trucgiac

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    576
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by trucgiac

  1. Theo TG nghĩ Pháp luân công là một môn học về vận khí công, khi người ta có năng lực thì có thể đạt được thần thông. Ngộ Tĩnh nói Theo TG Ngộ Tĩnh nên tìm hiểu thêm về Đạo phật rồi hãy đưa ra nhận xét của mình, một bậc đệ tử của Phật khi chứng quả Alahán thì có Tam Minh - Lục Thông (hay gọi là thần thông), biết được quy luật vận động của Vũ trụ (tất nhiên có cả con người), chủ trương của Đạo phật là thoát khỏi sinh tử luân hồi - dùng đạo thông chứ không dùng thần thông Ngộ Tĩnh ạ. TG nghĩ không nên tôn sùng quá mà có khi áp dụng tạo hỏa nhập ma - bởi môn này TG cũng có tham khảo. Thân mến!
  2. Sao nick của TG bị khóa ở một số topic vậy ạ? Hôm Chủ nhật vừa rồi bão Sơn Tinh hẹn 4h chiều sẽ ghé vào Nghệ An - Hà Tĩnh chơi mà chẳng thấy, trưa hôm đó TG rủ mấy thẳng bạn tửu đi nhậu mà bọn này đang tập hợp quân để CHỐNG BÃO , TG bảo chống cái con khỉ - nó mà vào thì lo mà trốn cho nhanh, đi uống đi yên tâm nó sẽ tiến lên thăm anh Táo tàu thôi. Sau khi uống xong cả đám về ngủ lăn quay, chiều tỉnh dậy không thấy giọt mưa nào - không tin TG vào xem đám mây vệ tinh thì thấy nó đi ra Thanh Hóa -híc. Không biết thế quái nào mà nó từ hướng chính vào Nghệ An - Hà Tĩnh mà lại ngoắt đi ra bắc, thật là kỳ Diệu - cảm ơn SP, chúc SP sức khỏe ạ!
  3. Sp có bộ Ves và Cà vạt rất Pheingsui,
  4. Câu hỏi Cầu nguyện này nói chung cho tôn giáo. Vì vậy để xét chánh tà thì phải đứng trên một tôn giáo cụ thể để phân tích, do đó để giải quyết vấn đề này theo TG thì trước hết phải làm cho ra nhẽ tôn giáo nào là chân lý, phù hợp với khoa học nhất, giải thích các vấn đề liên quan một cách rốt ráo nhất. Vấn đề trên hãy để cho thời gia trả lời!
  5. Theo TG: Tín ở đây được hiểu là Niềm Tin, đã là Niềm Tin thì nó ở Vị lai không phải hiện tại. Chánh ở đây được hiểu là Chân chính, vị tha. Nếu tâm cầu mang ý niệm tốt đẹp cho muôn loài mà không vì tâm ích kỷ thì đó là Chánh tín. Bởi khi cầu cho muôn loài thì trong đó có cả mình rồi. Mà nên gọi lại là KHẤN NGUYỆN thay cho CẦU NGUYỆN Ví dụ: Mong cho khắp muôn loài Sống yên lành bên nhau Không ganh ghét oán thù Không chiến tranh chết chóc =>> Đó là lời khấn nguyện hay cầu nguyện Chánh Tín TG nghĩ giải quyết vấn đề nên được trả lời ngắn gọn đi vào trọng tâm không nên lan man Vài lời lạm ngôn!
  6. Ông này hình như đi theo Thiền Tâm năng thì phải SP ạ, TG đọc bài cảm thấy thế. Thứ hai cái tên Spirit cũng nói lên phần nào cái tính cách rồi. =================
  7. Ông Lê Văn Lan này sao mê tín quá vậy??? Ông lấy cái gì ra để đảm bảo rằng xây bảo tàng để hết suy thoái, hay là theo cái cơ sở khoa học của ông? Nói cho ông biết rằng cái từ "Suy thoái" rất kiêng cự khi dùng trong các loại văn bản liên quan đến nền kinh tế Việt Nam người ta chỉ dùng "Suy giảm", ngay cái tựa đề đã phản ánh ông không am hiểu về kinh tế (mà cùng thông cảm cho ông vì ông là Giáo sư Lịch sử). Kết luận: Không có cơ sở khoa học, hihi. =====
  8. Hôm trước có chường trình trên VTV3 - Dân hỏi Bộ trưởng trả lời do đài truyền hình thực hiện phỏng vấn Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh. Đó là cách làm việc của người ta Chim Chích Bông ạ. Theo Tg thì: - Yêu tiên số 01 của bảo tàng phải là an ninh (không khéo các cháu nó vào khở các thứ đi bán đồng nát thì...) - Sau đó mới đến kiến trúc mang tính bền vững. - Tiếp mới đến tính hợp lý trong sắp đặt, thẩm mỹ,... Bảo tàng lịch sử của VN thì phải theo phong cách VN chứ không theo kiểu tây được (lựa chọn, tiếp thu cái gì cũng nên có sự lựa chọn không thể làm bừa), đâu có phải cái gì tây cũng tốt cả đâu, chưa kể đến vấn đề về môi trường có phù hợp với loại kiến trúc đó không (ví dụ: nhà ở sát biển không thể dùng các loại sơn tường dulex,nipon,... thông thường được mà phải sơn chống không khí có mang hơi mặn). Âu Mỹ đang hành trình về Phương đông để tìm cái còn lại của thế gian này đó là văn hóa "tâm linh", hãy đợi đấy...! Thân mến!
  9. Hình như India chuẩn bị có động đất lớn. Quẻ: Đỗ - Đại An, Từ khoảng bây giờ đến 7 ngày nữa.
  10. Vừa qua Nghệ An đã tổ chức thành công tuần Văn Hóa Phật Giáo, trong chương trình tôi có nghe buổi thuyết giảng của GS, TS Lê Mạnh Thát về đề tài "Hồ Quý Ly với Phật giáo". TG thấy ông là người rất uyên bác nên vào google tìm về thông tin của ông và bắt gặp bài báo này, kính gửi đến SP và mọi người quan tâm đến lịch sử dân tộc Việt Nam có kênh nữa để tham khảo. Kính! ============================= (Thannien.com.vn) 26/02/2008 23:17 Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động (1) Thiền sư Lê Mạnh Thát Ảnh: Ngọc Hải Thượng tọa Thích Trí Siêu là một nhà tu hành xuất gia từ bé, ông không chỉ là một thiền sư, mà còn là nhà khoa học có nhiều bằng tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ Hán cổ...), ông còn là một người Việt Nam "nguyên chất" với tất cả lòng tự trọng tự hào về dân tộc mình, thể hiện một cách lạ lùng ngoạn mục ở tất cả các công trình khoa học của ông. Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tư liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước... Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng Thượng tọa Thích Trí Siêu (tức giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát) vẫn để tóc. Thú thật là quá tò mò về chuyện đó, tôi mạnh dạn hỏi ông vì sao như vậy. Ông cười phá lên, chỉ vào bức ảnh Đức Bồ đề Đạt Ma: "Ông ấy có cạo đầu đâu! Tôi còn thua ông ấy một bộ râu". Tôi ngộ ra rất nhiều điều trong tiếng cười của ông. Tôi đã gặp ông nhiều lần, trước hết là để viết bài về Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (VESAK) được tổ chức tại Việt Nam sắp tới mà ông là Chủ tịch Ủy ban quốc tế (IOC) đồng thời là Tổng thư ký Ủy ban điều phối quốc gia Đại lễ này. Tôi cũng đã đọc nhiều sách ông viết. Nhưng với trình độ nông cạn của tôi, hiểu về con người cùng sở học mênh mông vi diệu của vị cao tăng này thật không dễ chút nào. Ông không chỉ là một thiền sư, là nhà khoa học có nhiều bằng tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ Hán cổ...), ông còn là một người Việt Nam "nguyên chất" với tất cả lòng tự trọng tự hào về dân tộc mình, thể hiện một cách lạ lùng ngoạn mục ở tất cả các công trình khoa học của ông. Trước khi nói về VESAK, tôi xin ghi lại một vài điều tâm đắc sau khi đọc, sau khi nghe ông nói và hỏi lại thật rõ những khám phá của ông về cội nguồn dân tộc, về nhiều sự thật của lịch sử nước nhà hàng ngàn năm bị che lấp hoặc bị hiểu sai lệch. "Ông Lê Quý Đôn mà cũng lôi thôi quá !" Xin chép ở đây hai bài thơ chữ Hán, theo tôi bài nào cũng hay đến "lạnh cả người": Nhị bát giai nhân thích tú trì Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly Khả liên vô hạn thương xuân ý Tận tại đình châm bất ngữ thì (Tạm dịch nghĩa: Người đẹp mười sáu tuổi nhẹ tay thêu trên gấm Dưới khóm hoa tử kinh con chim hoàng ly đang chuyền Thật đáng thương nỗi lòng vô hạn đối với mùa xuân Ngưng đọng nơi mũi kim, lặng lẽ không nói) Đó là bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần (1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận, coi là một kiệt tác thi ca chữ Hán của Việt Nam. Trên tạp chí Văn học số 1-1984, lần đầu tiên giáo sư Lê Mạnh Thát đã đưa ra tài liệu chứng minh bài thơ trên không phải của thiền sư Huyền Quang mà của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc. Một bài khác: Nhạn quá trường không Ảnh trầm hàn thủy Nhạn vô di tích chi ý Thủy vô lưu ảnh chi tâm (Tạm dịch nghĩa: Chim nhạn bay dài qua không trung Ảnh chìm dưới dòng sông lạnh Nhạn không có ý để lại dấu tích Sông không có lòng lưu lại bóng hình) Bài thơ này cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong công trình nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng đã “trả" bài thơ này lại cho tác giả thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. Nhưng không chỉ có vậy. Giáo sư Thát còn liệt kê trong số 59 bài thơ được coi là của thiền sư Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư. Từ đó, Lê Quý Đôn đã chép lại 43 bài trong Kiến văn tiểu lục, cả 43 bài đều của các thiền sư Trung Quốc. Ông đã chỉ rõ từng bài, là của ai, ở trong tài liệu nào, tờ số mấy. "Ông Lê Quý Đôn mà cũng lôi thôi quá!", ông cười cười nói với tôi. Là ông nói đùa thôi, chứ ông biết rõ Lê Quý Đôn là người rất cẩn trọng. Ông bảo sở dĩ có sai sót này là do Lê Quý Đôn chắc chắn không biết, tức không có dịp đọc các bộ chính sử thiền tông Trung Quốc. "Hơn nữa, Lê Quý Đôn, với tư cách là một Phật tử, có thể đã quá tin tưởng vào bản in Hương Hải thiền sư ngữ lục, nghĩ rằng các thơ kệ và ngữ lục trong đó là đúng của Minh Châu Hương Hải, vì chúng đã được môn đồ của vị thiền sư này cho khắc in, nên đã không tiến hành kiểm tra, tìm hiểu và so sánh", ông viết. Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một trong rất nhiều công trình sử học của giáo sư Lê Mạnh Thát. Trong khi sưu tầm, đối chiếu, xác minh và giới thiệu những cống hiến quan trọng về lịch sử tư tưởng, văn học và Phật giáo Việt Nam của vị thiền sư lỗi lạc này, ông đồng thời đã cẩn trọng "trả lại cho người khác" những gì không phải của thiền sư, dù đó là những viên ngọc quý (như bài thơ nói trên). Đối với những nhân vật khác, ông cũng làm tương tự. Ông bảo những nhầm lẫn trong các công trình sử học kiểu đó không những không làm vinh dự thêm cho dân tộc mà còn rất tai hại, nó khiến cho người ta nghi ngờ chính những cống hiến quan trọng của các nhân vật lịch sử nước ta, đặc biệt khi các bậc thức giả nước ngoài tiếp cận những tài liệu này. Dẫn ra chi tiết nhỏ trên đây để thấy sự nghiêm cẩn trong nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát. Nhưng ngoài sự nghiêm cẩn, ông còn có một lợi thế tự nhiên khó có học giả nào có được. Là một thiền sư, ông đã đọc hết những bộ kinh sách đồ sộ như Đại tạng kinh và Tục tạng kinh chữ Hán, ông đọc trước hết là "để thưởng thức". Chính vì vậy mà chẳng hạn như đối với trường hợp hai bài thơ nói trên, ông đã biết đến khi đọc bộ sử thiền tông Trung Quốc (trong Tục tạng kinh), nên khi nghiên cứu về Huyền Quang và Hương Hải ông đã phát hiện ngay sự nhầm lẫn. Lịch sử dân tộc bảo tồn trong kinh Phật Lục độ tập kinh là một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của Phật giáo thế giới. Tập kinh này được dịch ra chữ Hán vào thế kỷ thứ 2, truyền bản của nó đến ngày nay gồm 8 quyển, 91 truyện, trình bày sáu hạnh vượt bờ của Bồ tát gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Các vị cao tăng đông tây kim cổ đều biết đến tập kinh này và từ lâu nó đã được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Nhật. Lần đầu tiên sau gần hai ngàn năm lưu truyền của Lục Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát có những phát hiện cực kỳ quan trọng từ tập kinh này. Ông khẳng định tập kinh đó là của Việt Nam, nó được dịch ra chữ Hán từ một bản tiếng Việt chứ không phải từ bản tiếng Phạn; Tăng Khương Hội, người dịch bản kinh đó, người mà sử sách cổ Trung Quốc coi là "bậc thánh hiền", là một người Việt Nam (ít nhất là sinh ra, lớn lên, học hành, theo đạo Phật, hành đạo và trước tác đều tại Việt Nam). Bằng kiến thức uyên bác về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ, ông đã truy tận gốc tất cả những tài liệu cổ xưa nhất có liên quan, tiến hành khảo sát, đối chiếu, giám định và đưa ra một loạt những kết luận với các chứng cứ không thể phản bác. Ông bảo tập kinh đó chứa đựng "một lượng bất bình thường" các tư tưởng, quan điểm và đạo lý mang sắc thái chính trị và lịch sử Việt Nam. Phát hiện đầu tiên là Lục độ tập kinh chứa đựng truyền thuyết khởi nguồn của dân tộc, đó là chuyện một trăm trứng. Điều này hết sức có ý nghĩa, là vì truyền thuyết đó được ghi vào sử sách bắt đầu từ bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Truy lùi lại thì thấy chuyện này được chép trong Lĩnh Nam chích quái. Truy nữa thì "bó tay", không biết nó xuất phát từ đâu, chỉ thấy nó liên quan tới truyện Liễu Nghi đời... Đường bên Trung Quốc. Từ trước tới nay mọi bàn cãi đều tập trung vào việc chấp nhận hay không truyền thuyết đó, mà chấp nhận hay phủ nhận nó không phải là vấn đề của lịch sử. Dân tộc nào cũng có truyền thuyết khởi nguyên, mà đã là truyền thuyết thì ít nhiều đều mang yếu tố hoang đường, nhưng đó là hồn thiêng dân tộc. Với Lục độ tập kinh, chúng ta đã truy ra thời điểm khởi nguồn của hồn thiêng dân tộc của mình. Trong khi phát hiện truyền thuyết trăm trứng nằm trong Lục Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát còn khám phá một sự thật lịch sử thú vị liên quan đến An Dương Vương và Triệu Đà. Từ truyền thuyết trăm trứng nằm trong truyện 23 của Lục Độ tập kinh, ông đối chiếu với một dị bản bằng tiếng Phạn và lại phát hiện truyền thuyết An Dương Vương giống như câu chuyện về trận đánh quyết định trong anh hùng ca Mahàbhàrata giữa hai anh em Pandu và Duryodhana. Đối chiếu với tất cả những gì được ghi trong Sử Ký của Tư Mã Thiên và các tài liệu cổ sử khác của Trung Quốc, ông khẳng định truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ngòi bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó chẳng qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam thời Hùng Vương mà thôi. Ông cũng tiếp tục đối chiếu sử sách và khẳng định không những không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (vì làm gì có An Dương Vương mà đánh!) mà nước ta cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Nước Nam Việt của Triệu Đà chưa bao giờ bao hàm nước ta trong đó cả. Có nghĩa là, cho đến năm 43 (sau dương lịch), trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất bại, nước ta vẫn là một nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương, là nhà nước Hùng Vương. Nhà nước đó đã được xây dựng trên một nền văn hiến với điển chương riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số, có âm nhạc, có văn học... Nhà nước đó, nền văn hiến đó hoàn toàn không do người Trung Quốc đến "khai hóa" mà có. Nó có đủ bản lĩnh, đủ sức mạnh để tiếp thu những gì là tinh hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang. Nó có đủ sự nổi trội để đóng góp vào nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là một trong những dẫn chứng sống động. Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tài liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước... (còn tiếp) Hoàng Hải Vân
  11. Dạ thưa SP! Trong Trong tuần Văn hóa Phật giáo có bài nói chuyện của GS thôi ạ, chứ không phải tổ chức riêng. GS có nói đến lịch sử Văn hóa của Việt Nam hoàn toàn độc lập với Trung Hoa, qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử mà Văn hóa Việt vẫn không thay đổi. Con càng tìm hiểu thì thấy rất nhiều vấn đề tế nhị, Sư phụ vất vả quá. Con chúc SP có được nhiều sức khỏe để còn chịu đựng những oanh tạc của những vị gọi là Tiến sĩ. Kính !
  12. Trường hợp này có thể ví như người đàn ông được gọi là thành đạt lo đi kiếm tiền, danh vọng và sự kiêu mạn còn để bà vợ ở nhà lăng loàn với kẻ khác. Thật đáng thương cho những kẻ lắm tiền. Hihi,
  13. Chữa trị ung thư Đăng ngày 19-08-2011 Nguồn: chanquang.com Ung thư được định nghĩa như là sự tăng sinh tế bào vô tổ chức, tiết ra chất làm đau, lấn ép sự sống của chủ thể, cuối cùng khiến cho chủ thể chết trong đau đớn. Thật ra ung thư có nhiều loại, ung thư máu, ung thư các tạng phủ, ung thư xương, ung thư mô… Các loại ung thư có thể di chuyển qua lại, biến thể lẫn lộn, loại này biến thành loại kia, làm phát sinh loại kia. Ung thư phổi có thể thành ung thư gan, ung thư máu có thể thành ung thư xương vân vân… Ung thư là một trong tứ chứng nan y đời xưa, Phong Lao Cổ Lại, và tiếp tục là bệnh nan y của đời nay mặc dù y học rất tiến bộ. Ngày nay tốc độc phát bệnh ung thư lên đến chóng mặt. Bệnh viện ung bướu tiếp nhận bệnh tràn ngập. Bệnh nhân nằm khắp nơi la liệt vật vã. Một người vợ bị ung thư, người chồng bán sạch các thứ để chữa trị. Đứa con gái thương mẹ lén lấy giấy chủ quyền nhà chồng cầm cố, đến khi nhà bị phát mãi chồng mới biết và lập tức li dị. Cả nhà nằm vật vờ đói khổ trong bệnh viện, vừa mong được chữa trị, vừa ăn xin. Một bác sĩ có kinh nghiệm chữa trị ung thư suốt 25 năm đã nói rằng, nếu vướng bệnh ung thư, ông sẽ về nhà nằm chờ chết chứ không uống thuốc của bệnh viện, mặc dù ông là người kê đơn thuốc cho bệnh nhân ung thư hằng ngày. Lý do ông đưa ra là hầu hết bệnh viện chỉ cấp thuốc giảm đau, mà thuốc giảm đau thì khiến cho bệnh phát triển mạnh hơn. Còn thuốc trị ung thư thì làm hư xương khiến cho ung thư lập tức tràn vào xương thành ung thư xương liền. Ông cũng bảo rất nhiều người xin ra nước ngoài chữa bệnh, nhưng chẳng nơi nào giỏi hơn nơi nào trong việc chữa bệnh ung thư. Thuốc nào bên Mỹ có thì VN cũng có cả. Bệnh nhân sang Quảng đông TQ, hoặc sang Singapore rồi cũng chết y hệt như bệnh nhân ở VN. Ông cũng nói bệnh ung thư là bệnh cực kỳ khó hiểu. Có khi người bệnh đang đi đứng bình thường, bỗng lăn đùng ra chết. Có khi bệnh bỗng nhiên khỏi. Có khi nằm bao nhiêu năm vẫn chưa chết. Thường thì một người bệnh sẽ kéo theo cả nhà rơi vào nguy khốn đói khổ vì bao nhiêu tiền đổ vào chữa bệnh cũng chẳng ăn thua. Người bệnh càng ham sống thì càng giết chết cả nhà. Thời đại hôm nay được cho là môi trường bị nhiễm độc nặng nên bệnh ung thư phát sinh rất mạnh. Những thức ăn uống đầy hóa chất (được cho phép trong định mức) đều là thủ phạm gây ung thư. Nguồn không khí bẩn thỉu cũng là nguyên nhân ung thư. Dòng sông nhiễm đầy thuốc bảo vệ thực vật cũng gây ung thư. Thực phẩm có nguồn gốc động vật nhiễm đầy độc tố cũng gây ung thư. Thực phẩm lấy từ thực vật cũng thấm đầy độc tố, và cũng gây ung thư. Phóng xạ cường độ cao cũng gây ung thư… Bây giờ ta nhìn bệnh ung thư qua nhãn quan tâm linh một chút để thấy thêm một khía cạnh thú vị của loại bệnh hiểm ác này. Không riêng gì bệnh ung thư, rất nhiều bệnh có nguồn gốc tâm linh, mà tâm linh thì bị gán cho là phản khoa học, là mê tín, không được quan tâm xử lý. Ví dụ bệnh tự kỷ Autism của trẻ em. Trẻ bị bệnh tự kỷ không nói, hoặc nói rất ít. Trẻ khép mình trong thế giới riêng của mình, không để ý mọi người bên ngoài. Đôi khi trẻ được gán cho là thiên tài vì có thể làm những bài toán khó hoặc biết nhiều chuyện lạ lùng. Nguyên nhân bệnh tự kỷ là do khi trẻ còn nằm nôi, chưa biết nói, vùng não ngôn ngữ chưa kịp phát triển do chưa đủ thời gian tiếp xúc với con người, trẻ đã bị vài vong tiếp cận trước. Các vong này xâm nhập rất sâu vào nội tâm của trẻ, chơi đùa với trẻ, tiếp xúc với trẻ bằng ngôn ngữ tâm linh trực tiếp, không qua ngôn từ. Trẻ bị dẫn dụ bởi sự tiếp xúc này, tiếp nhận loại ngôn ngữ này, não chỉ đón nhận loại ngôn ngữ tâm linh này, rồi bộ não của trẻ không còn phát triển vùng ngôn ngữ của con người được nữa. Đến khi tuổi lớn lên một chút, não hết thời gian để phát triển, và vĩnh viễn vùng ngôn ngữ bị tê liệt luôn. Trẻ sẽ tiếp tục sống mà không nói gì vì không hiểu người chung quanh nói gì, vì có muốn nói cũng không biết nói. Trẻ có thể tiếp tục bị các vong bao vây chơi đùa, nên trẻ nhìn vào ta thấy trẻ cứ như chơi đùa một mình, nhưng thật ra là đang chơi với vong. Nếu đó là các vong giỏi, vong sẽ cho trẻ biết nhiều chuyện mà trẻ không thể biết, người chung quanh khó thể biết. Trẻ đưa ra kết quả do vong mách, mọi người hết sức khâm phục và gán cho trẻ là thiên tài. Nếu vong rời bỏ ra đi, đứa trẻ ở lại sẽ ngớ ngẩn cả đời vì không còn ai để tiếp xúc, và cũng không hiểu những người đang sống bên cạnh mình. Nếu vong bỏ đi sớm, trẻ còn thời gian để phát triển vùng não ngôn ngữ thì trẻ sẽ nói được bập bẹ sau một thời gian bắt đầu quay sang tiếp xúc với người sống. Nếu vong bám theo riết thì trẻ hoàn toàn im lặng cách biệt với thế giới loài người. Vì vậy, khi trẻ vừa chào đời, cha mẹ phải hết sức bảo vệ không cho các vong đến gần trẻ, xâm nhập vào nội tâm của trẻ. Cha mẹ mà buông lỏng, ít kề cận bảo vệ, không cầu nguyện thần thánh gia hộ, trẻ sẽ dễ bị vong quấy phá hoặc xâm nhập nội tâm gây bệnh tự kỷ. Khi con trẻ vừa sinh ra, cha mẹ phải đem đến chùa xin cầu phúc cho trẻ, nhờ Bồ Tát thủ hộ giữ gìn cho trẻ để các vong đừng gây tác hại cho trẻ. Lâu lâu lại phải mang trẻ đến cầu nguyện trở lại. Nếu tại nhà có bàn thờ Phật thì mỗi ngày phải lễ Phật tụng kinh cầu nguyện bình an cho trẻ. Bệnh tự kỷ Autism có yếu tố tâm linh khó hiểu là thế. Bệnh ung thư cũng vậy, cũng có yêu tố tâm linh. Chung quanh ta có rất nhiều vong của chúng sinh, có vong của loài người, có vong của loài thú, thậm chí có vong của các loài động vật nhỏ bé. Các vong đó luôn khát khao tìm sự sống, tìm miếng ăn, tìm sự tồn tại. Để có được sự sống, các vong đó hay tìm cách sống ký sinh vào chủ thể còn sống như con người và một số cầm thú khác. Không phải lúc nào các vong đó cũng ký sinh được, gắn vong của mình vào người sống được. Chỉ một số người bị Nghiệp phải trả, xuất hiện một vùng yếu ớt thiếu sức bảo vệ, lập tức các vong bám vào sống ký sinh. Kể từ khi bám vào sống ký sinh được rồi, các vong bây giờ giống như có một phần thân thể của người bệnh, lấy một phần thân thể của người bệnh làm thân thể của mình. Nếu các vong đó yếu ớt thì bám vật vờ rồi bị thân thể của con người gạt ra. Nếu các vong đó là loại mạnh thì chúng cạnh tranh sự sống với chủ thể, chúng khiến mô tế bào phát sinh hỗn loạn. Thông thường thì không phải một u bướu ung thư chỉ có một vong, mà thật sự là nhiều vong bám theo nhung nhúc như đám giòi bọ vậy, trông rất khiếp. Ta dùng hóa trị hoặc xạ tri để diệt tế bào ung thư nhưng không đuổi được các vong đó ra khỏi cơ thể, chúng lập tức chuyển qua mô khác để chiếm lấy sự sống của con người tiếp tục, và ta gọi là Di Căn. Một số nhà ngoại cảm có khả năng nhìn thấy hình thù các vong của các loài chúng sinh đó bám vào khối u, dính trong khối u, nhầy nhụa lúc nhúc ghê gớm. Trong truyện tích đạo Phật có ghi chép một sự kiện u bướu kỳ lạ. Ngài Ngộ Đạt bị u hình mặt người, đút thịt vào biết ăn luôn. Sau này mới vỡ ra rằng đó là vong của một người thù oán ngày xưa nhập vào đầu gối sống ký sinh để trả thù, tạo thành khối u kỳ quái khủng khiếp. Đó là trường hợp ung thư do vong một con người bám vào. Những trường hợp khác là do vong của nhiều chúng sinh bé bé bám vào xâu xé giành giật. Vì ung thư là bệnh có tính tâm linh rất cao nên thuốc thang không hết, mà phải do sám hối tu hành làm thiện mới hóa giải được. Ai ỷ giàu đổ tiền ra chữa bệnh khắp thế giới cũng chết. Chỉ có sám hối thiết tha những nghiệp chướng ngày xưa, cộng với đem tiền cúng chùa, bố thí người nghèo, làm các việc nghĩa, thì mới hóa giải được nghiệp mà hết bệnh ung thư. Khi người bệnh đã sám hối đủ, cơ thể toát ra một kháng lực xua đuổi các vong ký sinh ra khỏi cơ thể khiến cho khối u ngưng phát triển, trở lại ổn định theo gene của con người sắp xếp. Đã đó rất nhiều người đau khổ vì ung thư, nhưng khi nghe lời khuyên của Tăng Ni, về nhà chuyên cần lạy Phật sám hối, vậy mà bệnh tình thuyên giảm rõ rệt, sống vui khỏe trở lại. Ta nên đặt tay vào khối u mà tụng kinh hoặc trì chú của PHật, nói chuyện với khối u, khuyên khối u quy y Phật PHáp Tăng, rải lòng từ bi với khối u, cầu cho khối u siêu thoát. Vậy mà khối u sẽ dần dần biến mất. Nếu là ung thu máu, ung thư xương, ung thư phổi, ung thư gan… thì ta cứ lạy Phật sám hối mãi, cũng sẽ hết. Ta chỉ nên hỗ trợ bằng thuốc thảo mộc mà thôi, đừng dùng hóa dược phản ứng phụ nguy hiểm hơn. Người bệnh ung thư nên ăn chay để không chiêu oán thù với chúng sinh thêm nữa. Người này cũng nên đem cả cuộc đời còn lại của mình mà phụng sự cho mọi người, cho đất nước, cho thế giới, vì xem như mình đã chết rồi, bây giờ cuộc sống thêm này là của trời đất, không phải của mình nữa. Xin cầu nguyện cho pháp giới chúng sinh tiêu tai kiết tường và giác ngộ. Việt Quang
  14. TG thấy hay hay nên post lên mọi người đọc cho vui. ============================= SUY NGHĨ TỪ GIẢI NOBEL VẬT LÝ 2011 Đăng ngày 10-10-2011 nguồn: chanquang.com Ngày xưa khi con người ngước mặt lên trời nhìn thấy mặt trời mọc ở hướng đông và lặn ở hướng tây bèn kết luận rằng Mặt trời xoay quanh Trái đất. Bây giờ thì ai cũng hiểu rằng Trái đất mới là kẻ quay quanh Mặt trời, và tự xoay quanh chính nó. Rất nhiều điều mắt thấy mà ngược với sự thực hoàn toàn. Có câu chuyện hài kể rằng một ông lão nhà quê đi với đứa con trai ra tỉnh lần đầu, bước vào một siêu thị hiện đại. Hai bố con đi xem cảnh tiến dần đến trước một thang máy, nhìn không biết nó là cái gì. Chợt họ thấy một bà lão lụm cụm bước đến, bấm nút, cánh cửa mở ra, bà lão bước vào. Lát sau cánh cửa mở ra và một cô gái trẻ đẹp bước ra. Hai bố con mừng quá lật đật chạy về quê để đem vợ và mẹ của họ lên thành phố với hy vọng nhờ chiếc máy làm cho bà trẻ lại như chính mắt họ đã nhìn thấy. Lúc đó, nếu có ai kê súng vào đầu và bảo là không có chuyện có chiếc máy làm cho bà già biến thành cô gái thì ông già sẽ thà chết chứ nhất quyết không chịu nói khác đi, vì chính mắt ông đã nhìn thấy rõ ràng. Chân lý nhiều khi không phải là điều mắt thấy. Bây giờ khi khoa học tiến bộ, người ta làm ra kính thiên văn nhìn lên bầu trời và lại "thấy" nhiều thứ nữa. Người ta đo quang phổ của các vì sao và phát hiện ra rằng các thiên hà, các thiên thể đang rời xa nhau. Người ta bèn suy luận ngược lại rằng như vậy ngày xưa tất cả các thiên thể nhất định phải ở gần nhau, thậm chí chung một điểm với nhau, và đã có một vụ nổ nên bây giờ chúng rời xa nhau. Trời ơi, sao mà đơn giản đến như vậy, giống hai cha con ông già nhà quê quá. May mắn thay, nhờ có 3 nhà thiên văn đoạt giải Nobel 2011 năm nay nên người ta mới biết thêm rằng Tốc độ giãn nở của vũ trụ đang tăng dần, nghĩa là các thiên thể đang rời xa nhau càng lúc càng nhanh. Tại sao các thiên thể rời xa nhau càng lúc càng nhanh thì ta chưa biết. Nguyên nhân đó sẽ còn phải đợi các khám phá của môn vật lý vũ trụ sau này nữa. Điều thú vị ở đây là, ta có quyền suy luận, nếu tốc độ rời xa nhau càng lúc càng nhanh thì có nghĩa là trước kia, khi còn ở gần nhau, tốc độ các thiên thể rời xa nhau là chậm hơn bây giờ. Nếu vẻ biểu đồ để nhìn theo trục không gian và thời gian thì càng ngược về quá khứ, các thiên thể càng ở gần nhau hơn, và tốc độ rời xa càng chậm hơn. Nếu tiếp tục suy luận cho đến tận cùng như các nhà khoa học, khi mà các thiên thể dường như ở một chỗ với nhau thì tốc độ rời xa nhau là bằng zero, chúng đứng yên hoàn toàn,chẳng có vụ nổ nào xảy ra cả. Cái gì đó đã khiến chúng bắt đầu rời xa nhau thì ta chưa biết, nhưng khi ở rất gần nhau thì tốc độ rời xa nhau là cực chậm, chậm như là đứng yên luôn vậy. Nhưng chúng đã không nhập lại thành một khối với nhau, không hút nhau theo luật Vạn vật hấp dẫn, mà vẫn khởi động tiến trình rời xa nhau dần dần. Càng xa nhau thì chúng càng tăng tốc nhanh lên dần, nhanh cho đến hôm nay có 3 nhà khoa học nhìn thấy và chiếm giải Nobel. Nếu thực sự có một vụ nổ ban đầu thì bắt buộc các thiên thể phải rời xa nhau với vận tốc đều, không giảm tốc độ vì chẳng có không khí ma sát, cũng chẳng thể nhanh dần vì đâu có lực đẩy nào gây gia tốc nữa đâu. Nhưng thực sự thì chúng đang rời xa nhau càng lúc càng nhanh, nghĩa là trước kia khi ở gần nhau thì tốc độ rất chậm, càng gần chừng nào thì càng chậm chừng nấy, và ở gần sát nhau thì vận tốc là zero. Vũ trụ còn chứa nhiều bí ẩn mà chúng ta chưa biết, và nếu ai vội vàng suy luận theo kiểu nhìn thấy sao thì hiểu vậy, ta sẽ phạm lại cái sai lầm của tổ tiên ngày xưa tưởng Mặt trời xoay quanh Trái đất, hoặc khôi hài hơn, giống như cha con ông nhà quê tin có chiếc máy biến bà già thành cô gái trẻ đẹp vậy. CHÂN QUANG
  15. TG tìm thấy địa chỉ web này nhưng không biết Tiếng anh, ai biết dịch đúng nghĩa xin dịch hộ cho mọi người. Cảm ơn ============== http://public.web.ce...e/Higgs-en.html
  16. Tướng hiện tại do nghiệp của quá khứ tạo nên. Bạn thấy bạn là người đã tốt chưa? đối với những người gần bạn? Còn tiền bạc thì do phước của bạn và đạo đức của bố mẹ bạn? Bạn hãy làm những điều thiện, tránh làm những điều lợi mình hại người, sống chan hòa cùng mọi người thì bạn sẽ thấy an vui. Tôi cũng đang thực hành như vậy, và sẽ rất khó khăn. Bởi vì cuộc sống này người tốt không nhiều, nếu đạo tâm của bạn chưa nhiều thì hãy tìm những người bạn cho là tốt mà chơi. Khi đạo tâm lớn rồi thì chơi với ai cũng được. Vài lời chia sẻ chúc bạn thành công trong cuộc sống.
  17. Ngồi buồn vì mất ví tiền nên ghé vào web chơi. Độn được quẻ "Tử - Đại An, hỏi xem có xin lại được cái ví không". Đại an chắc là Của Đi Thay Người. Hic. Vào Topic này con xin có vài lời không tự cho là đúng mong SP chỉ bảo thêm. Hạt nhỏ nhất là "Không" giống như trong Câu nói "Sắc tức là Không Không tức là Sắc" của Đức Thích Ca Mâu Ni trong bài Kinh Bát Nhã Tâm Kinh. Tức là nhà khoa học không tìm được hạt vật chất nhỏ nhất, khi động thì sinh ra vật chất, động càng mạnh thì vật chất càng lớn. Ví dụ như quá trình hình thành cơn bão vậy. Nếu điều này đúng tức là lời tiên tri của SP đúng, và Einstein tiên đoán nếu có 1 tôn giáo cho tương lai thì đó chính là Đạo Phật. Khi đó thì thế giới này phải nhìn về Việt Nam với một cái nhìn mới và thiện cảm hơn. Ông anh Táo Tàu hãy coi chừng nghiệp báo nếu không biết dừng đúng lúc.
  18. Trực giác thấy cách làm này rất hay, mọi người biết tin vào Phật Pháp. Cô Wil cũng tạo được nhiều công đức, TG ủng hộ 200 K và sẽ chuyển vào TK cho Cô Nga. @ Thưa Sư phụ Thiên sứ! TG còn có nghi vấn: Trong thế giới này, cái gì là Ngẫu Nhiên và Cái gì là Không Ngẫu Nhiên??? Trong khi đó Sự phụ nói rằng: Không có gì là ngẫu nhiên trong thế giới (và cả vũ trụ) này? Kính mong SP chỉ bảo!
  19. Bọn buôn hàng con khi "hàng chết" thì nó vứt xuống sông rồi dạt vào đó thôi, chứ điềm với mộng gì. Nhưng có cái điềm chắc là xẩy ra: "Những ai buôn hàng con rồi cũng có kết cục không tốt đẹp"
  20. @hoangnt Anh xem thế nào không thì tảo hỏa nhập ma.
  21. Những ai là đệ tử của Sư phụ thì xin đọc qua giùm cuốn sách Đức Phật Khai Ngô Tính Thấy - Định Mệnh Có Thật Hay Không để hiều thêm giừa Lý học và Đạo Phật. Đạo phật là Tôn giáo của tương lai - Albert Einstein nói đại khái như vậy. Do đó có thể bầu Ngài Thích Ca Mâu Ni là ông tổ của Khoa học cũng không sai, vì những gì ngài nói trong kinh điển thì bây giờ nhờ khoa học mới làm sáng tỏ - Khoa học càng phát triển thì càng làm sáng tỏ cho đạo phật. 3 Tiêu chi cho một tôn giáo của tương lai theo tôi được biết là: 1. Sự Từ Bi. 2. Sự Bình đẳng. 3. Tính Khoa học. Tôn giáo nào đáp ứng được cao nhất 3 tiêu chí đó thì tôn giáo đó sẽ ngự trị trong tương lai. Trước khi Đạo phật ra đời thì nền Lý học Đông phương đã biết về điều này, tuy không triệt ngộ để biết và đưa ra giáo lý như đức phật nhưng Tổ tiên ta đã biết về quy luật của tự nhiên, biết thần thông,... những người sống vào thời ký đó cũng văn minh chứ không phải là người "Ở Trần Đóng Khố" như những hình ảnh trong đền Hùng tại Phú Thọ tổ tiên của Nước Việt chỉ là những người quê mùa - thật là sỉ nhục vào tổ tiên. Đúng như SP nói "Đầu Củ Chuối" hic. Ví dụ: Ngành Đông Y chẳng hạn? Khoa học thì biết thế quái nào được, ai vẽ ra những hình ảnh các huyệt, đường kinh lạc cho các thầy Đông y châm cứu đó? nỏ lẽ thời kỳ "Ở Trần Đóng khố" biết được những điều này, khoa học giờ cũng chưa biết Khí là gì? Vài lời mạn đàm!
  22. Chào mọi người quan tâm chủ đề này, hôm nay rảnh nên TG vào topic chơi vui, hi! TG cho rằng: Định mệnh hoàn toàn có thật đối với Chúng sinh (con người, động vật, ....), sự việc, sự vật trong vũ trụ này thể hiện qua chu kỳ của nó. - Chúng sinh: Sinh - Lão - Bệnh - Tử - Sự việc: Thành - Trụ - Dĩ - Diệt - Sự Vật: Thành - Trụ - Hoại - Không. Kính.
  23. Những đánh giá của các nhà sử học các thời Trần, Lê cho phép đoán định địa bàn của cuộc kháng chiến, cũng là lãnh thổ của triều đại họ Trưng, rất rộng lớn, đến tận phía ngoài Ngũ Lĩnh. Về việc kết thúc cuộc chiến giữa Hai Bà với Mã Viện, cách ghi của các tài liệu cũng không nhất trí. An Nam chí lược ghi Hai Bà bị Mã Viện chém, còn Đại Nam quốc sử diễn ca thì viết: Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo/Chị em thất thế phải liều với sông. Dù sao thì cái chết của Hai Bà là sự hy sinh tràn đầy khí phách anh hùng. Hai Bà là người mở đầu công cuộc chống ngoại xâm cứu nước trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc khiến cho con cháu muôn đời khâm phục và biết ơn. Minh họa cảnh Hai Bà Trưng ra trận. Chính Lê Tắc (gia thần của Trần Ích Tắc đầu hàng và lưu vong ở đất Nguyên) dù phải viết theo quan điểm của nhà Hán cũng không thể không bộc lộ thái độ thán phục Hai Bà, trong bài Đồ chí ca, Lê Tắc viết: “Mê linh hai gái sánh anh hùng/Chị là Trưng Trắc, em Trưng Nhị/Phất cờ độc lập xứ Giao Châu/Oai phục trăm Man, ai dám ví/Lĩnh Nam sáu mươi lẻ năm thành/Bà chị làm vương, em làm súy/Đường đường tướng Hán Mã Phục Ba/Cắn răng khổ chiến ba năm lẻ”.Vấn đề thứ hai còn chưa được tìm hiểu kỹ là quy mô về thời gian và không gian triều đại họ Trưng. Có phải lãnh thổ của vua Trưng chỉ là quận Giao Chỉ, Nhật Nam, Cửu Chân và sự nghiệp của triều đại Hai Bà chỉ vẻn vẹn có 3 năm? Có người đặt vấn đề là, nếu chỉ đến khi chồng bị Tô Định thảm sát, bà Trưng Trắc mới nổi dậy thì khó có thể tập hợp ngay được một lực lượng hùng hậu để nhanh chóng giành lại cả phần lãnh thổ ngoài Ngũ Lĩnh và lập nên một triều đại bề thế mà nhà Hán phải vất vả huy động binh hùng tướng mạnh hao người tốn của mới tiêu diệt được. Phải chăng dân chúng của vua Hùng với lãnh thổ rộng lớn “Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn… chia làm 15 bộ” (Đại Việt sử ký toàn thư) dù bị nhà Hán chiếm cứ vẫn không chịu bị chế ngự. Thế lực của các Lạc tướng vẫn tồn tại, cho nên khi Hai Bà vừa phất cờ nổi dậy thì “chỉ hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành đã hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay”. Đó chính là cái ý mà các nhà sử học Lê Văn Hưu, Nguyễn Nghiễm, Ngô Thì Sĩ đều cho là “hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương”. Và đó cũng là cái lý để các ông trách cứ “bọn đàn ông” “tự vứt bỏ mình”, trong khoảng hơn nghìn năm “chỉ bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc”, không biết xấu hổ với hai người con gái họ Trưng! Những ý kiến rất cô đúc đó của các nhà sử học các thời Trần, Lê cũng cho phép chúng ta đoán định địa bàn của cuộc kháng chiến, cũng là lãnh thổ của triều đại họ Trưng, rất rộng lớn, đến tận phía ngoài Ngũ Lĩnh. (còn nữa) Băng Thanh (Theo Kien Thuc)
  24. @ Thanglong - Rồng bay Tôi là học viên lớp cơ bản khóa 6 PTLV do TTNCLH Đông Phương tổ chức, tôi nghĩ anh là người có nghiên cứu sâu về Phong thủy nhưng anh đưa ra những ý như trên tôi cảm nhận anh là người có cái tôi rất lớn. Mong anh bình tĩnh đọc cho kỹ những chữ người khác viết ra, hiểu rồi hãy cho ý kiến. Tôi nghĩ diễn đàn này hoan nghênh những người có kiến thức để trao đổi học thuật nhằm mục đích khôi phục những giá trị văn hóa của ông cha. Chúc anh sức khỏe và thành công!