hoangnt
Hội viên-
Số nội dung
1.909 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
6
hoangnt last won the day on Tháng 7 13 2018
hoangnt had the most liked content!
Danh tiếng Cộng đồng
211 ExcellentAbout hoangnt
-
Rank
Hội viên tích cực
- Birthday
Xem hồ sơ gần đây
3.464 lượt xem hồ sơ
-
Linh vật bí ẩn thời Âu Lạc --- Giao Chỉ: Tịch Tà (phần 4) Liên quan đến cây đèn tuyệt vời Tịch Tà, chúng ta tiếp tục tham khảo một cây đèn đặc biệt khác, đó là cây đèn tượng bò u thời Âu Lạc, cây đèn được dựng sau phía người ngồi ngay trên xương sống lưng của con bò. Đèn tượng bò u dùng treo hoặc đặt để Thời Âu Lạc Tượng bò u là một dấu chỉ văn hóa đặc trưng trên đồ đồng thời Âu Lạc, trên nhiều trống đồng Đông Sơn cũng có hình tượng con bò u này, chẳng hạn như trống Làng Vạc, khai quật tại Nghệ An. Trống Làng Vạc Nghệ An Chúng ta cần chú ý, người ngồi trên lưng bò để để tay trái lên trên ngực trái, nơi trái tim, hình như bàn tay cầm một vật hình tròn, hình tượng này kết hợp với chiếc sừng bò hình mặt trăng khuyết, mang ý nghĩa của chữ Tâm: "Một vành trăng khuyết, ba sao giữa trời". "Tâm" Thư pháp Như vậy, con bò hay trâu tượng trưng cho "Tâm", đây cũng chính là luân xa 4 - luân xa tim. Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ có bức tranh Chọi Trâu, vùng cao các bộ Văn Lang thì chọi bò, ngoài ý nghĩa Lý học còn mang ý nghĩa cuộc chiến của nội tâm để thăng hoa, giải thoát trong tu luyện Thiền hay Khí công. Trên bức tranh chúng ta chỉ thấy có 3 cái sừng thay vì 4, đây cũng chính tượng trưng cho "3 sao giữa trời". Chọi trâu Lúc này trụ đèn trên xương sống bò nằm ngay tại luân xa 2, luân xa của dục tính, ý nghĩa của cây đèn bò u này chính là dùng ý chí và trí tuệ để chuyển đổi dục tính nhằm thăng hoa, giải thoát. Lúc dòng khí hỏa xà Kundalini vượt qua được luân xa tim 4 thì công phu ngày càng dễ dàng hơn rất nhiều. Nguồn dầu đậu lạc trong thân con bò tượng trưng dòng khí vận động chạy lên trong xương sống trụ đèn. Cũng trên trống đồng Làng Vạc, hình bò u ở thân trống nối mặt trống và chân trống tượng trưng cho "Tâm" - nơi giao hòa Âm Dương, Thiên Địa trong cơ thể con người và muốn giải thoát phải nhờ điều hòa chính "Tâm": Đấy là "Vạn pháp quy tâm" của nhà Phật. Trong nền văn hóa truyền thống Việt Nam, hội chọi trâu ở Ðồ Sơn có từ bao giờ? Tới nay chưa tìm ra chứng cớ hoặc văn bản nào ghi lại nhưng đều khẳng định: hội chọi trâu là mỹ tục hào hùng mang tính thượng võ, tính táo bạo và lòng quả cảm rất độc đáo của người Ðồ Sơn: Dù ai buôn đâu bán đâu Mồng chín tháng Tám chọi trâu thì về Dù ai buôn bán trăm nghề Mồng chín tháng Tám thì về chọi trâu. Tám, tháng, Dương tức Hậu thiên Bát quái, Chín tức cửu cung Hà đồ, ngày, Âm cho ta biết: công thức sẽ được gọi tên là Hậu thiên Bát quái phối Hà đồ. Mặc dù chủ thể nhận tương tác là con người hoặc địa cầu, nhưng tương tác bên ngoài tới địa cầu là một hệ tổ hợp Âm Dương Ngũ hành lớn hơn, Dương. Quán xét một bài thơ đầy chí khí của danh tướng Phạm Ngũ Lão (1255-1320), ông được Thánh nguyên soái Trần Hưng Đạo gả con gái nuôi cho: bài thơ đã thể hiện sự đồng tâm chiến thắng của toàn dân tộc trong trận chiến chống quân Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ, tâm khí của dân tộc xông tới tận chòm sao Ngưu (con trâu) trong Nhị thập bát tú trên dãy Ngân hà, trong đó hình tượng mũi giáo tượng trưng cho phương Nam trong đối đãi với các loại vũ khí. Thời Lý Trần, nội dung Tam giáo đồng nguyên cực kỳ phổ biến, trong bài thơ này chòm sao Ngưu tượng trưng cho "tâm", hàm ý thời đại nhà sư cởi áo tu hành để khoác chiến bào, một thời đại anh hùng: Múa giáo non sông trải mấy thu, Ba quân hùng khí át sao Ngưu, Làm trai danh phận còn vương nợ, Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu. Danh tướng Phạm Ngũ Lão.
-
Linh vật bí ẩn thời Âu Lạc --- Giao Chỉ: Tịch Tà (phần 3) Tịch Tà là loài linh thú có chòm râu dài và hai cái sừng dê, thân mình đầu hổ phương Đông, mao ngựa, thân có vảy cá sấu, luôn trong tư thế hùng mạnh đang há rộng miệng gầm vang chứng tỏ hổ là biểu tượng chủ chốt, có dạng Tịch Tà không người cưỡi và có người cưỡi. Trong lòng Tịch Tà chứa dầu đậu lạc (đậu phụng) dùng để đốt đèn. Ý nghĩa mỹ thuật tạo hình kết hợp 4 loại động vật tượng trưng cho 4 phương của Tịch Tà: - Hổ: phương Tây. - Ngựa: phương Nam. - Dê: phương Đông. - Cá sấu: phương Bắc. Cho nên, Tịch Tà mang thuộc tính Thổ, trung cung, điều hòa Ngũ hành. Người cưỡi tịch Tà Cổ vật thời Đông Hán Trong đó, con dê phương Đông tượng trưng cho cây đèn dầu lạc, con hổ phương Tây tượng trưng cho ngọn bút dựng đứng. Trong môn phong thủy, tháp Văn Xương dùng bài trí trong căn nhà hoặc vùng miền tượng trưng cho học vấn, phương Tây, đặt nhô cao bên tay phải. Đèn cây tiền tượng con dê Hán Người đội đèn Cổ vật Điền, thời Âu Lạc Đèn người quỳ (tóc Bụt ốc, cầm sen búp chưa nở và ngọc nhĩ bôi -> Phật giáo đã biết từ thời Âu Lạc rồi!) Âu Lạc. Tịch Tà có nghĩa là trời về chiều, tức hàm ý hệ mặt trời đã đi vào cung Song Ngư trên vòng Hoàng Đạo, do vậy Tịch Tà là loại linh vật của ban đêm, của tâm linh, cái thấy của tâm linh như Mặt Trăng phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời, cần phải có ánh sáng của một ngọn đèn tượng trưng cho thần Mặt Trời và trí tuệ của một "ngọn bút kình Thiên" xác định sự tồn tại của Linh hồn như mặt trăng phản chiếu vậy. Đây là linh vật mang tính tiên tri cũng như mang ý nghĩa: "Mặt trời lặn ở phương Nam". Tháp Bút - "Tả Thanh Thiên" Hà Nội "Đài Nghiên Tháp Bút chưa mòn, Hỏi ai xây dựng nên non nước này?." Do bản chất Tịch Tà nổi trội là con hổ, phương Tây, hành kim, độ số 4, cung Tốn trên Hà đồ nhưng ở đây tác giả đã dùng 2 chiếc ống giá bút và trụ đèn tượng trưng cho độ số 2, cung Khôn, hành Âm Hỏa, và như trên Tịch Tà hàm ý "Âm", vậy thì chính biểu tượng Tịch Tà chứa đựng mật ngữ chỉ ra sự sai số của hai cung Tốn, Khôn. Siêu mặt trăng Ý nghĩa này được khẳng định bởi sự độc lập về hình tượng của giá bút (mặt trăng) và trụ đèn (mặt trời) trong mối quan hệ tổng thể của Tịch Tà. Mặt khác, tim đèn cháy trên đỉnh đầu của người cưỡi tức hành giả điều hòa Ngũ hành trong cơ thể và đã mở được luân xa 7 là đắc đạo trong pháp môn Đạo giáo "Tam hoa tụ đỉnh, Ngũ khí triều nguyên", đồng thời trụ đèn cũng cũng tượng trưng cho Trục vũ trụ. Luân xa 7 Đèn Đông Sơn Hai người yêu nhau, ngọn đèn tượng trưng cho sự hòa hợp của Âm Dương -> cũng kích nội luân xa đạt những xúc cảm vượt ra khỏi khái niệm thông thường và khi thông luân xa 7 thì đạt an lạc vô biên, cảm ứng tới toàn thể vũ trụ
-
Linh vật bí ẩn thời Âu Lạc --- Giao Chỉ: Tịch Tà (phần 2) Quan sát Tịch Tà: đây là loài linh thú có râu dài và cái hai sừng dê, thân mình đầu hổ, mao ngựa, thân vảy cá sấu, luôn trong tư thế há rộng miệng gầm vang chứng tỏ hổ là biểu tượng chủ chốt, có dạng Tịch Tà không người cưỡi và có người cưỡi. Trong lòng Tịch Tà chứa dầu đậu lạc (đậu phụng) dùng để đốt đèn. Dạng có người cưỡi thì đèn trên đỉnh đầu hoặc trên lòng bàn tay phải, ống cắm bút lông luôn bên trái hoặc trên lòng bàn tay trái. Dạng không có người cưỡi thì vị trí người này chính là cây đèn dựng lên, do vậy người cưỡi tượng trưng người Tây Á, phương Tây đội đèn còn cây đèn tự thân nó tượng trưng phương Đông. Đèn ống bút Tịch Tà Thời Đông Hán The richly adorned tomb of a warrior from China’s Three Kingdoms period (ca. 220-280 A.D.) Đỉnh đặt tim đèn được bao quanh bởi hình tượng phổ biến là 4 chiếc lá đa, ứng với 4 phương, cho ta biết đây là cổ vật có niên đại kéo dài khoảng từ thời Âu Lạc ... Giao Chỉ. Hình tượng 4 chiếc lá đa này đã có niên đại xa xưa hơn, trình bày trên trống đồng Đông Sơn tượng trưng cho một chùy kim cương. Người cưỡi tịch tà có khuôn mặt người vùng Tây Á... như khuôn mặt được diễn họa trên các cổ vật Điền, Vân Nam thời Âu Lạc. Đèn hình người quỳ Âu Lạc, khai quật tại Lạch Trường Một số cây đèn khác trình bày người Giao Chỉ, chứ không phải người Tây Á, mang nét đặc trưng thuần Việt, tay phải giữ cây đèn. Người quỳ nâng đèn Giao Chỉ Kết hợp lại, cây bút dựng đứng tượng trưng cho phương Tây, còn cây đèn tượng trưng phương Đông ---> Từ đó xác định được linh vật Tịch Tà tọa Nam hướng Bắc -> Hàm ý, linh vật của phương Nam, đừng tranh giành làm gì. Rất khó xảy ra tình cảnh một sĩ phu ở trần đóng khố, ngồi trên chõng tre lại dùng ống bút tuyệt tác Tịch Tà viết... thư pháp được! Lại tất nhiên Sĩ Nhiếp (136-226) không bao giờ có thể được gọi là "Nam Giao Học Tổ", còn sau thời Hai Bà Trưng đến cả thế kỷ -> Hãy cẩn thận, coi chừng bị ăn quả rìu Việt nặng lắm đấy!
-
Linh vật bí ẩn thời Âu Lạc --- Giao Chỉ: Tịch Tà (phần 1) Chúng ta chú ý tới các con linh vật Long Mã, Tịch Tà, Kỳ Lân, sau này xuất hiện cả con tỳ hưu phong thủy, chúng có vẻ tương tự nhau. Tịch Tà là đồ dùng của sĩ tử thời Âu Lạc --- Giao Chỉ, thuộc đồ dùng văn phòng nằm trong tứ bảo như "bút, nghiên, giấy, mực", nó thuộc "bút", đây là một đồ án tích hợp biểu tượng rất độc đáo trong văn hóa Việt. Hình như nhà văn Kim Dung có viết bộ Tịch Tà kiếm phổ thì phải. Như vậy không thể không tìm hiểu về loại cổ vật đặc trưng này khi nghiên cứu lịch sử Văn Lang -> Âu Lạc -> Nam Việt -> Lạc Hồng -> giai đoạn bị Hán đô hộ. Tịch Tà làm giá bút và đèn Việt Nam, thế kỷ 1-3 Người cưỡi Tịch Tà Việt Nam Người cưỡi tịch Tà Cổ vật thời Hán (không chắn chắn là đồ cổ thật)
-
Bác Votruoc viết: Như vậy, qui luật Vạn sự có sinh tất có diệt là qui luật phổ biến trong Vũ trụ, nó chi phối vạn vật và vạn sự kể cả toàn Vũ trụ, vì chúng đều là những cấu trúc khác nhau của trường khí âm dương, chịu tác động của qui luật âm dương, đặc biệt qui luật tương quan Âm/Dương luôn tăng. Qui luật tương quan Âm/Dương luôn tăng là nguồn gốc của qui luất Vạn sự có sinh tất có diệt. Chỉ trừ có Đạo, vốn có, không khởi nguyên, có trước âm dương, không phải là một cấu trúc của trường khí âm dương nên không bị qui luật này chi phối. Đạo vô thủy nên nó vô chung, tồn tại mãi mãi. Từ Đạo mà sau xuất hiện Âm Dương, nhưng tại sao nó không phải là một cấu trúc của trường khí Âm Dương và không bị quy luật trên chi phối, vấn đề này phải chăng đã có mẫu thuẫn nội dung. Kính!
-
Trưng bày chuyên đề “Linh vật Việt Nam” Linh vật (những con vật linh thiêng) được con người sáng tạo và sử dụng như những biểu tượng văn hóa để truyền đạt ý tưởng, niềm tin tâm linh, tôn giáo và thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan của mình. Linh vật thường được mô tả trong thần thoại, truyền thuyết và được biểu đạt trong nghệ thuật tạo hình. Người xưa tin rằng, linh vật là hiện thân của các lực lượng tự nhiên hoặc mang những đặc tính huyền bí, năng lực siêu nhiên có thể chi phối nhân sinh, vũ trụ. Linh vật trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam có nhiều loại khác nhau, do người Việt Nam sáng tạo nên hoặc giao lưu, tiếp biến từ các nền văn hóa bên ngoài, phản ánh sâu sắc đời sống tâm linh, văn hóa dân tộc. Mỗi linh vật trong tiến trình phát triển vừa thể hiện bản sắc riêng phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc, vừa mang đặc điểm, phong cách nghệ thuật đặc trưng riêng của mỗi thời kỳ lịch sử. Trưng bày chuyên đề “Linh vật Việt Nam” giới thiệu 27 loại hình là các con vật linh thiêng, qua gần 100 hiện vật tiêu biểu hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Tuy chưa thật đầy đủ nhưng trưng bày là cơ hội để công chúng khám phá, tìm hiểu về sự phong phú và độc đáo của linh vật Việt Nam nói chung cũng như nhận thức sâu sắc hơn về câu chuyện của mỗi linh vật nói riêng, qua đó khơi gợi ý thức dân tộc trong việc sử dụng các biểu tượng văn hóa hiện nay. 1. Chim Lạc Chim Lạc là vật Tổ của cư dân Đông Sơn. Trong buổi đầu hình thành nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, cư dân Việt cổ - chủ nhân sáng tạo văn hóa Đông Sơn đã định cư và liên kết vững chắc thành cộng đồng quốc gia - dân tộc. Lúc này, ý thức dân tộc đã nảy sinh và định hình, người Việt cổ đã bắt đầu xây dựng huyền thoại về Tổ tiên, nguồn gốc dân tộc qua tín ngưỡng thờ vật Tổ. Hình Chim Lạc trên trống đồng Thọ Vực. Văn hóa Đông Sơn, khoảng 2.500 - 2.000 năm cách ngày nay. 2. Rồng Ở Việt Nam, hình tượng Rồng đã xuất hiện từ buổi đầu dựng nước Văn Lang - Âu Lạc và trở thành biểu tượng linh thiêng gắn với Tổ Tiên, cội nguồn dân tộc thông qua truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên”. Mặt khác, do nằm trong khu vực là cái nôi của nền văn minh lúa nước, Rồng Việt Nam còn giữ vai trò là một Phúc thần mang đến mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Trải qua tiến trình phát triển hơn 2 ngàn năm, hình tượng rồng trong nghệ thuật Việt Nam đã nhiều lần biến chuyển về đặc điểm, phong cách nghệ thuật, đồng thời mang thêm những ý nghĩa biểu tượng mới gắn với Thần quyền và vương quyền. Hình Giao Long trang trí trên giáo đồng. Văn hóa Đông Sơn, khoảng 2.500 - 2.000 năm cách ngày nay. 3. Kỳ Lân Theo truyền thuyết, Kỳ Lân là linh vật biểu tượng cho lòng nhân từ, mỗi khi nó xuất hiện là điềm báo có thánh nhân, minh quân ra đời. Ở Việt Nam, hình tượng Kỳ Lân xuất hiện phổ biến từ thời Lê sơ (thế kỷ 15), khi Nho giáo phát triển đến đỉnh cao. Tạo hình Kỳ Lân tuy không hoàn toàn tuân thủ theo nguyên tắc của truyền thuyết nhưng đặc điểm nhận dạng cơ bản là thân của động vật móng guốc, phủ kín vảy cá. Trong đời sống dân gian thường có sự lẫn lộn giữa Kỳ Lân và Sư tử, nhiều hình Sư tử cũng gọi là Lân. Tuy nhiên, theo điển chế nhà Lê và nhà Nguyễn, giữa Kỳ Lân và Sư tử có sự quy định khác biệt rất rõ ràng về hình thức, ý nghĩa biểu trưng. Theo đó, Kỳ Lân luôn có phẩm cấp cao hơn Sư tử. Thời Lê, Kỳ Lân biểu trưng cho hoàng tử, hoàng thái tử; Sư tử biểu trưng quan võ nhất, nhị phẩm. Thời Nguyễn, Kỳ Lân ứng với quan võ nhất phẩm, còn Sư tử dành cho quan võ tam phẩm. Hình Kỳ Lân trên bia điện Nam Giao. Đá. Thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Vĩnh Trị 5 (1679) 4. Rùa và Long Mã Rùa là con vật có thật được linh hóa, biểu trưng cho sự bền vững, trường tồn. Bởi vậy, Rùa thường được tạc trong hình thức đội bia đá, tháp Phật. Ngoài ra, Rùa cũng được trang trí trên các đồ vật, tượng trưng cho sự trường thọ của chủ nhân sử dụng. Từ cuối thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17 - 18), Rùa thường xuất hiện thành cặp với Long Mã trong đề tài về Hà đồ - Lạc thư. Đây là cặp biểu tượng khởi nguyên của Kinh Dịch, tư tưởng triết học của người Á Đông về quy luật của sự biến đổi. Nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực như vũ trụ, thiên văn, địa lý, phong thủy, trị nước, nhân mệnh… Đề tài Long Mã Hà đồ gắn với tích Vua Phục Hy trong một lần đi dạo sông Hoàng Hà nhìn thấy một con Long Mã đang bơi tới, trên lưng có các xoáy đen trắng. Nhân đó Vua vẽ lại thành Hà đồ, còn gọi là Tiên thiên bát quái đồ. Đề tài Thần Quy Lạc thư bắt nguồn từ tích vua Đại Vũ trị thủy sông Lạc, nhìn thấy một con rùa trên lưng có các chấm đen trắng. Vua theo đó đặt ra Lạc Thư, còn gọi là Hậu thiên bát quái đồ. Hình Long Mã - Hà đồ trên hũ gốm hoa lam. Thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802 - 1920). 5. Ngựa có cánh Ngựa có cánh (Pegasus) là một loại ngựa thần trong văn hóa phương Tây, biểu tượng của sự thông thái, minh triết. Ngựa có cánh được truyền vào Việt Nam từ thời Lê sơ (thế kỷ 15), trên đồ gốm xuất khẩu thông qua đặt hàng của thương nhân phương Tây và tiếp tục được sử dụng trong trang trí kiến trúc và đồ gốm thời Mạc - Lê Trung Hưng (thế kỷ 16 - 18). Hình Ngựa có cánh trên gạch trang trí. Đất nung. Thời Mạc, thế kỷ 16. 6. Phượng Theo truyền thuyết, Phượng là vua của các loài chim, mang nhiều đức tính, phẩm hạnh cao đẹp. Phượng chỉ xuất hiện vào thời thái bình và ẩn mình khi thời loạn lạc nên nó là biểu tượng cho thái bình thịnh trị. Ngoài ra, Phượng còn là hình ảnh tượng trưng cho hoàng thái hậu, hoàng hậu, công chúa cũng như phụ nữ quý tộc thời phong kiến. Ở Việt Nam, Phượng là đề tài trang trí phổ biến ở mọi thời đại, trên mọi lĩnh vực nghệ thuật khác nhau. Hình Phượng trang trí trên hộp trầu. Vàng. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20 (Sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn) 8. Cá hóa Rồng Cá hoá Rồng vốn là truyền thuyết được lưu truyền phổ biến ở Việt Nam, gắn với tích “Ngư dược Vũ môn” của khoa cử Nho học, tượng trưng cho sự kiên trì, bền chí chinh phục tri thức để đi tới thành công của các sĩ tử. Trong nghệ thuật Việt Nam, đề tài cá hóa rồng bắt đầu xuất hiện từ thời Trần (thế kỷ 13 - 14) về sau, nhưng phổ biến và đạt tới đỉnh cao nghệ thuật vào thời Lê sơ (thế kỷ 15). Hình Cá hóa Rồng trên đĩa gốm nhiều màu. Thời Lê sơ, thế kỷ 15 (Hiện vật tàu đắm cổ Cù Lao Chàm, Quảng Nam) 9. Si Vẫn (con Kìm) Theo truyền thuyết, Si Vẫn là động vật biển có đuôi cong tròn, đập sóng thì mưa xuống. Bởi vậy, người xưa thường đắp nó trên nóc mái các công trình kiến trúc với ý nghĩa phòng ngừa hoả hoạn. Ở Việt Nam, Si Vẫn còn được gọi với tục danh là con Kìm, trong nhiều hình thức khác nhau: hình đầu rồng, hình rồng; hình cá, hình đầu rồng đuôi cá; hình đuôi Si, hình đầu rồng đuôi Si... Si Vẫn hình đầu Rồng (Long Vẫn). Đá. Thời Lê Sơ, thế kỷ 15. (Thái miếu nhà Lê ở Lam Kinh, Thanh Hóa) 10. Bồ Lao Theo truyền thuyết, Bồ Lao là động vật biển, thích âm thanh lớn, thích gầm rống. Bồ Lao rất sợ cá kình, khi bị cá kình đuổi đánh thì kêu rất to. Người xưa khi đúc chuông thường tạo quai hình Bồ Lao, còn dùi thì làm theo hình cá kình với mong muốn tiếng chuông kêu vang xa. Do đó, "bồ lao" cũng dùng để chỉ tiếng chuông chùa. Ở Việt Nam, Bồ Lao thường được thể hiện dưới dạng hình Rồng hai đầu. Bồ lao trên quai chuông chùa Vân Bản (Hải Phòng). Đồng. Thời Trần, thế kỷ 13 – 14. 11. Thao Thiết Theo truyền thuyết, Thao Thiết là một con vật ham ăn vô độ, thậm chí có thể ăn cả cơ thể mình. Vì vậy, hình ảnh Thao Thiết chỉ là phần đầu với hai chân trước nhìn chính diện trông vừa dữ tợn, vừa uy nghi. Ban đầu, hình Thao Thiết được trang trí trên bộ đồ ăn nhằm nhắc nhở việc ứng xử lịch sự trong ăn uống. Về sau, hình Thao Thiết xuất hiện trên nhiều loại vật dụng khác, tượng trưng cho sự no đủ, bền vững. Hình Thao thiết trên đồ cúng tế. Ngọc. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20. (Sưu tập cổ vật Cung đình triều Nguyễn) 12. Tiêu Đồ Theo truyền thuyết, Tiêu Đồ là linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình. Bởi vậy Tiêu Đồ thường được chạm trên tay nắm cửa ra vào, ngụ ý răn đe kẻ lạ muốn xâm nhập, bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà. Ở Việt Nam, hình tượng Tiêu Đồ mới chỉ gặp trên những chiếc tay nắm cửa đồng thế kỷ 1 – 3. Tay nắm cửa hình Tiêu Đồ. Đồng, thế kỷ 1 – 3. 13. Tích Tà Tích Tà là linh vật huyền thoại có nguồn gốc Á Đông, hình thức giống như Sư tử có cánh. Đây là linh vật trấn giữ mang ý nghĩa biểu tượng trừ tà, xua đuổi điều xấu, mang lại tốt lành. Hình tượng Tích Tà xuất hiện trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam giai đoạn những thế kỷ đầu Công nguyên, trên các hiện vật chất liệu đồng và gốm. Đèn hình Tích tà. Đồng. Thế kỷ 1 - 3 14. Chim thần Garuda Garuda là một loại chim thần có nguồn gốc từ Ấn Độ, thường được miêu tả trong hình thức người - chim, tượng trưng cho sức mạnh và chân lý. Ở Việt Nam, Garuda xuất hiện trong nghệ thuật Champa với tư cách là một vị Thần Ấn Độ giáo, là biểu trưng và vật cưỡi của Thần Vishnu. Trong nghệ thuật Phật giáo Đại Việt từ thời Lý (thế kỷ 11 - 13) đến thời Mạc (thế kỷ 16), Garuda là linh vật trấn giữ các góc tháp, đỡ góc bệ thờ hoặc mái đao chùa... Garuda là hình ảnh tiêu biểu cho sự giao lưu văn hóa Đại Việt - Champa. Garuda đỡ góc bệ thờ Chùa Thầy (Hà Nội). Đá. Thời Trần, thế kỷ 13 – 14. 15. Sư tử / Nghê Sư tử nguyên là linh vật Phật giáo, được truyền vào Việt Nam theo sự du nhập của Phật giáo, nhưng được cải biến phù hợp với truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Từ thời Trần (thế kỷ 13 – 14), khi Nho giáo phát triển, Sư tử được chọn làm biểu tượng của sức mạnh vương quyền thì hình tượng Sư tử xuất hiện phổ biến ở nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, vừa đa dạng về đặc điểm hình thức vừa truyền tải nhiều ý nghĩa biểu tượng tốt đẹp khác nhau. Về đặc điểm tạo hình cơ bản có hai loại: hình Sư tử (các chi tiết hình thể của sư tử) và kết hợp đặc điểm Sư tử - Chó (đầu Sư tử, thân Chó). Trong đó, hình Sư tử xuất hiện ở mọi thời đại, trên nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Hình Sư tử - Chó ít nhất bắt đầu xuất hiện từ thời Lê sơ (thế kỷ 15), chủ yếu trên đồ thờ cúng, trong trang trí kiến trúc hoặc trong tư cách là linh vật trấn giữ… Cũng như các nước Á Đông, ở Việt Nam, Sư tử còn có tên gọi khác là Nghê. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, Sư tử được gọi là Nghê khi tạc làm bệ tượng Phật, là vật cưỡi của Văn Thù Bồ Tát, đội lư hương hoặc ngồi trên nắp đỉnh trầm, dù đều trong hình tướng Sư tử. Ở Việt Nam thì diễn biến khá phức tạp. Thông thường, linh vật này được gọi là Sư tử khi tạo theo hình tướng Sư tử, gọi là Nghê khi mang đặc điểm kết hợp của Sư tử và Chó. Tuy nhiên, nhiều khi, những hình sư tử nhỏ trong trang trí hoặc đồ thờ cúng cũng được gọi là Nghê hoặc Lân. Có những linh vật trong hình Sư tử - Chó, dân gian thường gọi là Nghê, nhưng trong văn bản chính thống ghi chép về việc tạo tác này vẫn gọi là Sư tử… Bệ tượng Phật tạo hình Sư tử thường gọi là “Sư tử tọa”, nhưng đôi khi cũng gọi là “Nghê tòa”, tục danh gọi là Ông Sấm... Hình tượng Sư tử - Nghê giới thiệu trong trưng bày này, chú thích là Sư tử tức chỉ linh vật trong hình tướng sư tử, gọi là Nghê khi linh vật mang đặc điểm tạo hình sư tử - chó. Những hình Nghê/ Sư tử được gọi theo nhiều các khác nhau, chú thích sẽ nêu tên gọi chính thống/ phổ biến lên trước, kèm theo các tên dân gian thường gọi khác. Hình Sư tử (Nghê/Lân) gắn trên nắp đỉnh trầm. Gốm men rạn. Thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736). 16. Hổ Ở Việt Nam, Hổ được coi là chúa sơn lâm. Bởi vậy, Hổ đã được linh hóa, biểu trưng cho quyền uy và sức mạnh giống như Sư tử. Hổ thường được đặt trấn giữ ở cổng các công trình kiến trúc cổ. Trong điện thờ Mẫu thường có ban thờ Ngũ Hổ, với 5 màu vàng, xanh, trắng, đỏ, đen, tượng trưng cho Ngũ Hành, trấn giữ 5 phương. Cặp tượng Hổ. Đá. Thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18. (Văn Miếu Hưng Yên). 17. Voi Voi vốn là linh vật Phật giáo, tượng trưng cho chân lý, trí tuệ và sự kiên định. Đức Phật cũng từng được đầu thai dưới dạng Voi trắng trong giấc mơ của Hoàng hậu Maya. Voi còn là vật cưỡi của Phổ Hiền Bồ Tát. Với ý nghĩa như vậy, voi cũng hiện diện trong nghệ thuật Phật giáo Việt Nam. Đồng thời, voi còn là linh vật có sức mạnh trấn giữ khi đặt hai bên đường Thần đạo trước lăng mộ hoặc phủ phục trước cổng đền, miếu... Voi cõng bình. Gốm men rạn. Thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18. 18. Khỉ Theo Phật thoại, Khỉ là đệ tử rất thành tâm đến với Đức Phật. Ở Việt Nam đã tìm thấy khá nhiều tượng khỉ tại di tích Tháp Chương Sơn (Nam Định), thời Lý. Bộ tượng 3 con khỉ: con che mắt, con bịt miệng, con bịt tai, thể hiện triết lý Tam Không của Phật giáo: không nhìn điều xấu, không nói điều xấu và không nghe điều xấu. Tượng Khỉ bịt tai trong bộ tượng "Khỉ Tam Không". Đá. Thời Lý, thế kỷ 11- 13. (Tháp Chương Sơn, Ý Yên, Nam Định). 19. Chó Chó là linh vật gần gũi với đời sống tâm linh của người Việt Nam. Người Việt Nam thường tạc chó đá trấn giữ trước cổng nhà hoặc cổng đình, đền, miếu, phủ... để cầu phúc, trừ tà. Chó đá ở nhà dân thường nhỏ, không to lớn như chó đá ở các công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng. Nhiều nơi còn có tục thờ Chó. Tượng Chó. Đá. Thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18. 20. Rắn Đối với người Việt, Rắn là biểu tượng của Thần Nước, đại diện cho hai thành tố đối lập tốt và xấu. Tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt có tục thờ Rắn, mang ý niệm về sông nước của cư dân làm nông nghiệp. Hình ảnh đôi Rắn quấn nhau là biểu tượng của phồn thực, cội nguồn sinh sôi, sự sống. Mặc dù vậy, Rắn dường như ít xuất hiện trong nghệ thuật tạo hình. Trong văn hóa Champa, Rắn được gọi là Naga, vua của loài rắn, được du nhập vào theo Ấn Độ giáo. Naga là anh em họ và là kẻ thù của Chim thần Garuda. Bởi vậy, Naga thường được thể hiện trong hình thức bị chim Thần Garuda tiêu diệt. Tượng rắn đầu người. Gốm men trắng. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20. 21. Hạc Hạc vốn là linh vật của Đạo giáo, tượng trưng cho sự thanh cao, thoát tục, trường sinh bất tử. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc sử dụng hỗn hợp các hình tượng tôn giáo khá phổ biến. Bởi vậy, Hạc cũng trở thành biểu tượng văn hóa của Phật giáo, Nho giáo... Hạc thường được mô tả đứng chầu trên lưng Rùa hoặc trong đề tài Tiên cưỡi Hạc trên điêu khắc đình làng. Đèn hình Hạc cưỡi Rùa. Đồng. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20. 22. Uyên Ương Theo Phật thoại, Uyên Ương (Vịt) là một trong các hóa thân của Đức Phật. Trong nghệ thuật Việt Nam, Uyên Ương xuất hiện phổ biến trong trang trí kiến trúc cung đình và chùa, tháp thời Lý - Trần (thế kỷ 11 - 14), trong tư thế dang cánh đậu trên các viên ngói bò lợp mái. 23. 12 con giáp Ở Việt Nam, 12 con Giáp gồm Chuột (Tí), Trâu (Sửu), Hổ (Dần), Mèo (Mão), Rồng (Thìn), Rắn (Tị), Ngựa (Ngọ), Dê (Mùi), Khỉ (Thân), Gà (Dậu), Chó (Tuất), Lợn (Hợi), tương ứng với 12 chi trong lịch pháp Á Đông, dùng để tính thời gian theo chu kỳ quay của Mặt Trăng. 12 con Giáp còn được dùng để liên kết các yếu tố liên quan đến vận mệnh, cuộc sống con người. Tượng Trâu (Sửu) trong bộ tượng 12 con Giáp. Ngọc. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20. (Sưu tập cổ vật Cung đình triều Nguyễn) Với mỗi linh vật, bên cạnh hiện vật gốc, để đảm bảo kể đầy đủ, khách quan câu chuyện và hành trình lịch sử của chúng, trưng bày còn giới thiệu mở rộng thêm bằng các tài liệu khoa học phụ, hình ảnh, thuyết minh trong màn hình cảm ứng. Ngoài ra, 3 linh vật là Sấu, Tù Ngưu, Nhai Tí, do điều kiện không gian trưng bày, chúng tôi cũng giới thiệu bổ sung trong màn hình cảm ứng này. 24. Hình tượng Sấu Sấu, còn gọi là “Sóc” hoặc “Sấu nghê sóc”, xuất hiện trong nghệ thuật Việt Nam bắt đầu từ thời Lý, tồn tại tới thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17 - 18). Sấu có đầu Sư tử, đuôi sóc. Ngoại trừ đặc điểm tạo hình và mức độ phổ biến có sự thay đổi theo thời gian, đây là linh vật khá ổn định trong chức năng sử dụng và ý nghĩa biểu tượng, thường được thể hiện trên mặt dốc thành bậc trước cửa chùa, tháp hoặc lăng mộ. Đây cũng là linh vật độc đáo của nghệ thuật Việt Nam, chưa từng thấy xuất hiện trong bất cứ nền nghệ thuật nào trên thế giới. Sấu thành bậc. Đá. Thời Trần, thế kỷ 13 – 14. Chùa Phổ Minh, Nam Định. 25. Nhai Tí Theo truyền thuyết, Nhai tí là con vật có thân rồng, đầu sói, tính cách cương liệt hung dữ nhưng ngay thẳng, hiếu sát, thích chiến đấu. Vì thế Nhai Tí thường được trang trí ở đốc, chuôi, khâu đao, kiếm… ngụ ý thị uy, làm tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm của các chiến binh khi chiến đấu. Hình Nhai Tí trang trí trên đốc kiếm. Vàng, kim loại, đá quý. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20. (Sưu tập cổ vật Cung đình triều Nguyễn). 26. Tù Ngưu Theo truyền thuyết, Tù Ngưu là linh vật rất ham mê âm nhạc, thích gảy đàn, đạt được nhiều thành tựu về âm nhạc. Vì thế người xưa thường tạo hình Tù Ngưu ở đầu cần các loại đàn cầm. Số lượng linh vật là hiện vật gốc giới thiệu trong trưng bày là 27, bao gồm cả Chuột, Trâu, Dê, Gà, Lợn trong bộ tượng 12 con Giáp. Nếu tính cả 3 linh vật giới thiệu mở rộng trong màn hình cảm ứng thì tổng cộng có 30 linh vật được giới thiệu trong trưng bày chuyên đề “Linh vật Việt Nam”. Ths. Nguyễn Quốc Hữu (Phó Trưởng phòng Trưng bày.
-
TRỐNG ĐỒNG VÀ TÊN NƯỚC THỜI TRƯNG VƯƠNG (kết) Liên quan đến cổ vật thời Trưng Vương, một ngôi mộ cổ vùng Hồ Nam được cho là có từ thời Chiến Quốc, khi khai quật phát hiện một chiếc giao găm cán tượng người giống như những chiếc dao găm ở Việt Nam và như vậy đây là ngôi mộ thời Đông Hán chứa đựng các cổ vật thời Chiến Quốc vào thời đại chủ nhân ngôi mộ. Vùng Quảng Tây cũng có khám phá tương tự, khoảng vài chiếc. Như vậy, chiếc dao găm tượng Bà Trưng tại Hồ Nam đã chứng tỏ cổ sử ghi chép chính xác về việc Mã Viện bắt các cừ súy đày về Linh Lăng, Hồ Nam hoặc/ và từ trận chiến kinh thiên động địa giữa các tướng lĩnh thời Trưng với quân Mã Viện tại Động Đình Hồ theo khảo cứu của bác sĩ Trần Đại Sĩ.. Tướng Đô Dương tiếp tục cầm quân chống lại quân Hán đến cuối năm 43. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn sót lại huyện Cư Phong, cuối cùng lực lượng này cũng bị dẹp. Ngoài các cừ súy bị giết, hơn 300 cừ súy người Việt bị bắt và đày sang Linh Lăng (Hồ Nam). Dao găm tượng Bà Trưng Việt Nam Thời Lý, dựa trên tư liệu lịch sử, các nghệ nhân làng Đông Hồ đã chế tác ra bộ tranh hai bức (nhị bình): Hai Bà Trưng và Bà Triệu, những bức tranh lịch sử đã trở thành truyền thống hàng nghìn năm và nét đẹp mỹ thuật dân gian Việt Nam. Hình ảnh oai hùng của Hai Bà Trưng và Bà Triệu luôn đi cùng một hình tượng to lớn đó là những con voi rừng đã được thuần hóa. Trưng Vương khởi nghĩa - Triệu Chúa xuất quân Tranh dân gian Đông Hồ Qua hệ thống cổ vật thời Trưng Vương, chúng ta sẽ thấy hoàn toàn rõ ràng về một thời kỳ lịch sử và hào hùng của dân tộc, một vị nữ vương oai nghiêm và vĩ đại nhất trong lịch sử giải phóng dân tộc 5.000 năm trên toàn thế giới. Thời đại của Hai Bà Trưng (lên ngôi hoàng đế Lĩnh Nam năm 30 SCN) cũng chính là thời đại của ông Jesus (4 TCN - 30 SCN) khi mà nước Do Thái bị thực dân La Mã độ hộ thì nước Nam Việt cũng đang bị bị triều Hán cưỡng bức, thời đại này về mặt thiên văn thì hệ mặt trời đã đi vào cung Song Ngư trên vòng Hoàng đạo. Như vậy, Hai Bà Trưng là cực kỳ vĩ đại nếu so sánh về mặt vai trò trong lịch sử trong thời đại của chính mình và dân tộc mình ngay cả khi so sánh với ông Jesus. Sorry xin đừng buồn vì nó thực sự là như vậy! Mà tại sao phải buồn? Đáng nhẽ là cùng nhau vui mừng và ca hát lên chứ nhỉ??? Trống đồng thời Trưng Vương Quảng Tây Hãy tự hào về dân tộc của mình đi, tìm chân lý ngay trong lòng dân tộc đi, không đi tìm, tâng bốc và xin xỏ ở nơi đâu nữa, có dăm trang sách thôi mà! Tôi trích một phần bài thơ Lạc Hồng ca do Lạc Hồng Quốc Tổ Hùng Quốc Vương ứng linh qua một nhân vật có khả năng nhận bằng tư tưởng, do tham khảo được. Hà - Đồ xuất hiện trên sông Là cơ hiển Thánh Lạc Hồng khai nguyên Hồn non nước linh sơn tú khí Nghĩa đồng bào tôn chỉ hoằng dương Người sinh ra có quê hương Công Cha nghĩa Mẹ yêu thương gia đình Là nguồn cội hữu tình nhân loại Dẫu thế thời biến cải mưu sinh Cũng không quên được thâm tình Lìa quê nhớ Mẹ xa đình nhớ Cha Trải cuộc thế ngày qua dầu dãi Nợ áo cơm khôn dại đi về Thoáng buồn cuộc sống xa quê Thị thành nắng bụi làng đê mưa bùn Tình cảm của anh hùng hào kiệt Khởi đầu chung muôn việc hy sinh Gởi thân vào cuộc thăng bình Viết trang sử đẹp hợp tình Âu Cơ Đây là lúc Đồ - Thư khai hóa Đến tận nguồn minh họa hồn thiêng Mẹ cha Hồng Lạc, Rồng Tiên Nêu cao đạo nghĩa thiêng liêng giống nòi Trang sử cũ lần coi từng nét Lý Đồ - Thư suy xét tận tường Quốc hồn, quốc túy, quốc cương Đâu đây phảng phất tình thương đồng bào Mỗi dân tộc tự hào nguồn cội Thờ Mẹ Cha là tội hay sao? Lạ xa mang vội tin vào Mẹ Cha cùng nghĩa đồng bào ai thương? Sống chẳng có lập trường trung hiếu Tu luyện thành quy liễu về đâu? Sớm khuya Cha Mẹ không cầu Chắc gì kế mẫu trọn câu thâm tình! Ta quyết lập Tổ đình Hồng Lạc Sợ cháu con rời rạc tinh thần Dù đời đày đọa tấm thân Quyết không nô lệ tinh thần Tây Đông! ... Kết thúc chuyên mục Hai Bà Trưng tôi trích một bài hát có liên quan đến cụm từ "Trưng Vương", đó là bài Trưng Vương khung cửa mùa thu được chuyển dịch từ một bài hát nước ngoài Tell Laura I love her để cùng thưởng thức.
-
Bản đồ phân dã trên thep Hoangnt thì Amouruniversel cần phải giải thích được quy tắc chọn tâm và tại sao Việt Nam thuộc cung Tỵ cho bạn đọc cùng hiểu? Ngoài ra, nó cũng còn được sử dụng để tiên tri trong phương pháp Huyền không phi tinh nữa. (Theo Hoangnt ý tưởng chọn bản đồ này là chuẩn). Trân trọng.
-
TRỐNG ĐỒNG VÀ TÊN NƯỚC THỜI TRƯNG VƯƠNG (tiếp theo) Do đàm đạo với bác Votruoc về độ rỗng của Vạn tượng và cũng là một trạng thái của chính Thái Cực, sau này nó dịch chuyển thành một số nguyên lý như "Khí nhẹ bay lên thành trời, khí nặng đục tụ xuống thành đất", "Khí tụ thì sống, khí tán thì chết"..., tôi quay trở lại một cổ vật thời Trưng Vương đó là chiếc đèn tượng voi, ở đây chúng ta cần chú ý con voi tượng trưng cho toàn thể vũ trụ vận động, nó được chế tác "Rỗng" để đựng dầu Lạc. Đèn con voi Thời Trưng Vương Đặc biệt, người quản tượng trong hình một người phụ nữ rất rõ, có lẽ "Mẫu Thiên hay Mẫu Thượng Ngàn" trong Đạo Mẫu, đối ứng với cây đèn trên trục gọi là "Nhiên Đăng". Chiếc đèn này tương ứng với thần Trụ Trời trên một cổ vật thời Trưng Vương đã trình bày. Chúng ta tiếp tục quan sát một số cổ vật Đông Sơn khác dưới đây: Đèn ba chân lưới bảo vệ rỗng đặc Cổ vật Đông Sơn Thạp đồng Bình đồng và âu đồng Mộ thuyền Việt Khê, thế kỷ V TCN Âu đồng tế khí Bình đồng Nghi Vệ, Bắc Ninh, thời Hán Mâm đồng Âu đồng Bình đồng trái mận Bồ nông đứng trên vũ trụ - Lồng xông trầm hương Cổ vật Đông Sơn Lồng ấp trầm "long phượng trình tường" Những cổ vật tế khí trên có chân đế cấu trúc lỗ rỗng, chân đế của đồ tế khí tượng trưng cho gốc rễ, nguyên thủy và đây là nét đặc trưng cổ vật văn hóa Đông Sơn, về thời gian sớm nhất tham chiếu đến mộ thuyền Việt Khê có niên đại thế kỷ V TCN và cho tới thời Hán rất phổ biến. Ngoài ý nghĩa tản nhiệt, mỹ thuật, chúng thể hiện một ý nghĩa quan trọng như đã viết chính là "Độ Rỗng". Lão Tử mô tả công dụng và chức năng của cái trống không đối với hình thể và sự phụ thuộc của tất cả mọi vật vào những cái trống không: Ba mươi tay hoa cùng quy vào một cái bầu, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bầu mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa lớn và cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được. Vậy khi chúng ta sử dụng cái “có”, chúng ta cần nhận ra sự hữu dụng của cái “không”. Sử ký Tư Mã Thiên và các thư tịch khác chép Đạo Đức Kinh do Lão Tử huyền thoại viết, có niên đại khoảng 600-500 TCN, như vậy nếu đối chiếu tới những cổ vật biểu tượng trên thì rõ ràng, niên đại của Đạo Đức Kinh đã có từ trước đó rất xa rồi! Đây là những chứng cứ vật thể thời Hùng Vương rất trực quan và sinh động. Liên quan đến chiếc âu đồng hay bình bát, có một sự kiện trong lịch sử Phật giáo: Khi Phật Thích Ca sắp nhập diệt, có một đệ tử hỏi khi Ngài nhập Niết bàn thì làm tháp thờ như thế nào? Phật Thích Ca không trả lời, chỉ lấy chiếc áo cà sa gấp lại làm 4, đặt chiếc bình bát úp ngược lên, rồi lấy chiếc gậy dựng thẳng đứng trên đáy chiếc bình bát. Thanh tịnh như sao, Ngưu vận hành giữa hư không. (Thiên văn trong kinh Phật) Sau này, chúng ta thấy mộ xá lỵ Phật giống như thế và xưa nhất là bảo tháp Sanchi khoảng thế kỷ thứ III TCN tại Ấn Độ. Bảo tháp Sanchi Biểu tượng trên mà Phật Thích Ca nói cũng chính là cấu trúc thuyết Âm Dương Ngũ hành. Thời Hai Bà Trưng đã có chùa và kinh Phật rồi, chẳng hạn công chúa Phật Nguyệt...
-
Để hiểu độ rỗng trước tiên ta tạm gọi "Vật chất" là "Vạn tượng", thì Vật chất này không ở trạng thái "đặc tuyệt đối" mà chúng có độ rỗng, mặc dù vậy thì Vật chất vẫn "nằm trong" không gian nếu xét một tổ hợp Vật chất nào đó, nhưng nếu chúng ta xét toàn bộ Vũ trụ thì Vật chất và Không gian là một tổng thể hoàn chỉnh. Chúng ta có thể hình dung một mạng phân tử kim cương với độ rỗng giữa các phân tử. Tra cứu lại cổ thư thì Đạo Đức Kinh có nói đến điều này. Lão Tử mô tả công dụng và chức năng của cái trống không đối với hình thể và sự phụ thuộc của tất cả mọi vật vào những cái trống không: Ba mươi tay hoa cùng quy vào một cái bầu, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bầu mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa lớn và cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được. Vậy khi chúng ta sử dụng cái “có”, chúng ta cần nhận ra sự hữu dụng của cái “không”. Tất cả các bản dịch cổ kim về vấn đều nêu trên của Đạo Đức Kinh là chưa tới ý nghĩa tối thượng, sâu xa hơn nữa đó chính là "độ rỗng" của Vật chất, còn Không gian khi xét về thuộc tính tự nhiên của nó là không có thuộc tính, tức nó là một trạng thái tự nhiên "rỗng tuyệt đối". Vì rằng, nếu đặc tuyệt đối trong toàn thể Không gian thì là sao mà vận động, tương tác được, thực tại phản ánh đúng như vậy. Cho nên, cổ thư Đông phương không bao giờ dùng khái niệm "Tuyệt đối" cả, chẳng hạn "Thượng Đế là Tuyệt đối" (Thượng Đế thì chưa rõ, Tuyệt đối thì chưa hiểu... thì làm sao). Chính khi hiểu độ rỗng này và một số vấn đền khác nữa thì chúng ta mới mô tả rõ ràng được bản chất của trạng thái "Thái Cực" trong Lý học Đông phương. Mặc dù vậy, vẫn chưa khẳng định là các bài toán cao cấp mô phỏng của bác Votruoc là chưa hợp lý bởi có thể một số khái niệm nhiều lúc bị đảo nghịch 100% nhưng nó vẫn hợp lý. Trên đây là ý kiến cá nhân để bác Votruoc và bạn đọc tham khảo thêm, do vậy chúng ta vẫn cứ đi tiếp về nội dung cuốn sách của bác Votruoc một cách liên tục. Kính.
-
Bác Votruoc viết: Sự phân biệt và biến đổi đã có thì phải được thể hiện ra bằng một phương thức nào đó. Phương thức đó phải bao gồm cái (đối tượng) biến đổi và những yếu tố (thông số) mô tả sự biến đổi đó. Cái biến đổi chính là cái lực lượng âm – Âm vừa mới được sinh ra trong Thái cực, cùng với Dương, tạo thành một đối tượng thể hiện tương tác âm dương gọi là Khí. Yếu tố mô tả sự biến đổi mà con người trực quan nhận thức được là không gian, thời gian (không loại trừ còn có những cách khác mà con người chưa hoặc không thể nhận thức được). Toàn bộ hệ thống gồm cái biến đổi và thông số biến đổi, còn gọi là Vũ trụ, phải thuộc âm vì chúng mang bản chất của biến đổi hay “động” đối đãi với Thái Cực chí tịnh. Mầm mống không – thời gian trong Thái Cực khi ấy có điều kiện liền trở thành hiện thực bằng một đột biến lượng tử, đáp ứng yêu cầu đó. Âm, Dương tồn tại, tương tác, biến đổi trong không thời gian dưới dạng Khí, bao gồm Khí âm và Khí dương. Toàn bộ chỉnh thể đó (Khí, không thời gian) gọi là Trường khí âm dương. Trường khí âm dương là một môi trường trong không-thời gian chứa Khí, thể hiện tương tác âm dương. Lực lượng âm, dương (Âm, Dương) của trường khí âm dương gọi là Khí âm và Khí dương. Lượng biến đổi được đặc trưng bởi một khái niệm gọi là năng lượng. Vậy năng lượng là khái niệm đặc trưng cho thuộc tính của trường khí âm dương về mức độ tạo nên những biến đổi trong các tương tác của chúng. Như vậy, không-thời gian là một mặt của thực tại, mô tả, phản ánh, thể hiện sự phân biệt, biến đổi âm, dương của trường khí âm dương trong Vũ trụ. Nó không hề tồn tại độc lập với trường khí âm dương mà chịu sự chi phối của các thuộc tính âm dương. Tính chất của Không-thời gian chính là tính chất âm, dương của đối tượng mà nó thể hiện là Khí. Thời gian 0 bắt đầu khi âm, dương xuất hiện từ Thái Cực. Bắt đầu từ đây Vũ trụ được sinh ra và phát triển. Như vậy, Vũ trụ là cái hiển lộ khi nảy sinh âm dương từ Thái cực, bắt đầu từ một thăng giáng lượng tử, trong không thời gian. Khởi nguyên của Vũ trụ là Thái cực vốn vô thủy vô chung và chí tịnh. Vũ trụ là một dạng tồn tại của Thực tại dưới dạng Trường khí âm dương cùng với những tương tác của Khí trong không thời gian. Sự tương tác âm dương làm cho Vũ trụ vận động và biến đổi không ngừng hình thành nên Thế giới ngày nay. Ban đầu, tính từ thời gian 0 (khi Âm Dương mới xuất hiện, từ Thái Cực, sinh ra không thời gian), Âm còn rất nhỏ, Dương cũng nhỏ, Trường khí âm dương rất nhỏ, là kết quả của một thăng giáng lượng tử ngẫu nhiên vừa đủ lớn. Quan hệ Âm, Dương, Chung đều là tương sinh, mâu thuẫn âm dương chưa bộc lộ (xem phần Tam tài). Do quan hệ đồng tương sinh của tất cả các yếu tố, giá trị mới được sinh ra với tốc độ rất cao ở mọi vị trí, mọi thể tích, làm cho Vũ trụ phát triển thuận lợi và rất nhanh chóng. Thời kỳ đó gọi là Tiên Thiên. Trong thời kỳ này, do các lực lượng Âm Dương Chung thống nhất, không mâu thuẫn, hình thức tồn tại của Vũ trụ ở thời kỳ này là sự phân bố tương đối đồng đều của trường khí âm dương trong không thời gian. Đó là một sự thống nhất, có khác nhau nhưng không mâu thuẫn âm dương, của trường khí âm dương với tốc độ phát triển hết sức mau chóng. Khi Âm, Dương và cùng với chúng là Vũ trụ phát triển tới một mức nào đó, mâu thuẫn Âm, Dương xuất hiện trong quá trình tương tác âm dương. Quan hệ Tam tài từ chỗ đồng tương sinh trở thành Dương khắc Âm, Âm sinh Chung, Chung khắc Dương. Tuy mâu thuẫn Âm Dương cản trở, nhưng giá trị mới vẫn được sinh ra nhưng với tốc độ thấp hơn làm Vũ trụ phát triển chậm lại. Hình thức tồn tại của Vũ trụ lúc này là vô số vận động, biến đổi, tương tác của trường khí âm dương trong Không thời gian theo qui luật tiến tới trạng thái âm dương quân bình động, đồng thời tỷ lệ tương quan Âm/Dương ngày càng lớn. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Hậu Thiên. Nội dung xác định "Trường khí Âm Dương" nhưng vẫn chưa chỉ rõ bản chất của không gian, theo Hoangnt bản chất của không gian là "rỗng tuyệt đối" và nó "chứa" Vạn tượng hay có thể hiểu là chúng có mối quan hệ thực tại là không tách rời nhau, khi đó có thể hiểu Bản thể của Vạn tượng là có "độ rỗng" - Do vậy bản chất thực tại của Thái Cực là phải có độ rỗng ban đầu ---> Và ta có thể tính được chính xác tỷ lệ Độ rỗng này so với Thái Cực (Bản thể Vạn tượng). Như vậy, không gian không có "tính chất" nhưng vì thực tại không tách rời giữa Bản thể Vạn tượng vận động trong không gian mà ta có bài toán xác định trường khí Âm Dương thông qua nó. Giữa Thái Cực và Không gian có một cái "hơi chung" như sau: Chúng ta nhìn xuyên qua không gian giống như nhìn xuyên qua Thái Cực vậy, giống như nhìn qua một tấm kính trong suốt mà không cảm nhận được có nó. Tức ngay tại một thời điểm thì cái nhìn của ta xuyên qua tấm kính và không gian. Do vậy, không có sách nào nói về thuyết Âm Dương Ngũ hành mà có đề cập đến "Độ rỗng" cả! Kính!
-
Nhờ Amouruniversel lập quẻ Thái Ất cho riêng năm sau cho mọi người "thưởng thức", nếu có thể nhận định cho riêng Việt Nam theo như phận dã trong cung đã viết ở trên. Trạng Trình có tiên tri Việt Nam và thế giới: Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh, Can qua xứ xứ khởi đao binh, Mã đề Dương cước anh hùng tận, Thân Dậu niên lai kiến Thái Bình. Trân trọng.
-
TRỐNG ĐỒNG VÀ TÊN NƯỚC THỜI TRƯNG VƯƠNG (tiếp theo) Chúng ta đang tìm chứng cứ tên nước thời Hai Bà Trưng và xác suất vô cùng lớn là cái tên Lạc Hồng. Nhận biết chữ "Hồng" qua một số dữ liệu liên quan: - Truyện Họ Hồng Bàng. - "Yêu em từ thuở hồng hoang": hồng hoang, hồng mông là thời xa xưa, to lớn, không rõ ràng, mờ mịt... - Một loại chim hồng hạc, bộ lông màu đỏ rực, tượng trưng phương Nam nếu đối đãi Âm Dương Ngũ Hành với các loài hạc khác. - Một loài chim hồng hoàng: tức phượng hoàng đất. - Trong trận chiến với quân Nguyên Mông, nhà Trần có tổ chức hội nghị "Diên Hồng" của các bô lão. - Chữ "Hồng" trong thần chú của nhà Phật như Úm Ma Ni Bát Mê Hồng. - Tác phẩm Hồng Lâu Mộng. - Hồng thủy hay nước chảy tràn, to lớn, ca truyện Hồng thủy hoành lưu của người Dao. - Ngoài ra, còn có thơ tượng trưng trong Nam Thiên ngữ lục như: "Quần hồng nhẹ bước chinh yên - Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành...". - Hồng mang ý nghĩa tượng trưng cho người phụ nữ, màu hồng, Âm. - Thi văn tâm linh chẳng hạn như Đạo Mẫu... ghi Lạc Hồng hoặc Hồng Lạc, Lạc Hồng phổ biến hơn như thơ của nữ tướng Hồ Đề... - Văn Lang thời Hùng Quốc Vương trở về sau (Hùng Quốc Vương là vị vua nam giới, Văn là Âm so với Lang là Dương) ---> Âu Lạc thời An Dương Vương (An Dương Vương là vị vua nam giới, quy ước tên gọi Âu - Âm và Lạc - Dương) ---> Nam Việt thời Triệu Vũ Đế trở về sau (Âm Dương) ---> Lạc Hồng thời Trưng Vương, đây là cái tên quy ước theo thứ tự Dương Âm, vị là vị vua nữ giới nên gọi Lạc (Dương) Hồng (Âm). Đây là cái lý của phương pháp phi tinh Huyền Không: "Nữ thuận Nam nghịch", tương tự tục cài áo về bên trái (tả nhậm) của người dân nước Văn Lang. - Hùng Lạc (sai lệch theo quy ước Âm Dương). - Triệu (không thể). - Trưng (không thể). Ngày lễ hội Hai Bà Trưng là mùng 6 tháng Hai âm lịch, dựa trên độ số của Hậu thiên Bát quái phối Hà đồ. Ngày (Âm) ở đây mang độ số 6, cung Càn, Dương kim đới thủy; còn tháng (Dương) mang độ số 2 cung Khôn, Âm hỏa đới mộc. Độ số 6 và 2 trên đây tương ứng hai cung Càn - Khôn đối ứng trên Hậu thiên Bát quái phối Hà đồ tức quái Khôn thay quái Tốn trên Hậu thiên Bát quái vậy (ở đây, khi nói độ số là liên quan đến Hà đồ - Lạc thư). Trống đồng loại II, trống Ly thời Trưng Vương đã chỉ rõ! Trống loại II, trống Ly tại Bảo tàng Hoàng Bình Thời Hai Bà Trưng thì hệ mặt trời đã thuộc vào phận dã cung Song Ngư, do vậy hành Thủy được nhấn mạnh và chọn lựa để hợp "khí". Trống đồng Miếu Môn (được nhận định là trống loại IV, trống Khảm, Thủy, cùng thời với trống Ngọc Lũ do cấu trúc hoa văn chi tiết chính xác tương đương). Mũi lao được nhận định thời Trưng Vương (lao, giáo tượng trưng cho phương Nam) "Phương Nam trống trận giáo như rừng..." Tinh thần Samurai Nhật Bản nam giới luyện kiếm, nữ giới luyện giáo. Chim hồng hạc Chim hồng hoàng (nếu đối đãi Âm Dương Ngũ hành với chim hồng hạc thì chim hồng hoàng là Dương) Về mặt lịch sử, thông thường khi đổi ngôi thì nhà vua cũng ra chiếu chỉ đổi tên nước, niên hiệu, ấn tín, kiếm lệnh, quốc kỳ, rất hiếm khi giữ lại như: thời Lý là Đại Việt và thời Trần giữ nguyên Đại Việt. Tôi tham khảo được một bài thơ tâm linh, khả năng là của một vị Hùng Vương nhưng không rõ chi đời Lời Người nhắn gửi, trong đó có cái tên "Hồng Bàng": Từ thuở Hồng Bàng Việt quốc khai, Vua tôi cùng tắm bãi sông dài, Cùng nghe chim hót vui ca hát, Cùng đấu lưng nhau để cấy cày. Thế hệ sau này ai dạy bảo? Khòm lưng cúi cổ lạy người xa, Biến lòng tham vọng thành nô lệ, Xóa bỏ tình thương hướng nẻo Ta. Có phải hồn thiêng của núi sông, Mất đi từ thuở mất Cha Ông? Nay Ta dựng dậy tình sông núi, Để trả hồn thiêng lại núi sông. Những người đắc đạo sử còn ghi, Nào có công danh bổng lộc gì, Chỉ giữ hồn thiêng cho đất nước, Vô vi mà cũng chẳng vô vi.
-
Chúng ta chú ý về thiên văn cổ trong câu thơ: Thanh tịnh như sao Ngưu vận hành giữa hư không
-
Bác Votruoc viết: Do Đạo hàm chứa và bao trùm tất cả nên trong sự vật luôn tồn tại sẵn tất cả những mầm mống cho mọi xu hướng phát triển của sự vật. Sự xuất hiện của những mầm mống đó như là một thăng giáng lượng tử, ngẫu nhiên do nó tiềm ẩn trong Đạo như là một năng lực vốn có. Do Đạo vô cùng đồng nhất, không phân biệt, như một thể duy nhất tồn tại trong mọi sự vật, có vai trò là bản thể của sự vật đó, nên bất lỳ một mầm mống nào của Đạo đột biến thì đột biến đó cũng xuất hiện trong mọi sự vật, ngay lập tức, không có một trì hoãn nào. Tuy nhiên, chỉ những mầm mống nào có đột biến đủ lớn, phù hợp với tương quan Âm, Dương của sự vật mới nhận được sự hỗ trợ tốt từ tương quan này, trở thành hiện thực, tạo ra được nhiều hơn những giá trị mới cho sự vật. Còn những mầm mống khác, hay thậm chí cả những yếu tố đã là hiện thực, sẽ không được tương quan Âm, Dương “ nuôi dưỡng” tốt và làm thui chột đi (tức là lại trở về trạng thái mầm mống trong Đạo). Sự “hỗ trợ” tương quan âm dương cho đột biến lượng tử đó trong một sự vật không chỉ đến từ trường khí âm dương của sự vật mà còn đến từ trường khí âm dương những sự vật khác, thậm chí, đặc biệt quan trọng, khi đến từ cái đột biến lượng tử đó đã thành hiện thực trong một sự vật khác. Tuy nhiên, những “hỗ trợ” đến từ sự vật khác do phải di chuyển trong không thời gian nên có thể phải mất một thời gian trì hoãn nào đó. Như vậy, do sự hiện diện của Đạo, trong Vũ trụ, không có bất kỳ một sự vật nào có thể tồn tại độc lập với bất kỳ sự vật nào khác, tất thảy chúng đều tương quan, tùy thuộc vào nhau trong vận động và phát triển. Đó chính là bản chất của tính tương thuộc của Vạn tượng trong Vũ trụ, là cơ sở giải thích hiện tượng thần giao cách cảm và “rối lượng tử” trong khoa học thực nghiệm. Nếu nói đến Vạn tượng đã vận động, có lẽ hình ảnh chung của chúng sẽ là vận động xoắn ốc rồi thay vì mô phỏng Đạo từ 1 điểm bắn ra các tia mũi tên. Bác Votruoc viết: III./ THỜI KỲ TIÊN THIÊN VÀ HẬU THIÊN, QUAN HỆ TAM TÀI 1. Tam tài: Như trên đã biết, quá trình tương tác âm dương là quá trình tạo ra giá trị mới một cách ngày càng hiệu quả nhất. Giá trị mới là kết quả của tương tác âm dương. Để tạo ra những giá trị mới, các lực lượng âm, dương phải thống nhất với nhau trong tương tác. Nếu chỉ có một mình lực lượng âm hay một mình lực lượng dương, sẽ không có sự tương tác âm dương và giá trị mới không thể nảy sinh (tức là những mầm mống của giá trị mới trong Đạo không thể bộc lộ, phát triển thành hiện thực). Không được bổ xung những giá trị mới, lại bị mất đi những giá trị cũ, Vạn tượng sẽ bị tiêu hủy. Cả lực lượng âm và lực lượng dương đều có xu hướng chiếm đoạt giá trị mới này. Để có thể chiếm đoạt, trước tiên giá trị mới phải được tạo ra. Để được tạo ra giá trị mới, lực lượng âm, dương phải thống nhất với nhau trong tương tác. Vì tranh giành những giá trị mới - sản phẩm của quá trình tương tác âm dương – các lực lượng âm, dương đấu tranh với nhau, và vì thế mâu thuẫn với nhau. Giá trị mới được tạo ra tuỳ thuộc tương quan, vai trò và qui mô của các lực lượng âm, dương trong quá trình tương tác, còn mức độ chiếm đoạt giá trị mới tuỳ thuộc vào sức mạnh và khả năng chiếm đoạt của lực lượng âm và lực lượng dương tương quan như thế nào. Khi có sự tương ứng giữa vai trò tương tác và khả năng chiếm đoạt đó là khi Vạn tượng phát triển tốt nhất, giá trị mới được tạo ra nhiều nhất. Lực lượng âm dương tuy vẫn còn mâu thuẫn nhưng đó là mâu thuẫn tích cực, kích thích Vạn tượng phát triển, ta nói Vạn tượng có trạng thái âm dương hài hoà. Còn nếu sự tương ứng đó không thoả đáng, Vạn tượng phát triển khó khăn hơn, giá trị mới được tạo ra ít đi, mâu thuẫn lực lượng âm, dương tăng lên, cản trở Vạn tượng phát triển, ta nói Vạn tượng có trạng thái mất quân bình âm dương. Đặc biệt, khi sự mất quân bình này thái quá, mâu thuẫn lực lượng âm dương quá gay gắt có thể dẫn đến phá huỷ tương tác âm dương, giá trị mới không được tạo ra, giá trị đã có bị thui chột, trạng thái đó dần bị tiêu huỷ, bị thay thế bằng một trạng thái mới sinh, có sự quân bình âm dương mới. Ta nói, vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản. Bên cạnh việc tạo ra những giá trị mới, tương tác âm dương còn làm mất đi những giá trị cũ. Khi những giá trị cũ không được tương tác âm dương hỗ trợ, chúng không được bổ sung thêm giá trị mới nên không thể phát triển, vai trò của chúng trong sự vật mờ nhạt dần. Và khi cản trở sự tạo thành các giá trị mới, chúng sẽ bị triệt tiêu. Nhưng sự triệt tiêu này không phải là biến mất mà chỉ là sự trở về dạng mầm mống trong Đạo mà thôi. Khi có điều kiện thuận lợi của tương tác âm dương, chúng sẽ lại xuất hiện và phát triển. Do thống nhất với nhau trong tương tác, tạo ra những giá trị mới, mà trong các lực lượng âm, dương có hàm chứa những yếu tố, tuy khác nhau về thuộc tính âm dương nhưng không mâu thuẫn, đấu tranh mà thống nhất với nhau. Và tương ứng với những yếu tố đó, trong Vạn tượng có những lực lượng đại diện cho chúng, gọi là Chung. Trong Chung có những thành phần mà cả hai lực lượng âm, dương cùng thống nhất với nhau, tuy khác nhau mà không mâu thuẫn, đấu tranh nhau. Phần còn lại của các lực lượng âm, dương thì mâu thuẫn, đấu tranh với nhau và được gọi là Âm, Dương. Như vậy, do thống nhất và đấu tranh với nhau giữa các lực lượng âm, dương, trong Vạn tượng hình thành ba lực lượng là Chung, Âm, Dương, được gọi là Tam tài. Dương là những lực lượng trong sự vật có xu thế bảo tồn trạnh thái cũ. Âm là những lực lượng trong sự vật có xu thế biến đổi sự vật. Chung là lực lượng trong sự vật có xu hướng điều hòa quan hệ âm dương, là nơi thống nhất quan hệ âm dương. Mô hình Tam tài thể hiện sự tương tác thống nhất và đấu tranh với nhau của các lực lượng âm, dương chung trong vạn tượng. Quan hệ tương tác giữa ba lực lượng này làm cho Vạn tượng cân bằng và phát triển. Khi nói đến trạng thái Âm Dương sau Thái Cực, phải chăng cổ nhân đã hàm ý "Âm thuận tùng Dương" tức quy luật chỉ có hai mặt chứ chưa có cái "Chung", chỉ khi đến trạng thái của Ngũ Hành thì mới xuất hiện hành Thổ "Chung" này để thiết lập mối quan hệ cân bằng sinh khắc trong vận động xoắn lốc nhưng vẫn phải tuân thủ quy tắc "Âm thuận tùng Dương" ở trên? Kính!