trucgiac

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    576
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by trucgiac

  1. Mỹ và đồng minh còn nhiều việc trước mắt cần phải giải quyết. Hay nói cách khác: Việc ưu tiên hàng đầu bây giờ là đưa quân đi bảo vệ hòa bình thế giới, Hì! ================= Phương Tây ủng hộ ông Assad tại vị, Nga-Iran thành công bước đầu Linh Vũ (Vietnam+) lúc : 28/09/15 16:08 Tổng thống Pháp Francois Hollande (trái) gặp với Tổng thống Iran Hassan Rouhani bên lề khóa họp lần thứ 70 của Đại hội đồng Liên hợp quốc. (Nguồn: Reuters/TTXVN) Nhật báo Telegraph của Anh ngày 28/9 cho rằng Nga và Iran đã giành được thành công bước đầu trong vấn đề Syria khi nhiều lãnh đạo phương Tây đã thay đổi lập trường về Tổng thống Syria Bashar al Assad, với việc ủng hộ ông này tiếp tục nắm quyền, ít nhất là trong thời gian trước mắt. Nói với các phóng viên khi trên đường tới dự cuộc họp ở Đại hội đồng Liên ​hợp quốc ở New York, Thủ tướng Anh David Cameron nói rằng Assad không có tương lai "dài hạn," nhưng cho rằng ông vẫn có thể tại vị trong giai đoạn chuyển tiếp. Đức và Mỹ cũng nói tới khả năng để ông Assad cầm quyền trong thỏa thuận nhằm kết thúc 4 năm nội chiến ở Syria và đánh bại Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng. Tổng thư ký Khối hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) Jens Stoltenberg, nói thêm rằng ông đã sẵn sàng để thảo luận vấn đề Syria với Nga. Tháng này, Nga gây chú ý khi điều vũ khí và binh lính tới Syria để giải cứu ông Assad, ngay khi khả năng phòng ngự của ông yếu dần. Ông Stoltenberg nói rằng hiện đã xuất hiện nhu cầu điều phối hoạt động với Nga để tránh "tai nạn" do quân đội quốc tế do Mỹ lãnh đạo cũng đang chiến đấu chống IS ở Syria. Lãnh đạo Nga và Iran, nước đã điều hàng ngàn chiến binh tới chiến đấu hỗ trợ ông Assad, đã lập tức có bình luận về sự thay đổi. "Tôi nghĩ rằng hôm nay ai cũng đã chấp nhận rằng Tổng thống Assad phải tại vị để chúng ta có thể chống khủng bố" - Tổng thống Iran Hassan Rouhani nói với hãng tin CNN. Theo kế hoạch, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry sẽ gặp người đồng cấp Nga Sergey Lavrov, để thảo luận về tình hình Syria, một ngày trước khi ông Putin có kế hoạch gặp Tổng thống Mỹ Barack Obama./.
  2. Hung thủ gây thảm án ở Bình Phước thế nào? Sau khi sát hại 6 người trong nhà đại gia gỗ ở Bình Phước, Dương và Tiến phóng xe về TP HCM đi làm bình thường hòng tạo chứng cứ ngoại phạm (Zing.vn) ======================= Nhìn hình thể ngôi gia này giống như "Quan tài nhỏ để cạnh quan tài lớn"! Giải thích thế có thể dễ nghe hơn kiểu chữ "L" ngược, híc B) !!!
  3. 20h ngày 17/5 Việt Lịch, TG có đi dạo quanh hồ gần nhà, nhìn lên thấy ánh Trăng rất đẹp nhưng xung quanh thì mây đen nghìn nghịt, tự hỏi mình không biết có chuyện gì xẩy ra???
  4. Hì, chính Đức Phật sau khi sinh được vua cha Tịnh Phạn mời các cao thủ bói toán - Bà La Môn xem tướng cho Ngài đó thôi. Các cao thủ phán rằng - đại khái: "Hoàng tử sẽ trở thành bậc Chuyển Luân Thánh Vương, sau này sẽ trở thành vị Hoàng đế vĩ đại nhât thiên hạ nếu Hoàng tử muốn trị vị thiên hạ, nếu Hoàng tử đi tu sẽ trở thành bậc Chánh đẳng chánh giác..." Chém tí choi zui!!!
  5. Lâu ngày xem lại chủ đề này, lần này xem lại có hiểu thêm được chút đỉnh. Cảm ơn Sp đã cho hàng đệ tử có thêm chút kiến thức bổ ích! P/s: "Tử viết" - TG lại suy "Chử Đồng Tử viết" chứ không phải "Khổng Tử viết" thì sao??? hì!
  6. Tổ Tiên Việt Thư Tịch & Di Tích 15/04/2014 Hành trình Đi Tìm Tổ Tiên Việt của con cháu Việt ngày nay đã trở nên hùng hậu, đa ngành, đa phương cách, nhiều hy sinh, dâng hiến lặng thầm, tụ hội bốn bể năm châu, rạng ngời hào quang Tổ Tiên Bách Việt. Tổ Tiên trong nguồn Thư tịch cổ Ngày 24- 1- 2014. Trên đường tạ mộ Cha Lạc Long Quân tại Bình Minh- Bình Đà- Thanh Oai- Hà Nội, bác Nguyễn Mạnh Can dẫn chúng tôi thăm nhà TS Hán Nôm Lã Duy Lan ở thôn gần đấy. Lã Duy Lan nghỉ hưu, đóng cửa, tắt điện thoại, im lặng Đi Tìm Tổ Tiên Việt. Chúng tôi đến bất ngờ, ông không có nhà. Vợ và con cháu ông tiếp chúng tôi trong ngôi nhà hai tầng, sân vườn cây, rau hoa, chén trà xanh ấm tình quê. Với người viết chân chính, ta đọc tác phẩm của họ, đủ mến yêu, kính trọng, đồng cảm. Gặp được họ là hạnh phúc. Chưa gặp vì họ ở ẩn lại càng yêu mến. Tôi đọc Bản sắc Văn Hóa Người Việt (NXB Công An Nhân Dân- 2007- Lã Văn Lan) để cùng Đi Tìm Tổ Tiên Việt. TS Lã Duy Lan với tư duy làm sáng tỏ Bản Sắc Văn Hóa Người Việt qua Đất- Nước- Người. Những con người đã sống hàng vạn năm trên Đất- Nước ấy, thể hiện cách trồng cấy lúa nước, cách ăn, chơi, hội hè, tập quán, tín ngưỡng… cổ truyền vẫn con nguyên vẹn nơi đây. Nơi mà các nhà khoa học thế giới gần đây đã khẳng định “Chính Đông Nam Á đã là một trong những cái nôi hình thành loài người. Là địa bàn hình thành đầu tiên của đại chủng phương Nam.”. Cái nôi ấy, địa bàn ấy, theo những bộ sách cổ của nước ta còn để lại, chính là“Bộ tộc Việt Thường, cùng cư dân Bách Việt với nơi phát tích đầu tiên là nền Văn minh lúa nước sông Hồng”. Phần thư tịch Tổ Tiên gửi lại, chúng tôi suy ngẫm mục Từ nguồn Thư tịch cổ (Bản Sắc Văn Hóa Người Việt- Trang 25). TS Lã Duy Lan nghiên cứu thư tịch cổ Bách Việt Triệu Tổ Cổ Lục. Ông cho biết ở hai xã Phú Lãm và Phú Lương đầu huyện Thanh Oai- Hà Nội ngày nay (tức địa bàn chủ yếu của vùng Đại Lôi (tổng Sốm thời Lý) xa xưa đã có các vị tộc trưởng họ Nguyễn truyền đời trông giữ phần mộ, thờ cúng các vị Tổ Tiên gây dựng nên Bách Việt và các vị có công với nước thời Thục- Triệu, Hai Bà Trưng, Tiền Lý. Các vị Tổ Tiên Bách Việt nhiều thời sống ở vùng Thanh Oai, chết ở đây, nên còn phần mộ và đền thờ, lễ hội cúng giỗ, phong tục, lối sống, ở đây. Vùng này xưa có Kinh Đô Nghĩa Lĩnh của Bách Việt và các vua Hùng. Phong Khê thời Thục- Triệu.Mê Linh. Phong Châu thời Hai Bà Trưng. Long Biên thời Tiền- Hậu Lý (Lý Nam Đế). Các vị tộc trưởng họ Nguyễn nối đời sinh ra từ cụ Tổ họ Nguyễn đầu tiên của Bách Việt đã giữ cổ phả bí truyền, và “Giữ mả Tổ”. Họ Nguyễn ở tổng Sốm xưa nay, xứng trách nhiệm dòng trưởng đối với trăm họ, trông nom mộ các vị Tổ Bách Việt, giữ đền miếu, chùa, ngày cúng lễ, thể hiện qua các phong tục, lễ hội, tín ngưỡng vùng tổng Sốm- Thanh Oai. TS Lã Văn Lan viết tổng “Sốm” (là âm từ chữ Sấm tức Đại Lôi thời Lý). Trong suốt gần nghìn năm Bắc thuộc, tộc trưởng Nguyễn vẫn trông mồ mả, cúng lễ Tổ Tiên Bách Việt, dưới hình thức ẩn hiện, không khoa trương nên qua mắt cai trị phương Bắc. Thời Đinh Bộ Lĩnh năm 968, vua Đinh đăng quang, về tận nơi, biết vùng Thanh Oai có mộ, đền miếu thờ Tổ Tiên Bách Việt đã phong trưởng họ Nguyễn là Nguyễn Đức tước vị Quốc công, giao quyền quản lý 2.400 mẫu ruộng trong vùng hai xã Phú Lãm và Phú Lương- Thanh Oai để trồng cấy, lấy tiền xây 72 ngôi đền (gọi là Nam Thiên thất nhị thập từ) hằng năm mở lễ hội, tế lễ, rước đón hội đồng tộc biểu toàn quốc và đồng bào cả nước về lễ Tổ và dự lễ hội. Từ đó về sau, các trưởng tộc Nguyễn (dù không tham gia chiến trận) vẫn được các triều Đinh, Tiền Lê, Lý phong là Quốc công, thời Trần phong Quốc phụ, thời Lê, Nguyễn phong Hương quận công tiếp tục quản lý 2.400 mẫu ruộng thờ và tổ chức lễ hội, cúng giỗ, chăm mộ Tổ Tiên Bách Việt. Vị Hương quận công cuối cùng bị thực dân Pháp bãi chức, nên vua Thành Thái phong Thái tử Thiếu Bảo, tên thật là Nguyễn Vân Ý, mất năm 1951. Ngôi đền thờBách Việt Thiệu Tổ và phả cổ, thư tịch cổ, những ngôi mộ cổ về Tổ Tiên Bách Việt, dòng họ Nguyễn Vân giao cho cụ Nguyễn Vân Tằng tại làng Vân Nội- tổng Sốm. Cụ Tằng mất năm 2013, giao cho con trai Nguyễn Vân Liên. Xưa kia, tổng Sốm lễ hội, cúng giỗ Tổ Tiên suốt ba tháng mười ngày trong một năm. Các Thần tích, Thần phả được biên soạn đều theo truyền thuyết dân gian, nửa hư, nửa thực để giấu kín tung tích thật, chống kẻ thù đào mồ mả. Còn những tung tích thật như tên, niên hiệu, ngày sinh, ngày hóa, nơi an táng, sự tích các vị được thờ, thì các vị tộc trưởng họ Nguyễn ghi vào các bộ sách Bách Việt Triệu Tổ Cổ Lục (ghi từ khởi đầu đến hết thời Bách Việt và các vua Hùng). Cổ Lôi Ngọc phả truyền thư (ghi về thời Thục- Triệu, Hai Bà Trưng, Tiền Lý và thời Bắc thuộc). Phả họ Nguyễn (ghi về thời sau này). Những bộ sách này tuyệt đối không truyền ra ngoài, có thơ dặn lại: “Bất dụng tha nhân biệt ngoại truyền”. Việc tổ chức lễ hội cúng giỗ Tổ Tiên Bách Việt theo nghi thức Quốc gia ở Đại Lôi (tổng Sốm) chấm dứt vào triều Thành Thái (1907). Vua Thành Thái bị đi đày. Giặc Pháp cho lính về tổng Sốm tàn phá cướp bóc. Dân chống lại, cuộc chiến chết 200 người. Cụ Nguyễn Vân Ý đã cùng Hội đồng tộc Nguyễn chia nhỏ 2.400 mẫu ruộng thờ, lấy tiền di chuyển 72 ngôi đền chưa bị phá đi các miền quê khác, xây mới nhiều đền thờ dọc hai bờ sông Nhuệ, sông Tô Lịch… Bốn vạn bản Thần tích, Thần phả được các cụ tổ chức sao chép lại, soạn mới bổ sung truyền con cháu, chia nhau cất giấu. Phần lớn Thần phả, Thần tích đều ghi “Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Hồng Phúc nguyên niên, Nguyễn Hiền phụng sao”, đóng dấu thời Lê, Thời Nguyễn. Địa điểm “tu thư” thực hiện tại làng Thạch Bích, xã Bích Hòa, huyện Thanh Oai (cách Phú Lãm, Phú Lương khoảng ba cấy số). Bản sao giao cho các làng. Các bản sưu tập đưa lên Đền Hùng (Phú Thọ cất giấu). Sau bị thực dân Pháp thu giữ, nay còn một số bản lưu tại Thư viện Hán- Nôm Hà Nội do Trường Viễn Đông bác cổ bàn giao lại. TS Lã Duy Lan nghiên cứu Bách Việt Triệu Tổ Cổ Lục tìm hành trình Tổ Tiên Bách Việt cách nay khoảng bảy nghìn năm. Tổ Tiên ta là một nhóm Việt Mường bước từ trong rừng ra. Định cư ở vùng đất phía Đông chân núi Ba Vì, kéo dài tới vùng dất chùa Tây Phương nay là huyện Thạch Thất- Hà Nội. Từ đấy sinh sôi, tỏa đi các hướng đồng bằng Bắc bộ, miền núi, miền Trung, ven biển. Thời kỳ ở chân núi Ba Vì, trongBách Việt Triệu Tổ Cổ Lục gọi là thời Cực Lạc, nước Cực Lạc. Đó là thời kỳ con người ở hang động, vách đá, đã biết dùng lửa, săn bắt sinh vật làm thức ăn, quần hôn, mặc vỏ cây, dây quấn. Gọi là Việt Thường Thị tức là người dùng thừng (thường- thừng) để làm nên quần áo Thời Cực Lạc là sự giao thoa dài giữa quần hôn và hôn nhân gia đình cá nhân, giữa Mẫu quyền và Phụ quyền. Quần hôn là Mẫu hệ- Mẫu quyền. Sự tích Trầu Cau chính là bi kịch giữa quần hôn và hôn nhân một vợ một chồng (giai đoạn đầu tiên chấm dứt quần hôn). Cuối thời Cực Lạc cách nay khoảng 6.000 năm, bắt đầu chia họ. Lập gia đình riêng. Có chín họ được lập lúc đó, bao gồm năm họ Việt, bốn họ Việt- Mường. Khi có chữ Việt Nho gọi là Cửu Tộc. Nơi diễn ra cuộc chia họ ấy theo Bách Việt Triệu Tổ Cổ Lục ghi là ở khu vực các làng Hạ Lôi- Bằng Trù huyện Thạch Thất- Hà Nội. Chín họ đầu tiên là Nguyễn, Trần, Dương, Chu, Vũ, Đinh, Quách, Bạch, Hà. Sau khi lập gia đình riêng, chia họ, họ Nguyễn đứng đầu cùng nhiều họ khác xuống vùng So- Sở thuộc Quốc Oai- Chương Mỹ nay là Hà Nội, lập Nhà nước manh nha đầu tiên gọi là thời Viêm Bang, nướcViêm Bang người đứng đầu là Đế Viêm, sau là Thần Nông. Thời giữa Viêm Bang từ 9 họ ban đầu (Tòa Cửu Long ở các chùa thờ chín họ đầu tiên của Bách Việt). Từ 9 họ, lập ra 72 họ. Mỗi họ có một người đứng đầu. Có 72 động chủ, có giếng nước ăn riêng. Sau này các họ mới lập thêm dùng đặc sản địa phương đặt tên cho họ mình: Lê, Lý, Ngô, Đỗ… Họ Lã là kỷ niệm về việc bắt đầu biết đào ao, đào giếng. Cuối thời Viêm Bang từ vùng So- Sở, các họ vượt sông Đáy, xuống định cư ở vùng đầu Thanh Oai, mở ra thời Bách Việt và các vua Hùng, khai phá đồng bằng Bắc bộ, Trung bộ, đi chinh phục thêm các vùng đất mới xa hơn. Bách Việt Triệu Tổ Cổ Lục ghi “Tiên La tương địa”tức là vùng đất bồi, đất nát Tiên La nay thuộc làng Thanh Lãm xã Phú Lâm có vị vua đầu tiên mở đầu thời kỳ khai phá đồng bằng là Đế Tiết. Đế Tiết sinh ra Đế Thừa, đều đóng đô tại Tiên La. Hại vị dạy dân quan sát khí hậu, thời tiết để ổn định việc gieo trồng các mùa, giống cây. Nếm các vị lá cây, thảo dược làm thuốc chữa bệnh. Đặc biệt cụ Đế Thừa còn gọi là Sở Minh Công, vừa kế nghiệp vua cha, vừa đặt nền móng cho việc đi chinh phục thêm các vùng đất mới. Ngày sinh mồng 1 tháng sáu Âm lịch. Ngày hóa mồng 10 tháng 10 Âm lịch của cụ Đế Thừa được lấy làm ngày quốc lễ, lễ xuống đồng và lễ cúng cơm mới. Đế Thừa sinh ba con trai là Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân, Nguyễn Long Cảnh, đều là những bậc Thánh nhân. Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân là hai anh em sinh đôi, giống nhau như đúc. Hai anh em thường đi đánh cá ở vùng hồ Sương Mù (Hồ Tây- Hà Nội ngày nay) Nguyễn Minh Khiết lấy bà Đỗ Thị Ngoan (Đỗ Quý Thị) ở vùng hồ này. Bà Ngoan hiền lành nết na, phúc hậu, yêu mến cả hai anh em. Khi lấy ông Nguyễn Minh Khiết vẫn hay gọi tên em trai ông Khiết là Nguyễn Nghi Nhân. Ông Khiết bỏ đi, lấy vợ hai ở làng Khương Đình (quận Thanh Xuân- Hà Nội ngày nay). Bà Ngoan bỏ đi tu Đạo Sa Bà đắc đạo được tôn là Hương Vân Cái Bồ Tát. Sau khi anh lấy vợ, Nguyễn Nghi Nhân buồn (họ là ba nhân vật cổ tích Trầu Cau) xin vua cha cấp thuyền bè, lương thực, vũ khí, cùng một số dân chúng và binh lính đi lập nghiệp nơi xa. Nguyễn Nghi Nhân ngược lên hướng Bắc, đến vùng Động Đình Hồ (nay là Trung Quốc) chinh phục các bộ tộc ở đấy, lập ra nước Sở. Đời sau gọi ngài là Đế Nghi. Các hậu duệ của ngài kế tục nhiều đời gọi là Sở Hùng Thông, tham chiến với các nước ở Bắc và Nam sông Dương Tử thời cổ đại. Ở vùng Tiên La nay là Thanh Oai, cụ Đế Thừa qua đời, Nguyễn Minh Khiết được kế ngôi gọi là Đế Minh đóng đô ở Phong Châu cách Tiên La khoảng một cây số, phía ngoài. Bên cạnh sông Hát là một nhánh sông Đáy chảy ra. Phong Châu nguyên gốc là bến nước được xếp bằng đá ong làm bậc lên xuống, được Bắc phương ghi chép lần đầu trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Phong Châu cũng là tên gọi của cả thời Bách Việt và các vua Hùng đóng đô ở đây. Thời Đế Minh trị vì, mở đầu cho thời Bách Việt và các vua Hùng, có biên giới từ phía Bắc đến bờ Nam sông Dương Tử, biên giới phía Nam đến tỉnh Quảng Nam ngày nay. Khi Nguyễn Lộc Tục con trai Đế Minh (Nguyễn Minh Khiết) và Đỗ Thị Ngoan (Đỗ Quý Thị) trưởng thành thì ở vùng Tử Di Sơn (chân phía Đông dãy Hymalaya là thượng nguồn sông Dương Tử) có giặc Gạc Ma nối dậy. Nguyễn Lộc Tục cùng người chú thứ ba (Nguyễn Long Cảnh) và tám người cậu họ Đỗ, được cử cầm quân dẹp giặc. Đến vùng Hồ Động Đình, Nguyễn Lộc Tục gặp bà Hồng Đăng Ngàn, con gái vị chúa hồ tộc Bách Việt. Dẹp giặc xong, Nguyễn Lộc Tục trở lại, cưới Hồng Đăng Ngàn rồi ở lại cai quản vùng này. Bởi thế đời sau gọi ngài là Kinh Dương Vương, do phần đất ngài cai quản có tên là Kinh Châu- Dương Việt. Khi Đế Minh già yếu qua đời thì mười lăm bộ trong vùng Phong Châu họp lại, cử người đi đón Kinh Dương Vương trở về kế ngôi thay cha làm vua nước Xích Quỷ. Nguyễn Lộc Tục- Kinh Dương Vương và Hồng Đăng Ngàn sinh năm con trai: Hùng Nghiêm, Hùng Quyền, Hùng Hiển, Hùng Quyên, Hùng Tiến. Hùng Tiến con út chết trẻ. Hùng Hiển con thứ ba húy là Sùng Lãm, tên tự là Phúc Thọ, được truyền ngôi vua là Lạc Long Quân (Hùng Hiển Vương). Về Phong Châu, bà Hồng Đăng Ngàn cùng chồng là Kinh Dương Vương (Nguyễn Lộc Tục) đem nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt the về dạy dân. Cung cách ăn mặc của dân thay đổi, váy lụa sồi, áo the, thay lá cọ, sợi dây gai. Kinh Dương Vương đẩy nhanh khai phá đồng bằng, ổn định dân sống ấm no, an vui, bình đẳng. Ngài hóa vào ngày 25 tháng 12 Âm lịch, được dân suy tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngày 23 tháng Chạp tiễn “ông Công” là ông bản cảnh thành hoàng, lên chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế hội họp Thiên đình. Những ngày lễ tiết cổ truyền của người Việt đều là những ngày sinh, ngày hóa của các vị vua, các bà vợ có công với dân Bách Việt được thờ cúng tại các ngôi chùa và điện Mẫu. Các lễ hội đình, đền, chùa hằng năm tại các vùng miền đất Việt đều là sự cúng giỗ các vị Tổ Tiên Bách Việt và nhân Thần nước Việt. Không có lễ hội cổ truyền nào du nhập từ phương Bắc như ta nhầm tưởng. Kinh Dương Vương sinh được năm người con trai, trong đó một người chẳng may lâm bệnh mất sớm. Bốn người còn lại được vua giao trông nom từng phần việc giúp dân mở các nghề mới. Người con thứ tư là Nguyễn Lãm được kế ngôi gọi là Lạc Long Quân- Hùng Hiển Vương. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ là cháu nội Đế Nghi (Nguyễn Nghi Nhân), con gái Đế Lai (con của Đế Nghi) khi Âu Cơ cùng vua cha về thăm quê Phong Châu. Lạc Long Quân và Âu Cơ đều là chắt nội của cụ Đế Thừa (cùng một bọc sinh ra) cùng huyết thống. Từ Kinh Dương Vương đến Lạc Long Quân (Hùng Hiển Vương) lập Nhà nước Văn Lang. Từ Lạc Long Quân chia ra trăm họ, lấy họ Nguyễn là Trưởng tộc Việt. Rồi sinh sôi, bền vững đến một trăm vua Hùng, kéo dài 2.662 năm đều đóng đô ở Phong Châu. Trong đó mười tám đời thống nhất được Bách Việt. Danh sách 100 vua Hùng, 18 đời thống nhất và Bách Việt đều được ghi trong Bách Việt Triệu Tổ Cổ Lục. Truyền thuyết Lạc Long Quân- Âu Cơ một bọc trăm trứng có nguồn gốc sinh thành từ tế bào nhân chủng học họ Nguyễn. Đó là máu huyết thật, không phải huyền thoại do tưởng tượng nghệ thuật, để gắn kết tình đoàn kết các dân tộc Bách Việt. Dân tộc ta, Tổ Tiên ta đi từ máu huyết đến huyền thoại thật thiêng liêng. Đó là hiện tượng Độc nhất vô nhị của loài người. Bởi Tổ Tiên ta phải tránh sự hủy diệt của kẻ thù nội, ngoại xâm, nên ẩn giấu vào Đất, Nước, hồn Người, thành Hồn Thiêng Sông Núi chiến thắng mọi kẻ thù. Kẻ thù truyền kiếp muốn người Việt bơ vơ, không Tổ Tiên, Cha Mẹ, không văn hóa cội nguồn để thôn tính, đồng hóa, cướp Đất Nước, diệt giống nòi. Nhưng họ đã lầm. Tổ Tiên Bách Việt sống dậy cuồn cuộn sóng Đất- Trời- Người. Không kẻ thù nào khuất phục nổi. Đi tìm những di tích thiêng liêng của Tổ Tiên Thư tịch về Tổ Tiên Việt, soi sáng cho chúng ta đi tìm những di tích, dấu tích thiêng liêng của Tổ Tiên hiện hữu trên chính Đất- Nước- Người Việt, tồn tại muôn đời. Việc thờ cúng các vị Thủy tổ Cửu tộc trong đó hai vị đứng đầu là Đế Thiên, Đế Thích và Địa Mẫu. Các vị Đế Viêm, Thần Nông, các vị vua và các bà vợ có công ở thời Bách Việt và các vua Hùng “sinh thành nên trăm họ” đã thành mỹ tục xa xưa truyền các thế hệ đến nay. Thành nếp sống, nếp nghĩ, phong tục tập quán, tín ngưỡng không gì xóa nổi. Cho dù kẻ thù truyền kiếp không ngừng tìm mọi cách xóa, đánh tráo, đốt, hủy diệt, ngăn cấm, đồng hóa, thay màu, đổi sắc, trấn yểm, bạo lực, vây bủa, nắm tóc… Vua Quang Trung “Đánh cho để dài tóc”. Hệ thống tượng các ngôi chùa cổ Việt, điện Mẫu tại các làng quê tận sơn cùng, thủy tận (đậm nét nhất là ở trung du, đồng bằng Bắc bộ, Bắc trung bộ, sang cả các vùng phía Nam sông Dương Tử, nay là Trung Quốc, địa bàn cư trú của người Việt thời Bách Việt) đều thờ cúng Tổ Tiên Bách Việt. Thể hiện bằng những pho tượng Tổ Tiên được nâng lên thành Mẫu, Ngọc Hoàng Thượng đế, Tiên, Phật, Thánh, Thần. Các ngày sinh, ngày hóa của các vị Tổ Tiên có công được toàn dân đời đời kiếp kiếp tôn thờ, biến thành các lễ hội, cúng lễ quanh năm. Việc trông nom phần mộ các vị Tổ Tiên Bách Việt có công, được các vị tộc trưởng họ Nguyễn ở Đại Lôi (tổng Sốm) truyền đời con cháu, như truyền tế bào máu của mình cho mãi mãi về sau. Đến thời Đinh năm 968 được Nhà nước Đinh Bộ Lĩnh chính thức công nhận, cấp ruộng trồng lúa lấy tiền thờ cúng, mở lễ hội, chăm phần mộ và phong Quốc công cho vị tộc trưởng Nguyễn Đức. Sự kiện này công khai tồn tại cùng các triều đại suốt nghìn năm đến 1907. Thế kỷ XX- XXI giao cho gia đình cụ Nguyễn Vân Tằng thuộc Vân Nội- Thanh Oai (tổng Sốm). Cụ Tằng giữ mả Tổ Tiên và đền thờ, di chỉ, di tích, thư tịch, phả cổ, đến hơi thở cuối cùng. Suốt mấy chục năm cuối đời, cụ Tằng đã cùng Nhóm sưu tập khảo cứu Những khám phá mới, nhận thức mới về Nguồn gốc dân tộc Việt và nền Văn Minh Việt cổ (Sách tư liệu gần 2000 trang) công bố thư tịch, phả cổ, bảo tồn những ngôi mộ Tổ Bách Việt. Các nhà nghiên cứu tiền sử trong nhóm tiên phong: Đỗ Tòng, Tạ Việt Dũng, Đỗ Văn Bình, Đỗ Quang Hòa, Nguyễn Vân Tằng, Nguyễn Mạnh Can đã sử dụng những thành tựu khoa học hiện đại, phương pháp nghiên cứu đa ngành, đi khảo sát, ghi chép, xác định những địa danh, di tích, chứng tích của Tổ Tiên xa xưa qua (đình, đền, chùa, miếu, lăng mộ, thành quách cổ, khảo cổ…) bằng bản đồ, phim ảnh, ghi lời kể của các cụ, các vị hậu duệ trực tiếp phụng thờ, đo năng lượng sinh học, sưu tầm những nghiên cứu của các tác giả trong, ngoài nước… trong hàng chục năm tự bỏ công sức, tiền của đểĐi Tìm Tổ Tiên Việt. Nay Tổ Tiên Bách Việt đã tỏa hào quang rạng rỡ dẫn dắt cháu con tiếp tục Đi Tìm Tổ Tiên Việt. Phần mộ cụ Đế Hòa (Hòa Hy) (cả cụ bà) ở chùa Cực Lạc cách chùa Tây Phương mấy trăm mét thuộc thôn Yên Lạc huyện Thạch Thất- Hà Nội ngày nay. Di vật trong chùa Cực Lạc có tượng người đàn bà choàng áo tơi bằng đồng. Chùa Cực Lạc đã bị hỏng, mới dựng lại. Điện thờ Thần Nông ở phía Nam chùa Cực Lạc. Ban thờ đình Vân Lôi, xã Bình Yên- Thạch Thất có bốn chữ “Lịch đại Đế Vương” thờ Chủ trưởng người Việt đầu tiên. Trước sân chùa có giếng đá ong cổ đại. Dòng họ Hòa Hy là nhừng người Việt cổ đầu tiên đến đây. Khu đền đã bị giặc Pháp phá hủy, nay phục dựng lại. Khu điện thờ Đế Viêm và các Anh Linh của Viêm Bang trong khu động Hoàng Xá ở Quốc Oai- Hà Nội ngày nay. Tượng Đế Viêm ở chùa Vàng- Quốc Oai. Khu di tích vua Thần Nông ở Chương Mỹ- Hà Nội ngày nay. Mộ Thần Nông ở cánh đồng trước chùa Trầm- Chương Mỹ. Cụm di tích chùa Trầm có tượng thờ Thần Nông. Các khu mộ và đền miếu thờ Đức Thánh Cả, Đức Thánh Hai ( Đế Thừa- Sở Minh Công) và gia quyến tại vùng di tích ở Quang Lãm, Phú Lâm- Thanh Oai- Hà Nội ngày nay. Chùa Liên Hoa- Hồ Tây có tượng thờ ba vị liệt tổNguyễn Minh Khiết (Đế Minh), Nguyễn Nghi Nhân (Đế Nghi), Nguyễn Long Cảnh (gọi là Tam phủ công đồng). Khu di tích mộ và chùa thờ Đế Minh và Đế Nghi ở Định Công- Hà Nội. Mộ miếu thờ Thần Long Đỗ ở số 3- Ngõ Gạch- Hoàn Kiếm- Hà Nội. Khu gò Thiềm Thừ, khu miếu mộ cụ Đỗ Quý Thị- Hương Vân Cái Bồ Tát tại chùa Văn La và khu Ba La- Hà Đông- Hà Nội ngày nay đã được tôn tạo bảo tồn. Điện thờ trong Động Tiên ở Lạc Thủy- Hòa Bình, nơi cụ Đỗ Thị Ngoan (Đỗ Quý Thị- Mẫu Hương Vân Cái Bồ Tát) tu hành. Tượng cụ Đỗ Quý Thị Hương Vân Cái Bồ Tát và Nguyễn Lộc Tục bé thơ (Kinh Dương Vương) tại chùa Văn La- Hà Đông. Cây bồ đề đại thụ hàng ngàn năm tuổi tại cổng chùa Văn La- Hà Đông. Bộ tượng Bát Bộ Kim Cương hoành tráng, mỗi người một loại vũ khí trấn giữ Đất Nước tại chùa Tây Phương. Đình Nghi Tàm, chùa Kim Liên ở Hồ Tây có bia và bài vị thờ Đế Minh (Nguyễn Minh Khiết, Đế Nghi (Nguyễn Nghi Nhân), Nguyễn Long Cảnh và Hương Vân Cái Bồ Tát, Kinh Dương Vương. Trong bộ ảnh do nhóm sưu tập nghiên cứu thời tiền sử chụp và đo năng lượng, chúng tôi luôn thấy bóng dáng cụ Nguyễn Vân Tằng, trưởng tộc họ Nguyễn thôn Vân Nội (tổng Sốm) vạch cỏ, rẽ cây thắp khói nhang trên các ngôi mộ Tổ Tiên hoang vắng, nhưng phát linh bề thế, cao rộng, vững chãi. Lời cụ Tằng “Ai tàn phá mộ Tổ Tiên đều bị chết”. Mộ Tổ Đức Thánh Tổ Nguyễn Lộc Tục- Kinh Dương Vương được kỹ sư Tạ Việt Dũng đo năng lượng bản chất “Thiên khí, Thái dương”. Đền thờ Kinh Dương Vương ở Thuận Thành- Bắc Ninh theo Thần phả ghi là “Lăng Đền”, không nói là “Lăng Mộ”. Khu mộ Mẫu Thượng Ngàn tại vùng Ba La- Hà Đông năm 2008 còn chụp ảnh được, um tùm cây cổ thụ, có dấu xây bệ thờ, nay vừa bị san phẳng xây dự án chồng lấp. Cụ Tằng chụp ảnh trước ngôi mộ Mẫu Thường Ngàn bị san lấp, ngẩn ngơ, đau đớn và kinh sợ thay cho những ai xóa mộ Tổ Tiên. Theo Nhóm nghiên cứu tiền sử, các vị Tiền Tổ Bách Việt là Tổ của Bách Việt chủ trì cả một cương vực rộng lớn Bách Việt từ phương Bắc xuống phương Nam. Một phần trong các cư dân Bách Việt đó đã bị chinh phục, đồng hóa. Còn một số bộ tộc thuộc dòng dõi Âu Việt, Lạc Việt ở phía Nam Bách Việt tồn tại kiên cưởng, bất khuất, lập nên Nhà nước Quốc hiệu Văn Lang do các thế hệ mang tên là Hùng Vương đương đầu. Thư tịch cũ ghi Kinh Dương Vương là Ốc Tổ Bách Việt là Thánh Tổ bắt đầu mười tám triều đại Hùng mà Hùng Hiển Vương (tức Sùng Lãm- Lạc Long Quân) đứng đầu. Hùng Hiển Vương và Âu Cơ với cái bọc “Một trăm trứng” sinh ra một trăm đời Hùng về sau. Phả cổ ghi: Mở đầu Nam Việt có Kinh Dương Thống nhất non sông mười tám vương Trên một trăm đời truyền ngôi báu Vạn năm hương hỏa, vạn năm thơm Làng cổ Bình Đà- Thanh Oai có Đình Nội thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân. Mộ Lạc Long Quân linh khí phát thiêng, hoành tráng nổi lên giữa một vùng đồng lúa gọi là Ba Gò (Gò Ba Đống) cách Đền Nội vài cây số, đang được UBND thành phố Hà Nội bảo tồn tôn tạo linh tích báu Quốc gia. Kỹ sư Tạ Việt Dũng đo năng lượng “Vận động sóng mạnh, Thiên khí, Thái Dương, vận khí nhân tài, khoa học, quân sự, trí tuệ, tâm hồn”. Tổ Mẫu Âu Cơ vợ Lạc Long Quân là người hiền đức, kế nghiệp mẹ chồng Hồng Đăng Ngàn (cùng ở Động Đình Hồ về Phong Châu) dạy dân nuôi tằm, dệt vải, chăm sóc các gia đình binh lính theo Lạc Long Quân đi dẹp giặc nội, ngoại xâm, nên dân gọi bà là Bà Chúa Lính. Bà mất ngày mồng 5 tháng 5 Âm lịch. Mỗi làng cúng một ngày kéo dài đến 20 tháng 5 gọi là Tiết (Tết) Đoan Ngọ. Mộ Tổ Mẫu Âu Cơ ở chùa Tường Quang Tự thôn Thượng Mạo- Động Lãm- Thanh Oai- Hà Nội ngày nay. Kỹ sư địa chất TạViệt Dũng đo năng lượng“Thái âm, Địa khí, sóng rất mạnh về giáo dục, khoa học”. Liệt Tổ Hùng Quốc Vương và các đời sau đến hết thời nhà Hùng ở vùng tổng Sốm- Thanh Oai còn nhiều dấu tích, đình, đền, miếu chùa, mộ, giếng nước cổ. Câu đối đình Do Lộ xã Yên Nghĩa- Thanh Oai- Hà Nội ghi, Viện Hán Nôm dịch: 1. 1. Đây là một trong 72 ngôi đền ở Trời Nam, lưu lại dấu thiêng của vua Hùng, nhiều đời phong tặng rạng rỡ điển chương. 2. 2. Đây là nơi phân ra ba nhánh sông Hát xưa, đất đẹp kỳ quan, rạng rỡ ngàn năm ghi dấu Hồng Lạc. Hùng Quốc Vương (Nguyễn Lãm) con trưởng Lạc Long Quân thay cha làm vua nước Văn Lang, dạy dân cày cấy, đánh cá, đúc đồng và truyền nối dòng họ Hùng Vương các đời sau. Với những chứng tích phát hiện và sưu tập, nhóm nghiên cứu tiền sử nhận định Trung tâm định đô của các thế hệ Hùng Vương là ở các vùng Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ (thời trước Kinh Dương Vương). Từ Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân đến triều cuối nhà Hùng Quốc hiệu Văn Lang phần lớn đều tập trung ở vùng đất Thanh Oai- Hà Nội ngày nay, sau đó lên Phú Thọ và các vùng khác. Vùng đất Thanh Oai là nơi Cao Biền quan tâm trấn yểm nhiều nhất để triệt hạ vùng Đại Long Mạch của nước ta. Thanh Oai, nơi mà dân ta coi là nơi tụ khí thiêng sông núi, nơi phát sinh những hiền tài của Đất Nước, nên Cao Biền đã trấn yểm và viết sách báo về vua Trung Quốc như sau: Thứ nhất Đất Thanh Oai: “Trong ấp Thanh Oai hình thế rất lạ/ Thủy vượng bốn phương, án phát tam quy/ Mạch kết bên hữu, khí dụng phía tả/ Thần đồng đứng trước, quỷ sứ nối sau/ Bảng vàng sớm chiếm, phúc lộc dồi dào/ Nên phòng mạch tận, không con nối dòng”. Thứ hai Đất Cao Xá: “Thanh Oai Cáo Xá, thật có quý địa/ Nước khe theo mạch về nơi đất bằng/ Hoa nở bên Bạch Hổ, sao hiện bên Thanh Long/ Sơn thủy dồi dào, khí thế sung mãn/ Cần gì hợp biểu, ngưu giác loan cung/ Chủ khách đều tốt, tả hữu một lòng/ Lòng hoa rộng mở, thế phát anh hùng/ Văn chiếm đầu bảng, võ chiếm nguyên nhung/ Sống lâu phú quý, lập nhiều kỳ công”. Càng Đi Tìm Tổ Tiên Việt chúng ta càng phát hiện những tri thức, tài năng lớn của Tổ Tiên Bách Việt đã khai mở và xây dựng nền Văn Minh Lúa Nước Sông Hồng đầu tiên của Nhân loại là huyết mạch nối tiếp các thế hệ người Việt hôm nay và mai sau để bảo tồn nòi giống, bảo vệ và giữ gìn Đất Nước Giống Nòi trường tồn. Mong Nhà nước Việt Nam kịp thời khoanh vùng, bảo tồn các dấu tích linh thiêng của Tổ Tiên ta đã và đang được phát hiện, trước tình hình xây dựng, khai phá núi sông, đồng đất như vũ bão hiện nay. Kẻ thù truyền kiếp mấy ngàn năm nay không hủy diệt nổi Đất Nước mà Tổ Tiên đổ máu xương trao lại cho chúng ta. Lẽ nào chính ta lại tàn hại Đất- Nước- Người cùng sinh ra từ huyết thống Mẹ Âu Cơ? Hồ Gươm Xuân 2014. MAI THỤC (Nguồn: http://hodovietnam.vn)
  7. Đảng Dân chủ "tẩy chay" Tổng thống Obama trước thềm bầu cử giữa kì Đức Huy | 28/10/2014 08:16 Theo Soha.vn Các ứng viên đảng Dân chủ đang đồng loạt "né" tổng thống Obama trong các chiến dịch tranh cử của mình Dựa trên những phân tích mới đây của trang tin RollCall (Mỹ), có thể thấy nếu như các chính trị gia đảng Dân chủ hồ hởi bao nhiêu vào cái ngày tổng thống Barack Obama lên nhậm chức thì nay, trước thềm cuộc bầu cử giữa nhiệm kì, họ lại trở nên "lạnh nhạt" với người lãnh đạo Nhà trắng bấy nhiêu. Xét một cách toàn diện, đảng Dân chủ đã có những bước đi "giật lùi" đáng kể trong nhiệm kì của vị Tổng thống da màu đầu tiên của nước Mỹ. Số liệu của RealClearPolitics cho thấy, tháng 11/2008, khi Obama chính thức đắc cử, đảng Dân chủ của ông chiếm 257 trên tổng số 400 ghế Hạ viện, 59/100 ghế Thượng viện, và 29/50 vị trí thống đốc bang. Đến thời điểm này, những con số đó chỉ còn lần lượt là 195; 48; và 21. Dù nắm trong tay ứng cử viên sáng giá cho ghế Tổng thống là bà Hillary Clinton, đảng Dân chủ lúc này đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về mặt hình ảnh. Theo kết quả một cuộc thăm dò dư luận gần đây của tờ Washington Post và ABC News, có đến 51% người dân khi được hỏi đã có cái nhìn tiêu cực về đảng Dân chủ. Tuy vẫn "khá khẩm" hơn so với con số 56% của đảng Cộng hòa, nhưng cuộc thăm dò này cho thấy uy tín của đảng Dân chủ đang ở mức thấp kỉ lục trong 30 năm qua. Sẽ là không công bằng nếu đổ hết trách nhiệm cho sự suy thoái của đảng Dân chủ lên đầu Obama, tuy nhiên phần lớn các thành viên của đảng này đang chĩa mũi dùi công kích vào vị tổng thống, đặc biệt là sau những phát biểu đáng thất vọng của Obama trong chiến dịch tranh cử ghế Thượng viện bang Iowa của ứng viên đảng Dân chủ Bruce Braley. "Sự yếu kém trong các hoạt động chính trị của Nhà Trắng từ chỗ gây phiền toái (annoying) nay đã thật sự trở thành một nỗi hổ thẹn (embarrassing)", báo National Journal trích lời cố vấn cấp cao của một thành viên đảng Dân chủ trong Thượng viện. Chuyên gia Nathan Gonzales, tổng biên tập trang phân tích chính trị Mỹ Politics In Stereo, nhận xét: "Sự mất uy tín của Tổng thống Obama đang tạo nên một hiệu ứng domino đối với các ứng viên đảng Dân chủ trên khắp nước Mỹ". Đây cũng là lý do khiến những người này tránh không mời Obama đến tham gia các chiến dịch vận động tranh cử của họ. Tổng thống Obama phát biểu tại Chicago hôm 19/10 Ảnh: AP Chỉ còn một tuần trước ngày bầu cử giữa nhiệm kì, tuy nhiên cho đến lúc này trong số các ứng viên đảng Dân chủ tranh ghế Thượng viện chỉ có duy nhất đại diện của bang Michigan, ông Gary Peters, là "dám" mời Obama đến phát biểu cho chiến dịch của mình. Đối với các cuộc tranh cử cho thống đốc bang, Obama chỉ được mời đến hỗ trợ tranh cử tại Wisconsin, Michigan, Maine, Rhode Island và Pennsylvania, những bang đã từng ủng hộ ông trong cuộc bầu cử Tổng thống 2 năm trước. Tránh sử dụng hình ảnh đã mất uy tín của Obama là một nước đi mang tính "ăn chắc mặc bền" của các ứng viên đảng Dân chủ. Tuy nhiên, theo cây bút chính trị dày dặn kinh nghiệm Jonathan Alter, đảng Dân chủ vẫn có thể tận dụng hình ảnh tổng thống theo những chiều hướng tích cực. "Tôi hoàn toàn thông cảm với việc các ứng viên đảng Dân chủ không muốn đi theo những chiến lược kinh tế không được đánh giá cao của Obama. Nhưng tôi không hiểu tại sao họ lại không tìm cách nhấn mạnh những mặt tốt khác của ông để nâng vị thế của đảng Dân chủ, ví dụ như thành công trong việc tạo công ăn việc làm" (tỉ lệ thất nghiệp giảm từ 10% vào năm 2009 đến nay chỉ còn 5,9% - PV), Alter viết trên tờ The Daily Beast. Cuộc bầu cử giữa nhiệm kì sẽ chính thức diễn ra trên toàn nước Mỹ vào ngày 4/11 tới.
  8. Tại sao Mỹ tập trận phòng xung đột với Trung Quốc? 13:57 17/10/2014 BizLIVE - Hoa Kỳ thích nói về việc đối thoại với Trung Quốc, nhưng rõ ràng lực lượng hải quân của Mỹ nay cũng đang thao dượt cho một cuộc xung đột có tiềm năng sẽ xảy ra, BBC nhận định. Tàu sân bay của Mỹ. Hoa Kỳ thích nói về việc đối thoại với Trung Quốc, nhưng rõ ràng lực lượng hải quân của Mỹ nay cũng đang thao dượt cho một cuộc xung đột có tiềm năng sẽ xảy ra, BBC nhận định. Theo tường thuật của phóng viên BBC, trên một chiếc hàng không mẫu hạm hạt nhân của Mỹ - USS George Washington có nhiều chiếc phi cơ 11 F/A-18 Super Hornet đang xếp hàng để cất cánh. Chiếc đầu tiên được móc vào máy phóng; có cảm giác cao trào trong tiếng gầm động cơ mở hết cỡ. Và sau đó trong đám mây hơi nước trắng, chiếc phản lực 15 tấn lao xuống sàn sân bay và phóng ra khỏi phần đuôi con tàu như một món đồ chơi vậy. Vài giây sau, toán thủ thủy trên boong trong quân phục nhiều màu của họ lại bình thản chuẩn bị cho chiếc phản lực kế tiếp. Quan sát Hải quân Mỹ tận mắt như thế này, khó có thể không cảm thấy đôi chút kinh ngạc, BBC bình luận. Không có lực lượng hải quân nào khác trên thế giới có những đồ chơi giống như vậy, hoặc có thể biểu diễn chúng ra với sức quyến rũ một cách dễ dàng như vậy. Bạn đọc đã quá quen thuộc với lời lẽ PR: Hải quân Mỹ "không luyện tập chuẩn bị cho cuộc chiến với bất kỳ quốc gia nào", nhưng BBC thì không nhìn nhận như vậy. "Hoa Kỳ đang tập luyện cho cuộc chiến với Trung Quốc", theo tường thuật của BBC. Tuy nhiên, Hải quân Mỹ cũng đã không tập hợp hai chiếc hàng không mẫu hạm với 200 chiếc phi cơ ngoài khơi bờ biển Guam chỉ để cho vui. Đây là về một cuộc tập dượt những gì mà Lầu Năm Góc nay gọi là "Chiến đấu trên không và trên biển". Đây là khái niệm được đưa ra lần đầu tiên vào năm 2009, và nó được thiết kế đặc biệt nhằm chống lại mối đe dọa gia tăng từ Trung Quốc. Trên USS George Washington, với Chuẩn Đô đốc Mark Montgomery, chỉ huy Carrier Strike Group Five (Lực lượng tấn công hàng không mẫu hạm nhóm 5) đang chứng kiến các lực lượng dưới sự chỉ huy của ông đang luyện tập những gì ông gọi là tình huống "chống xâm nhập, từ chối ra vào khu vực". Đô đốc Montgomery không thảo luận các chi tiết cụ thể của cuộc diễn tập. Tuy nhiên, các hàng không mẫu hạm và phi cơ của ông đang phải đối mặt với những đe dọa ngày càng phức tạp, từ mặt đất, trên biển, trên không, trên vũ trụ và trên mạng. "Người ta thường hiểu rằng một số quốc gia có khả năng loại bỏ vệ tinh hoặc hạn chế thông tin liên lạc vệ tinh," ông nói, "vì vậy chúng tôi phải thực tập hoạt động trong một môi trường thông tin liên lạc bị cản trở." Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc không thể sánh với Hải quân Hoa Kỳ, và trong một thời gian dài nữa cũng không thể đuổi kịp, BBC viết. Thay vào đó, Trung Quốc đã phát triển các loại vũ khí khác được thiết kế nhằm giữ các hàng không mẫu hạm của Mỹ ở xa bờ biển của Trung Quốc. Các loại vũ khí này bao gồm các tàu ngầm mới ít tiếng ồn hơn, tên lửa chống tàu siêu thanh tầm xa và, có lẽ đáng lo ngại nhất, là tên lửa đạn đạo tầm trung rất chính xác được mệnh danh là "sát thủ hàng không mẫu hạm". Đúng theo kế hoạch, chuông báo động bắt đầu đổ hồi. Một giọng nói vang lên trên hệ thống phóng thanh: "Đây là một cuộc tập dượt, đây là một cuộc tập dượt! Khói đen, khói đen!" Hàng không mẫu hạm George Washington đang bị tấn công. Một phần của con tàu được giả là bị cháy. Các toán nhân viên vội đổ tới nhằm hạn chế thiệt hại, BBC tường thuật. Trong 10 năm qua, quan trọng khẩu hiệu chính trị quan trọng nhất, và thường được lặp đi lặp lại, của Trung Quốc là "sự trỗi dậy hòa bình". Nó được đề ra để trấn an các nước láng giềng của Bắc Kinh trước sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc không phải là một mối đe dọa. Nhưng kể từ khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình lên nắm quyền vào năm ngoái, đã có thay đổi rõ rệt. Trung Quốc hiện đang đưa ra các tuyên bố chủ quyền vượt rất xa ra ngoài bờ biển của mình. Tàu của họ đang tích cực tuần tra Senkaku, hay Điếu Ngư, ở Biển Hoa Đông, vốn từ lâu nằm dưới sự kiểm soát của Nhật Bản. Trung Quốc đang chi hàng tỷ xây dựng các hòn đảo mới ở Biển Đông. Về tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc trên biển có quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Quần đảo bao gồm năm hòn đảo không có người ở và ba rặng san hô Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan tuyên bố chủ quyền; Quần đảo nằm dưới sự kiểm soát của Nhật Bản và là một phần của quận Okinawa. Quần đảo này cũng là trọng tâm của cuộc tranh cãi ngoại giao lớn giữa Nhật Bản và Trung Quốc năm 2010. Những hòn đảo không có người ở đã làm xấu đi mối quan hệ Trung Quốc-Nhật Bản. Hồi tháng Tám, một phi cơ chiến đấu Trung Quốc đã chạm trán với một chiếc máy bay do thám của Mỹ trong không phận quốc tế trên Biển Đông, và đã liên tục bay sát ngang qua nó và, theo Hải quân Mỹ, đã bay gần chỉ cách chiếc phi cơ Mỹ 6 mét. Theo Chuẩn Đô đốc Montgomery, tất cả điều này khiến vai trò của Hải quân Mỹ trong khu vực trở nên quan trọng hơn. "Hải quân Mỹ là một trong những lực lượng có đóng góp lớn nhất đối với an ninh và ổn định của khu vực châu Á Thái Bình Dương", ông nói. "Chúng tôi đã làm điều này gần 70 năm qua". "Tôi cho rằng Hải quân Hoa Kỳ đóng vai trò tốt cho dù đó là biển Hoa Đông, hay biển Philippines, trong việc ổn định tình hình, trấn an các đối tác và ngăn cản đối thủ có hành động không minh bạch hoặc bất hợp pháp." Không nghi ngờ gì rằng giới lãnh đạo Trung Quốc không đồng ý với điều đó. Mục tiêu lâu dài của Bắc Kinh là thống trị các vùng hải phận gần bờ biển của họ. Nếu Hải quân Mỹ tìm cách ngăn chặn họ thì điều đó liệu có khiến dễ xảy ra xung đột hơn hay không? Nhưng từ Tokyo đến Đài Bắc đến Manila, có những chính phủ đang rất vui mừng khi thấy các nhóm hàng không mẫu hạm lớn của Mỹ đang hoạt động tại những vùng biển này. ============= Để mần nhau chứ để làm gì nữa... :rolleyes:
  9. Quân đội Trung Quốc xâm nhập lãnh thổ tranh chấp với Ấn Độ (NLĐO) – Quân đội Trung Quốc xuất hiện dày đặc trong những ngày gần đây với biểu ngữ “Đây là lãnh thổ Trung Quốc, hãy rút đi” ở vùng lãnh thổ tranh chấp với Ấn Độ. Quân đội Trung Quốc từng nhiều lần giăng biểu ngữ ở vùng tranh chấp với Ấn Độ. Ảnh: PTI Tình trạng tăng quân, cho quân đi sâu vào vùng tranh chấp tương tự đợt căng thẳng 3 tuần hồi năm ngoái. Theo nguồn tin chính thức từ Press Trust of India, từ hôm 17-8, quân đội Ấn Độ đã phát hiện lực lượng Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) di chuyển đến căn cứ của họ ở khu vực Burtse thuộc núi phía Bắc Ấn Độ Ladakh. Được biết, các binh sĩ Trung Quốc đã hai lần vượt qua biên giới vào một khu vực hẻo lánh ở phía Tây dãy Himalayas. Theo nguồn tin này, quân đội Trung Quốc xâm phạm sâu vào lãnh thổ Ấn Độ tới 20-30 km, đi thành đoàn giăng biểu ngữ: “Đây là lãnh thổ Trung Quốc, hãy rút đi”. Sau khi chứng kiến vụ việc trên, đội phản ứng nhanh và đội tuần tra của Ấn Độ đã yêu cầu quân đội Trung Quốc rút khỏi lãnh thổ của mình nhưng lực lượng này kiên quyết không thực hiện. Cuối cùng, quân đội Ấn Độ đã trở về doanh trại và báo cáo lại cấp trên vụ việc này. Đến ngày 18-8, quân đội Ấn Độ trở lại chỗ cũ và vẫn thấy quân đội Trung Quốc hiện diện ở đó. Tuy nhiên, người phát ngôn quân đội Ấn Độ - Đại tá Goswami - phủ nhận vụ việc trên và chuyện quân đội hai nước vượt viên giới như vậy ít khi xảy ra. “Đó là những khu vực dọc biên giới, nơi Ấn Độ và Trung Quốc nhận thức về đường kiểm soát thực tế khác nhau. Vì vậy, cả hai bên cùng tiến hành tuần tra theo quan điểm từng bên nhằm chống sự xâm chiếm, vi phạm. Tuy nhiên, chuyện Trung Quốc xâm chiếm hoặc lấn chiếm lãnh thổ Ấn Độ là không có”. Trong khi đó, một số nguồn tin chính thức đã xác nhận về các vụ xâm nhập này và cho rằng đây là “cuộc chạm trán trong hòa bình”.
  10. ======== Nay mừng tứ hải đồng xuân Tam dương khai thái, muôn dân hòa bình!!!
  11. Thăm 'hậu duệ" người Việt giàu có và phồn vinh tại Indonesia 07:00 | 17/07/2014 Depplus.vn - Khu vực đảo Sumatra thuộc Indonesia là nơi sinh sống của tộc người Minangkabau. Họ có gốc gác và nhiều tập quán sinh hoạt rất giống với người Việt. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Indonesia đã cùng cho rằng tộc người Minangkabau sinh sóng tại Tây Sumatra, Indonesia có nguồn gốc từ Việt Nam. Theo giả thuyết nhà nghiên cứu độc lập Trương Thái Du đưa ra, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, vào cuối năm 43 một bộ phận người Việt đã lên thuyền ra khơi và dạt vào Eo biển Malacca nhờ gió mùa Đông Bắc. Tiếp đó, họ định cư tại khu vực phía Tây đảo Sumatra và trở thành dân tộc Minangkabau ngày nay. Người Minangkabau vẫn giữ văn hóa mẫu hệ trong truyền thống gia đình, dòng tộc. Người phụ nữ trong gia đình mang trọng trách cao và có quyền quyết định mọi việc lớn. Mọi tài sản cũng như đất đai đều thuộc quyền phụ nữ. Ngày nay có hơn 4 triệu người Minangkabau sinh sống tại tỉnh Tây Sumatra, trong khi có hơn 3 triệu người khác sinh sống rải rác tại nhiều thành thị của Indonesia và bán đảo Mã Lai. Nam giới Minangkabau nổi tiếng là những nhà kinh doanh giỏi do phải đi lập nghiệp xa và giao nhà cửa cho người phụ nữ quản lý. Những hình ảnh đẹp về tộc người Việt cổ sinh sống tại Indonesia. Đám cưới của người Minangkabau được trang trí độc đáo. Đặc biệt cũng mở "đầu câu chuyện" bằng miếng trầu như nghi lễ truyền thống Việt Nam. Trong tiếng Indonesi, Minang nghĩa là chiến thắng, kabau là trâu. Tên gọi của tộc người bắt nguồn từ một chiến thắng trong quá khứ. Vì vậy, con trâu là hiện thân quan trọng trong nhiều nét văn hóa của người Minakabau. Trẻ em Minangkabau trong lễ aquika mừng ngày sinh nhật. Họ được mặc những bộ trang phục rực rỡ, màu đỏ và vàng trên chiếc cũ cầu kì tượng trưng cho tinh thần và sự dũng cảm của người Minangkabu. Đây cũng là cộng đồng theo chế độ mẫu hệ lớn nhất thế giới.Mọi tài sản lớn đều thuộc quyền thừa kế của phụ nữ. Kết cấu nhà truyền thống của người Minangkabau có mái cong vút như mái chùa cổ Việt Nam, cũng tương tự cặp sừng trâu, có đường nét giống với nhà sàn hình thuyền trên trống đồng Đông Sơn, được gọi là Rumah Gadang. Một ngôi nhà Rumah Gadang bề thế. Một nét độc đáo khác thể hiện giá trị văn hóa đặc sắc trong xây dựng là những chi tiết trang trí được thể hiện tinh xảo bằng lối chạm khắc, phối màu sặc sỡ phủ kín quanh nhà từ chân cột lên đến nóc mái. Nhà của trưởng làng – một phụ nữ – thường là ngôi nhà lớn nhất, điêu khắc đẹp nhất. Gia đình nào càng có nhiều con gái càng chứng tỏ sự giàu có trong tương lai. Người Minangkabau ngày nay theo đạo Hồi, nhưng tín ngưỡng nguyên bản của họ là thuyết vật linh (thờ linh vật, tin rằng vạn vật có linh hồn). Theo nhiều nhà nghiên cứu, thuyết vật linh là tín ngưỡng đầu tiên của dân tộc Việt, trước khi các đạo Nho, đạo Lão và đạo Phật du nhập. Cô gái Minangkabau trong điệu múa đĩa nến Piriang truyền thống. Người Minangkabau có truyền thống sinh hoạt văn hóa mang nghi thức cộng đồng tại ngôi nhà Rumah Gadang. Chúng được truyền lại, nối tiếp hết đời nọ sang đời kia giữa những người phụ nữ trong gia đình (bà, mẹ, con gái). Đàn ông Minangkabau giữ nhiệm vụ duy trì văn hóa truyền thống cũng như đi xa làm ăn. Nhiều người đàn ông Minangkabau nổi tiếng và có ảnh hưởng trên thế giới, bởi nhiệm vụ của họ là đi xa làm ăn, trao quyền quản lý gia đình cho phụ nữ. Trang phục truyền thống của người Minangkabau. Trình diễn điệu múa truyền thống trên sân khấu mô phỏng kiến trúc nhà mái cong. H (Depplus.vn/MASK)
  12. "Tập Cận Bình muốn tạo dựng uy tín, phải tử hình Từ Tài Hậu" HỒNG THỦY 01/07/14 08:19 (GDVN) - "Từ Tài Hậu là con hổ lớn nhất trong quân đội. Nếu Tập Cận Bình muốn thiết lập uy tín của mình trong quân đội, ông phải tử hình Từ Tài Hậu". Trung Quốc khai trừ một nguyên Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc chuẩn bị dư luận cho đại án tham nhũng Từ Tài Hậu "Hổ lớn" Từ Tài Hậu sắp được giao cho tòa án binh xét xử Bạc Hy Lai và Từ Tài Hậu khi còn đương chức. Bộ Chính trị đảng Cộng sản Trung Quốc vừa quyết định khai trừ đảng tịch đối với Từ Tài Hậu, cựu Phó Chủ tịch quân ủy Trung ương được đưa ra ngay trước dịp kỷ niệm 93 năm ngày thành lập đảng này, Bưu điện Hoa Nam ngày 1/7 cho biết. Từ Tài Hậu là quan chức quân sự cấp cao nhất Trung Quốc phải đối mặt với tòa án binh vì tham nhũng. Ông có thể bị kết án tử hình nếu bị kết tội. Từ Tài Hậu 71 tuổi, người vừa nghỉ hưu từ cuối năm 2012. Tân Hoa Xã đưa tin, trường hợp của ông Hậu là nghiêm trọng và gây ra tác động xấu rất lớn. Bộ Chính trị đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố, bất cứ ai, dù quyền hạn và chức vụ cao tới đâu cũng sẽ phải chịu hình phạt nghiêm khắc nếu vi phạm kỷ luật đảng này và pháp luật Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ không bao giờ thỏa hiệp và không bao giờ thương xót đối với tham nhũng. "Quân đội không phải nơi ẩn náu cho những kẻ tham nhũng", Tân Hoa Xã dẫn tuyên bố của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố. Thông tin về vụ điều tra Từ Tài Hậu xuất hiện hôm 15/3 cho biết, Từ Tài Hậu đã nhận hối lộ trực tiếp và thông qua các thành viên khác trong gia đình để lo chạy quân hàm và chức vụ cho chỉ huy các đơn vị quân đội Trung Quốc. Hàng chục nhân viên cảnh sát vũ trang đã áp giải Từ Tài Hậu khỏi giường bệnh tại viện Quân y 301 Bắc Kinh trong khi một nguồn tin nói với Bưu điện Hoa Nam, cuộc điều tra Từ Tài Hậu đã kéo dài trong khoảng 1 năm. Một số quan chức về hưu thậm chí đã yêu cầu Tập Cận Bình thúc đẩy hình phạt tử hình đối với Từ Tài Hậu. 1 Đại tá Trung Quốc về hưu xin giấu tên nói với Bưu điện Hoa Nam: "Từ Tài Hậu là con hổ lớn nhất trong quân đội. Nếu Tập Cận Bình muốn thiết lập uy tín của mình trong quân đội, ông phải tử hình Từ Tài Hậu". Cựu Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương này được xem như 1 đồng minh của Chu Vĩnh Khang và đã từng ủng hộ Bạc Hy Lai, người đang thụ án chung thân vì tội tham nhũng. Thông báo của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Trung Quốc không nhắc tới hình thức xử lý Từ Tài Hậu và cũng không chỉ ra việc có sớm hoàn thành điều tra Chu Vĩnh Khang hay không. Trương Lập Phàm, một nhà bình luận chính trị từ bắc Kinh cho biết: "Với những tay chân thân cận của Chu Vĩnh Khang lần lượt bị bắt, chiến dịch chống tham nhũng tiếp tục hướng tới con hổ lớn này. Quyết định điều tra khởi tố Chu Vĩnh Khang có thể được công bố tại 1 hội nghị trung ương của đảng Cộng sản Trung Quốc năm nay". Joseph Cheng Yu-shek, một giáo sư khoa chính tị đại học Thành phố Hồng Kông cho biết, Tập Cận Bình muốn sử dụng vụ Từ Tài Hậu để chứng minh cam kết ông chống tham nhũng.
  13. Thiên tai năm nay chủ yếu tập trung vào thủy tai, như: mưa bão, lụt lội, sóng thần.. ========== Lũ lụt nghiêm trọng tại Brazil, 50.000 dân phải sơ tán khẩn cấp (TTXVN/VIETNAM+) LÚC : 30/06/14 10:33 Một cây cầu bị phá hủy trong trận ngập lụt ở Iguacu Falls, tỉnh Foz do Iguacu, Brazil ngày 12/6. (Nguồn: AFP/TTXVN) Mưa lớn liên tiếp trong một tuần qua tại một số bang ở miền Nam Brazil đã dẫn đến tình trạng lũ lụt nghiêm trọng khiến giới chức địa phương phải thực hiện kế hoạch sơ tán khẩn cấp 50.000 dân, tăng gấp 10 lần so với kế hoạch trước đó.Cơ quan tình trạng khẩn cấp của bang Santa Catarina cho biết khoảng 40.000 người đã buộc phải rời bỏ nhà cửa, trong khi bang lân cận Rio Grande do Sul cũng phải sơ tán gần 11.000 người do tình trạng ngập lụt nghiêm trọng, nước lũ dâng cao đến mái nhà, gây nguy hiểm cho người dân. Lũ lụt đã ảnh hưởng đến 37 thị trấn tại bang Santa Catarina và 59 thị trấn tại bang Rio Grande do Sul. Chỉ riêng từ thứ hai đến thứ sáu tuần trước lượng mưa tại bang Rio Grande do Sul đã gấp đôi lượng mưa trung bình của tháng Sáu. Các bang miền Nam của Parana cũng bị ảnh hưởng nặng nề của mưa lớn trong tháng này, khiến 11 người thiệt mạng và hơn 70.000 người khác phải sơ tán. Những trận mưa to dẫn đến lũ quét tại Brazil diễn ra đúng vào thời điểm quốc gia Nam Mỹ này đang là chủ nhà của Word Cup 2014. Porto Alegre - thủ phủ của bang Rio Grande do Sun - là nơi diễn ra trận đấu giữa hai đội tuyển Đức và Algeria vào ngày 30/6, song khu vực này không bị ảnh hưởng của những trận lụt gần đây./.
  14. ====== TG cũng mới đi ngao du Hong Kong về, tay hướng dẫn viên du lịch phát biểu: Không chơi với Tập Cận Bình - vì nó ăn hiếp Việt Nam, nghĩ đi nghĩ lại cũng thấy hay, hì .
  15. ========Hồi sáng buồn buồn con lên một quẻ Lạc Việt xem giữa 2 anh có giải quyết bằng sức mạnh hay không? Đỗ - Đại An: thế là có mần thật ạ Sư phụ? Mong sao thế giới chung câu đại đồng.
  16. Nhật thúc đẩy khả năng xuất quân bảo vệ đồng minh 13/06/2014 08:12 (GMT + 7) Tuổi trẻ - Thủ tướng Nhật Shinzo Abe quyết tâm sớm rũ bỏ các hạn chế trong Hiến pháp để Lực lượng phòng vệ Nhật (SDF) có thể bảo vệ các đồng minh nước ngoài nếu chiến tranh xảy ra. Theo báo Asahi, mới đây ông Abe tuyên bố muốn Chính phủ phê chuẩn “cách hiểu mới” về Hiến pháp hòa bình Nhật trước khi Quốc hội kết thúc kỳ họp hiện tại vào ngày 22-6. Sự thay đổi này sẽ cho phép Nhật thực thi quyền “phòng vệ tập thể”. Điều đó có nghĩa là SDF được phép tham chiến nếu các đồng minh của Nhật, chẳng hạn như Mỹ, bị tấn công. Đề xuất của Thủ tướng Abe hiện vấp phải phản ứng của Đảng Komeito Mới trong liên minh cầm quyền. Tuy nhiên báo Wall Street Journal dẫn lời một số nhà quan sát nhận định với tỉ lệ ủng hộ cao của dư luận dành cho ông Abe và vị thế mạnh mẽ của Đảng Dân chủ tự do (LDP) cầm quyền trong Quốc hội, Chính phủ Nhật có thể sẽ phê chuẩn kế hoạch này trong tuần tới. Sáu điều kiện cần thiết Điều 9 trong Hiến pháp Nhật không công nhận chiến tranh là phương tiện để giải quyết các xung đột quốc tế có liên quan đến nước này. Đã từ lâu, điều 9 được hiểu là quy định cấm Nhật sử dụng lực lượng vũ trang để hỗ trợ một quốc gia đồng minh bị tấn công. Tuy nhiên hồi tháng 5, một ủy ban tư vấn của Chính phủ công bố báo cáo nghiên cứu khẳng định cách hiểu này không giúp duy trì hòa bình và ổn định tại Nhật, trong khu vực và trên thế giới, “do các tình huống chiến lược liên tục thay đổi”. Ủy ban tư vấn cho rằng Tokyo cần hỗ trợ nước đồng minh bị tấn công “nếu cuộc tấn công đó dẫn tới một cuộc tấn công trực tiếp vào Nhật, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quan hệ đồng minh Mỹ - Nhật, tới trật tự quốc tế, hủy hoại cuộc sống và quyền lợi của người dân Nhật”. Thủ tướng Abe cũng đánh giá quyền phòng vệ tập thể là cần thiết để đảm bảo sự an ninh, thịnh vượng của Nhật và hòa bình khu vực. Theo đề xuất của Thủ tướng Abe, việc Nhật thực thi quyền phòng vệ tập thể phụ thuộc vào sáu điều kiện. Thứ nhất, một quốc gia đồng minh thân cận của Nhật bị tấn công. Thứ hai, Nhật sẽ đối mặt với nguy cơ an ninh nghiêm trọng nếu không sử dụng vũ lực. Thứ ba, một quốc gia thứ ba bị tấn công đề nghị sự hỗ trợ quân sự của Nhật. Thứ tư, thủ tướng quyết định dùng vũ lực. Thứ năm, Quốc hội phê chuẩn quyết định của thủ tướng. Thứ sáu, một quốc gia thứ ba cho phép Nhật đưa quân vào lãnh thổ nước này để giải quyết xung đột. Một số nhà phân tích cho rằng ông Abe muốn sớm thúc đẩy quyền phòng vệ tập thể vì đang có dư vốn chính trị sau khi giành được sự ủng hộ mạnh mẽ của công chúng nhờ các chính sách thúc đẩy tăng trưởng. Trước đó ông cũng từng tuyên bố muốn cải tổ các quy định hướng dẫn hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và Nhật vào cuối năm nay. Việc sớm đảm bảo quyền phòng vệ tập thể sẽ cho phép Tokyo có thêm thời gian để đàm phán với Washington. Nguy cơ từ Trung Quốc Trước Quốc hội Nhật, ông Abe khẳng định tình hình an ninh đang ngày càng trở nên bất ổn và nghiêm trọng tại châu Á - Thái Bình Dương, buộc Tokyo phải thực thi quyền phòng vệ tập thể. Hai mối đe dọa lớn nhất chính là tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc tại biển Đông và biển Hoa Đông cùng chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Xã luận của báo The Economist bình luận sau Thế chiến II, Nhật đã trở thành “công dân gương mẫu” của thế giới, có nhiều đóng góp to lớn cho hòa bình và thịnh vượng châu Á. Hiến pháp hòa bình của Nhật có công lớn đối với thành tựu đó. Tuy nhiên, cách hiểu cũ đối với điều 9 Hiến pháp Nhật đã trở nên lỗi thời khi bất ổn và căng thẳng đang leo thang tại khu vực, đặc biệt là việc Trung Quốc tăng cường vũ trang dữ dội và liên tục gây hấn trên biển Đông. Bằng chứng mới nhất là việc Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines và đưa giàn khoan 981 cùng tàu chiến tới vùng thềm lục địa và EEZ của Việt Nam. Trong thời gian qua, chính quyền Trung Quốc chỉ trích kế hoạch phòng vệ tập thể của ông Abe là “đưa Nhật trở lại với chế độ quân phiệt”. Nhưng The Economist nhấn mạnh chính truyền thông Trung Quốc đang hô hào dùng vũ lực đối phó với Mỹ và các nước láng giềng. Chính phủ Bắc Kinh còn điều tàu chiến tới biển Đông và tàu tuần tra đến biển Hoa Đông. Hành động của Trung Quốc cũng đang trực tiếp đe dọa Nhật. Trong nhiều tháng qua, Bắc Kinh liên tiếp điều tàu tuần tra tới vùng biển quần đảo Senkaku/Điếu Ngư do Tokyo kiểm soát. Theo báo Japan Times, hôm qua Bộ Ngoại giao Nhật đã triệu tập đại sứ Trung Quốc tại Tokyo để phản đối vụ Bắc Kinh điều hai máy bay chiến đấu Su-27 áp sát máy bay tuần tra Nhật trên bầu trời biển Hoa Đông hôm 11-6. Vụ việc tương tự cũng xảy ra ngày 25-5. HIẾU TRUNG ============== Anh Tung cóc lần nầy rất chi nà mệt, không biết nếu trận hội đồng này xẩy ra cô em Russia có quan tâm không - nếu không quan tâm thì đối tác chiến lược gì gì đó, mà cụ thể hợp đồng 400 tỷ USD khí đốt sẽ trở thành giấy lộn rồi?. Đúng là: Ma đưa lối , Quỷ đưa đường ... thật.
  17. Luận bàn về “phát hiện lịch sử chấn động” của ông Lê Mạnh Thát Nguyễn Hòa 1. Cách đây 8 năm, dư luận đã một lần kinh ngạc khi thấy cuốn sách Huyền thoại hay sự thật cội nguồn cha Rồng mẹ Tiên của Võ Trọng Thái ra mắt tại NXB Văn hóa dân tộc. Dư luận kinh ngạc vì từ mấy nghiên cứu hết sức kỳ quái, Võ Trọng Thái đã đi tới một số kết luận hết sức kỳ quặc, như khẳng định kinh đô nước Xích Qủy là ở làng Vân Nội (xã Phú Lương, Thanh Oai, Hà Tây), xã Phú Lương cũng là nơi có lăng mộ các Vua Hùng; Hai Bà Trưng vốn thuộc dòng họ Lê Đĩnh (Thục Phán) nên Trưng Trắc tên thật là Lê Thị Hồng Hưng, Trưng Nhị tên thật là Lê Thị Hồng Hà (!)… Những tưởng cùng với thời gian, các sản phẩm “nghiên cứu” như của Võ Trọng Thái sẽ không còn đất dung thân trong sinh hoạt học thuật, vậy mà vừa qua, dư luận lại một lần nữa xôn xao về cuốn Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta của Lê Mạnh Thát - một cuốn sách mà tôi rất nghi ngờ về phẩm chất khoa học. Và điều đáng nói là, dù đã xuất bản từ năm 1972, gần đây là năm 2006, song Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta của Lê Mạnh Thát vẫn không một tiếng vang trong sinh hoạt khoa học, ấy rồi nó lại được chú ý sau khi bài Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động của Hoàng Hải Vân được đăng tải trên báo Thanh Niên. Theo tôi, việc cuốn sách của Lê Mạnh Thát không có tiếng vang trong sinh hoạt khoa học chỉ nên giải thích từ giá trị của nó, không nên cho rằng bạn đọc và giới nghiên cứu không có khả năng tiếp nhận hay lảng tránh “phát hiện” của ông. Hơn nữa, vấn đề còn là trước khi đồng tình hay bác bỏ, mỗi người cần tiếp nhận trực tiếp từ cuốn sách của Lê Mạnh Thát, chứ không chỉ tiếp nhận qua bài viết của Hoàng Hải Vân. Bởi dù thế nào thì “phát hiện” của Lê Mạnh Thát cũng đã đi qua “lăng kính” của Hoàng Hải Vân với tất cả niềm hứng khởi của tác giả này (?). Đáng tiếc là hầu như các ý kiến đã công bố để đánh giá “phát hiện” của Lê Mạnh Thát đều chủ yếu dựa trên bài viết của Hoàng Hải Vân và theo xét đoán của tôi, ngoài Trương Thái Du, có lẽ chưa có tác giả nào đã trực tiếp đọc Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta. Phải chăng vì thế, không tính đến một vài ý kiến ca ngợi, dù là ý kiến phản bác thì tác giả vẫn phải “gài” vào phát biểu của mình một số ngôn từ để thể hiện thái độ trân trọng (thận trọng?) và ý niệm “phát hiện” vẫn được trình bày như là muốn đảm bảo cho tinh thần khách quan. Bên cạnh đó, đọc các ý kiến, tôi nhận thấy hầu hết đều bị cuốn theo xu hướng tranh biện với những dẫn liệu sử học, văn học, Phật học do ông Lê Mạnh Thát đưa ra mà chưa chú ý tới một điều cực kỳ quan thiết là khi đánh giá một công trình nghiên cứu phải xem xét tiền đề khoa học của nó - tức là xem xét điểm xuất phát để từ đó tác giả tiến hành công trình. Nói cách khác, muốn khảo sát và đánh giá một công trình nghiên cứu, trước hết phải bắt đầu từ giả thuyết khoa học chứ không chỉ bắt đầu từ các kết luận mà nó đưa lại. Bởi, nếu giả thuyết chỉ là ý tưởng “giả khoa học” thì dẫn liệu dù phong phú đến đâu, tác giả dù thông thái, uyên thâm đến mức độ nào thì kết quả nghiên cứu của anh ta vẫn chỉ là một (các) hư cấu chủ quan, nếu không nói là vô nghĩa. Do không có trong tay bản in cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1) của Lê Mạnh Thát, tôi đành bằng lòng với việc đọc cuốn sách này qua bản điện tử của website quangduc.com (1). Đọc Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, đối chiếu với Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta rất dễ nhận ra Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta chỉ là “dị bản”, chính xác hơn chỉ là bản “thu nhỏ” những nội dung tương tự đã được trình bày trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Các ý tưởng, tài liệu Lê Mạnh Thát sử dụng trong Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc tađều có mặt trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Tình huống ấy làm cho tôi muốn đặt câu hỏi: Dù Lê Mạnh Thát đã cố gắng trình bày trong hai cuốn sách khác nhau về cùng một vấn đề nhưng vẫn không được chú ý, và Hoàng Hải Vân đã “có công lao” làm cho các ý tưởng của Lê Mạnh Thát trở thành tâm điểm của dư luận trong thời gian gần đây? Về phần mình, tuy đã đọc Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, song để bài viết này tập trung vào vấn đề muốn đề cập, nên tôi chỉ bàn tới Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta, bài báo của Hoàng Hải Vân cùng một hai ý kiến có liên quan. Hy vọng vào một ngày đẹp trời nào đó, tôi sẽ trở lại với Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát để phân tích kỹ hơn các lập luận ông đã trình bày. 2. Dựa trên các tiền đề sách vở do ông “phát hiện”, gồm: truyền thuyết trăm trứng liên quan tới Lạc Long Quân - Âu Cơ từng được ghi lại trong Lục độ tập kinh - một bộ kinh Phật; truyền thuyết về An Dương Vương chỉ là dị bản mô phỏng trận đánh giữa anh em Pandu và Duryodhana đã được kể lại trongMahabharata - một sử thi Ấn Độ, Lê Mạnh Thát đã triển khai suy luận và truy lùng văn bản vừa để chứng minh, vừa để đưa ra các kết luận đại loại như: văn bản Lục độ tập kinh mà Khương Tăng Hội sử dụng để dịch sang tiếng Hán vốn là bản tiếng Việt chứ không phải một bản tiếng Phạn; Triệu Đà chưa từng xâm lược Việt Nam nên thời đại của An Dương Vương chỉ là hư cấu lịch sử; triều đại Hùng Vương kéo dài tới năm 43 sau công nguyên, triều đại này rất phát triển, có chữ viết riêng, có luật pháp riêng, và sự nghiệp của Hai Bà Trưng là vương triều cuối cùng của triều đại Hùng Vương chứ không phải là một cuộc khởi nghĩa… Vậy là từ một hai chi tiết, Lê Mạnh Thát đã phóng đại chúng lên làm mẫu nghiên cứu theo kiểu “chọn giầy”, rồi chứng minh theo lối “gọt chân”, cái gì phù hợp với suy đoán thì ông OK, cái gì không phù hợp với suy đoán thì ông gạt phắt ra ngoài hoặc chụp cho cái mũ… “không đáng tin cậy”! Theo tôi, đây chính là điều cần phê phán nhất trong “nghiên cứu” của Lê Mạnh Thát, bởi từ một chi tiết có vai trò dẫn truyện trong Lục độ tập kinh, ông không chỉ suy đoán, mà còn dựa vào đó để đưa ra một loạt khẳng định với tâm thế rất tự tin. Thiển nghĩ, hoặc là Lê Mạnh Thát không nắm được các nguyên tắc của nghiên cứu khoa học, hoặc là ông có điều bất thường về tư duy, hoặc là mấy nghìn năm nay Phật giới Việt Nam và Trung Hoa đã “vô minh” đến mức tin tưởng, chấp nhận, rồi đề cao một tập kinh Phật mà trong đó “chứa đựng “một lượng bất bình thường” các tư tưởng, quan điểm và đạo lý mang sắc thái chính trị và lịch sử Việt Nam”(2). Theo xét đoán của ông Lê Mạnh Thát: “không phải Khương Tăng Hội đã viết Lục độ tập kinh, mà do Hội đã dịch nó theo một bản tiếng Việt” (3) và “Khương Tăng Hội, khi tiến hành phiên dịch Lục độ tập kinh tiếng Trung Quốc, đã chịu không những tác động của tiếng mẹ đẻ, mà còn chịu tác động trực tiếp của nguyên bản Lục độ tập kinh tiếng Việt…” (4), thì ngược về thời gian và hoàn cảnh lịch sử để truy nguyên văn bản, sẽ xuất hiện ba khả năng trực tiếp liên quan tới kết luận của ông mà tôi đồ rằng, dẫu Lê Mạnh Thát có “ba đầu sáu tay” cũng không thể giải quyết được: - Một: Nếu bản Lục độ tập kinh bằng tiếng Việt mà Khương Tăng Hội sử dụng vốn được dịch từ một bản tiếng Phạn thì phải chăng mấy nghìn năm trước ở bên Ấn Độ xa xôi lại có người tỷ mẩn ghi chép giúp tổ tiên chúng ta một cuốn lịch sử về nguồn gốc dân tộc bằng tiếng Phạn, rồi ai đó đã dịch từ bản tiếng Phạn sang tiếng Việt, và Khương Tăng Hội dựa vào bản tiếng Việt này để dịch sang tiếng Hán hay sao? Vì sự lòng vòng ấy chưa từng thấy có tiền lệ, nên tôi đặt câu hỏi và xin trả lời luôn: đây là điều bất khả. Không chỉ về khoảng cách địa lý, mà cả về các quan hệ kinh tế - văn hóa, liệu cách đây hơn 2000 năm, giữa Việt Nam và Ấn Độ đã có quan hệ văn hóa mật thiết đến mức một sự kiện quan trọng như trên lại có thể xảy ra, và liệu Lê Mạnh Thát có thể chứng minh? Nếu không chứng minh được, “phát hiện” của ông, rốt cục sẽ chỉ là sự võ đoán tùy tiện, không thể hiện diện trong nghiên cứu khoa học. - Hai: Nếu tình huống trên không xảy ra thì chẳng lẽ khi dịch Lục độ tập kinh sang tiếng Hán từ một bản tiếng Việt nào đó, Khương Tăng Hội đã tranh thủ thêm thắt một số ghi chép về lịch sử dân tộc Việt Nam, để rồi bao nhiêu đời cao tăng, học giả Việt Nam và Trung Quốc mấy nghìn năm qua đã không phát hiện ra? Đây là vấn đề Lê Mạnh Thát cần lý giải, một câu hỏi Lê Mạnh Thát cần trả lời nếu ông muốn chứng minh “phát hiện” của ông là chính xác. Xin nói luôn đây cũng là một điều bất khả, vì một cuốn kinh sách và lịch sử của một dân tộc có thể có mối liên hệ nào đó, song không thể đồng nhất, vì sự ra đời của kinh sách trước hết, không phải là để viết lịch sử. - Ba: Như là hệ quả của vấn đề thứ hai tôi đưa ra ở trên, nếu bản gốc Lục độ tập kinh do người Việt viết bằng chữ của người Việt thì chí ít Lê Mạnh Thát cũng phải minh định được chữ viết của người Việt vào thời đó ra sao, phải chứng minh được rằng trước và sau công nguyên Phật giáo Việt Nam đã rất phát triển, vì phải đạt tới một trình độ nào đó, các cao tăng Việt Nam mới có thể viết được kinh sách. Và nếu đó là sự thật thì các cao tăng Việt Nam xưa kia xứng đáng phải được lưu danh vào lịch sử Phật giáo, bởi họ đã viết được một tập kinh trứ danh đến mức Phật giáo phải đưa vào Đại tạng tập kinh, vậy mà đến nay tên tuổi của họ vẫn vắng bóng, chẳng lẽ Phật giới Việt Nam và Trung Quốc đã vội lãng quên họ? Tôi đặt ra khả năng thứ ba nhằm hài hước hóa vấn đề, nên không đề nghị Lê Mạnh Thát trả lời. Bởi riêng chuyện gán cho Lục độ tập kinh có quan hệ với lịch sử Việt Nam thôi, cũng đã là một điều kỳ dị không nên bắt bẻ. Tôi tin là các câu hỏi về nguồn gốc văn bản tôi đặt ra trên đây hoàn toàn không có mặt trong thao tác nghiên cứu của ông Lê Mạnh Thát khi euréka ra các “phát hiện lịch sử chấn động”. Và dưới đây, tôi sẽ chứng minh ông đã sai lầm như thế nào. 3. Đọc câu chuyện trong Lục độ tập kinh (3 ĐTK 251 tờ 14a26-c18) do Lê Mạnh Thát dẫn lại, dù không phải là người làm công việc nghiên cứu Phật học, tôi cũng nhận ra đó là một dẫn dụ về “đốn ngộ” mà cái bọc trăm trứng có vai trò dựng truyện. Ấy là sau khi một trăm người con sinh ra từ một trăm quả trứng kéo quân về đánh chiếm kinh thành của vua cha mà họ không biết đó là vua cha, bà mẹ của họ đứng trên chòi nói với những đứa con của bà: “Rằng đại nghịch tội đó, gồm có ba: Không xa bọn tà, chuốc tội đời sau, đấy là tội thứ nhất. Sinh ra mà không biết cha mẹ, lại đi ngược lại hiếu hạnh, đấy là tội thứ hai. Ỷ sức mà giết cha mẹ, làm hại Tam bảo, đấy là tội thứ ba. Giữ ba điều đại nghịch ấy, ác không lấy gì che được. Chúng mày hãy hả miệng thì chứng cứ hiện ngay”. Bà mẹ liền lấy vú mình ra, trời khiến nó bắn sữa khắp cả miệng một trăm đứa con. Cảm thấy sự tinh thành, chúng uống sữa, lòng buồn, nên đồng thanh nói: “Đây là cha mẹ ta”. Nước mắt chảy lan cả hai má, chúng chắp tay đi tới, cúi đầu hối lỗi…” (5). Giọt sữa của bà mẹ đã đưa các con bà ra khỏi chốn “vô minh”, giúp họ tỉnh ngộ, nhận ra điều trái với đạo hiếu không được làm. So sánh chuyện này với truyền thuyết về Lạc Long Quân - Âu Cơ thì ngoài cái bọc trăm trứng, giữa chúng không có bất cứ liên hệ nào. Một bên là minh chứng cho khả năng “đốn ngộ”, một bên là truyền thuyết về nòi giống và quá trình xây dựng cộng đồng, mở mang bờ cõi, tính mục đích hoàn toàn khác nhau. “Vớ” được sự gần gũi trong chi tiết một trăm quả trứng nở ra một trăm chàng trai, Lê Mạnh Thát vội vàng quả quyết: “Và chính đây là chi tiết mà nó giúp ta xác định thời gian xuất hiện và nguồn gốc khai sinh truyền thuyết về lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta” (6) thì ông đã lộ ra điểm yếu cốt tử mà tôi sẽ chứng minh tiếp ở phần sau. Ở đây chỉ xin nói rằng, chỉ vì câu chuyện trong Lục độ tập kinh và truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ cùng đề cập tới cái bọc trăm trứng mà đã vội coi cái này chính là nguyên gốc của cái kia thì trí tưởng tượng đúng là… “hơi bị phi phàm”. Cứ xét đoán khơi khơi như Lê Mạnh Thát thì trên đời này sẽ có vô khối chuyện khôi hài! Tương tự như thế, việc Lê Mạnh Thát tìm ra mối liên hệ giữa Mahabharata với truyền thuyết An Dương Vương theo tôi cũng là khảo chứng tư biện, nếu không nói ông đã tùy tiện xác lập một quan hệ. Tôi lại tự hỏi: liệu Lê Mạnh Thát có thể chứng minh quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đã mật thiết từ đầu công nguyên hay không? Vì để một tác phẩm thấm đẫm tinh thần Ấn Độ giáo, được coi là Đại bách khoa toàn thư về văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và thể chế chính trị - xã hội của Ấn Độ cổ xưa như sử thi Mahabharata có thể thấm sâu vào đời sống tinh thần của người Việt Nam, để người Việt Nam có thể vay mượn từ đó một câu chuyện rồi xây dựng nên một truyền thuyết, hẳn là Mahabharata phải được du nhập, được dịch và được phổ biến ngay từ trước hoặc sau công nguyên. Cũng là điều lạ lùng, trongMahabharata có bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu truyền thuyết mà tại sao người Việt không vay mượn một cách phổ biến, mà chỉ nhè vào chuyện Duryodhana để xây dựng truyền thuyết An Dương Vương, liệu Lê Mạnh Thát có thể giải thích được không. Cũng xin lưu ý, Mahabharata không chỉ là một sử thi, nó còn quan hệ mật thiết với Ấn Độ giáo, vì trong đó chứa đựng Bhagavad Gita (một kinh văn quan trọng của Ấn Độ giáo), nếu ông cho rằng Mahabharata đã có mặt trên dưới 2000 năm ở Việt Nam, ông có thể lý giải tại sao trong văn hóa Việt Nam cả nghìn năm nay, yếu tố Ấn Độ giáo lại rất mờ nhạt? Hỏi thì hỏi vậy, chứ thật tình tôi cũng tin đây là tình huống bất khả. Với cái nhìn phổ quát và thấu đáo, người sáng suốt sẽ không bao giờ chăm chăm dựa vào một chi tiết giống nhau “An Dương Vương cưỡi con tê sống vằn vào nước chạy, nước vì thế rẽ ra” (7) với chi tiết “Với kiếm chùy trong tay, đấng ấy (Duryodhana - NH) đã nhanh bỏ chiến trường và đi vào một cái hồ, sau khi làm cho nước rẽ ra nhờ vào huyễn thuật của mình” (8) để quả quyết: “Việc Duryodhana có thể làm cho nước rẽ ra để ông đi vào này đương nhiên ám chỉ một cách khá chắc chắn nguồn gốc đi vào nước của An Dương Vương” (9). Nhưng biết làm sao được, khi mà ông Lê Mạnh Thát dường như đã định hình phong cách suy đoán tư biện rồi kết luận khơi khơi trong thực hành “nghiên cứu”! Tóm lại, khi nghiên cứu một vấn đề lịch sử nào đó, bao giờ người ta cũng cần tới các chứng cứ lịch sử (trong đó, ngoài các văn bản xác thực đã được truy nguyên đến rốt ráo, còn có các bằng chứng khảo cổ…), vì thế người nghiên cứu không thể nuôi dưỡng vấn đề bằng trí tưởng tượng. Mặt khác, thao tác lấy chi tiết thay cho toàn thể, lấy cá biệt thay cho phổ biến… là thao tác hết sức nguy hiểm trong nghiên cứu, vì sẽ đẩy người ta đến các ngộ nhận làm nhiễu loạn sinh hoạt khoa học, tạo ra hiện trường giả làm rối trí người đọc. Vì thế tôi cho rằng, hai tiền đề giúp Lê Mạnh Thát “nghiên cứu” đích thực là hai giả tiền đề,phi thực tế. Nên tôi tin các câu hỏi tôi đặt ra ở trên là các câu hỏi Lê Mạnh Thát không thể trả lời, đó là lý do để tôi kết luận “phát hiện” của ông chỉ là kết quả của sự võ đoán. 4. Sai lầm cơ bản của ông Lê Mạnh Thát khi đưa ra “phát hiện” của mình, theo tôi có nguồn gốc từ việc ông không cần quan tâm (hay bất chấp?) một trong các đặc điểm quan trọng của văn hóa dân gian là tính phổ biến của nhiều mô-tip văn chương trong văn hóa dân gian của các cộng đồng, cùng như quá trình “dân gian hóa” một số truyền thuyết vốn được trình bày trong kinh sách của các tôn giáo. Văn hóa dân gian của các cộng đồng có thể nảy sinh sớm - muộn khác nhau, các cộng đồng có thể rất xa nhau về địa lý, chưa bao giờ tiếp xúc, không có bất kỳ một mối liên hệ nào, thì trong hoàn cảnh tương tự của quá trình phát sinh và phát triển nhận thức, các cộng đồng đã nảy sinh các ý tưởng rất gần gũi nhau để đáp ứng nhu cầu giải thích về thế giới, xã hội, con người. Như huyền thoại về quả bầu chẳng hạn, theo thống kê của GS Đặng Nghiêm Vạn (10), ở Đông Nam Á, trong số 95 dị bản về hồng thủy, có tới 65 dị bản liên quan tới quả bầu với ý nghĩa là phương tiện cứu giúp con người khỏi họa diệt chủng. Sự gần gũi về nhận thức, sự gần gũi khi suy tư về thế giới - xã hội - con người, sự giao lưu văn hóa trong điều kiện cụ thể… đã đưa tới sự ra đời các mô-tip văn chương dân gian, điều đó làm cho việc truy nguyên một “mẫu gốc” là bất khả. Tỷ như chúng ta thấy mô-tip quan hệ dì ghẻ - con chồng xuất hiện trong văn chương dân gian của nhiều cộng đồng khác nhau, như: Tấm cám của người Việt, Cô bé lọ lem của người Đức, Cô chị - Cô em (Ý Ưởi - Ý Nọng) của người Thái, Nàng Chăn Tha của người Lào… (Ngay ở thời hiện đại, một sự kiện như vậy vẫn có thể xảy ra, như sự giống nhau đến kỳ lạ giữa tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng với tiểu thuyết Đường công danh của Nikôđem Đizma của Tadeusz Dolega Mostowicz - nhà văn người Ba Lan). Không nắm được đặc điểm này, Lê Mạnh Thát mới đi làm cái việc “vơ” câu chuyện trăm trứng về cho người Việt Nam, dẫu rằng khi khảo sát, chính ông cũng đã thấy mô-tip người sinh ra từ trứng, người sinh ra từ bọc thịt là khá phổ biến! Để hợp thức hóa những suy biện chủ quan của mình trong xử lý tài liệu, ông Lê Mạnh Thát khẳng định xanh rờn: “chúng ta không còn bàn cãi một cách tùy tiện không có cơ sở về nền văn học “dân gian” chung chung phi thời gian, phi lịch sử” (11). Như vậy theo Lê Mạnh Thát, mọi sản phẩm văn hóa dân gian đều có thể “cụ thể hóa”, đều có thể truy nguyên thời gian lịch sử chăng? Mong sao vào một ngày rảnh rỗi nào đó, Lê Mạnh Thát sẽ truy nguyên toàn bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam do cụ Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, đặng giúp một người đọc ngu ngơ như tôi nắm bắt được thời gian ra đời của từng truyện một cách thật cụ thể nhỉ! Rồi nữa, bằng vào marketing của Hoàng Hải Vân, thì Lê Mạnh Thát công bố ông đã tìm thấy trong Đại tạng kinh sáu lá thư trao đổi giữa pháp sư Đạo Cao và pháp sư Pháp Minh với một “sứ quân” Giao Châu tên là Lý Miễu. Truy lùng tài liệu từ Trung Quốc, Việt Nam sang Triều Tiên và Nhật Bản, thậm chí lùng sục trong tàng thư các nước Anh, Pháp, Liên Xô mà không tìm thấy nhân vật nào có tên là Đạo Cao, cuối cùng Lê Mạnh Thát kết luận… Đạo Cao là người Việt Nam. Tương tự như thế với “sứ quân” Lý Miễu, do không tìm được văn bản nào đề cập tới nhân vật này, rút cục Lê Mạnh Thát cũng đi tới kết luận… “Lý Miễu chính là một vị vua của Việt Nam”! Vấn đề này trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam được Lê Mạnh Thát trình bày khá dài dòng và rối rắm, để thuận tiện theo dõi, xin được dẫn lại theo Hoàng Hải Vân, song tôi vẫn muốn dẫn ra một đoạn từ Lịch sử Phật giáo Việt Nam để bạn đọc được bổ sung thêm tài liệu về cách thức suy đoán của Lê Mạnh Thát. Chẳng là, để chứng minh Lý Miễu đích thị là một ông vua của Việt Nam, sau khi đặt ra hai giả thuyết và tự bác bỏ, Lê Mạnh Thát đưa ra giả thuyết thứ ba và biện luận: “đấy là giả thiết sự thêm thắt của Tăng Hựu hay một người có ý thức chính trị Trung Quốc nào đó, và nó có thể xảy ra như sau. Từ nguyên ủy những lá thư của Đạo Cao và Pháp minh rất có thể chỉ xưng Lý Miễu như “quân” hay “quân vương”. Đến khi chúng lọt vào tay những người Trung Quốc, họ liền thên vào chữ “sứ” trước chữ “quân” và lặt chữ “vương” đi, đưa đến sự xuất hiện cái anh hiệu “sứ quân”, trong khi lá thư vẫn tiếp tục nói đến chuyện “cư đại bảo chi địa” và “thổ ác dư hà” của Lý Miễu. Nói cách thứ ba này là tương đối thoả mãn nhất, bởi vì nó không cho phép hiểu câu “cư đại bảo chi địa” và tình hình chính trị nước ta ở thế kỷ V một cách dễ dàng, mà còn để lộ ra một phần nào thái độ chính trị và cảm thức chính trị của dân ta trong thế kỷ ấy. Đấy là tiếp tục gọi lãnh tụ của mình là thiên tử, dù ông chỉ là thứ sử hay thái thú trong các sử sách Trung Quốc, và từ đó để lộ thêm nguồn gốc Việt Nam của những lá thư” (12). Xét đoán như thế xong, Lê Mạnh Thát dùng phép loại suy để đi đến kết luận 6 bức thư qua lại giữa Đạo Cao và Pháp Minh với Lý Miễu được viết vào “khoảng năm 435”. Rồi từ đó suy đoán tiếp: vào khoảng năm 435 mà nước Việt Nam vẫn có một ông vua thì cũng có nghĩa là không có thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Ô hay, chẳng nhẽ mọi sự lại đơn giản đến như vậy hay sao? 5. Lại nhớ trên Tạp chí Văn học (số 5 năm 2002), PGS TS Nguyễn Hữu Sơn đã công bố bài viết có nhan đề Mấy vấn đề đặt ra từ Nghiên cứu về “Thiền uyển tập anh”, bài viết có nội dung giới thiệu cuốn sách Nghiên cứu về Thiền uyển Thiền uyển tập anh của Lê Mạnh Thát. Đọc bài này tôi nhận ra, dù trân trọng nghiên cứu của ông Lê Mạnh Thát về Thiền uyển tập anh, dù dành cho công trình một số nhận xét ưu ái, nhưng hẳn là PGS TS Nguyễn Hữu Sơn cũng đặng chẳng đừng khi phải sòng phẳng nhận xét về các suy biện chủ quan mà Lê Mạnh Thát thể hiện trong công trình: - “Ở đây, theo chúng tôi, trong tình hình chưa thể truy tìm được văn bản nguồn gốc thì tất cả những lập luận, suy luận, suy diễn, nói khác đi, nếu không đi nữa, dẫu sao (chữ dùng của LMT)... trước sau cũng mới chỉ là những đoán định đặt trong chiều hướng, xu thế, khả năng, đòi hỏi cần được tìm hiểu thêm”. - “Tuy nhiên, với trường hợp “truyền bản đời Lê sơ”, trên cơ sở cứ liệu việc biên soạn lại Việt điện u linh tập và Lĩnh Nam chích quái, tác giả đi đến kết luận: “Điều này chứng tỏ Thiền uyển tập anh lưu truyền khá phổ biến vào đời Lê sơ, tức khoảng trong những năm 1448 - 1466...” (tr.32), song thực chất cũng chỉ là kết luận ngoại suy. Nó chỉ chứng tỏ kiến văn uyên bác và khả năng suy tưởng sâu sắc nơi người viết, nhưng do điều kiện tư liệu và bản thân tính phức tạp của đối tượng nghiên cứu qui định nên các kết luận trên vẫn chỉ là ngoại suy (tất nhiên là ngoại suy của một học giả trình độ bậc thầy), chứ chưa phải đã đưa lại kết quả học thuật minh chứng hiển nhiên”. - “Để đi tới những kết luận giả định này, người viết đã vận dụng vốn kiến thức vô cùng sâu rộng, từ đó góp phần khơi mở những định hướng nghiên cứu mới mẻ (đơn cử như việc đề xuất việc khảo sát thực địa xã Nguyệt Áng - nơi có tháp Kim Sơn - vốn thuộc tổng Phù Lưu, huyện An Lão, phủ Kim Môn, tỉnh Hải Dương cũ). Có điều, những suy đoán dù thông tuệ chặt chẽ bao nhiêu cũng đành dừng lại ở mức độ có khả năng, chưa thể là kết luận cuối cùng”… Xem ra nhận xét của Nguyễn Hữu Sơn đối với cung cách làm việc của Lê Mạnh Thát trongNghiên cứu về Thiền uyển tập anh cũng không khác với nhận xét của tôi về cung cách làm việc của Lê Mạnh Thát trong Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta. Đọc cuốn sách, có thể tiếp cận với vô số suy đoán kỳ khôi, vô số biện giải kỳ tài. Tỷ như, để hoàn chỉnh kết luận của ông rằng truyền thuyết An Dương Vương chỉ là vay mượn từ Mahabharata, từ góc độ ngôn ngữ, Lê Mạnh Thát giải thích nguồn gốc tên gọi Thục Phán như sau: “Chữ Pandu này, nếu cứ vào thông lệ phát âm của người nước ta, có thể phát thành “phan thu”… Cái tên Phán của con vua Thục chắc chắn đã phải là phiên âm chữ Pandu, tên người cha của Yudhisthira” (13)! Hay Lê Mạnh Thát coi Cao Lỗ - tương truyền là người giúp An Dương Vương làm ra “nỏ thần”, chính là nhân vật Krsna trong sử thi Mahabharata, và ông diễn giải: “Tiếng Phạn viết nó như Krsna, mà nếu phát âm, sẽ đọc như Kà rớt sờ na. Chỉ cần nhìn phát âm ấy, ta tất có thể thấy tên Cao Lỗ đã xuất phát từ đâu. Nó chắc hẳn là phiên âm hai ngữ phận đầu Krsna của người nước ta” (14), tức là Kà rớt được đọc thành Cao Lỗ! Suy đoán theo lối của Lê Mạnh Thát thì có khác gì bảo rằng tên nhân vật thống lý Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ chính là do Tô Hoài đã vay mượn từ tên gọi của thành phố Pápa tận bên Hungari; hay Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân đến… Nguyễn Hòa - kẻ viết bài này, là có cùng một trực hệ! Từ giả thuyết đến chứng minh, cuối cùng rút ra kết luận có giá trị về lý luận và thực tiễn, đó là tiến trình mang tính nguyên tắc đòi hỏi mọi người nghiên cứu phải luôn luôn tuân thủ. Lê Mạnh Thát cũng đi theo tiến trình này, song đó là một tiến trình hư vô vì ông đã đi từ giả thuyết hời hợt đến khảo chứng theo lối tư biện, chủ quan và kết luận một cách cực đoan. Tuy nhiên, việc Lê Mạnh Thát huy động một lượng tri thức phong phú từ nhiều nguồn khác nhau vào công trình đi kèm với những lời xác quyết như phát ngôn của một học giả có thẩm quyền đã che lấp điểm yếu cốt tử trong “nghiên cứu” của ông, và làm cho một số người như bị choáng ngợp khi tiếp xúc với một lượng tri thức rối rắm nhưng đem lại cảm giác về sự thông tuệ, uyên bác, công phu! 6. Với sự phát triển của trình độ nhận thức khoa học, của khả năng khám phá, của các phương tiện hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu… con người đã có được, cho đến nay, nhiều bí ẩn lịch sử đã được “giải mã”, giúp chúng ta có thêm cái nhìn mới về lịch sử. Song điều đó lại đặt công việc nghiên cứu trước những đòi hỏi khắt khe hơn, làm cho việc phát hiện ra cái mới trở thành một thách thức không dễ vượt qua nếu người nghiên cứu thiếu vắng năng lực khoa học, không có khả năng nắm bắt và sử dụng các phương pháp nghiên cứu, không có nhãn quan khoa học sáng suốt, không xuất phát từ các tiền đề khoa học đúng đắn… Có thể trong Lê Mạnh Thát luôn thường trực một tình yêu dân tộc, nhưng dù tình yêu ấy tràn đầy đến thế nào thì ông mới chỉ có động cơ nghiên cứu, vì tình yêu dân tộc không thể thay thế các yêu cầu, các nguyên tắc của hoạt động nghiên cứu. Đừng vì Lê Mạnh Thát có tình yêu dân tộc mà gán cho kết quả “nghiên cứu” của ông nhãn hiệu “cái mới”. Trong sinh hoạt văn hóa - xã hội nói chung, trong nghiên cứu khoa học nói riêng, để được thừa nhận và khẳng định, cái mới bao giờ cũng phải là kết quả của sự tìm tòi, sáng tạo phù hợp với quy luật phát triển, mang tính tích cực xã hội,-góp phần làm sáng tỏ, nâng cao nhận thức của con người… Trong nghiên cứu khoa học, cái mới bao giờ cũng phải là phát hiện ra một (hoặc nhiều) điều khác với những gì cùng lĩnh vực đã có từ trước, nhưng hiển nhiên, không phải bất kỳ cái gì khác trước cũng đều được coi là “mới”. Mặt khác, cái mới ít nhiều còn mang tính lịch sử, cái mới của ngày hôm qua có thể là bình thường (thậm chí là cái “cũ”) của ngày hôm nay. Như khi PGS Phan Ngọc đưa ra quan niệm về sự “khúc xạ” của nhiều giá trị văn hóa nước ngoài sau khi du nhập vào Việt Nam chẳng hạn. Phát hiện của Phan Ngọc là cái mới ở thời điểm tác giả đưa ra, còn lâu nay, nó đã trở thành điều bình thường trong quan niệm của nhiều nhà nghiên cứu khi bàn về tiếp biến văn hóa ở Việt nam. Từ lịch sử vấn đề, tôi không coi “phát hiện” của Lê Mạnh Thát có gì mới mẻ, tôi coi đó chỉ là vệt kéo dài của xu hướng nghiên cứu lấy “Việt Nam làm trung tâm”, cố gắng quy nạp nhiều thành tựu văn hóa - văn minh châu Á cổ đại về với Việt Nam, đưa tới cảm giác dường như Việt Nam đã từng là “cái nôi” khai sinh của nhiều giá trị văn hóa - văn minh phương Đông! Thêm nữa, từ góc nhìn thức nhận và có tính biện chứng, đối với một công trình nghiên cứu, không thể chỉ đánh giá từ kết quả mà công trình có được, hay xem xét trong đó tác giả sử dụng tư liệu gì, quan niệm của tác giả khi xử lý tư liệu ra sao,… bản chất hơn là phải xem xét điểm xuất phát, xem xét điều gì đã tạo nên tiền đề để tác giả tiến hành công trình. Từ góc nhìn ấy, tôi xin khẳng định: Nghiên cứu của ông Lê Mạnh Thát chỉ là một phán đoán chủ quan, ông đi từ giả định đến khẳng định mà bỏ qua một vấn đề then chốt trong nghiên cứu là chỉ có giả định đúng mới có thể (xin nhấn mạnh - NH) đi tới kết luận đúng. Nói cách khác, ông Lê Mạnh Thát mới đưa ra một giả thuyết, mà giả thuyết ấy như tôi đã chứng minh, vừa sai lầm về phương pháp vừa hư vô về tiếp cận và xử lý tư liệu, chúng chưa hội đủ các điều kiện cần thiết để ông phăm phăm đi tới kết luận cuối cùng. Vì thế theo tôi, “phát hiện” của Lê Mạnh Thát hoàn toàn không mang ý nghĩa là “cái mới” như một số tác giả đã lớn tiếng ca ngợi. 7. Theo lẽ thông thường, lẽ ra cuốn sách Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc tacùng các kết luận Lê Mạnh Thát trong đó cần được khảo chứng cẩn trọng dưới nhãn quan khoa học thì thật đáng tiếc, vấn đề lại trở nên ầm ĩ qua sự tung hô của một nhà báo mà tôi tin là tác giả này còn thiếu năng lực đánh giá một công trình nghiên cứu, cũng như thiếu năng lực thẩm định các luận điểm của một công trình nghiên cứu. Bằng việc gán cho Lê Mạnh Thát và Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta “những phát hiện lịch sử chấn động”, qua các câu chữ đã sử dụng (“phát hiện cực kỳ quan trọng… đưa ra một loạt những kết luận với các chứng cứ không thể phản bác… chứng cứ đanh thép… khám phá một sự thật lịch sử thú vị… Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tài liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước…”), Hoàng Hải Vân vừa bỏ qua thái độ khách quan cần có khi đề cập tới một vấn đề học thuật, vừa bộc lộ sự vội vàng trong tiếp nhận và xử lý thông tin, vừa tỏ ra thiếu trách nhiệm trước bạn đọc. Với bài viết từ tâm thế của một xác tín hồn nhiên như thế, lẽ ra nên cẩn trọng thẩm định trước khi công bố, bởi đây là đề tài liên quan tới một số vấn đề hệ trọng, hàng nghìn năm nay đã in dấu ấn trong trong niềm tin, trong tâm thức dân tộc, đồng thời còn là nỗi đau đáu của nhiều học giả đương thời. Song, không rõ do thiếu khả năng thẩm định hay vì muốn đưa ra thông tin “giật gân” mà người ta đã tỏ ra thiếu thận trọng? Đáng tiếc hơn, trong “dàn đồng ca do Hoàng Hải Vân lĩnh xướng”, lại có một vài tác giả mượn danh “cái mới” để cổ vũ cho một hướng nghiên cứu tùy tiện. Tôi thật sự thất vọng khi đọc các dòng chữ do một vị tiến sĩ viết: “Dù không thể tránh khỏi sai sót, những ý kiến của thiền sư Lê Mạnh Thát là cực kỳ ấn tượng và nhất là, mang tính dự báo cho bước đột phá quan trọng đối với việc dựng lại những trang sử của dân tộc trong các thời kỳ không có hoặc thiếu sử liệu… tôi nghĩ đóng góp to lớn và nhiều ý nghĩanhất của thiền sư Lê Mạnh Thát là ở chỗ ông đã bổ nhát cuốc đầu tiên để khai phá rồi ươm trồng những hạt giống nhận thức mới về lịch sử… Cái đáng quý và cần được ghi nhận một cách trân trọng là ở chỗ, thiền sư Lê Mạnh Thát đã buộc tất cả những nhà nghiên cứu lịch sử nước ta và cả những ai quan tâm đến lịch sử phải có một thay đổi thật sự trong cách tiếp cận, cách hiểu và diễn giải lịch sử”. Đọc xong ý kiến này, ấn tượng sâu sắc mà ông tiến sĩ đem tới cho tôi chỉ là sự sững sờ. Vì tôi đồ rằng đến thời điểm đưa ra phát ngôn, ông tiến sĩ vẫn chưa đọc cuốn sách của Lê Mạnh Thát, mà chỉ nói dựa theo bài báo của Hoàng Hải Vân. Vậy tôi có thể nghi ngờ phát ngôn của một vị tiến sĩ khả kính và có thể đặt câu hỏi: phải chăng học vị tiến sĩ ở xứ An Nam ta cũng có năm bảy đường? Tôi còn thất vọng hơn khi thấy một nhà thơ nói rằng: “Với cảm nhận của bản thân, tôi cho rằng những giả thiết mà thiền sư đặt ra là rất đáng trân trọng. Trước hết phải ghi nhận là thiền sư đã có một tinh thần dân tộc, luôn mong muốn làm sáng tỏ lịch sử nước nhà. Thiền sư đã cất công tìm tòi, dò sâu vào lịch sử, đọc những tài liệu, những công trình khoa học từ nhiều nguồn, nhiều quốc gia, nhất là trong các tạng kinh Phật. Đây là một cơ duyên mà không phải ai cũng có được. Trong bối cảnh mà nhiều nguồn tài liệu khác đã bị tiêu hủy, thì việc phát hiện những vấn đề lịch sử tiềm tàng trong kinh Phật là điều rất quý”. Với một vấn đề khoa học, người ta không thể đánh giá bằng sự “cảm nhận” (bởi đó không phải là một bài thơ!), nên tôi nghĩ nhà thơ cũng khó có thể phân biệt được sự khác nhau giữa sử liệu với “vấn đề tiềm tàng trong kinh Phật”, vì lẽ: sử liệu là sử liệu và luôn luôn cần phải được thực chứng; còn kinh Phật là kinh Phật và trong đó còn bao chứa các tín điều, các huyền thoại để thần thánh hóa các tín điều. Cho dù sử liệu và kinh Phật có quan hệ mật thiết đến mức nào thì vẫn không thể nhầm lẫn, do vậy để bảo đảm cho sự nghiêm cẩn của ý kiến, lẽ ra trước khi phát biểu “cảm nhận”, nhà thơ cần tham khảo ý kiến các nhà chuyên môn như GS Phan Huy Lê, TS Nguyễn Việt mà báo chí đã đăng tải. Cũng xin thưa, dù nhà thơ đã đọc Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta thì cũng không có nghĩa ông có thể lĩnh hội nó trong tư cách một công trình khoa học, ấy là chưa nói có thể ông đã không đọc cuốn sách với tâm thế phản biện, mà bị thuyết phục bởi những điều mà chưa chắc ông có khả năng lý giải. Không bàn tới các cuốn sách khác của Lê Mạnh Thát, không đánh giá ông đã có đóng góp như thế nào, từ các phân tích trên đây tôi thiết nghĩ, ngoài một số tư liệu cho thấy tác giả là người đọc rất nhiều, cuốn Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta của Lê Mạnh Thát rất thiếu vắng giá trị khoa học. Nếu kết luận của Lê Mạnh Thát là “phát hiện chấn động” thì nó chỉ có ý nghĩa duy nhất là làm nhiễu loạn nhận thức của công chúng về lịch sử, về các vấn đề có liên quan với nguồn gốc dân tộc. Tôi luôn kính trọng những tác giả có chí hướng nghiêm túc khi cố gắng đi tìm nguồn gốc của dân tộc, song tôi không đặt niềm tin vào động cơ khoa học của một tác giả khi chưa biết ý kiến của mình đúng - sai ra sao đã cao ngạo mạt sát tiền nhân “nhắm mắt nói càn… khốn nạn hết chỗ nói!” (Nhận xét này, dù bị nhiều người phê phán nhưng vẫn ưu ái cho rằng đó không phải là nhận xét của một người say mê Phật học, đến nay vẫn chưa thấy Lê Mạnh Thát đính chính? Tương tự như vậy, việc Lê Mạnh Thát có phải là Giáo sư, Thiền sư hay không xem ra vẫn còn rất mù mờ, vì ngày nay, chức danh Giáo sư là do Nhà nước quyết định, danh hiệu Thiền sư cũng phải được Tăng đoàn công nhận, chứ không phải cứ khoái lên là có thể tặng phứa cho nhau). Vì thế đề nghị các vị học giả, các nhà nghiên cứu không nên tổ chức hội thảo về cuốn sách làm gì, công việc ấy chỉ làm tốn kém thêm tiền bạc của nhân dân mà thôi./. NH - 3.2008 -------------------------------------- 1. http://www.quangduc....u/03lspgvn.html - Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam (từ khởi nguyên đến thời Lý Nam Đế), do Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP Huế thực hiện, NXB Thuận Hóa - Huế năm 1999, bản này cũng đã được post trên các website khác như thuvienhoasen.org,buddhismtoday.com. 2. Dẫn theo Hoàng Hải Vân - báo Thanh Niên, số ra ngày 26.2.2008. 3. Lê Mạnh Thát - Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh năm 2006, tr.195. 4. Lê Mạnh Thát, Sđd, tr.212. 5. Lê Mạnh Thát, Sđd, tr.20 6. Lê Mạnh Thát, Sđd, tr.72 7. Lê Mạnh Thát, Sđd, tr.94 8. Lê Mạnh Thát, Sđd, tr.127 9. Lê Mạnh Thát, Sđd, tr.129. 10. Đặng Nghiêm Vạn - Về chuyện quả bầu mẹ ở Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 3 năm 1972. 11. Dẫn theo Hoàng Hải Vân, báo Thanh Niên, số ra ngày 3.3.2008. 12. http://www.quangduc..../03lspgvn8.html 13. Lê Mạnh Thát, Sđd, tr.137. 14. Lê Mạnh Thát, Sđd, tr.133. Đây là đường link cũ cũng bàn về vấn đề này Sư phụ ạ! ====== http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/801-ve-cai-goi-la-nhung-phat-hien-lich-su-chan-dong/
  18. Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động (1) Thiền sư Lê Mạnh Thát Ảnh: Ngọc Hải Thượng tọa Thích Trí Siêu là một nhà tu hành xuất gia từ bé, ông không chỉ là một thiền sư, mà còn là nhà khoa học có nhiều bằng tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ Hán cổ...), ông còn là một người Việt Nam "nguyên chất" với tất cả lòng tự trọng tự hào về dân tộc mình, thể hiện một cách lạ lùng ngoạn mục ở tất cả các công trình khoa học của ông. Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tư liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước... Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng Thượng tọa Thích Trí Siêu (tức giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát) vẫn để tóc. Thú thật là quá tò mò về chuyện đó, tôi mạnh dạn hỏi ông vì sao như vậy. Ông cười phá lên, chỉ vào bức ảnh Đức Bồ đề Đạt Ma: "Ông ấy có cạo đầu đâu! Tôi còn thua ông ấy một bộ râu". Tôi ngộ ra rất nhiều điều trong tiếng cười của ông. Tôi đã gặp ông nhiều lần, trước hết là để viết bài về Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (VESAK) được tổ chức tại Việt Nam sắp tới mà ông là Chủ tịch Ủy ban quốc tế (IOC) đồng thời là Tổng thư ký Ủy ban điều phối quốc gia Đại lễ này. Tôi cũng đã đọc nhiều sách ông viết. Nhưng với trình độ nông cạn của tôi, hiểu về con người cùng sở học mênh mông vi diệu của vị cao tăng này thật không dễ chút nào. Ông không chỉ là một thiền sư, là nhà khoa học có nhiều bằng tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ Hán cổ...), ông còn là một người Việt Nam "nguyên chất" với tất cả lòng tự trọng tự hào về dân tộc mình, thể hiện một cách lạ lùng ngoạn mục ở tất cả các công trình khoa học của ông. Trước khi nói về VESAK, tôi xin ghi lại một vài điều tâm đắc sau khi đọc, sau khi nghe ông nói và hỏi lại thật rõ những khám phá của ông về cội nguồn dân tộc, về nhiều sự thật của lịch sử nước nhà hàng ngàn năm bị che lấp hoặc bị hiểu sai lệch. "Ông Lê Quý Đôn mà cũng lôi thôi quá !" Xin chép ở đây hai bài thơ chữ Hán, theo tôi bài nào cũng hay đến "lạnh cả người": Nhị bát giai nhân thích tú trì Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly Khả liên vô hạn thương xuân ý Tận tại đình châm bất ngữ thì (Tạm dịch nghĩa: Người đẹp mười sáu tuổi nhẹ tay thêu trên gấm Dưới khóm hoa tử kinh con chim hoàng ly đang chuyền Thật đáng thương nỗi lòng vô hạn đối với mùa xuân Ngưng đọng nơi mũi kim, lặng lẽ không nói) Đó là bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần (1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận, coi là một kiệt tác thi ca chữ Hán của Việt Nam. Trên tạp chí Văn học số 1-1984, lần đầu tiên giáo sư Lê Mạnh Thát đã đưa ra tài liệu chứng minh bài thơ trên không phải của thiền sư Huyền Quang mà của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc. Một bài khác: Nhạn quá trường không Ảnh trầm hàn thủy Nhạn vô di tích chi ý Thủy vô lưu ảnh chi tâm (Tạm dịch nghĩa: Chim nhạn bay dài qua không trung Ảnh chìm dưới dòng sông lạnh Nhạn không có ý để lại dấu tích Sông không có lòng lưu lại bóng hình) Bài thơ này cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong công trình nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng đã “trả" bài thơ này lại cho tác giả thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. Nhưng không chỉ có vậy. Giáo sư Thát còn liệt kê trong số 59 bài thơ được coi là của thiền sư Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư. Từ đó, Lê Quý Đôn đã chép lại 43 bài trong Kiến văn tiểu lục, cả 43 bài đều của các thiền sư Trung Quốc. Ông đã chỉ rõ từng bài, là của ai, ở trong tài liệu nào, tờ số mấy. "Ông Lê Quý Đôn mà cũng lôi thôi quá!", ông cười cười nói với tôi. Là ông nói đùa thôi, chứ ông biết rõ Lê Quý Đôn là người rất cẩn trọng. Ông bảo sở dĩ có sai sót này là do Lê Quý Đôn chắc chắn không biết, tức không có dịp đọc các bộ chính sử thiền tông Trung Quốc. "Hơn nữa, Lê Quý Đôn, với tư cách là một Phật tử, có thể đã quá tin tưởng vào bản in Hương Hải thiền sư ngữ lục, nghĩ rằng các thơ kệ và ngữ lục trong đó là đúng của Minh Châu Hương Hải, vì chúng đã được môn đồ của vị thiền sư này cho khắc in, nên đã không tiến hành kiểm tra, tìm hiểu và so sánh", ông viết. Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một trong rất nhiều công trình sử học của giáo sư Lê Mạnh Thát. Trong khi sưu tầm, đối chiếu, xác minh và giới thiệu những cống hiến quan trọng về lịch sử tư tưởng, văn học và Phật giáo Việt Nam của vị thiền sư lỗi lạc này, ông đồng thời đã cẩn trọng "trả lại cho người khác" những gì không phải của thiền sư, dù đó là những viên ngọc quý (như bài thơ nói trên). Đối với những nhân vật khác, ông cũng làm tương tự. Ông bảo những nhầm lẫn trong các công trình sử học kiểu đó không những không làm vinh dự thêm cho dân tộc mà còn rất tai hại, nó khiến cho người ta nghi ngờ chính những cống hiến quan trọng của các nhân vật lịch sử nước ta, đặc biệt khi các bậc thức giả nước ngoài tiếp cận những tài liệu này. Dẫn ra chi tiết nhỏ trên đây để thấy sự nghiêm cẩn trong nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát. Nhưng ngoài sự nghiêm cẩn, ông còn có một lợi thế tự nhiên khó có học giả nào có được. Là một thiền sư, ông đã đọc hết những bộ kinh sách đồ sộ như Đại tạng kinh và Tục tạng kinh chữ Hán, ông đọc trước hết là "để thưởng thức". Chính vì vậy mà chẳng hạn như đối với trường hợp hai bài thơ nói trên, ông đã biết đến khi đọc bộ sử thiền tông Trung Quốc (trong Tục tạng kinh), nên khi nghiên cứu về Huyền Quang và Hương Hải ông đã phát hiện ngay sự nhầm lẫn. Lịch sử dân tộc bảo tồn trong kinh Phật Lục độ tập kinh là một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của Phật giáo thế giới. Tập kinh này được dịch ra chữ Hán vào thế kỷ thứ 2, truyền bản của nó đến ngày nay gồm 8 quyển, 91 truyện, trình bày sáu hạnh vượt bờ của Bồ tát gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Các vị cao tăng đông tây kim cổ đều biết đến tập kinh này và từ lâu nó đã được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Nhật. Lần đầu tiên sau gần hai ngàn năm lưu truyền của Lục Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát có những phát hiện cực kỳ quan trọng từ tập kinh này. Ông khẳng định tập kinh đó là của Việt Nam, nó được dịch ra chữ Hán từ một bản tiếng Việt chứ không phải từ bản tiếng Phạn; Tăng Khương Hội, người dịch bản kinh đó, người mà sử sách cổ Trung Quốc coi là "bậc thánh hiền", là một người Việt Nam (ít nhất là sinh ra, lớn lên, học hành, theo đạo Phật, hành đạo và trước tác đều tại Việt Nam). Bằng kiến thức uyên bác về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ, ông đã truy tận gốc tất cả những tài liệu cổ xưa nhất có liên quan, tiến hành khảo sát, đối chiếu, giám định và đưa ra một loạt những kết luận với các chứng cứ không thể phản bác. Ông bảo tập kinh đó chứa đựng "một lượng bất bình thường" các tư tưởng, quan điểm và đạo lý mang sắc thái chính trị và lịch sử Việt Nam. Phát hiện đầu tiên là Lục độ tập kinh chứa đựng truyền thuyết khởi nguồn của dân tộc, đó là chuyện một trăm trứng. Điều này hết sức có ý nghĩa, là vì truyền thuyết đó được ghi vào sử sách bắt đầu từ bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Truy lùi lại thì thấy chuyện này được chép trong Lĩnh Nam chích quái. Truy nữa thì "bó tay", không biết nó xuất phát từ đâu, chỉ thấy nó liên quan tới truyện Liễu Nghi đời... Đường bên Trung Quốc. Từ trước tới nay mọi bàn cãi đều tập trung vào việc chấp nhận hay không truyền thuyết đó, mà chấp nhận hay phủ nhận nó không phải là vấn đề của lịch sử. Dân tộc nào cũng có truyền thuyết khởi nguyên, mà đã là truyền thuyết thì ít nhiều đều mang yếu tố hoang đường, nhưng đó là hồn thiêng dân tộc. Với Lục độ tập kinh, chúng ta đã truy ra thời điểm khởi nguồn của hồn thiêng dân tộc của mình. Trong khi phát hiện truyền thuyết trăm trứng nằm trong Lục Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát còn khám phá một sự thật lịch sử thú vị liên quan đến An Dương Vương và Triệu Đà. Từ truyền thuyết trăm trứng nằm trong truyện 23 của Lục Độ tập kinh, ông đối chiếu với một dị bản bằng tiếng Phạn và lại phát hiện truyền thuyết An Dương Vương giống như câu chuyện về trận đánh quyết định trong anh hùng ca Mahàbhàrata giữa hai anh em Pandu và Duryodhana. Đối chiếu với tất cả những gì được ghi trong Sử Ký của Tư Mã Thiên và các tài liệu cổ sử khác của Trung Quốc, ông khẳng định truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ngòi bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó chẳng qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam thời Hùng Vương mà thôi. Ông cũng tiếp tục đối chiếu sử sách và khẳng định không những không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (vì làm gì có An Dương Vương mà đánh!) mà nước ta cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Nước Nam Việt của Triệu Đà chưa bao giờ bao hàm nước ta trong đó cả. Có nghĩa là, cho đến năm 43 (sau dương lịch), trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất bại, nước ta vẫn là một nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương, là nhà nước Hùng Vương. Nhà nước đó đã được xây dựng trên một nền văn hiến với điển chương riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số, có âm nhạc, có văn học... Nhà nước đó, nền văn hiến đó hoàn toàn không do người Trung Quốc đến "khai hóa" mà có. Nó có đủ bản lĩnh, đủ sức mạnh để tiếp thu những gì là tinh hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang. Nó có đủ sự nổi trội để đóng góp vào nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là một trong những dẫn chứng sống động. Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tài liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước... (còn tiếp) Hoàng Hải Vân, TNO
  19. ===== Dạ, đây Sư phụ ạ!
  20. Ngài được Thiền sư Đạo Huyền ở chùa Thắng Nghiêm - Thanh Oai - Hà Nội ngày nay nuôi dưỡng từ khi 7 tuổi có đúng không Sư phụ?
  21. Ý muốn nói Pháp Luân Đại Pháp do thầy Lý Hồng Chí truyền giảng là Đại pháp bao trùm cả Đạo tiên và Phật pháp thì quả là chủ quan. Và thứ 2 cho rằng Phật Di Lặc sẽ đầu thai vào họ Lý thì cũng chủ quan nốt, đây gọi là cuồng tín.
  22. Trái Đất sẽ bị hủy diệt vào tuần tới? Kienthuc.net.vn - 5 giờ trước 0 bình chọn (Kienthuc.net.vn) - Một tiểu hành tinh khổng lồ sẽ tiến đến hủy diệt Trái đất vào tuần tới, nhà truyền giáo Pat Robertson cho biết. “Đừng lên kế hoạch gì lâu dài, bởi vì tuần tới Trái đất sẽ bị hủy diệt bởi một tiểu hành tinh khổng lồ” là dự đoán ảm đạm được nhà truyền giáo cao cấp của đạo Tin Lành ở Mỹ, Pat Robertson, thông báo trên chương trình truyền hình cá nhân của ông này. Pat Robertson nói rằng Chúa Giêsu đã tiên báo đại họa này cho mình và kêu gọi các tín đồ mua cuốn sách "The End of the Age" (sự kết thúc của thời đại) do mình viết để tìm hiểu thêm. Tiểu hành tinh có hủy diệt Trái đất? Pat Robertson nói: “Tôi đã viết một cuốn sách, nội dung là về một tiểu hành tinh va vào Trái đất. Đó cũng là nội dung lời tiên tri của Chúa Giêsu gửi đến con người, các vùng biển sẽ nổi sóng, bầu trời tối đen, Mặt trăng và Mặt trời không có ánh sáng…”. Tại một cuộc họp tại Bảo tàng Museum of Flight ở Seattle tuần trước, ba phi hành gia gồm Tiến sĩ Ed Lu, phi hành gia Tom Jones và phi hành gia Bill Anders đã trình bày dữ liệu chứng minh các quy luật tấn công khó tin của các tiểu hành tinh. Dữ liệu cho thấy kể từ năm 2000 có tổng cộng 26 vụ nổ tương đương vụ nổ hạt nhân đã xảy ra trên Trái đất là kết quả tác động của tiểu hành tinh. Năng lượng bùng nổ của các vụ nổ dao động trong khoảng 1-600 kiloton. Một trong những vụ nổ đáng chú ý nhất là cuộc tấn công thiên thạch ở Chelyabinsk, Nga vào năm 2013 làm bị thương hơn 1.200 người. Tuy nhiên, trái với lời tuyên bố của nhà truyền giáo, các nhà thiên văn không có động tĩnh gì, không có bất kỳ cảnh báo hủy diệt thế giới nào được thông tin, giới khoa học vẫn tin rằng Trái đất không thể bị tấn công bởi các tiểu hành tinh. Lưu Thoa (theo IBT)
  23. ======Theo TG nên đổi lại: Đường Tăng - Hỏa Tôn Ngô Không - Thổ Trư Bát Giới - Thủy Sa Hòa Thượng - Mộc Bạch Long Mã - Kim
  24. Thần Nông và Tổ Tiên Việt MAI THỤC - 29/09/2013 Trong ký ức mỗi người Việt Nam, ai mà chẳng có những đêm mịn như nhung, ngửa cổ lên bầu trời nhìn Sao Thần Nông lấp lánh cạnh dải Ngân Hà. Trời đầy sao và Thần Nông nâng hồn ta bay vào vũ trụ. Ông bà ta thời cổ lỗ đã biết nhìn Sao Thần Nông để tính ngày trồng cấy lúa trên ruộng nước. Các nhà nghiên cứu Tiền sử khẳng định từ cổ xưa tộc Việt có một Thiên sư nghề nông tìm ra cây lúa nước gọi là “cây lúa Thần” nuôi sống dân Việt. Cây lúa Thần được người Việt trồng cấy ra hạt thóc, sát vỏ trấu thành hạt gạo nuôi sự sống con người gọi là Hạt Ngọc. Con cháu đời đời tôn cụ Thần Nông là Tổ Thần Nông. Tưởng tượng cụ như một chòm sao lấp lánh trên bầu trời dẫn dắt mình trồng lúa. Hằng năm. Vào trung tuần mùa hạ. Nhìn lên bầu trời phương Nam, thấy những vì sao chi chít trên dải sông Ngân Hà, xếp theo hai hàng dọc, trông giống hình cụ Thần Nông. Đầu cụ đội mũ cánh chuồn, khom lưng nhìn xuống hạ giới, từ bờ biển phương Nam, qua dải Ngân Hà nhìn về phương Bắc. Lúc đó, toàn dân Việt xuống đồng, cấy vụ gặt chính. Bộ sưu tập khảo cứu Nguồn gốc dân tộc Việt và nền Văn minh Việt cổnhiều tác giả, nghiên cứu đa ngành: Lịch sử, Tâm linh, Khảo cổ… đã chứng minh Sự tồn tại thực tế Liệt vị Tổ tiên người Việt thời kỳ Thần Nông- Hồng Bàng- Văn Lang trên lãnh thổ Việt Nam. Thời kỳ Thần Nông Đế Hòa (Đế là tôn hiệu các vị Tiên tổ Việt tộc) còn gọi là Hòa Hy, Hy Hòa, Hy Thúc đến sinh tụ miền đất này từ núi Ba Vì trải dài trên cả vùng rừng núi rộng bao la về phía Lương Sơn, Thạch Thất, Quốc Oai (Hà nội ngày nay). Nơi tụ cư ban đầu của các chủ trưởng người Việt cổ là khu vực Văn Lôi (Thạch Thất). Nơi đây Tổ Đế Hòa lấy đồi núi Tây Phương, Cực Lạc làm kinh đô. Cạnh chùa Tây Phương, có chùa Cực Lạc thuộc thôn Yên Lạc- Thạch Thất. Theo các nhà phong thủy học và cảm xạ học thì đây là nơi tụ khí thiêng của đất nước. Cao Biền gọi là núi Câu Lâu, đã làm miếu yểm và ghi sách tấu vua Trung Quốc. Niên đại năm sinh của Đế Hòa chưa rõ, cổ phả ghi “Đã có văn tự, biên chế lục thủ, thuyền xe cung thất, luyện vàng, nặn đất, làm đồng, chia ruộng, trồng dâu nuôi tằm, dân cư an khang thịnh vượng”. Đế Hòa là nhà Thiên văn theo thuyết Âm Dương. Cụ là người đầu tiên sáng lập ra lịch Âm có tháng nhuận, một loại lịch có độ chính xác cao hơn các loại lịch Âm thời đó, còn giá trị đến nay. Phục Hy còn gọi là Đế Viêm, Đế Thiên. Dân gọi là vua Cả hiệu là Đế Thiên Phục Hy con của Đế Hòa. Phục Hy đã phát triển thuyết phong thủy Âm Dương, Kinh dịch do cha Đế Hòa sáng lập, gọi là Kinh Dịch Phục Hy. Khi các cụ nghiên cứu ra thuyết trên, trong các bộ tộc Việt, đời sống đã được ổn định, phát triển nền Văn minh lúa nước, sự sống của người Việt được bảo đảm, phát triển phồn thịnh. Các bộ tộc thần phục và tôn kính thủ lĩnh, nhà nước bắt đầu manh nha. Cụ Phục Hy được tôn làm Chủ trưởng (Vua Cả) định đô, lập nước lấy tên là Cực Lạc (thôn Yên Sơn, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây nay là Hà Nội). Di vật trong lòng đất chùa Cực Lạc cổ phát hiện mặt tượng người Việt cổ bằng đất nung, trán cao, khuôn mặt vuông, mũi tẹt, phong độ bản lĩnh, tươi sáng. Đàn Nam Giao trước chùa Cực Lạc đang xây dựng lại. Cây đa và hang đá gắn với mộ cổ ở chùa Cực Lạc là di tích Địa Mẫu (huyền thoại Bà Nữ Oa đội đá vá trời). Tượng thờ Đế Thiên Phục Hy trong hang đá dưới gốc đa chùa Cực Lạc. Cụ Phục Hy theo đạo Sa môn giáo, được tôn đạo hiệu làVô Thượng Hư Không giáo chủ Đế Thiên Phục Hy. Nơi thờ cụ ở miếu Hy Sơn, giỗ cụ ngày 1 tháng Tư âm lịch. Hiện nay miếu không còn tên cũ, đã xây lại, đặt tên mới Miếu Thiên Cổ ở phía phải sân trước đỉnh đồi chùa Tây Phương. Chùa trong khu Hang động lớn Hoàng Xá- Quốc Oai- Sơn Tây có khu điện thờ Đế Viêm và các Anh linh của Viêm Bang. Tượng Đế Viêm- Phục Hy trong Hoàng Kim Tự (Chùa Vàng) tại Quốc Oai. Năm cụ Phục Hy 79 tuổi, có nạn Hồng Thủy. Khảo cổ học khẳng định, lúc này là cuối thời kỳ biển tiến. Nước lùi dần. Nước biển ở nước ta dâng cao bốn mét vào năm 3900 TCN. Ba mét vào năm 2950 và hai mét vào năm 2350 TCN. Người quản gia trẻ là Hiên Viên dấy binh làm phản, giết cụ Phục Hy, giết cả mười bốn người phụ tá, thu tài liệu nghiên cứu Thuyết phong thủy, Kinh Dịch Phục Hy và chiếm tài sản. Nhận thức của Trung Quốc và nhiều người Việt Nam về Phục Hy Đến nay, trong các tài liệu của Trung Quốc và ngay ở Việt Nam người ta vẫn cho rằng Phục Hy là nhân vật huyền thoại Trung Quốc cổ đại. Bách khoa toàn thư (Wikipedia) gần đây vẫn viết về Phục Hy như sau: Phục Hy theo tài liệu Trung Quốc, khoảng 2800 trước CN, là người đầu tiên trong ba vị vua huyền thoại của Trung Quốc cổ. Ông là nhân vật văn hóa được cho là người phát minh ra chữ viết, nghề đánh bắt cá vả bẫy thú. Kinh Dịch Phục Hy được cho là đã phát hiện cấu trúc Bát Quái từ các dấu trên lưng một con rùa… Hiện nay các nhà nghiên cứu Kinh Dịch đã thấu thị Đất Trời Tổ Tiên Việt tộc, khẳng định Kinh Dịch Phục Hy của người Việt phát minh, bị Trung Quốc cổ lấy cắp mang về biến tấu thành bói toán rất siêu. Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên viết: “Kinh Dịch Phục Hy cuốn triết học kỳ diệu chưa từng thấy xưa nay”. Cái tên Kinh Dịch hoặc Hy Dịch là do người đời sau đặt. Lúc đầu cụ Phục Hy dùng thanh tre, thanh nứa để ghép các quẻ đơn từ Khôn, quay vòng đến Kiền. theo hai hướng. Hướng thứ nhất bên phải của Khôn ngược kim đồng hồ. Qua các quẻ Cấn, Khám, Tốn, Sát quẻ Kiền thỉ ngừng, nhảy vọt, sát quẻ Khôn từ bên trái, theo hướng thứ hai xuôi kim đồng hồ qua các quẻ Chấn, Ly, Đoài đến Kiền, đúng một vòng gọi là tám quẻ đơn. Mỗi quẻ có ba hào, theo hào âm, một vạch đứt, một vạch liền… Sau này nhà Chu sửa chữa Kinh Dịch Phục Hy làm đảo điên “râu ông nọ cắm cằm bà kia” từ tám quẻ bình thường thành tám quẻ quái quỷ. Tổ tiên ta tự coi loài người là trung tâm vũ trụ, lấy mặt trời, mặt trăng, và trái đất làm chính xoay quanh mình. Đó là vũ trụ lớn mênh mông, trông đó có vũ trụ hẹp nơi mình ở. Vũ trụ mà Kinh Dịch Phục Hy và các bậc trí giả Việt cổ, từng quan sát bầu trời, mặt đất để quy ra tám quẻ đơn. Đó là địa bàn cư trú của Việt tộc, từ dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn ra Biển Đông của Thái Bình Dương, theo sông Dương Tử dài nhất thế giới, tính từ phía Nam Dương Tử”. Thế kỷ XV. Nguyễn Trãi gối đầu giường Kinh Dịch Phục Hy: “Song (cửa sổ) hoa mai điểm quyển Hy Kinh”. Nhiều học giả khẳng định Kinh Dịch- Di sản sáng tạo của người Việt cổ. Nhiều học giả đã vạch những biến báo của người Tàu về Kinh Dịch Phục Hy mà chúng tôi không đủ sức nêu ra trong bài viêt này. Thần Nông- Đế Thần- Con trai Phục Hy Thần Nông còn tên là Đế Khôi được dân suy tôn là Đế Thần. Thiếu thời Thần Nông được cha đẻ là Phục Hy dạy dỗ. Phục Hy mất. Thần Nông còn nhỏ, giúp việc hai vị phụ tá của cha là Lão Long Cát- Toại Nhân và Hữu Sào. Đế Khôi khôn lớn, trở về làng Sở, mời hội đồng các vua núi (Sơn Quân) đem quân đánh đuổi gian nô Hiên Viên, thừa kế sự nghiệp Tổ tiên, lên ngôi vua sáng, thi hành chính nhân, dân chúng kính yêu. Đất đai từ vùng Tây Phương trở xuống, lấy ngọn Phương Lĩnh, Trầm Đỉnh làm chính. Sau đến núi Linh Sơn, Tiên Lữ cùng dãy với ngọn Phong Châu làm thành một dải Viêm Đế. Đem đất chia cho dân nghèo. Thần Nông tiếp tục sự nghiệp của cha (Đế Thiên- Phục Hy) phát triển trồng lúa nước, chọn cây thuốc, chăn nuôi, trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa the, đào giếng nước sạch. Hiện nay vùng làng Sở thuộc Tiên Lữ, Tiên Phương, huyện Quốc Oai và Chương Mỹ- Hà Nội hiện nay, vẫn còn một số giếng nước cổ, truyền lại từ thời Thần Nông. Thần Nông bổ sung phát triển Kinh Dịch Phục Hy làm rõ quan niệm về Âm Dương. Cải cách chữ viết theo hình thắt gút kiểu con nòng nọc (chữ Khoa đẩu). Phát triển lịch phục vụ nghề nông được Phục Hy sáng lập. Trồng rộng rãi các loại cây làm thuốc. Trước đây nước ta đã lưu truyền cuốn sách Thần Nông Bản Thảo sau bị giặc Tàu tiêu hủy. Thần Nông mất, giỗ vào ngày Mồng một tháng sáu cũng là ngày dân ta coi là ngày lễ Thượng Điền vua quan, dân đều “xuống ruộng cấy lúa’. Một ngày lễ quan trọng của vụ mùa (xưa là vụ chính trong năm). Cũng có có nơi giỗ Thần Nông vào vào Mồng Mười tháng Mười lễ mừng cơm mới sau thu hoạch vụ mùa. Thần Nông được an táng tại khu vực núi Vô Vi, chùa Thổ Ngõa, phía trước cửa động của núi Trầm thuộc đất Sở Khê, Tiên Lữ, Phượng Châu, thuộc Chương Mỹ- Hà Nội ngày nay, mộ vẫn còn. Chứng tích Thần Nông ở Việt Nam Chứng tích khảo cổ, phả cổ xác định Thần Nông là Tổ tiên năm đời của Lạc Long Quân. Thần Nông là người thật, Tổ tiên của người Việt. Thần Nông là người đầu tiên đã dạy dân Việt nghề làm ruộng, chế ra cày, bừa. Thần Nông là người đầu tiên đặt ra Lễ Tịch Điền hằng năm. Lễ Thượng Điền tổ chức sau gặt hái. Hạ Điền tổ chức trước vụ gieo trồng. Hằng năm dân Việt có tục tế lễ rước vua Thần Nông tại triều đình và các đền miếu làng, cầu được mùa, nghề nông phát đạt. Trên các quyển lịch cổ hằng năm, người ta thường vẽ một mục đồng dắt một con trâu. Mục đồng biến ảo thần thánh, tức là vua Thần Nông, con trâu tượng trưng cho nghề nông. Hình mục đồng và con trâu thay đổi hằng năm tùy theo sự ước đoán của Khâm thiên giám vè mùa màng năm đó tốt hay xấu. Năm nào được coi là được mùa, Thần Nông có giày dép chỉnh tề. Năm nào mùa thu hoạch thấp kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng, hấp tấp, nên chỉ đi giày một chân. Con trâu được đổi màu theo hành của một năm, nó có thể có màu của một trong năm màu vàng, đen, trắng, xanh, đỏ đúng với năm hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Nghi thức tế lễ Thần Nông thời nhà Nguyễn Lễ tế Thần Nông hằng năm thời Nguyễn cử hành vào ngày Lập Xuân còn gọi là lễ Tế Xuân. Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, sau tiết Đông chí, Khâm thiên giám lo sửa soạn tế lễ Thần Nông. Các quan cùng nhau họp để nặn trâu và tượng Thần Nông. Hai ngày trước ngày Lập Xuân, tại gần cửa Đông Ba (ngày nay là cửa chính Đông) các quan cho lập một cái Đài. Trâu và tượng Thần Nông được đưa tới lưu tại Phủ Thừa Thiên, để ngày hôm sau rước tới Đài. Khi đám rước đi qua cung vua, viên thái giám vào tâu để vua biết. Một viên quan đánh vào mông trâu có ý thôi thúc trâu phải làm việc. Tế lễ Thần Nông xong, tượng trâu và Thần Nông được mang chôn. Tại các tỉnh, các quan tỉnh cũng làm theo nghi lễ như vậy. Các dân tộc ở Việt Nam đều tế lễ Thần Nông theo cách riêng của họ. Tại sao người Trung Quốc ngộ nhận Thần Nông là một trong những ông vua thần thoại của họ? Một số nhà nghiên cứu hiện nay, dựa trên các dữ liệu về sử học, thần thọai học, ngôn ngữ học đã khẳng định Thần Nông là một vị thần có nguồn gốc từ phương Nam. Từ phía Nam sông Dương Tử trở xuống, đó là vùng cư trú của cư dân Bách Việt. Thần Nông được coi là ông Tổ của Bách Việt. Sau đó, các bộ tộc Bách Việt bị mất dần đất đai khu vực sông Dương Tử, người Trung Hoa thôn tính, sáp nhập chuyển Tinh hoa văn hóa Việt cổ thành của họ. Do ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc khá mạnh, người Việt cũng lầm tưởng Phục Hy, Thần Nông, Bà Nữ Oa… Kinh Dịch, thuyết Âm Dương Ngũ Hành… do người Trung Quốc sáng tạo, chúng ta chỉ học theo họ. Các dữ liệu khẳng định Thần Nông là ông Tổ của Bách Việt nay đã rõ ràng. Thần Nông tức là vị Thần Nông nghiệp. Vị Thần này thường được hình dung cưỡi trâu để đi lại. Vị Thần này gần gũi thân thương với đồng lúa nước, văn hóa lúa nước của người Việt. Con trâu gắn với người Việt cày trên ruộng lúa nước từ khai thiên lập địa. Trung Quốc không có văn minh lúa nước. Thần Nông còn có tên gọi khác là Viêm Đế (vua xứ nóng, vua phương Nam). Thần Nông được coi là vị Thần cai quản phương Nam (vùng đất Bách Việt). Ngày nay, khoa học khảo cổ và Tâm linh Việt Nam đã tìm được chứng tích Thần Nông là Nhân Thần, là một trong những liệt Tổ tài năng, có công lớn dạy dân Việt cổ trồng lúa nước, được tôn thành Thần Nông. Tên gọi Thần Nông thân thương gắn với nghề nông nghiệp Việt Nam. Đã phát hiện khu di tích, mộ của liệt Tổ Thần Nông và gia quyến Thần Nông tại huyện Chương Mỹ- Hà Nội ngày nay. Tại chùa Trầm huyện Chương Mỹ có tượng thờ Đế Thần tức vua Thần Nông. Điện thờ chính trong hang chùa Trầm có tượng Đế Thần, bệ thờ, bát hương bằng đá. Ở phía Nam chùa Cực Lạc có điện thờ vua Thần Nông. Hai con trai của Thần Nông là Đế Tiết và Đế Thừa. Đế Tiết còn gọi là Đế Tiết Vương con cả của Thần Nông dân gian gọi là Đức Thánh Cả. Đế Thừa còn gọi là Sở Minh Công (Đế Quý Công) con thứ của Thần Nông, thay Đế Tiết nối dõi Thần Nông. Dân gian gọi cụ là Đức Thánh Hai (Đức Thánh đệ nhị). Cụ đã thu phục được bảy mươi hai bộ lạc, sáp nhập thành chín bộ lạc gọi là Cửu Long Chân Chính. Tòa Thượng Cửu Long ở các chùa Việt Nam là biểu tượng thờ chín ông Tổ của dòng người Việt. Đế Thừa lập nước lấy tên là Xích Quỷ. Xã Quang Lâm- Thanh Oai- Hà Nội có các khu mộ và và nơi thờ Đức Thánh Cả, Đức Thánh Hai. Ba con trai của Đế Thừa là Nguyễn Minh Khiết- Đế Minh, Nguyễn Nghi Nhân- Đế Nghi và Nguyễn Long Cảnh. Nguyễn Nghi Nhân- Đế Nghi (con thứ) được cha Đế Thừa giao làm chủ Ô Châu, sinh ra dòng Sở Hùng Thông, cụ mất tại nước Sở. Đế Nghi làm vua phương Bắc sinh ra Đế Lai. Cụ Nguyễn Minh Khiết- Đế Minh là Thái Khương Công- Nguyễn Minh Khiết (con cả) bài vị thờ ở chùa Kim Liên- Hồ Tây, thay cha đứng đầu nước Xích Quỷ, dời nơi cụ Tổ Phục Hy (vùng làng Sở- Thạch Thất) về Khương Thượng- Hà Nội ngày nay. Cụ kết hôn cùng công chúa Đoan Trang (Đỗ Quý Thị). Tục truyền Đỗ Quý Thị là con gái cụ Long Đỗ (Thần Long Đỗ thờ tại Đền Bạch Mã- Hà Nội). Cụ Đỗ Quý Thị tu đạo Sa bà đạo hiệu Hương Vân Cái Bồ Tát, là đạo Mẫu đầu tiên của con cháu đất Việt. Theo Họ Đỗ Việt Nam hai cụ Đế Minh và Đỗ Quý Thị sinh ra Lộc Tục- Kinh Dương Vương, được tôn xưng là Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế. Lộc Tục lớn khỏe, văn võ song toàn, xin cha Đế Minh đi đánh Giặc Ma. Lộc Tục lên thuyền ra trận trên sông Trường Giang đổ về sông Dương Tử, chiến thắng trở về, Đế Minh truyền ngôi cho Lộc Tục. Phong Lộc Tục làm vua cai quản nước Xich Quỷ đất phương Nam từ bờ Nam sông Dương Tử trở xuống vùng biển Đông. Nước Xích Quỷ được xác định phía Bắc giáp Hồ Động Đình. Phía Đông giáp Biển Đông. Phía Tây giáp đất Ba Thục. Phía Nam giáp đất Hồ Tôn (Chiêm Thành). Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào năm 2879 TCN, lập kinh đô nước Xích Quỷ tại vùng núi Ngàn Hống, huyện Can Lộc- Nghệ Tĩnh, gọi là Kinh Đô Nghĩa Lĩnh. Dưới chân dãy Ngàn Hống, vợ Lộc Tục sinh con trai tuấn tú đặt tên là Sùng Lãm. Lớn lên Sùng Lãm được cha Kinh Dương Vương phong Hoàng Thái Tử, sau truyền ngôi kế vị phong là Lạc Long Quân. Kinh Dương Vương cùng dân Việt nước Xích Quỷ khai hoang mở nước. Sau đó Kinh Dương Vương chuyển kinh đô về đất Phong Châu vùng núi Nghĩa Lĩnh- Phú Thọ. Cây lúa Thần của Tổ Thần Nông được gieo cấy khắp các vùng đất Xích Quỷ, ôm trọn biển Đông. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ là cháu của Nguyễn Nghi Nhân con của Nguyễn Như Lai- Đế Lai ở Ô Châu. Sau này gia đình Lạc Long Quân- Âu Cơ được kể thành huyền thoại bọc trăm trứng. Lạc Long Quân phong người con trưởng thay mình, đổi tên nước Xích Quỷ thành Văn Lang xưng là Hùng Vương sinh ra mười tám đời Hùng Vương. Và Thời đại Hùng Vương đã trở nên rất gần gũi với người Việt Nam về Tổ tiên của mình. Đại Việt sử ký toàn thư Ngô Sỹ Liên ghi Kinh Dương Vương là con cháu Thần Nông. Vua là bậc thánh trí thông minh, cai trị phương Nam gọi là nước Xích Quỷ. Người Việt là con cháu Thần Nông Không còn nghi ngờ gì nữa. Ngày nay chúng ta đã tìm được hồn thiêng dấu tích của Tổ tiên Việt tộc với nền Văn minh lúa nước rực rỡ của thời kỳ Thần Nông. Thần Nông là con người thật được tôn làm Thần. Thần Nông sinh ra trong dòng máu Văn minh Việt cổ, nối dõi Tổ tiên mình, sáng tạo và phát triển Kinh Dịch Phục Hy, Thuyết Âm Dương Ngũ Hành, Thuần dưỡng cây lúa nước sáng tạo nghề nông nghiệp lúa nước, nuôi sống đời đời con cháu. Cháu bốn đời của Thần Nông, con cụ Tổ Nguyễn Minh Khiết là Lộc Tục- Kinh Dương Vương đã lập nước Xích Quỷ của Việt tộc khoảng năm nghìn năm nay, với biên giới rộng dài từ Nam sông Dương Tử xuống ôm lấy biển Đông là chuyện ghi trong sử sách, không thể cãi bàn. Mẹ Việt Nam đã sáng tạo Đạo Việt với Pháp danh Hương Vân Cái Bồ Tát khoảng năm nghìn năm nay vẫn truyền linh thiêng huyền diệu cho con cháu. Kẻ thù Bắc phương xâm lược lấy cắp và hủy diệt kho tàng Văn minh lúa nước vô giá, linh thiêng buổi bình minh của lịch sử. Chúng đã cướp mang về nước những sách quý, những tài sản trí tuệ cảu ông cha để lại. Chúng triệt phá “Đào tận gốc, trốc tận rễ” Tinh hoa trí tuệ của dân tộc Việt nhằm đồng hóa để dễ cai trị. Chúng tìm cách lung sục, vơ vét các di sản trong dân gian. Chúng đánh tráo, bôi nhọ, xuyên tạc, cố làm cho người Việt quên Tổ tiên của mình. Thiếu tướng Nguyễn Thanh Tuấn Cục Tuyên huấn Quân đội Nhân Dân Việt Nam (PhoBolsaTV.com) nói Lịch sử bốn nghìn năm, tính tử Nhà nước Văn Lang đến nay, dân Việt phải hứng chịu mười sáu cuộc chiến tranh giữ nước, trong đó mười bốn cuộc chống Trung Quốc. Mười bốn cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, chúng đều thua thảm hại. Nhưng đau đớn cho dân Việt là chúng đã thu mang về nước quá nhiều di sản Tinh hoa Việt. Nhà Chu, nhà Tần đã đốt sách của dân Việt không tiếc tay, ăn cắp di sản trí tuệ của Việt tộc biến thành của mình. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc (1038 năm) chúng đã cướp sạch di sản Văn hóa mang về nước, hoặc bắt dân ta thu nộp để chúng đốt. Năm 1406 bọn xâm lược nhà Minh bắt cha con Hồ Quý Ly cùng các tướng lĩnh triều Hồ, thu hết sách quý, triệt phá những di sản Văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc ta. Năm 1418, nhà Minh lại một lần nữa sai một số nhà Hán học sang nước ta chuyên trách việc truy lùng, tìm kiếm, vơ vét, tịch thu mọi sách quý của các Hiền nhân Đại Việt cùng các di sản Văn hóa khác, nhất là phả cổ, thư tịch cổ cất giấu trong dân gian, khiến dân ta phải tìm mọi cách giấu kín trong các đình, đền, miếu, mộ cổ, chôn trong lòng đất (không còn nhiều để giấu) hoặc tự hủy, không chịu để rơi vào tay giặc. Những trí thức tài năng đã biến phần lớn những di sản, dấu tích của các vị Tiền liệt Việt tộc thành Thần phả, huyền tích, huyền thoại để thờ cúng các Anh linh và truyền thông điệp của Tổ tiên cho con cháu muôn đời. Nhiều tài liệu quý, phả cổ, được biên soạn lại vào thời Hậu Lê, ngay khi Nguyễn Trãi cùng Lê Lợi và Dân ta đuổi giặc Minh cút về nước. Điều này giải thích vì sao các huyền thoại, huyền tích Việt Nam đều là chuyện thật, còn dấu tích của người thật. Và các Vị Thần Việt Nam, các Vị Thần Thăng Long đều là Nhân Thần, khác với các nhân vật Thần thoại do tưởng tượng của con người của các dân tộc khác trên thế giới. Dân ta coi đó là di chúc của Tổ tiên, là tài sản quý còn lại mà chúng ta cần dày công sưu tập, bảo tồn, giữ gìn, phát triển, ứng dụng trong đời sống hiện đại. Tâm linh Việt đời đời bất diệt. Cao Biền đã yểm triệt nhiều nơi trên đất cổ của Tổ tiên Thần Nông vùng Câu Lâu (Tây Phương, chùa Cực Lạc, chùa Trầm, chùa Thầy…) để triệt Tâm linh Tổ tiên Thần Nông, phải nhục nhã ôm đầu mà kêu “Vượng khí nước Nam không đời nào hết được”mà chuồn về Trung Quốc. Thế kỷ XXI. Tâm linh Tổ tiên Thần Nông rực rỡ hào quang trở về cùng con cháu Thần Nông. Chúng ta sử dụng những phương pháp nghiên cứu đa ngành theo Tâm linh và Khoa học hiện đại, để tiếp nhận di sản tri thức của Tổ tiên qua khảo cổ, cảm xạ học, ghi chép, xác định địa danh di tích, nghiên cứu đình, chùa, miếu, mồ mả, thành quách cổ, những phả cổ, thuần phong, mỹ tục, huyền thoại, huyền tích, cổ tích, truyện dân gian, các dòng tộc, làng xã… Những công trình khám phá mới trong vài ba chục năm gần đây của những tác giả người Việt trong, ngòai nước và các học giả phương Tây (Pháp, Mỹ, Trung Quốc…) đã nghiên cứu chuyên đề, tập trung vào các chuyên đề sâu. Chuyên đề Kinh Dịch Phục Hy Khẳng định Phục Hy là Tổ tiên Bách Việt. Phục Hy là con người thật, còn di tích, có địa chỉ cụ thể và sử sách cũ của tiền bối ghi lại. Kinh Dịch Phục Hy (Hy Dịch) là sáng tạo của người Việt do Tổ Phục Hy khai sáng. Là kết tinh trí tuệ siêu việt thể hiện vũ trụ quan, thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt. Những mật mã, nguyên lý, những tiên tri về nhiều lĩnh vực mà khoa học hiện đại đến nay mới phát hiện ra hoặc còn tiếp tục tìm hiểu sự sáng tạo khoa học của nó ứng dụng vào thực tế khoa học hiện đại và đời sống xã hội. Chuyên đề Trống Đồng Từ những năm 20 thế kỷ XX đã xác định rõ người Bách Việt, vùng lãnh thổ Bách Việt là nơi sản sinh ra Trống Đồng. Nhiều học giả đi sâu khám phá mới về những kết tinh trí tuệ ở Trống Đồng Việt cổ đặc biệt là ý nghĩa hoa văn trên Trống Đồng cổ ẩn giấu những tiềm tàng những thông tin khoa học, triết lý về vũ trụ, về con người, ẩn giấu những mật mã về nguyên lý khoa học, những điều tiên tri của Tổ tiên (đã tìm thấy ở Kinh dịch Phục Hy) gửi lại cho đời sau. Chuyên đề Văn minh Nông nghiệp lúa nước Xác định Thần Nông là thế hẹ kế tiếp Phục Hy, người Bách Việt, sống ở đất Việt. Nền Văn minh lúa nước Việt Nam được coi là Trung Tâm lúa nước đầu tiên của loài người. Nền Văn minh đó khởi thủy từ Phục Hy, con trai Phục Hy là Thần Nông mở mang phát triển trong Thời kỳ Thần Nông. Đặc biệt thời Thần Nông, người Việt cổ đã phát triển vận chuyển trên sông, nước, bờ biển là cái nôi thủy sinh Việt tộc. Chuyên đề về Chữ viết của người Việt cổ Khẳng định người Việt cổ có chữ viết và giải mã hệ thống chữ Việt cổ. Những khám phá mới này khẳng định rõ dân tộc Việt Nam có dòng máu Việt tử cổ xưa, nguyên thủy, không bị hoàn toán đồng hóa bởi Trung Quốc. Bác bỏ xuyên tạc, ngộn nhận dân Việt có Tổ tiên là người Hán. Khẳng định Tổ tiên Việt tộc đã từng sáng tạo nên một nền Văn minh kỳ diệu, không phải dân tộc nào cũng có được. Song nền Văn minh đó đã bị đánh cắp, bị lãng quên. Nay chúng ta cùng các thế hệ con cháu ngẩng cao đầu đón nhận vầng hào quang của Tổ tiên để xây dựng và bảo vệ Đất Nước Việt Nam Rồng Tiên trường tồn. Hồ Gươm Thu 2011- 2013 *** Bài đọc thêm trong (Mai Thục- Việt Văn Mới) - Thông điệp Trống Đồng - Cây lúa nước và Văn minh Việt cổ - Biển Dông trong dòng sinh mệnh Việt tộc - Chữ Việt Cổ Thiếu úy Nguyễn Ngọc Lập Việt kiều tại Hoa Kỳ nói: 1038 năm nước Việt bị Trung Quốc xâm lược cai trị, văn hóa Tàu tràn ngập, vẫn không diệt nổi sức sống bất diệt Văn minh lúa nước trỗi dậy trong đân gian Việt Nam mọi thời đại. (Nguồn: http://hodovietnam.vn)
  25. "...Bây giờ nếu có Phật Thích Ca hay Chúa Giê Su hiện ra đứng giảng trước mặt tao, tao cũng không nghe theo nữa. Tao là học trò của tao và chỉ có tao làm thầy cho tao. Tao không muốn làm thầy ai hết và cũng không để ai làm thầy tao." - Phạm Công Thiện. ===== Đây là tư tưởng của người triệt ngộ phải không Sư phụ?