuận, đó là công lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an.) Nơi có dấu vết Thiên đài, còn đôi câu đối khắc vào đá: "Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc, Lĩnh-địa niên niên dữ Việt thường." (Nghĩa là: Từ sau vụ tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao thời, phân ra Nam, Bắc. Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với dòng giống Việt-thường.) Chỗ miếu thờ Đào-hiển-Hiệu có đôi câu đối: "Nhất kiếm Nam hồ, kinh Vũ Đế, Thiên đao Bắc lĩnh, trấn Lưu-Long." (Nghĩa là: Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đình làm kinh tâm vua Quang-Vũ nhà Hán, một nghìn đao thủ ở bắc núi Ngũ-lĩnh trấn Lưu-Long.) Kết luận: Như vậy việc vua Đế-Minh tế cáo trời đất là có thực. Vì có Thiên-đài, nên thời Lĩnh-Nam mới có trận đánh hồ Động-đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ lĩnh địa Văn-lang xưa quả tới núi Ngũ-lĩnh, hồ Động-đì 3. Cánh Đồng Tương: Có hai huyền sử nói về cánh đồng Tương: - Một là Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển. Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, mỗi năm tái hội nhau trên cánh đồng Tương một lần. - Hai là Quốc-tổ, Quốc-mẫu truyền các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, mỗi năm hội tại cánh đồng Tương một lần. Tôi đoán: Cả hai vị quốc tổ Kinh-Đương, Lạc Long sau khi kết hôn, đều đem Quốc-mẫu lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đình hưởng thanh phúc ba năm. Vậy thì cánh đồng Tương sẽ gần đâu đó quanh hồ Động-đình. Phía Nam hồ Động-đình là sông Tương-giang, chảy theo hướng Nam-Bắc dài 811 cây số, lưu vực tới 92,500 cây số vuông, chẻ đôi tỉnh Hồ-nam với Quảng-Tây. Vậy cánh đồng Tương sẽ năm trong lưu vực Tương-giang. Tôi thuê thuyền đi từ cảng Dương-lâm nơi phát xuất ra Tương-giang là hồ Động-đình, xuống Nam, qua Tương-âm tôi dừng lại, nghiên cứu địa thế cùng thăm chùa Bạch-mã. Đây là địa phận quận Ích-đương. Vô tình tôi tìm ra một nhánh sông Âu-giang và một cái hồ rất lớn, vào mùa nước lớn rộng tới 4-5 mẫu, vào mùa nước cạn chỉ còn 2-3 mẫu mà thôi. Suốt lộ trình từ hồ Động-đình trở xuống, trên sông Tương cũng như hai bên bờ chim âu bay lượn khắp nơi. Đặc biệt trên Âu-giang, giống chim này càng nhiều vô kể. Từ Âu-giang, tôi trở lại sông Tương, xuôi tới Trường-sa, thủ phủ của Hồ-Nam, rồi tới các quận lî Tương-đàm, Chu-châu, Hành-đương, Quế-đương. Không khó nhọc tôi tìm ra cánh đồng Tương, tức là vùng trũng phía Tây-ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động-đình, Nguyên-giang. Phía Nam là Linh-lăng, Hành-Nam. Phía Tây là vùng Triêu Dương, Lãnh thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác: Tương-giang, Nguyên-giang, Liên-thủy và Thạch-khê-thủy. Sau khi tìm ra cánh đồng Tương, Thiên-đài, cùng những đàn chim âu, tôi giải đoán như thế này: "Quốc-tổ Lạc-Long kết hôn với công chúa con Đế-Lai, hẳn công chúa cũng có tên. Nhưng vì lâu ngày, người ta không nhớ được tên ngài, nên đã lấy con chim Âu, rất hiền hòa, xinh đẹp ở vùng hồ Động-đình, Tương-giang,mà gọi tên là Âu-Cơ (Cơ là bà vợ vua). Vì người ta gọi Quốc-mẫu là Âu Cơ thì họ nghĩ ngay đến Quốc-mẫu sinh con. Quốc-mẫu là chim Âu, thì phải đẻ ra trứng. Còn con số một trăm, là con số triết học Việt-Hoa dùng để chỉ tất cả. Như trăm bệnh là tất cả các bệnh, trăm họ là toàn dân. Trăm con, có nghĩa là tất cả dân trong nước đều là con của Quốc-mẫu." Kết luận: Đã có cánh đồng Tương, thì truyện Quốc-tổ, Quốc-mẫu hẹn mỗi năm hội tại đây một lần là có. Khi sự kiện có núi Ngũ-lĩnh, có Thiên-đài, nay chứng cớ cánh đồng Tương được kiểm điểm, thì lĩnh địa của tộc Việt xưa quả tới hồ Động đình. 4. Hồ Động Đình và Núi Tam Sơn: Hồ Động-đình nằm ở phía Nam sông Trường-giang. Hồ được coi như nới phát tích ra tộc Việt. Địa khu Bắc sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ Bắc, tức đất Kinh-châu thuở xưa. Địa khu phía Nam sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-Nam. Hồ Động-đình nằm trong tỉnh Hồ-Nam. Hồ thông với sông Trường-giang bằng hai con sông. Cho nên người ta coi hồ như nơi chứa nước sông Trường-giang, rồi đổ vào cho Tương-giang. Trên Bắc-ngạn hồ có núi Tam-sơn. Tôi đã lên đây ba lần. Tương truyền các bà Trưng-Nhị, Trần-Năng, Hồ-Đề, Phật-Nguyệt đánh chiếm Trường-sa vào ngày đầu năm, vì vậy tôi cũng tới đây vào dịp này để thấy rõ phong cảnh để còn tả trận đánh trong bộ Cẩm-khê di-hận (6). Hồ rộng 3915 cây số vuông, độ sâu về mùa cạn là 38.5 mét, về mùa nước lớn là 39.20 mét.Tra trong chính sử, thì quả hồ Động-đình thuộc lĩnh địa Văn-lang. Như trên đã nói, triều đại Thần-Nông Bắc đến đời vua Du-Võng thì mất vào năm 2696 trước Tây-lịch, chuyển sang thời đại Hoàng Đế. Sử gia Trung-quốc cho rằng Hoàng-Đế là tổ lập quốc. Nói theo triết học Tây-phương, thì vua Du-Võng từ gốc Thần-Nông thuộc nông nghiệp cư trú trong vùng đồng bằng, ở phương Nam, lấy hỏa làm biểu hiệu nên còn gọi là Viêm-Đế. Còn vua Hoàng-Đế gốc ở dân du mục, săn bắn, từ phương Bắc xuống. Dân du mục nghèo, nhưng giỏi chinh chiến. Dân nông nghiệp giầu nhưng không giỏi võ bị nên bị thua. Bộ Sử-ký của Tư-mã-Thiên, quyển 1, Ngũ đế bản kỷ chép rằng: ...Thời vua Hoàng Đế, họ Thần-Nông (Bắc) đã suy, chư hầu chém giết lẫn nhau, khiến trăm họ khốn khổ vô cùng. Vua Du-Võng không đủ khả năng chinh phục. Vua Hiên-Viên Hoàng Đế thao luyện can qua, chinh phục những chư hầu hung ác. Vì vậy các nơi theo về rất đông. Trong các chư hầu, thì Suy-Vưu mạnh nhất. Vua Du-Võng triều Thần-Nông định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu chỉ tuân lệnh Hoàng Đế. Vua Hoàng Đế tu sửa đức độ, luyện tập binh mã, vỗ về trăm họ, giúp đỡ bốn phương, luyện tập thú dữ rồi đại chiến với vua Du-Võng ở Bản-tuyền, thành công. Suy-Vưu làm loạn, không tuân đế hiệu. Hoàng Đế triệu tập chư hầu, cùng Suy-Vưu đại chiến ở Trác-lộc, bắt sống Suy-Vưu. Chư hầu tôn ngài làm Thiên-tử thay họ Thần-Nông. Trong thiên hạ nơi nào không thuận, vua Hoàng Đế đem quân chinh phạt. Lãnh thổ của Hoàng Đế: Đông tới biển, vùng núi Hoàn-sơn, Đại-tông; phía Tây tới núi Không-động, Kê-đầu; Nam tới Giang, Hùng, Tương... (7) Sông Giang đây tức là sông Trường-giang. Hùng đây là Hùng-nhĩ-sơn, Tương là Tương-sơn. Bùi-Nhân đời Tống tập giải Sử-ký nói rằng Tương-sơn thuộc Trường-sa. Kết luận: Từ chính sử, huyền sử đều cho biết lĩnh địa Văn-lang tới hồ Động-đình. Khi vua Hoàng Đế dứt triều Thần-Nông Bắc, thì triều Thần-Nông Nam tức họ Hồng-bàng còn kéo dài tới 2439 năm nữa. Lĩnh thổ Trung-quốc thời Hoàng Đế cũng chỉ tới sông Trường-giang. Từ Nam bao gồm khu Trường-sa hồ Động đình vẫn thuộc Văn-lang. Khi chính sử ghi chép như vậy, thì việc Quốc-tổ, Quốc-mẫu với hồ Động-đình, núi Tam-sơn, không còn là huyền thoại nữa, mà thành sự thực lịch sử. Vậy truyện các ngài lên núi hưởng thanh phúc nên ghi vào chính sử. 5. Biên Giới Lĩnh Địa Tộc Việt Thế Kỷ Thứ Hai Trước Tây Lịch: Sử Hán- Việt đề đều ghi rằng vào thế kỷ thứ nhì trước Tây-lịch, thời Triệu-Đà cai trị lĩnh địa tộc Việt, biên giới vẫn còn ở vùng Trường-sa, hồ Động-đình. Sử Hán, sử Việt đều chép chi tiết giống nhau về vụ Triệu-Đà lập quốc ở lãnh thổ Lĩnh-Nam. Tần-thủy-Hoàng sai Đồ-Thư mang quân sang đánh Âu-Lạc, chiếm được vùng đất phía Bắc, lập làm ba quận: Nam-hải (Quảng Đông và một phần Phước-kiến), Quế-lâm (Quảng-tây, Hồ-Nam và một phần Quý-châu), Tượng-quận (Vân-Nam và một phần Quý-châu). Vua An-Dương Vương sai Trung-tín hầu Vũ-Bão-Trung và Cao-cảnh hầu Cao-Nỗ đem quân chống, giết được Đồ-Thư, tiêu diệt nửa triệu quân Tần. Tuy vậy vua An-Dương Vương cũng không chiếm lại vùng đất đã mất. Sau nhân thời thế loạn lạc, một viên quan Tần là Triệu-Đà trấn vùng Nam-hải, đem quân chiếm vùng Tượng-quận, Quế-lâm, rồi dùng gián điệp trong vụ án Mî-Châu, Trọng-Thủy mà chiếm được Âu-lạc, lập ra nước Nam-Việt. Lĩnh thổ nước Nam-Việt gồm những vùng nào? Không một sử gia chép rõ ràng. Nhưng cứ những sự kiện lẻ tẻ, ta cũng có thể biết rằng lĩnh địa Nam-Việt là lĩnh địa thời Văn-lang. Trong khi Triệu-Đà lập nghiệp ở phương Nam, thì cuộc nội chiến ở phương Bắc chấm dứt: Hạng-Vũ, Lưu-Bang diệt Tần, rồi Lưu-bang thắng Hạng-Vũ lập ra nhà Hán. Lưu-Bang lên ngôi vua, sai Lục-Giả sang phong chức tước cho Triệu-Đà. Đúng ra Triệu-Đà cũng không chịu thần phục nhà Hán, nhưng họ hàng, thân thuộc, mồ mả của Đà đều ở vùng Chân-Định. Đà sợ nhà Hán tru diệt họ hàng, cùng đào mồ cuốc mả tổ tiên mà phải lùi bước. Năm 183 trước Tây-lịch, Cao-tổ nhà Hán là Lưu-Bang chết, Lã-hậu chuyên quyền, cấm bán hạt giống, thú vật cái, kim khí sang Nam-Việt. Triệu-Đà không thần phục nhà Hán, xưng đế hiệu, rồi đem quân đánh Trường-sa, Nam-quận. Trường-sa là quận biên cương của Hán, vậy ít nhất lãnh thổ Nam-Việt, Bắc tới Trường-sa. Nam-quận là quận ở phía Bắc sông Trường-giang. Mà Nam-quận là quận biên cương Hán, thì biên giới Nam-Việt ít nhất tới Nam ngạn sông Trường-giang. 6. Lĩnh Địa Về Thời Vua Trưng: Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn y khoa nghiên cứu tại các tỉnh cực nam Trung-quốc như Quảng Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-Châu, tôi tìm ra khắp các tỉnh này, không ít thì nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ rằng vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp bốn tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà. Bây giờ tôi lại tìm thấy ở Hồ-Nam nhiều di tích về đạo thờ vua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ, tôi tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật-Nguyệt như sau: "Ngày xưa, Ngọc-Hoàng thượng đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầu. Vì sơ ý, hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-Hoàng thượng đế nổi giận lôi đình, truyền đầy hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày, thì tiên-lại giữ sổ tiên giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa.Ngọc-Hoàng thượng đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-Y đồng tử đầu thai theo để dẹp loạn. Thanh-Y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đi. Ngọc-Hoàng thượng đế truyền Nhị-thập bát tú đầu thai theo. Thanh-Y đồng tử đầu thai, sau là vua Quang-Vũ nhà Hán, Nhị-thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng thời Đông-Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-Chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trưng-Trắc, em là Trưng-Nhị. Lúc Trưng-Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, lớn lên thông minh quán chúng, có sức khỏe bạt sơn cử đỉnh; được gả cho Đặng-thi-Sách. Thi-Sách làm phản, bị thái thú Tô-Định giết chết. Trưng-Trắc cùng em là Trưng-Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận Trung-quốc ở phía nam sông Trường-giang: Cửu-Chân, Nhật-Nam, Giao-Chỉ, Quế-Lâm, Tượng-quận, Nam-Hải. Chư tướng tôn Trưng-Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà. Vua Quang-Vũ nhà Đông-Hán sai Phục-Ba tướng quân Tân-tức hầu, Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu-Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ vương Phật-Nguyệt tổng trấn hồ Động đình. Mã-Viện, Lưu-Long bị bại. Vua Quang-Vũ truyền Nhị-thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật-Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán chết xác lấp sông Trường-giang, hồ Động-đình, oán khí bốc lên đến trời. Ngọc-Hoàng thượng đế sai thiên binh, thiên tướng trợ chiến, cũng bị bại. Ngài phải sai thần Du-Liệt sang Tây-phương cầu cứu Phật Như-Lai. Đức Phật sai mười tám vị Kim-Cương, ba nghìn La-Hán trợ chiến cũng bị bại. Cuối cùng ngài truyền Quan-Thế-Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Thế-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quan-Thế-Âm thuyết pháp, nữ vương Phật-Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu." Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối: Tích trù Động đình uy trấn Hán, Danh lưu thanh sử lực phù Trưng. (Nghĩa là: Một trận Động-đình uy rung Hán tên còn trong sử sức phò Trưng) Như thế, tôi đã tìm ra được: Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của lòng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lãnh thổ cũ của người Việt còn sót lại. Vua Bà, mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng. Kết luận: Quả có nữ vương Phật-Nguyệt đánh trận Trường-sa hồ Động đình. Mà có trận hồ Động-đình thì lãnh thổ thời Lĩnh-Nam quả tới phía Nam sông Trường-giang. Huyền sử nói rằng: Khi bà Trưng-Nhị cùng các tướng Trần-Năng, Hồ-Đề, Phật-Nguyệt, Lại-thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch), thì nữ tướng Trần-thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang (8). Thẩm-giang chính là đoạn sông ngắn ở Bắc tiếp nối với hồ Động-đình. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng: Các sứ thần Lý, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ đến cúng miếu thờ bà Trần-thiếu-Lan. Cho nên năm 1980, tôi đã đến đây tìm hiểu. Không khó nhọc, tôi tìm ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cung cấp, một đoạn chép "Miếu thờ liệt nữ Trần-tiểu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá". Tôi tìm tới nơi thì miếu chỉ còn lại cái nền bằng đá ông, mộ vẫn còn. (9) 7.Nghiên Cứu Những Khai Vật: Vào những năm 1964-1965, giáo sư thạc sĩ luật khoa Vũ-văn-Mẫu đang soạn thảo tài liệu về cổ luật Việt Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến sĩ Nguyễn-sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng với phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu. Tôi với cụ đã giúp giáo sư Mẫu đọc, soán các thư tịch liên quan đến cổ luật. Chính vì vậy tập tài liệu "Cổ-luật Việt-Nam và tư -pháp-sử" có chương mở đầu "Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ-luật Việt-Nam"(10). Bấy giờ tôi còn trẻ, lại không có đủ tài liệu khai quật của Trung-quốc, của Bắc Việt-Nam, nên có nhiều chi tiết sai lầm nhỏ. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến sĩ Nguyễn-sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ-văn-Mẫu, xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các vị sinh viên về những sai lầm đó. Triều đại Hồng-Bàng của tộc Việt xuất phát từ năm 2879 trước Tây-lịch, tương đương với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc Việt, Đông Vân-Nam, Quảng Đông, Hồ-Nam, người ta đều tìm được những chiếc rìu thiết diện hình trái xoan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang lại chỉ tìm được loại rìu thiết diện hình chữ nhật, chứng tỏ vào thời đó, có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau. Sang thời đại văn hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (age du bronze): Trong thời gian này đã tìm được trống đồng Đông-sơn bên bờ sông Mã (Thanh-Hóa) Sự thực trống đồng đã tìm thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-Nam, Quý-Châu, Vân-Nam, Quảng-Đông, Quảng-Tây; Nam-Đương, Lào (13), Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-Đương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc Việt rồi tới Vân-Nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần, gần như giống nhau: Đồng 55%, thiếc 15-16%, chì 17-19%, sắt 4%. Một ít vàng, bạc. Khảo về y phục, mồ mả, cùng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại, cho đến hết thế kỷ thứ 1 sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường-giang cho đến Trung, Bắc-Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Tôi đi đến kết luận: Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động đình, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói. E. Tổng Kết Các bạn đã cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, suy luận để tìm về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trong chính sử Việt đều ghi rõ ràng về nguồn gốc tộc Việt. Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên như Âu Việt, Lạc Việt, Đông Việt, Nam Việt, Việt Thường đều thuộc Bách Việt cả. Cái tên trăm họ, hay trăm Việt (Bách Việt) phát xuất từ huyền thoại nói vua Lạc Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14).Các vị cổ học học sổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trường-giang, lấy mốc là hồ Động-đình, với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 10-14 tuổi, tôi chỉ được học những bài ngắn ngủi và trang về nguồn gốc tộc Việt; trong khi đó gia đình cho tôi đọc những bộ sử dài hàng mấy chục nghìn trang của Hoa, của Việt. (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn, số trang gấp 5-6). Chính tôi cũng nhìn nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học. Phải chờ đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ văn Mẫu thạc sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến sĩ Nguyễn-sĩ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học lối cổ, không biết những phương pháp qui nạp, tổng hợp, nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôi. Ngay lần đầu gặp nhau, một già, một trẻ mà có hai cái nhìn khác biệt. Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi lại có cái nhìn rất trẻ. Tôi mới 25 tuổi lại có cái nhìn rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa Việt đưa ra. Vì vậy tôi đã sưu tầm tất cả những gì trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Vũ-văn-Mẫu đem viết thành tài liệu giảng dạy. Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, vì chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay tôi mới biết là có một vài sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện. - Từ cổ : Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống mãi vịnh Thái-lan. - Sau này tộc Việt, tộc Mã đã giao tiếp với nhau ở vùng Kampuchea, Nam Việt- Nam Tộc Việt hỗn hợp với tộc Ấn ở phía tây Thái-lan.- Giống Thái, một trong Bách-Việt chính là tộc Thái từ Tượng-quận, Bắc Việt di chuyển xuống lập ra nước Lào, nước Thái. - Người Việt từ sông Trường Giang, từ Phúc-kiến di cư xuống Bắc Việt, không có nghĩa ở Bắc Việt không có giống Việt, phải đợi họ di cư xuống mới có. Mà có nghĩa là người Việt di chuyển trong đất Việt.
  7. LỊCH SỬ NƯỚC VĂN LANG Những sự kiện (tiếp theo): - Nước Văn Lang có 15 bộ và có một bộ tên Việt Thường: Ghi nhận Việt Thường trong Lĩnh Nam Chích Quái, sự kiện giao hảo Văn Lang với Trung Quốc thời vua nghiêu - tặng lịch rùa và khi về vua Nghiêu tặng “xe có gắn kim chỉ nam”, trong câu truyện thì Việt Thường là nước Phù Nam cổ (bao gồm Thái Lan, Campuchia ngày nay), tuy nhiên giao hội các sự kiện lịch sử thì đó phải là nước Miến Điện - bộ cuối cùng trong Văn Lang giáp ranh với Băng-la-đét. Trong Lĩnh Nam Chích Quái còn nói đến ranh giới nước Văn Lang qua câu truyện Ấn Độ Mahabrata được định vị trục nam bắc: Ấn Độ - Sri Lanca. Do đó, Việt Thường chắc chắn là Miến Điện, từ đó chúng ta có thể lý giải ý nghĩa chữ “Việt Thường” chính xác, đó là: thường nhiên, thường tại, sự quay trở lại, trở về, mãi mãi là nước Việt, người Việt. Tôi sửa ý nghĩa "xe có gắn chỉ nam" với bản gốc là "xa chỉ nam" - chữ "xa (xe)" ở đây có hình tượng gạch thẳng đứng qua hình chữ nhật, mang ý nghĩa sự ngăn chia, cách chia thể hiện biên giới hai nước, hai vùng... còn "chỉ nam" là chỉ về phương nam, kết hợp lại chính là "biên giới phương nam". - Trống đồng: nếu chúng ta phân tích trống đồng mà tách rời mỗi chiếc thì sẽ không đạt được kết quả, bộ trống Hoàng Hạ và Ngọc Lũ là bộ trống cha mẹ, âm dương cổ nhất còn lại so với trên 3.000 trống có trên thế giới, các trống còn lại là trống con cháu. Chẳng hạn, không thể xác định ý nghĩa chính của 14 cánh sao trên trống Ngọc Lũ và 16 cánh sao trên trống Hoàng Hạ. Trống Hoàng Hạ và trống Ngọc Lũ sẽ có cơ sở xác định được niên đại thời kỳ chế tác trống, muộn nhất là vào thế kỷ X trước Công Nguyên. Trống đồng là một trong những biểu tượng quan trọng của nước Văn Lang, riêng nó là biểu tượng quan trọng được xem là bậc nhất. "Đồng thanh tương ứng, đồng khí lương cầu", mỗi khi tiếng trống vang lên, hay tiến niệm Hindu giáo Aum nổi lên, hoặc tiếng sấm trên bầu trời vang động, tiếng pháo ngày Tết Nguyên đán khoát hoạt... chính là âm thanh trầm hùng của trống đồng Đông Sơn được nối tiếp theo "phân lớp âm dương ngũ hành". "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt": Chỉ khi nào trục thiên cực bắc bị phá hủy, thì nước Văn Lang mới bị diệt, chứ đâu phải cái trụ đồng mấy tạ của Mã Viện. Với những kết luận ở trên, tiến trình lịch sử Văn Lang đã hoàn toàn xác định qua các mốc quan trọng, dĩ nhiên còn nhiều nội dung phân tích khác nữa có liên quan chặt chẽ. Chủ đề "Biên giới phía nam nước Việt cổ - Hồ Tôn Tinh" đã kết thúc, tuy nhiên tôi vẫn duy trì nó, bổ sung những dữ liệu lịch sử do nhiều tác giả đã và đang nghiên cứu, đặc biệt là những bản dịch Sử Ký và các cuốn sách khác của Trung Quốc, nhằm có thêm nguồn tài liệu quý.
  8. Theo nghiên cứu nào mà có các ý kiến nhận xét của các bạn mạng trên một mạng TQ [ club.kdnet/dispbbs…] 现在基因研究也表明,华夏最重要的一支就是经由缅甸再到青藏高原——河西走廊,黄土高原——中原的。Nghiên cứu gen ngày nay đã chứng minh rằng một chi chủ yếu của Hoa Hạ là từ Miến Điện lên cao nguyên Thanh Tạng, đó là hành lang phía tây, cao nguyên hoàng thổ chính là Trung Nguyên. 越南是最正宗的华夏,日本算不上,日本只是旁支. Việt Nam là Hoa Hạ chính tông nhất, Nhật Bản không bì được, Nhật Bản chỉ là chi thứ. (Tổng hợp hai ý kiến trên thì có nghĩa là: Hoa Hạ ở Trung Nguyên hoàng thổ là Hoa Hạ lai Việt, còn chính tông Việt thì là ở Việt Nam ?) Câu hỏi này nếu trả lời thì phải đưa cả lịch sử tiến hóa của nhân loại vào trong sự phân tích tổng hợp với khối lượng rất lớn, tuy nhiên chúng ta cũng sẽ có những nhận xét làm căn bản để lý giải, tất nhiên phải tuân thủ các quy tắc khoa học. - Sự khác phá về các sọ người tiến hóa từ "vượn thông minh" sang "thằng người" ở Châu Phi, Indonesia, Trung Quốc..., từ đó nhận định nhân loại xuất phát từ Châu Phi. - Sự nghiên cứu và tổng hợp các loại sọ người và một số xương xẩu, phân loại được các chủng người và có nhận định các nhóm người trên địa cầu, nhận định về các cuộc di dân. Trong thời gian qua, các nhà khoa học đã khám phá sọ cổ hợp cả châu Phi gây nên tranh luận nguồn gốc đầu tiên không phải châu Phi!. - Tổng hợp các vùng miền lịch sử văn hóa như đã viết ở trên, có nhận định thời vua Hùng và tổ tiên các ngài, nhân loại đang sống ở khắp địa cầu rồi, văn hóa Văn Lang lan truyền và giúp đỡ phát triển mọi mặt. - Nghiên cứ địa chất và khí hậu... giúp nhận định các trận đại hồng thủy, biển lùi biển tiến... - Nghiên cứu tự nhiên Thuyết Tiến Hóa của DacUyn. - Nghiên cứu vũ trụ nhằm nhận định về nguồn gốc vũ trụ và vạn vật. - Nghiên cứu Gene người ngày nay, hiện đại nhất, nhận biết nhóm người liên quan và sự di dân cổ xưa. - Nghiên cứu học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và kinh sách Phật giáo sẽ nhận thức mới về sự tiến hóa của nhân loại qua những quy luật hoàn toàn khác biệt với khoa học hiện đại trong những khái niệm đặc thù. Trên đây là những vấn đề chúng ta phải tổng hợp được để có thể nhận định "con người nguyên thủy đầu tiên" xuất hiện ở châu lục nào, thậm chí cả vùng miền chính xác nào.
  9. LỊCH SỬ NƯỚC VĂN LANG Những sự kiện (tiếp theo): Nơi khởi nguyên đạo Phật Bồ đề đạo tràng được xem là khu thánh địa thiêng liêng bậc nhất trong các thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ và được sự quan tâm với lòng kính trọng đặc biệt đối với Phật tử và các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới. Bồ Đề Đạo Tràng nằm ở phía Nam thành Gaya, nước Ma Kiệt Đà (Magadha) thời Ấn Độ cổ đại, nay là vùng ngoại ô BodhGaya, cách thành phố Gaya khoảng 7 km về phía Nam bang Bihar, cạnh dòng sông Ni Liên Thiền (Niranjara). Vào thế kỷ thứ VI trước kỷ nguyên tây lịch, chính nơi đây đã xảy ra sự kiện trọng đại và chỉ xảy ra một lần duy nhất trong Hiền Kiếp đó là sự giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Thái Tử Sĩ Đạt Ta (Siddhāttha) dòng họ Thích Ca (Sakyā), dưới cội cây Pippala, hay còn được gọi là cây Bồ Đề, sau 49 ngày thiền định. Từ sự kiện trọng đại nhất mà trải qua nhiều đại kiếp mới xuất hiện trên thế gian, quý giá gấp trăm ngàn lần so với loài hoa linh thoại ngàn năm trổ hoa một lần, đó là người con Phật chúng ta có được diễm phúc tôn thờ đấng đại giác Thích Ca Mâu Ni nói riêng hay nhân loại thừa hưởng được một chân lý tuyệt vời, một niềm phúc lạc vô biên ngay tại cõi đời này nói chung. Giá trị nhất trong khu thánh địa này chính là ngôi Đại Tháp và cội cây Bồ Đề thiêng, nơi đức Phật thành đạo vẫn còn tồn tại mãi theo dòng chảy thời gian. Cho dù cuộc đời có đổi thay bao lần, sự cố tình tàn phá của những kẻ đối nghịch, sự biến thiên thăng trầm trong vũ trụ, thì những gì liên quan đến cuộc đời đức Phật vẫn còn lý do để tồn tại, để được biết đến như một báu vật trong tiến trình phát triển văn minh và văn hoá nhân loại. Vào ngày 27-6-2003, UNESCO, một tổ chức văn hoá, xã hội, giáo dục của liên hiệp quốc chính thức công nhận Bồ Đề Đạo Tràng trong danh sách di tích văn hoá thế giới. Mặc dù đó cũng là niềm vinh dự lớn lao nhưng không là vấn đề quan trọng mà quan trọng nhất là chân giá trị Phật giáo, đạo Phật đã đóng góp được gì cho thế giới cho nền văn minh nhân loại, cho hạnh phúc của con người thì sự công nhận muộn màng đó có nghĩa lý gì đối với bề dày lịch sử của Phật giáo chúng ta! Hiện nay, khu Bồ Đề Đạo Tràng có diện tích khoảng 3ha đất, bao gồm nhiều thánh tích quan trọng như tháp Đại Giác, cội Bồ Đề, Bảo Toà Kim Cương, bảy nơi đức Phật ngự sau khi thành đạo, quần thể tháp cổ..... Và dường như Bồ Đề Đạo Tràng khu là thánh tích còn nguyên vẹn nhất so với tất cả những thánh tích khác liên quan đến Phật giáo. Truyền thuyết Phạt Thích Ca Mâu Ni đắc đạo dưới cội Bồ Đề được xây dựng bởi người Việt để lại cho hậu thế, nếu chúng ta biết được lịch sử Văn Lang chính là lịch sử Phật giáo (chuyển tiếp của Thần Đạo): - Cây Bồ Đề: cùng họ Cây Đa - Tam Đa Phúc - Lộc - Thọ: Đế Minh - Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân. Tây Du Ký viết Tôn Ngộ Không học 72 phép biến hóa từ Bồ Đề Tổ Sư trước khi có khả năng "quậy phá", đánh đến tận điện Linh Tiêu trên Trời, khiến Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng phải trốn nấp dưới ngai vàng. - 49 ngày: cũng là số ngày cúng tế của một con người sau khi mất, con số này chỉ duy nhất có ở Văn Lang mà thôi. Nó mang ý nghĩa khi "đắc đạo", chúng ta có những khả năng như điều động linh hồn tách rời thân xác và đi chu du bốn biển năm châu một cách dễ dàng, vô giới hạn về không thời gian. - Thế giới: các dân tộc khác cũng có thời gian tang ma nhưng không đúng con số 7x7 của Văn Lang. Ai Cập cũng tôn sùng cây Đa, Đề, Sung, Si, y như nước ta vậy, chẳng hạn đối với họ khi cầu con cái họ thường xin Cây Sung vì nó có vô số quả. Nếu chúng ta đi sâu vào tìm hiều văn hóa Ai Cập thì Cây Sung Ai Cập là biểu tượng cho nữ thần cho con Isis - Quan Âm Bồ Tát (Quan Âm Tống Tử) - Mẫu Âu Cơ Văn Lang. Cho nên, Pharaoh đã tạc con Sư Tử ở trước Kim Tự Tháp Kheops hướng về Đông tức là về Phong Châu - kinh đô Văn Lang (chứng minh phức tạp lắm, tùy duyên). Hoa Ưu đàm ba la: chỉ duy nhất viết trong kinh Phật, chưa ai thấy cả, sau 2.500 năm mới trổ hoa một lần, trong 12 năm qua (1 giáp) nó nở khắp nơi trên thế giới mà người ta lại "biết" - do cảm ứng. Khi xuất hiện, thì một vị Chuyển Luân Thánh Vương ra đời.
  10. LỊCH SỬ NƯỚC VĂN LANG Những sự kiện (tiếp theo): Như đã viết, lịch sử Văn Lang chính là lịch sử 5 Đạo giáo thời kỳ này, đồng thời cũng là phát tích các tôn giáo trên thế giới. Lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng Văn Lang đã bao phủ toàn bộ trái đất này, nếu không cho là quá đáng, chiếm tỷ trọng ít nhất 60% toàn bộ các nền văn minh trên thế giới thời cổ đại và kéo dài tới nay, và cho mãi mai sau. Chúng ta cần phải phân tích lại nguồn gốc của Phật giáo, kể từ thời Phật Thích Ca Mâu Ni đắc đạo để làm rõ cổ sử Văn Lang. Theo các nhà nghiên cứu, cho tới nay vẫn chưa thống nhất nguồn gốc kinh sách của Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cương Thừa, một số cho rằng đã có trước thời Phật Thích Ca (xa nhất khoảng 624 tr.CN), một số lại cho rằng từ Phật Thích Ca mà ra, sau được tổng kiết tập lần thứ nhất sau khi ngài nhập niết bàn không lâu. Trong kinh sách Tiểu Thừa ghi nhận có 5 vị cổ Phật và nhiều vị Bồ Tát trước Phật Thích Ca, đồng thời Các bản Gia phả Hùng Vương cũng ghi nhận những sự kiện ngài qua Văn Lang tại Hà Tây, Hà Nội, Việt Nam ngày nay học đạo, rồi đắc đạo cho đem kinh sách Phật giáo từ nơi đây về trước. Qua việc xác định biên giới nước Văn Lang tới Miến Điện, thì rõ ràng việc Phật Thích Ca “bước qua” nước Văn Lang quả thật là rất gần, đây là một khả năng. Ngày nay, tại Miến Điện còn lưu trữ lại những thông tin quý báu về các vị cổ Phật, đặc biệt ở ngôi chùa nổi tiếng Ananda và chùa Vàng, điều này chứng tỏ có những điểm khác biệt trong thờ tự của Phật giáo. Truyền thuyết của Nêpan nơi đản sinh Phật Thích Ca cho rằng, nước này được lập bởi Bồ Tát Phổ Hiền, tuy nhiên ta đã biết ranh giới Văn Lang chỉ tới Miến Điện là hết. Đồng thời, Tây Tạng cũng cho rằng nước họ có tổ tiên là Quan Âm Bồ Tát, một trong những truyền thuyết kỳ lạ còn sót lại, không chỉ vậy, Tây Tạng là quốc gia được lập bởi “đất bùn của những con Dê” tức Dương - Mặt Trời - Đại Nhật Phật trong Kim Cương Thừa ở Tây Tạng. Việc khai quật di chỉ mohejo-daro của Ấn Độ làm phát lộ các cổ vật thời kỳ sớm nhất khoảng 2300 tr.CN về các tượng thần Shiva, Brahma tọa thiền… chứng tỏ tôn giáo thờ Thần đã có trước Phật giáo thời kỳ Phật Thích Ca rất xa, mà chúng ta cũng đã biết Tam vị nhất thể Shiva, Vishnu, Brahma chính là Tam Dương hay Tam Đa Đế Minh, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, cho nên khả năng có sự chuyển đổi từ Thần giáo (kể cả Hindu giáo) chuyển sang Phật giáo. Chưa kể, lịch sử tín ngưỡng thờ thần của vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy La… Sự kiện Bồ Tát Vô Trước (thế kỷ thứ IV) lên cung trời Đâu Suất học Duy Thức từ Bồ Tát Di Lạc, được ngài đọc cho ghi 100 quyển Du già địa sư luận chứng tỏ kinh sách Phật giáo vẫn có thể ra đời sau thời Phật Thích Ca (ông dùng phép xuất hồn - một trong những phép thần thông của Phật giáo). Trống đồng cha mẹ Hoàng Hạ - Ngọc Lũ ghi chép trò chơi Trồng nụ trồng hoa của các bé gái với nội dung bài hát trong trò chơi về ngày mùng 8 táng 4 đản sinh Phật, đã khẳng định thời kỳ chế tác trống đồng trên là đã có Phật giáo (ít nhất thế kỷ thứ VII tr.CN, theo phân tích ý nghĩa hoa văn nó có niên đại ít nhất thế kỷ thứ X tr.CN và cùng thời với trống đồng thời Thương muộn, chế tác tại Hồ Nam, Trung Quốc). Bồ Tát Từ Đạo Hạnh ghi nhận trong trò chơi Rối Nước: “Đám rước kiệu đi thần về Phật” là ý nói “một số các vị Thần trong Thần Đạo khi phân tích sẽ chính là các vị Phật”. Một di tích quan trọng là đại bảo tháp Sanchi ở Ấn Độ (thế kỷ III tr.CN) thời vua Asoka, còn lưu giữ những mật ngữ về Phật giáo và thuyết Âm Dương Ngũ Hành, minh chứng cho lịch sử Phật giáo và học thuyết trên vào thời kỳ này. Trên đây chỉ một vài chứng tích và chứng cứ về lịch sử Phật giáo còn chưa được rõ ràng với các câu hỏi. Dưới đây là một mật ngữ siêu đẳng về sự truyền y bát trong Phật giáo đối với công cuộc “Chuyển Pháp Luân”, nếu không nắm rõ thì cũng không giải được Việt cổ sử: - Kinh Dương Vương - Đại Nhật Phật (Chuyển Thánh Luân Vương): Nhất kỳ phổ độ. - Phật Thích Ca Mâu Ni (Chuyển Luân Vương): Nhị kỳ phổ độ. - Lạc Long Quân - Phật Vương Di Lạc (Chuyển Thánh Luân Vương): Tam kỳ phổ độ, lần cuối cùng “Chân Lý” sẽ xuất hiện và sẽ tồn tại trong 70.000 năm nữa kể từ Năm chuyển thế 2012.
  11. LỊCH SỬ NƯỚC VĂN LANG Những sự kiện (tiếp theo): - Hồng Bàng Thị: như bác Lãn Miên đã phân tích trong các bài viết Tiếng Việt, tuy nhiên chữ “hồng” còn có ý nghĩa là lũ lụt tức “nạn hồng thủy” – ý nghĩa này được giả thích trong Tùy Đường Diễn nghĩa của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, mặt khác chữ “hồng” cũng là biểu tượng của vua Kinh Dương Vương “chim hồng” loài chim bay cao và xa nhất, có thể vượt hàng ngàn km không ngừng nghỉ. Từ những mật mã hoa mai, chúng ta triển khai phân loại âm dương ngũ hành cho các loài chim kiếm ăn dưới nước: Phương đông (mộc, hồng hạc) -> phương nam (hỏa, cò trắng) -> trung tâm (thổ, bồ nông) -> phương tây (kim, vạc xám) -> phương bắc (thủy, cốc đế). Mật mã này để giải mã tất cả các trống đồng Đông Sơn, đặc biệt là bộ trống đồng bố mẹ (trống đồng âm dương) Hoàng Hạ - Ngọc Lũ. - Xích Quỷ: tên nước thời vua Kinh Dương Vương, chữ “Quỷ” gồm 3 chữ “Vương” cho nên Xích Quỷ nghĩa là “Ba mặt trời” hay Tam Dương. Trong bức tranh Tam Dương Khai Thái và Tam Đa sẽ lý giải được Tam Dương chính là: Đế Minh (thần Shiva trong Đạo Hindu), Kinh Dương Vương (thần Vishnu) và Lạc Long Quân (thần Brahma). - Nước Văn Lang có 15 bộ và có một bộ tên Việt Thường: Ghi nhận Việt Thường trong Lĩnh Nam Chích Quái, sự kiện giao hảo Văn Lang với Trung Quốc thời vua nghiêu - tặng lịch rùa và khi về vua Nghiêu tặng “xe có gắn kim chỉ nam”, trong câu truyện thì Việt Thường là nước Phù Nam cổ (bao gồm Thái Lan, Campuchia ngày nay), tuy nhiên giao hội các sự kiện lịch sử thì đó phải là nước Miến Điện - bộ cuối cùng trong Văn Lang giáp ranh với Băng-la-đét. Trong Lĩnh Nam Chích Quái còn nói đến ranh giới nước Văn Lang qua câu truyện Ấn Độ Mahabrata được định vị trục nam bắc: Ấn Độ - Sri Lanca. Do đó, Việt Thường chắc chắn là Miến Điện, từ đó chúng ta có thể lý giải ý nghĩa chữ “Việt Thường” chính xác, đó là: thường nhiên, thường tại, sự quay trở lại, trở về, mãi mãi là nước Việt, người Việt. - 15 bộ Văn Lang chính là chòm sao Thiên Long ứng với 14 ngôi sao tạo nên chòm sao này, còn bộ Phong Châu trung tâm hay bộ Gió (bộ Vô Hình) nằm ở đầu não của chòm sao Thiên Long. Từ đó, chúng ta mới hiểu tại sao câu truyện Văn Lang tặng vua Nghiêu “lịch rùa” tức thời gian này đang trong chòm sao thiên cực bắc Thiên Long. - Giao Chỉ: đàn Nam Giao tế Trời Đất, chữ thập (số 10) chính trục Càn Khôn trên Hậu Thiên Bát Quái, chỉ chòm sao thiên cực bắc Tiểu Hùng. - Sự kiện Đế Minh nhân đi tuần thú phương nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vũ Tiên, sinh ra Lộc Tục (Kinh Dương Vương): trong Mật mã hoa mai thứ nhất về Ngũ Đế ở phương bắc hành thủy, còn Mật mã hoa mai thứ ba về 5 tôn giáo Văn Lang ở phương nam hành hỏa, lấy chính là sự chuyển đổi từ Tổ Tông -> Đạo giáo ứng từ bắc -> nam. - Tản Viên Sơn Thánh: thời vua Hùng thứ 18 - Hùng Duệ Vương 107, là vị tướng và quân sư lỗi lạc, tài ba đã tư vấn cho vua Hùng truyền ngôi cho vua An Dương Vương “tùy thời biến dịch”. Vua An Dương Vương lập lời thề chém vào đá trên đỉnh Nghĩa Lĩnh (ghi nhận trong Tam Quốc Chí, thần tích và truyền thuyết). - Chử Đồng Tử Đạo Tổ: thời vua Hùng thứ ba đầu tiên tức Hùng Quốc Vương, đã giải rồi và từ đó, chúng ta hiểu được câu truyện Lão Tử hóa hồ tức Đạo Tiên đã truyền sang phương tây thời kỳ này, hoàn toàn phù hợp tôn giáo thờ thần Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ… Nhưng Lão Tử hay Chử Đồng Tử lại không xuất hiện trong các nhân vật thần thoại ở các vùng này. - Sự tích dưa hấu: đã giải mã, ranh giới đông bắc của nước Đại Hòa thời vua Đế Minh tức Nhật Bản ngày nay, sau này Phật Hoàng Trần Nhân Tông cũng mã hóa nền văn hóa Nhật Bản trong bộ bài Tam Cúc. - Tổ Quốc hay Quốc Tổ: cấu trúc “nội Công ngoại Quốc” của một ngôi chùa tức Âu Cơ - Quan Âm Bồ Tát và Lạc Long Quân - Di Lạc Bồ Tát -> có con là Hùng Quốc Vương đặt tên nước Văn Lang (tranh chim công Đông Hồ tức tranh Cao Quý Đồ Quan, Khổng Tước Minh Vương Kinh). Cho nên, vua Lạc Long Quân và mẫu Âu Cơ được gọi là Quốc Tổ chứ không phải Hùng Quốc Vương hay Kinh Dương Vương, các vị này ở vai trò đặc biệt khác trong cấu trúc tín ngưỡng trên thế giới trong đó, vua Kinh Dương Vương là Ông Tổ của các Tôn giáo. - Ngày giỗ Tổ Hùng Vương tức là tổ của các vua Hùng tính từ vua An Dương Vương, Vua Kinh Dương Vương được suy tôn là Thần Mặt Trời - Đại Nhật Phật - Ngọc Hoàng Thượng Đế - Ông Trời trong dân gian, ngày 8 tháng 3 âm lịch, 8 và 3 chính là độ số hành Mộc (cung Cấn, Chấn) trên Hậu Thiên Bát Quái - Hà Đồ, cách sử dụng các độ số này được dùng như mộ quy tắc thời gian của những ngày đại lễ trong lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng Văn Lang. Ngày này sẽ kết hợp với ngày Tết Thanh Minh mùng 3 tháng 3 chính là Tây Vương Mẫu - Phật Bà Nghìn Mắt Nghìn Tay - Mẫu Thượng Ngàn - Bà chúa Tằm - Thái Dương Thần Nữ, số 3 trùng cũng độ số cung Chấn, ngày này gọi là ngày Tết Thanh Minh (gọi tên chính xác là ngày Tết Phụ Nữ) thời Hùng Vương với tục làm bánh trôi bánh chay. Đền Hùng với Đền Thượng, Đền Trung và Đền Hạ đã được giải mã, một số hiệu chỉnh cũng sẽ được bổ sung sau, tuy nhiên ngày giỗ Tổ Hùng Vương tức giỗ chung cho các vua Hùng và tổ tiên các ngài, hay tổ tiên dân tộc Việt nước Đại Hòa. Ngày này được phân biệt với ngày Tết Nguyên Đán - Tết Nhân Loại và Vũ Trụ.
  12. LỊCH SỬ NƯỚC VĂN LANG Những sự kiện: - Chia đôi nước lập lời thề trên núi Thiên Đài, Hồ Nam: bắc sông Dương Tử do Đế Nghi cai quản và nam sông Dương Tử do Lộc Tục Kinh Dương Vương quản lý. Sau khi phân chia, vua Đế Minh ở nam Dương Tử giúp vua Kinh Dương Vương trong vòng 9 năm ổn định nước Văn Lang (___Nguyễn Bá Trạc và kết quả điền dã của bác sỹ Trần Đại Sỹ trong bài viết__). - Tên nước chung trước khi phân chia vào thời vua Đế Minh được khắc trên chiếc đỉnh đồng Tư Mẫu Hậu thời nhà Thương - vua Vũ Đinh (khoảng 1200 tr.CN): Đại Hòa, cái tên này cũng tồn tại trong câu truyện Giấc mộng Nam Kha. Tên nước thời vua Phục Hy là Cực Lạc - được chép trong gia phả vua Hùng, sự kiện này liên kết đến câu Truyện bà Hoa Tư sinh ông Phục Hy. Tên Đại Hòa sau này nước Nhật có thời lấy lại tên này. - Vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, được hiểu là cháu ruột của vua Thần Nông, Thần Nông -> Đế Thừa -> Đế Minh là 3 đời, còn Đế Tiết là anh ruột của vua Đế Thừa. - Các đời trước vua Đế Minh và đời sau tính tới thời Hùng Quốc Vương: + Hòa Hy (0) -> Phục Hy (mộc) -> Thần Nông (hỏa) -> Đế Tiết (thổ) -> Đế Thừa (kim) -> Đế Minh (thủy): Quy tắc Ngũ Hành hay còn gọi là “Mật mã hoa mai” theo Hậu Thiên Bát Quái - Hà Đồ, quy tắc này được sử dụng thường xuyên để giải mã lịch sử Văn Lang (Các bản Ngọc phả Hùng Vương, tranh thờ Đạo giáo miền bắc Việt Nam, tranh dân gian Hàng Trống, Sử ký, Kinh Thư, Xuân thu tả truyện, truyền thuyết bà Hoa Tư, sự tích ông Bàn Cổ, bà Nữ Oa…). Tính trung bình cho mỗi đời thời kỳ này thì vào thời vua Hòa Hy có niên đại ước khoảng 5130 năm trước (3130 trCN). Trong đó, gia phả chép rằng vua Đế Nghi là em ruột song sinh với vua Đế Minh, Đế Nghi sinh ra Đế Lai, Đế Lai sinh bà Âu Cơ, Âu Cơ lấy Sùng Lãm Lạc Long Quân sinh ra Hùng Quốc Vương. Hai anh em song sinh vua Đế Minh còn một người em trai là Nguyễn Nghi Nhân, ông không làm vua xứ nào cả, mà tu luyện đắc đạo, nhân dân suy tôn hiệu Thái Thượng Lão Quân - ông tổ của Đạo giáo. + Sự kiện con vua Kinh Dương Vương và Long Nữ là Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, tức hai anh em con chú bác lấy nhau, điều này giải thích tại sao các truyền thuyết trên thế giới hầu hết nói về tổ tiên nhân loại là hai anh em ruột lấy nhau sau trận đại hồng thủy. - Tam Hoàng Ngũ Đế: là 5 vị từ Phục Hy, Thần Nông, Đế Tiết, Đế Thừa, Đế Minh và 3 vị Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Hùng Quốc Vương. - Bắc Dương Tử do vua Đế Nghi cai quản: tiếp nối triều đại Đế nghi - Đế Lai - Đế Chuyên Húc - Đế Cốc - Đế Chí… kéo dài cho tới hậu duệ là vua Nghiêu khoảng 530 năm (tham khảo chính Các bản Ngọc phả Hùng Vương, Sử ký, Xuân thu tả truyện, Hoài Nam Tử liệt truyện, Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta, Kinh Thư, Đại Việt sử ký toàn thư, Hán thư địa lý chí…). Sau Nghiêu truyền cho Thuấn, Thuấn truyền cho Vũ: Đây có thể được xem là Tam Hoàng Ngũ Đế của bắc Dương Tử, nhưng bản chất chính vẫn là Tam Hoàng Ngũ Đế nam Dương Tử bởi vì vua Kinh Dương Vương được tôn suy là thần Mặt Trời - Ngọc Hoàng Thượng Đế. - “Mật mã hoa mai thứ hai” theo Hậu Thiên Bát Quái - Hà Đồ: Kinh Dương Vương (mộc) -> Đế Minh (hỏa) -> Thần Nông (Thổ) -> Hùng Quốc Vương (Kim) -> Lạc Long Quân (thủy). Mật mã này được dùng hầu hết trong lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng. - Vua Kinh Dương Vương lên ngôi năm Nhâm Tuất 2879 tr.CN - năm này được lấy làm mốc chuẩn thời gian cho toàn thế giới, bởi ngài được tôn sung trên toàn thế giới (cần phản nghiên cứu và phân tích lịch sử văn hóa, tính ngưỡng của Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy La, Ấn Độ, Maya… rồi sau đó đối chiếu, giao hội, quy nạp rất phức tạp). - Có 18 đời Hùng Vương, trong đó Kinh Dương Vương là vua Hùng thứ nhất của đời thứ nhất, Lạc Long Quân là vua Hùng đời thứ hai, Hùng Quốc Vương là vua Hùng thứ ba và Sơn Tinh tức Hùng Hoa Vương là vua Hùng đời thứ tư. Tổng số 18 đời có 108 vị vua, vua An Dương Vương là vị vua cuối cùng tức vua Hùng thứ 108. - Số lượng các vua Hùng từ đời thứ 1 tới đời thứ 5: lưu trữ qua mật mã trên các bức tranh thờ Đạo giáo của các dân tộc miền Bắc Việt Nam, dân tộc Choang Quảng Tây… (còn gọi là Âu Việt). - Số lượng các vua Hùng từ đời thứ 6 tới đời thứ 18: lưu trữ qua Các bản Ngọc phả Hùng Vương (còn gọi là Lạc Việt), tuy nhiên vị trí vua An Dương Vương phải giải mật ngữ, chẳng hạn cần phải sử dụng con số 108 của kinh sách Phật giáo như 108 tiếng chuông chùa đánh lên vào đêm Giao thừa, 108 hạt bồ đề trong một chuỗi hạt. Số vị vua trong đời vua Hùng thứ 17, 18 ngay cả trong Ngọc phả Hùng Vương cũng không rõ ràng, do vậy cần sử dụng các thông tin tâm linh khác nữa, ghi nhận trong website: kynguyentamlinh.com. - Vua An Dương Vương thuộc bộ Vân Nam, để làm vua Văn Lang rõ ràng, ngài phải lấy một công chúa con vua Hùng thứ 18, sinh con gái đó chính là Mỵ Châu. Ngài tổ chức xây thành Cổ Loa - hộ thành cho kinh thành Bạch Long (đảo Bạch Long Vĩ tức đuôi Rồng Trắng) tức Thăng Long Hà Nội ngày nay. Thành Bạch Long (tôi đã phân tích nhiều, đây cũng chính là kinh đô Văn Lang, đồng thời cũng là kinh đô thời vua Đế Minh cho toàn bộ bắc và nam Dương Tử. Kinh thành Bạch Long ngoài dữ kiện lịch sử còn phải đối chiếu thiên văn Đông phương qua Tử Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên: đây gọi là “tại Thiên chiếu Địa” (tham khảo Thiên văn Đông phương, logic được những sự kiện Thánh Gióng đánh giặc Ân, An Dương Vương từ Vân Nam tiếp nối hùng Vương 18 (vị vua Hùng 107) chống Tần, xây thành Cổ Loa, xây dựng một nền văn hóa đồ đồng Điền rực rỡ, giao quyền cho các bộ Văn Lang qua trống đồng như cho Indonesia…, Tam Quốc Chí, Sử ký, Tả truyện, Thủy kinh chú, Đại Việt sử ký toàn thư, Kinh Thư, Lịch sử Trung Quốc, Lịch sử văn hóa Trung Quốc, Lĩnh Nam chích quái, Lĩnh Nam dật sử, Đông Chu liệt quốc, cổ vật khai quật Việt Nam và Trung Quốc, trống đồng Cổ Loa…) - Giặc Ân tấn công Văn Lang thời Hùng Vương 6, khoảng thế kỷ thứ XVII tr.CN, lúc nhà Ân hùng mạnh nhất thay thế nhà Hạ, Văn Lang mất 3 tỉnh Chiết Giang, Hồ Nam và Giang Tây, dĩ nhiên vua Hùng thứ 6 không lấy lại là có lý do của nó. Sau này, đến thời Vũ Đinh (cùng vợ là nữ tướng Phụ Hảo) phát triển mạnh về vũ khí, quân sự có tổ chức tấn công ra các vùng xung quanh của Văn Lang như Quý Châu nhưng thất bại. Thời kỳ này, 3 tỉnh Chiết Giang, Hồ Nam và Giang Tây đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Thương muộn qua các cổ vật đồ đồng xanh. Lịch sử chiến tranh với Ân không chỉ qua truyền thuyết Thánh Gióng, mà còn nhiều di tích lịch sử khác còn tồn tại đến ngày nay. Bộ Vũ Ninh nay còn tên gọi ở tỉnh Giang Tây - nơi yết hầu giữa bắc nam Ngũ Lĩnh, mà chúng ta còn thấy sau này quân Tần tấn công qua nẻo vào Nam Việt này rất nhanh). Tỉnh Quý Châu có tên là Quỷ Đỏ (Guizhou). Chính thời kỳ này, vua Hùng thứ 6-7 (cuối 6 đầu 7) tức Lang Liêu ngoài bánh Chưng bánh Dầy đã mã hóa toàn bộ các phương pháp tính toán Âm dương ngũ hành như phong thủy, tử vi, thái ất, kinh dịch… sai lệch độ số Tốn Khôn, lưu trữ số liệu các đời vua Hùng từ thứ 1 đến thứ 5 trong tranh thờ Đạo giáo miền Bắc Việt Nam và Quảng Tây (Âu Việt). Toàn bộ tổ tiên các vua Hùng lưu trữ qua tranh thờ Đạo Mẫu hàng Trống và tranh Đông Hồ nữa, bức giá thánh vua Lạc Long Quân ở đền Bình Đã, Hà Tây cũng là một bản lịch sử thời Hùng Vương, được chế tác vào thời Lý. - Hạ Vũ lấy vợ Đồ Sơn Thị: Cha vua Hạ Vũ là ông Cổn không hoàn thành nhiệm vụ ngăn lũ, dẫn thủy nhập điền bị xử chết, Hạ Vũ thay thế nhưng chắc chắn là chưa có kinh nghiệm cho nên đã sang Văn Lang học hỏi, cùng đi với các chư hầu bấy giờ. Sau lấy vợ Đồ Sơn, Hải Phòng tức câu truyện Tấm Cám (bà Tấm), tích này còn ghi nhận trong sách Bát Tiên Quá Hải và Tây Du Ký, Kinh Thư, Sử ký… Trong lịch sử Việt Nam, có truyền thuyết và đền Bà Tấm là hoàng hậu Ỷ Lan nhưng đây là mật ngữ thời Lý với các vị vua Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông, Bồ Tát Nguyễn Minh Không, Từ Đạo Hạnh,… cho con cháu tìm về câu truyện Tấm Cám, bởi câu truyện này có trước thời Lý rất xa, phổ biến tương tự cả ở nam Trung Quốc chứ không riêng Việt Nam (phải liên kết cả các nội dung văn bia thời Lý, Trần bởi thời kỳ này các tác giã mã hóa lịch sử trong các câu truyện Phong thần, Tam quốc chí, Thủy hử, Bát tiên quá hải, Tây du ký, Lĩnh Nam dật sử, Tùy Đường diễn nghĩa, rối nước…). - Triệu Vũ Đế: Lập nước Nam Việt, truyền ngôi 5 đời, ngôi mộ của Triệu Văn Đế được phát lộ ở Quảng Đông là một chứng tích cực kỳ quan trọng giúp hiểu rõ văn hóa vật chất thời kỳ này. Vua An Dương Vương gả công chúa Mỵ Châu cho Trọng Thủy là để thống nhất lại Văn Lang, tránh chiến tranh. Sử Trung Quốc chỉ chép con vua Triệu Đà là “Thủy” chứ không phải “Trọng Thủy”, chữ “Trọng” được thêm vào là mật ngữ của truyện Tam quốc chí - Lý Ông Trọng, có 2 người vợ,có lẽ người vợ thứ hai là công chúa Tần bởi có tích ông qua Tần chống Hung Nô và được gả công chúa. Trọng Thủy và Mỵ Châu có một con trai chính là Triệu Văn Đế ở trên. Tại sao Trọng Thủy trở thành Lý Ông Trọng, bởi vì mật ngữ vua An Dương Vương mang dòng họ Lý ở Vân Nam, 1.000 năm sau chúng ta còn thấy nước Đại Lý ở Vân Nam (Tam quốc chí, đền Lý Ông Trọng, Sử ký, đền Đồng Xâm, Lĩnh Nam dật sử, Thiên Nam ngữ lục, Thủy kinh chú, Hoài Nam Tử liệt truyện…). - Gia phả Hùng Vương ghi nhận có 113 chiếc ấn đang được chôn cất và bảo vệ, bao gồm 5 chiếc ấn thời nhà Triệu và 108 ấn của các vua Hùng, chứng tỏ con số 108 vua Hùng là chính xác. - Biên giới Văn Lang: dòng Dương Tử được ngăn chia, châu Kinh và châu Dương trong Kinh Thư và Thượng Thư chính là Kinh Dương Vương “nam Dương Tử Bách Việt ở”. Sử Trung Quốc sau này ghi nhận một phần đất thời Xuân Thu Chiến Quốc lấn qua nam Dương Tử vì thời Ân, Văn Lang không tấn công lấy lại những vùng này: Giang Tây, Hồ Nam và Chiết Giang. Đến thời Chu chúng được phân phong cho con cháu. - Phía nam Việt Nam ngày nay là các nước Đông Nam Á, họ chính là các bộ của Văn Lang, bởi vì biểu tượng quyền lực là trống đồng bao phủ ở đây, ngoại trừ Philippin vì cho tới thời vua An Dương Vương, ít người sinh sống và thường xuyên đối diện bão lũ. Không chỉ trống đồng, các quy tắc xã hội và phong tục tập quán khác cũng được áp dụng chung cho các bộ mà còn thấy như tục ăn trầu, xăm mình, tính ngưỡng thờ thần, lễ hạ điền, tục đám cưới trầu cau, thuyến âm dương ngũ hành cũng tồn tại ở các nơi này… Đặc biệt, bộ trống âm dương ở Indonesia là Selayar và Sangeang chỉ thua kém bộ trống Hoàng Hạ - Ngọc Lũ và Sông Đà, Cổ Loa mà thôi (cần phải xem các bài viết quý giá của tác giả Nguyễn Xuân Quang bacsinguyenxuanquang.wordpress.com). Ranh giới phía nam Văn Lang tới Băng-la-đét là dừng (Lĩnh Nam Chích quái, trống đồng, thạp đồng, giáo đồng…). - Phía thượng nguồn sông Dương Tử và sông Hồng: ranh giới Văn Lang vùng này rất mù mờ, cần đối chiếu lịch sử Tây Tạng và truyền thuyết núi Côn Lôn của Ngọc Hoàng Thượng Đế - Kinh Dương Vương. Sau này, thành Cổ Loa thời vua An Dương Vương còn gọi là thành Côn Lôn. Đồng thời, giải mã kinh sách Phật giáo ranh giới này gọi là biểu tượng “Tam giác trí ấn” trong Thai tạng giới của Mật Tông Phật giáo. Dĩ nhiên, còn mật mã khác đó là chữ Rìu Việt - bản đồ Văn Lang cổ đại. Chữ Việt bộ Mễ thể hiện cái cối xay lúa Việt, nền nông nghiệp lúa nước và chữ Việt bộ Tẩu thể hiện con thuyền Bát nhã đưa người từ sông mê bến lú sang bờ bến giác ngộ. Cho nên, lịch sử Văn Lang là lịch sử Phật giáo, để giải nó cần phải sử dụng “Mật mã hoa mai” thứ ba, liên kết toàn bộ 5 tông giáo Văn Lang bao gồm Đạo Mẫu, Thần đạo (Phật giáo), Đạo giáo, Nho giáo, Đạo Tổ Tông: Phương Đông (Thần đạo sao chuyển thành Phật giáo, hành mộc) -> phương nam (Đạo Mẫu, hành hỏa) -> trung tâm (Đạo thờ Tổ Tông, hành thổ) -> phương tây (Đạo giáo, hành kim) -> phương bắc (Nho giáo, hành thủy). - Để giải lịch sử Phật giáo và các vị thần, phật, tiên, thánh là các vua Hùng, chúng ta phải giải mật mã quan trọng nhất trong bộ Kinh Pháp Hoa và truyện Phật Bà Chùa Hương (vợ vua Thần Nông, chi tiết này tôi nhận định sai trong 2012 - Cuộc chuyển thế vĩ đại đã đăng là vợ vua Đế Minh). Sau đó kết hợp với kiến trúc chùa miền bắc Việt Nam, bàn thờ chính điện Đại Hùng bài trí tượng Phật, cùng so sánh đối chiếu với Thai Tạng Giới, Kim Cương Giới của Mật Tông, Kinh đà là ni xuất tượng, toàn bộ các thần thánh an trí trong tranh thờ Đạo giáo, tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống, Kinh Hoa Nghiêm, đối chiếu với tín ngưỡng cổ Ai Cập, Lưỡng Hà, đạo Hindu Ấn Độ, Kinh Trường A Hàm, Kinh A Tỳ Đạt Ma Câu Xá, Kinh ánh sáng hoàng kim, Kinh Lăng Nghiêm… cùng phối chiếu với thiên văn Đông phương, các phương pháp cổ như Tử Vi, Phong Thủy, Dịch Kinh, Thái Ất…): đã giải trong cuốn 2012 - Cuộc chuyển thế vĩ đại, cuốn này chỉ sai sót 5% cho các nhân vật lịch sử mà thôi. Cuối cùng, đối chiếu với bộ trống đồng âm dương Hoàng Hạ - Ngọc Lũ, bởi trống là pháp khí quan trọng nhất trong các tôn giáo và văn hóa dân gian Văn Lang, lúc này chúng ta sẽ biết bộ trống này được chế tác thời kỳ nào, và cũng sẽ biết được trống đồng Thương, Trung Quốc tương ứng. - Quan hệ quốc tế: Giải mã mật ngữ Ai Cập sẽ biết được tôn giáo thờ thần được lập khoảng 2700 tr.CN tức sau khi vua Kinh Dương Vương lên ngôi 2879 tr.CN, sau 180 năm chứng tỏ đã có giao thương. Đối với Ấn Độ, di chỉ hohejo-daro có niên đại xưa nhất 2300 tr.CN cũng chứng tỏ không vượt quá thời kỳ tôn giáo Ai Cập. Vùng Lưỡng Hà, châu Mỹ cũng không ngoại lệ. Lịch sử các nền văn hóa thế giới ghi chép rõ tới khoảng 3100 tr.CN, chỉ lịch Maya nói năm bắt đầu chu kỳ khoảng 3140 tr.CN - đây chính là thời kỳ tương ứng vua Hòa Hy trong Phả hệ Hùng Vương ở trên. - Các vùng văn hóa khai quật ở Việt Nam và Trung Quốc: thời kỳ vua Đế Minh nằm trong thời đồ đồng, đá mới đang tiếp diễn, cho nên phải phối hợp xem xét nhận định, với một mốc quan trọng: đó là kinh đô Văn Lang ở Hà Nội, Việt Nam. Các văn hóa vật thể thời kỳ này là ống tông và đĩa bích, rìu Việt và nha chương. Chúng ta phải nghiên cứu cả thế giới, quy nạp và giao hội lại, số lượng sách nghiên cứu khoảng 150 lần số sách liệt kê ở trên, lúc này thông tin sẽ "dừng".
  13. Cảm ơn bác Lãn Miên về bài dịch "Vén sương mù phủ trên lịch sử Bách Việt". Trích giảng kinh A Hàm: Kinh Rùa mù tìm bọng cây Một hôm Phật ở Trùng Các Giảng Đường bên hồ Di Hầu, tôi nghe như vầy: Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Ví như quả đất sụp thành bể cả, có một con rùa mù sống vô lượng kiếp, một trăm năm mới trồi đầu lên một lần. Trong biển có bộng cây nổi chỉ có một lỗ, trôi giạt trên mặt biển theo gió sang Đông Tây, con rùa mù một trăm năm mới trồi đầu lên tìm bộng cây, sẽ gặp được bộng cây này chăng? A Nan bạch: -Không thể gặp, thưa Thế Tôn! Vì cớ sao? Vì con rùa này nếu đến bể Đông, bộng cây đã theo gió đến bể Tây, Nam, Bắc bốn phía, chung quanh cũng vậy, không thể gặp nhau. Phật bảo A Nan: -Con rùa mù tìm bộng cây tuy sai lạc, nhưng có lúc gặp nhau, kẻ phàm phu ngu si trôi giạt trong ngũ thú tạm được thân người, rất khó hơn con rùa mù kia tìm bộng cây. Vì cớ sao? Vì chúng sanh kia không hành nghĩa, không hành pháp,không hành thiện, không hành chơn thật, sát hại lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, tạo vô lượng tội ác. Thế nên, Tỳ Kheo! Đối Tứ Thánh Đế nếu chưa được vô gián đẳng, phải chuyên cần tìm phương tiện mong muốn tăng thượng, học vô gián đẳng. Phật nói Kinh này rồi, chư Tỳ Kheo nghe Phật nói hoan hỉ phụng hành. BÌNH: Qua câu chuyện rùa mù Phật dẫn trên, chúng ta xét có trái với tinh thần “Vô ngã” của Phật giáo không? Vì chủ trương của Phật giáo là phá ngã, thấy thân ngũ uẩn giả hợp như bèo bọt không nghĩa lý gì, tại sao ở đây lại quí thân? Thật ra ở đây nói thân này “khó gặp”, không phải quý thân và quan trọng nó tợ hồ một bảo vật để tôn thờ như người ta lầm tưởng, mà ý nghĩa quý ở đây là muốn nói đến trong cuộc sống, thời gian sống, phải làm gì cho đúng ý nghĩa của nó. Ở đời có hai hạng người lầm chấp: -Hạng người thứ nhất quá bi quan đối với thân này, cho nó là bất tịnh, là xấu xa, đê tiện, tạm bợ v.v… rồi muốn phá hoại cho nó tiêu tan, như câu chuyện: Khi Phật còn tại thế, một hôm giảng đạo Ngài nói về pháp “Quán thân bất tịnh”. Sau đó Ngài tuyên bố với chúng Tăng để cho Ngài ở yên một thời gian ba tháng, không ai được thăm viếng chỉ trừ một người thị giả thôi. Sau ba tháng trở ra Ngài thấy số Tỳ Kheo bổng nhiên thưa thớt đi. Ngài hỏi lý do, thì A Nan thưa rằng: Sau khi nghe Thế Tôn giảng về pháp “Quán bất tịnh”, các Thầy Tỳ Kheo quán thấy thân này nhơ nhớp quá nên một số Thầy mướn người giết đi để khỏi còn thấy nó nữa! Phật liền họp các Thâỳ Tỳ Kheo lại, chế giới ngăn cấm: “Không ai được mướn người giết, nếu mướn giết là phạm giới”. Đó là hạng thứ nhất. -Hạng người thứ hai thì trái lại, họ quá quan trọng thân này, quanh năm suốt tháng cứ một bề lo bồi bổ tưng tiu chìu chuộng cái thân, không dám dùng nó vào việc gì, mặc dù việc đáng làm và nên làm. Hai hạng trên đều trái với tinh thần đạo lý của Phật dạy. Phật nói thân này là vô thường, bất tịnh v.v… là chỉ rõ lẽ thật cho chúng ta nhận thấy để khỏi đắm mê chạy theo dục lạc. Khi hiểu rõ rồi, chúng ta lại phải lợi dụng nó để tiến tu hoặc làm các việc lợi ích cho mọi người… chớ không phải hiểu rõ lý vô thường để bi quan chán đời rồi đi tự tử, thật là một điều lầm lẫn! Với cặp mắt của người tu Phật, vẫn thấy thân này là giả tạm vô thường,không đáng kể, nhưng họ vẫn giữ lấy thân này để làm phương tiện tiến tu. Như người muốn qua sông, vẫn biết khúc gỗ mục không đáng giá chút nào, nhưng lúc chới với giữa giòng vẫn phải dùng nó làm chiếc phao khi mình chưa đến bờ. Có ai dại dột gì, khi còn lênh đênh ngoài biển mà vội bỏ “bè” không? Cũng thế, khi chưa đạt đạo thì phải mượn thân này làm thuyền bè để đến bờ giác ngộ. Khi qua đến bờ lúc đó bỏ bè cũng không muộn gì. Nếu chưa đạt đạo mà vội hủy bỏ thân là một điều lầm lẫn đáng tiếc! Trong Kinh chép: Một hôm Phật khơi một chút đất dính đầu móng tay đưa lên hỏi trong chúng hội: “Đất đầu móng tay nhiều hay đất quả địa cầu nhiều?” Trong chúng hội đều đáp: “Bạch Thế Tôn, đất quả địa cầu rất nhiều, so với đất đầu móng tay có thấm vào đâu!”. Phật kết luận: “Cũng thế, chúng sanh khi bỏ thân này rồi mà trở lại được thân người rất ít như đất đầu móng tay, còn đi vào các thú thì nhiều như đất quả địa cầu”. Cũng nói ý này Cổ Đức có câu: “Trăm năm cây sắt trổ hoa còn dễ, một phen mất thân này, muôn kiếp khó tìm” (Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhứt thất nhơn thân vạn kiếp nan). Vì thế, chúng ta là hành giả đang đi trên lộ trình xa vạn dặm, phải có quan niệm chính xác đối với thân này để khỏi phải dở dang giữa đường mà chưa đạt đến bờ kia! Trích " Nhặt lá bồ đề" HT.Thích Thanh Từ Nội dung trên chứng tỏ thời Đức Phật cũng đã xác nhận việc xuất hiện con người có xác suất bằng "0", và có thân xác để tu luyện thành Đạo quả cũng nhỏ bé "tiệm cận 0". Cho nên, thời đại nào có một vị Phật ra đời là rất rất hiếm gặp. Việc tách bạch giữa hai dòng sử liệu Việt Trung tôi sẽ viết ngay sau!
  14. CÁC PHÉP TÍNH CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT THÁI ẤT Nguyên Vũ Thái ất là một trong ba môn học xếp vào tam thức( Thái ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn).Hiện nay trên diễn đàn ít người bàn về Thái ất chính vì vậy tôi muốn trình bày lại toàn bộ các phép tính Thái ất một các có hệ thống làm cơ sở về sau cho phần luận giải Thái ất . Mong được các bạn tham gia cổ vũ . Các phép tính TA chia làm 2 phần các phép tính về hệ thống các sao trong TA và phần 2 diễn quái Thái ất . Tôi bắt đầu bài viết bằng đoạn bài viết trả lời của tôi về cách đọc Thái ất thần kinh trong trang TVLS. Ðôi nét về Học thuyết Thái ất I. Tài liệu nghiên cứu Phần tiếng Việt - Thái ất giản dị lục của Lê quí Ðôn - Thái ất thần kinh tương truyền của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thái ất diễn quái bí lục của Nguyễn Xuân Quang Phần tiếng hán - Thái ất kim kính thức kinh - Thái ất thống tông bảo giám - Thái ất thống tông ðại toàn Dân gian biết ðến Thái ất và công dụng của nó phần nhiều qua các truyền thuyết về trạng trình Ngyễn Bỉnh Khiêm. Liên quan ðến các câu sấm ký , tài tiên tri của ông lúc sinh thời, ðến cả người Trung quốc cũng phải coi trọng “ An nam lý học hữu trình tuyền”. kể từ khi ông trạng này có kỳ duyên với thái ất do cụ Lương ðắc Bằng truyền lại sách cho ðến việc cụ khuyên nhà Mạc, nhà Nguyễn cách ứng xử ðể có thể trường tồn là những câu chuyện hy hữu trong lịch sủ VN. Ở Trung quốc các cao sĩ như Trương Lương, Khương tử Nha, Lưu bá Ôn…vv những nhà thuật số trứ danh này ðã sử dụng Thái ất ðể phò vua giúp nước, lập nên công trạng hiển hách, sau tính ðến ðường tiến thoái của chính họ. Ngoài ra học còn ðóng góp rất nhiều công sức vào môn Thái ất. Gần ðây ngýời Việt hay tiếp cận với Thái ất thông qua cuốn Thái ất giản dị lục của bảng nhãn Lê Quí Ðôn. Bảng nhãn ðánh giá rất cao Thái ất, ông cho rằng:” Thuyết Thái Ất phân nhiều nói về binh pháp. Ðịch ta, chủ khách, lợi hại ðược mất các cõ thịnh suy, trị loạn, cái thế thắng thua, yên nguy ðều ðược diễn giải rõ ràng…: Những thực ra cuốn sách này chỉ ở mức dị giản lục, chưa ðủ các thông số tính toán về thái ất. Còn về cuốn sách tương truyền của trạng trình cũng thiếu chưa thiết lập ðủ phương trình tính toán, lời văn rườm rà khó hiểu không hợp với phong cách của cụ trạng (Bác học có ðủ, dân dã có thừa- Ý kiến các nhân tôi) Cuốn thứ ba tiếng Việt của TG Vũ xuân Quang(3 cuốn), quyển sách này dừng ở mức nghiên cứu Lý thuyết nhưng tương ðối ðủ thông số tính toán. Tiếc rằng sách có nhiều lỗi chính tả do in ấn. Ðôi ðiều về Lương y Vũ xuân Quang: Ngươi say mê các môn thuật số, Y học cổ truyền và ðã bỏ ra nhiều nãm NC các môn thuật sô một cách hết sức công phu, sáng tạo nhưng theo cá nhân tôi quan trọng là “ thông” về Lý thuyết, khiến cho chúng có ðầu ðuôi , tạo cơ sở ðể trở thành những môn hoc. Tất cả các môn học thuật số ðều ðược cụ diễn quái , bởi lẽ Kinh dịch là “Quần thư vi chi thủ”, lục hào là “ Chư thuật vi chi thủ”. Do vậy khi nghiên cứu T/A Phải có kiến thức về Lục hào, Kinh Dịch, Lịch pháp …vv . Ðôí với những người tự NC Phải xây dựng lộ trình kiến thức thích hợp trýớc khi NC T/ A có bước chuẩn bị về lục hào, Ðộn giáp ðể dễ tiếp cận T/A…vv Một số ðiều lýu ý cần tránh: -Không có ðủ tài liệu gốc và chú ý quá nhiều ðến thực dụng ( cách thức thục hành) và coi thực hành là tiêu trí cơ bản . Quan niện này không sai nhưng trở nên nguy hiểm nếu người NC chýa ðủ và ðúng lý thuyết, không biết PP thực hành KH dẫn người ta rơi vào chủ nghĩa Kinh nghiệm - Vội vã xét lại lý thuyết của cổ nhân, muốn học tắt. Như chúng ta biết cõ bản các nghành thuật số xuất phát từ TQ, nơi nền vãn minh Hoa Hạ phát triển rực rỡ. Thuật số là một bộ phận trong nền VH ấy cũng theo quy luật chung hàm chứa nhiều giá trị VH tinh hoa, rất khó nắm bắt. Một số quan ðiểm khi NC Thuật số nói chung và T/A nói riêng 1.Các môn thuật số ra đời theo qui luật từ đơn giản đến phức tạp, mang tính kế thừa và do công sức của nhiều người góp phần đặc biệt là các nhà NC hàng đầu . Như Chu công, Thiệu khang tiết, Khổng tử ...vv. 2.Cùng một vấn đề có nhiều phương pháp khác nhau để tiếp cận, tạo nên rất nhiều nhiều trường phái. Trong mỗi một trường phái cũng có nhiều nhà NC khác nhau tạo nên những nét riêng độc đáo của họ. Đôi khi hình thành các phái gia truyền của một số giòng họ không được truyền ra ngoài. khiến cho nhiều môn thuật số trở nên bí truyền . 3.Các môn thuật số đều được Xây dựng theo các mô hình cụ thể, nhưng đều xử dụng các công cụ là các qui luật phổ biến ( Tiên thiên, hậu thiên, âm dương, ngũ hành) và các qui luật đặc thù của môn và từng mô hình của môn, các qui tắc suy diễn của từng môn mà đưa ra khả năng đoán định. Thông thường là kết quả của rất nhiều phép tính đơn lẻ. 4.Bất kỳ mô hình môn nào đều có sai số hệ thống ( nội tại) và sai số chủ quan. Các môn học của phương đông thường một Hàm có thể ứng với nhiều giá trị (các qui tắc suy diễn) kèm theo những điều kiện cụ thể với từng giá trị. Mà điều kiện này thường khó làm sáng tỏ. Một phần do lý thuyết một phần do người sử dụng. Do vậy muốn sử dụng tốt phải làm sáng tỏ lý thuyết một cách tương đối sau mới ứng dụng và kiểm nghiệm. Nhưng phải chấp nhậnmột điều bất kỳ môn nào cũng tồn tại sai số. Các trường phái khác nhau khi giải quyết cùng một vấn đề thì điều có những thế mạnh riêng. đương nhiên biết nhiều trường phái xử dụng mền dẻo là con đường tốt nhất để đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên khó thực hiện và đôi khi xét thừa. Vậy thái độ của người NC ứng dụng là nhìn rõ giới hạn của môn, trong một số trường hợp sáng tạo bù thêm để giảm bớt giới hạn, sai số của môn. Cách tiếp cận Thái ất qua cuốn Thái ất thần kinh Xem ngay cuốn 2,3 ( Gom góp hạt châu ngoài biển) Xem tính chất từng sao và các sao kết hợp lại với nhau thì ý nghĩa tính chất ra sao. Thông thường trong phần này sẽ có giá trị của các sao có thể được nhận. đọc đến sao nào tìm đọc Q5 để tìm khoảng giá trị mà sao đó có thể nhận. Chính là "tiểu chu" mà sao đó có thể nhận. Tiếp đến xem lại kỹ cuốn 5 phần các phép tính toán các sao. Sau đó NC đến quyển 2,3,4 tiếp đến 6. Trong phần phép tính sao Chú ý đến mốc thời gian tính sao, Doanh sai, và tính gần đúng của tích tháng, năm, ngày, giờ. Đa số các phép toán đều là lấy phần dư của phép chia tích niên, tháng, ngày , giờ cho đại, tiểu chu... thực chất là các chu kỳ vận động của sao, nhằm tìm ra vị trí của sao trong những chu kỳ nào. 5.Các môn thuật số dành một vị trí ðáng kể cho phần tâm linh, ở ðây tôi muốn nhấn mạnh ðến phần linh giác trên cõ sở học thuật sẽ hỗ trợ tốt hơn cho các phép tính chứ không thay thế các phép tính. Nên phân biệt giữa phần Tâm linh không liên hệ gì với các môn thuật số ví như một người có khả nãng ðặc biệt chãng hề biết gì về thuật số vẫn cứ dự ðoán ðược như các nhà thuật số, thậm trí lại có phần tinh vi hơn. 6. Ðừng vội tán ðồng cũng như phủ nhận kiến thức của ngýời xưa. Bởi sự ra ðời và tồn tại của bất kỳ ðiều gì cũng có lý của nó. Do vậy việc ðầu tiên là phải hiểu ðuợc cái lý ðó, sau mới xét ðến tính phù hợp mang tính thời ðiểm. Hõn nữa các môn thuật số cổ còn tồn tại khá nhiều qui tắc dưới dạng các câu khẩu quyết, khó làm rõ bản chất. nhiều kiến thức hết sức tinh vi, phức tạp. Ðây cũng là một trong những lý do cơ bản khiến các môn thuật số phương ðông chưa ðủ tiêu trí ðược coi là khoa học. (Tất nhiên ðể tiến ðến nhận thức thế giới thì KH cũng không thể là Người phán xét hết thảy mọi việc) 7.Nên tiếp cận với các môn thuật số môt cách khoa học, và kèm theo ðó là một tri giác linh mẫn , có người hướng dẫn, trao ðổi. Một trong những khâu rất quan trọng của vấn ðề học tập và NC ðó là tài liệu, gần như nó quyết ðịnh toàn bộ sự thành bại, vậy phải ðặt lên quan tâm hàng ðầu. 8. Ðọc kỹ lưỡng vãn bản nhiều lần, vì cùng một khái niệm có nhiều tầng nhận thức khác nhau, phụ thuộc vào vấn ðề ta tìm hiểu. Ví dụ về ngũ hành nếu cõ bản chi cần biết qui luật sinh khắc, tinh vi hơn cần biết nịch , kháng ,thiết…vv.Ví dụ như nạp âm, ðõn giản ta chỉ cần học các tra bảng, tinh vi hơn ta phải hiểu ý nghĩa nạp âm, cách thức nạp âm, ứng dụng. -Những quy định về thời gian trong Thái ất Vận: là một đơn vị thời gian quy định 360đơn vị nhỏ hơn nữa( "có thể là năm, tháng, ngày giờ" ) Một vận lại được chia ra làm 5 phần, mỗi phần gọi là một "Nguyên tý". Như vậy mỗi nguyên tý có 72 đvtg. Tên của các nguyên tý như sau: + Giáp tý + Bính tý + Mậu tý + Canh tý + Nhâm tý Mỗi vận cũng có thể chia làm 6 phận . Mỗi phần lại có 60 đvtg + Hai phần đầu của 60đvtg gọi là " Thượng nguyên" + Hai phần giữa của 60đvtg gọi là " Trung nguyên" + Hai phần cuối của 60đvtg gọi là " Hạ nguyên Thời gian được chia ra làm thời gian dương và thời gian âm. theo quy định từ năm 1324 đến năm 2403 thuộc dương. Thừ năm 2404 đến năm 3483 thuộc ậm hiện nay chúng ta đang sống trong khoảng tg dượng Khoảng thời gian của bán chu kỳ thời gian âm, dương này là 1080 năm. Như vậy ta có thể suy ra thời gian từ 3484 đến ( 3483+1080) thuộc khoảng thời gian âm. Khoảng tg từ (1324-1808) đến 1323 thuộc tg âm. Như vậy bán chu kỳ 1080 năm có (1080:72), tức là 15 nguyên tý. Cục: là con số thuộc 72 nguyên tý .Trong cục chia ra âm cục và dương cuc.Tính chất âm dương phị thuộc vào đơn vị thời gian của cục. Tức là niên cục, nhật cục, hay nhật cục, thời cục . Bốn loại cục trên còn gọi là "tứ kế". Niên kế, Nguyệt kế, Nhật kế, Thời kế. Theo sách Thái ất giản dị lục Xem thái ất có 4 phép xem: + Một là tuế kế, để xem sự lành dữ của quốc gia . Đó là việc của vua và hoàng hậu làm, để sáng chính hoá, sửa đức giáo, xét cơ động, tĩnh. + Hai là nguyệt kế : Để xem lành dữ . Đó là bậc công khanh xem, để xét biện được hay mất mà điều hoà sự goà gay trị . + Ba là nhật kế : để đo lường hoạ phúc trong nhân gian, để sử dụng cho mọi người, để xét lớn hay nhỏ, hưng hay suy, để cư sử đúng với Tam cương, đủ với ngũ luân . + Bốn là thời kế: để vận trù mưu kế, sách lược, xác định về chủ khách, thắng thua, đó là bậc tướng soái phải rõ .Phàm thiên văn đổi khác, các nước xung quanh động hay tĩnh, thế trận hai bên có tương đương nhau không, xã hội có bình thường hay có giặc cướp, đều dùng thời kế mà xẹm re: CÁC PHÉP TÍNH CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT THÁI � Các bảng dưới đây tương ứng với năm thuộc chu kỳ âm, dương Số nguyên tý từ năm 1324 đến năm 2403( 1080) Thuộc dương Nguyên Giáp tý 1324-1395 1684-1755 2044-2115 Nguyên Bính tý 1396-1467 1756-1827 2116-2187 Nguyên Mậu tý 1468-1539 1828-1899 2188-2259 Nguyên Canh tý 1540-1611 1900-1971 2260-1331 Nguyên Nhâm tý 1612-1683 1972-2043 2332-2403 Số nguyên tý từ năm 2404 đến năm 3483 ( 1080) thuộc âm Nguyên Giáp tý 2404-2475 2764-2835 3124-3195 Nguyên Bính tý 2476-2547 2836-2907 3196-3267 Nguyên Mậu tý 2548-2619 2908-2979 3268-3339 Nguyên Canh tý 2620-2691 2980-3051 3340-3411 Nguyên Nhâm tý 2692-2763 3052-3123 3412-3483 Số nguyên tý từ năm 244 đến năm 1323 ( 1080) thuộc âm Nguyên Giáp tý 244-315 604-675 964-1035 Nguyên Bính tý 316-387 676-747 1036-1107 Nguyên Mậu tý 388-459 748-819 1108-1179 Nguyên Canh tý 460-531 820-891 1180-1251 Nguyên Nhâm tý 532-603 892-963 1252-1323 SỐ NIÊN CỤC Mỗi nguyên tý có 72 năm. Niên cục là số từ 1 đến 72 trong mỗi nguyên tý Để tính số niên cục của một năm ta sử dụng công thức 1. Tích niên chia 3600 2. Phần dư của phép chia trên chi 360 3. Phần dư của phép thứ 2 chia 72 số dư chủa phép chia này chính là số niên cục Tích niên được định nghĩa =số năm hiện tại + 10.153917 Tức là người ta dung mốc tính tích niên từ năm giáp tý đời Thiên hoàng. Có một số thuyết tính cộng với số khác 10.153.917 sau này khi viết CT thì kiểm nghiệm lại điều này là việc làm trước đây tiền nhân rất khó làm. Ví dụ năm 2004 (Giáp thân) Tra bảng thuộc năm dương cho nên là dương cục Tích niên=2004+10.10.153.917 Chia tích niên cho 3600, phần dư lại chi tiếp 360, phần dư lại chia tiếp 72 được 33 Vậy là số niên cục dương 33 SỐ NGUYỆT CỤC Cục tương ứng với tháng gọi là nguyệt cục. Công thức: 1.Tính số tháng từ định tính so với mốc 2.Chia số tháng tính được cho 360 3. Phần dư của phép chi trên chia tiếp cho 72 Dư bao nhiêu chính là nguyệt cục Gốc tính nguyệt cục là ngày mồng một tháng giáp tý, năm giáp tý thuộc triều đại nguyên gia thời nhà Tống Trung quốc (Tương ứng với ngày 7 tháng 12 năm 424 sau công nguyên) Ví dụ: Tính nguyệt cụ của tháng mậu dần năm canh thìn (2000) Từ tháng Giáp tý năm giáp tý ( năm 424) đến tháng quý hợi ( trước tháng giáp tý) năm kỷ mão ( năm 1999) Ta có: 1999-424= 1575 năm 12*1575=18.900 tháng ( 1 năm 12 tháng) Từ tháng giáp tý năm kỷ mão(1999) đến tháng mậu đần năm canh thìn (2000) có 3 tháng Vậy số tổng tháng =18.900+3=18.903 18.903:360 dư 183 183 :72 dư 39. Vậy ta nói Năm 2000 thuộc nguyên Nhâm tý dương tháng bính dần có nguyệt cục dương 39 Nguyên tắc:niên cụ dương thì nguyệt cục cũng dương. re: CÁC PHÉP TÍNH CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT THÁI � (tiếp) Niên cục âm thì nguyệt cục cũng âm. Số nhật cục Phương pháp tính: 1. tính số ngày Từ mốc của nhật cục đến ngày ta định tính 2.Chia số ngày đó cho 360 phần dư lại tiếp tục chia cho 72, còn dư lại bao nhiêu chính là nhật cục. 3. Cục âm, dương tính như sau: Từ Đông chí đến trước ngày Hạ chí,là dương cục.Từ Hạ chí đến trước ngày Đông chí, thuộc âm cục (chú ý tính ngày phải xét đến cả giờ chuyển tiết, khí) Mốc tính ngày cho nhật cục: ngày mồng 1 tháng giáp tý, năm quý hợi thuộc triều đại Cảnh bình đời Tống ( TQ) tương ứng với ngày 19/2/423 dương lịch. Thí dụ: Tính nhật cục ngày 14/12/1992 dương lịch.Đầu tiên ta tính số ngày từ gốc 19/2/423 đến 18/1/1992 trước. vậy ta tính tròn số năm phải xét 1992-423 =1569 năm Tiếp đó ta sử dụng công thức tính ngày làm tròn ngày (1569*365,2422)-10=573.055 ngày Bước tiếp theo ta tính số ngày từ 19/1/1992 đến ngày 14/12/1992. Từ 19/1/92 đến 31/1/92 có 13 ngày. Tháng 2 có 29 ngày Tháng 3 có 31 ngày, tháng 4 có 30 ngày, tháng 5 có 31 ngày, tháng 6 có 30 ngày, tháng 7 có 31 ngày, tháng 8 có 31 ngày, tháng 9 có 30 ngày, tháng 10 có 31 ngày, tháng 11 có 30 ngày. Từ 1/12/92 đến 14/12/92 có 14 ngày Cộng lại 331 ngày Tổng số ngày là 573.055+331=573.386 ngày chia 360 dư 266 ,lại chia tiếp 72 dư 50. Vậy ngày 14/2/1992 sau đông chí nên có dương cục 50. Số thời cục Cách tính: 1.Cục âm dương của thời cục cũng tính như Nhật cục 2.Số giờ từ ngày giáp tý gần nhất đến ngày, giờ muốn tính 3. Chia số giờ đó cho 360, số dư lại chia tiếp 72 số dư chính là Thời cục. Ví dụ: Tính thời cục giờ Giáp tý, ngày giáp thìn (23/1/1992) Trước giáp thìn là quý mão. Từ Ngày giáp tý gần nhất đến quý mão có 40 ngày, có 40*12=480 giờ. Cộng thêm 1 giờ của ngày giáp thìn là 481 giờ 481 chia 360 dư 121, lại chia 121 cho 72 dư 49 Ngày 31/1/1992 sau Đông chí thuộc dương cục. vậy dương cục 49 là Thời cục. Cách tính số niên cục, Ngyệt cục, Nhật cục, Thời cục gọi là Tứ kế ( Tuế kế, Nguyệt kế, Nhật kế, Thời kế) e: CÁC PHÉP TÍNH CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT THÁI � Các sao cơ bản trong Thái ất gồm: Sao Thái ất Sao Kế thần Sao văn xương Sao thuỷ kích Độn giáp là can giáp ẩn đi. Đứng về phương diện sử dụng thì khi gặp can giáp ta phải thay bằng can ất( đối với trường phái thông dụng Nhật gia kỳ môn độn giáp, ta thay can ngày gặp TH giáp bằng ất).Còn với Thái ất thì lại giống với Tử vi ở chỗ môn TV lấy sao đứng đầu trong môn làm tên cho môn, vậy là Thái ất là lấy tên sao quan trong bậc nhất của TA Làm tên môn, chứ không suy luận như độn giáp, về phần chức năng của từng môn đã được giới thiệu ở trên. Công thức tính sao Thái ất: 1. Lấy tích niên chia 3600 2. Phần dư của phép tính trên chia 240 3. Phần dư của phép tính (2) chia 24 4. Chia phân dư của phép tính (3) cho 3 Sao thái ất vận hành qua 8 cung của bát quái hậu thiên đồ không vào trung cung. Tại mỗi cung thái ất cư trú 3 năm. Năm thứ nhất gọi là lý thiên, năm thứ hai gọi là lý địa, năm thứ ba gọi là lý nhân. Độ số của hậu thiên đồ dùng trong TA có sự khác biệt liệt kê dưới đây: Càn - 1 Ly - 2 Cấn - 3 Chấn - 4 ( không vào 5) Đoài- 6 Khôn- 7 Khảm- 8 Tốn - 9 Cứ ba năm thì chuyển vị trí mới, trong ba năm, năm thứ nhất lý thiên, năm thứ 2 lý địa, năm thứ ba lý nhân.Thực chất là ta xét chu kỳ 24 năm của TA tính từ mốc thời gian tính tích niên. Ví dụ tính sao thái ất của năm 2000. Tích niên= 2000 +10.153.917=10.155.487 năm chia 3600 dư 247 chia 360 vẫn dư 247 chia 240 dư 7 7 chia 3 được 2 lần dư 1 tức là vào cung thứ 3 năm thứ nhất ứng với lý thiên. Các bạn thử tính sao TA năm nay? re: CÁC PHÉP TÍNH CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT THÁI � Trước đây ở ví dụ trên ta đã tính năm 2004 ( Giáp thân) là dương cục 33, ta lấy 33 chia 24 dư 9, 9/3 3 lần dư 0. Tức là ứng Thái ất nằm ở cấn cung, lý nhân. giải thích hai cách tính toán trên là tương đương, rất có giá trị trong việc hiểu sử dụng trong thái ất. ta biết rằng, Tính cục thực chất là tính chu kỳ của đơn vị thời gian ta muốn tính từ mốc thời quy định với chu kỳ của cục là 72, đáng lẽ ta chia luôn cho 72 lấy phần dư, nhưng tiền nhân chia 3600, rồi lại chia tiếp 360, và gọi 3600 là Đại chu, 360 là tiểu chu-Tức là chu kỳ lớn và chu kỳ bé. Con số 360 cũng là bội của 72, con số 3600 gấp 10 lần 360.Để tìm chu kỳ của sao thái ất 24 năm hết một vòng ở 8 cung mô tả ở trên,theo đn ta cũng chia cho đại tiểu chu, sau còn chia 240, rồi chia 24. tất cả các phép toán này đều lấy phần dư, chỉ có phép toán cuối cùng mới chú ý đến cả phần nguyên và phần dư của phép chia. vì 72 là bội của 24 vì vậy mà nói chung các phép toán về sau của sao nếu chu kỳ vận động mà 72 chia hết( ví dụ 18) thì ta cứ việc tính từ cục ra. Để tiện cho việc trước an các sao, sau là phân tích, tôi xin phép mô tả bản đồ thái ất: Chúng ta vẽ 3 vòng trong đồng tâm, vòng 1,2 tính từ trong ra khẩu độ bằng nhau, vòng thứ 3 khẩu độ gấp từ 4 đến 5 lần. Chia ba vòng tròn này thành 16 cung đều nhau. Ta điền vào vòng trong cùng bắt đầu từ: càn, hợi , tý(khảm),sửu, cấn, dần, mão(chấn),thìn, tốn, tỵ, ngọ( ly),mùi, khôn, thân, dậu(đoài), tuất.Độ số của các cung như sau:Càn :1,khảm:8,cấn:3, chấn:4, tốn:9,ly:2, khôn:7,Đoài:6. Phương vị và tiết khí tương ứng như sau: Ngọ(ly) nam, hạ chí; Mùi, khôn, Thân: Tây nam, lập thu; Dậu(đoài): Tây,thu phân Tuất, càn, hợi :Tây bắc , lập đông Tý(khảm): Bắc, đông chí Sửu, cấn, dần: Đông bắc, lập xuân Mão(chấn) :Đông, xuân phân Thìn, tốn, tị:Đông nam, lập hạ An ở vòng thứ 2 như sau: càn:Ân đức, Hợi:Đại nghĩa, Tý:Địa chu, Sửu:Dương đức,Cấn:Hoà đức, Dần:La hầu, Mão:Cao tùng, Thìn:Thái dương, Tốn:Đại trắc, Tị:Đại thần, Ngọ:Thiên uy, Mùi:Thiên đạo, Khôn:Đại vũ, Thân:Vũ đức, Dậu: Thái thốc, Tuất:Âm chủ Vòng thứ 3 để an các sao tính sau. re: CÁC PHÉP TÍNH CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT THÁI � Trong một số sách hay sử dụng niên hiệu các triều đại Phong kiến cả Việt nam, TQ Một số niên hiệu trích trong sách của cố GS Hoàng Phương Năm thứ nhất Triều Đại Năm dương lịch tương ứng Mậu ngọ Chính Trị 1558 Canh thân Cảnh Hưng 1740 Quý sửu Cảnh Thịnh 1793 Quý mão Cảnh Trị 1663 canh thân Chính Hoà 1680 Quý sửu long Khánh 1373 Quý mùi Phúc Thái 1643 Mậu thìn Quang Thái 1383 mậu dần Quang Hưng 1578 Ất mão Vĩnh Hựu 1735 Kỷ dậu Vĩnh Khánh 1729 Ất dậu Vĩnh Thịnh 1705 Kỷ mùi Vĩnh Tộ 1619 Ví dụ khi người nói Năm Vĩnh Tộ thứ 3 thì túc là năm (1619-1) + 3,Tân dậu .Vì năm đầu tính từ 1619. Năm Phúc Thái thứ 6, tức là năm 1643-1+6, Mậu Tý. Sao Kế thần Công thức tính: Tích niên chia 12, lấy phần dư Chu kỳ của Kế thần là 12 . Kế thần đóng (nằm) ở Gián thần vị. Gián thần vị cung gồm: Tý, sửu, dần, mão, thìn,tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Chính thần vị: Càn, khôn, cấn, tốn cũng là tứ ngung ( bốn góc). Sử dụng số dư sau phép chia tích niên cho 12 như sau: Giả sử số dư là :A ( A lớn hơn hoặc bằng 0, nhỏ hơn 12) Ta lấy mốc từ cung dần, tính nghịch, đếm 1, mão sửu đếm 2... đến A, ở cung nào thì kế thần đóng tại cung đó.Vì ta biết mốc tính tích niên từ năm Tý, do đó số A cũng chính là số thứ tự của chi trong 12 chi, cũng chính là chi năm ta đang tính. Ví dụ 1: Tìm kế thần của năm canh ngọ, niên hiệu Chính Trị thứ 13 triều Lê. Tích niên=1558 + 12 +10.153.917=10.155487 năm, chia 12, dư 7. tính từ dần là 1 tính ngược đến 7 thấy Canh ngọ ở cung Thân, vậy kế thần đóng tại cung Thân. Tích cục của năm Canh ngọ nói trên được 31 nguyên canh tý dương. Lấy 31 chia 12 dư 7 cũng là một cách tính. Ví dụ 2 Tìm kế thần năm 1592 Tích niên 10.155.509, cục 53 chia 12 dư 5 Kế thần đóng tại Tuất cung. Ví dụ 3 Tìm kế thần năm 1599 Tích niên 10.155.516 Niên cục 60 chia 12 dư 0 Kế thần đóng tại cung mão re: CÁC PHÉP TÍNH CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT THÁI � Đơn giản nhất không cần tính toán gì vẫn có thể biết vị trí Kế thần đóng. Ta chi cần biết chi năm cần tính. Tính từ dần khởi Tý, tính nghịch đến chi của năm muốn tính. Ví dụ năm G.thân(2004), Khởi từ dần đếm tý, sửu đếm sửu, tý đếm dần, hợi đếm mão, tuất đếm thìn,dậu đếm tị,...ngọ đếm thân. tức là kế thần của năm gthân đóng ở ngọ cung. Sao văn xương Sao văn xương còn gọi là "Thiên mục" Công thức tính: Tích niên chia cho 18 dư bao nhiêu an trên bản đồ Thái ất, khởi từ "Thân" tính "thuận" đến số dư, ở cung nào thì đó là cung văn xương đóng. Chú ý: riêng hai cung Càn, Khôn tính 2 lần. Như vậy là chu kỳ của Văn xương là 18, đóng ở tất cả các vị trí trên bản đồ Thái ất ( cả chính thần vị và gián thần vị). Riêng hai cung Càn, Khôn tính hai lần. Ví dụ: Năm 1570 dương lịch. Được số tích niên là 10.155.487 chia 18 dư 13. Khởi từ thân đếm 1, dậu đếm 2,tuất đếm 3,càn đếm 3,4,hợi đếm 5,...Tốn đếm 13. Vậy tốn là cung văn xương đóng Ví dụ 2: Tìm văn xương năm 1592 dương lịch Tích niên 10.155.509 chia 18 dư 17 Khởi từ thân đếm 1, đến 13 ở tốn, 14 ở tị,...,17 ở khôn. Văn xương đóng ở khôn. Ta cũng có thể tính từ cục chia 18 ra vị trí đóng của văn xương ( Thiên mục) Sao khách mục thuỷ kích ( Thuỷ kích) Khách mục thuỷ kích còn có tên là "Địa mục" Công thức tính: 1. Đếm theo chiều thuận trên bản đồ Thái ất, từ cung Kế thần đóng đến vị trí của sao văn xương có bao nhiêu vị trí. 2. Khởi từ cung "Cấn" tính "thuận" đến số vừa đếm được ở bước 1, dừng ở cung nào cung ấy là vị trí đóng của Thuỷ kích. Ví dụ: Tìm vị trí của Thuỷ kích năm 1570 dương lịch ( năm Chính Trị thứ 13) Như ở phần trên ta tính được vị trí của kế thần nằm ở "Thân". Văn xương đóng ở cung Khôn. Tính thuận từ thân đến khôn có 12 vị trí. Ta khởi từ "Cấn" tính 1, dần tính 2,...Tuất tính 12. Như vậy Thuỷ kích đóng tại Tuất cung. Ví dụ 2: Tìm sao thuỷ kích năm 1592 dương lịch. Kế thần ở Tuất Văn xương ở khôn Đếm được 14 vị trí. Khởi từ "Cấn" tính thuận 14 vị trí thì Hợi là vị trí của Văn xương. Ví dụ 3: Tìm vị trí sao thuỷ kích năm 1599 dương lịch Kế thần đóng tại mão Văn xương đóng tại hợi Đếm được 12 vi trí. vậy thuỷ kích đóng tại tuất cung. re: CÁC PHÉP TÍNH CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT THÁI � Tìm chủ khách từng năm 1. Chủ toán Công thức tính: 1.Xác định vị trí của Văn xưng, và Chính thần trước Thái ất 1 cung tính theo chiều “ Thuận” 2.Nếu văn xưng ở gián thần vị tính =1, nếu ở chính thần vị tính luôn số của của vị trí đó theo bn đồ Thái ất 3. Cộng tất c các số từ Văn xưng đến trước Thái ất đóng 1 cung theo chiều thuận. chỉ tính “chính thần vị trừ vị trí ban đầu của văn xưng” Ví dụ 1: tính chủ toán của năm 1570 Ta biết: văn xung đóng tại tốn 9 Cấn là cung thái ất đóng. khm là cung trước cung thái ất đóng 9( tốn)+2(ly)+7(khôn)+6(đoài)+1(càn)+8(khm)=33 2.Khách toán Công thức tính: 1.Xác định vị trí của Thuỷ kích, và Chính thần trước Thái ất 1 cung tính theo chiều “ Thuận” 2.Nếu Thuỷ kích ở gián thần vị tính =1, nếu ở chính thần vị tính luôn số của của vị trí đó theo bn đồ Thái ất 3. Cộng tất c các số từ Thuỷ kích đến trước Thái ất đóng 1 cung theo chiều thuận. chỉ tính “chính thần vị trừ vị trí ban đầu của Thuỷ kích” Thí dụ: tính chủ toán, khách toán của năm 1599 dưng lịch. Dưng niên cục 60, nguyên canh tý dưng, trung nguyên. Thái ất đóng tại cung Chấn 4 Văn xưng đóng ở hợi Thuỷ kích đóng tại tuất 1. Chủ toán 1(hợi)+8(khm)+3(cấn)=12 2.khách toán 1(tuất)+1(càn)+8(khm)+3(cấn)=13 Tìm chủ, khách Đại tướng tham tướng có các sao dưới đây liên quan đến chủ toán, khách toán 1.Liên quan đến chủ toán có: Chủ đại tướng, Chủ tham tướng 2.Liên quan đến Khách toán có : Khách đại tướng, Khách tam tướng Cách tính: a,Chủ đại tướng(CĐT)= chủ toán nhân 3 lấy số lẻ ( trường hợp chủ toán 10 tính 1 nhân 3) b,Chủ tham tướng(CTT)= CĐT nhân 3 lấy số lẻ c,Khách đại tướng(KĐT)= Khách toán nhân 3 lấy số lẻ ( trường khách toán 10 tính 1 nhân 3) d,Khách tham tướng(KTT)= KĐT nhân 3 lấy số lẻ Ví dụ: Năm 1570 dưng lịch. Dưng niên cục 31 +Chủ toán được 33 lấy phần dư 3 là chủ đại tướng +Chủ tham tướng = 3*3 =9 lấy số lẻ vẫn là 9 Khách tham tuớng 10 lấy 1 +Khách đại tướng 1*3 lấy phần lẻ vẫn là 3 +Khách tham tướng 3*3 lấy phần lẻ vẫn là 9 Sau khi tính được chủ đại tướng ,chủ tham tướng, khách đại tướng, khách tham tướng, tuy theo giá trị mà chúng nhận an trên bn đồ thái ất Tìm định kế mục (Định mục) Công thức tính 1. Gia năm hợp thần với năm đang tính trên Bản đồ Thái ất, đề "Hợp thần" 2. Xác định số cung cách giữa "Tuế niên" với hợp thần=a Chú ý chiều thuận, nghịch 3.Từ Văn xương đếm số cung cách a theo chiều thuận hay nghịch dừng ở đâu chính là định kế mục Nếu (2) thuận thì tính theo chiều nghịch Nếu (2) nghịch thì tính theo chiều thuận -Hợp thần tính như sau: Tý hợp sửu Dần hợp hợi ........ Theo quan hệ nhị hợp của 12 địa chi -Tuế niên ( Thái tuế) chính là chi năm đang tính ghi trên bản đồ thái ất Số của định mục được tính như sau: Từ cung có "Định mục" tính thuận đến cung trước Thái ất một cung dừng tính tổng số giá trị của các cung chính thần, nếu TH định mục nằm ở gián thần vị cộng thêm 1. Tính định kế mục đại tướng(Định đại tướng) Định đại tướng=Định mục*3 lấy phần lẻ Tính định kế mục tham tướng (Định tham tướng) Định tham tướng=*Định đại tướng *3 lấy phần lẻ Tìm bát môn trong tuế kế Bát môn dùng trong Thái ất có cả những điểm chung và riêng so với độn giáp. Tôi sẽ trình bày trong phần tính chất. Ở đây chúng ta chỉ quan tâm đến cách an bát môn như thế nào thôi. Bát môn có hai loại trong độn giáp học + Chuyển bàn có thứ tự như sau: 1.Hưu 2.Sinh 3.Thương 4.Đỗ 5.Cảnh 6.Tử 7.Kinh 8.Khai Phi bàn Có thứ tự như sau: 1.Hưu 2.Tử 3.Thương 4.Đỗ 5.Khai 6.Kinh 7.Sinh 8.Cảnh Trong phần này chúng ta tạm chỉ quan tâm đến chuyển bàn. Trực sứ:Định nghĩa ngắn gọn là "Môn" trực ban Trực phù: Thiên tinh trực ban Có nghĩa là Môn và tinh được chọn làm mốc để gia vào một cung rồi các tinh, môn khác tiếp tục an vào các cung khác theo thứ tự xác định. Cách tìm bát môn trong tuế kế: Tích niên chia 2400 (Đại chu) Dư chia 240(tiểu chu) Dư chia 30, tìm phần nguyên, và dư để xác định trực sứ là môn nào trong bát môn Tìm trực sứ: Thuận từ Khai, hưu, sinh, thương...trong trường hợp "Dương cục" Nghịch từ Khai, Kinh, Tử, cảnh... trong trường hợp âm cục Dùng phần nguyên và dư của phép chia cuối cùng ở trên để xác định trực sứ. Gia trực sứ vào vị trí của Thái ất an tiếp tục các môn còn lại chú ý âm, dương cục. Ví dụ minh hoạ Năm Tân mùi, niên hiệu Chính trị năm thứ 14 (1571),Tìm trực sứ tương ứng. Số tích niên được 10.155.488 năm chia 2400 dư 128, nhỏ hơn 240 nên lấy 128 chia 30 được 4 lần dư 8, tức là 5 lần thiếu. Thuận từ 1.Khai, 2.hưu, 3.sinh, 4.thương,5.đỗ,6.Cảnh, 7.tử, 8.kinh trong trường hợp "Dương cục" Vậy Trực sứ chính là "Đỗ môn" Thái ất tính được ở cung Cấn (3). Ta lấy Đỗ gia vào Cấn tiếp tục an cảnh ở Chấn (4),Tử ở Tốn 9, Kinh ở Ly 2, khai ở Khôn 7,Hưu ở Đoài 6,Sinh ở Càn 1, Thương ở Khảm 8. Ví dụ 2: Năm 1924, Giáp tý. Tích niên 10.155.841 năm chia 2400 dư 1441 chia tiếp 240 dư 1 Thái ất ở càn cung, thì Khai môn trực sứ lâm Càn cung, Ddương cục nên tiếp tục an thuận, Hưu gia Khảm, sinh gia Cấn... Chín sao thuộc Thái ất Chín sao thuộc Thái ất là các sao trong vùng sao Bắc đẩu, 16 năm một lần đổi ngôi đi trong khoảng Can chi. 90 năm là một tiểu chu, 900 năm là một đại chu 1 là chính tinh, còn gọi là Khu, tên là Thiên anh 2 là Pháp tinh, còn gọi là Toàn, tên là Thiên nhậm 3 là Hội tinh, còn gọi là Cơ, tên gọi Thiên trụ 4 là Phạt tinh, còn gọi là Quyền, tên gọi Thiên tâm 5 là Sát tinh, còn gọi là Hoành, tên gọi thiên cầm 6 Là Nguy tinh, còn gọi Khai dương, tên gọi Thiên phụ 7 là Bộ tinh, còn gọi Dao quang, tên gọi Thiên xung 8 là Huyền qua, còn gọi Thiên nhuế 9 là Chiêu dao, còn gọi Thiên bồng Cách tính: 1.Lấy tích niên chia cho đại chu 900, dư chia cho tiểu chu 90 dư chia 10 . Số tìm được là vị trí của Trực phù ( tức là vị trí đầu của thiên tinh biến). Tínhtừ 1 là Thiên bồng, đi thuận theo 9 sao. Dưới đây là thứ tự của 9 sao khi chưa Biến: 1.Thiên Bồng là Lục mậu tinh( sáu năm có can mậu đứng đầu), đóng cung Càn 1 2.Thiên Nhuế là Lục Kỷ tinh( sáu năm có can kỷ đứng đầu), đóng cung Ly 2 3.Thiên Xung là Lục Canh tinh( sáu năm có can Canh đứng đầu), đóng cung Cấn 3 4.Thiên Phụ là Lục Tân tinh( sáu năm có can Tân đứng đầu), đóng cung Chấn 4 5.Thiên Cầm là Lục Nhâm tinh( sáu năm có can Nhâm đứng đầu), đóng cung giữa 5 6.Thiên Tâm là Lục Quý tinh( sáu năm có can Quý đứng đầu), đóng cung Đoài 6 7.Thiên Trụ là Lục Đinh tinh( sáu năm có can Đinh đứng đầu), đóng cung Khôn 7 8.Thiên Nhậm là Lục Bính tinh( sáu năm có can Bính đứng đầu), đóng cung Khảm 8 9.Thiên Anh là Lục ất tinh( sáu năm có can Ất đứng đầu), đóng cung Tốn 9 Cách tính sao biến: Như định nghĩa ở trên Trực phù là Thiên tinh trực ban, cũng có nghĩa là phải tìm vị trí của thiên tinh nào làm mốc để an voà vị trí xác định sau đó tiếp tục an các thiên tinh khác. Trên ta đã biết cách tìm vị trí an Trực phù, bây giờ ta tìm Trực phù: "Tích niên chia 2400 lấy dư chia 240, dư chia 9. Phần dư của phép chia cuối chính là Trực phù." Thí dụ tính Trực phù năm 1570 ( Năm canh ngọ âm lịch trung nguyên) Tích niên:10.155.487 Lấy 10.155.487/90 dư 67 67/10 được 6 lần dư 7( Bảy lần thiếu) Trực phù ở cung thứ 7 năm thứ 7, tương ứng với lục đinh Năm canh ngọ thuộc nguyên canh tý dương tính "thuận" Thiên bồng đóng tại Giáp tý mậu đóng cung Khôn số 7 CT tam kỳ, lục nghi: M7 T1 D4 K8 N2 B5 C9 Q3 A6 Giáp tý mậu 7 Thiên bồng Thiên phụ Giáp tuất kỷ 8 Thiên nhuế Thiên cầm Giáp thân canh 9 thiên xung Thiên Tâm Giáp ngọ tân 1 Thiên phụ (Trực phù) Thiên trụ giáp thìn nhâm 2 Thiên cầm Thiên Nhậm Giáp dần quý 3 Thiên tâm Thiên Anh Đinh kỳ 4 Thiên trụ Thiên Bồng bính kỳ 5 Thiên nhậm Thiên nhuế Ất kỳ 6 Thiên anh Thiên xung Thí dụ 2: Tìm Trực phù năm 2404 dương lịch, năm giáp tý, nguyên giáp tý âm, thượng nguyên Tích niên 10.156.321 năm chia 90 dư 1 1/9 dư 1 Trực phù là Thiên bồng 1/10 =0 dư 1, 1 lần thiếu. Vậy trực phù ở cung thứ nhất năm thứ nhất, ứng với lục mậu Thiên bồng đóng tại giáp tý mậu 1 Thuộc nguyên giáp tý âm do vậy CT lục nghi, tam kỳ theo chiều nghịch: M1 T7 D4 K9 N6 B3 C8 Q5 A2 Giáp tý mậu 1 Thiên bồng (Trực phù) Giáp tuất kỷ 9 Thiên nhuế Giáp thân canh 8 thiên xung Giáp ngọ tân 7 Thiên phụ giáp thìn nhâm 6 Thiên cầm Giáp dần quý 5 Thiên tâm Đinh kỳ 4 Thiên trụ bính kỳ 3 Thiên nhậm Ất kỳ 2 Thiên anh Cột thứ hai giống cột 1 Chú thích : Cột 1 Địa bàn nguyên cục Cột 2 Thiên tinh biến, Nhớ là nạp mã M,K,C, T...Đ ở hai cột giống nhau. Chín sao thuộc Văn xương Chín sao thuộc Văn xương (khi chưa động) 1.Văn xương ở cung Càn 1 có can Nhâm 2.Huyền phượng ở cung 2 Ly, có can Đinh 3.Minh ly ở cung cấn có can Giáp 4.Âm đức ở cung 4 chấn có can ất 5. Chiêu dao ở cung 5 TW có can mậu kỷ 6.Hoà âm ở cung 6 đoài có can Tân 7.Huyền vũ ở cung 7 khôn có can Canh 8.Huyền minh ở cung 8 Khảm có can quý 9.Hùng minh ở cung 9 Tốn có can Bính Ở sách Thái ất thống tông Bảo giám và thống tông đại toàn tên sao có hơi khác so với tên các sao viết ở trên. Phương pháp tính 1. Tính tích niên chia cho đại chu 2700, phần dư chia tiếp cho tiểu chu 270 2.Dùng phần nguyên của phép chia ở trên cộng với 1 (nếu phần dư khác không), nếu dư =0 không cộng 1 để xác định vị trí của sao trực sự. 3.Lấy phần dư ở (1) chia 9, phần dư chính là sao trực sự tra ở trên thứ tự 9 sao 4.An 8 sao còn lại vào 8 cung, chú ý chiều thuận nghịch.Dương cục thuận, âm cục nghịch Ví dụ 1: Tìm trực sự năm 1570, tương ứng với can chi năm Canh ngọ âm lịch, thuộc nguyên Canh tý dương, trung nguyên. niên 10.155.487 năm Lấy số 10.155.487 chia 270. Được số dư là 247 247/30 được 8 lần dư 7, chín lần thiếu. vậy Trực sự vào cung thứ 9 tốn Lại lấy 247 chia cho 9 được số dư là 4, vậy ta có Trực sứ là Âm đức 4 đóng ở cung 9 tốn. 8 sao còn lại an như sau: Dương cục an thuận ( có nghĩa là 9,1,2..) 2. Chiêu dao ở cung 1 3. Hoà âm ở cung 2 4. Huyền vũ ở cung 3 5. Huyền minh ở cung 4 6. Hùng minh ở cung giữa 7. Văn xương ở cung 6 8. Huyền phượng ở cung 7 9. Minh ly ở cung 8 ví dụ 2: tìm trực sự năm 2404 dương lịch ( năm giáp tý, nguyên giáp tý thượng nguyên) Thuộc âm cục Số tích niên 10.156.321 năm chia 270 dư 1 1/30 được 0 dư 1 . Trực sự đóng vào cung 1 càn 1/9 dư 1 vậy trực sự là Văn xương 1 An tiếp 8 sao còn lại ( âm cục theo thứ từ 1, 9,8,7,...) 2. Huyền phượng ở cung 9 3. Minh ly ở cung 8 4. Âm đức ở cung 7 5. Chiêu dao ở cung 6 6. Hoà âm ở cung 5 7. huyền vũ ở cung 4 8. Huyền minh ở cung 3 9. Hùng minh ở cung 2 Để thuận tiện cho việc NC Thái ất tôi đưa lên mạng một số tư liệu của tàu Thái ất kim kính tiểu đào kim ca Thái ất nhị thập tứ trừ tích số Nhất cung trì lưu tại tam thần Dương tùng nhất thượng hành tuỳ thuận Âm hướng cửu cung nghịch khứ luân Thập bát trừ chi khởi Vũ đức Càn khôn trùng toán thiên mục thần Dần cơ thân ngẫu giai hành nghịch Thử thị kế thần sở tại thần Kế gia Hoà đức Văn xương hạ Khách mục chí thử khả dung thân Chủ khách chi toán tùng cung số Thái ất cung hậu số kỳ chân Chính cung hoàn y cung số toán Gián thần nhất số tựu cung thần Hợp thần gia chi văn xương hạ Định kế hoàn tu tùng thử luận Tựu tùng Định kế khởi Định toán Du qua thái Ất cung nhất trần Tam tướng tựu tuỳ linh số vị Tham tướng tái hoàn nhân tam nhân Thất thập nhị cục giai tùng thử Thuyết dữ sư gia tử tế tầm Các bạn có thể dùng bài ca này thẩm định lại cách tính toán nói ở trên. Học thuộc nó để tính toán.Sở dĩ tôi phải bám sát vào tài liệu tàu vì khi đọc kỹ tôi thấy tất cả các tài liệu tiếng việt đều có vấn đề cả, tôi sẽ quay lại một số phép toán để đánh giá lại tính bất ổn khi dùng tài liệu tiếng việt sau Cách tính Trực phù, Trực sự ở trên là theo sách Thái ất diễn quái bí lục(TADQBL) Theo sách Thái ất thống tông thì cách tính Trực phù và trực sự như sau: Trực phù: Trí "dần" thượng cổ thượng nguyên giáp tý, chí sở cầu tích niên, dĩ cửu tinh đại chu pháp cửu bách khử chi, bất tận, dĩ tiểu chu pháp cửu thập khử chi,bất tận vi tinh chu dư, dĩ tinh suất thập ước chi, nhi nhất sở đắc vi tinh cung chi số, bất mãn vi nhập tinh cung, dĩ lai niên số kỳ tinh mệnh khởi "Thiên bồng" thuận hành cửu tinh toán ngoại, tức cửu tinh Trực phù sở tại kỳ niên số. Trực sự: Trí thượng cổ thượng nguyên giáp tý, chí sở cầu tích niên, dĩ Văn xương đại chu pháp nhị thiên thất bách trừ chi, bất tận, dĩ tiểu chu pháp nhị bách thất thập khử chi,bất mãn vi cung chu dư, dĩ Cung suất tam thập ước chi, nhi nhất sở đắc vi tinh cung chi số, bất tận vi nhập cung, dĩ lai niên số kỳ cung mệnh khởi nhất cung "Văn xương" thuận hành cửu tinh toán ngoại, tức đắc nhập cung "Trực sự" sở tại kỳ niên số. Tôi xin trích một đoạm trong mô tả 9 sao thuộc Văn xương, và 9 sao thuộc Thái ất. Văn xương cửu tinh giả, thái ất chi dư," mỗi tinh tam thập niên hàng nhất cung" vi trực sự Thái ất cửu tinh nãi đẩu trung chi tinh, "thập niên nhất dịch hành "can chi chi gian, cửu thập niên vi nhất tiểu chu, cửu bách niên vi nhất đại chu. Vậy chứng tỏ cách tính trong sách TADQBL sai vì quan niệm trong thời gian tiểu chu( 10, 30) 9 sao luân phiên nhau thay đổi từng năm. Tính trực phù Từ "Dần" thượng cổ giáp tý thì tất cả các sách tiếng việt sai.Vì tích niên tính từ thượng cổ giáp tý= Số năm + 10.153.917, nếu tính từ Dần thượng cổ giáp tý thì phải lấy tích niên trừ 2, vì mốc từ tý đến dần cánh 2.Trong các phép tính thái ất tính từ dần thượng cổ giáp tý sách tiếng việt thì đều tính giống thương cổ giáp tý( Chú ý dần thượng cổ giáp tý khác với trung cổ giáp dần). Mặc dù tôi đã xem khá kỹ nhưng vẫn đề phòng sai mong các bạn kiểm tra lại. Còn nhiều phép tính khác tiếp theo tôi thấy các sách tiếng việt đều bị sai lạc so với bản tiếng tàu, cuốn Thái ất giản dị lục là sai lạc ít nhất. Quân cơ: Trí thượng nguyên Giáp tý chí sở cầu tích niên ,gia bang doanh sai nhị bách ngũ thập(250),dĩ quân cơ đại chu pháp tam thiên lục bách trừ chi, bất tận dĩ tiểu chu pháp tam bách lục thập khử chi, bất tận vi bang chu dư, dĩ hành bang suất tam thập ước chi nhi nhất sở đắc vi bang số bất mãn vi nhập bang, dĩ lai niên số mệnh khởi ngọ bang thuận hành thập nhị thần , thứ toán ngoại nhi đắc quân cơ. Thần cơ: Trí thượng nguyên giáp tý chí sở cầu tích niên, gia bang doanh sai nhị bách ngũ thập,dĩ thần cơ đại chu pháp tam bách lục thập trừ chi, bất tận dĩ tiểu chu pháp tam thập lục khử chi, bất tận vi bang chu dư, dĩ hành bang suất tam ước chi, nhi nhất sở đắc vi bang số, bất mãn vi nhập bang, dĩ lai niên số mệnh khởi ngọ bang thuận hành thập nhị thần thứ toán ngoại nhi đắc thần cơ. Dân cơ: Trí thượng nguyên giáp tý chí sở cầu tích niên, gia bang doanh sai nhị bách ngũ thập,dĩ dân cơ đại chu pháp tam bách lục thập trừ chi, bất tận dĩ tiểu chu pháp thập nhị khử chi, bất tận vi bang chu dư, Tựu mệnh vi khởi tuất bang thuận hành thập nhị thần toán ngoại tức đắc dân cơ. Ngũ phúc:Trí thượng nguyên Giáp tý chí sở cầu tích niên ,gia bang doanh sai nhất bá nhất thập ngũ(115),dĩ Ngũ phúc đại chu pháp nhị thiên nhị bách ngũ thập(2250) trừ chi, bất tận dĩ tiểu chu pháp nhị bách nhị thập ngũ khử chi, bất tận vi bang chu dư, dĩ hành cung suất tứ thập ngũ ước chi nhi nhất sở đắc vi cung số bất mãn vi nhập cung, dĩ lai niên số kỳ cung mệnh khởi Càn, cấn, tốn, khôn, trung cung, tức đắc ngũ phúc. Doanh sai của Ngũ phúc trong TATK là 125. tôi không thấy có bất cứ sách nào đề như vậy, sách thái ất thống tông đại toàn ghi doanh sai 250, các sách còn lại 115, theo tôi là 115. Tiểu du thái ất: Trực Dần thượng nguyên giáp tý chí sở cầu tích niên, dĩ tiểu kỷ nguyên chu pháp tam bách lục thập trừ chi, bất tận, dĩ cung pháp nhị thập tứ khử chi, bất tận vi cung chu dư, dĩ hành cung suất tam ước chi, nhi nhất sở đắc vi cung số, bất mãn vi nhập cung, dĩ lai niên số mệnh khởi nhất cung, thuận hành bát cung bất nhập trung ngũ, toán ngoại tức đắc tiểu du Thái ất. Chú ý: dần thượng nguyên giáp tý. Đại du thái ất: Trực thượng nguyên giáp tý chí sở cầu tích niên, gia cung doanh sai tam thập tứ, dĩ đại du đại chu pháp nhị thiên bát bách thập trừ chi, bất tận dĩ tiểu chu pháp nhị bách bát thập bát khử chi, bất tận vi cung chu dư, dĩ hành cung suất tam thập lục ước chi nhi nhất sở đắc vi cung số, bất mãn vi nhập cung số, lai niên số kỳ cung mệnh khởi thất cung thuận hành bát cung bất nhập trung ngũ, toán ngoại đắc đại chu thái ất. Thiên ất: Trực thượng nguyên giáp tý chí sở cầu tích niên, dĩ thiên ất đại chu pháp tam bách lục thập trừ chi, bất tận tiểu chu pháp tam thập lục khử chi, bất tận vi cung chu dư, dĩ hành cung suất tam ước chi, nhi nhất sở đắc vi cung số, bất mãn vĩ nhập cung, dĩ lai niên số mệnh khởi lục cung thuận hành cửu cung, thứ tiếp Giáng cung, Minh đường, Ngọc đường, tam cung toán ngoại tức đắc thiên ất thái ất. Địa ất: Trí thượng nguyên giáp tý chí sở cầu tích niên, dĩ địa ất đại chu pháp tam bách lục thập trừ chi, bất tận tiểu chu pháp tam thập lục khử chi, bất tận vi cung chu dư, dĩ hành cung suất tam ước chi, nhi nhất sở đắc vi cung số, bất mãn vĩ nhập cung, dĩ lai niên số mệnh khởi cửu cung , thứ tiếp Giáng cung, Minh đường, Ngọc đường, tam cung tiếp chi cập vu nhất cung thuận hành cửu cung toán ngoại tức đắc địa ất thái ất. Tứ thần: Trí thượng nguyên giáp tý chí sở cầu tích niên, dĩ tứ thần đại chu pháp tam bách lục thập trừ chi, bất tận tiểu chu thiên tam thập lục khử chi, bất tận vi cung chu dư, dĩ hành cung suất tam ước chi, nhi nhất sở đắc vi cung số, bất mãn vĩ nhập cung, dĩ lai niên số mệnh khởi nhất cung thuận hành cửu cung , thứ dĩ Giáng cung, Minh đường, Ngọc đường, tam cung tiếp chi toán ngoại tức đắc tứ thần sở tại cập niên số. Trực phù: Trí thượng nguyên giáp tý chí sở cầu tích niên, dĩ tứ thần đại chu pháp tam bách lục thập trừ chi, bất tận tiểu chu pháp tam thập lục khử chi, bất tận vi cung chu dư, dĩ hành cung suất tam ước chi, nhi nhất sở đắc vi cung số, bất mãn vĩ nhập cung, dĩ lai niên số mệnh khởi ngũ cung thuận hành cửu cung, thứ dĩ , Minh đường,giáng cung, Ngọc đường, cập thập nhất y thứ. Thập nhị bát tú: có thứ tự sau: Giốc,Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê,Lâu, Vị, Mão,Tất, Chuỷ, Sâm, Tỉnh,Quỷ, Liễu, Tinh, Trương,Dực, Chẩn. Tính sao quản theo năm theo CT: Tích niên chia 28 lấy phần dư, dư 1 ứng với tất , 2 chuỷ... Thái âm: " Cư thái tuế hậu nhị thần". Trong sách TADGL thì Tứ thần trung nguyên khởi cung 9 Hạ nguyên khởi 5 Không nói thượng nguyên Thiên ất : Thượng nguyên khởi 6 Trung nguyên khởi 2 Hạ nguyên giáng cung Địa ất: Thượng nguyên khởi 9 Trung nguyên khởi 5 Hạ nguyên khởi 1 Trực phù: Thượng nguyên khởi 5 Trung nguyên khởi 1 Hạ nguyên khởi 9 Sách TATK Tị=Giáng cung Thân= Minh đường Dần = Ngọc đường Sách tàu Giáng cung = 9 Ngọc đường =7 Minh đường= 1 Tôi chọn theo sách tàu. Trong TATTBG ghi cách tính Địa ất khởi 9 nhưng khi lập cục họ lại khởi từ 5 Trên đây là các phép tính cơ bản về thái ất, hy vọng phần nào giúp các bạn mới NC thái ất vượt qua được cửa ải khó khăn đầu tiên của thái ất. Các sao chính của Thái Ất gồm có: Thái Ất Văn Xương Kể Thần Thuỷ Kích Thần Hợp Kể Định Tương ứng với Thái Ất có Đại Du và Tiểu Du cũng là Thái Ất nhưng có chỗ khác nhau rất căn bản. Văn Xương còn có tên là Chủ Mục , theo sau nó có hai sao Chủ Đại Tướng Chủ Tham Tướng Thuỷ Kích còn có tên là Khách Mục, theo sau nó cò hai sao Khách Đại Tướng Khách Tham Tướng Kể Thần còn có tên là Kể Mục, theo sau nó cò hai sao Kể Đại Tướng Kể Tham Tướng Kể Định còn có tên Định Mục, theo sau nó có hai sao Định Đại Tướng Định Tham Tướng Thêm vào các sao chính trên, môn Thái Ất còn kể đến các thần ( sao ) sau cũng không kém phần quan trọng Ngũ Phúc Quân Cơ Thần Cơ Dân Cơ Tứ Thần Thiên Ất Địa Ất Trực Phù __________________ Các Thần ở trên có vai trò điều hoà trời đất, trên thì điều chỉnh Âm Dương gây ra mưa gió sấm chớp, lũ lụt. Dưới điều chỉnh sông núi mùa màng, quyết định thịnh suy bĩ thái, trị loạn của cả một thời đại, một vương triều. Khi dùng nó đề dùng xem về Số mệnh cần cân nhắc nặng nhẹ thịnh suy thì cho biết thịnh suy sướng khổ, Phúc Hoạ của cả một đời người. Khi dùng vào việc binh nó cho phép xem ngày khởi binh, xem cách hành quân, xem địch đến nhiều hay ít, xem xét thắng bại, lợi hại rõ ràng. Cần cân nhắc kỹ càng khi áp dụng. Ngoài ra nó còn dùng để tiên đoán về thiên tai, giặc giã, ốm đau bệnh tật. Môn Thái Ất khi tinh thông có thể xem xét thịnh suy bĩ thái của cả Trời Đất Người, không gì là thoát khỏi bàn tay của nó. __________________ Phép xem Thái Ất gồm 4 kiểu: -Niên kể: dùng để tiên đoán hoạ hại, phúc đức, thịnh suy, thiên tai của một quốc gia. Vua chúa dùng nó để sửa đức cho đúng với điềm trời báo. -Nguyệt kể: dùng cho các bậc Tể Phụ, để an dân trị quốc, báo mưa nắng, trị loạn giúp Vua trị dân, giúp dân thu hoạch mùa màng, phòng chống thiên tai -Nhật kể: dùng cho mỗi người chúng ta để tự đoán định cuộc đời mình. -Thời Kể: chuyên dùng cho việc dùng binh Ngoài ra cón có hai kiểu xem là -Thần kể: dùng nó để trợ chủ. -Định Kể: dùng nó để trợ khách. Hai phép sau cùng rất khó, bản thân tôi nghĩ chắc không có một ai hiện nay có thể nói là biết dùng ( một phần cũng vì tài liệu ghi chép rất mù mờ và thất lạc kể cả Hán và Việt). Ở đây xin nhấn mạnh vào Nhật Kể để xem số mệnh cuộc đời của mỗi người. Thái Ất không chú trọng vào số mệnh mà mình phải gánh, nó thiên về điềm báo của trời ứng trên lá số của anh mà anh phải sống làm sao để tai ương ít, phúc đức nhiều. Chính vì thế nhiều khi hai lá số Thái Ất giống nhau nhưng lại hai số phận khác hẳn nhau. Mấu chốt của Nhật kể là an được quẻ Ất để xem xét tổng quát về cuộc đời Vận Hạn, sau đó nhập Quẻ để biết cuộc đời thịnh suy. Quẻ và Hào sẽ dạy chúng ta cách sống phải như thế nào để gặp Phúc thoát Hoạ. __________________
  15. Trích từ tác giả KARAJAN: 1. Thái Ất Nhật Kể nhập cục: 1.1Dẫn Nhập: Phép xem Nhật Kể tức là tính toán số ngày tích lại đến ngày sinh để vào cục. Sách Tàu họ chép Nhật Kể có mốc tính là vào ngày mồng 1 tháng Giáp Tý năm thứ nhất niên hiệu Cảnh Bình ( đời Tống Phế Đế Lưu Huệ (423-424)), nhằm ngày 19/2 năm 423 sau Công Nguyên - Dương Lịch. Còn Thái Ất Thần Kinh chép là sau Đông Chí chọn ngày Giáp Tý gần nhất để làm mốc tính. Thực tế ra phép Thái Ất là phép đếm rồi chia lấy số dư gọi là TOÁN, đếm thì phải có MỐC để đếm giống như Vật Lý phải có Hệ Quy Chiếu. Tôi chọn theo Thái Ất Thần Kinh, sau này tôi sẽ chứng minh hai cách tính trên là gần như là như nhau bằng Đồng Dư thức và Lịch Pháp. Còn một vấn đề nữa là sách Tàu họ ghi sau Hạ Chí đến trước Đông Chí thì dùng Cục Âm. Từ Đông Chí sang đầu Hạ Chí thì dùng Cục Dương cho Nhật Kể. Thái Ất Thần Kinh chép ngoài Thời Kể thì không dùng Cục Âm cho các Kể khác. ( Chỉ có một ngoại lệ duy nhất là dùng Nhật Kể để xem ngày ra quân thì có chia ra Độn Âm Cục và Độn Dương Cục). Về Thiên Văn và Khí Hậu thì bắt đầu từ Đông Chí đến đầu Hạ Chí khí dương bắt đầu sinh và phát triển đến cực thịnh. Hạ Chí đến đầu Đông Chí thì khí Âm bắt đầu hình thành và phát triển đến cực thịnh. Cho nên mới có cái lý chia ra xen hai kiểu Độn Cục Âm hay Dương như trên. Riêng về cái này, tôi không dám bảo ai đúng ai sai, chỉ xin lần lượt trình bày cả hai cách để mọi người cùng suy nghĩ, tự đoán cho mình xem cái nào đúng hơn. 1.2 Cách tính: Cách tính như sau từ sau tiết Đông Chí của năm trước đó chọn ngày Giáp Tý gần nhất để làm mốc tính. Đếm từ ngày Giáp Tý đó đến NGÀY SINH của mình được bao nhiêu ngày gọi là số TÍCH NHẬT. Ví dụ: Nam sinh ngày 17 tháng 1 năm 1980 ( Âm Lịch) - Bát Tự sẽ là : Canh Thân Mậu Dần N.Ất Hợi Đinh Hợi +Đổi ra Dương Lịch là ngày 3 tháng 3 năm 1980. +Ta thấy ngày ĐÔNG CHÍ gần nhất trước ngày 3/3 năm 1980 là ngày 22 tháng 12 năm 1979. Từ ngày Đông Chí này ta tìm ngày Giáp Tý gần nhất là ngày 23/12 năm 1979. +Như vậy ngày 23/12 năm 1979 là mốc để tính Tích Nhật. Ta tính từ ngày 23/12 đến ngày 3/3 thì có tất cả là 72 ngày. Như vậy TÍCH NHẬT là 72. +Lấy TÍCH NHẬT chia cho 72, số thành cộng với 1 là số Nguyên, số dư là số Cục. Như trường hợp trên, 72 chia 72 được 0 dư 72 -> như vậy là vào cục 72 - Nguyên thứ nhất. TÍCH NHẬT là nòng cốt của phép Nhật kể để an các sao trong Quẻ Ất, phải tính rất cẩn thận, nếu sai coi như toàn bộ sai. Một lá số Thái Ất bao gồm 16 cung: có 12 cung Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất , Hợi và thêm 4 cung Càn nằm chen giữa Tuất và Hợi, Cấn nằm giữa Sửu và Dần. Tốn nằm giữa Thìn và Tỵ, Khôn nằm giữa Mùi và Thân. Bốn cung Càn, Cấn, Tốn , Khôn chính là bốn góc của Lá Số Thái Ất. Trên 16 cung này lần lượt ghi tên 16 Thần của môn Thái Ất ( tên của 16 Thần, cũng như vị trí đóng xin xem Hình Vẽ). 16 cung này được chia ra làm các cung Chính Thần vị và các cung Gián Thần vị. Chính Thần Vị gốm 8 cung : CÀN được phối số 1, NGỌ ( ứng quẻ LY) được phối số 2, CẤN được phối số 3, MÃO ( ứng quẻ CHẤN) được phối số 4, cung chính giữa được phối số 5, cung DẬU ( ứng quẻ ĐOÀI) được phối số 6, cung KHÔN được phối số 7, cung TÝ ( ứng quẻ KHẢM) được phối số 8, cung TỐN được phối số 9. ( Xin xem thêm hình vẽ) Các cung Chính Thần Vị cần phải nhớ kỹ đó là các cung nào và được phối với con số nào. Gián Thần Vị gồm các cung Dần, Thìn, Tỵ, Mùi, Thân, Tuất, Hợi và Sửu. Các cung Gián Thần Vị không được phối với số nào cả.Một lá số Thái Ất bao gồm 16 cung: có 12 cung Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất , Hợi và thêm 4 cung Càn nằm chen giữa Tuất và Hợi, Cấn nằm giữa Sửu và Dần. Tốn nằm giữa Thìn và Tỵ, Khôn nằm giữa Mùi và Thân. Bốn cung Càn, Cấn, Tốn , Khôn chính là bốn góc của Lá Số Thái Ất. Trên 16 cung này lần lượt ghi tên 16 Thần của môn Thái Ất ( tên của 16 Thần, cũng như vị trí đóng xin xem Hình Vẽ). 16 cung này được chia ra làm các cung Chính Thần vị và các cung Gián Thần vị. Chính Thần Vị gốm 8 cung : CÀN được phối số 1, NGỌ ( ứng quẻ LY) được phối số 2, CẤN được phối số 3, MÃO ( ứng quẻ CHẤN) được phối số 4, cung chính giữa được phối số 5, cung DẬU ( ứng quẻ ĐOÀI) được phối số 6, cung KHÔN được phối số 7, cung TÝ ( ứng quẻ KHẢM) được phối số 8, cung TỐN được phối số 9. ( Xin xem thêm hình vẽ) Các cung Chính Thần Vị cần phải nhớ kỹ đó là các cung nào và được phối với con số nào. Gián Thần Vị gồm các cung Dần, Thìn, Tỵ, Mùi, Thân, Tuất, Hợi và Sửu. Các cung Gián Thần Vị không được phối với số nào cả. Bốn cung Chính Thần Vị là CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN có tình thông thần: +Cung CÀN thông thần với hai cung kẹp hai bên là cung Tuất và cung Hợi +Cung KHÔN thông thần với hai cung Mùi và Thân +Cung CẤN thông thần với hai cung Dần và Sửu +Cung TỐN thông thần với hai cung Tỵ và Thìn. Thế nào là THÔNG THẦN? Nó có nghĩa là bốn cung CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN thông với các cung đã kể trên, sau này ví dụ Mệnh an tại cung THÂN hay cung MÙI thì phải xem cả các Sao đóng tại cung KHÔN vì đó là cung Thông Thần của bản Mệnh, quan trọng như các sao Tọa Thủ trong mệnh không kém tý nào cả. Hay ví dụ như cung xung chiếu của cung Dần là cung Thân không chưa đủ mà nó chính là hai cung THÂN + KHÔN. Xin mọi người lưu ý kỹ, việc về các cung Thông Thần rất dễ thiếu sót khi xem lá số và dể sai vì Tam Hợp và Xung Chiếu nó hơi khác so với Tử Vi. Trong môn Thái Ất không xét đến cung Nhị Hợp. Sau khi đã hình dung rõ ràng về hình ảnh một Lá Số Thái Ất như thế nào, xung chiếu, tam hợp chiếu và đặc biệt là khái niệm về các cung Thông Thần, chúng ta mới có thể đi vào an các sao của Thái Ất và bắt đầu luận đo Phép an cung Mệnh Thân: Sau khi in ra Tứ Trụ của Giờ, Ngày Tháng Năm sinh, ta lấy CHI của Tháng Sinh trỏ lên CHI của Năm Sinh đếm theo chiều THUẬN đến CHI của Giờ Sinh, dừng lại ở đâu thì an cung Mệnh tại đó, khi đếm bỏ qua 4 cung CÀN CẤN TỐN KHÔN không kể. Ví dụ như Lá Số đã nói ở trên (17 tháng 1 năm Canh Thân, giờ Hợi) đổi ra Tứ Trụ sẽ là : Canh Thân Mậu Dần N.Ất Hợi Đinh Hợi Lấy CHI của Tháng Sinh là DẦN để lên cung THÂN ( CHI của Năm Sinh). Từ cung Thân kể là DẦN, đếm theo chiều thuận Dần ở cung Thân, Mão ở cung Dậu, Thìn ở cung Tuất, Tỵ ở cung Hợi ( bỏ qua cung CÀN), Ngọ ở cung Tý, Mùi ở cung Sửu, Thân ở cung Dần ( bỏ qua cung CẤN), Dậu ở cung Mão, Tuất ở cung Thìn, Hợi ở cung Tỵ (bỏ qua cung TỐN)-> Mệnh an tại cung TỴ. Sau đó lần lượt Dương Nam, Âm Nữ theo chiều thuận; Âm Nam Dương Nữ theo chiều nghịch lần lượt an 12 cung ( cũng bỏ qua 4 cung CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN không tính). 1.Mệnh 2.Huynh Đệ 3.Phu Thê 4.Tử Tức 5.Tài Bạch 6.Điền Trạch 7.Quan Lộc 8.Nô Bộc 9.Tật Ách 10.Phúc Đức 11.Tướng mạo 12.Phụ Mẫu Cung an THÂN được an như sau: Xem NGÀY SINH có CHI gì thì an cung THÂN vào cung có ĐỊA CHI tương ứng trong Lá Số Thái Ất. Ví dụ như Lá Số trên sinh ngày Ất Hợi cho nên cung An THÂN an ở cung Hợi. Khác với Tử Vi, cung an THÂN trong môn Thái Ất có thể an tại bất kỳ 1 trong 12 cung. Phép an sao Thái Ất: Thái Ất hành 3 ngày thì qua một cung, lần lượt qua 8 cung Chính Thần Vị , tổng là 24 ngày thì hết một chu trình. Sao Thái Ất được an như sau: +Lấy TÍCH NHẬT chia cho 24 lấy SỐ DƯ +SỐ DƯ này là Số Bị Chia đem chia cho 3, ta thu được Thương Số và Số Dư. +Bắt đầu khởi từ cung CÀN ( cho Dương Cục) chuyển theo chiều thuận và từ cung TỐN ( cho Âm Cục) chuyển theo chiều ngược, lần lượt đi qua các cung CHÍNH THẦN VỊ theo đúng thứ tự số phối của các cung CHÍNH THẦN, không vào cung GIỮA, mổi cung kể 1 lần, đếm đến THƯƠNG SỐ + 1 thì dừng lại và an sao Thái Ất ở đó. Ví dụ TÍCH NHẬT 12. +12 / 24 được 0 dư 12 +Số dư 12 chia 3 được 4 dư 0 Như vậy là Thái Ất đã đi qua 4 cung trong tổng số 8 cung Chính Thần ( chưa hết 1 chu kỳ) và đang ở cung thứ 4 được 3 ngày ( tức ngày cuối cùng). Ta khởi từ cung CÀN ( vì được phối số 1), sau đó đếm đến cung NGỌ ( phối số 2), cung CẤN ( phối số 3) cung CHẤN ( phối số 4) -> an Thái Ất ở cung CHẤN ( tức cung Mão). cho Dương Cục Nếu là Âm Cục chúng ta khởi từ cung TỐN ( phối số 9 ) đếm ngược lại cung có số 8 là cung TÝ, cung có số 7 là cung KHÔN, cung có số 6 là cung DẬU -> đã đi được 4 cung vậy Thái Ất an tại DẬU. Ví dụ 2 TÍCH NHẬT 31 +Lấy 31 chia 24 được 1 dư 7 +Lấy 7 chia 3 được 2 dư 1 như vậy Thái Ất đã đi hết 1 Chu Kỳ 24 ngày và đang ở ngày thứ 7 của Chu kỳ thứ 2. 7 chia 3 được 2 dư 1, như vậy Thái Ất đã ở cung 1 được 3 ngày, cung 2 củng 3 ngày và đang ở cung thứ 3 mới được 1 ngày ( còn 2 ngày nữa mới sang cung thứ 4). Dương Cục : cung thứ nhất là cung CÀN, cung 2 là cung NGỌ -> như vậy Thái Ất đang ở cung CẤN được 1 ngày Âm Cục: cung thứ nhất là cung TỐN, cung 2 là cung TÝ-> như vậy Thái Ất đang ở cung KHÔN được 1 ngày. An sao Văn Xương ( hay còn gọi là THIÊN MỤC) Văn Xương được an như sau: +Tích Nhật chia cho 18 lấy số dư. +Khởi từ cung Thân ( cho Dương Cục) hoặc cung Dần ( cho Âm Cục) chuyển xuôi 16 thần ( nghĩa là đi theo chiều xuôi lần lượt qua 16 cung) , nếu gặp Càn Khôn thì lưu 2 Toán ( cho Dương Cục) , gặp Cấn Tốn thì lưu 2 toán ( cho Âm Cục). Ví dụ: Tích Nhật 82 + 82 chia 18 được dư 10. +Từ cung Thân bắt đầu đếm 1, Dậu là 2, Tuất là 3 , đến cung CÀN phải lưu 2 Toán cho nên đếm 4 và 5, Hợi là 6, Tý là 7, Sửu là 8, Cấn là 9, Dần là 10-> an Văn Xương tại cung DẤN +Nếu là Âm Cục thì từ cung Dần đếm là 1, Mão là 2, Thìn là 3, TỐN phải lưu hai Toán cho nên đếm 4 và 5, Tỵ là 6, Ngọ là 7, Mùi là 8 , Khôn là 9, Thân là 10 -> an Văn Xương tại THÂN An sao Kể Thần ( hay còn gọi là Văn Kể hoặc Kể Mục) Kể Thần được an như sau: +Tích Nhật chia cho 12 lấy số dư. +Khởi cung Dần ( cho Dương Cục), cung Thân ( cho Âm Cục) lần lượt đi theo chiều nghịch qua 12 cung ( bỏ 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn), đi hết số dư dừng lại thì an Kể Thần. Ví dụ: Tích Nhật 82 ( như trên) +82 chia 12 dư 10 +Khởi từ cung Dần kể là 1, đếm theo chiều nghịch đến Sửu là 2, Tý là 3, Hợi là 4, Tuất là 5, Dậu là 6, Thân là 7, Mùi là 8, Ngọ là 9, Tỵ là 10 -> an Kể Thần tại Tỵ. +Nếu là Âm Cục khởi từ cung Thân là 1, đếm theo chiều nghịch đến Mùi là 2, Ngọ là 3, Tỵ là 4, Thìn là 5, Mão là 6, Dần là 7, Sửu là 8, Tý là 9 , Hợi là 10-> an Kể Thần tại Hợi An sao Thủy Kích ( hay còn gọi là KHÁCH MỤC) Sao Thủy Kích an dựa vào hai sao Văn Xương và Kể Thần. +Tìm trên Lá số xem Văn Xương và Kể Thần ở cung nào. +Từ cung có Kể Thần đếm theo chiều thuận đến cung có Văn Xương xem tất cả có bao nhiêu cung ( khi đếm phải tính luôn cả 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn). +Khởi từ cung Cấn đếm theo chiều thuận đến số cung đã tính ở bước 2, dừng lại ở đâu an Thủy Kích ( ở đó) -> dùng cho Dương Cục +Khởi từ cung Thân đếm theo chiều nghịch đến số cung đã tính ở bước 2, dừng lại ở đâu an Thủy Kích ở đó -> dùng cho Âm Cục Ví dụ : như trên Tích Nhật 82 , ta đã tìm được Văn Xương an ở cung Dấn. Và Kể Thần an ở cung Tỵ. +Từ cung Tỵ đếm theo chiều thuận đến cung Dần thì có tất cả là 13 cung. Tỵ, Ngọ, Mùi, Khôn, Thân, Dậu, Tuất, Càn, Hợi, Tý, Sửu, Cấn, Dần. +Từ cung Cấn chuyển theo chiều thuận 13 cung sẽ đến cung CÀN-> an Thủy Kích ở CÀN Đối với Âm Cục ta cũng làm tương tự như trên, nhưng Thuỷ Kích khởi từ cung THÂN chuyển ngược. An sao Kể Định ( hay còn gọi là Định Mục): Muốn xác định Kể Định phải dựa vào Văn Xương, Thái Tuế và Thần Hợp: +Sinh vào NGÀY nào thì an Thái Tuế tại cung có ĐỊA CHI tương ứng trong Lá Số. +Tìm ngày NHỊ HỢP với NGÀY SINH và an vào cung đó Thần Hợp. +Từ cung an Thần Hợp đếm theo chiều thuận đến cung an sao Văn Xương xem có bao nhiều cung ( khi đếm phải đếm luôn cả 4 cung CÀN KHÔN CẤN TỐN). +Từ cung an Thái Tuế đếm đi theo chiều thuận bấy nhiêu cung như đã tính ở bước 2 , dừng lại ở đâu thì an Định Mục ở đấy. Ví dụ : Tích Nhật 82 tức sinh ngày Ất Dậu +An Thái Tuế tại Dậu +Cung Nhị Hợp với cung Dậu là cung Thìn-> an Thần Hợp tại Thìn +Như đã biết, Văn Xương an ở cung Thần. +Từ cung Thìn đến cung Thân theo chiều thuận gồm có 7 cung +Khởi từ cung Dậu theo chiều thuận 7 cung sẽ đến cung Cấn-> an Định Mục tại Cấn Toán Chủ và hai sao Đại Tướng Chủ, Tham Tướng Chủ: Đại Tướng Chủ và Tham Tướng Chủ là hai tướng phụ tá của Chủ Mục. Nó nắm quyền binh sinh sát trong nội phủ, cai quản binh quyền ở gần Vua. Để an hai vị Tướng này phải tính Toán Chủ. Toán Chủ được tính như sau: +Xác định Thái Ất và Văn Xương đang ở các cung nào cung nào. +Đi theo chiều thuận từ Văn Xương đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất, và cộng toàn bộ những chữ số được gán cho các cung CHÍNH THẦN ( xem ảnh lá số) lại, được bao nhiêu đó là Toán Chủ. Lưu ý nếu Văn Xương đứng ở cung CHÍNH THẦN thì chỉ tính cung Chính Thần, các cung Gián Thần bỏ qua. Nếu Văn Xương đứng ở cung GIÁN THẦN thì chỉ cung Gián Thần nơi Văn Xương đứng tính là 1 rồi cộng với các cung CHÍNH THẦN khác, các cung GIÁN THẦN còn lại cũng bỏ qua. Ví dụ như trên ta tính được Thái Ất an ở Tốn, Văn Xương ở Thân ( Nhật Kể 72) +Theo chiều thuận từ Văn Xương đến Thái Ất thì cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất là cung MÃO có biệt số là 4. +Văn Xương ở Thân là cung GIÁN THẦN như vậy tính là 1, sau đó các cung CHÍNH THẦN còn lại từ THÂN -> MÃO là DẬU có biệt số 6, CÀN có biệt số 1, TÝ có biệt số 8 CẤN có biệt số 3. +Cộng hết lại : 1 + 6 + 1 + 8 + 3 + 4 = 23. Như vậy Toán Chủ là 23. Sau khi tính được Toán Chủ nếu lớn hơn 10, 20, 30 thì bỏ chứ số hàng chục chỉ lấy chữ số hàng đơn vị. Xem chữ số này là số mấy thì an Đại Tướng Chủ vào cung có số tương ứng. Ví dụ Toán chủ được 15 , bỏ số 1 đi còn lại số 5, số 5 là số của cung Giữa-> an Đại Tướng Chủ ở cung giữa. Toán chủ được 27, bỏ đi số 2 còn lại số 7, số 7 là số của cung KHÔN-> an Đại Tướng Chủ ở KHÔN Toán chủ được các số tròn chục như 10, 20, 30, 40 ,... thì bỏ chữ số hàng đơn vị mà lấy chữ số hàng chục. Ví dụ Toán chủ được 10, bỏ số 0 đi còn lại số 1, số 1 là số của cung CÀN-> an Đại Tướng chủ ở cung CÀN Sau khi an Đại Tướng Chủ, ta lấy số của cung an Đại Tướng Chủ nhân 3 lên, nếu lớn hơn 10 thì bỏ đi chữ số hàng chục, chỉ lấy chữ số hàng đơn vị, xem chữ số này ứng với cung nào thì an Tham Tướng Chủ vào cung đó. Ví dụ Đại Tướng Chủ ở cung giữa mang số 5. Lấy 5 * 3 = 15, bỏ 1 còn số 5-> Tham Tướng Chủ cũng ở cung giữa. Đại Tướng Chủ ở cung Khôn mang số 7. Lấy 7* 3= 21, bỏ số 2 còn số 1-> an Tham Tướng Chủ ở cung CÀN. Toán Khách và hai Khách Tướng : Đại Tướng Khách, Tham Tướng Khách: Toán Khách được xác định như sau: +Xem trên bản đồ Thái Ất thấy Thuỷ Kích đóng ở cung nào, kể từ cung này theo chiều thuận, đếm đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất. +Cộng toàn bộ những số ở các cung CHÍNH THẦN đã đi qua, bỏ qua các cung GIÁN THẦN, nếu Thuỷ Kích nằm tại cung Gián Thần thì chỉ tính cung Gián Thần này 1, các cung Gián Thần khác đều bỏ qua. Kết quả được bao nhiêu chính là Toán Khách. Ví dụ: Thuỷ Kích đóng tại cung Khôn, Thái Ất đóng tại cung Tốn. Theo chiều thuận ta thấy cung CHÍNH THẦN gần cung TỐN nhất là cung CHẤN ( Mão). Thuỷ Kích đóng tại cung Chính Thần cho nên bỏ qua hết các cung Gián Thần, đi từ cung KHÔN đến cung CHẤN sẽ đi qua các cung CHÍNH THẦN sau ĐOÀI, CÀN, KHẢM, và CẤN. Cộng hết các số phối tại các cung Chính Thần lại ta được: 7+6+1+8+3+4=19-> Toán Khách là 19. Cũng như trên nhưng nếu Thuỷ Kích nằm ở cung Mùi, thì do Mùi là cung Gián Thần nên tính thêm là 1, còn các cung Gián Thần khác đều bỏ qua hết, và chúng ta được Toán Khách là 20. Sau khi tính được Toán Khách chúng ta an hai vị Khách Tướng là Đại Tướng Khách và Tham Tướng Khách. Toán Khách nếu lớn hơn 10 thì bỏ chữ số hàng chục chỉ lấy chữ số hàng đơn vị. Nếu Toán Khách được các số tròn chục 10, 20, 30,... thì bỏ chữ số hàng đơn vị mà lấy chữ số hàng chục. Sau đó an Đại Tướng Khách vào cung Chính Thần có số tương ứng. Ví dụ nhu trên ta tính được Toán Khách 19, bỏ 1 còn 9 như vậy Đại Tướng Khách an tại cung mang số 9 là cung TỐN. Lấy số cung của cung an Đại Tướng Khách nhân 3, nếu lớn hơn 10 thì bỏ chữ số hàng chục chỉ lấy chữ số hàng đơn vị, an Tham Tướng Khách vào cung có số tương ứng vừa tính được. Ví dụ ta thấy ở trên Khách Đại Tướng an ở cung 9, lấy 9 nhân 3 = 27, bỏ 2 còn 7-> an Tham Tướng Khách tại cung mang số 7 là cung KHÔN Toán Kể - Kể Đại Tướng, Kể Tham Tướng: Bắt đầu từ cung an Kể Thần đi theo chiều thuận đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất: +Nếu Kể Thần đóng tại cung Chính Thần thì cộng tất cả các số gán cho các cung CHÍNH THẦN kể từ cung Kể Thần đóng đến cung Chính Thần gần Thái Ất nhất, các cung Gián Thần bỏ qua. +Nếu Kể Thần đóng tại cung Gián Thần thì tính cung Gián Thần này là 1 , các cung Gián Thần khác bỏ qua và làm như bước trên. Ví dụ: Thái Ất đóng tại cung CẤN, Kể Thần đóng tại cung Tuất. +Theo chiều thuận thì cung Chính Thần gần Thái Ất nhất là cung KHẢM biệt số 8. +Cung Tuất là cung Gián Thần, cho nên tính là 1, sau đó cung CÀN là Chính Thần được 1, cung Khảm được 8-> Toán kể là 1+1+8=10. Khi tính được Toán Kể , nếu là các số tròn chục như 10,20,30,40 thì bỏ hàng đơn vị lấy hàng chục, nếu là số không tròn chục thì bỏ hàng chục lấy hàng đơn vị. An Kể Đại Tướng và cung CHÍNH THẦN có biệt số tương ứng vừa tìm được ở bước trên. Lấy biệt số cung Kể Đại Tướng nhân 3, nếu lớn hơn 10 thì bỏ đi hàng chục chỉ lấy hàng đơn vị, và an Kể Tham Tướng vào cung CHÍNH THẦN tương ứng với số vừa tìm được. Ví dụ: + Ở trên ta tính Toán Kể la 10, như vậy bỏ 0 lấy 1, 1 là biệt số của cung CÀN-> an Kể Đại Tướng vào cung CÀN + Lấy 1*3 = 3, như vậy an Kể Tham Tướng vào cung có mang biệt số 3 là cung CẤN. Toán Định - Định Đại Tướng - Định Tham Tướng: Tìm Định Mục an tại cung nào, đếm theo chiều thuận đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất. Công toàn bộ biệt số của các cung CHÍNH THẦN vị khi đi qua, nếu Định Mục ở cung Gián Thần thì tính là 1, các cung Gián Thần khác bỏ qua, nếu Định Mục ở cung Chính Thần thì bỏ toàn bộ các cung Gián Thần không kể. Ví dụ: +Định Mục đóng tại cung Dần, Thái Ất đóng tại cung Khôn. +Theo chiều thuận từ cung Dần thì cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất là cung Ngọ (LY) có số 2. +Định Mục ở cung Gián Thần ( Dần) cho nên tính là 1, lần lượt đi qua Mão (Chấn) (3), TỐN (9) , NGỌ (LY) (2)-> Toán Định là 1+3+9+2=15 Tính Toán Định xong nếu lớn hơn 10 thì bỏ hàng chục chỉ dùng hàng đơn vị, nếu là số tròn chục thì bỏ hàng đơn vị mà lấy hàng chục. An Định Đại Tướng vào cung tương ứng với số vừa tìm được. Lấy số cung của Định Đại Tướng nhân với 3, lớn hơn 10 thì chỉ dùng hàng đơn vị, bỏ hàng chục, an Định Tham Tướng vào cung tương ứng với số vừa tìm được. NGŨ PHÚC: Ngũ Phúc là đệ nhất phúc tinh, đi đến đâu nơi đấy không binh cách, có nó nơi Thân Mệnh thì Phúc, Lộc, Thọ, Khang Ning. Ngũ Phúc ở trong tòa Tử Vi Viên, đi lần lượt qua 5 cung là CÀN, CẤN, TỐN, KHÔN và cung GIỮA. Mỗi cung lưu trú 45 ngày. Dùng 225 ngày để đi hết một chu kỳ Muốn an sao Ngũ Phúc ta làm theo các bước sau đây: +Tích Nhật cộng với doanh sai là 115. +Lấy kết quả tìm được chia cho 225 , lấy số dư. +Lấy số dư vừa tìm được chia 45, tìm Thương Số. Thương số bằng 1 -> Ngũ Phúc ở cung CẤN Thương số bằng 2 -> Ngũ Phúc ở cung TỐN Thương số bằng 3 -> Ngũ Phúc ở cung KHÔN Thương số bằng 4 -> Ngũ Phúc ở cung Giữa Thương số bằng 5 hoặc 0 -> Ngũ Phúc ở cung CÀN Ví dụ: Tích Nhật 255 +Lấy 255 + 115 = 370 +370=225 * 1 + 145-> Số dư của phép chia 370 cho 225 là 145 +Lấy 145 đem chia cho 45 được 3 dư 10. +Thương số là 3-> Ngũ Phúc an tại cung KHÔN. TAM CƠ ( hay là Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ) Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ đi qua 12 cung ( Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi), không đóng tại 4 cung CÀN, KHÔN, CẤN , TỐN. Quân Cơ khởi từ cung Ngọ, ở mỗi cung 30 ngày, mất 360 ngày để đi hết một chu kỳ. Thần Cơ khởi từ cung Ngọ, ở mỗi cung 3 ngày, mất 36 ngày để đi hết một chu kỳ. Dân Cơ ở cung Tuất, mỗi một cung ở một ngày, mất 12 ngày để đi hết một chu kỳ. Đế an Tam Cơ, chúng ta làm một bước chung như sau: Lấy Tích Nhật thêm doanh sai 250. +Với Quân Cơ: lấy số vừa tính được ở trên chia cho 360 lấy số dư. Đem số dư này chia cho 30 lấy Thương Số. Khởi từ cung Ngọ tính là 1, đếm theo chiều thuận đến (Thương Số + 1), dừng lại ở cung nào thì an sao Quân Cơ tại cung đó. +Với Thần Cơ: lấy số Tích Nhật thêm 250, chia 36 lấy số dư. Đem số dư này chia cho 3 lấy Thương Số. Khởi từ cung Ngọ tính là 1, đếm theo chiều thuận đến (Thương Số + 1) , dừng lại ở cung nào thì an sao Thần Cơ tại cung đó. +Với Dân Cơ: lấy Tích Nhật thêm 250, chia 12 lấy số dư, khởi từ cung Tuất là 1, đếm theo chiều thuận đến Số Dư, dừng lại ở cung nào thì an Dân Cơ ở cung đó. __________________ 4 vị Thần hung : Tứ Thần, Thiên Ất, Địa Ất, Trực Phù: +Bốn vị Thần hung này lần lượt đi qua 9 cung Chính Thần, Giáng Cung, Minh Đường, Ngọc Đường. Sách Thái Ất Thần Kinh chép : Giáng Cung ở cung Tỵ, Minh Đường ở cung Thân, Ngọc Đường ở cung Dần; sách của Tàu chép Giáng cung là cung 9 TỐN, Minh Đường là cung 1, Ngọc Đường là cung 7. Tôi chọn theo Thái Ất Thần Kinh. +Bốn vị Thần Hung này hành qua 12 cung, mỗi cung ở 3 năm, như vậy cần 36 năm để đi hết một chu kỳ. +Để an chính xác bốn vị Thần Hung chúng ta làm như sau: .Các bạn nên viết ra tờ giấy theo thứ tự sau: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Tỵ Thân Dần .Lấy Tích Nhật chia cho 36 lấy số dư. .Số dư đem chia cho 3 lấy Thương số và Dư số (2) .Tứ Thần khởi từ cung 1 và đếm là 1, theo chiều thuận lần lượt đi qua các cung đã viết theo thứ tự như trên, đến (Thương số +1) dừng lại ở cung nào an Tứ Thần vào cung đó. .Thiên Ất khởi cung 6, Địa Ất khởi cung 9, Trực Phù khởi cung 5 và cũng đếm hoàn toàn như vậy, hết vòng thì quay lại. Ví dụ : Tích Nhật được 39 +Lấy 39 chia 36 dư 4 +3 chia 3 được 0 dư 3 +Như vậy Tứ Thần an ở cung 2, Thiên Ất ở cung 7, Địa Ất cung Tỵ, Trực Phù cung 6. __________________ Tiểu Du và Tiểu Du Thiên Mục: Riêng trong phép Thái Ất Nhật Kể, Tiểu Du luôn đồng cung Thái Ất, và nó chính là Thái Ất. Tiểu Du Thiên Mục cũng chính là Văn Xương, nhưng vị trí đứng thì khác: +Tích Nhật chia 18 lấy số dư +Khởi từ cung KHÔN đếm theo chiều thuận đến hết số dư, dừng lại ở đâu, an Tiểu Du Thiên Mục ở đó. (Khi qua CÀN hay KHÔN phải tính 2 lần). Sau này khi luận về Mệnh, Tiểu Du Thiên Mục cũng chính là Văn Xương, có nó nhập miếu ở Mệnh, mà trong 4 Trụ chính , Thân Mệnh lại có thêm Văn Xương nữa là cách hai Văn Xương đi cùng nhau. Nếu cả hai sao này đều nhập miếu thì tài năng vượt trội hẳn người thường, học một biết mười, sau này là trụ đá của nhà nước. __________________ Ngoài những sao đã an ở trên, còn có một sao nữa là PHI PHÙ nó là ác thần, sao này chỉ có bảng liệt kê vị trí đứng của nó, chứ cách an ra sao thì không thấy nói đến ( tài liệu gốc bị mất mấy trang nói về cách an sao Phi Phù), cho nên bạn nó có điều kiện thì tìm bảng này ở trong Thái Ất Thần Kinh để tự an sao PHI PHÙ cho mình. Như vậy sau khi an xong chúng ta thấy: Sao chủ là THÁI ẤT và TIỂU DU. Đi theo nó có tất cả 4 Mục ( 4 Mắt) + Văn Xương ( và Tiểu Du Thiên Mục) hay là Chủ Mục nó là phụ tướng của Thái Ất, soái lãnh binh quyền ở gần Vua. Theo hầu nó có Đại Tướng Chủ và Tham Tướng Chủ +Kể Thần hay là Kể Mục là con rồng đuốc của Thái Ất, đo độ số của Thái Ất ở chốn U Minh, là thần hiệu lệnh truyền đạt ý chỉ của Trời. Nó dùng để trợ CHỦ, nắm quyền giám sát. Theo hầu nó có Kể Đại Tướng và Kể Tham Tướng. +Thuỷ Kích hay là Khách Mục giữ vai trò khích bác bên ngoài, đến Thượng Đế cũng phải e dè. Là Hung Thần chủ tai hoạ binh đao hạn hán. Nắm giữ uy quyền sinh sát và huỷ diệt. Theo hầu nó có Đại Tướng Khách và Tham Tướng Khách. +Kể Định hay là Định Mục là phụ tướng của Thái Tuế, đo lường độ số hiện tại của Thái Ất, nó nắm vai trò trợ khách. Theo hầu nó có Định Đại Tướng và Định Tham Tướng. Như vậy Thái Ất là Vua thống cả bầu trời, đứng trước sao Bắc Thần thụ mệnh của Thiên Đế cai quản về thiên tai lũ lũt dịch bệnh..... liên quan đến nó có 4 MỤC, mỗi Mục chia nhau nắm giữ những phận sự khác nhau, tương hỗ hoặc tương phản nhau. Hoà thì CÁT mà không HOÀ thì hung. Cho nên thuật Thái Ất chú trọng nhất vào con TOÁN, Toán Hoà thì Cát, Toán không hoà thì Hung. Toán Hoà dầu có bị Yểm, Bách, Tù, Giam, Kích cũng ít tai nạn, Toán Không Hoà dầu Mệnh có quý thần cũng không bền lâu. Ngũ Phúc là chòm sao Thiên Hoàng Đại Đế nằm trong Tử Vi Viên, chủ ban ân, giáng phúc. Nơi nào gặp Thuỷ Kích hay Đại Du hình sát nếu có Ngũ Phúc thì tai ương bay sang phương đối xung. Mệnh Thân có nó chủ Phúc Lộc Thọ Khang Ninh. Quân Cơ nằm gần sao Bắc Thần trong Toàn Tử Vi Viên ( trong Quân Cơ có sao Tử Vi của chòm Tiểu Hùng) chủ phúc đức, quyền hành, phú quý. Thân Mệnh, hay 4 trụ chính có nó là tối quý. Thần Cơ nằm trong toà Thái Vi Viên, chủ về phúc đức, thông minh, tài năng an bang định quốc. Nhập miếu ở Mệnh Thân hay bốn trụ chính là quan đến Tam Công. Dân Cơ nằm trong toàn Thiên Thị Viên, có nó ở Mệnh Thân hay 4 trụ chính tuy không làm quan Thanh Hiển xong cũng là phú gia địch quốc ít ai bì. Cung Tài Bạch có Dân Cơ là tối quý. Sau đây tôi chấm dứt về phần an sao. Bắt đầu từ lần sau xin nói về thế thức Yếm, Tù Bách Cách, về con Toán của Thái Ất. Hy vọng khi đọc xong các bạn đã có thể tự an cho mình một Lá Số Thái Ất __________________ Thái Ất và các thể thức biến hóa: Thần Thái Ất động không ngừng, cứ 3 đơn vị thời gian rời 1 cung, hành 1 chu kỳ hết 24 đơn vị thời gian. Trong quá trình di chuyển tất không thể không gặp các cách sau đây: YẾM: + Thủy Kích cùng cung Thái Ất gọi là Yểm. Gặp Thái Tuế thì cha con dễ ly tán hoặc bất hòa không ở chung với nhau. Hạn Dương Cửu mà gặp thì nhà dễ bị trộm cắp hoặc có việc liên quan đến pháp luật hình ngục. + Nếu trong lá số bị Yểm thì khi hạn đến cung đó nếu rơi vào lúc tuổi trẻ sẽ bị nhọt sảy, khó nuôi, đời sống cực khổ, rượu chè. Rơi vào lúc trung tuần (từ ngoài 40) thì phá tán sản nghiệp, lúc tuổi già thì bệnh tật ốm đau nặng. KÍCH: +Thủy Kích ở trước cung Thái Ất là Ngoại Kích, Thủy Kích ở sau cung Thái Ất là Nội Kích. +Nếu Thủy Kích nằm ở cung CHÍNH THẦN và cách Thái Ất 1 cung GIÁN THẦN thì gọi là CUNG KÍCH. +Nếu Thủy Kích nằm ở cung GIÁN THẦN và sát ngay cung Thái Ất thì gọi là THỜI KÍCH. +Thái Tuế mà gặp thì gia đạo xảy ra lục đục, nhà cửa đất đai bị cháy, bị mất cắp. +Số hạn mà gặp thì quan chức mất hết, tính mạng nguy, bệnh tật liên miên. +Cung Kích tai nạn đến chậm, Thời Kích tai nạn đến nhanh. BÁCH +Thủy Kích cùng 8 Tướng ở trước hay sau Thái Ất gọi là BÁCH. +Thái Tuế mà gặp tai họa đều phát. Hạn gặp thì tổ nghiệp tan tành, phá gia bại sản. CÁCH +Thủy Kích ở cung Xung chiếu với Thái Ất gọi là CÁCH, Thủy Kích cùng với 4 Tham Tướng ở cung xung chiếu với Thái Ất cũng gọi là CÁCH. +Thân, Mệnh bị Cách là có họa lớn. HẠN mà gặp tai họa hình ngục đếu phát. Nếu Thủy Kích lại cùng Thái Tuế xung Thái Ất thì thê thiếp không vẹn toàn. +Người già mà gặp hạn này tất phải đoán là hạn chết. TÙ +Tám Tướng cùng Văn Xương hoặc chỉ Tám Tướng cùng cung Thái Ất gọi là TÙ. +Hạn Dương Cửu mà gặp nếu lại ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, Tốn, Càn thì tất phát bệnh điên cuồng loạn trí. +Hạn Bách Lục mà gặp cùng Thái Tuế, Toán lại không hòa tất tật bệnh kinh quái, hại vợ hại con. TÍNH +Văn Xương cùng Thái Ất cùng cung gọi là TÍNH ( Chặn). Hai tướng Khách cùng cung Văn Xương, hoặc hai Tướng Chủ gọi là Khách chặn chủ, hai tướng Chủ ở cùng cung Thủy Kích hoặc hai Tướng Khách gọi là Chủ chặn Khách. +Ngày giờ mà gặp lục thân không hòa, gia đình bất an. +Số hạn mà gặp nếu rơi vào cung Mệnh là hạn chết, rơi cung Cha Mẹ là mất cha mẹ, vào cung Thê Thiếp mà mất vợ mất chồng, vào cung Quan là mất quyền. ĐỐI +THái Ất và Văn Xương đối nhau gọi là ĐỐI, Khách Chủ 4 Tướng mà đối cung Thái Ất cũng là ĐỐI +Thủy Kích đối cung Văn Xương gọi là GIAM. +Hạn mà gặp nếu Toán không hòa thì bệnh nặng, có khi mạng vong. __________________ TOÁN HOÀ - TOÁN KHÔNG HOÀ : Trong môn Thái Ất Nhật Kể, Toán tuy không đóng vai trò quan trọng sống còn như trong Thái Ất thời kể, nhưng không thể xem thường nó được. Mệnh Thân rất tốt nhưng Toán không hoà, hạn đến các cung có Yểm, Kích, Cách, Bách thì hoạ đến thân, quan chức mất hết, có khi vong mạng. Toán hoà, Mệnh Thân tốt dù có bị Yểm Kích Cách Bách cũng là tai nạn nhỏ dễ tránh. 1. Toán như đã trình bày từ trước gồm Toán Chủ, Toán Kể, Toán Khánh và Toán Định. Để xem xét HOÀ hay không HOÀ cần phải để ý bốn Mục : Chủ Mục ( Văn Xương) cho Toán Chủ, Kể Mục (Kể Thần) cho Toán Kể, Khách Mục ( Thuỷ Kích) cho Toán Khách, Định Mục cho Toán Định. +Khi các MỤC đóng ở cung CHÍNH THẦN thì ta gọi là các MỤC đóng ở cung Dương, đóng ở các cung GIÁN THẦN thì ta gọi là các MỤC đóng ở cung Âm. +Chủ Mục đóng tại cung Dương, Toán Chủ là số CHẴN; Chủ Mục đóng tại cung Âm, Toán Chủ được số LẺ thì ta gọi Toán Chủ HOÀ. Chủ Mục đóng tại cung Âm , Toán chủ được Chẵn; hay là Chủ Mục đóng tại cung Dương mà Toán Chủ được Lẻ thì ta gọi TOÁN CHỦ không HOÀ. Đối với Kể Mục, Khách Mục, Định Mục xét hoàn toàn tương tự như trên. 2. Sau khi đã xem xét hết 4 MỤC, thì xem đến Thái Ất. Thái Ất đóng cung Dương, Toán được Chẵn hay Thái Ất đóng cung Âm, Toán được Lẻ ta nói Toán Hoà, nếu không như thế thì là Toán Không Hoà. Lần lượt xét qua Toán Chủ, Toán Kể, Toán Khách, Toán Định để biết Hoà hay không Hoà Toán nếu thoả mãn được cả 2 điều kiện trên là rất tốt, nếu chỉ thoả điều kiện 1 mà không thoả 2 thì vẫn coi là TOÁN HOÀ, điều kiện 1 bị vi phạm là Toán không HOÀ. Cho nên Điều Kiện 1 là quan trọng hơn điều kiện 2. Khi Toán đã HOÀ, lại chia ra 3 loại: Thượng Hoà, Trung Hoà, Hạ Hoà +Thượng Hoà là các Toán mang số 14, 18 : cả đời vinh hiển, làm quan cao, giàu có, đời sống phong thịnh, đất trời khánh hội. +Trung Hoà là các Toán mang số 23,29,32,36: phúc lộc dày, tai nạn không gặp. +Hạ Hoà là các Toán mang số 12,16,21,27,34,38: tài lộc đầy đủ, ít tai nạn Được 3 loại Toán Hoà này thì dù có vận hạn xấu, cũng ít lo tai nạn, đổi hung hoá cát. Khi Toán không HOÀ, ta chia ra xét những trường hợp sau: +Toán được 13,19,31,37 gọi là toán tạp trùng dương. Gặp phải Toán này là người tẹp nhẹp, chậm chạp, gặp Vận Hạn xấu, hạn Dương Cửu, hạn Bách Lục chắc chắn gặp kiện cáo, hình ngục tù tội. Nếu không cũng phải gió cắn răng mà chết. +Toán được 24,28 gọi là toán tạp trùng âm. Gặp phải Toán này là người phiêu lưu, gặp vận số xấu thì mất của, mất việc, nếu hạn quá xấu có thể mạng vong. +Toán được 11,17 gọi là toán nội âm trùng dương. Gặp phải Toán này là người cuộc đời gặp nhiều trở ngại. Nếu bị Ép, Yếm tất phát cuồng, lâm vào hình ngục. Hạn Dương Cửu, Bách Lục tất không tránh khỏi tai hoạ. +Toán được 33, 39 gọi là toán thuần dương. Gặp phải Toán này là người hung bạo. Gặp hạn Dương Cửu, Bách Lục tất tai nạn tổn hao điền sản của cải mạnh mẽ, nếu hạn quá xấu tất chết nơi tù ngục. +Toán được 22, 26 gọi là toán thuần âm. Gặp phải Toán này là người quá nhu nhược, vận hạn xấu tất vướng vào tranh cãi, kiện tụng. Người nữ mà gặp là phường đa dâm, bất chính. +Toán vô thiên: nghĩa là Toán được số từ 1 đến 9 ( chưa tròn chục) : khắc hại cha, lúc bé ở gần khiến cho cha phá sản, mất nghiệp. +Toán vô địa: nghĩa là toán được 1-> 4; 11->14; 21->24; 31->34 ( chữ số hàng đơn vị nhỏ hơn 5): khắc hại mẹ, sau này lớn lên khắc hại vợ, phá bỏ hết sản nghiệp. +Toán vô nhân: nghĩa là toán được các số tròn chục 10, 20, 30, 40: có nghịêp nhưng phá bỏ hết, có quan không chính, việc làm hư dối, dai dẳng, ăn mặc không đủ. Chú thích: + 1-> 4 nghĩa là 1, 2, 3, 4. 11->14: 11,12,13,14;..... +Khi xem xét Toán Hoà hay không hoà phải xem xét cẩn thận từng bước như trên lần lượt cho Toán Chủ, Toán Kể, Toán Khách, Toán Định. Nếu Toán Hoà, phải xem mình được Thượng, Trung hay Hạ Hoà, nếu không nằm trong số đó thì chỉ là bình thường. Nếu Toán không hoà, phải xem mình bị vướng vào những loại nào, nếu không vào các loại đã kể trên thì củng chỉ là bình thường, không đáng lo lắm. +Toán vô thiên, vô địa, vô nhân gọi chung là Toán TAM TÀI KHÔNG, nếu vận hạn đến cung có Yểm, Kích, Cách, Tính lại có Sát Thần hãm là những người lục thân xa lìa, phá tán tổ nghiệp, làm điều bất chính. Mệnh dù có Cát Thần, Phúc Thần đến cứu giúp cũng vẫn không khỏi gian nan vất vả, khắc hại mẹ cha, sau này lìa xa bản quán. __________________ VẬN HẠN Vận Hạn trong môn Thái Ất rất phức tạp, cho nên tôi sẽ trình bày từ từ từng bước một các loại Vận Hạn, và phân tích kỹ lưỡng ảnh hưởng của nó. Vận Hạn trong môn Thái Ất bao gồm Hạn Dương Cửu, Hạn Bách Lục, Hạn Lưu Niên, Hạn Lộc và Hạn Mã. Trong đó quan trọng nhất phải kể đến Hạn Dương Cửu và Hạn Bách Lục. Để luận đoán vận hạn đòi hỏi phải có kiến thức về Kinh Dịch và 64 Quẻ Dịch. Cho nên điều kiện là đã biết và hiểu 64 quẻ Dịch. Nếu không thì không xem nổi Vận Hạn trong môn Thái Ất. 1. Hạn Dương Cửu Để tính hạn Dương Cửu chúng ta làm theo các bước sau: +Tìm CAN của NGÀY SINH và xem CAN này hoá thành HÀNH nào trong Ngũ Hành . Giáp Kỷ hoá Thổ . Ất Canh hoá Kim . Bính Tân hoá Thuỷ . Đinh Nhâm hoá Mộc . Mậu Quý hoá Hoả +Sau đó tìm vị trí TRƯỜNG SINH của HÀNH này đóng ở cung nào thì dùng cung đó để khởi tính Hạn. Trong HÀ ĐỒ: Trời lấy 1 mà sinh Thuỷ, lấy 2 mà sinh Hoả, lấy 3 sinh Mộc, lấy 4 sinh Kim và lấy 5 sinh Thổ. Cho nên khi đã định được vị trí cung Trường Sinh của Hành hợp hoá Can Ngày, ta khởi như sau: . Hành Thổ thì Trường Sinh ở Ngọ, ở cung Ngọ ghi số 5 . Hành Kim thì Trường Sinh ở Tỵ, ở cung Tỵ ghi số 4 . Hành Thuỷ thì Trường Sinh ở Thân, ở cung Thân ghi số 1 . Hành Mộc thì Trường Sinh ở Hợi, ở cung Hợi ghi số 3 . Hành Hoả thì Trường Sinh ở Dần, ở cung Dấn ghi số 2 Ví dụ: Nam, sinh ngày Mậu Dần. +Mậu hoá HOẢ, Hoả Trường Sinh ở Dần +Bắt đầu từ cung Dần theo chiều THUẬN ( cho con trai), theo chiều NGHỊCH ( cho con gái). Đây là con trai ( trong ví dụ) cho nên sẽ đi theo chiều thuận. Chúng ta ghi ở Dần số 2 ( tức là năm 2 tuổi bắt đầu vào hạn Dương Cửu và hạn ở cung Dần), sang cung Mão ghi số 4 ( tức là từ năm 4 tuổi hạn Dương Cửu bắt đầu đi vào cung Mão),.... cứ tính như vậy lần lượt đi qua 12 cung ( không tính các cung CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN). Ví dụ: Nữ, sinh ngày Giáp Tý. +Giáp hoá Thổ, Thổ Trường Sinh ở Ngọ. +Ghi ngay ở cung Ngọ số 5. Do là con gái nên đi theo chiều nghịch. Như vậy cung Tỵ ghi số 10,..... tức là ( bắt đầu từ năm 5 tuổi hạn Dương Cửu ở Ngọ), bắt đầu từ năm 10 tuổi hạn Dương Cửu ở Tỵ ,.... * Ghi chú: bản thân tôi nghi ngờ vị trí Trường Sinh của hành Thổ ở Ngọ, đúng ra là nên ở DẦN, nhưng sách ghi nguyên bản như vậy nên tôi chép ra y nguyên không dám sửa chữa. Các bạn dùng kiểm tra Vận Hạn rồi tự điều chỉnh. + Hạn Dương Cửu đến cung nào, nếu gặp Cát Thần Phúc Thần thì đời hoạnh phát. Toán Hoà lại không bị Yểm Kích Cách Bách Tính thì đường lối thênh thang, làm gì cũng suôn sẻ. Trái lại nếu gặp Hung Thần, lại ở 4 cung sau Tý Ngọ Mão Dậu, thì rất hung. Toán Hoà thì tai hoạ đến nhanh mà qua cũng nhanh, Toán không hoà tất thân mang hoạ, rơi vào cung nào cung đó chịu. Như gặp cả Hung Thần và Cát Thần phải chia ra xem Hung Thần đóng ở cung đó là nơi Sinh Vượng hay Tử Tuyệt, nếu đóng nơi Sinh Vượng thì tai hoạ to, đóng nơi Tử Tuyệt thì Hung Thần hết lực không thành hoạ. Cát Thần cũng vậy nếu Vượng Tướng mới hoạnh phát được, chứ còn bị Tử Tuyệt cũng chỉ là cái vỏ không có chất, hữu danh vô thực, không tác dụng cứu giải. __________________ HẠN BÁCH LỤC Để tính hạn Bách Lục chúng ta cần biết sơ về Hà Đồ và số của Ngũ Hành phối trong Hà Đồ. Trong Hà Đồ chúng ta có: +Trời lấy 1 sinh Thuỷ và Đất lấy 6 để thành Thuỷ, như vậy Tổng số SINH THÀNH cho Thuỷ là 6+1=7. Thiên Can Nhâm, Quý; Địa Chi Tý, Hợi thuộc Thuỷ cho nên được phối với số 7. +Trời lấy 2 sinh Hoả và Đất lấy 7 để thành Hoả, như vậy Tổng số SINH THÀNH cho Hoả là 2+7=9. Thiên Can Bính, Đinh; Địa Chi Tỵ, Ngọ thuộc Hoả cho nên được phối với số 9. +Trời lấy 3 sinh Mộc và Đất lấy 8 để thành Mộc, như vậy Tống số SINH THÀNH của Mộc là 3+8=11 Thiên Can Giáp Ất; Địa Chi Dần, Mão thuộc Mộc cho nên được phối với số 11. +Trời lấy 4 sinh Kim và Đất lấy 9 để thành Kim, như vậy Tống số SINH THÀNH của Kim là 4+9=13 Thiên Can Ật, Canh; Địa Chi Thân, Dậu thuộc Kim cho nên được phối với số 13 +Trời lấy 5 sinh Thổ và Đất lấy 10 để thành Thổ, như vậy Tổng số SINH THÀNH của Thổ là 5+10=15 Thiên Can Mậu, Kỷ; Địa Chi Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc Thổ cho nên được phối với số 15. Để tính hạn Bách Lục, chúng ta dùng CAN CHI của Giờ Sinh và Ngày Sinh. +Dùng ngày sinh và giờ sinh đổi ra số theo như số phối đã chỉ ở trên cho Địa CHi và Thiên Can cùng ngũ hành nạp âm của Can Chi Ngày, Giờ. Cộng hết tất cả các số lại. +Sau khi tìm ra đem Tổng số trên công với 55 ( số Trời Đất). +Lấy số vừa tìm được đem chia cho 60 lấy phần dư , phần dư này gọi là SỐ CHỊU KHÍ. +Từ NGÀY SINH kể là số 1 chuyển ngược vòng Lục Thập Hoa Giáp đến Số Chiu Khí, dừng lại ở đâu đó là Ngày Chịu Khí. Xem Ngày Chịu Khí có CAN CHI gì và tìm xem CAN của Ngày Chịu Khí hoá hợp thành Ngũ Hành nào và mang số mấy ( về Thiên Can hợp hoá - xin xem lại phần Hạn DƯƠNG CỬU ) +Xem Ngũ Hành hợp hoá của CAN Ngày Chịu Khí Trường SInh ở cung nào thì cung đó là cung khởi tính Hạn Bách Lục. Đại Hạn 10 năm 1 cung ( không tính 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn) đi theo chiều thuận cho Nam, chiều nghịch cho Nữ. Tiểu Hạn 1 năm 1 cung ( không tính 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn) đi theo chiều nghịch cho Nam và chiều thuận cho Nữ. Ví dụ : Nam, sinh ngày Mậu Dần, giờ Canh Thân. Phải tìm hạn Bách Lục?? +Đổi hết CAN CHI của Ngày Giờ Sinh ra số : Mậu là Thổ -> 15 Dần là Mộc -> 11 Mậu Dần nạp âm là Thổ -> 15 Canh là Kim ->13 Thân là Kim -> 13 Canh Thân nạp âm là Mộc -> 11 Lập tổng: 15+11+15+13+13+11=78 +Cộng với số Trời Đất 55 : 78+55=133. +Đem 133 chia cho 60 lấy số dư. 133 =60*2 + 13-> số dư là 13 +Từ Ngày Sinh là Mậu Dần tính là 1 chuyển ngược vòng Lục Thập Hoa Giáp như vậy là Đinh Sửu mang số 2, Bính Tý mang số 3 ,.... cho đến Bính Dần thì thấy mang số 13 = SỐ CHỊU KHí thì dừng lại -> Ngày CHịu Khí là BÍNH DẦN. +BÍNH, TÂN hoá Thuỷ, mang số 1. Thuỷ Trường Sinh ở THÂN. +Như vậy từ cung Thân khởi 1 Tuế. Do là con trai cho nên Đại hạn đi theo chiều thuận và Tiểu Hạn đi theo chiều nghịch. Như vậy từ 1 - 10 tuổi , Đại Hạn Bách Lục ở cung Thân , 11-20 tuổi ở cung Dậu, 21-30 tuổi ở cung Tuất, 31-40 tuổi ở cung Hợi,..... Tiểu Hạn năm 1 tuổi ở cung Thân, 2 tuổi ở cung Mùi, 3 tuổi ở cung Ngọ,..... __________________ PHI LỘC - PHI MÃ Để Tính hạn Phi Lộc và Phi Mã căn cứ vào CAN của Năm Sinh. Xem CAN Năm Sinh hợp hoà thành Hành nào, Hành này Trường Sinh ở đâu thì đó là nơi khởi tính Hạn. Hạn Lộc đi xuôi, hạn Mã đi ngược , cứ 10 năm đi qua 1 cung. Ví dụ : Sinh Năm Quý Hợi. Mậu Quý hoá Hoả , khởi 2 ở cung Trường Sinh của Hoả là Dần. Như vậy từ lúc 2 tuổi đến 11 tuổi hạn Mã ỡ Dần. Từ 12-21 tuổi ở Sửu ,.... Từ 2 đến 11 tuổi hạn Lộc ở Dần, từ 12-21 tuổi ở Mão ,.... Hạn Lộc chủ về phát tài, có lộc. Lộc rơi vào đâu, ở cung đó sẽ có Lộc ăn.Nếu đi với Hung Thần sẽ biểu hiện cho việc mất của ( nếu ở cung Tài), mất nhà đất ( nếu ở cung Điền). Cân nhác Cát Hung để rõ được Lộc hay mất Lộc. Hạn Mã chủ về hanh thông, di chuyển. Nếu cung nhập hạn xấu là chủ tai nạn. __________________ Tôi chỉ trình bày ở đây hạn Dương Cửu , Bách Lục, Phi Mã, Phi Lộc... ngoài ra nhiều dị bản còn có cả Đại Hạn, Tiểu Hạn,.... thực tế ra là chỉ làm cho Thái Ất thêm rắc rối. Bắt đầu từ bài sau, tôi sẽ luận về tính chất các sao của Thái Ất __________________ THÁI ẤT Thái Ất là tôn thần của Thiên Đế, đứng đầu 16 Thần. Nó ở hành 3 năm , 3 tháng, 3 ngày, 3 giờ 1 cung Thần. Chỉ đóng tại 8 cung Chính Thần và không vào Trung Cung. 3 khoảng đơn vị thời gian này lại chia ra Lý Thiên, Lý Địa, Lý Nhân. Thái Ất hành Lý Thiên thì tạo ra mưa gió, bão lụt , trời trăng đổi vần; hành Lý Địa thì gây ra động đất , sâu bệnh, mùa màng thất bát; hành Lý Nhân thì gây ra tật bệnh, chết người số lượng lớn. Đó là khi xem về Tuế Kể , dựa vào điềm trời báo này mà Vua phải nghiêm chỉnh sửa mình , sửa sang Pháp Luật, thì mưa thuận gió hoà, dân sống yên vui. Ở Kể Ngày, Mệnh Thân có sao Thái Ất chủ công danh, quyền lực, có tư cách lớn với đời. Thái Ất nhập miếu tại Dần, Mão, Hợi, Mùi ; đắc địa tại Tý, Hợi, Thìn, Tuất; hãm tại Thân, Dậu, Ngọ, Tỵ. Thái Ất cư Hợi là Khoa Danh, ở Dần là nơi Vượng địa, ở Mão là nhập miếu. Ví Mệnh Thân ở các cung trên có Thái Ất lại thêm Kể Thần, Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ là người học nghiệp tinh thông, thi cử đỗ đạt, trên đời hiếm có. Thái Ất nhập miếu mà gặp phải Thuỷ Kích là phá cách chủ cuộc đời lận đận khắc hại cha mẹ, duy có hai tuổi Mậu Quý Thái Ất + Thuỷ Kích tại hai cung Dần , Tuất là bậc chân nhân Thiên Tử. Thái Ất gặp Thiên Ất là chủ về văn chương sắc cạnh, hùng hổ chứ không cẩm tú trau chuốt. Thái Ất gặp Ngũ Phúc là bậc anh linh tuấn kiệt, sinh con quý tử, công huân sự nghiệp rạng rỡ. Nhưng nếu ở hai cung Ngọ, Dậu là nơi hãm của Ngũ Phúc và Thái Ất thì cuộc đời thất bại, hoàn toàn là phá cách, chỉ trông mong vào vận hạn để mát mặt một thời gian , kết cục cũng không toàn vẹn. Thái Ất đi cùng Thần Cơ là người có hình dung thần thái, tướng mạo hiền, là bậc siêu quần, nếu có đi tu cũng là bậc chân nhân tiên giả. Nếu có thêm Đại Tướng Chủ và Đại Tướng Khách từ các cung Xung Chiếu và Tam Hợp chiếu vào là bậc sang nơi điện các, không ở ngôi Vua nhưng quyền nghiêng thiên hạ, nắm giữ binh quyền. Thái Ất đi cùng Quân Cơ là bậc văn võ toàn tài , nhưng ăn về Hậu vận, thưở thiếu thời khó khăn. Thái Ât đi với Phi Phù ở cung hãm là người cả đời lêu lổng, hại vợ con. Nếu có Ngũ Phúc thì cuộc đời dễ chịu hơn nhưng vợ con cũng không toàn vẹn. Tóm lại chúng ta thấy THÁI ẤT cũng như Tử Vi, Thái Tuế trong Tử Vi rất cần các Cát Thần đồng cung sẽ là người có tư cách lớn, nắm quyền trong thiên hạ. Ngược lại nếu gặp các Hung Thần thì cũng lẹt đẹt, vướng vào luật pháp tù tội. Ví dụ như Ngày Sinh xung đối với cung an Thái Ất thì ta gọi là Thái Tuế bị xung. Thái Tuế tượng Vua, xung Vua chẳng yên bao giờ , cho nên mệnh bị Xung Thái Tuế là cách cuộc đời gặp nhiều bất mãn, phải đấu tranh cực khổ Ngoài ra khi xem Lá Số Thái Ất phải chú ý kỹ đến 4 Trụ : Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Ví dụ: Nhâm Tý Nhâm Tý N.Đinh Sửu Quý Sửu Khi tính toán sẽ thấy Mệnh an ở Sửu, cung an Thân cũng ở Sửu. Ngoài việc xem xét kỹ cung Mệnh Thân phải chú ý rất kỹ cung Tý nữa ( vì nó là Trụ Năm và Trụ Tháng). Tầm quan trọng của nó không kém gì Mệnh Thân. Phép xem Thái Ất do chú ý cả Mệnh Thân và Bốn Trụ đồng thời Vận Hạn cho nên rất phức tạp. __________________ NGŨ PHÚC Ngũ Phúc nằm trong Tòa Tử Vi Viên hầu Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngũ Phúc nhập miếu tại Thân, Dậu, Thìn, Tuất. Mệnh, Thân có Ngũ Phúc mà Mệnh Thân lại đóng ngay trên ngôi Ngày Giờ , cho hai tuổi Đinh Nhâm là bậc chân nhân xuất thế, điềm báo của Thiên Tử xuất hiện. Các tuổi khác cũng phú quý hội đủ Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh. Ngũ Phúc cho hai tuổi Đinh, Nhâm là sao đầu trời Lộc , cư Thìn, Tuất là đáy lộc, cư Thân là khoa danh. Ngũ Phúc đồng cung Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ thì lộc trập trùng, xuất tướng nhập tướng. Ngũ Phúc ở Thân đồng cung có Văn Xương là trụ đá của nhà nước, đồng cung Đại Tướng Chủ là tướng nơi nội phủ, nắm giữ binh quyền, quý không nói hết. Ngũ Phúc ngoài tác dụng công danh, lộc, quyền nó còn là đệ nhất giải thần trong môn Thái Ất. Nó gặp hung thần cũng chế bớt cái hung của hung thần, gặp nhiều hung thần một lúc thì đời vất vả nhưng cũng không đến nỗi tuyệt mệnh. Kỵ đồng cung với Thái Ất, Phúc giảm đi một nửa, đời nhiều lận đận. Đồng cung Thủy Kích ở Mệnh Thân, năm tháng ngày giờ thì tai họa bay sang phương đối xung. Duy ở hai cung Dần Mão là nơi Ngũ Phúc hãm cho nên mất hết tính cứu giải, công danh. Mệnh Thân có Ngũ Phúc hãm thì cả đời tập tễnh, nếu cung Tật Ách đóng vào đây thì sức khoẻ yếu như sên. Ngũ Phúc rơi vào trung cung thì không được hưởng gì từ sao Ngũ Phúc, thật là đáng tiếc lắm. Ngoài ra Ngũ Phúc còn là sao chủ thiện, là đài các thần, có nó ở Mệnh Thân là người lương thiện , dáng vẻ cao sang. Ngũ Phúc là đệ nhất phúc thần nhưng rất ngại gặp Phi Phù và Thủy Kích. Chỉ trừ khi gặp Thủy Kích ở Tuất mà phải là hai tuổi Mậu Quý thì đại phát phúc, nếu gặp vận hạn tốt sẽ là Vua sáng nghiệp thời thái bình. Các bạn khi học Thái Ất với tôi, nên đọc thật lỹ bài SƠ LƯỢC VỀ THIÊN VĂN mà tôi đã nhờ BCH chuyển vào mục này cho chúng ta. Thái Ất trong Tam Thức thiên về Thiên do nó nghiên cứu sự chuyển động của các Tinh Tú ảnh hưởng lên Trái Đất, lên con người khác hẳn với Độn Giáp vốn bản chất là Địa Lý. Cho nên học Thái Ất mà Thiên Văn không biết 1 tý gì thì e có học đến già cũng chỉ biết KINH dạy rằng.... chứ không thể hiểu được bản chất sâu sắc của nó là gì. Ngoài ra phải nói trước phép xem Thái Ất cái thần diệu không phải là xem MỆNH cho con người, các bạn có thể xem bằng Tử Vi đơn giản hơn nhiều. Thái Ất thần diệu ở chỗ xem xét cho cả 1 dân tộc quyết thịnh suy bĩ thái cho 1 quốc gia và để dùng binh. Có một số tác giả họ cứ cố quy hết Thái Ất ra quẻ để luận đoán, làm như vậy có một lợi thế lớn là đơn giản hoá được Thái Ất, nhưng lại đánh mất đi cái thần là THIÊN VĂN. Tôi xem Thái Ất chú trọng vào các Thần và Toán, sau đó mới dùng quẻ để bổ sung cho nó, chứ không dùng quẻ làm cái chính. Thái Ất có nhiều chỗ rất khó hiểu, bản thân tôi cũng chỉ dám nhận là người đứng ở ngoài cửa và nhìn vào 1 khu vườn mênh mông chứ chưa dám nhận là người đặt chăn lên ngưởng cửa đó, nói chi đến chuyện bước vào khu vườn đó. Cho nên khi tôi trình bày mọi người nên suy nghĩ cho kỹ đừng vội tin ngay, phải sửa chữa cho tôi để chúng ta cùng nhau khai mở được một chút gì đó về môn đệ nhất Tam Thức này.
  16. Thái Ất hành 3 năm một cung, qua 8 cung = 24 năm. Đây chính là chu kỳ của một hành trên Hà Đồ theo qui luật Cách bát sinh tử - Sinh Vượng Mộ - (Ba giai đoạn), mỗi giai đoạn tám năm = 24 năm .Sau đó chuyển sang hành khác . Đi ngược trên Hà Đồ thành Lục thập Hoa giáp theo sách Hán cổ . Đi thuận trên Hà Đồ thành Lạc thư Hoa giáp theo văn minh Lạc Việt . Chu Kỳ 24 năm của Sao Thái Ất, trùng chu kỳ 24 năm của 2 vòng (Âm Dương)Thái Tuế (Sao Mộc). Nếu biết đích xác sao Thái Ất là sao nào, hoặc là cái gì, thì chúng ta đã cầm được cái chìa khoá . Như đã nếu ở trên, Thái Ất không bao giờ vào trung cung bởi vì Thái Ất không bao giờ đồng cung , hay nói khác đi là đi vào địa phận của sao Bắc Thần. Người xưa tin tưởng rằng : sao Bắc Thần luôn cố định trên bầu trời cho nên nó là hình ảnh của Thượng Đế chí tôn. Còn chòm Bắc Đẩu Thất Tinh là thần của Thiên Đế , nó trấn giữ ngay cửa ra vào Tử Vi Viên. Bắc Đẩu Thất Tinh này là nơi chuyên giữ sổ sinh tử coi xét về vận mệnh của con người, quản từ đời sống thường ngày cho đến công danh bổng lộc, sống chết. Chính vì thế mà Gia Cát Lượng khi muốn xin thêm tuổi thọ phải đặt 7* 7 = 49 ngọn đèn theo 7 phương vị khác nhau của chòm Bắc Đẩu Thất Tinh, trong đó ngọn đèn bổn mệnh đặt ngay tại vị trí của sao Thiên Quyền của chòm Bắc Đẩu Thất Tinh. Và chòm Bắc Đẩu Thất Tinh này cùng các thần khác đựơc cai quản bởi thần Thái Ất. Thái Ất đứng ngay giữa sao Bắc Thần và chòm Bắc Đẩu, nó thay trời đứng đầu 16 thần. Nắm ngôi vị chủ tể. Khi Thái Ất bị xung với Thái Tuế, Thái Tuế tượng là Vua dưới hạ giới. Vua bị xung với Thái Ất thì chắc chắn là không có gì tốt đẹp, thường là băng vong , và cứ khi nào Thái Ất xung Thái Tuế là có sao chổi ( bất kể lớn nhỏ ) phạm vào địa phận của toà Tử Vi Viên. Lịch sử ghi chép rất rõ ràng : Năm thứ 8 đời Lữ Hậu, sao chổi rất lớn hiện ra đi vào địa phận toà Tử Vi Viên, chạy sát sang toà Thái Vi , Lữ Hậu nói : " Đó là điềm vì ta ". Tháng 8 năm đó Lữ Hậu băng. Và còn nhiều nhiều nữa mà các bạn có thể tìm đọc trong chính sử. Bàn về các Đại Tướng, Tham Tướng Chủ và Khách. Đại Tham Tướng Chủ an theo Chủ Mục , Đại Tham Tướng Khách an theo Khách Mục. Bất cứ 1 trong 4 tướng này mà vào trung cung ( lưu ý : 4 vị tướng này không hề có trên bầu trời, họ đặt ra với mục đích sâu xa nhất là dùng binh.) , tức là 4 Tướng phạm vào địa phận của sao Bắc Thần. Bắc Thần là Thượng Đế chí tôn , cho nên bất cứ Tướng nào phạm vào thì đó đều là điềm không hay, nếu Toán lại không hoà thì tối hung. Cho nên khi hành quân , cứ thấy Đại Tướng Chủ Khách mà vào trung cung là Toán Chủ Khách không tính và án binh bất động ( nên nhớ là dùng binh phải xem KỂ GIỜ ). Kể Đại Tướng là an theo Kể Thần, nó đo độ số u minh của Thái Ất... nhưng U Minh là cái gì?? Trong TH cả Toán Chủ và Khách đều không hoà, việc ra quân bất lợi thì phải xem đến Kể Đại Tướng... Kế Đại Tướng không ép, cách, Toán Kể hoà, Cửa Kể đủ thì mai phục chờ tiến binh sẽ lợi cho chủ, ngược lại thì nên án binh bất động. Định Đại Tướng được an từ Định Mục nó đóng vai trò trợ giúp cho Thái Tuế ( Định Mục an dựa vào Thần Hợp). Trong môn Thái Ất có một thần tối cao đó là thần Ngũ Phúc. Ngũ Phúc chính là chòm Tiểu Hùng gồm 5 sao , trong đó sao Bắc Thần đứng đầu. Ngũ Phúc đi đến đâu thì giáng phúc đến đấy.... chỉ trừ hai cung Dần Mão là nơi hãm địa. Ngũ Phúc vào trung cung thì giáng phúc cho bốn phương, dù có chiến tranh cũng ít thiệt hại, chết người. Do Ngũ Phúc là Bắc Thần tối cao cho nên quyền giải hạn của nó rất lớn , Thái Tuế xung Thái Ất nhưng có Ngũ Phúc thì tai hoạ không còn. Đại Du hành sát đến đâu, nơi đấy binh lửa rợp trời, nếu có Ngũ Phúc tai hoạ giảm đi một nửa. Mỗi năm cầm quyển lịch vạn niên lên, điều đầu tiên mà hàng triệu hàng tỷ người chúng ta xem chắc chắn là rà tìm xem năm nay chúng ta bị hạn sao gì chiếu. Theo kiến thức ít ỏi của tôi thì sách Lịch Vạn Niên đưa ra 9 sao hạn : Thái Dương, Thái Âm, La Hầu, Kế Đô, Thổ Tú, Mộc Đức, Hoả Đức, Thuỷ Diệu và Thái Bạch. Những sao trên các sách Lịch Vạn Niên đưa ra có sao xấu, sao tốt, tốt cho nữ, xấu cho nam hay ngược lại và cách cúng hoá giải. Nhưng thật sự có đúng là như vậy không? Nguyên nhân từ đâu mà có những sao này? Để đi sâu phân tích về 9 sao hạn này chúng ta cần biết về Thiên Văn, tính chất của nó. Thực tế ra thì những gì mà Lịch Vạn Niên nói về 9 sao này quả thật là một mớ hổ lốn, chẳng đâu vào đâu, chỉ để lường gạt mà thôi. Họ không hiểu gì về những kiến thức của Phương Đông ngày xưa. Bài viết này xin phân tích lần lượt 9 tinh đẩu trên, nó là sao nào trên bầu trời, ảnh hưởng ra sao theo 2 quan niệm Cổ điển và Hiện đại nhằm cung cấp một cái nhìn đúng đắn về 9 tinh đẩu này. Quan sát Thiên Văn từ xa xưa, ông cha ta đã để ý đến 7 tinh đẩu sáng nhất mà chúng ta nhìn thấy trên bầu trời là Mặt Trời, Mặt Trăng, và 5 hành tinh Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ. 7 tinh đẩu này được gọi là Thất Đại Diệu và người xưa tin rằng cai quản nó là 7 vị Tinh Quân , có quyền năng rất lớn và ảnh hưởng cực mạnh lên số phận con người. THÁI DƯƠNG Thái Dương là Mặt Trời là tinh hoa của ban ngày, là tinh hoa của tạo hoá, ban phát sư sống cho muôn loài, được cai quản bởi Thái Dương Đế Quân, ngự tại cung Quang Minh, cầm đầu trong Thất Đại Diệu. Không một ai là không được hưởng ân huệ của Thái Dương. Chính vì thế mà hạn đến sao Thái Dương là hạn rất tốt nhưng sách Lịch Vạn Niên lại nói tốt cho nam mà xấu cho nữ... thật là vô lý quá. Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh, sự ảnh hưởng của Mặt Trời lên con người chúng ta là lớn nhất trong tất cả các tinh đầu. Khi Mặt Trời vào chu kỳ hoạt động mạnh thì chúng ta được tác dụng rất tích cực của nó , các nhà khoa học còn chứng minh được rõ ràng, những nhà khoa học tài năng của thế kỷ 20 này đều được sinh ra vào đúng chu kỳ hoạt động mạnh của Mặt Trời. Đó là hiện đại, còn ngày xưa chưa có khoa học như thời nay cho nên họ mới tin là Thái Dương Đế Quân chiếu Mệnh thì rất may mắn và phải cúng để giải hạn. Thực tế ra Mặt Trời tác động lên chúng ta là bằng Lực Hấp dẫn và Từ Trường của nó, có cầu cúng thì Định Luật Newton cũng vẫn thế, chẳng giải quyết được gì. THÁI ÂM Thái Âm là Mặt Trăng , là tinh hoa của ban đêm, được cai quản bởi Thái Âm thần quân ngự tại cung Quảng Hàn. Thái Âm ban phát ân huệ của nó cho mọi người , người xưa tin rằng Thái Âm tượng cho người mẹ , là sự dịu dàng, phú quý. Hạn đến sao Thái Âm là rất tốt... hic thế nhưng sách Lịch Vạn Niên lại nói tốt cho nam không tốt cho nữ... thật tôi chẳng thể hiểu được. Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh, ảnh hưởng về lực hấp dẫn của Mặt Trăng lên chúng ta chỉ đứng sau Mặt Trời , về Từ Trường chỉ thua Mặt Trời và Mộc Tinh. Người xưa thì tin rằng, Thái Âm mang lại sự quyền quý cao sang , và khoa học hiện đại cũng chỉ ra sự ảnh hưởng của Thái Âm lên mỗi chúng ta. Và Lực Hấp Dẫn hay Từ Trường của nó dù có cầu cúng thì nó vẫn được tính bằng Định luật của Newton và các phương trình của Maxwell... như vậy cầu cúng để làm gi????? MỘC ĐỨC Mộc Đức chính là sao Mộc , sách xưa gọi là Đông Chấn Cửu Khí Mộc Đức tinh quân. Vượng ở hướng chính đông, là Tuế Quân, đứng đầu cai quản các thần. Người Phương Đông xưa cũng đã tin tưởng rằng Thái Tuế ảnh hưởng cực mạnh lên con người, ảnh hưởng này có cả tốt và xấu. Người Phương Tây thì tin rằng sao Mộc là nơi ngự của thần Jupiter ( Goethe) vị thần tối cao của các thần, thần sấm sét đầy quyền năng. Chính vì thế mà hạn đến sao Mộc Đức thì có cả tốt và xấu. THỔ TÚ Thổ Tú chính là sao Thổ , sách xưa gọi là Trung Ương Nhất Khí Thổ Tú tinh quân. Phương Đông nghiên cứu thấy nó chuyển động rất chậm chạp cho nên tin rằng nó là thần của Thiên Đế đi tuần vòng quanh để kiểm tra công việc của các thần. Cho nên hạn đến sao này là sao xấu vì gặp THANH TRA có vui vẻ bao giờ ... ngay ở Phương Tây họ cũng gán sao Thổ là nơi ngự trị của thần Saturn ( cha của Jupiter, bị con lật đổ) tưởng trưng cho sự già nua chết chóc. Như vậy hạn đến sao này đa phần là xấu , khoa học hiện đại cũng khẳng định sao Thổ làm triết giảm ảnh hưởng của Mộc Tinh lên Trái Đất. THUỶ DIỆU Thuỷ Diệu chính là sao Thuỷ, sách xưa gọi là Bắc Khảm Lục Khí Thuỷ Diệu Tinh Quân. Sao này chuyển động rất nhanh, cho nên phương Tây gán nó cho thần Mercury , thần truyền tin, buôn bán và lường gạt. Còn Phương Đông dựa vào đó để an sao Thiên Mã. Chính vì thế hạn đến sao này chủ yếu thiên về kinh doanh buôn bán, nhưng cẩn thận bị lừa, nói chung là tốt có xấu có. HOẢ ĐỨC Hoả Đức chính là sao Hoả, sách xưa gọi là Nam Ly Thất Khí Hoả Đức Tinh Quân. Sao này ở Châu Âu tượng trưng cho thần chiến tranh, còn Phương Đông ta thì đó là thần Huỳnh Hoặc. Ảnh hưởng của nó là xấu, hạn đến sao Hoả Đức là hạn sự việc bất ngờ đến, nhưng kết quả không rõ ràng, tốt không ra tốt, xấu kh6ng ra xấu ( do sự nhập nhằng của Huỳnh Hoặc ) THÁI BẠCH Thái Bạch chính là sao Kim , sách xưa gọi là Tây Đoài Ngũ Khí Thái Bạch Kim Tinh hoặc là Trường Canh Tinh, do sao này mãi đến gần sáng mới tắt, sáng một mình khi những sao khác đã tắt. Từ quan sát đó mà người xưa tin rằng Thái Bạch tượng cho sự cô độc, là tài tinh quyền tinh. Hạn đến sao Thái Bạch là chủ sự việc kéo dài nhưng rồi cũng thành công, và đặc điểm nổi bật của nó là cô độc. LA HẦU - KẾ ĐÔ Hai sao này là hai sao không có thực trên bầu trời. Nó xuất phát từ việc quan sát Nhật Thực, Nguyệt Thực. Người xưa không thể giải thích về hai hiện tượng này cho nên họ nghĩ Mặt Trời Mặt Trăng bị ăn mất và rất sợ hãi. Tại Ấn Độ họ tin rằng có hai vị ác thần đã che mất Mặt Trời Mặt Trăng , vị thần che mất Mặt Trời là Rahu và che Mặt Trăng là Kethu. Sau này sự du nhập của Phạn Lịch vào Trung Hoa, tên được hán hoá thành ra La Hầu và Kế Đô. La Hầu tối hung cho Nam vì nó che mất Mặt Trời, Kế Đô tối hung cho Nữ vì nó che mất Mặt Trăng. Cho nên hai vị tinh đẩu này tuy không có thật nhưng cũng được xếp ngang hàng với 7 vị Tinh Quân ở trên thành Cửu Đại Diệu. Hạn đến sao này là xấu, nhưng thực tế ra nó chẳng có ảnh hưởng gì đến chúng ta cả. Một sự lo lắng thừa. Bài này tôi có gắng trình bày dễ hiểu, không dám đả kích ai, chỉ mong đem lại một cái nhìn khoa học hơn về 9 vị sao hạn này, giúp chúng ta bớt lo lắng để tập trung vào việc khác.
  17. Trích KARAJANA: Ngày xưa quan sát bầu trời, người cổ đã phát hiện ra rằng, có một ngôi sao luôn cố định trên bầu trời , đó là sao Bắc Đẩu (Polaris) ( dĩ nhiên Trái Đất của chúng ta có chuyển động Tuế Sai cho nên vị trí sao Polaris thay đổi sau cỡ 12000 năm, vị trí hiện nay là ở sao Alpha trong chòm Tiểu Hùng). Người xưa nhận thấy rằng xung quanh Polaris có một số chòm sao chỉ chuyển động xung quang nó mà không bao giờ đi xuống dưới đường chân trời. Với thế giới quan trong chế độ Phong Kiến, các nhà Thiên văn đã phân bầu trời ra nhiều chòm sao và 3 khu vực gọi là TAM VIÊN lấy sao Polaris là Trung Tâm. Tam Viên bao gồm Tử Vi Viên ở giữa, Thái Vi Viên ở phía đông và Thiên Thị Viên nằm ở phía nam tòa Tử Vi Viên. Đề định ra 4 hướng, các nhà Thiên Văn xưa đã lấy sao Bắc Thần làm trung tâm, và chọn 4 chòm sao rất lớn là Thanh Long ( hướng Đông), Chu Tước (hướng Nam), Bạch Hổ (hướng Tây) và Huyền Vũ (hướng Bắc). Bốn chòm sao lớn này bao gồm 28 vị Tinh Tú xét theo chu kỳ chuyển động của Mặt Trăng, mà ngày nay chúng ta gọi là Nhị Thập Bát Tú. Ngoài Tam Viên, Nhị Thập Bát Tú các nhà Thiên văn xưa còn nhận thấy 7 Đại Diệu Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ Nhật Nguyệt là sáng nhất trên bầu trời ( dĩ nhiên là với mắt thường). Do sự du nhập của Phạn Lịch mà có thêm hai sao La Hầu và Kế Đô. Chín sao này được gọi là Cửu Diệu. Ngoài những sao kể trên, bầu trời còn hàng hà sa số các vì sao khác nữa, mà các nhà Thiên Văn gọi chung là Thiên Cương và Địa Sát. Chúng ta sẽ đi lần lượt từ Tam Viên đến Nhị Thập Bát Tú , Cửu Diệu , Thiên Cương Địa Sát và cuối cùng là ứng dụng. về cách phân chia bầu trời, chúng ta nên biết qua về Ngũ Phục ( cách phân chia đất ngày xưa của các Hoàng Đế Trung Hoa). Từ Trung Ương ( Hoàng Cung) tính ra xa bán kính 500 dặm gọi là Triều Phục tức nơi của Vua , Hoàng Hậu, Thái Tử, Vương Hầu,... Tiếp thêm ra xa 500 dặm nữa gọi là Hầu Phục tức nơi ở của các quan lại, hầu gia, đại thần, chư hầu. Tiếp thêm ra xa 500 dặm nữa là Tuy Phục nơi dành cho dân cư, và quân lính, quân sự. Xa hơn nữa là Y Phục và Hoàng Phục là các ùng ngoài nơi sự cai trị của Vua đã trở nên rất lỏng lẻo, hoang vu hẻo lánh. Bầu trời cũng được phân chia như vậy với sao Bắc Thần ( Bắc Cực) là trung tâm. SAO BẮC THẦN Ngày xưa các Hoàng Đế Trung hoa xem Hoàng Cung là trung tâm của thế giới trần gian. Ứng với Sao Bắc Thần trên Trời là Trung Tâm của Thượng Giới, nơi cư ngụ của Ngọc Hoàng Thượng Đế, chúa tể của muôn loài. Cho nên họ xem Trục nối giữa sao Bắc Thần và Hoàng Cung là Trục Trời Đất, vạn vật sinh linh phải xoay quanh nó. Hoàng Đế xưng là Thiên Tử ( con trời). Xin các bạn lưu ý, việc xem Hoàng Cung là trung tâm của thế giới không chỉ có ở Trung Hoa mà ở tất cả các dân tộc khác. Người Hồi Giáo họ xem Thánh địa Mecca là trung tâm của Thế Giới, người Thiên Chúa họ xem thánh địa Jerusalem là trung tâm của Thế Giới, Louis XIV tự ví mình như Hoàng Đế Mặt Trời, mọi nơi phải xoay quanh Paris,... Chính vì thế mà sao Bắc Thần trong tín ngưỡng người Trung Hoa vô cùng thiêng liêng, nó là nơi có Linh Tiêu Bảo Điện với 10000 phòng ( vạn tuế), còn Tử Cấm Thành của Hoàng Đế luôn luôn xây theo trục Bắc Nam, Vua ngồi quay mặt về hướng Nam xưng Trẫm là con của Trời, khi tế Trời thì chắp tay quay mặt về hướng Bắc mà lạy, đó chính là hướng về sao Bắc Thần vậy. Tử Cấm Thành thời Minh Thanh bao gồm 9999 phòng, không có một nơi nào dám xây thành 10000 hay ứng với con số 10. Vì con số 10 là con số của Trời, chỉ có Ngọc Hoàng được sử dụng. Vua là con Trời nên phải kém đi, cho nên con số 9 ngày xưa là con số tốt nhất ở trần gian. Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự trên sao Bắc Thần tôn hiệu đầy đủ là : " Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân Giả Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Khung Cao Thượng Đế". Cho nên mỗi một triều đại chỉ có vị Vua khai sáng mới được tôn xưng là Thái Tổ Cao Hoàng Đế ( tức thụy hiệu lấy trùng chữ CAO với Ngọc Hoàng) để ghi nhận công lao to lớn thay trời dẹp loạn. Cũng có nhiều Hoàng Đế vì khiêm cung mà không dám lấy Thụy hiệu là CAO mà lấy chữ khác ví dụ Ngụy Thái Tổ Vũ Hoàng Đế ( Tào Tháo). Ở đây xin lưu ý một chú ý quan trọng. Có nhiều sách ghi rằng sao Bắc Thần chính là Vua dưới hạ giới, điều này là SAI. Không có vị Vua nào dám to gan thế cả. Biểu tượng cho vua là sao Tử Vi. Tử Vi là sao nào xin nói rõ hơn trong phần Tử Vi viên. Chính giữa là Tam viên, xung quang là Nhị Thập Bát Tú, ngoài ra còn lại là vô vàn các sao và chúm sao được gộp chung là Thiên Cương và Địa Sát. ử Vi Viên là khu vực trung tâm hình tròn bao quanh Thiên Cực ( sao Bắc Thần) cách một góc 40 độ. Tử Vi Viên bao gồm 160 sao và được chia thành 30 chùm sao lớn nhỏ. Tử Vi Viên mang nghĩ là Khu Tường Vây Quanh (viên), Tử là màu đỏ tía màu của sự huyền bí thiêng liêng, Vi là Hoa ( sách sử chép có một loại hoa sắc đỏ tía gọi là hoa Tử hay Hán gọi là Tử Vi). Như vậy Tử Vi Viên chính như là khu Hoàng Thành màu đỏ tía ( Tử Cấm Thành), là nơi ở của Ngọc Hoàng Thượng Đế, tổng quản trời đất và các thần. Chính vì vậy người xưa khi quan sát Thiên Văn đã chia Tử Vi Viên thành các chòm sao có hình tượng từ Vua, Thái Tử,... cho đến chợ búa... cách tưởng tượng này tạo nên hình ảnh một xã hội trên thượng giới cũng như xã hội loài người nơi trần gian. Riêng Tử Vi Viên là hình tượng của Tử Cấm Thành dưới hạ giới nơi ở của Vua. Chú thích các sao chính trong bản đồ trên: 1. Bắc Cực (gồm 5 sao trong chòm Tiểu Hùng Tinh) 1.1 Thái Tử sao Gamma 1.2 Hoàng Đế sao Kschi 1.3 Hoàng Tử ( Thứ Tử) sao Epsilon 1.4 Hậu cung sao Delta 1.5 Thiên Cực ( sao Bắc Thần) sao Alpha (ghi bên trái là tên Thiên Văn cỗ Trung Hoa, ghi bên phải là theo Thiên Văn Hiện Đại) 2.Tứ Phụ (4 sao) 3.Câu Trần (6 sao) a. Thiên Hoàng Đại Đế 4.Thiên Trụ ( 5 sao) 5.Ngự Nữ (4 sao) b.Nữ Sử c.Trụ Sử 6.Thượng Thư (5 sao) 7.Thiên Sàng (6 sao) 8.Đại Lý (2 sao) 9.Âm Đức (2 sao) 10.Lục Giáp (6 sao) 11.Ngũ Đế nội tọa (5 sao) 12.Hoa Cái (7 sao) 13.Cống (9 sao) 14.Tử Vi Tả Viên ( 8 sao) bao gồm i. Tả Xu ii.Thượng Tể iii.Thiếu tể iv.Thượng bật v.Thiếu Bật vi.Thượng Vệ vii. Thiếu Vệ viii.Thiếu Thừa 15.Tử Vi Hữu Viên (7 sao) bao gồm i.Hữu Xu ii.Thiếu Úy iii.Thượng Phụ iv.Thiếu Phụ v.Thượng vệ vi.Thiếu Vệ vii.Thượng Thừa d.Thiên Ất e.Thái Ất 16.Nội Trù ( 2 sao) 17.Bắc Đẩu ( gồm 7 sao chính là chòm sao Đại Hùng Ursa major) i.Thiên Xu sao Alpha-Duth ii.Thiên Toàn sao Beta-Merak iii.Thiên Cơ sao Gamma-Phecda iv.Thiên Quyền sao Delta-Megrez v.Ngọc Hoành sao Epsilon-Alioth vi.Khai Dương sao Kschi-Mizar vii.Dao Quang sao Nuy-Alkaid Ngoài ra chùm Bắc Đẩu còn có 1 phụ tinh mà bằng mắt thường không nhìn thấy được ( sẽ nói rõ hơn về chùm Bắc Đẩu trong phần tiếp theo) 18.Thiên Thương (3 sao) h.Huyền Qua 19.Tam Công k.Tướng Quốc. 20.Thiên Lý m.Thái Dương Thủ n.Thái Tôn 21.Thiên Lao (6 sao) 22.Thế (4 sao) 23.Văn Xương ( 6 sao) 24.Nội Cấp (6 sao) 25.Tam Sư( 3 sao) 26.Bát Cốc (8 sao) 27.Phó Xá (9 sao) 28.Thiền Trù (6 sao) 29.Thiên Bồi ( 5 sao) Nhìn tổng quan chúng ta có thể thấy ngay hình ảnh một Hoàng Cung với Vua, Hậu Cung Thái Tử ở giữa có Ngự Nữ , Đầu bếp( Thiên Trù) hầu hạ. Hai bên là hai hàng Cấm vệ Quân ví như tường thành bảo vệ ( Tử Vi tả Hữu Viên), được đứng đầu bởi các vị Đại Thần ( Thượng tể, Thái Úy,....) Ngoài cấm thành là nơi Trường Quốc Tử Giám ( Văn Xương), các nơi làm việc của toàn bộ Triều đình. Qua đó chúng ta thấy sự thiêng liêng của Tử Vi Viên mà người xưa gán cho nó. SAO thứ hai của chòm Tiểu Hùng có tên là ĐẾ , sao này có sắc sáng đỏ tía là sáng thứ hai trong chùm Tiểu Hùng (sau sao Bắc Thần), cho nên nó có tên là sao TỬ VI, và đây chính là sao TỬ VI trong môn Tử Vi của chúng ta. Tiếp theo xin nói về Bắc Đẩu Thất Tinh Bắc Đẩu Thất Tinh nằm ngay tại cửa ra vào Tử Vi Viên, cho nên nó được ví như vị thấn thay mặt Trời nhìn xuống trần gian cai quản cuộc sống của muôn dân, xem xét người tốt xấu để định công hay phat. Bắc Đẩu Thất Tinh bao gồm 7 sao : Thiên Xu, Thiên Toàn, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hoành, Khai Dương, Dao Quang. Trong 7 sao này thì sao Thiên Quyền là mờ nhất nhưng lại ở vị trí trung tâm, thành ra lại là quan trọng nhất , nó được xem như nơi ở của Trung Thiên Bắc Đẩu, người chuyên giữ bản mệnh của mọi người trên trần gian. Ngày xưa khi làm lễ cúng sao giải hạn , thường sắp 7 ngọn đèn theo hướng chòm Bắc Đẩu, trong đó ngọn ở vị trí sao Thiên Quyền là ngọn đèn bản mệnh. Người xưa đã thấy rõ vai trò rất quan trọng của chòm Bắc Đẩu trong việc xác định thời tiết, làm lịch ( sẽ nói rõ hơn trong phần ứng dụng). Ngoài ra bên cạnh 7 sao chính chòm Bắc Đẩu còn có 1 phụ tinh nằm cạnh sao Khai Dương. Nó hợp với sao Thái Ất ở trên thành Cửu Tinh Quý Thần trong môn Thái Ất. Xin được nói thêm vài dòng với anh Thái Ất Chùm Bắc Đẩu Thất Tinh bao gồm 2 phần, phẩn Khôi gồm 4 sao Thiên Toàn Thiên Cơ Thiên Xu Thiên Quyền, phần tiêu gồm 3 sao Ngọc Hoành, Khai Dương , Dao Quang. Riêng sao Khai Dương có một phụ tinh quay quanh nó nữa để tạo nên một sao kép. Trong Tử Vi sao Thiên Xu là sao Tham Lang, Thiên Toàn là sao Cự Môn, sao Dao Quang chính là sao Phá Quân. THÁI VI VIÊN Ngày xưa các nhà Thiên Văn phương đông gọi đường chuyển động của Mặt Trời là Hoàng Đạo, của Mặt Trăng là Bạch Đạo. Nhưng do Bạch Đạo không có tâm là ở Bắc Thiên Cực cho nên khi chia ra Tử Vi Viên thì hai phía Đông và Nam vẫn còn có khoảng trống và khoảng trống phía Đông gọi là Thái Vi Viên. Tử Vi Viên là nơi cung cấm của Thiên Đế thì Thái Vi Các bạn hẳn đã thấy rõ, trong Thái Vi Viên cũng có hình ảnh của một triều đình thu nhỏ nhưng mà là của Chư hầu và thêm vào đó các sao Tam Công, CỬu Khanh chính là các đại thần trụ cột đầu triều ngày xưa tại trung ương. Trong môn Tử Vi của chúng ta liên hệ đến Thái Vi Viên rất ít, cho nên không nói kỹ đến ở đây. Nhưng trong môn Thái Ất khi xét đến họa hại của Thủy Kích, Thái Vi Viên đóng một vai trò rất quan trọng. THIÊN THỊ VIÊN : Thiên Thị Viên nằm ở phía Đông Tử Vi Viên, nó tượng trưng cho chốn thị tứ, chợ búa, buôn bán. Một khung cảnh đời sống hết sức thường ngày dưới hạ giới. Chính vì thế, khi nghiên cứu về Thái Ất có sao Dân Cơ , nó chính là 5 sao nằm ở Trung Tâm chòm Thiên Thị Viên. Và do đó tính chất của Dân Cơ chủ về tài lộc, giàu có, buôn bán, là sao tụ tài, chứ không phải là sao chủ công danh quyền chức như Quân Cơ ( nằm trong Tử Vi Viên) và Thần Cơ ( nằm trong Thái Vi Viên). NHỊ THẬP BÁT TÚ Xung quanh TRUNG THIÊN có các hướng của nó Đông Tây Nam Bắc được đại diện bởi 4 chòm sao rất lớn là THANH LONG, BẠCH HỔ, CHU TƯỚC, và HUYỀN VŨ. Phương Đông đại diện bở chòm THANH LONG ( rồng xanh), chính vì thế Phương Đông tượng trưng cho Mộc và có màu xanh. bao gồm: 1.Giác Mộc Giảo( cá sấu) 2.Cang Kim Long(rồng) 3.Đế Thổ Bức(dơi) 4.Phòng Nhật Thố (thỏ)-> đứng chính giữa chòm Thanh Long là MÃO 5.Tâm Nguyệt Hồ (Cáo) 6.Vĩ Hỏa Hổ (Hổ) 7.Cơ Thủy Báo(Báo) Phương Bắc đại diện bởi chòm HUYỀN VŨ (Rùa Đen), chính vì thế Phương Bắc tượng trưng cho Thủy có màu đen, bao gồm: 1.Đẩu Mộc Giải( con giải) 2.Ngưu Kim Ngưu(trâu) 3.Đề Thổ Lạc(nhím) 4.Hư Nhật Thử(chuột)->đứng chính giữa chòm Huyền Vũ là TÝ 5.Ngụy Nguyệt Yến ( chim yến) 6.Thất Hóa Trư (lợn) 7.Bích Thủy Dư(cừu) Phương Tây đại diện bởi chòm BẠCH HỔ(Hổ Trắng), do vậy phương Tây tượng trưng cho Kim khí có màu trắng, bao gồm: 1.Khuê Mộc Lang(chó sói) 2.Lâu Kim Cẩu(chó nhà) 3.Vị Thổ Trệ (chim trĩ) 4.Mão Nhật Kê (gà)->đứng giữa chòm Bạch Hổ là DẬU 5.Tất Nguyệt Ô( quạ) 6.Chủy Hỏa Hầu(khỉ) 7.Sâm Thủy Viên(vượn) Phương Nam đại diện bởi chòm Chu Tước( chim sẻ đỏ), do vậy phương Nam tượng trưng cho Hỏa có màu đỏ, bao gồm: 1.Tỉnh Mộc Hãn(bò)" có sách ghi Tỉnh Mộc Ngạn" 2.Quỷ Kim Dương(dê) 3.Liễu Thổ Chương(cheo) 4.Tinh Nhật Mã(ngựa)->đứng giữa chòm Chu Tước là Mã 5.Trương Nguyệt Lộc(hươu) 6.Dực Hỏa Xà(rắn) 7.Chân Thủy Dẫn( giun) 28 vị sao trên sách xưa gọi là Nhị Thập Bát Tú chia làm 4 khu vực quanh Hoàng Đạo. Người Trung Quốc tin rằng mỗi một vị thần coi giữ 1 sao, quyền năng ảnh hưởng mạnh mẽ lên con người phàm trần. Dựa vào đó họ đã chọn ra 12 con Địa Chi để thể hiện sự ảnh hưởng này. Trong 12 con này, những con tôi gạch chân ở trên, đứng giữa chòm sao tượng cho CHÍNH Đông, Tây, Nam, Bắc. Do vậy mà Tý Ngọ Mão Dậu chính là Tứ Chính vậy Nhị Thập Bát Tú dựa trên chu kỳ của Mặt Trăng, chính xác ra là 29,24 ngày. Nhưng do họ xác định được 28 sao, thành ra mỗi 1 ngày Mặt Trăng đi qua xấp xỉ 1 sao. Và họ coi chu kỳ của Mặt Trăng xấp xỉ 28 ngày. Xuất phát từ những sai số Thiên Văn này mà Âm Lịch của tổ tiên chúng ta càng tính về sau càng sai, và việc chỉnh sửa Lịch là điều bắt buộc.
  18. Trích của DALA Thái Ất Thần Kinh đúng tương truyền là của cụ Trạng Trình ( Thần Kinh không phải là quyển kinh sách, mà Thần Kinh là tiếng ngày xưa để chỉ Việt Nam, Thần Châu là Trung Quốc). Dòng Thái Ất này là của riêng cụ Trạng, bản thân quyển Thái Ất Thần Kinh cũng có nhiều chỗ khác với Thái Ất thống tông bảo giám, Thái Ât thông tông đại toàn của Tàu, đúng sai thì phải dựa vào 1 yếu tố khác hoàn toàn khoa học đó là......... Tại sao lại có con số 10153917 để cộng vào tìm Tuế kể? Liệu có chính xác không? Căn cứ của nó ở đâu. Tự dưng cụ Trạng Trình được quả táo rơi vào đầu rồi nghĩ ra Đại chu là 3600 đơn vị thời gian, tiểu chu là 360, rồi chia tiếp 72, chu kỳ của Thái Ất là 24 năm???? Một câu hỏi lớn đấy... và cũng chỉ có thể giải thích cặn kẽ nhờ........ Thái Ất là môn học thống tất cả đạo học vì nó bao gồm cả Tinh Đẩu, Quẻ Dịch, Kỳ Môn Độn Giáp. Có dạy cách điều binh khiển tướng, xem cát hung mưa nắng, quyết định sự an nguy của cả một quốc gia. Cho nên ngày xưa sách về Thái Ât thuộc dạng CẤM THƯ chỉ truyền trong Hoàng Tộc. Ở Việt Nam ta, thư tịch của cụ Trạng sau khi mất chỉ có Vua chúa mởi được xem. Chính vì thế đến nay môn học đấy thành ra tam sao thất bổn... Tàu bảo Tàu đúng, Việt bảo Việt không sai... không thể biết được. Bước đầu tiên để xác định lại cơ sở cho nó là bằng cách dùng............., chỉ mới là bước đầu chưa thể nói khơi lại được cả học thuyết Thái Ất. Trích KARAJANAi: cũng biết môn Thái Ất và môn Độn Giáp có những liên quan mật thiết đến nhau , và như vô tình hai môn này có rất nhiều điểm tương đồng. Bản thân tôi cũng luôn có ý tưởng phải chẳng Thái Ất và Độn Giáp chính có cùng một nguồn, phải chăng Thái Ất nó chính là phần bao quát hơn , tổng quát hơn của Độn Giáp... phải chăng Thái Ất chính là đứng đầu trong Tam Thức thống nhất đạo của mọi nhà...??? Những câu hỏi như vậy làm tôi băn khoăn và day dứt hàng chục năm nay. Sách Tàu sách Ta về Thái Ất và Độn Giáp tương đối ít nhưng xin thưa bản thân tôi KHÔNG TIN vào sách của mấy ông Tàu, kẻ cứ tự coi mình là chân lý... nếu sách Tàu về Thái Ất mà đúng thì Tứ Khố Toàn Thư, Thái Ất Thông Giải,... đầy ra đấy sao chẳng có ông nào dùng nó để luận đoán... xin đừng nói rằng : "Thái Ất khó, ít có ai thông hiểu "... câu này vô lý lắm... chẳng nhẽ dân tộc 1,3 tỷ dân như Tàu lại không tìm nổi một người thông hiểu Thái Ất và Độn Giáp. Những truyền thuyết của cụ Trạng Trình về bộ Thái Ất Thần Kinh có thể cho ta thấy... dân Tàu dù có là Gia Cát Lượng cũng chỉ thông hiểu được phần nào của Thái Ất mà thôi, người thực sự có thể nói thấu hiểu được Thái Ất chắc trong lịch sử chỉ có cụ Trạng Trình - một người VIỆT NAM.... Với môn Thái Ất, phương châm nghiên cứu của tôi là : "Khoan đã, tại sao Thánh lại dạy như thế? Lão Thánh này dạy đúng hay dạy bậy??? ", sách Tàu hay sách ta đều có giá trị ngang nhau hết, chủ yếu là mình phải tự mày mò, tìm hiểu để nó biến thành của mình , của riêng mình không phụ thuộc gì vào sách vở cả. Hơn nữa Thái Ất là một môn KHOA HỌC cho nên xuất phát điểm của nó phải là một nền tảng rất tự nhiên, hiển nhiên trong cuộc sống chứ không phải là một thứ gì đó NHÂN TẠO. Và con đường mà tôi chọn là con đường THIÊN VĂN. Nếu lấy sao Bắc Thần làm tâm và dựa vào Nhị Thập Bát Tú để phân định ra 4 hướng chính , 8 phương. Quan sát chùm Bắc Đẩu Thất Tinh, theo Thiên Văn Hiện Đại thật ra là 8 sao do 1 sao là sao kép , và đứng giữa chùm Bắc Đẩu Thất Tinh với sao Bắc Thần là 1 ngôi sao cũng rất sáng... gọi là sao Thái Ất. Thái Ất này cộng với 8 sao trong chòm Bắc Đẩu để tạo nên cái gọi là Cửu Tinh Quý Thần. Bằng quan sát với một cái kính Thiên Văn các bạn có thể dễ kiểm chứng là sao Thái Ất này sau xấp xỉ 2 ngày (24 h : 1h âm lịch = 2h Dương lich) thì quay về đúng vị trí cũ. Cái này nó chính khẳng định cho câu nói : "Thái Ất hành 3 giờ, 3 ngày, 3 tháng, 3 năm ở 1 cung , hành qua 8 cung , không vào cung giữa ". Thái Ất không bao giờ đi vào cung giữa ( vị trí của sao Bắc Thần chiếm đóng ). Thái Ất thì vậy... như vậy Đại Tướng Khách Tướng mà vào trung cung hết thì sao??? Sách Thái Ất Thần Kinh không hể nhắc đến chuyện này mà chỉ nói là Đại Tướng Chủ ở trung cung cho nên Không Toán.... thật ra cái này có đúng không??? Nhất là khi dùng Thái Ất cho việc dùng binh ( Kể Giờ) vị trí của các Đại Tướng và Tham Tướng vô cùng quan trọng... nó mà vào cung giữa thì thế nào??? Thái Ất hành 3 năm một cung, qua 8 cung = 24 năm. Đây chính là chu kỳ của một hành trên Hà Đồ theo qui luật Cách bát sinh tử - Sinh Vượng Mộ - (Ba giai đoạn), mỗi giai đoạn tám năm = 24 năm .Sau đó chuyển sang hành khác . Đi ngược trên Hà Đồ thành Lục thập Hoa giáp theo sách Hán cổ . Đi thuận trên Hà Đồ thành Lạc thư Hoa giáp theo văn minh Lạc Việt . Chu Kỳ 24 năm của Sao Thái Ất, trùng chu kỳ 24 năm của 2 vòng (Âm Dương)Thái Tuế (Sao Mộc). Nếu biết đích xác sao Thái Ất là sao nào, hoặc là cái gì, thì chúng ta đã cầm được cái chìa khoá . Như đã nếu ở trên, Thái Ất không bao giờ vào trung cung bởi vì Thái Ất không bao giờ đồng cung , hay nói khác đi là đi vào địa phận của sao Bắc Thần. Người xưa tin tưởng rằng : sao Bắc Thần luôn cố định trên bầu trời cho nên nó là hình ảnh của Thượng Đế chí tôn. Còn chòm Bắc Đẩu Thất Tinh là thần của Thiên Đế , nó trấn giữ ngay cửa ra vào Tử Vi Viên. Bắc Đẩu Thất Tinh này là nơi chuyên giữ sổ sinh tử coi xét về vận mệnh của con người, quản từ đời sống thường ngày cho đến công danh bổng lộc, sống chết. Chính vì thế mà Gia Cát Lượng khi muốn xin thêm tuổi thọ phải đặt 7* 7 = 49 ngọn đèn theo 7 phương vị khác nhau của chòm Bắc Đẩu Thất Tinh, trong đó ngọn đèn bổn mệnh đặt ngay tại vị trí của sao Thiên Quyền của chòm Bắc Đẩu Thất Tinh. Và chòm Bắc Đẩu Thất Tinh này cùng các thần khác đựơc cai quản bởi thần Thái Ất. Thái Ất đứng ngay giữa sao Bắc Thần và chòm Bắc Đẩu, nó thay trời đứng đầu 16 thần. Nắm ngôi vị chủ tể. Khi Thái Ất bị xung với Thái Tuế, Thái Tuế tượng là Vua dưới hạ giới. Vua bị xung với Thái Ất thì chắc chắn là không có gì tốt đẹp, thường là băng vong , và cứ khi nào Thái Ất xung Thái Tuế là có sao chổi ( bất kể lớn nhỏ ) phạm vào địa phận của toà Tử Vi Viên. Lịch sử ghi chép rất rõ ràng : Năm thứ 8 đời Lữ Hậu, sao chổi rất lớn hiện ra đi vào địa phận toà Tử Vi Viên, chạy sát sang toà Thái Vi , Lữ Hậu nói : " Đó là điềm vì ta ". Tháng 8 năm đó Lữ Hậu băng. Và còn nhiều nhiều nữa mà các bạn có thể tìm đọc trong chính sử. Bàn về các Đại Tướng, Tham Tướng Chủ và Khách. Đại Tham Tướng Chủ an theo Chủ Mục , Đại Tham Tướng Khách an theo Khách Mục. Bất cứ 1 trong 4 tướng này mà vào trung cung ( lưu ý : 4 vị tướng này không hề có trên bầu trời, họ đặt ra với mục đích sâu xa nhất là dùng binh.) , tức là 4 Tướng phạm vào địa phận của sao Bắc Thần. Bắc Thần là Thượng Đế chí tôn , cho nên bất cứ Tướng nào phạm vào thì đó đều là điềm không hay, nếu Toán lại không hoà thì tối hung. Cho nên khi hành quân , cứ thấy Đại Tướng Chủ Khách mà vào trung cung là Toán Chủ Khách không tính và án binh bất động ( nên nhớ là dùng binh phải xem KỂ GIỜ). Kể Đại Tướng là an theo Kể Thần, nó đo độ số u minh của Thái Ất... nhưng U Minh là cái gì?? Trong TH cả Toán Chủ và Khách đều không hoà, việc ra quân bất lợi thì phải xem đến Kể Đại Tướng... Kế Đại Tướng không ép, cách, Toán Kể hoà, Cửa Kể đủ thì mai phục chờ tiến binh sẽ lợi cho chủ, ngược lại thì nên án binh bất động. Định Đại Tướng được an từ Định Mục nó đóng vai trò trợ giúp cho Thái Tuế ( Định Mục an dựa vào Thần Hợp). Trong môn Thái Ất có một thần tối cao đó là thần Ngũ Phúc. Ngũ Phúc chính là chòm Tiểu Hùng gồm 5 sao , trong đó sao Bắc Thần đứng đầu. Ngũ Phúc đi đến đâu thì giáng phúc đến đấy.... chỉ trừ hai cung Dần Mão là nơi hãm địa. Ngũ Phúc vào trung cung thì giáng phúc cho bốn phương, dù có chiến tranh cũng ít thiệt hại, chết người. Do Ngũ Phúc là Bắc Thần tối cao cho nên quyền giải hạn của nó rất lớn , Thái Tuế xung Thái Ất nhưng có Ngũ Phúc thì tai hoạ không còn. Đại Du hành sát đến đâu, nơi đấy binh lửa rợp trời, nếu có Ngũ Phúc tai hoạ giảm đi một nửa.
  19. Sử Việt - những điều cần xem lại Dòng Hùng Việt 1 / Lầm lẫn Thái Viêm - Thần nông với Viêm đế . Người họ Hùng khởi lập Hữu Hùng quốc vào đời thủ lãnh thứ 5 , vương hiệu là Hùng Vũ vương – Hiền lang , 4 đời thủ lãnh họ Hùng trước thực ra là truyền thuyết về 4 tổ phụ những tộc người ở 4 phương thiên hạ đồng thời cũng là 4 bước trên đường đến văn minh của con người . - bước 1 là thời thủ lãnh Thái Cao – Bào hy ; Tổ phụ của tộc người phương Đông cũng là vua của cái mặc chỉ việc con người biết dùng lá cây rồi vỏ cây da thú làm vật che thân . - bước 2 là thời thủ lãnh Thái Viêm – Thần nông ; Tổ phụ người phương viêm nhiệt cũng là vua của cái ăn chỉ bước tiến của con người từ săn bắt hái lượm sang trồng trọt chăn nuôi , thời gian cai trị của Thần nông ước khoảng 30000 -15000 trước . - bước 3 là thời thủ lãnh Thái Khang – Thiếu hạo ; Tổ phụ người phương Tây cũng là vua của bản làng chỉ thời con người biết làm nhà , bắt đầu định cư và quần tụ thành xóm thành làng . - bước 4 là thời thủ lãnh Thái Tiết hay Tiếp ; Tổ phụ tộc người phương Nam xưa (nay là Bắc) vua của sự giao thông , chỉ lúc người ta phát minh ra phương tiện giao thông mà ban đầu có thể là bè mảng tre đi lại trên sông , sự giao thông đã mở rộng không gian sinh tồn nối kết các xóm làng lại với nhau mở ra thời liên minh thị tộc hay bộ tộc . - bước 5 là thời khởi lập quốc gia , khác với thời liên minh thị tộc không còn đơn thuần là sự liên lạc trao đổi qua lại giữa các thực thể riêng biệt mà cả cộng đồng trở thành 1 cơ thể sống được chỉ huy thống nhất , trong cái không gian sinh tồn gọi là quốc gia thì mọi người cùng chấp hành 1 quy tắc sinh hoạt chung và vận mệnh của họ gắn liền với nhau . Việc khởi lập quốc gia bắt đầu ở thời thủ lãnh liên minh Hùng tộc là Thái Công và kết thúc tức đã hình thành nhà nước sơ khai Hữu Hùng quốc - nước của Hùng tộc ở thời đế Minh theo sử Việt hay Hoàng đế – đế màu Vàng theo cổ sử Trung hoa , xin nhấn mạnh chỉ ở thời điểm hình thành khái niệm quốc gia thì mới có ngôi đế ngôi vua , Hữu Hùng quốc lập thành trên cơ sở thống nhất liên minh 3 bộ tộc của 3 thủ Lãnh : Hoàng đế của bộ tộc trung tâm , Viêm đế của bộ tộc ở về hướng viêm nhiệt - xích đạo và Xi vưu nghĩa là vua bộ tộc phía tây (Xi vưu = Tây vua). Hữu Hùng quốc khởi lập ước khoảng 6000-5000 năm cách nay tức sau thời Thần nông xa lắm , đế Minh của sử Việt là cháu 3 đời của Thái Viêm – Thần nông tức thời điểm con người bước từ săn bắt - hái lượm sang trồng trọt - chăn nuôi , truyền thuyết Việt đã lầm lẫn thành ...đế Minh là cháu 3 đời của Viêm đế ....anh em cùng cha khác mẹ với Hoàng đế – đế vùng màu Vàng thời khởi lập Hữu Hùng quốc . Giới viết sử người Việt mắt nhắm mắt mở không nhận ra ....nếu Đế Minh là cháu 3 đời của Viêm đế ...thì hoá ra vua tổ của Việt tộc là hàng chắt chút 3 đời của Hoàng đế vua tổ Trung hoa sao , Hoàng đế và Viêm đế là anh em con của Hùng quốc quân . Sử thuyết Hùng Việt đính chính : Đế Minh vua tổ Việt tộc là cháu 3 đời của Thái Viêm - Thần nông và đế Minh chính là Hoàng đế – đế vùng màu Vàng trong sử Trung hoa , Vàng là sắc trung trong Ngũ sắc , Minh chỉ sự sáng soi tức dẫn dắt cả 2 từ cùng nghĩa chỉ vùng trung tâm thiên hạ . 2 / Sai lầm nghiêm trọng thứ 2 : Hoàng đế giết và cướp ngôi của Viêm đế - Thần nông (Truyền thuyết dân gian) . Bắt nguồn từ sai lầm thứ 1 đã viết ở trên , dân gian Việt lan truyền chuyện Hoàng đế vua người Hán đã giết và cướp ngôi của thày mình là Viêm đế - Thần nông vua người Việt , sai lầm này là hết sức nghiêm trọng vì nó khiến lệch lạc ý thức lịch sử và tình tự dân tộc nơi người Việt . Sử thuyết Hùng Việt minh định : Hán không phải là Trung hoa , Hoàng đế vua tổ Trung Hoa cũng chính là đế Minh cháu 3 đời của Thái Viêm - Thần nông trong dòng sử Việt , Thái Viêm tổ phụ bộ tộc phương Viêm nhiệt là tổ 3 đời của Viêm đế và Hoàng đế , 3 đời ở đây là 3 đời trong lịch sử tức 3 triều đại không phải là thân thuộc huyết thống 3 đời , ngoài sự việc 4 vì vua đầu huyền thoại là tổ phụ 4 phương cũng là 4 bước trong quá trình tiến hoá , 4 vị còn tiêu biểu cho 4 mùa trong vòng tuần hoàn : xuân hạ thu đông , chính thời tính đã cho ra ý niệm đế Minh là cháu 3 đời của Thái Viêm Thần nông , Thái Viêm muà Hạ , Thái Khang mùa thu , Thái Tiết mùa Đông , hết mùa đông nhập vào trung cung là thời của Thái Công , ở đấy ‘Thái công’ chất biến hóa thành ‘đế Hoàng’ từ trung cung đi ra bắt đầu vòng tiến hóa mới với mỗi mùa là 1 đế – vua thay cho 1 Thái – tổ phụ bộ tộc của chu kỳ trước . Với Dịch học ; hành trung tâm là gía – sắc là gieo – gặt là nơi Khởi đầu và cũng là nơi kết thúc . Với 4 mùa tuần tự thì Thái Công - Hoàng đế không thể nào giết và cướp ngôi của Thái Viêm –Thần nông như truyền tụng trong dân gian được vì 2 thời đại cách nhau có đến hàng vạn năm . Sử Việt có 18 đời Hùng vương nhưng không 1 lời nói đến Hùng quốc còn sử Trung hoa thì có Hữu Hùng quốc nhưng lại không hề có Hùng vương , Phối hợp thông tin 2 dòng sử Việt và Hoa thành ra dòng sử trọn vẹn : Đế Minh là tổ dòng Hùng vương , Hoàng đế là tổ Hữu Hùng quốc tức nước của người họ Hùng , Hùng vương đương nhiên là vua Hùng quốc ; tự thân danh xưng đã chỉ ra thế không cần phải suy xét gì cả . Chính Quốc danh Hữu Hùng quốc cộng với thông tin trong ngọc phả Hùng vương đã xác nhận luận điểm căn bản của Sử thuyết Hùng Việt : đế Minh vua tổ trong dòng sử Việt chính là Hoàng đế – đế màu Vàng trong cổ sử Trung Hoa . (Ngọc phả Hùng vương viết : Hoàng đế là Hùng vương đời trước thời thánh Tản viên ). Quá tin vào sách vở Tàu , phớt lờ thông tin lịch sử lưu truyền chốn dân gian ; giới viết sử lớp trước đã vô ý tròng vào cổ người Việt tội bất kính qúa sức nặng nề ..., người viết sử đời nay thì ...vẫn cứ vết xe cũ mà đi ...thực đáng buồn . 3 / Lộc Tục là tộc danh , không thể nào là Kinh Dương vương – vua phương Nam được . Tóm tắt Truyền thuyết lịch sử Việt : đế Minh đi tuần thú phương Nam đến miền Ngũ lĩnh lấy con gái bà Vũ Tiên sinh ra Lộc tục , vua rất yêu qúy có ý định truyền ngôi cho nhưng Lộc Tục không nhận sau đế Minh truyền ngôi cho con cả là đế Nghi và phong Lộc Tục là vua phương Nam hiệu là Kinh Dương vương..., Kinh Dương vương làm vua nước Xích Quỉ vào quãng năm nhâm tuất 2879 TCN , Xích Qủy là tiền thân nước của người Việt ngày nay .... Lộc Tục chỉ là chữ tác đánh chữ tộ của Lục tộc hay Lạc tộc tức tộc người ở phương Nước tức phương Nam xưa theo quan điểm của Dịch học (nay đã đảo ngược) , vì muốn khẳng định sự ngang hàng nên dân gian Việt đã tạo ra 1 Lộc Tục là vua phương Nam đối ứng với đế Nghi là vua người Tàu ở phương Bắc Đây là sự khác biệt chính giữa truyền thuyết lịch sử Việt và tư liệu lịch sử Trung Hoa . Khi đã xác định Lộc Tục – Lục tộc – Lạc tộc là tên tộc người thì không thể có việc Lộc tục làm vua được , đế Minh mất đế Nghi lên thay đất nước vẫn 1 thể thống nhất với 2 miền Nam Bắc không có có chuyện người làm vua phương Bắc người làm vua phương Nam . Cổ sử dân gian Việt nói ... đế Minh trước lập kinh đô ngàn Hống ở Hồng lĩnh , có lần vua tuần du ngoài biển thuyền rồng trôi đến Động đình hồ và vua gặp tiên nữ và cùng nhau sinh con đẻ cái tạo ra dòng tộc phương Nam rồi vua lập thêm kinh đô mới ở Phong châu , sau vua trở lại kinh đô Ngàn hống , đến đời đế Nghi kế vị mới đóng đô ở Phong châu , từ đấy Ngàn Hống trở thành cố đô . Đối chiếu với cổ sử Trung hoa ....khởi thủy đất đai Thiên hạ chỉ có 2 châu Đào và Đường hay Thường , châu Đào chính là Hồng lĩnh (đào =hồng=xích=đỏ) và châu Đường hay Thường là miền có kinh đô Phong châu , Sở dĩ có thể đoan chắc như thế vì đế Nghiêu và đế Nghi xét về mặt ngữ âm chỉ là 1 , cổ sử Trung hoa chép đế Nghiêu tước hiệu là Đường vương và còn có tên khác là ông Giao Thường , Giao là Giao chỉ , Thường trong Dịch học đồng nghĩa với nước – Lạc tức chỉ phương Nam . Xét như thế thì chính đế Nghi – Nghiêu mới là Kinh Dương vương hay vua phương Nam , chính xác thì phải nói là vua đóng đô ở phía Nam đất nước . Đế Nghi hay Đường Nhiêu khởi đầu cho dòng vua phương Nam tức Kinh dương vương nên đạo hiệu của ngài là Nam triều thánh tổ ngọc hoàng thượng đế cùng với đế Minh đạo hiệu là Vua cha ngọc hoàng thượng đế . Gọi là dòng vua phương Nam tức không phải chỉ 1 mà có nhiều Kinh dương vương . Kinh Dương vương thứ I là đế Nghi hay Đường Nghiêu tên khác là Giao Thường. Kinh Dương vương thứ II là đế Thuấn hay Ngu Thuấn tên gọi khác là Diêu trọng Hoá , Diêu cũng chỉ là Giao biến âm mà thôi có người đọc là (Điêu trùng hoa). Kinh Dương vương thứ III là Đại Vũ tổ nhà Hạ , tên khác là Cao Mật , cao mật là từ Việt ; Cao là cao cả chỉ vua chúa , Mật là Một , Cao Mật chĩ nghĩa là vua thứ nhất của thời vương quốc tức thời kỳ quốc gia sơ khai đã chấm dứt. Đại Vũ trị thủy trong truyền thuyết Việt là Sơn tinh , việc trị thủy thành công của Đại vũ được người Việt cổ thần thoại hóa thành ra ...Sơn tinh chiến thắng Thủy tinh , Đại Vũ đạo hiệu là Tản viên sơn thánh quốc chúa đại vương . Thần thoại Việt chép Kinh dương vương kết duyên cùng Long nữ con gái Động đình quân là nói việc ông Đại vũ – Kinh dương Vương III lấy vợ là Đồ Sơn thị trong cổ sử Trung hoa , thần thoại kết duyên này thực ra chỉ là ánh xạ của việc kết hợp 2 cộng đồng con cháu người Hoà bình phía Tây và Bắc sơn ở phía Đông để tạo thành vương quốc Thiên hạ . 4 / Lạc long quân húy là Sùng Lãm ... Kinh dương vương tức vương phương Nam kết duyên với Long Nữ con vua phương đông - Động đình hồ quân sinh ra Lạc long quân . Quân nghĩa là trưởng tức người đứng đầu , Lạc chỉ dòng Bố phương Nam xưa , Long chỉ dòng mẹ phương Đông . Đại Việt sử ký toàn thư Kỷ Hồng Bàng Thị chép : ...Lạc long quân húy là Sùng Lãm nhưng ở chương viết về Hùng vương thì lại viết …Hùng vương là con Lạc long quân (khuyết húy)…, câu chữ rõ ràng như thế thì buộc phải hiểu là Lạc long quân không có tên húy rõ hơn là Lạc long quân không phải là Sùng Lãm chứ không thể hiểu như kiểu chữa cháy …câu này có ý nói con của Lạc long quân tức Hùng vương không có tên húy …, xin đừng quên Hùng vương có tới 18 đời mỗi đời còn có nhiều vua đâu phải 1 vị đâu mà viết Hùng vương khuyết húy … Sau việc Đế Minh là cháu 3 đời Viêm đế , Lạc long quân lấy bà Âu cơ là sai lầm cực lớn thứ 2 của truyền thuyết lịch sử Việt . Âu cơ là con đế Lai cháu gọi Lạc long quân là chú , tệ hơn có tư liệu viết ...Âu cơ là thiếp yêu của đế Lai ...hoá ra Lạc long quân ăn ở với chị dâu ? ; thực là loạn luân vô đạo , lại còn ...họ sinh trăm trứng nở ra trăm người con trai là tổ Bách Việt ?, ...chuyện bậy bạ như thế mà cũng có người nhắm mắt chép lại để truyền đời ,thực không hiểu nổi ?. Sử thuyết họ Hùng đã tách cổ sử Trung hoa thành 2 thời khác nhau , thời quốc gia sơ khai và thời vương quốc , Kinh dương vương giải mã trên nền Dịch học chỉ nghĩa là chúa phương Nam ; 2 thời kỳ lịch sử trước sau có 2 dòng kinh dương vương khác nhau : Dòng Kinh dương vương thời quốc gia sơ khai kinh đô ở vùng sông Đà núi Tản Việt nam nối đến Quảng tây Quảng Đông Trung quốc với các vua Nghiêu – Thuấn - Vũ khác với Dòng Kinh dương vương thứ 2 thời vương quốc Thiên hạ là triều đại nhà Thương trung tâm ở Hồ nam – Giang tây thuộc Trung quốc ngày nay . Lạc long quân là con Kinh dương vương III thời quốc gia Sơ khai còn Sùng Lãm là con Kinh dương vương – Thành Thang thời vương quốc họ Hùng , 2 thời cách xa nhau cả ngàn năm , lầm lẫn Lạc long quân húy Sùng Lãm là 1 trong những cái sai nghiêm trọng nhất trong cổ sử Việt . La là nhánh người họ Hùng trên đất Đào – Hồng , Kinh là nhánh sống trên đất Đường – Thường ở buổi đầu dựng nước , La – Kinh là cách gọi khác của Bắc – Nam mà thôi , đến đời Đường Nghiêu có thêm đất Nam Giao (chỉ) thì phần châu Đường cộng với đất Nam giao mới thu nhận gọi chung là đất Lạc còn đất châu Đào cũ suôi về Xích đạo của tộc La được gọi là đất An - Yên , người sống trên đất Nam giao mới gọi là người Âu , từ Âu chỉ là biến âm của Ô nghĩa là màu đen Dịch tượng chỉ phương Nam xưa , người Hán lợi dụng phép phiên thiết Hán văn biến người Âu ra Ai lao di vì ‘ai lao’ thiết Âu . Người Liêu hay Liêu tử là 1 nhánh của Ai lao di ở Tây nam Trung quốc . La- Lai- Liêu- Ly chỉ là những biến âm của từ Lửa tiếng Việt . Lang Liêu được thần mách bảo làm ra bánh Dày bánh Chưng tức đạo vuông tròn , Âm – Dương chỉ là Thần thoại hóa việc ông Cơ Xương tác Dịch . Lang nghĩa là vương là chúa , lang Liêu là chúa tộc Liêu – La – Lửa tức chúa Ai lao di hay tộc Âu . Võ vương tổ nhà Thương phong cho con thứ làm vương nước Sùng trên đất Đào – Đường cũ… từ đó sử dân gian Việt có Ngũ vị tôn ông tức 5 đời chúa nước Sùng : Sùng Nghiêm - Sùng Tôn - Sùng Quyền - Sùng Huề và Sùng Cầm ; Sùng Lãm là vua sau cùng của đời Sùng Cầm . Sùng Lãm sử Trung hoa gọi theo tước vị là Bắc bá hầu - Sùng hầu Hổ . Sùng thực ra là từ dịch sang Hán ngữ của từ Cao tiếng Việt chỉ phần đất của ‘Thiên hạ’ gần Xích đạo. Ông Tây bá hầu Cơ Xương tổ nhà Châu đánh bại và sáp nhập nước của Sùng hầu hổ vào đất nhà Châu xây kinh đô trên đất mới chiếm ấy gọi là Phong kinh . Sự kiện lịch sử này được truyền thuyết dân gian chuyển thể thành truyện …Bà Âu Cơ lấy Lạc long quân đẻ ra trăm trứng , viết ...bà Âu Cơ tức ông Cơ Xương chúa tộc Âu lấy Lạc long quân là sai ; chính xác phải là ...bà Âu Cơ lấy Sùng Lãm đẻ ra Trăm trứng nở thành trăm người con trai làm tổ Bách Việt , sự kiện này là chỉ thần thoại phản ánh việc nhà Châu phân phong thiên hạ lập nên cả trăm nước chư hầu … Như đã nói ; Âu chỉ là biến âm của ‘Ô’ tiếng Việt là màu Đen Dịch tượng của phương Nam chỉ vùng phía Nam của đất Giao chỉ hay ‘chỗ giữa’ cụ thể ở đây là vùng Quảng Tây – Qúy châu chính vì vậy mà Quảng Tây xưa gọi là đất Lâm biến âm từ Nam – Lam mà ra . Trong cụm từ Âu – Cơ ta đã biết Ai lao thiết ao – ÂU còn Cơ chỉ là biến âm của Cô tiếng Việt (thày cô); Cô là 1 từ cổ chỉ vua trong nền văn minh Trung hoa , thứ 2 Cơ cũng có thể là tên họ , ở đây chỉ họ Cơ của các vua nhà Châu . Xét như vậy thì Âu cơ có thể hiểu theo 2 nghĩa : Âu cơ nghĩa là chúa Ai lao di hoặc người Ai lao di họ Cơ . Xét 2 từ Âu và cơ và liên hệ đến tộc người Liêu hay Liêu tử ở Tây – Nam Trung quốc có thể luận ra : vua nhà Châu Trung hoa họ Cơ tông phái của Hoàng đế là người Ai lao di (Hoàng đế là tổ họ Cơ) , đất đai trước ở về phía Nam Giao chỉ tức vùng Quảng Tây – Qúy châu ngày nay . Đối chiếu với thông tin trong ngọc phả Hùng vương ... “Thục Dương Vương bộ chủ Ai lao là hoàng tôn dòng Hùng Vương trước thuộc tông phái của Hoàng đế ...”. Thục vương bộ chủ Ai lao lên ngôi vương hiệu là An - Dương vương , trong ngôn ngữ Dịch học thì An dương vương và Âm Dương vương chỉ là 1 , xét ý nghĩa của từ Âm Dương vương vua Dịch học còn là ai khác ngoài ông Cơ xương tức Văn vương tổ nhà Châu Trung hoa ?. 5 / Nhà Thục thay nhà Hùng , nước Âu Lạc tiếp nối nước Văn Lang Lịch sử là 1 sâu chuỗi các sự kiện nối tiếp nhau , sai 1 đoạn sẽ giắt dây sai những đoại sau . Cổ sử Việt ghi nhận về cuộc chiến Hùng - Thục kết thúc với việc nhà Thục thay nhà Hùng chấm dứt 18 đời Hùng vương , nhưng thần tích thần phả nơi miếu mạo đền thờ cho thấy không hẳn đã như vậy , minh chứng là có nhiều đền ở Việt nam thờ những anh Hùng có công giúp vua Hùng đánh bại Thục vương . Nhà nghiên cứu Bách Việt 18 đã nhận ra có tới 2 cuộc chiến Hùng – Thục trong cổ sử Việt . - Cuộc chiến Hùng – Thục lần I nhà Hùng thắng và Hùng vương thứ 9 lên ngôi , tên dân chúng thờ nơi đền miếu là ‘Vua cha Bát hải động Đình’. - Cuộc chiến Hùng – Thục lần II Thục vương thắng , nhà Thục thay nhà Hùng vua khai sáng triều đại xưng là An Dương vương ngàn năm trước công nguyên . Sử thuyết Hùng Việt cho cuộc chiến Hùng – Thục lần I mà Truyền thuyết lịch sử Việt đã bỏ qua không nói đến chính là cuộc chiến thời ông Khải con vua Đại Vũ tranh ngôi vua với ông Bá Ích kết quả là ông Bá Ích phải ‘tránh’ đi dẫn dân của mình đến sống ở Kỳ sơn , Kỳ sơn cũng là Kỳ châu – Cùi chu tức Qúy châu – đất Thục ngày nay , Những anh hùng có công giúp vua Hùng đánh bại vua Thục được dân gian thờ nơi đền miếu là nhân vật lịch sử ở thời này còn Cuộc chiến Hùng thục được chép trong sách sử là cuộc chiến Hùng – Thục lần II với việc Thục vương Thắng An Dương vương lên ngôi và nước Âu Lạc thay thế nước Văn Lang . Gọi là cuộc chiến Hùng – Thục chỉ để dễ trình bày và tiếp thu chứ như thế hoàn toàn không đúng với bản chất sự việc . Hùng vương là cả 1 hệ thống các vương triều nối tiếp nhau sách sử gọi là 18 đời Hùng vương , Thục chỉ là 1 triều đại nên 2 vế không đồng đẳng với nhau , chính xác ra nhà Thục cũng là 1 trong 18 đời Hùng vương , sử thuyết Hùng Việt gọi là đời Hùng vương thứ 12 +13 của Châu Văn vương và Châu Vũ vương , xét như thế ...rõ ràng không thể có việc nhà Thục lên ngôi và thời Hùng vương chấm dứt . Truyền thuyết viết Bà Âu cơ kết duyên cùng Sùng Lãm đẻ ra trăm trứng nở ra trăm con trai rồi 50 con theo cha xuống biển , 50 con theo mẹ lên núi , con trưởng dòng con theo mẹ Âu Cơ lên núi được tôn là Hùng vương lập nên nước Văn lang chỉ là 1 trích đoạn thiếu và suy diễn sai của lịch sử họ Hùng , tình tiết trong chuyện là sự trộn lẫn sự kiện của 2 thời đại cách nhau ngàn năm . Ở cuộc chiến Hùng – Thục lần I mới có sự phân ly ; tộc La theo ông bá Ích , tộc Lạc phương Nam và Long phương Đông theo ông Khải , trong Sử thuyết Hùng Việt thì ông Khải – Lạc Long quân là Hùng Hoa vương - Hải lang , Danh hiệu Hải lang chỉ ra là con trưởng dòng 50 con theo cha xuống biển mới lên ngôi Hùng vương , lập nên triều đại đầu tiên của vương quốc Thiên hạ ; Hải lang là chúa biển cả chính là vua cha Bát hải động đình thờ nơi đền miếu , cổ sử Trung hoa gọi là nhà Hạ ; hạ hè hồ hải chỉ là những biến âm mà thôi . Chính danh xưng Hùng Hoa vương - Hải lang và nhà Hạ đã đẻ ra cụm từ “Trung quốc - Hoa Hạ” sau rút gọn thành ‘Trung Hoa’ trong sách sử . Hoa nghĩa là chốn tập trung đông đúc và Hoa còn nghĩa là màu đỏ của quẻ Ly - mùa Hạ . Sau cuộc chiến Hùng – Thục lần I cả ngàn năm là cuộc xum hợp ...chuyện dòng con theo mẹ Âu cơ lên núi tôn con trưởng làm Hùng vương thực ra là ánh xạ của việc Thục Phán tức Cơ Phát con ông Cơ Xương diệt Trụ đánh đổ nhà Thương Ân lên ngôi vua Thiên hạ lập nên nhà Châu hiệu là Châu Vũ vương , mẹ Âu cơ được tôn là Châu Văn vương , Văn vương và Văn Lang là 1 người , cổ sử Việt gọi là nước Văn lang theo nghĩa là nước của vua Văn hay nước do vua Văn lập nên sau cuộc chiến Hùng – Thục lần thứ II , xin lưu ý Cơ Xương chỉ là vua ‘Tây quốc’ tức Văn lang – Âu Lạc ,con ông là Cơ Phát mới lên ngôi thiên tử lập ra nhà Châu tôn vinh cha là Châu Văn vương tổ nhà Châu . Chuỗi kết nối : Lang Liêu – người Liêu – ‘Ai lao’ di – Âu Cơ kết hợp với việc ông Cơ Xương tác Dịch và Lang Liêu làm ra bánh Dày – bánh Chưng đã chỉ ra : Âu cơ - Lang Liêu - Cơ xương chỉ là 1 nhân vật lịch sử và lãnh thổ nước Văn Lang là miền Giao chỉ – Quảng Tây Qúy châu và Vân Nam ngày nay hoàn toàn đúng theo di ngôn của tiền nhân người Việt (nước Văn lang Bắc giáp Động đình hồ , Nam giáp nước Hồ tôn , Tây giáp Ba Thục và Đông giáp Nam hải ), Giao chỉ và nam Quảng Tây là đất Lạc còn lại là đất của người Ai lao di tức người Âu . Đất Âu – Ai lao di cộng với đất Lạc thành ra lãnh thổ nước Âu – Lạc , sử thường chép gọn là nước Âu – Lạc . Gọi là Văn lang ý nói nước do Văn vương (vương = lang ) lập ra còn gọi là Âu Lạc là chỉ sự thống nhất 2 miền đất , 2 cộng đồng người . Xét tới đây đã rõ Văn lang và Âu Lạc chỉ là 2 tên gọi của 1 quốc gia , theo truyền thuyết Việt thì Hùng vương đóng đô ở Phong châu còn theo cổ sử Trung Hoa thì kinh đô ban đầu của nhà Châu là Phong kinh sau đến thời Ninh vương Châu Vũ vương thì dời đến Kiểu kinh ; (Kiểu hay Cửu kinh nghĩa là kinh đô ở phía tây đất nước) . Nước Văn lang và nước Âu Lạc là 1 đó chính là ‘Trung hoa’ của Thiên hạ thời nhà Châu (thiên hạ = trung hoa + chư hầu). Nước Văn lang có cả ngàn năm trước công nguyên ,Sử Việt đã lầm sự kiện năm 256-257 trước công nguyên tướng nhà Tần là úy Đà cầm quân chiếm Giao chỉ và vùng Tây nam Trung quốc lập 3 quận ...với việc Thục Phán đánh chiếm nước của Hùng vương lập nên kỷ nhà Thục nước Âu Lạc . Sử thuyết Hùng việt cho việc chiếm Giao chỉ và miền Tây nam Trung quốc chính là việc nhà Tần chiếm đất đuổi vua Châu đi đến miền đất hẹp ...xuống cấp xưng là Đông Châu quân ...trong cổ sử Trung hoa , Lịch sử Việt không hề có chuyện nước Âu – Lạc của vua Thục thay thế nước Văn Lang của vua Hùng . Úy Đà Tướng nhà Tần cầm quân chiếm Giao chỉ không phải là Triệu Đà vua Nam Việt , Trọng Thủy kẻ đã gạt tình nàng Mỵ Châu chính là Doanh tử Sở sau lên ngôi vua Tần dân gian Việt gọi là gã Sở Khanh , Trọng là con trai thứ 2 , Sở và Thủy chỉ là biến âm cùng nghĩa là ‘nước’ là Hành chủ của nhà Tần phân theo Ngũ hành ứng vào địa lý Trung hoa , Mỵ Châu là con gái vua Châu không phải họ tên (con trai vua gọi là quan lang con gái gọi là mỵ nương , 2 từ quan và nương là thừa và sai ) , đứa con oan nghiệt của cặp đôi này chính là Doanh Chính Tần thủy hoàng đế .Chính danh xưng của các nhân vật trong thiên tình sử đẫm lệ và cả máu là những thông tin lịch sử khá rõ nhưng do bị dẫn dắt ...sai nối sai nên sử gia Việt lớp trước đã không nhận ra và mắc sai lầm . Tư liệu lịch sử Trung hoa chép ...Triệu Đà vua Nam Việt dùng tiền bạc mua chuộc khiến Giao chỉ phụ thuộc vào nước mình đâu có đánh đấm gì ?, hơn nữa so ra dân số Giao chỉ gấp 2,5 lần dân nước của Triệu Đà ở Quảng đông thời ấy hỏi làm sao Triệu Đà đánh nổi ?. , có chăng thời nước Nam Việt là sự tự nguyện kết hợp vì Giao chỉ xưa là đất Tây Hạ và Quảng Đông là Đông Hạ cùng là con dân nhà Hạ mà ra còn việc Thủ đô thì đặt ở đâu trên lãnh thổ chung cũng được không phải là điều quyết định ...nước Ta hay nước ngoài ... Sự nghiên cứu của tác giả Dòng Hùng Việt và Bách Việt rất có giá trị và rất đáng trân trọng, đặc biệt là những dữ liệu điền dã chân thực thể hiện một nguồn sử liệu bị "bỏ quên", nhựng lịch sử Văn Lang đang bị chồng lấn giữa Sử Việt và Sử Trung Quốc, thậm chí liên quan đến cả Đông Nam Á, Triều Tiên, Nhật Bản... và cả thế giới. Việc tách bạch giữa hai dòng sử liệu này tôi sẽ viết ngay sau đây nhưng nội dung chỉ gạch đầu dòng và đây chỉ là ý kiến cá nhân, giúp tránh sự nhẫm lẫn trong phân tích, đỡ bị rối loạn giữa hàng vạn sự kiện của chính sử, dã sử, huyền thoại, văn hóa, chính trị, tôn giáo, thuyết ADNH...
  20. Trong Đạo giáo có vị tiên Thái Ất Chân Nhân hay còn gọi là Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, đã được "giải mã" ra, đó chính là vua Đế Minh - cha của vua Kinh Dương Vương: xem 2012 Cuộc Chuyển Thế Vĩ Đại. Ngài cũng chính là Hoàng Đế trong lịch sử Trung Quốc (tên nước Trung Quốc trước và sau khi vua Đế Minh chia đôi: một nửa giao cho Lộc Tục Kinh Dương Vương, nửa còn lại giao cho vua Đế Nghi (bao hàm cả Triều Tiên, Đại Hàn, Nhật Bản). Ngài cũng chính là Phật A Di Đà, đã giải như trên. Trong chính sử Trung Quốc có sự nhầm lẫn giữa vua Đế Minh và vua Đế Nghi, lăng mộ vọng Hoàng Đế tại Trung Quốc là nói về vua Đế Nghi - Ngài cũng là một Đại Bồ Tát, ngài chính là ông tổ của Đạo giáo - Thái Thượng Lão Quân, chứ không phải Lão Tử. Qua đó, chúng ta thấy bộ Thái Ất gắn liền với Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn - vua Đế Minh - một vị thần Vô Hình. Tranh Thái Ất Chân Nhân
  21. Tìm hiểu về BỘ SÁCH KỲ BÍ Xưa nay khi nói đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, đa phần ai cũng nhắc đến Sấm ký và bộ Thái Ất Thần kinh. Đồng thời ai cũng bảo Thái Ất Thần kinh là sách do Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đem từ Bắc quốc về truyền cho trò yêu. Nhưng cụ thể câu chuyện đó ra sao thì mỗi người kể một kiểu nên nó cũng kỳ bí như chính môn “Dự đoán học”. Với dòng họ Lương bộ sách này liên quan trên nhiều góc độ và tôi cũng từng hiểu như mọi người. Song qua nhiều năm tìm hiểu, nhất là những tháng ngày rảnh việc “chờ hưu” càng tìm kỹ càng ngẫm ra rằng “thế nhưng không phải thế”!. Nhân tháng có ngày “Nhà giáo Việt Nam”, tưởng nhớ cặp Cha-Con thầy giáo (Lương Hay-Lương Đắc Bằng) đào tạo cho đất Việt hai Trạng nguyên xuất chúng (Lương Thế Vinh, Nguyễn Bỉnh Khiêm), thử tìm hiểu về hậu trường bộ sách Kỳ bí “Thái Ất Thần kinh”. 1. Bí hiểm của sách “Thái Ất Thần kinh”: Thái Ất thần kinh 太乙神经 hay Thái Ất là một mô thức thuật số cơ bản trong tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn) của lý số Đông phương, chủ yếu nghiên cứu các tính toán liên quan đến sự hưng vong của các triều đại, các trận pháp ở tầm cỡ chiến lược. Trong đó, Thái Ất thiên về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất, đến con người. Tương truyền sách này từ rất xưa, lâu lắm rồi, Thái Ất Chân Nhân 太乙真人[1] ban xuống trần thế nếu hiểu được có thể biết thiên cơ, họa phúc cõi trần, nhìn thấu tương lai, thông thiên địa hầu cứu nhân gian. Nếu cuốn sách này vào tay người hiền tài thì có thể bảo hộ và cứu giúp nhân gian tránh được nạn kiếp; còn nếu như rơi vào tay kẻ gian thần thì nhân gian sẽ xẩy ra đại loạn. Lai lịch bộ sách lưu hành một cách bí ẩn từng có hai giả thuyết: - “Thái Ất Thần kinh” là bộ sách rất quý, dạy về các môn địa lý, chiêm tinh, chỉ cách xét đoán những việc kiết hung. Có người nói Quốc sư nhà Thục Hán (蜀漢, 221-263) thời Tam Quốc là Gia Cát Lượng (諸葛亮, 181–234) được người đời sau tôn sùng và mến phục tài trí, một phần lớn nhờ nghiên cứu “Thái Ất Thần kinh”. Bộ sách này chỉ có hai bản mà Cụ Lương Ðắc Bằng may mắn có một bản sau truyền lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn một bản nữa ở bên Bắc quốc. Bộ sách này, cũng theo thuyết trên đây, rất khó hiểu nên người đọc kém, không có trí thông minh siêu việt không thể lãnh hội được dù có sách quý trong tay. Đến thời Tống (宋朝, 960-1279), một đạo sĩ rất nổi tiếng là Triệu Nga cũng đã đúc kết kinh nghiệm cổ truyền viết thành sách nhưng chưa có lời giải vì lời giải còn lưu lạc ở một phương khác. - Nhưng cũng có người cho rằng bộ sách đó không có gì là kỳ diệu và thần bí cả. Đó là sách Thái Huyền của Dương Hùng 楊雄, một danh nho sinh vào khoảng đời Hán Tuyên đế (漢宣帝, 91 -49 tCn) và mất khoảng cuối đời Vương Măng (王莽,45 tCn-23). Dương Hùng thuở nhỏ thông minh, thích học, nhưng ghét lối từ chương, ưa tìm những điển tích sâu xa uyên bác, chuyên nghiên cứu về dịch học. Chính ông đã làm ra sách Thái Huyền để giảng thuyết âm dương vũ trụ, nhưng với lối văn cầu kỳ khó hiểu, nhiều người không phục, cho là lập dị. Sở dĩ bộ “Thái Ất Thần kinh” được xem như loại sách quý là vì người ta muốn quan trọng hóa, thần bí hóa vấn đề. 2. Hình thành “Thái Ất Thần kinh” của người Việt: Tương truyền rằng trong một lần đi sứ sang Minh quốc (明朝, 1368- 1644), Thượng thư Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (尚書榜眼梁得朋, 1472 – 1516)[2],do cơ duyên gặp người đồng tộc[3] mách bảo, thành ý nên cụ có được bộ “Thái Ất Thần kinh” mang về, nhưng đọc cũng không hiểu mấy. Những năm cuối thời Lê Tương Dực (黎襄翼, 1495 – 1516), nhận thấy dù đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể vãn hồi được tình thế ông cáo quan về quê Thanh Hóa dạy học. Bởi mến, tin người trò yêu là Nguyễn Bỉnh Khiêm (阮秉謙, 1491-1585) có cha hiền lành đức độ[4], người mẹ xinh đẹp thông minh, giỏi tướng số văn thơ[5] và bản thân trò đặc biệt thông minh hơn người nên ông hết lòng truyền thụ kiến thức. Một hôm, cụ Lương Đức Bằng ốm, biết rằng mình không sống lâu được nữa bèn gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm đến căn dặn: - Nay thày sắp sửa xa rời các con, thày không có điều gì dặn lại các con chỉ khuyên các con: kẻ ra làm quan thì luôn nhớ ba chữ “thanh, thận, cần”, kẻ về ẩn dạy học thì luôn nhớ bốn chữ “an bần, lạc đạo”. Nghỉ một lát, cụ Bảng nhãn nói tiếp: - Thày có chút việc riêng muốn nhờ cậy con: do muộn mằn đến nay thầy mới có con đang còn trong bụng mẹ nó và ta đã dặn nếu sinh con trai đặt tên là Hữu Khánh. Sau này, nhờ con thay thầy mà dạy bảo và dìu dắt nó đi theo con đường ngay. Ðược như vậy, dù thầy có ở suối vàng được mãn nguyện lắm. Ngừng lời, Lương Đắc Bằng chỉ một cái tráp nhỏ, đặt ở đầu giường rồi bảo Nguyễn Bỉnh Khiêm: - Con hãy mang tráp đến đây, mở ra lấy một bộ sách mà ta đã gói kỹ vào để sẵn trong ấy. Nguyễn Bỉnh Khiêm vâng lời, làm theo ý thầy. Cụ Bằng lại bảo tiếp: - Thầy cho con quyển sách này, vì thầy nghĩ chỉ có con mới có thể hiểu nổi, nhưng con phải hứa với thầy là phải giữ gìn sách cẩn thận, đọc kỹ, khi hiểu mang ra giúp đời, làm việc thiện. Quyển sách này được một dị nhân đồng tộc trao cho trên đường đi sứ sang Minh quốc trở về. Cụ ấy còn dặn ta: Chừng nào trong tâm linh muốn cho ai thì người ấy sẽ được phần. Nay, thầy giao quyển sách này lại cho con, ấy là con có phần. Người học trò đất Trung Am lạy tạ nhận lời. Khi Lương Đắc Bằng tạ thế[6], Nguyễn Bỉnh Khiêm ở lại chịu tang 3 năm. Sau đó, ông về quê, tự học và đến khoa thi năm Đại Chính thứ 6 (大正六年,Ất Mùi, 1535) ông đi thi đỗ Trạng nguyên 狀元. Làm quan dưới triều Mạc, ông được bổ dụng Tả thị lang bộ Lại 吏部左侍郎,sau thăng Thượng thư 吏部尚書 kiêm Đông các Đại học sĩ 東閣大學士,được phong tước Trình Tuyền Hầu 程璿侯 rồi thăng tới Trình Quốc Công 程國公 và do ông đỗ Trạng nên dân gian gọi là Trạng Trình 狀程. Lúc rảnh, nhất là sau khi cáo quan về quê năm 1542, nhớ lời thầy, Nguyễn Bỉnh Khiêm mang sách đọc thấy không lĩnh hội được gì mấy, ông bèn mang sách cất đi, thỉnh thoảng lại lấy ra đọc, đọc xong rồi lại cất, cứ như thế mãi. Cho tới một hôm, có một người khách đến cho Nguyễn Bỉnh Khiêm một bài thơ. Ông mở ra xem thì thấy ý tứ bài thơ có phần liên hệ với những câu trong bộ sách của thầy Bằng trao, mà ông đã cất công sức đọc nhiều lần nhưng chưa thông được. Ông hiểu đây là một phần của bộ sách bí ẩn kia và ông đã gộp chúng để nghiền ngẫm. Nhờ kiến thức từ thầy và mẹ truyền thụ lại thấu hiểu bộ sách này mà về sau Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông lý số, hiểu về quá khứ, đoán được tương lai, thế cuộc. Vì vậy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa ra lời khuyên hữu ích với Nguyễn Hoàng (阮潢, 1525 - 1613), Trịnh Kiểm (鄭檢, 1503- 1570), con cháu Mạc Mậu Hợp (莫茂洽, 1560-1592) đồng thời viết ra được những lời tiên tri cho hàng trăm năm sau. Những lời tiên tri ấy tập hợp trong tập Sấm Ký Nguyễn Bỉnh Khiêm mà dân gian quen gọi là Sấm Trạng Trình 狀程讖 tiên đoán việc đời sau, gắn với nhiều giai thoại kỳ thú. Cũng cần nhắc lại là: ngoài việc nghiền ngẫm sách, áp dụng để đưa ra những lời khuyên với các thế lực Nguyễn, Trịnh, Mạc nên đã giữ yên đất nước một thời gian dài, cụ Trạng còn nuôi dạy người con trai duy nhất của ân sư là Lương Hữu Khánh[7] nên người theo đúng ý nguyện của thầy. Đồng thời cũng chính cụ Trạng đã cưu mang một người cháu thầy Bằng là Lương Đắc Cam梁贵公諱甘字三郎 từ Thanh ra, đưa sang lập nghiệp bên xã Lao Chữ 牢渚, tổng Dương Áo 陽襖, huyện Tân Minh 新縣, phủ Nam Sách 南策, trấn Hải Dương 海陽 (nay là thôn Chử Khê, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng), lập ra nhiều chi phái họ Lương ở Tiên Lãng, An Lão (thuộc tf Hải Phòng) ngày nay. Như vậy, từ sách quý do thầy tin tưởng giao phó, do cơ duyên lại được tiếp thu kiến thức y lý từ người thầy tài năng đức độ và trí thông minh thiên bẩm với kinh nghiệm bản thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã soạn ra bộ “Huyền Phạm” và sau này Phạm Đình Hổ (范廷琥, 1768-1840) dựa vào đó soạn ra bộ là “Huyền Phạm tiết yếu”. Theo một số tác giả thì đây là một công trình nghiên cứu công phu. Nó tổng hợp nguyên lý Âm dương, Ngũ hành, Bát quái của Triết học cổ truyền, gộp được các cách khoa dự đoán Kỳ Môn tản mát trong dân gian; nó là sự tổng hợp sức mạnh chuẩn xác của triết học toán rút ra từ vũ trụ, là nguồn tri thức hữu thể để hiện thực mệnh sống của con người với môi trường cảm ứng giữa người và trời đất cùng vạn vật. Những giá trị đó trong sách của Dương Hùng thời Hán, Triệu Nga thời Tống chưa đạt được. Như vậy phải chăng yếu tố “đem từ Bắc quốc về” chỉ là do đời sau đặt ra để tăng giá trị bộ sách bởi tính “tự ti” của người Việt hồi ấy! Bộ sách ấy do cụ Trạng đất Vĩnh Lại soạn ra, dựa vào quan điểm lý dịch Việt, có tham khảo các sách viết về chủ đề này bên Hán, Tống. Chính người Trung Hoa đã khen “An Nam lý học hữu Trình Tuyền”! 3. Sách quý ra với công chúng: Bộ sách này lưu hành bí ẩn trong dân gian, chưa được khắc in nên luôn trong tình trạng “tam sao thất bản”. Sang Thế kỷ XX, do cơ duyên, Nguyễn Ngọc Doãn (1912-1989) với bút hiệu là Thái Quang Việt tiếp cận và dịch ra quốc ngữ năm 1972 gồm 5 cuốn, được Nhà Xuất bản Văn Hoá Dân tộc phát hành với tên gọi Thái Ất Thần kinh ghi tên tác giả là Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 2002, Nhà Xuất bản Văn Hoá Dân tộc cho tái bản sách Thái Ất Thần kinh được sửa chữa, bổ sung thêm những phần thiếu sót. Sách quý đã tìm thấy (tuy chưa đầy đủ), đã được dịch, đã in và phát hành (có chú dẫn đàng hoàng) nhiều người tìm đọc nhưng mấy ai đã hiểu. Cái tâm lý “đồn thổi” của người Việt làm tăng tính ly kỳ của những lời Tiên tri nhưng làm bí hiểm hơn những gì cụ Trạng để lại. Sinh thời, Trạng Trình cũng thấy Thái Ất thực là khó mà khó nhất trong các môn toán của tiền nhân. Bởi thế cụ có soạn bộ “Du Lỗ” và viết bài tựa về “Ngọc Tướng Huyền Cơ” để giúp riêng những ai kém thông minh vẫn có thể hiểu được. Thời Nguyễn, chỉ có các quan làm việc tại triều đình mới biết và bí mật truyền lại cho con cháu nên nó chỉ là sách chép tay nên càng kỳ bí. 4. Tâm nguyện: Nay sách in ra, phổ biến rộng là lợi thế của thời hiện đại nhưng tính “nguyên bản” chắc chi đảm bảo. Trong thời @ mấy ai tinh thông thực học như thời chữ Nho lên ngôi và tư duy kỹ thuật thời nay cũng khác xưa nên mọi lý thuyết trong bộ sách Thái Ất Thần kinh cũng như Sấm ký chỉ nên coi là tài liệu tham khảo. Coi nó là “mê tín” là sai nhưng sử dụng nó như là lá bùa lý giải, dự đoán tất cả cũng không đúng. Là người bụng chứa một phần “Ngũ xa thư” 五車書 và chỉ sô IQ chẳng đến nỗi nào nhưng đọc đi đọc lại Phần mở đầu và 7 Cuốn với 466 trang khổ A4 mà chẳng hiểu gì nhiều bởi lời văn cổ lại đầy những thuật toán bí hiểm (tuy đã được người dịch chú giải đề đáp), chỉ hiểu rằng: đây không phải sách dạy xem bói!. Thế mà có người “giấu giấu diếm diếm”, bảo lĩnh hội được và bỗng dưng trở nên “thầy” phán đủ các lĩnh vực. Phục thật! Hay mình dốt mà không biết? Thôi kệ họ! Ngưỡng mộ, kính trọng cụ Trạng quê hương, người gắn với Viễn tổ và Thượng tổ dòng họ Lương xã Chiến Thắng huyện An Lão (gốc từ Tiên Lãng sang khoảng năm 1750) tôi tìm hiểu và biên soạn lại chuyện này. Cũng là một nén tâm hương dâng lên tiền nhân, lưu giữ lại cho bà con ai quan tâm thì đọc, tự rèn mình, tìm cách ứng nhân xử thế hợp nhất chứ không mong trở thành “nhà nghiên cứu”, nhất là “Chiêm tinh gia” chi cả! -Lương Đức Mến, tháng 11/2013- [1] là sư phụ của Na Tra 哪吒 ở trên thượng giới và là người rất nghiêm khắc với các học trò của mình. Một vị tiên tốt bụng, ông lúc nào cũng luôn theo em gái đồng thời cũng là vợ của Phục Hi 伏羲 là Nữ Oa 女娲 có tính tình lôi thôi và rất ít khi cưỡi mây.Mà lúc nào Thái Ất chân nhân cũng cưỡi chim hạc tiên Tiểu Hắc Bạch (chim hạc), đây cũng là thú cưng của ông. [2] Có tài liệu viết 1477-1526, tức cụ mất năm Bính Tuất, 1526 đời Lê Cung Hoàng vào dịp Trần Cảo đã kéo quân uy hiếp kinh thành. [3] Con cháu Lương Nhữ Hốt (梁汝笏, ?-1428). Ông người xã Trác Vinh, huyện Cổ Đằng, thuộc tỉnh Thanh Hóa, đỗ Thái Học sinh thời nhà Trần. Lương Nhữ Hốt là tướng nhà Hồ nhưng năm 1406, khi quân Minh kéo sang, theo lời chiêu dụ của tướng Minh là Hoàng Phúc, ông ra làm việc cho quân Minh và được cử làm tri phủ Thanh Hoa. Cũng vì vậy, khoảng 1407-1409 ông đến lập ấp tại Triều Hải trang và đổi tên trang này thành xã Hội Triều. Cuối năm 1427, khi viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh bị đánh tan, Vương Thông buộc phải giảng hoà rút về, Lương Nhữ Hốt đầu hàng Nghĩa quân Lam Sơn, được Lê Lợi xá tôi. Nhưng sau đó, ông vẫn không phục, liên kết với những người từng hợp tác với quân Minh trước đây như Trần Phong, Đỗ Như Trung mưu chống lại nhà Lê. Lê Thái Tổ bèn bắt 3 người cầm đầu này giết chết vào ngày 24/11/1428, sau đó hạ chiếu tha hết cho các thủ hạ. Để giữ hòa khí với nhà Minh, vua Lê Thái tổ không tru lục đến thân thích các đầu lĩnh. Những người con của Lương Nhữ Hốt di cư sang tỉnh Vân Nam còn Lương Nhữ Hốt được nhà Minh truy phong tước Lãng Lăng Đại Vương. [4] Giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). [5] Bà Nhữ Thị Thục (? - ?), con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan (1443-1523) triều Lê Thánh Tông ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng thực ra chỉ cách con sông Hàn (Tuyết Giang) và ở bên này nhìn rõ cây đa đầu làng bờ bên kia. [6] Có nhiều tài liệu viết khác nhau về năm mất của cụ Bảng nhãn. Kết hợp lại có thể nhận xét Cụ thọ hơn 50 tuổi nên mất Bính Tý 1516 hay Bính Tuất 1526 hoặc khoảng giữa 2 mốc đó. [7] 梁有慶 (1517 – 1590) là con Bảng nhãn Lương Đắc Bằng với người “dắng thiếp (媵妾, tức vợ bé và bà này là em Chính thất Hoàng Thị Phục) sau khi cụ Thượng mất 5 tháng và sau này theo họ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ năm 18 tuỏi. Lương Hữu Khánh là bậc Danh thần khai nghiệp nhà Lê Trung Hưng. Bởi “trong vạch kế, ngoài chống giặc” nên mưu lược, văn võ của ông được tôn trọng, nhiều lần lập công lớn và được cử làm Thượng thư bộ Lại 吏部尚書, kiêm Tổng tài Quốc sử Quán 國史館總裁, tước Thái tể 太宰- Đạt quận công 達郡公.
  22. Lịch pháp bách Việt Nguyễn Thiện Nhơn Cộng đồng các dân tộc Việt ( Diệt , Yiệt ) đã có Lịch. Cổ sử Trung hoa đã nhiều lần xác nhận qua việc dân Việt thường đem Lịch Rùa biếu cho vua Nghiêu khoảng 2357 năm trước công nguyên mà ai cũng biết, nên hôm nay chúng ta cùng nhau phát hoạ lại nó để xiển dương công đức của tổ tiên là một việc đáng làm vậy ! Về lịch thì có Lịch năm, Lịch tháng, Lịch ngày, Lịch giờ nhất quán trong cùng một hệ thống, nhưng ở đây chỉ trình bày riêng về Lịch năm vì trong một bài viết ngắn gọn thì không thể ôm đồm hết tất cả được…. 1) CÁCH ĐẶT TÊN : Nói tới Lịch thì trước tiên là việc đặt tên gọi cho những quãng thời gian nào đó, nhưng như ta đã biết Thời gian và Không gian luôn là một Thái cực tượng, luôn là hợp nhất, không thể phân ly được, nên khác với các Lịch của những dân tộc khác thường lấy số hoặc tên các vị thần làm tên gọi, cộng đồng Bách Việt đã luôn dùng 2 từ đi liền: một không gian và một thời gian để làm tên gọi như : Giáp Tý, Ât Sửu …v.v… Không gian dương thì được chia làm 10 Trường : Giáp, Ât, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Con số 10 là con số nhân đôi của con số Tâm 5 trong bảng Lạc thư hợp nhất Không -Thời gian về số ( và quẻ ) mà số 5 với số 6 là một cặp Dương –Âm nên Thời gian âm phải được chia làm 12 quãng ( nhân đôi của số 6 ) tương ứng để hợp nhất với 10 trường không gian vừa nêu trên. Chúng là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Hợp nhất các tên gọi Không- Thời gian theo thứ tự lần lượt ta sẽ có được 60 tên kép từ Giáp Tý, Ât Sửu, Bính Dần ..cho đến Quý Hợi mà đời sau gọi là Lục thập Hoa giáp dùng làm tên gọi cho các quãng thời gian đều nhau của Năm , Tháng, Ngày, Gìơ như Năm này Giáp Tý thì năm sau là Ât Sửu, năm thứ 60 là Quý Hợi và quay trở lại tiếp tục năm thứ 61 là Giáp Tý …v.v… ( Dân tộc ta ngày xưa chia 1 ngày-đêm làm 11 quãng : “Đêm 5 canh, Ngày 6 khắc” hoặc ngày nay vẫn còn tồn tại cách tính “12 ăn 1 chục” tức là 12 đơn vị thì chỉ tính bằng 10 đối với các vật phẩm thuộc Âm như trái cây, hoa quả v.v…là đã đưa các con số trên vào thực tế đời sống hằng ngày ! ) Tới đây một thắc mắc được đưa ra là : Tại sao với Bảng Lạc thư ( về số ) thì số 10 của Không gian hợp nhất với số 0 của Thời gian , còn với Lịch pháp thì 10 trường không gian lại hợp nhất với 12 quãng của Thời gian ? Có mâu thuẫn gì không ? Đào sâu vào học thuyết Thái cực ta tìm được câu trả lời sau : Bảng Lạc thư là bảng nguyên lý gốc của dương - âm Không-Thời gian nên người xưa đã lấy số hiện tượng của Không gian là 10 với số bản chất của Thời gian là 0 để hợp nhất tức là họ đã vận dụng tính hợp nhất 2 Nghi ( tính thống nhất của 2 mặt đối lập trong Biện chứng học ) dương – âm của một Thái cực hoàn toàn chuẩn xác vậy, còn với Lịch pháp thì chỉ thuộc về Hiện tượng nên họ đã dùng 10 Trường không gian thuộc về hiện tượng hợp nhất với 12 Quãng thời gian cũng thuộc về hiện tượng thì cũng là chuẩn xác vậy ! ( Cách thành lập bảng số Lạc thư xin xem ở bài trước ! ) Câu hỏi tiếp theo là tại sao Không gian thì luôn đứng trước Thời gian trong cách hợp nhất ? Bảng Lạc thư được hình thành với mục đích là phục vụ sự sống của con người mà Không gian là cái Có, sự sống của muôn loài cũng là cái Có nên khi vận dụng nguyên lý bảng Lac thư vào Lịch pháp thì Không gian thuộc Dương phải được làm chính đứng trước Thời gian là phù hợp và chỉ với cách hợp nhất này thì người xưa mới dễ dàng tính toán được các dạng năng lượng từ 10 trường không gian tác động đến sự sống muôn loài theo thời gian như trong các thuật số Lạc thư : Kỳ môn độn giáp và Thái ất thần kinh sau này… (Nếu hợp nhất ngược lại như Tý Giáp, Sửu Ât, Dần Bính…v.v…thì không biết có cách nào để họ tính toán được chăng ?.... ) 2) MỐC KHỞI ĐẦU ( Lịch Năm ): Theo sách vở người Trung hoa sau này thì mốc khởi đầu cho Lịch năm, tháng, ngày, giờ đều lấy thời điểm Thất tinh hợp bích hay còn gọi là Thất diệu tề nguyên cách nay ( năm Tân mão ) là 10.155.928 năm ( con số Tích tuế trong Thuật số Thái ất ) vậy hiện tượng này là thế nào, có phải người Việt xưa đã chọn nó làm điểm khởi đầu cho Lịch pháp hay không ? Thất tinh hợp bích là hiện tượng nhìn từ mặt đất lên bầu trời thấy 7 tinh gồm: Mặt trời, Mặt trăng và 5 hành tinh mang tên ngũ hành là Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ xếp thẳng hàng cách nay 10155928 năm. Lúc hiện tượng này xảy ra cho tới khi Mặt trời quay đủ 1 vòng Hoàng đạo thì được tính là năm thứ nhất : Giáp Tý 00.000.001 của Lịch năm và cứ thế tiếp tục cho đến năm Tân Mão 10.155.928 này… Ta thấy rằng các hành tinh quay xung quanh Mặt trời mỗi cái nằm trên một mặt phẳng quỹ đạo riêng với một bán kính riêng, nên không có một thời điểm nào mà chúng có thể thẳng hàng được ( tức là chúng cùng nằm thẳng hàng trên một mặt phẳng mới khác với các mặt phẳng quỹ đạo của chúng.) Còn với Mặt trời thì cũng không thể nào cùng nằm trên đường thẳng hàng ấy nếu có, mà từ nó đến Sao Thuỷ ( hành tinh đầu tiên ) phải là một đường gãy vì nếu nó cũng nằm trên đường thẳng hàng của các hành tinh thì các hành tinh phải có cùng một mặt phẳng quỹ đạo mà Tâm là Mặt trời thì mới được, nên khi đứng từ mặt đất ta nhìn thấy 7 tinh xếp thẳng hàng thì chỉ là một thẳng hàng ảo không có trong thực tế. dù ta chưa cần bàn thêm về vệ tinh Mặt trăng nữa ! Hơn nữa ngoài 5 hành tinh ngũ hành ra, thì Hệ Mặt trời còn nhiều hành tinh khác, nên 5 hành tinh trên chưa thể đại diện cho cả phần Âm của Hệ Mặt trời được . Lúc này Hệ Mặt trời và đặc biệt là Quả đất là nơi chứa sự sống đang ở trong tình trạng như thế nào ? Lịch là để phục vụ sự sống con người vì rõ ràng người xưa đã đưa tính hợp nhất của không - thời gian vào nó như đã biết. Chẳng có câu trả lời nào cho rõ ràng và hợp lý ở đây. Rồi thì dùng phương pháp nào, căn cứ vào gì, để tính ra con số cách đây tới 10.155.928 năm là thời gian 7 tinh hợp bích vì lúc ấy chưa có loài người thì lấy ai quan sát thấy hiện tượng chúng hợp bích.? Tóm lại là người VIỆT xưa không thể chọn hiện tượng Thất tinh hợp bích ảo ( có thể do các nhà ngũ hành đời sau dựng lên ) để làm Mốc khởi đầu cho Lịch pháp được,mà họ phải có cách hiểu khác về thời điểm cách nay 10.155.928 năm như suy luận dưới đây : Thái cực tượng Không-Thời gian với 2 phần dương –âm là không gian và thời gian, vậy Tâm của lưỡng Nghi này là gì ? Theo người xưa thì Sự Sống muôn loài chính là Tâm của thái cực tượng không thời gian trên (* xin được không chứng minh điều này ở đây ) còn sự sống thì chỉ có mặt tại quả đất ( thuộc trường không gian Giáp ) nên ta có thể nói nó là nơi tiếp thụ các dạng năng lượng âm dương tương đối cân bằng nhất từ 9 trường không gian còn lại mà gần nhất là của 3 trường Ât, Bính, Đinh thuộc 2 Nghi dương – âm của Hệ mặt trời. Vào thời điểm quả đất tiếp thu các dang năng lượng vào mình nó cân bằng nhất thì chắc chắn quỹ đạo quay quanh mặt trời của nó phải là tròn nhất, tức là quỹ đạo biểu kiến của mặt trời quay quanh quả đất khi ta coi quả đất là đứng yên ( gọi là vòng Hoàng đạo ) cũng phải tròn nhất và đây cũng phải là thời điểm sự sống bắt đầu tiến lên để hình thành con người vì con người là sinh vật hội tụ âm dương của vũ trụ cân bằng nhất, vậy nên thời điểm “tròn nhất” chắc chắn phải được chọn làm Mốc khởi đầu cho Lịch pháp ( nói chung ) mà thôi, không thể khác được ! Thế còn làm thế nào họ đã tính được cách nay 10.155.928 năm là thời điểm 2 quỹ đạo trên là tròn nhất ? Có thể họ đã tìm ra nó bằng cách sau : Quan sát vòng Hoàng đạo hằng năm họ luôn thấy nó luôn chuyển sang hình bầu dục nhiều hơn từng năm một, rồi lấy độ chênh lệch hằng năm này tính lui dần cho đến khi vòng hoàng đạo tròn nhất thì họ sẽ tìm ra con số trên ngay. Điều chú ý là nếu độ chênh lện này có gia tốc mang số dương thì cũng không mấy khó khăn trong tính toán là mấy, họ vẫn có thể tìm ra con số cách đây 10.155.928 năm thôi ! Kết luận: Người Việt xưa đã tạo ra Lịch Không - Thời gian với chu kỳ từng 60 hoa giáp…..mà mốc khởi đầu là Giáp tý 00.000.001 cách nay 10.155.928 năm theo nguyên lý Thài cực hoàn toàn khoa học của họ, không dính dáng gì với hiện tượng Thất tinh hợp bích có xen ngũ hành của người Trung hoa đời sao cà ! Nguyễn thiện Nhơn
  23. Cách lập quẻ Tính số cục bao gồm niên cục, nguyệt cục, nhật cục và thời cục. Số niên cục Mỗi nguyên tý có 72 năm. Niên cục là số từ 1 đến 72 trong mỗi nguyên tý. Người ta dùng mốc tính tích niên từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên hoàng, cách năm CN 10.153.917 năm. Để tính số niên cục của một năm, sử dụng công thức: Tính Tích niên (Tuế tích) = (số của năm xem) + 10.153.917 Tích niên chia 3.600 Phần dư của phép chia trên chia 360 Phần dư của phép thứ 2 chia 72 số dư của phép chia này chính là số niên cục. Có một số thuyết tính mốc tích niên từ Trung cổ, năm Giáp Dần đến năm tuổi Việt (tuổi Việt lấy năm dương lịch là năm 2879 TCN cộng với năm xem) Từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên hoàng đến Trung cổ, năm Giáp Dần cách nhau 10.141.310 năm. Nếu dùng mốc Trung cổ, năm Giáp Dần, những vì sao xuất phát từ Thượng cổ, năm Giáp Tý thì phải thêm số doanh sai, tính toán phiền phức. Ví dụ năm 2006 (Bính Tuất), dương cục là: Tích niên = 2006 + 10.153.917 = 10.155.923, chia tích niên cho 3.600 được số dư 323, phần dư lại chia tiếp 360 dư 323, phần dư này chia tiếp cho 72 được số dư 35. Vậy được số niên cục dương 35. Số nguyệt cục Cục tương ứng với tháng gọi là nguyệt cục. Cách tính là lấy số tích tháng từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đến tháng xem, cộng thêm hai tháng Tý, Sửu vì người ta dùng lịch kiến Dần; hai tháng này gọi là Thiên Chính, Ðịa Chính. Công thức tính: Tính số tích tháng từ định tính so với mốc = (10.153.917 + [năm trước năm có tháng xem])*12 + 2 + [số của tháng xem] Chia số Tích tháng tính được cho 360 Phần dư của phép chia trên chia tiếp cho 72, số dư là nguyệt cục. Ví dụ: Tính nguyệt cục của tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) Từ Thượng cổ Giáp Tý đến năm trước năm có tháng xem (năm 1999) có: 10.153.917 + 1999 = 10.155.916 năm, 10.155.916 * 12 = 121.870.992 tháng. Số tháng Thiên Chính, Ðịa Chính và tháng cần xem (1) là 3, nghĩa là phải cộng thêm 3 được tổng số tháng = 121.870.992 + 3 = 121.870.995. Lấy số này : 360 dư 195, 195 : 72 dư 51. Như vậy tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) thuộc nguyên Nhâm Tý, có Nguyệt cục dương 51. Một số thuyết tính gốc Nguyệt cục là ngày mồng một (Mậu Ngọ) tháng 11 (Bính Tý), năm Giáp Tý, năm đầu niên hiệu Nguyên Gia, vua Tống Văn Ðế nhà Tống(420-479) ở Trung Quốc thời kỳ Nam-Bắc triều (Tương ứng với ngày 7 tháng 12 năm 424). Sách Thái Ất dị giản lục có ghi cách tính này. Ví dụ: Tính Nguyệt cục của tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000)Từ tháng Bính Tý năm Giáp Tý (năm 424) đến tháng Ất Hợi (tháng trước tháng Bính Tý) năm Kỷ Mão (năm 1999) có: (2000-1) – 423 = 1.576 năm. Lấy số năm (1.576) * 12 được 18.912 tháng (mỗi năm 12 tháng). Từ tháng tháng Bính Tý năm Kỷ Mão (1999) đến tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) có 3 tháng. Vậy số Tích tháng = 18.912 + 3 = 18.915. Lấy số này chia cho 360 dư 195. Lấy dư số chia cho 72 dư 51. Như thế tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) thuộc nguyên Nhâm Tý, dương có Nguyệt cục dương 51. Nguyên tắc: niên cục dương thì nguyệt cục cũng dương; niên cục âm thì nguyệt cục cũng âm. Số nhật cục Phương pháp tính: Sau tiết Đông chí, tìm ngày Giáp Tý đầu tiên gần nhất sau Ðông chí năm trước, lấy đó làm gốc đếm trở đi, tích cho đến ngày xem, được bao nhiêu là số tích ngày. Chia số tích ngày đó cho 360 phần dư lại tiếp tục chia cho 72, còn dư lại bao nhiêu chính là nhật cục. Theo sách Thái Ất thần kinh, chỉ có thời kế là có phân biệt âm cục, dương cục. Một số thuyết áp dụng cục âm dương trong Thái Ất kể ngày. Cục âm, dương tính như sau: Từ Đông chí đến trước ngày Hạ chí, là dương cục; từ Hạ chí đến trước ngày Đông chí, thuộc âm cục (chú ý tính ngày phải xét đến cả giờ chuyển tiết, khí) Thí dụ: Tính nhật cục ngày 14 tháng 12 năm 1992 dương lịch. Tính Nhật cục theo Thái Ất thần kinh: Ngày Ðông chí năm trước: 22 tháng 12 năm 1991 Ngày Giáp Tí đầu tiên gần nhất sau Ðông chí năm trước là ngày 18 tháng 02năm 1992 (Ngày Giáp Tí (15) tháng Nhâm Dần, năm Nhâm Thân) Số ngày tích lại: 14/12/1992 - 18/02/1992 + 1 = 301 đem chia cho 360 được số dư 301. Số dư chia tiếp cho 72 được số dư là 13.Vậy ngày 14/12/1992 có Nhật cục 13. Có thuyết tính mốc tích ngày là ngày Giáp Tí (01) tháng Giáp Tí (11), năm Quý Hợi thuộc niên hiệu Cảnh Bình đời Tống tương ứng với ngày 19 tháng 12 năm423 theo dương lịch. Trước hết tính số ngày từ gốc là ngày 19 tháng 2 năm 423 tới ngày 18 tháng 2 trước ngày xét và tính được tròn số từ năm 423 tới năm xét. Tiếp đó người ta sử dụng công thức tính làm tròn ngày tích 365,2425 ngày/năm với số năm. Bước tiếp theo tính số ngày lẻ từ ngày 19 tháng 2 tới ngày xét.Lấy tổng số ngày (số tích ngày) chia 360 lấy dư. Lại chia tiếp 72 lấy dư làm số Nhật cục. Có thuyết quy định tính Tích Nhật dựa vào Tích Nguyệt. Sách Thái Ất dị giản lục có ghi cách tính này. Số thời cục Cách tính: Cục âm dương của thời cục cũng tính như Nhật cục Số giờ từ ngày Giáp Tí hoặc Giáp Ngọ gần nhất sau Ðông chí năm trước đến ngày, giờ muốn tính Chia số giờ đó cho 360, số dư lại chia tiếp 72 số dư chính là Thời cục. Ví dụ: Tính thời cục giờ Nhâm Tý, ngày Mậu Tuất (23 tháng 1 năm 1992) Ngày Giáp Ngọ gần nhất sau Ðông chí là 19 tháng 1 năm 1992. Số ngày tích lại = 23/01/1992 - 19/01/1992 = 4. Số tích giờ 4*12 = 48 giờ. Cộng thêm 1 giờ của ngày Mậu Tuất là 49 giờ. 49 chia 360 dư 49, lại chia 49 cho 72 dư 49. Ngày 23 tháng 1 năm 1992 sau Đông chí thuộc dương cục. Vậy tính được Thời cục 49 Dương. Cách tính số Niên cục, Nguyệt cục, Nhật cục, Thời cục gọi là Tứ kế (Tuế kế, Nguyệt kế, Nhật kế, Thời kế) "Người ta dùng mốc tính tích niên từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên hoàng, cách năm CN 10.153.917 năm": Chúng ta chưa rõ con số này.
  24. Vấn đề tôi hỏi anh: Ngoài hệ mặt trời là Thái Ất theo anh nói thì trong hệ mặt trời gọi là gì? Trong Hệ mặt trời gọi là Mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Trong các phương pháp tính toán cổ, hiện chắc có rất nhiều người đang từng bước tháo gỡ những "phân lớp Âm Dương Ngũ Hành". Kính.
  25. Bác Vô Trước có một sự nghiên cứu rất kỹ Độn Giáp, Bác có thể cho góp ý chăng!. Độn Giáp + Thái Ất = Giáp, Ất thuộc Thiên Can, Thiên Can là quy luật tương tác của bội số 10. Địa chi quy luật của 12, tạo thành Lục thập hoa giáp 60. Độn: mang ý nghĩa "trung gian". Thân.